intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:76

107
lượt xem
34
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đất nước ta đang bước vào năm thứ mười sáu của quá trình đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986. Trong những năm qua, mọi mặt đời sống kinh tế xã hội được cải thiện đáng kể, tạo cho đất nước ta một diện mạo mới trong mắt bè bạn quốc tế. Trong những năm tới đây, phát triển kinh tế vẫn là quan điểm chủ đạo của Đảng dựa trên nội lực là chính. Chúng ta đang đẩy mạnh cải cách, phát triển tài chính nhằm tạo dựng nền tài chính quốc gia vững mạnh,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội

  1. LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội
  2. Mở Đầu Đất nước ta đang bước vào năm thứ mười sáu của quá trình đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986. Trong những năm qua, mọi mặt đời sống kinh tế xã hội được cải thiện đáng kể, tạo cho đất nước ta một diện mạo mới trong mắt bè bạn quốc tế. Trong những năm tới đây, phát triển kinh tế vẫn là quan điểm chủ đạo của Đảng dựa trên nội lực là chính. Chúng ta đang đẩy mạnh cải cách, phát triển tài chính nhằm tạo dựng nền tài chính quốc gia vững mạnh, cơ chế tài chính phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là công nhgiệp hoá, hiện đại hoá, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững; giữ vững an ninh tài chính quốc gia trong phát triển và hội nhập. Mặt khác, Đảng cũng chủ trương phát triển toàn diện giữa nông thôn và thành thị, đồng bằng và miền núi, thu hẹp tối đa khoảng cách giầu nghèo. Ngân sách nhà nước với tính cách là nội lực tài chính để phát triển, trong những năm qua đã khẳng định vai trò của mình đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế hàng năm lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Trên tinh thần phát triển kinh tế của Đại Hội Đảng IX, Ngân sách nhà nước hơn lúc nào hết hiểu rõ trách nhiệm, vai trò của mình trong tình hình mới - là động lực của sự phát triển. Với chủ trương phát triển toàn diện của Đảng, cấp ngân sách Quận-Huyện đang ngày càng thể hiện rõ chức năng, vai trò, nhiệm vụ của mình trên địa bàn quận, huyện. Ngân sách Quận-Huyện là một cấp ngân sách trung gian, ở giữa ngân sách cấp Tỉnh, Thành phố và ngân sách cấp Xã, Phường. Chính vì vậy mà Ngân sách Quận - Huyện chưa thể hiện được vai trò của mình đối với kinh tế địa phương. Hiện nay, trên cả nước có 263 đơn vị cấp ngân sách Quận - Huyện. Vừa qua đã có rất nhiều quan điểm, kiến nghị về việc tổ chức, đổi mới lại hệ thống hành chính nhằm làm rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính qủyền. Mỗi
  3. phương án đều có những ưu điểm, hạn chế riêng. Tuy nhiên theo em, dù có thay đổi theo phương án nào, Ngân sách nhà nước phải đảm bảo hai nguyên tắc: Tập trung thống nhất và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền. Sau ba tháng thực tập tại Phòng Tài Chính-Vật Giá, Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội, em đã tiếp thu được rất nhiều kiến thức thực tế để củng cố thêm lý luận đã học của mình. Trước những đòi hỏi bức xúc về Ngân sách Quận- Huyện như đã nêu, em đã mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài: “Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội” Chương I: Một vài vấn đề lý thuyết về Ngân sách Quận - Huyện I/ Khái quát Ngân sách nhà nước(NSNN). 1. Khái niệm NSNN . Quá trình chuyển đổi, xây dựng và phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta không những đòi hỏi sự chuyển đổi thể chế và cơ cấu kinh tế nói chung mà còn đòi hỏi những chuyển đổi cần thiết về cả nhận thức và thể chế tài chính, ngân sách. Việc nhận thức đúng đắn bản chất, chức năng NSNN, sẽ cho phép xác định đúng vai trò, đặt đúng vị trí để sử dụng có hiệu quả công cụ sắc bén NSNN trong điều hành kinh tế vĩ mô. Do vậy, việc nghiên cứu và khẳng định bản chất, chức năng, vai trò của NSNN trong kinh tế thị trường là hoàn toàn cần thiết. Tuy nhiên, trước hết cần phải thống nhất định nghĩa về NSNN để trên cơ sở đó mới có thể nhìn nhận NSNN một cách đúng đắn hơn. Pháp: “NSNN là văn kiện được Nghị viện hoặc Hội đồng thảo luận và phê chuẩn mà trong đó, các ngiệp vụ tài chính (thu, chi ) của một tổ chức công (Nhà nước, chính quyền địa phương, đơn vị công ) hoặc tư ( doanh nghiệp, hiệp hội) được dự kiến và cho phép”. Trung Quốc: “NSNN là kế hoạch thu - chi tài chính hàng năm của Nhà nước được xét duyệt theo trình tự pháp định”.
