LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ tại nhà máy bia Đông Nam Á
lượt xem 19
download
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là mục tiêu phấn đấu lâu dài của mỗi doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn cùng với hiệu quả sử dụng TSLĐ luôn gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để đưa ra những biện pháp hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ, doanh nghiệp cần có sự kết hợp lý luận và điều kiện thực tiễn tại doanh nghiệp. Trong thời đại kinh tế thị trường, thêm nữa là việc Việt Nam vừa tham gia vào tổ chức kinh tế...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ tại nhà máy bia Đông Nam Á
- LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ tại nhà máy bia Đông Nam Á
- LỜI MỞ ĐẦU Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là mục tiêu phấn đấu lâu dài của mỗi doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn cùng với hiệu quả sử dụng TSLĐ luôn gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để đưa ra những biện pháp hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ, doanh nghiệp cần có sự kết hợp lý luận và điều kiện thực tiễn tại doanh nghiệp. Trong thời đại kinh tế thị trường, thêm nữa là việc Việt Nam vừa tham gia vào tổ chức kinh tế thế giới WTO, một số doanh nghiệp đã có phương pháp, biện pháp huy động và sử dụng vốn kinh doanh một cách năng động và hiệu quả. Nhưng cũng có những doanh nghiệp không thể huy động được vốn, đôi khi còn thâm hụt vốn. Lý do là ở công tác quản lý sử dụng vốn kém hiệu quả. Trong tình hình chung đó, nhà máy bia Đông Nam Á đã có nhiều cố gắng trong việc khai thác, sử dụng vốn kinh doanh và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, nhà máy cũng còn nhiều khó khăn trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đặc biệt là nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ. Là một doanh nghiệp sản xuất, TSLĐ lại càng quan trọng hơn nữa, do đó đòi hỏi nhà máy bia Đông Nam Á phải có phương pháp quản lý và sử dụng TSLĐ một cách khoa học, hợp lý nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp. Hiểu được tầm quan trọng của TSLĐ trong các doanh nghiệp nói chung, trong nhà máy bia Đông Nam Á nói riêng, em đã chọn đề tài “ Nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ tại nhà máy bia Đông Nam Á”. Nội dung chính của chuyên đề thực tập tốt nghiệp được trình bày trong các chương sau: Chương I: Cơ sở lý luận chung về TSLĐ và hiệu quả sử dụng TSLĐ trong doanh nghiệp Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng TSLĐ tại nhà máy bia Đông Nam Á Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ tại nhà máy bia Đông Nam Á.
- Chương I: Cơ sở lý luận chung về TSLĐ và hiệu quả sử dụng TSLĐ trong doanh nghiệp 1.1 Tổng quan về TSLĐ của doanh nghiệp 1.1.1 Khái niệm TSLĐ TSLĐ là đối tượng lao động thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, mà đặc điểm của chúng là luân chuyển toàn bộ giá trị ngay một lần vào chi phí kinh doanh. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần ba yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ. Tư liệu lao động tham gia vào cả quá trình sản xuất, trong khi đó đối tượng lao động lại chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất, hết một chu kỳ lại có đối tượng lao động khác xuất hiện. Các đối tượng lao động sau khi tham gia vào quá trình sản xuất, không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ, một lần vào các sản phẩm. Đa số các đối tượng lao động trải qua việc chế biến để thành sản phẩm, ví dụ như vỏ cây thành giấy, lúa mạch thành bia. Hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có các đối tượng lao động. Biểu hiện dưới hình thái vật chất của đối tượng lao động gọi là TSLĐ. TSLĐ là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, TSLĐ được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản cao, phải thu và dự trữ tồn kho. Giá trị các loại TSLĐ thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của một doanh nghiệp. Vì thế việc quản lý TSLĐ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ của doanh nghiệp. 1.1.2 Phân loại TSLĐ Tùy theo căn cứ để phân loại, TSLĐ có rất nhiều loại khác nhau. 1.1.2.1 Căn cứ vào vai trò của TSLĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh Theo cách phân loại này, TSLĐ được phân thành:
- - TSLĐ trong khâu dự trữ: bao gồm các vật tư, nguyên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ lao động. + Nguyên vật liệu chính hay bán thành phẩm mua ngoài- là những loại nguyên vật liệu khi tham gia vào sản xuất chúng tạo nên thực thể sản phẩm. + Nguyên vật liệu phụ- là những loại nguyên vật liệu giúp cho việc hình thành sản phẩm bền hơn đẹp hơn. + Nhiên liệu- là loại dự trữ cho sản xuất có tác dụng cung cấp nhiệt lượng cho quá trình sản xuất như củi, than đá, gaz, … + Phụ tùng thay thế: là các chi tiết, phụ tùng, linh kiện máy móc thiết bị dự trữ phục vụ cho việc sửa chữa hoặc thay thế những bộ phận của máy móc thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải, … + Vật liệu đóng gói: là những vật liệu để đóng gói trong quá trình sản xuất như bao nilông, vỏ chai, vỏ keg, … + Công cụ lao động nhỏ: để tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và giữ nguyên hình thái vật chất, nhưng giá trị rất nhỏ, không đủ tiêu chuẩn để là tài sản cố định. - TSLĐ trong khâu sản xuất: bao gồm các sản phẩm dở dang, bán thành phẩm. Sản phẩm dở dang, bán thành phẩm: là khối lượng sản phẩm đang trong quá trình chế tạo, đang nằm trên dây chuyền công nghệ, đã kết thúc một vài quy trình chế biến nhưng phải qua một số quy trình nữa mới thành thành phẩm. - TSLĐ trong lưu thông bao gồm: các thành phẩm, hàng hóa, hàng gửi bán, tiền, các khoản phải thu, các khoản đầu tư ngắn hạn và các khoản ký cược, ký quỹ ngắn hạn. + Thành phẩm: là những thành phẩm sản xuất xong nhập kho được dự trữ cho quá trình tiêu thụ. + Hàng hóa: là những hàng hóa mua từ bên ngoài (đối với các đơn vị kinh doanh thương mại). + Hàng gửi bán: là các hàng hóa, thành phẩm đơn vị đã xuất, gửi cho khách hàng mà chưa được khách hàng chấp nhận.