  4. ở Việt Nam, ít nhất cũng có hai định nghĩa khác nhau về NSNN : Giáo trình lý thuyết tài chính ( 2000- ĐH TC-KT Hà Nội ): “NSNN là phạm trù kinh tế và phạm trù lịch sử. NSNN được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước và các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu”. Luật NSNN: “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước rong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. Hầu hết các khái niệm đều quan niệm ngân sách là kế hoạch thu, chi được xác định trong một thời gian xác định, thường là một năm. Pháp và Trung Quốc chú trọng đến khía cạnh pháp lý, chỉ rõ những yếu tố căn bản, cụ thể để hiểu một cách thống nhất về NSNN, có lợi cho công tác điều hành. Tuy nhiên, khái niệm có phạm vi hẹp, chỉ nhìn nhận ngân sách dưới góc độ tài chính, kế toán, pháp lý, chưa chỉ ra được bản chất, chức năng, vai trò của ngân sách. Đối với định nghĩa NSNN trong Giáo trình lý thuyết Tài chính mang tính bác học, trừu tượng. Tuy nhiên cách diễn đạt dễ dẫn tới hiểu rằng mọi hoạt động tài chính gắn liền với sự vận động của các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước thì đều thuộc NSNN. Thực tế, các Nhà nước thường định ra nhiều quỹ tiền tệ tuy vẫn tập trung nhưng vẫn để ngoài ngân sách. Trong khi đa số đều dừng ở khâu dự toán thì quan niệm của Luật NSNN đã đề cập đến khâu lập và thực hiện dự toán ngân sách. Quan niệm của Luật ngân sách là sâu sắc hơn cả, vừa phản ánh được nội dung cơ bản của ngân sách ( toàn bộ các khoản thu, chi ) vừa thể hiện được tính chất “dự kiến” chưa xảy ra của ngân sách (trong dự toán ) đồng thời cũng phản ánh quá trình chấp hành ngân sách ( được thực hiện ); vừa phản ánh tính niên độ của ngân sách ( trong một năm ) đồng thời thể hiện được tính pháp lý của ngân sách ( đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định ); vừa thể hiện quyền chủ sở hữu ngân sách (thu, chi nhà
  5. nước ) đồng thời cũng thể hiện vị trí, vai trò, chức năng của NSNN (đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước ). Như vậy định nghĩa về ngân sách như trong Luật NSNN sửa đổi năm 1998 là đúng đắn. Định nghĩa này đã nhìn nhận NSNN một cách toàn diện theo nhiều góc độ khác nhau.
  6. 2. Bản chất NSNN. Lịch sử hình và phát triển của các nước trên thế giới cho thấy NSNN ra đời, phát triển cùng với kinh tế hàng hoá và Nhà nước. Kinh tế hàng hoá và Nhà nước là hai điều kiện tiền đề để cho NSNN ra đời, phát triển. Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá và mức độ hoàn thiện của Nhà nước phạm trù NSNN cũng phát triển tương ứng. Bản chất kinh tế của NSNN là quan hệ kinh tế - tài chính giữa một bên là Nhà nước và bên kia là các tác nhân của của nền kinh tế hàng hoá trong quá trình phân bổ, sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế, phân phối và phân phối lại thu nhập do các tác nhân kinh tế mới sáng tạo ra. Bản chất kinh tế không tách rời bản chất chính trị của NSNN. Bản chất chính trị của NSNN gắn liền với bản chất của giai cấp cầm quyền, NSNN là ngân sách của Nhà nước của giai cấp cầm quyền, do Nhà nước đó mà sinh ra, vì Nhà nước đó mà tồn tại và phát triển. Bản chất chính trị của NSNN giải thích lý do ra đời, điều kiện tồn tại, muc tiêu và sứ mạng mà NSNN phụng sự là lợi ích của giai cấp cầm quyền. 3.Vai trò của NSNN . Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của NSNN là đảm bảo nguồn tài chính thực hiện chức năng Nhà nước công quyền, duy trì sự tồn tại của thể chế chính trị, là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều chỉnh kinh tế vĩ mô của Nhà nước, bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. 3.1 Ngân sách tiêu dùng: Công cụ bảo đảm thực hiện chức năng Nhà nước công quyền và bảo vệ tổ quốc . Như đã trình bày ở trên, NSNN mang bản chất chính trị, có nghĩa là nó thực hiện ý chí của giai cấp thống trị. Do vậy, NSNN phải đảm bảo hoạt động của bộ máy hành chính, công bằng xã hội, duy trì, cải thiện cơ sở hạ tầng, giữ gìn an