- + Tiền: bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển và cả các khoản tương đương tiền như vàng, bạc, đá quý, … + Các khoản phải thu: phát sinh trong quá trình bán hàng hoặc thanh toán nội bộ. + Đầu tư ngắn hạn: thường là các khoản đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn có tính thanh khoản cao. + Các khoản ký cược, ký quỹ: do khách hàng chưa có tiền mặt để trả ngay, nên phát sinh các khoản ký cược, ký quỹ. 1.1.2.2 Căn cứ theo hình thái biểu hiện Theo hình thái biểu hiện, TSLĐ được chia thành: - Vật tư hàng hóa: gồm vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ lao động, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, hàng hóa, thành phẩm. - Tiền: gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, vàng, bạc, đá quý, các khoản đầu tư ngắn hạn, khoản ký quỹ, ký cược, khoản phải thu. 1.1.2.3 Căn cứ theo nguồn vốn tài trợ TSLĐ được tài trợ bởi vốn lưu động, nhưng vốn lưu động cũng được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Vì vậy, có thể phân loại TSLĐ thành hai loại: - TSLĐ được tài trợ bởi vốn chủ sở hữu: tiền mua TSLĐ có từ vốn của chủ sở hữu. - TSLĐ được tài trợ bởi vốn đi vay: tức là TSLĐ có được từ nguồn đi vay. 1.1.2.4 Căn cứ theo khả năng chuyển hóa thành tiền của TSLĐ Dựa vào việc nghiên cứu chu kỳ vận động của tiền mặt, người ta phân loại TSLĐ thành các loại sau: + Ngân quỹ: bao gồm tiền và các khoản tương đương tiền: như vàng, bạc, đá quý, chứng khoán thanh khoản cao. Tiền ở đây bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ở ngân hàng, tiền đang chuyển. Vàng, bạc, đá quý là những tài sản đặc biệt, được sử dụng chủ yếu để dự trữ. Chứng khoán thanh khoản cao là các loại chứng khoán ngắn hạn dễ trao đổi.
- + Các khoản phải thu: là các khoản khách hàng tạm thời chưa trả tiền cho doanh nghiệp. Đây là tài sản rất quan trọng của doanh nghiệp, đặc biệt với các doanh nghiệp thương mại. Hoạt động mua bán chịu thường xuyên diễn ra giữa các bên, do đó phát sinh tín dụng thương mại. + Dự trữ, tồn kho: gồm nguyên vật liệu, nhiên liệu, thành phẩm dở dang, sản phẩm cuối cùng. + Đầu tư tài chính ngắn hạn: là các khoản đầu tư tài chính có thời gian dưới 1 năm. + TSLĐ khác. 1.1.3 Đặc điểm các loại TSLĐ TSLĐ có ba đặc điểm chung: + Tham gia vào một chu kỳ kinh doanh. + Thay đổi hình thái vật chất ban đầu để cấu tạo thành thực thể sản phẩm. + Giá trị luân chuyển một lần vào giá thành sản phẩm làm ra. Bên cạnh đó, từng loại của TSLĐ đều có những đặc điểm riêng biệt. 1.1.3.1 Tiền mặt và các chứng khoán thanh khoản cao Tiền mặt (cash) được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp ở ngân hàng. Tiền mặt được sử dụng để mua nguyên vật liệu, mua tài sản cố định, trả lương, trả nợ, nộp thuế, …Lưu ý rằng, trong ngôn ngữ tiếng Việt, “tiền mặt” không bao gồm tiền gửi ngân hàng; và việc sử dụng séc trong thanh toán của các doanh nghiệp được gọi là “ thanh toán không dùng tiền mặt”. Vì vậy cần phải nhấn mạnh, tiền mặt- “cash”- theo cách hiểu trong lĩnh vực tài chính- kế toán bao gồm: tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền dưới dạng séc các loại, tiền trong thanh toán, tiền trong thẻ tín dụng và các loại tài khoản thẻ ATM. Đối với thế giới kinh doanh, tiền mặt luôn luôn là dòng tiền đầu tiên phản ánh tình trạng và cấu trúc tài sản trong Bảng cân đối kế toán với ý nghĩa là loại tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao. Lượng tiền mặt có sẵn trong doanh nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và có sự khác biệt lớn giữa lợi nhuận của hoạt động kinh
- doanh và lượng tiền mặt sẵn sàng cho chi trả, thanh toán nợ. Lợi nhuận của doanh nghiệp được tính bằng đơn vị tiền tệ, nhưng nó chỉ xuất hiện sau hoạt động kinh doanh một thời gian. Còn lượng tiền mặt lại tính ở một thời điểm. Đã có rất nhiều trường hợp các doanh nghiệp tính toán trên sổ sách là lãi, nhưng lại không đủ tiền mặt để thanh toán các khoản công nợ, nên cuối cùng dẫn đến phá sản. Do đó, việc giữ tiền mặt là vô cùng quan trọng. * Lý do phải giữ tiền mặt: Tiền mặt bản thân nó là loại tài sản không sinh lãi, do đó mục tiêu quan trọng nhất trong quản lý tiền mặt là tối thiểu hóa lượng tiền mặt phải giữ mà vẫn đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường. Tuy nhiên, như đã nói, việc nắm giữ tiền mặt cũng là rất cần thiết, có thể nêu một ra một số lý do như sau: + Để đảm bảo giao dịch kinh doanh hàng ngày. Việc mua nguyên vật liệu, thu tiền từ khách hàng sẽ tạo ra số dư giao dịch. + Bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các