  7. ninh, quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội. Chính điều đó đã tạo nên bộ phận ngân sách thường xuyên ( bao gồm cả chi cho cơ sở hạ tầng) của mọi loại hình ngân sách Nhà nước. 3.2 Ngân sách phát triển: Công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều khiển kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Ngoài ngân sách đảm bảo chi thường xuyên, quốc phòng, an ninh là ngân sách can thiệp vào kinh tế. Nhà nước cần phải tác động vào quá trình phát triển kinh tế dù đó là kinh tế kế hoạch tập trung hay kinh tế thị trường. Với ý nghĩa đó, tiềm lực tài chính của Nhà nước phải đủ mạnh đảm bảo cho Nhà nước chủ động thực hiện chính sách tài khoá nới lỏng hoặc thắt chặt, thực hiện kích cầu đầu tư, tiêu dùng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, không một Nhà nước nào không sử dụng ngân sách để tác động vào nền kinh tế. Tuy nhiên trong thực tế, vai trò công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định, điều tiết vĩ mô của một Ngân sách phát triển đã được nhận thức vận dụng rất khác nhau tuỳ thuộc quan niệm của mỗi Nhà nước, tuỳ theo bối cảnh kinh tế của mỗi thời kỳ. Tất cả những điều đó thể hiện vị trí quan trọng của NSNN với tư cách là một công cụ tài chính vĩ mô sắc bén, nhạy cảm, hiệu quả để Nhà nước can thiệp, điều chỉnh nền kinh tế. Do đó, Nhà nước cần phải nắm chắc cơ chế tác động của thu, chi ngân sách đối với kinh tế thông qua nhận thức đầy đủ và làm chủ cơ chế tác động của hiệu ứng kích thích kinh tế của NSNN để phát huy vai trò thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều khiển kinh tế vĩ mô của NSNN. 3.3 NSNN: Công cụ bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Những khiếm khuyết của thị trường là không thể tránh khỏi, Nhà nước cần can thiệp để đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên cần phải có sự thống nhất giữa mong muốn can thiệp với cách thức hoạch định và thực hiên các biện pháp can thiệp nhằm bảo vệ tầng lớp nghèo và công bằng. Việc sử dụng thiếu thận trọng các
  8. công cụ tài chính đôi khi lại phủ nhận mục đích và bản chất tốt đẹp của người quyết định. Thị trường thường xuyên chạy theo mục đích kinh tế không chú ý đến lợi ích cộng đồng, công bắng xã hội, môi trường sinh thái. Khiếm khuyết của thị trường chỉ có thể bù đắp phần nào nhờ vào Nhà nước, nhờ vào hiệu quả sử dụng quyền lực pháp lý, quyền lực kinh tế. 4. Chức năng của NSNN. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ các chức năng vốn có của NSNN là điều hết sức quan trọng, bởi điều đó quyết định chất lượng, hiệu quả của các quyết định xây dựng và sử dụng công cụ NSNN trong kinh tế thị trường, tránh được các quyết định chủ quan, duy ý chí- cội nguồn của các sai lầm không đáng có. 4.1 Chức năng phân phối: Đặc điểm cơ bản của phân phối NSNN: Thứ nhất, phân phối dưới hình thức giá trị, chủ yếu sử dụng tiền tệ làm đơn vị tính, phương tiện phân phối. Thứ hai, tham gia không đầy đủ vào quá trình phân phối các yếu tố đầu vào. Thứ ba, thực hiên phân phối kết quả của quá trình sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ. Thứ tư, phân phối NSNN tác động đến cả cung và cầu của nền kinh tế gắn liền với sự hình thành và sử dụng quỹ NSNN. Thứ năm, Nhà nước là chủ thể trong các quan hệ phân phối có liên quan đến NSNN. Nhà nước sử dụng tối đa quyền lực chính trị, quyền chủ sở hữu trong quá trình phân phối NSNN. Thứ sáu, về cơ bản, quá trình phân phối lại NSNN mang tính không hoàn trả trực tiếp, không phát sinh nghĩa vụ vay trả nợ.