khoản vay hoặc các dịch vụ cho doanh nghiệp. Số dư tiền mặt này gọi là số dư bù đắp. + Đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp biến động không lường trước được của các luồng tiền vào và ra. Số tiền này tạo nên số dư dự phòng. + Hưởng lợi thế trong thương lượng mua hàng. Duy trì số dư này sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội kiếm lời. * Trong hoạt động kinh doanh, gửi tiền mặt là cần thiết, nhưng việc giữ đủ tiền mặt phụ vụ cho kinh doanh có những lợi thế sau: + Công ty có thể được hưởng chiết khấu nếu việc thanh toán tiền được thực hiện trong một thời gian nhất định. Việc này chỉ xảy ra nếu doanh nghiệp có đủ tiền mặt. + Giữ đủ tiền mặt, các chỉ số thanh toán ngắn hạn của công ty sẽ tốt, từ đó sẽ giúp cho nhà cung cấp bán hàng cho doanh nghiệp với điều kiện thuận lợi và mức tín dụng đưa ra là rộng rãi; đồng thời với các nhà đầu tư, doanh nghiệp cũng vì thế mà hấp dẫn hơn.
- + Doanh nghiệp có thể tận dụng được những cơ hội thuận lợi trong kinh doanh do chủ động trong hoạt động thanh toán. + Một số trường hợp xảy ra: đình công, hỏa hoạn, chiến dịch marketing của đối thủ cạnh tranh, các khó khăn sẽ được giải quyết khi doanh nghiệp có đủ tiền mặt. 1.1.3.2 Dự trữ, tồn kho Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, việc tồn tại vật tư hàng hóa dự trữ, tồn kho là rất cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Hàng tồn kho có 3 loại: + Nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh + Sản phẩm dở dang + Thành phẩm Hàng tồn kho gồm 3 loại như trên, nhưng thông thường, trong quản trị vấn đề được đề cập đến là nguyên vật liệu dự trữ cho sản xuất kinh doanh. Đối với doanh nghiệp thương mại thì dự trữ nguyên vật liệu chính là dự trữ hàng hóa để bán. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không thể sản xuất đến đâu mua hàng đến đó, mà cần phải mua nguyên vật liệu dự trữ. Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận, nhưng lại có vai trò rất lớn để cho quá trình sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra liên tục. Do đó, nếu dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn, còn nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn gây ra hàng loạt các hậu quả tiếp theo. Nếu nhu cầu tiêu thụ hàng hóa nhiều, thì hàng tồn kho nhiều sẽ làm cho quá trình sản xuất, bán hàng hiệu quả và nhanh hơn, đó là một thuận lợi so với đối thủ cạnh tranh. Còn nếu hàng tồn kho nhiều mà hàng hóa không bán được do nhiều yếu tố thì việc lưu giữ nhiều hàng tồn kho sẽ gây nhiều bất lợi cho doanh nghiệp. Chính sách tồn kho rất quan trọng khiến các nhà quản lý sản xuất, quản lý marketing và quản lý tài chính phải làm việc cùng nhau để đạt được sự thống nhất. Có nhiều quan điểm khách nhau về chính sách tồn kho, để có sự cân bằng các mục tiêu
- khác nhau như: giảm chi phí sản xuất, giảm chi phí tồn kho và tăng khả năng đáp ứng nhu cầu cho khách hàng. * Lý do của việc giữ hàng tồn kho: + Việc giữ vật liệu thô là do một số nhà cung cấp sản xuất và vận chuyển một vài vật liệu thô theo lô; lượng đặt mua vật liệu thô lớn làm tồn kho nhiều hơn nhưng có thể được khấu trừ theo số lượng mua, giảm chi phí mua hàng. + Việc giữ sản phẩm dở dang là do khâu quản lý không thể kết hợp hai giai đoạn sản xuất lại; đồng thời do sản xuất và vận chuyển các lô hàng lớn khiến cho cho tồn kho nhiều hơn nhưng có thể giảm chi phí sản xuất, chi phí vận chuyển nguyên vật liệu. + Việc giữ thành phẩm là để chuẩn bị lượng hàng trước khi giao hàng; năng lực sản xuất có hạn; sản xuất có thể để trưng bày cho khách hàng. * Bản chất của tồn kho: Hai vấn đề quan trọng trong mọi hoạch định hàng tồn kho là cần đặt hàng bao nhiêu cho từng loại nguyên vật liệu; khi nào cần tiến hành đặt hàng lại. 1.1.3.3 Các khoản phải thu Để thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp có thể sử dụng chiến lược về chất lượng sản phẩm, về quảng cáo, về giá cả, dịch vụ giao hàng, các dịch vụ chăm sóc khách hàng …. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, việc mua bán chịu là không thể thiếu. Tín dụng thương mại làm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và trở nên giàu có, nhưng cũng có thể đem đến những rủi ro cho doanh nghiệp. Tín dụng thương mại vừa làm cho doanh nghiệp có những khoản phải trả bên tài sản, đồng thời có những khoản phải thu bên nguồn vốn. Khoản phải thu là số tiền mà khách hàng nợ doanh nghiệp do mua chịu hàng hóa hoặc dịch vụ. Có thể nói hầu hết các công ty đều phát sinh khoản phải thu, nhưng với mức độ khác nhau, từ mức không đáng kể đến mức không thể kiểm soát nổi. Kiểm
- soát khoản phải thu liên quan đến việc đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro. Nếu không bán chịu hàng hóa sẽ mất đi cơ hội bán hàng, do đó mất đi lợi nhuận. Nhưng nếu bán chịu hàng hóa nhiều thì chi phí cho khoản phải thu tăng, có nguy cơ phát sinh các khoản nợ khó đòi, do đó rủi ro không thu hồi được nợ gia tăng. Vì thế, doanh nghiệp cần có chính sách bán chịu phù hợp. Khoản phải thu của doanh nghiệp phát sinh nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu tố như tình hình nền kinh tế, chất lượng sản phẩm, chính sách bán chịu của doanh nghiệp. Các khoản phải thu tạo ra cả chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp, nhưng cũng mang lại lợi ích vì chính sách tín dụng thương mại sẽ làm tăng doanh số bán hàng. 1.1.4 Vai trò của TSLĐ TSLĐ có vai trò quan trọng trong doanh nghiệp nói chung, trong hệ thống tài sản nói riêng. TSLĐ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản. Tiền mặt, chứng khoán thanh khoản cao giúp cho hoạt động luân chuyển tiền của doanh nghiệp được thông suốt, đặc biệt đóng vai trò quan trọng để nâng cao khả năng thanh toán cho doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp có được vị thế tốt với ngân hàng và với đối tác. Dự trữ, tồn kho cũng đóng góp vai trò to lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguyên vật liệu đầu vào quyết định nhiều tới chất lượng sản phẩm. Việc dự trữ cũng giúp cho quá trình sản xuất được liên tục, doanh nghiệp hoạt động đều đặn, không bị gián đoạn. Và các khoản phải thu cũng chiếm một phần không nhỏ trong tổng tài sản của doanh nghiệp. TSLĐ là những tài sản ngắn hạn, tuy nhiên lại rất quan trọng, nó ảnh hưởng tới sự tồn tại của doanh nghiệp. Có nhiều yếu tố quyết định tới thất bại của doanh nghiệp, nhưng cũng phải thấy rằng sự bất lực của một số công ty trong việc hoạch định và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại TSLĐ và các khoản nợ ngắn hạn hầu như là nguyên nhân dẫn đến thất bại cuối cùng của họ. 1.2 Hiệu quả sử dụng TSLĐ trong doanh nghiệp 1.2.1 Khái niệm về hiệu quả sử dụng TSLĐ Có nhiều quan điểm về hiệu quả sử dụng TSLĐ, ở đây chúng ta đề cập khái niệm này trên quan điểm nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ- tức là làm thế nào để chi phí bỏ ra một lượng tài sản thấp nhất, mà thu được về lợi nhuận lớn nhất.
- Tính hiệu quả được đặt lên hàng đầu đối với mỗi doanh nghiệp. Nếu hoạt động không hiệu quả, doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại được. Chỉ khi hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả, thì doanh nghiệp mới trang trải được chi phí đã bỏ ra, đóng các khoản phí, thuế theo nghĩa vụ, và quan trọng nhất là tạo ra lợi nhuận, duy trì hoạt động và phát triển doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế là kết quả tổng hợp của một loạt các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của các yếu tố bộ phận có liên quan. Trong đó, hiệu quả sử dụng TSLĐ gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp phải luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ. Hiệu quả sử dụng TSLĐ có vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, bởi khác với tài sản cố định, TSLĐ cần các biện pháp linh hoạt, kịp thời phù hợp với từng thời điểm thì mới đem lại hiệu quả cao nhất. Hiệu quả sử dụng TSLĐ là một trong những căn cứ để đánh giá năng lực sản xuất, chính sách dự trữ, tiêu thụ sản phẩm, và nó còn ảnh hưởng lớn tới kết quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp. Mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Để làm được điều đó, thì doanh nghiệp cần phải quản lý sử dụng TSLĐ một cách hiệu quả nhất. Bởi việc quản lý TSLĐ không những đảm bảo cho việc sử dụng TSLĐ hợp lý, tiết kiệm mà còn có ý nghĩa đối với việc hạ thấp chi phí sản xuất, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm và thu tiền bán hàng, từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Có thể hiểu tóm tắt, hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác và quản lý TSLĐ của doanh nghiệp, đảm bảo lợi nhuận tối đa với số lượng TSLĐ sử dụng ở mức chi phí thấp nhất. 1.2.2 Ý nghĩa của việc phân tích hiệu quả sử dụng TSLĐ Để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải có một lượng tài sản nhất định và nguồn tài trợ tương ứng, không có tài sản sẽ không thể có hoạt động sản xuất được. Nhưng việc sử dụng tài sản như thế nào cho có hiệu quả nhất mới là nhân tố quyết định sự tồn tại, tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp. Do đó, việc sử dụng, quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản nói chung, TSLĐ nói riêng