  9. Các đặc điểm trên cho thấy phân phối NSNN làm tăng luồng tiền đầu tư cho sản xuất, tăng mức thu nhập của những người hưởng lương từ NSNN, tạo ra lượng cầu mới cho nền kinh tế. Chính những đặc điểm này, phân biệt phân phối NSNN với phân phối theo cơ chế cạnh tranh thị trường hoặc phân phối theo mệnh lệnh của kế hoạch hoá. 4.2 Chức năng giám đốc. Giám đốc ở đây được hiểu là giám sát, đôn đốc, kiểm tra bằng tiền, tiến hành một cách thường xuyên, liên tục cùng với quá trình vận động của các đối tượng phân phối NSNN. Giám đốc NSNN thông qua các nghiệp vụ thống kê, kế toán, kiểm toán, thanh tra, kiểm tra tài chính, chế độ công khai tài chính ngân sách và các phương tiện thông tin đại chúng. Giám đốc NSNN được thực hiện cả ở tầm vĩ mô và vi mô, cả trực tiếp và gián tiếp. Thông qua giám đốc NSNN, Nhà nước kiểm soát tình hình tài chính vĩ mô, Nhà nước xem xét kết quả mức độ thực hiện chế độ, hạn mức tại các cơ sở, đơn vị. Thực hiện tốt chức năng giám đốc, một mặt, Nhà nước được cung cấp những hình ảnh đúng đắn, trung thực về thực trạng, quá trình diễn biến, xu hướng vận động của NSNN. Mặt khác, trên cơ sở hiệu quả giám đốc, Nhà nước tiếp tục vững bước hoặc có những điều chỉnh cần thiết trong điều hành NSNN, tiến tới các mục tiêu chiến lược đã xác định có hiệu quả. 5. Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước. Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp Ngân sách có quan hệ hữu cơ với nhau và được tổ chức theo nguyên tắc nhất định. Theo như định nghĩa trên thì việc tổ chức hệ thống Ngân sách là việc giải quyết các mối quan hệ hữu cơ giữa các cấp Ngân sách theo nguyên tắc. Tuỳ theo đặc điểm mỗi quốc gia, tình hình kinh tế xã hội mà hệ thống NSNN được tổ chức
  10. theo các cách thức, mô hình khác nhau. Dù hệ thống đó được tổ chức như thế nào đi chăng nữa cũng phải xuất phát từ hai căn cứ: Thứ nhất, hệ thống NSNN phải phù hợp với cơ cấu hệ thống quản lý. Có nhiều mô hình quản lý khác nhau trên thế giới, mỗi mô hình đều tìm ra cho mình một cách đi riêng sao cho hiệu quả, chính xác. Thứ hai, Hệ thống NSNN phải phù hợp với trình độ phân cấp quản lý kinh tế giữa các cấp chính quyền Nhà nước. ở Việt Nam, hệ thống NSNN đựợc tổ chức một cách thống nhất phù hợp với hệ thống quản lý Nhà nước nhằm đảm bảo hai nguyên tắc: 5.1 Nguyên tắc thống nhất . Đó là sự thống nhất về hoạt động tài chính trong nền kinh tế Quốc dân và tính thống nhất giữa nội dung hoạt động tài chính và các hoạt động kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Toàn bộ các chế độ, chính sách, các nghiệp vụ đều được hoạch định, thực hiên, chỉ đạo sát sao của Chính Phủ. Cơ quan cao nhất có quyền phê duỵệt Ngân sách là Quốc hội. 5.2 Nguyên tắc tập trung dân chủ . Việc xây dựng kế hoạch dự toán Ngân sách từ cơ sở huy động sự tham gia đông đảo của các cá nhân. Đây là nguyên tắc thể hiện bản chất Nhà nước ta là: dân chủ, của dân, do dân và vì dân. 6. Tổ chức hệ thống NSNN ở Việt Nam. Việt Nam là một quôc gia thống nhất, hệ thống chính quyền được phân thành bốn cấp. Do vậy, hệ thhống NSNN cũng được phân thành bốn cấp. Ngân sách trung ương đống vai trò chủ đạo, ngân sách xã, phường đống vai trò hạt nhân, Ngân sách tỉnh, huyện đóng vai trò trung gian.
  11. 7. Phân cấp quản lý NSNN Phân cấp quản lý NSNN là việc giải quyết tất cả các mối quan hệ giữa các cấp chính quyền liên quan đến quản lý và điều hành NSNN. 7.1 Nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN Thứ nhất, phân cấp quản lý NSNN phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước. Thứ hai, phân cấp quản lý NSNN đảm bảo ngân sách TW giữ vai trò chủ đạo và tính độc lập, tự chủ của các cấp Ngân sách địa phương. Thứ ba, phân cấp quản lý NSNN phải phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp và ổn định phần trăm các khoản thu. 7.2 Nội dung phân cấp quản lý NSNN Một là, phân cấp về các vấn đề liên quan đến chế độ của NSNN. Hai là, phân cấp về các vấn đề liên quan đến nghiệp vụ quản lý và điều hành NSNN, trách nhiệm của các cơ quan chức năng. Ba là, phân cấp về nội dung thu, chi Ngân sách. 8. Năm ngân sách và chu trình ngân sách 8.1.Năm ngân sách Năm ngân sách chỉ khoảng thời gian mà trong đó dự toán thu, chi ngân sách đã được phê chuẩn có hiệu lực thực hiện. Thông thường trên thế giới năm ngân sách có thời gian là 12 tháng nhưng khác nhau về thời điểm bắt đầu và kết thúc.
  12. ở Việt Nam, năm ngân sách gồm 12 tháng, bắt đầu từ 1/1 đến 31/12 ( tính theo năm dương lịch ). 8.2 Chu trình ngân sách . Chu trình ngân sách là quá trình tính từ khi bắt đầu hình thành nên dự toán NSNN của một năm nào đó cho tới khi kết thúc. Chu trình ngân sách gồm ba giai đoạn: Giai đoạn 1: Hình thành kế hoạch NSNN ( thu, chi ) Giai đoạn hai: Chấp hành NSNN ( thực hiện kế hoạch thu, chi ) Giai đoan 3: Quyết toán NSNN II.Cấp ngân sách Quận -Huyện 1. Khái niêm và lịch sử hình thành. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp , NSNN ta tổ chức thành hai cấp: Ngân sách TW và Ngân sách tỉnh, thành phố. Việc phân cấp như vậy là phù hợp với nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền trong việc huy động tối đa nguồn lực tài chính. ở thời kỳ này, Ngân sách Quận -Huyện đóng vai trò là một cấp dự toán. Ngày 15 /5 /1978, với chủ chương xây dựng Quận, Huyện thành một cấp có cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh, có tư cách là một đơn vị kinh tế công nông nghiệp phát triển toàn diện, Hội Đồng Chính Phủ đã ra Nghị Quyết 108 /CP xác định quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương cấp Quận, Huyện về quản lý tài chính, ngân sách. Nghị quyết có quy định các khoản thu, chi Ngân sách Quận- Huyện. Ngày 19 /11 /1983, HĐBT ra Nghị quyết số 138 / HĐBT về cải tiến phân cấp ngân sách địa phương, nói rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Ngân sách Quận -Huyện. Sau Đại Hội Đảng lần thứ VI , nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng XHCN. Cùng với đà đổi mới của nền kinh tế đất nước, Ngân sách Quận -Huyện cũng được xác định lại
  13. vai trò, nhiệm vụ của mìmh. Cụ thể, ngày 27 /11 /1989 HĐBT đã ra nghị quyết số 186 /HĐBT vè phân cấp quản lý ngân sách địa phương trong đó có Ngân sách Quận - Huyện. Ngày 16 /2 /1992 HĐBT ban hành Nghị quyết số 186 / HĐBT sửa đổi bổ sung nghị quyết186 / HĐBT ngày 27/11/1989. Kỳ họp thứ 8 Quốc Hội khoá IX khẳng định: Quận, Huyện là một cấp chính quyền có Ngân sách, Ngân sách Quận -Huyện là một bộ phận hợp thành Ngân sách địa phương thuộc hệ thống NSNN. Như vậy, Ngân sách Quận -Huyện là một cấp ngân sách thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của NSNN trên phạm vi địa bàn Quận, Huyện. Khảo sát quá trình hình thành Ngân sách Quận -Huyện, ta có thể thấy Ngân sách Quận -Huyện từ một cấp dự toán đã trở thành một cấp ngân sách có nguồn thu và nhiệm vụ chi riêng. Đó là một lối đi đúng đắn trong quá trình phát triển nền tài chính quốc gia. Trước tiên, nó giúp cho Ngân sách cấp Tỉnh, TW giảm được khối lượng công việc. Tiếp theo, nó giúp cho các cấp chính quyền có thể nắm bắt được tình hình kinh tế nói chung và tài chính nói riêng từ cơ sở. Ngân sách Quận -Huyện mang bản chất của NSNN, đó là mối quan hệ giữa Ngân sách Quận -Huyện với các tổ chức, cá nhân trên địa bàn quận trong quá trình phân bổ, sử dụng các nguồn lực kinh tế của Quận. Mối quan hệ đó được điều chỉnh, điều tiết sao cho phù hợp với bản chất Nhà nước XHCN. Đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của công nhân và nhân dân lao động, bộ phận người chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội. Do vậy, lợi ích của Nhà nước XHCN Việt Nam không có gì hơn ngoài mong muốn được phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân. Có thể nói, việc Ngân sách Quận -Huyện trở thành một cấp ngân sách đã làm cho bộ mặt NSNN mang một diện mạo, sắc thái mới, nền tài chính quốc gia trở nên lành mạnh và hiệu quả hơn. Thực tế đã chứng minh, trong những năm qua, xét riêng ở cấp độ Quận,Huyện, tình hình kinh tế - tài chính có những bước tiến đáng kể. Ngoài ra, Ngân sách Quận -Huyện còn thể hiện bản chất chính trị của Nhà nước ta thông qua việc thực hiện đúng đắn, hiệu quả, có sáng tạo các chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm
  14. đã pháy huy được là một loạt những hạn chế cần khắc phục kịp thời, đòi hỏi sự quan tâm, tâm huyết của các cá nhân, ban, ngành phối hợp cùng giải quyết. 2.Vai trò của Ngân sách Quận -Huyện Như đã nêu trong định nghĩa Ngân sách Quận -Huyện có vai trò của NSNN trên địa bàn Quận, Huyện. Đó là vai trò đảm bảo chức năng Nhà nước ; an ninh, quốc phòng; thúc đẩy phát triển , ổn định kinh tế; bù đắp những khiếm khuyết thị trường, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. 2.1 Ngân sách Quận -Huyện - bảo đảm thực hiện chức năng Nhà nước, bảo vệ an ninh trật tự cấp Quận Huyện. Là một cấp chính quyền Quận, Huyện cũng tổ chức ra cho mình một hệ thồng các cơ quan, đoàn thể hành chính nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước. Điều đó cũng có nghĩa là để cho các cơ quan đoàn thể đó hoạt động được cần phải có một quỹ tài chính tập trung cho nó- Đó chính là Ngân sách Quận - Huyện. Mặc dù không lớn mạnh như ngân sách TW nhưng Ngân sách Quận - Huyện cũng tạo cho mình một vị thế nhất định nhằm chủ động trong việc thực hiện chức năng Nhà nước ở điạ phương. Tuỳ theo phạm vi địa lý, tình hình kinh tế xã hội trên từng Quận, Huyện mà nhu cầu đảm bảo này là khác nhau. Hiện nay, nước ta có trên 1.380.000 công chức ( số liệu năm 2000 ) đang làm việc trong cả nước. Để duy trì hoạt động của bộ máy này phải tốn một khoản Ngân sách khổng lồ. Nhưng trong khi Nhà nước đang chắt chiu từng đồng thì ở một số đơn vị việc sử dụng Ngân sách vẫn lãng phí, sai phạm. Do vậy, đòi hỏi Ngân sách Quận -Huyện, với tư cách là Ngân sách của các đơn vị cơ sở cần phải quản lý chặt chẽ, cấp phát đúng chính sách, chế độ, hạn mức làm sao cho bộ máy Nhà nước hoạt động tốt mà vẫn tiết kiệm, hiệu quả. Trong các chức năng của Nhà nước, chức năng đảm bảo an ninh trật tự, quốc phòng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Đây là công cụ quyền lực của Nhà
  15. nước, nhằm bảo vệ ý chí của Nhà nước, tạo điều kiện an toàn để Quận, Huyện phát triển mọi mặt. Để đảm bảo cho chức năng đặc biệt này, Ngân sách Quận - Huyện cần phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết, có các khoản dự phòng hợp lý. 2.2 Ngân sách Quận -Huyện -Công cụ thúc đẩy, phát triển ổn định kinh tế Để thực hiện tốt chiến lược kinh tế - tài chính của cấp tỉnh, cấp TW, cấp Quận - Huyện cần phải sử dụng các công cụ sẵn có của mình để điều tiết , định hướng. Một trong những công cụ đắc lực là Ngân sách. Sẽ không có một cơ câú kinh tế ổn định, phát triển nếu bỏ qua công cụ này. Các Quân- Huyện phải căn cứ vào thế mạnh của địa phương mình để định hướng, hình thành cơ cấu kinh tế, kích thích phát triển. Đồng thời các Quận -Huyện phải cung cấp kinh phí, vốn đầu tư, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Thuế là một phương tiện đắc lực trong điều tiết vĩ mô kinh tế, Quận - Huyện có thể sử dụng công cụ này để điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Ngoài ra cấp Quận -Huyện phải xây dựng cho mình một tiềm lực kinh tế riêng, đó là các doanh nghiệp Nhà nước do cấp Quận quản lý. Loại hình doanh nghiệp này phải đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Quận - Huyên. 2.3 Ngân sách Quận -Huyện - Phương tiện bù đắp khiếm khuyết thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, gìn giữ môi trường. Đây là vai trò không thể thiếu đối với Ngân sách mỗi quốc gia. Nó có tác dụng xoa dịu nền kinh tế thị trường. Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường là chạy theo lợi nhuận bất chấp hậu quả. Do đó, một loạt các vấn đề xảy đến: Thất nghiệp, hố ngăn cách giàu nghèo tăng, không quan tâm đến người già, trẻ em, người tàn tật, lừa đảo, chiếm đoạt, môi trường ô nhiễm... Những điều đó tạo ra cho nền kinh tế - xã hội một vực thẳm phía trước. Cấp Quận -huyện theo dõi các báo cáo tổng hợp từ cấp xã, phường phải có biện pháp giải quyết.