- trở thành nội dung rất quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Quan niệm về tính hiệu quả của việc sử dụng TSLĐ nên được hiểu theo hai khía cạnh: + Thứ nhất, với số tài sản doanh nghiệp có thì có thể sản xuất thêm một số lượng sản phẩm với chất lượng tốt, giá thành hạ để tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp. + Thứ hai, đầu tư thêm tài sản một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất để tăng doanh thu với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng doanh thu phải lớn hơn tốc độ tăng tài sản. Hai khía cạnh này chính là yêu cầu, mục tiêu cần đạt được trong việc quản lý tài sản nói chung, TSLĐ nói riêng. Trước đây, trong nền kinh tế bao cấp, mọi nhu cầu về vốn, tài sản phục vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều được Nhà nước cấp phát hoặc cấp tín dụng ưu đãi, vì thế các doanh nghiệp không đặt nặng vấn đề sử dụng tài sản cho hiệu quả. Ngay cả trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn tồn tại thực trạng đó, và nhìn chung ngay đối với các doanh nghiệp phải tự tìm nguồn vốn cho hoạt động của mình thì hiệu quả sử dụng tài sản nói chung, TSLĐ nói riêng không cao. Lý do chủ yếu ở sự chậm học hỏi, chưa nắm bắt được xu thế chung của các doanh nghiệp và cả một số bất cập trong việc quản lý, sử dụng tài sản, TSLĐ. Lợi ích kinh doanh, cạnh tranh trên thị trường ngày càng đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng một cách hợp lý tài sản của mình, đặc biệt là TSLĐ, sao cho TSLĐ được thu hồi sau mỗi chu kỳ sản xuất. Việc tăng tốc độ luân chuyển TSLĐ cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của vốn, nhờ đó, vốn được thu hồi nhanh hơn, từ đó có thể giảm bớt được số TSLĐ mà vẫn hoàn thành được số lượng sản phẩm định mức và có thể lớn hơn. Vì thế nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thông và hạ giá thành sản phẩm. Hơn nữa, một trong những mục tiêu của doanh nghiệp đó là bảo toàn được TSLĐ. Do TSLĐ chuyển toàn bộ một lần giá trị vào sản phẩm và hình thái TSLĐ thường xuyên biến đổi, vì vậy việc bảo toàn TSLĐ chỉ xét trên phương diện giá trị. Bảo toàn TSLĐ thực chất là làm sao cho số vốn cuối kỳ đủ mua một lượng vật tư,
- hàng hóa bằng với đầu kỳ khi giá cả hàng hóa tăng lên, thể hiện ở khả năng mua sắm vật tư cho khâu dự trữ và TSLĐ định mức nói chung. Bên cạnh đó, việc tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ còn giúp cho doanh nghiệp luôn có trình độ sản xuất kinh doanh phát triển, trang thiết bị được cải tiến. Từ đó sẽ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, khi sử dụng hiệu quả TSLĐ, nhất là sử dụng tiết kiệm TSLĐ trong hoạt động sản xuất thì sẽ giảm bớt nhu cầu vay vốn, giảm chi phí lãi vay cho doanh nghiệp. Từ những điều trên, ta thấy việc phân tích hiệu quả sử dụng TSLĐ là hết sức quan trọng. Hoạt động này cần được tiến hành định kỳ ở doanh nghiệp để từ đó có nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ, đưa doanh nghiệp tiến tới thành công. 1.2.3 Một số phương pháp quản lý TSLĐ 1.2.3.1 Quản lý tiền mặt, chứng khoán thanh khoản cao Quản lý tiền mặt đề cập đến việc quản lý tiền giấy và tiền gửi ngân hàng và các loại tài sản có tính lỏng cao. Sự quản lý này liên quan chặt chẽ đến việc quản lý các loại tài sản gắn liền với tiền mặt như các loại chứng khoán có khả năng thanh khoản cao. Chứng khoán thanh khoản cao cũng gần giống như tiền mặt, nó được coi là “bước đệm” cho tiền mặt. Khi doanh nghiệp dư tiền mặt thì có thể đầu tư vào chứng khoán có độ thanh khoản cao, và khi cần thiết có thể bán đi một cách dễ dàng với chi phí thấp để tài trợ cho nhu cầu về tiền mặt. Chứng khoán thanh khoản cao có hiệu suất sinh lời, đó là lợi thế so với tiền mặt- tiền mặt không thể sinh lãi nếu cứ để trong két. Vì thế, nhà quản trị tài chính cần biết cân bằng giữa tiền mặt và chứng khoán thanh khoản cao ở mức hợp lý và có lợi cho doanh nghiệp nhất. Sơ đồ luân chuyển tiền mặt: Các chứng khoán thanh khoản cao Đầu tư Bán những tạm thời chứng bằng cách khoán có mua tính thanh chứng khoản cao khoán có để bổ sung tính thanh cho tiền khoản mặt