  16. Ngoài việc quan tâm đến đời sống vật chất của người lao động, Quận - Huyện phải thường xuyên quan tâm đến đời sông văn hoá, tinh thần của quần chúng, cải tạo các sân chơi, phương tiện giải trí lành mạnh, tiến bộ. Các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế phải giảm được chi phí cho người dân, làm sao để ai cũng được học hành, chăm sóc sức khoẻ đầy đủ. 3. Chức năng của Ngân sách Quận -Huyện Ngân sách Quận -Huyện cũng có hai chức năng là phân phối và giám đốc. 3.1 Chức năng phân phối của Ngân sách Quận -Huyện Thống nhất với chức năng phân phối tài chính nói chung, Ngân sách Quận - Huyện được cụ thể hoá trong phạm vi phân phối Ngân sách của Quân, Huyện. Phân phối Ngân sách Quận -Huyện không chỉ dừng lại ở khâu phân phối thu nhập mà bao gồm cả phân phối các yếu tố đầu vào, cụ thể là phân bổ nguồn tài chính. Nguồn tài chính phân phối là thu nhập mới sáng tạo ra, phần mà thuộc Ngân sách Quận -Huyện gắn liền với khả năng thu, chi. Thông qua việc hạch toán thu, chi mà Ngân sách Quận -Huyện thực hiện chức năng phân phối của mình với các chủ thể khác của nền kinh tế. Tuy nhiên Ngân sách Quận -Huyện chỉ thực hiện các chức năng phân phối của mình trong giới hạn ở các nghiệp vụ có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền Quận- Huyện. Chức năng phân phối của Ngân sách Quận -Huyện thể hiện ở: Phân phối lần đầu khi tham gia vào quá trình phân chia kết quả sản xuất, với tư cách là chủ sở hữu; Phân phối lại thông qua thuế và chi tiêu. 3.2 Chức năng giám đốc của Ngân sách Quận -Huyện Song song với chức năng phân phối, chúng ta phải giám đốc thường xuyên, kiểm tra đôn đốc các đối tựong phân phối Ngân sách Quận -Huyện. Chức năng giám đốc gắn liền với chức năng phân phối, thông qua phân phối mà giám sát, kiểm tra; Nhờ có giám sát, kiểm tra mà phân phối có hiêụ quả, chính xác. Ngân
  17. sách Quận -Huyện phải tiến hành lập các đoàn thanh kiểm tra, giám đốc từ quá trình hình thành đến quá trình sử dụng, xem xét quá trình đó có tuân thủ đúng chế độ, đúng dự toán được phê chuẩn, có nằm trong khuôn khổ luật pháp không. Đồng thời, phải xem xét kỹ lưỡng tính hiệu quả của Ngân sách. 4. Nội dung Ngân sách Quận – Huyện Nội dung của Ngân sách Quận -Huyện bao gồm hai vấn đề cơ bản: Thu Ngân sách và chi Ngân sách 4.1 Nội dung thu Ngân sách Quận -Huyện Đây là quá trình tạo lập, hình thành Ngân sách Quận - Huyện, đóng vai trò quan trọng, quyết định đến khâu sau: Chi Ngân sách. Để đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách cần phải có chính sách thu hợp lý hiệu quả. Chính sách thu Ngân sách là tập hợp các biện pháp, chủ trương nhằm huy động nguồn thu vào cho NSNN 4.1.1 Vị trí của chính sách thu Ngân sách Thứ nhất, chính sách thu Ngân sách là một bộ phận trong quản lý kinh tế nói chung và quản lý tài chính nói riêng. Việc tăng hay giảm thu ở một lĩnh vực nào đó được thực hiện theo chiến lược phát triển kinh tế, tài chính vĩ mô. Một khi chính sách thu ngân sách thay đổi thì lập tức cơ cấu kinh tế, dù ít hay nhiều cũng có sự chuyển dịch. Bởi vì, đối tượng thu của Ngân sách là rất đa dạng, rộng lớn, phong phú, đặc biệt là nhạy cảm với các chính sách thu (thuế, phí, lệ phí...). Thứ hai, các chính sách thu của Ngân sách có tác động đến các chính sách quản lý kinh tế, tài chính khác. Dường như vị trí này trùng lắp vị trí trên, nhưng không, nó hoàn toàn khác. Các chính sách kinh tế, tài chính khác ở đây là thuộc các lĩnh vực ngoài Ngân sách (kinh tế, tài chính của các tổ chức, doanh nghiệp...).