- Dòng thu tiền Tiền Dòng chi mặt mặt tiền mặt Tro Trong kinh doanh, doanh nghiệp cần một lượng tiền mặt và phải dùng nó để trả cho các hóa đơn thường ngày, cho các khoản đột xuất. Khi lượng tiền mặt hết, doanh nghiệp sẽ bán các chứng khoán có độ thanh khoản cao để có lượng tiền mặt cần thiết. Chi phí cho việc giữ tiền mặt chính là chi phí cơ hội, là lãi suất mà doanh nghiệp bị mất nếu đem gửi ngân hàng. Chi phí đặt hàng là chi phí cho việc bán các chứng khoán. Tùy theo đặc điểm từng doanh nghiệp, các nhà quản lý tài chính có thể đưa ra các quyết định giữ tiền mặt khác nhau. Áp dụng mô hình EOQ ( Economic Odering Quantity), ta có lượng dự trữ tiền mặt tối ưu M* ( người ta gọi đây là mô hình Baumol): 2* M n*Cb M*= i Trong đó: Mn : là tổng mức tiền mặt giải ngân hàng năm Cb : là chi phí cho một lần bán chứng khoán thanh khoản Theo mô hình này, nếu lãi suất càng cao thì người ta càng giữ ít tiền mặt và ngược lại, nếu chi phí cho việc bán chứng khoán càng cao thì họ lại càng giữ nhiều tiền mặt hơn. Mô hình Baumol sẽ đem lại hiệu quả tốt nếu doanh nghiệp thực hiện dự trữ một cách đều đặn. Tuy nhiên, thực tế lượng tiền mặt có ở các doanh nghiệp thường xuyên không ổn định và cũng khó dự đoán trước được. Do đó các nhà quản lý kinh tế đã nghĩ ra một mô hình mới thực tế hơn, nó xét đến khả năng lượng tiền vào ra của ngân quỹ. Mô hình này có tên là Merton Miller & Daniel Orr. Theo mô hình này, mức
- dự trữ tiền mặt dự kiến sẽ dao động trong một khoảng- gọi là khoảng dao động của lượng tiền mặt. Khoảng dao động này phụ thuộc vào một số yếu tố sau: + Mức dao động của thu chi ngân quỹ hàng ngày lớn hay nhỏ. Sự dao động của thu chi ngân quỹ thực tế càng khác biệt so với mức bình quân thì khoảng dao động tiền mặt của doanh nghiệp càng cao. + Chi phí cố định của việc mua bán chứng khoán. Nếu chi phí cho việc mua bán chứng khoán cao, doanh nghiệp sẽ có xu hướng giữ tiền mặt nhiều hơn, và khoảng dao động của tiền mặt vì thế cũng lớn. + Lãi suất càng cao, các doanh nghiệp sẽ giữ lại ít tiền, dành nhiều tiền hơn cho việc đầu tư sinh lời và khoảng dao động tiền mặt sẽ giảm xuống. Công thức tính khoảng dao động tiền mặt: 3 Cb *Vb 1/3 d= 3 ( * ) 4 i Trong đó: d: là khoảng cách của giới hạn trên và giới hạn dưới của lượng tiền mặt dự trữ Cb: là chi phí mỗi lần giao dịch mua bán chứng khoán Vb là phương sai của thu chi ngân quỹ, i: lãi suất Mức tiền mặt theo thiết kế được xác định: Mức tiền mặt theo thiết kế= Mức tiền mặt giới hạn dưới + Khoảng dao động tiền mặt/3 Ta có thể khái quát lượng tiền mặt dự trữ qua đồ thị sau: Lượng tiền mặt (đơn vị) Giới hạn trên Mức tiền mặt theo thiết kế Giới hạn dưới
- Thời gian Theo mô hình, doanh nghiệp sẽ xác định mức giới hạn trên và giới hạn dưới của tiền mặt, khi lượng tiền mặt vượt qua các giới hạn đó- doanh nghiệp bắt đầu tiến hành mua hoặc bán chứng khoán thanh khoản cao để cân đối mức tiền mặt dự kiến. Khi lượng tiền mặt tăng trên giới hạn trên thì doanh nghiệp sẽ chuyển tiền sang chứng khoán thanh khoản cao, số tiền dùng mua là số tiền vượt quá mức giới hạn trên. Khi lượng tiền mặt giảm xuống dưới giới hạn dưới, thì doanh nghiệp cần phải bán chứng khoán một lượng sao cho số tiền thu về giúp dự trữ tiền mặt của doanh nghiệp ở mức giới hạn dưới. Với mô hình này, rất nhiều doanh nghiệp đã áp dụng. Tiền mặt thường được lấy là mức tiền mặt tối thiểu, còn phương sai của thu chi ngân quỹ được xác định dựa vào thực tế quý trước đó. Dựa vào mô hình này, nếu dòng tiền vào ra dự đoán được, thì doanh nghiệp sẽ chỉ cần một lượng ít tiền mặt, còn lại sẽ đầu tư vào chứng khoán, kiếm lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mức tiền mặt luôn được duy trì như thiết kế ban đầu thì doanh nghiệp sẽ tối thiểu hóa được chi phí giao dịch và chi phí do lãi suất. Tuy nhiên, trong một số trường hợp doanh nghiệp cần lượng tiền mặt lớn trong thời gian ngắn, thì việc bán chứng khoán có tính thanh khoản cao sẽ không có lợi bằng việc đi vay. Do đó doanh nghiệp cần cân nhắc lợi ích giữa việc giữ tiền mặt, mua bán chứng khoán hay có khi là cả đi vay để đem lại lợi ích tốt nhất cho chính doanh nghiệp mình. 1.2.3.2 Quản lý dự trữ, tồn kho Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, dự trữ là yếu tố quyết định cho việc sản xuất ổn định hay không. Do vậy việc quản lý dự trữ, tồn kho đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ. Quản lý hàng tồn kho đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phận như bộ phận bán hàng, marketing, tài chính, sản xuất. Mục tiêu của quản lý hàng tồn kho là đảm bảo lượng hàng tồn kho cần thiết để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường với chi phí thấp nhất. Nếu các doanh nghiệp có mức tồn kho quá lớn, sẽ làm phát sinh thêm các chi phí như: chi phí
- lưu kho, chi phí bảo quản, ….. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng không thể sử dụng số vốn này cho hoạt động kinh doanh khác và làm tăng cơ hội cho số vốn này. Để tối thiểu hóa chi phí tồn kho, dự trữ, doanh nghiệp cần phải xác định lượng hàng hóa, vật tư tối ưu cho mỗi lần đặt hàng, đồng thời cũng phải có các biện pháp quản lý nguyên vật liệu hữu hiệu để không bị mất mát, hư hỏng. Có nhiều cách để xác định mức dự trữ tối ưu. Nhìn chung, quản lý dự trữ, tồn kho có hai phương pháp phổ biến và hiệu quả nhất: 1.2.3.2.1 Quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng hiệu quả nhất- EOQ ( Economic Odering Quantity) Giả thuyết của mô hình là những lần cung cấp hàng hóa bằng nhau. Khi doanh nghiệp tiến hành dự trữ hàng hóa sẽ kéo theo hàng loạt các chi phí như chi phí bốc xếp hàng, chi phí bảo quản, chi phí đặt hàng, chi phí bảo hiểm ... Nhìn chung có thể tóm lại thành hai loại chi phí chính: + Chi phí lưu kho (chi phí tồn trữ) Đây là loại chi phí liên quan đến việc tồn trữ hàng hóa, bao gồm: Chi phí hoạt động như chi phí bốc xếp hàng hóa, chi phí bảo hiểm hàng hóa, chi phí giảm giá trị hàng hóa, Chi phí tài chính gồm chi phí sử dụng vốn như trả tiền lãi vay, chi phí về thuế, khấu hao. Gọi Q là số lượng mỗi lần cung ứng hàng hóa, thì Q/2 là dự trữ trung bình. Gọi C1 là chi phí lưu kho đơn vị hàng hóa thì: Tổng chi phí lưu kho của doanh nghiệp = C1*Q/2 Nếu lượng hàng mỗi lần tăng lên thì chi phí lưu kho sẽ tăng. + Chi phí đặt hàng (chi phí hợp đồng) Chi phí đặt hàng bao gồm chi phí quản lý các giao dịch, và chi phí vận chuyển hàng hóa.
- Nếu gọi D là toàn bộ lượng hàng cần sử dụng trong một đơn vị thời gian (năm, quý, D tháng) thì số lượng lần cung ứng hàng hóa là . Gọi C2 là chi phí mỗi lần đặt hàng Q thì: D Tổng chi phí đặt hàng = C2* Q Tổng chi phí đặt hàng tăng lên nếu số lượng mỗi lần cung ứng giảm. Gọi TC là tổng chi phí tồn trữ hàng hóa, ta có: Q D TC= C1* + C2* 2 Q 2DC2 -> Q*= C1 Vậy khối lượng hàng cung ứng mỗi lần là Q* thì tổng chi phí dự trữ là thấp nhất. Khi xác định mức tồn kho dự trữ, doanh nghiệp nên xem xét sự ảnh hưởng của các nhân tố. Tùy từng loại tồn kho mà các nhân tố ảnh hưởng khác nhau. Đối với nguyên vật liệu, nhiên liệu thì phụ thuộc vào: khả năng sẵn sàng cung ứng của thị trường, chu kỳ giao hàng theo hợp đồng của doanh nghiệp và người bán, quy mô sản xuất và nhu cầu dữ trữ của doanh nghiệp, thời gian vận chuyển từ nơi cung ứng tới doanh nghiệp, giá cả nguyên vật liệu. Tồn kho, dự trữ loại bán thành phẩm, sản phẩm dở dang thì phụ thuộc vào: đặc điểm, yêu cầu trong việc sản xuất sản phẩm; độ dài thời gian chu kỳ sản xuất, trình độ tổ chức sản xuất. Tồn kho, dự trữ loại thành phẩm thì phụ thuộc vào: sự phối hợp giữa các khâu sản xuất, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với khách hàng, khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường của doanh nghiệp. * Điểm đặt hàng mới: Ta đã xác định được lượng hàng cần đặt mỗi lần để chi phí dự trữ là thấp nhất, và giờ cần xác định thời điểm đặt hàng. Về mặt lý thuyết, khi nào lượng hàng trong
- kho hết thì mới nhập hàng mới về. Tuy nhiên, nếu làm như vậy sẽ tạo ra sự ngưng trệ trong sản xuất. Vì vậy cần xác định điểm đặt hàng sao cho hợp lý, tránh xảy ra tình trạng trì hoãn sản xuất vì thiếu nguyên vật liệu, cũng không nên đặt hàng quá sớm làm tăng chi phí dự trữ. Thời điểm đặt hàng mới được xác định bằng số lượng nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày nhân với độ dài thời gian giao hàng. * Lượng dự trữ an toàn: Do nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là số cố định mà chúng biến động không ngừng, đặc biệt là với doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ. Để đảm bảo cho việc liên tục của sản xuất, cần có một lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn. Lượng dự trữ an toàn là lượng hàng hóa dự trữ thêm vào lượng dự trữ tại thời điểm đặt hàng. Lượng dự trữ an toàn không phải là một con số cố định, nó phụ thuộc vào từng doanh nghiệp, từng loại hình sản xuất kinh doanh cũng như từng thời điểm cụ thể. 1.2.3.2.2 Phương pháp cung cấp đúng lúc hay dự trữ bằng 0. Theo phương pháp này, các doanh nghiệp trong một số ngành nghề có liên quan chặt chẽ với nhau hình thành nên những mối quan hệ, khi có một đơn đặt hàng nào đó họ sẽ tiến hành “hút” những loại hàng hóa và sản phẩm dở dang của các đơn hàng khác mà họ không cần phải dự trữ. Phương pháp này làm giảm thiểu chi phí ở mức thấp nhất cho dự trữ. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ sử dụng cho việc dự trữ một số loại nào đó của doanh nghiệp và đặc biệt cần phải có sự kết hợp chặt chẽ với đơn vị cung cấp các nguồn hàng. Ưu việt của phương pháp này chính là chi phí dự trữ không đáng kể, nó đã được hãng Toyota của Nhật Bản áp dụng vào những năm ba mươi của thế kỉ 20, nhưng dù sao phương pháp này vẫn không được áp dụng một cách phổ biến do yêu cầu đòi hỏi phải có sự liên kết của nhiều doanh nghiệp khác nhau. 1.2.3.3 Quản lý các khoản phải thu Quản trị khoản phải thu tốt tức là hạn chế ở mức tối thiểu lượng TSLĐ bị chiếm dụng; từ đó làm giảm số ngày của chu kỳ thu tiền bình quân; thúc đẩy vòng tuần hoàn của TSLĐ; giảm chi phí quản lý nợ, chi phí thu hồi nợ, …Các khoản phải thu