  18. Do việc có ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp nên NSNN có thể can thiệp sâu vào doanh nghiệp. 4.1.2 Các quan điểm cần quán triệt khi xây dựng và thực hiện các chính sách thu Ngân sách Một là, các chính sách thu phải góp phần vào khuyến khích và phát triển sản xuất kinh doanh, mở rộng lưu thông hàng hoá và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Như phần trên đã trình bày, các đối tượng nộp thuế rất nhạy cảm với việc đánh thuế. Thế mà, việc thu thuế là có giới hạn, cónghĩa là, thu bằng thuế chỉ đạt được kết quả tối đa tại một điểm thuế suất nào đó. Đây là hiện tượng “thuế giết thuế, có nghĩa là với chủ trương tăng thuế để tăng thu Ngân sách, nhưng đến khi thực hiện lại có tác động ngược lại: Sản xuất kinh doanh bị đình trệ, hiện tượng trốn thuế phát triển do tâm lý “lười lao động”. Hai là, chính sách thu phải đảm bảo tâp trung quản lý hợp lý nguồn thu cho Ngân sách, đồng thời bảo đảm mức sống hợp lý cho các đối tượng dân cư dọ tác động của chính sách thu. Theo quy định của Nhà nước, tất cả các khoản đều được tập trung vào Kho Bạc Nhà nước cùng với sự phối hợp của Ban Tài Chính, cơ quan thuế, Hải quan. Ba là, chính sách thu phải đảm bảo công bằng xã hội cho các tầng lớp dân cư. ở đây bao gồm cả công bằng theo chiều dọc và công bằng theo chiều ngang. Công bằng theo chiều dọc có nghĩa là đối tượng nào có khả năng nộp thuế nhiều hơn phải nộp nhiều hơn. Công bằng theo chiều ngang có nghĩa là các đối tợng có khả năng nộp thuế như nhau sẽ phải nộp thuế như nhau. Bốn là, chính sách thu phải đảm bảo tính quần chúng. Do trình độ của các đối tượng nộp thuế là khác nhau, thậm chí chênh lệch rất lớn, việc đưa ra một chính sách thuế quá khó hiểu, phức tạp là một sai lầm. Bởi vì chi phí cho việc tuyên truyền, giải thích chính sách thu đó sẽ rất lớn. Khi đó, chính sách thu có khi
  19. lại phản tác dụng. Do đó, nội dung chính sách thu phải đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ dàng được chấp nhân. 4.1.3 Các khoản thu của Ngân sách Quận -Huyện Theo quy định của pháp luật, Ngân sách Quận -Huyện có các nguồn thu như sau: *) Các khoản thu 100% a) Thuế môn bài thu từ các doanh nghiệp, hợp tác xã và các hộ sản xuất kinh doanh ngoài quốc doanh gồm: -Từ bậc 1 đền bậc 3 thu trện địa bàn xã, thị trấn -Từ bậc 1 đến bậc 6 thu trên địa bàn phường. b) Thuế sát sinh thu từ các doanh nghiệp giết mổ gia súc trên địa bàn phường. c) Các khoản phí và lệ phí từ các hoạt động do các cơ quan thuộc cấp Quận - Huyện quản lý. d) Tiền thu từ hoạt động sự nghiệp của các đơn vị do cấp Quận - Huyện quản lý. đ) Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài cho cấp Quận - Huyện theo quy định của pháp luật. g) Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước cho Ngân sách Quận –Huyện. h) Thu từ xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thu từ các hoạt động chống buôn lậu và kinh doanh trái phép luật theo phân cấp của tỉnh. i) Thu kết dư ngân sách cấp huyện. k) Bổ xung từ ngân sách cấp tỉnh. l) Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. **) Các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách cấp tỉnh và Ngân sách Quận - Huyện và Ngân sách xã, thị trấn, phường. a) Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
  20. b) Thuế nhà đất. c) Tiền sử dụng đất. d) Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa Ngân sách cấp tỉnh và Ngân sách TW, do tỉnh quy định trong phạm vi tỉnh được phân cấp. e) Các khoản thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế tài nguyên; lệ phí trước bạ nhà đất; thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước thu vào mặt hàng bài lá; vàng mã; hàng mã và các dịch vụ kinh doanh vũ trường, mát-xa, karaokê, kinh doanh gôn; bán thẻ hội viên, vé chơi gôn; kinh doanh ca-si-no; trò chơi bằng máy giắc-pót; kinh doanh vé đặt cược, đua ngựa, đua xe (Ngân sách địa phương hưởng 100%). Việc phân cấp cho Ngân sách các cấp ( tỉnh, huyện, xã ) do cấp tỉnh quy định. Riêng tỷ lệ phần trăm phân chia thuế sử dụng đất nông nghiệp cho xã, thị trấn tối đa là 100%, tối thiểu là 20%. ***) Đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh: Được phân chia thêm một phần theo tỷ lệ phần trăm đối với lệ phí trước bạ không kể lệ phí trước bạ nhà đất phát sinh nộp trên địa bàn và được tiến hành lập quỹ đầu tư theo quy định của Chính phủ. 4.2 Nội dung chi của Ngân sách Quận –Huyện . Nếu như quá trình thu là quá trình tạo lập, hình thành Ngân sách thì chi Ngân sách là quá trình sử dụng Ngân sách. Nó ngược lại hoàn toàn với quá trình thu nhưng lại chịu sự điều khiển của quá trình thu ( Không thể chi nhiều trong khi thu ít và ngược lại ) đồng thời, lại tạo thêm nguồn thu ( Đầu tư Ngân sách nhàn rỗi vào các cơ sở sản xuất, kinh doanh ). Chi Ngân sách là quá trình sử dụng quỹ NSNN theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước. 4.2.1 Đặc điểm chi Ngân sách Quận -Huyện Với tư cách là một quá trình sử dụng quỹ NSNN, chi Ngân sách có các đặc điểm sau:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2