- được quản lý một cách năng động để đảm bảo rằng chính sách về các khoản phải thu của doanh nghiệp đạt hiệu quả. Để quản lý khoản phải thu, trước hết phải nghiên cứu về tín dụng thương mại. 1.2.3.3.1 Chính sách tín dụng thương mại Một số điểm cơ bản về chính sách tín dụng thương mại: + Tín dụng thương mại tác động đến doanh thu bán hàng. Nếu tín dụng thương mại cho phép khách hàng trả tiền chậm, sẽ có nhiều người mua hàng hơn, doanh thu tăng, nhưng tiền vào doanh nghiệp bị chậm, do đó doanh nghiệp sẽ quy định giá cao hơn. + Tín dụng thương mại làm giảm chi phí tồn kho của hàng hóa do bán được nhiều hàng. + Tín dụng thương mại làm cho tài sản cố định được sử dụng có hiệu quả hơn, hạn chế được sự hao mòn vô hình. + Tuy nhiên, khi cấp tín dụng cho khách hàng, có thể sẽ làm tăng chi phí trong hoạt động của doanh nghiệp. + Ngay cả chi phí đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài trợ để bù đắp thiếu hụt về ngân quỹ cũng tăng. Khi thời hạn cấp tín dụng càng dài, chi phí càng lớn. Rủi ro cũng tăng lên khi doanh nghiệp cấp tín dụng thương mại cho khách hàng càng dài. Với những đặc điểm nêu trên của tín dụng thương mại, doanh nghiệp cần phải so sánh giữa thu nhập và chi phí tăng thêm, để đưa ra quyết định về tín dụng thương mại cho khách hàng. Muốn vậy, cần phải đi sâu vào việc phân tích tín dụng thương mại. 1.2.3.3.2 Phân tích tín dụng thương mại * Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng Để có thể thực hiện việc cấp tín dụng cho khách hàng, thì việc đầu tiên và quan trọng nhất là phải phân tích khả năng tín dụng của khách hàng. Đầu tiên, doanh nghiệp phải xây dựng tiêu chuẩn tín dụng hợp lý, sau đó đi đánh giá phẩm chất tín
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luân văn; " nâng cao hiệu quả công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại Công ty Sông Đà I "
67 p | 1142 | 617
-
Luận văn: Nâng cao hiệu quả Thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TMCP Á Châu
88 p | 483 | 188
-
Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động tại công ty TNHH Thương mại VIC
88 p | 629 | 93
-
Luận văn: "Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động tại Công ty Quy Chế Từ Sơn "
66 p | 315 | 71
-
Luận văn: "Nâng cao hiệu quả sử dụng người lao động của công ty điện thoại Hà Nội"
58 p | 177 | 69
-
Luận văn: Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An
94 p | 203 | 68
-
Luận văn: "Nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn của Công ty Điện lực Ba Đình"
50 p | 200 | 64
-
LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo&PTNT huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây
65 p | 172 | 53
-
LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả hoạt động đại lý Bảo Hiểm Nhân Thọ ở Việt Nam hiện nay
31 p | 329 | 52
-
Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động ở công ty đay Thái Bình
0 p | 186 | 48
-
Luận văn: NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA HUYỆN PHỔ YÊN
0 p | 160 | 43
-
LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả nhập khẩu hàng hóa tại Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất và thương mại Viễn Đông
66 p | 207 | 38
-
Luận văn Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các khu công nghiệp tập trung Hà Nội
27 p | 211 | 33
-
Luận văn: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển tiền điện tử tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội
64 p | 176 | 32
-
Luận văn "Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động ở công ty đay Thái Bình "
38 p | 137 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại công ty cổ phần tư vấn đầu tư xây dựng An Bình
25 p | 152 | 19
-
LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế sau thời kỳ mở cửa
22 p | 92 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay của Quỹ đầu tư phát triển Tây Ninh
115 p | 8 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn