LUẬN VĂN: Ngân sách phường của thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới
lượt xem 5
download
Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp phường) là cấp chính quyền cơ sở trong tổ chức hành chính 4 cấp của nước ta, “là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống” [17, tr.166]. Chức năng, nhiệm vụ của phường gắn trực tiếp với việc thực hiện mục tiêu xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; là nơi chính quyền trực tiếp tiếp xúc và giải quyết các mối quan hệ phát sinh ban đầu của Nhà nước với dân; thực hiện mọi nguyện vọng, phản ánh mọi tâm tư,...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Ngân sách phường của thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới
- LUẬN VĂN: Ngân sách phường của thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới
- mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp phường) là cấp chính quyền cơ sở trong tổ chức hành chính 4 cấp của nước ta, “là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống” [17, tr.166]. Chức năng, nhiệm vụ của phường gắn trực tiếp với việc thực hiện mục tiêu xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; là nơi chính quyền trực tiếp tiếp xúc và giải quyết các mối quan hệ phát sinh ban đầu của Nhà nước với dân; thực hiện mọi nguyện vọng, phản ánh mọi tâm tư, tình cảm cũng như những yêu cầu của dân đến Đảng và Nhà nước. Để thực hiện được những chức năng, nhiệm vụ đó, chính quyền cấp phường phải có nguồn ngân sách được hình thành từ nguồn cân đối ngân sách cấp phường để đảm bảo nhu cầu chi tiêu theo những nguyên tắc ổn định, bền vững. Với nguồn ngân sách ổn định, hoạt động thu, chi tốt sẽ góp phần thực hiện những mục tiêu phát triển KT-XH do Đảng và Nhà nước đề ra. NSP là một bộ phận cấu thành của NSNN, thông qua thu ngân sách, chính quyền cấp phường vừa thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất-kinh doanh, dịch vụ, chống các hành vi hoạt động kinh tế phi pháp, trốn lậu thuế và các nghĩa vụ đóng góp khác, vừa thực hiện việc điều tiết các hoạt động kinh tế trên địa bàn phường theo những mục tiêu chung. Thu NSP còn là nguồn chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu ở địa phương, bao gồm chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển. Là Thủ đô-trung tâm kinh tế tài chính lớn của cả nước, Hà Nội có mức động viên vào NSNN lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu ngân sách cả n ước. Trong 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, thu ngân sách trên địa bàn thành phố tăng nhanh về lượng và rất đa dạng về nguồn thu. Trong tổng thu N SNN trên địa bàn thì nguồn thu ở cấp phường mặc dù chiếm tỷ trọng không lớn nhưng có vai trò quan trọng giúp bảo đảm cơ bản nguồn tài chính của phường, góp phần ổn định tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở địa phương.
- Với phương châm hướng về cơ sở, nhiều năm qua chính quyền thành phố luôn quan tâm đến mọi hoạt động trên địa bàn phường, nhất là hoạt động tài chính của phường, đặc biệt là công tác thu, chi ngân sách, để thống nhất quản lý các nguồn thu, chi, bảo đảm công khai, minh bạch, tập trung và dân chủ. Nhờ vậy, hoạt động tài chính của phường nói chung, công tác thu, chi ngân sách nói riêng đã đạt được những kết quả nhất định, số thu tương đối tập trung, đã cơ bản thu đúng, thu đủ và thu kịp thời các nguồn thu vào NSNN; cơ bản giải quyết được các mâu thuẫn giữa nhu cầu chi và khả năng thu của phường, dần loại bỏ tình trạng thâm hụt ngân sách… Tuy vậy, trong những năm qua, hoạt động thu ngân sách trên địa bàn phường nhìn chung vẫn còn thất thoát nhiều, một số nguồn thu chưa tập trung đầy đủ vào NSNN, ngược lại, có một số nguồn thu không đúng quy định của Luật NSNN; một số hoạt động chi chưa công khai, minh bạch; đã xuất hiện nhiều sự việc, hiện tượng tiêu cực, gây bức xúc, phiền hà cho người dân địa phương, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước. Trong điều kiện nền kinh tế còn chậm phát triển, NSNN còn hạn hẹp, việc tập trung đầy đủ và kịp thời các nguồn thu của NSP trên địa bàn thành phố luôn là nhiệm vụ quan trọng nhằm góp phần tăng NSP, giảm trợ cấp từ ngân sách cấp trên, dần bảo đảm cân đối thu, chi, phát huy vai trò tích cực của NSP trên địa bàn Hà Nội. Điều đó đòi hỏi phải có sự thống kê, phân tích đánh giá một cách khách quan, chi tiết và đầy đủ về các nguồn thu, chi NSP của Hà Nội để tìm ra những giải pháp hữu hiệu góp phần tăng nguồn thu cho NSP, bảo đảm chi ngân sách công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả KT-XH của NSP, tạo niềm tin cho người dân địa phương về chính quyền sở tại, về đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Từ những phân tích trên, tôi chọn đề tài luận văn thạc sĩ “Ngân sách phường của thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới” với mong muốn góp phần giải quyết những tồn tại, vướng mắc trên. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kể từ khi Quốc hội khoá IX thông qua Luật NSNN (1996), Quốc hội khoá XI thông qua Luật NSNN sửa đổi (tháng 12/2002) và chính thức có hiệu lực vào tháng 5/2004,
- đã có một số công trình nghiên cứu cụ thể về ngân sách cấp xã, phường, thị trấn đã được công bố: - Quản lý ngân sách cấp xã trên địa bàn tỉnh KonTum, Luận văn thạc sỹ, Đào Xuân Quý, Hà Nội, 2000. - Ngân sách xã ở 11 huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá - Thực trạng và giải pháp, Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị, Bùi Trung Anh, 2002. - Thu chi ngân sách xã ở tỉnh Nam Định- Thực trạng và giải pháp, Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị, Trần Thị Thuý, 2004. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều tập trung đi sâu làm rõ thực trạng, cách thức quản lý ngân sách ở cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) trên bình diện một địa phương. Hiện chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và cụ thể về công tác thu, chi cũng như đánh giá được hiệu quản sử dụng ngân sách cấp phường trên địa bàn thành phố Hà Nội từ góc độ kinh tế chính trị học. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: Đánh giá thực trạng tình hình thu, chi NSP của thành phố Hà Nội, những tác động tới đời sống chính trị-kinh tế -văn hoá-xã hội của địa phương và kiến nghị một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng NSP với việc ổn định và phát triển KT-XH ở địa phương. * Nhiệm vụ: Luận văn có 3 nhiệm vụ cụ thể sau: - Làm rõ thực trạng thu, chi NSP của Thủ đô trong thời kỳ đổi mới. - Những tác động của hoạt động thu, chi NSP tới đời sống chính trị-KT-XH của địa phương. - Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng NSP trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn * Đối tượng: Luận văn nghiên cứu chủ yếu về thu, chi các khoản do NSP được hưởng 100% trên địa bàn cấp phường.
- * Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu NSP trên địa bàn các quận nội thành, số liệu phân tích chủ yếu của hai quận: Cầu Giấy và Thanh Xuân, trong thời kỳ từ năm 2004-2006 (là thời kỳ ổn định ngân sách kể từ khi Luật NSNN năm 2002 có hiệu lực). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên các quan điểm của kinh tế chính trị Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong thời kỳ đổi mới. * Phương pháp nghiên cứu: Ngoài các phương pháp chung của kinh tế chính trị học, luận văn sử dụng các phương pháp khác như: so sánh, khảo sát thực tế, phỏng vấn chuyên gia. 6. Những đóng góp chính của luận văn - Đánh giá đúng thực chất vai trò của NSP của thành phố Hà Nội. - Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo thu, chi NSP trên địa bàn Hà Nội đúng, đủ, kịp thời, công khai, minh bạch góp phần ổn định tình hình kinh tế-chính trị-xã hội của Thủ đô. 7. ý nghĩa của luận văn Những kết quả của luận văn sẽ góp phần làm cơ sở cho việc xây dựng dự toán NSP ở thành phố Hà Nội. Đồng thời, có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho một số sở, ngành, quận của Hà Nội trong việc quản lý các nguồn thu, chi NSP. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
- Chương 1 Những vấn đề cơ bản về ngân sách phường 1.1. quá trình hình thành Ngân sách phường 1.1.1. Lịch sử hình thành ngân sách phường Khái niệm về “phường” đã xuất hiện từ những năm đầu của thế kỷ XI, đây là tổ chức có những quy ước và tập tục riêng của cộng đồng dân cư trong phường. Tuy phường có sự tồn tại và phát triển lâu đời, nhưng phải đến năm 1980, trong điều 113, Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, thì cấp phường mới được coi là một cấp chính quyền độc lập. Theo đó, phường là đơn vị hành chính nhỏ nhất ở đô thị, là cấp chính quyền hoàn chỉnh được tổ chức ở các thành phố, thị xã ở nước ta. Quyết định số 94/HĐBT ngày 26-9- 1981 của Hội đồng Bộ trưởng đã quyết định: Phường là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị tổ chức theo khu vực dân cư ở đường phố, có khoảng 7000-12.000 dân. Chức năng chủ yếu của bộ máy chính quyền cấp phường là quản lý hành chính Nhà nước, quản lý xã hội và chăm lo phục vụ đời sống dân cư. Cũng như các đơn vị hành chính khác, phường cũng có những chức năng, nhiệm vụ như: tổ chức bộ máy, công tác chuyên môn thông qua việc sử dụng các phương tiện vật chất, công cụ tài chính… trong đó, NSP là một yếu tố quan trọng để phục vụ chính quyền cấp phường hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Ban đầu, khi chưa được coi là một cấp hành chính độc lập, phường thành lập một quỹ riêng nhằm phục vụ việc chung, vì phường được thành lập với ý nghĩa là phường hội, chứ chưa phải là một đơn vị hành chính độc lập , do vậy, quỹ đó được dùng để giải quyết những việc có liên quan đến đời sống, sinh hoạt, sản xuất của nhân dân trong phường, đồng thời, thực hiện quan hệ với các cộng đồng khác và với chính quyền nhà nước. Ngay khi đơn vị hành chính phường được thành lập, cùng với việc xây dựng và củng cố chính quyền cấp phường, vấn đề NSP được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, nhờ đó, NSP trở thành công cụ, phương tiện vật chất bằng tiền có tác dụng to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước. NSP được thành lập đã đáp ứng nhu cầu vật chất, giúp
- củng cố chính quyền, đồng thời chấn chỉnh công tác tài chính ở phường, tránh việc huy động tuỳ tiện và sử dụng lãng phí tài sản của nhân dân. Tuy nhiên, trước năm 1983, do chưa có cấp ngân sách quận nên NSP hoạt động theo những quy định của “Điều lệ ngân sách xã ” được Hội đồng Chính phủ ban hành tại Nghị định 64/CP ngày 08-4-1972 của Bộ Tài Chính, Thông tư số 14-TC/TDT về hướng dẫn thi hành Điều lệ ngân sách xã, Quy định số 13-TC/TDT ban hành chế độ kế toán ngân sách xã. Vì mới được công nhận là một cấp hành chính độc lập, nên NSP đã hoạt động dựa vào các văn bản trên. Những văn bản này giúp hoàn thiện chế độ quản lý NSP theo một luật lệ thống nhất, NSP thực sự trở thành công cụ huy động tài lực, vật lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Mặc dù vậy, trong giai đoạn đầu này, NSP chưa phát huy hết được những tác dụng, vai trò của mình, chưa phát huy đầy đủ tính chủ động, sáng tạo của địa phương trong quản lý tài chính và ngân sách. Trước yêu cầu cải cách nền kinh tế kế hoạch hoá, quản lý kinh tế để khắc phục tình trạng tập trung, quan liêu, bao cấp và phân tán, tuỳ tiện trong cơ chế quản lý ngân sách hiện hành, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị quyết số 138-HĐBT, ngày 19-11-1983 về cải tiến chế độ phân cấp quản lý ngân sách cho địa phương, tổ chức quản lý và cơ cấu NSĐP bao gồm 3 cấp: ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp quận (huyện), ngân sách cấp phường (xã, thị trấn). NSP là một bộ phận cấu thành ngân sách quận, ngân sách quận là một bộ phận cấu thành ngân sách thành phố. Toàn bộ NSĐP là một bộ phận của NSNN. Như vậy, trước đây, NSP nằm ngoài NSNN, nay được tổng hợp vào NSNN. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của NSP và cần có thời gian để tổ chức lại công tác kế toán, việc đưa NSP vào hệ thống NSNN phải tiến hành từng bước. Trước mắt, đưa vào dự toán và quyết toán NSNN các khoản thu, chi của NSP theo đúng chế độ, chính sách nhà nước quy định. Đối với cấp phường, mặc dù Nghị quyết trên đã xác định NSP là một cấp ngân sách nằm trong hệ thống 4 cấp NSNN, nhưng thực tế NSP vẫn được quản lý bằng phương thức gán thu bù chi, trợ cấp chênh lệch, trong đó, chỉ có số trợ cấp chênh lệch được ghi vào chi khác của NSĐP, để tổng hợp vào NSNN, còn số thu, chi của NSP thì tổng hợp vào một kênh riêng báo cáo về Bộ Tài chính. Từ sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), đất nước ta bước vào thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đặc
- biệt trong lĩnh vực kinh tế; với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật”, tại Đại hội này, Đảng ta thống nhất lãnh đạo nền kinh tế đất nước chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Trung ương định lại chế độ phân cấp quản lý thu, chi ngân sách cho phù hợp trên cơ sở khuyến khích đúng mức để phát triển nhanh nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế, chống thất thu. Mặt khác, phải căn cứ vào nguồn thu mà bố trí chi, không chi vượt quá thu ngân sách, triệt để tiết kiệm chi tiêu về mọi mặt và Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị quyết số 186/HĐBT ngày 27-11-1989 về phân cấp quản lý ngân sách cho địa phương. Việc ra đời Nghị quyết này đã nhấn mạnh phạm vi, trách nhiệm và quyền hạn của chính quyền Nhà nước các cấp trong việc quản lý ngân sách, phân phối, sử dụng công bằng, hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả cao, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT-XH của đất nước. Trong nghị quyết này, ngoài những nội dung Trung ương quy định để lại 100% cho NSP, quy định những khoản thu cố định dành chung cho toàn bộ các địa phương như: thuế nhà đất, thuế môn bài, thuế trước bạ, thuế sát sinh; còn quy định đối với UBND tỉnh, thành phố cần quy định tỷ lệ điều tiết số thu về thuế công thương nghiệp cho NSP trong phạm vi được hưởng của NSĐP. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều phường chưa tổ chức khai thác hết tiềm năng sẵn có, còn buông lỏng các nguồn thu được giao, để thất thu lớn về thuế, lệ phí trên địa bàn phường. Còn khá nhiều khoản chi tiêu ở phường chưa hợp lý, chưa chấm dứt được hiện tượng “bổ bán chi” cho dân chịu, việc làm này đã ảnh hưởng tới việc khai thác nguồn thu trên địa bàn phường; vẫn có sự co kéo nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa NSTW và NSĐP. Khắc phục những hạn chế trên của NSP, Chính phủ và Bộ Tài chính đã có nhiều nỗ lực giải quyết phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cho NSĐP (trong đó có NSP). Nhưng do chưa có Luật NSNN, nên hàng năm, Chính phủ đều phải điều chỉnh tỷ lệ điều tiết một số khoản thu giữa NSTW và NSĐP, thậm chí ngay trong cùng một năm cũng có sự điều chỉnh, có nguồn thu năm nay để lại cho NSĐP, năm sau lại thu về NSTW (như thuế cấp quyền sử dụng đất). Vì vậy, NSĐP, cụ thể là ngân sách cấp phường không phát huy được tính năng động, sáng tạo trong việc quản lý khai thác nguồn thu và chủ động bố trí chi tiêu hiệu quả.
- Nhìn chung, việc bố trí quản lý, sử dụng NSP đã từng bước ổn định, thống nhất chung trong cả nước thông qua một số văn bản pháp luật được Chính phủ và các cơ quan chức năng ban hành. Tuy nhiên, do yêu cầu quản lý và phản ánh của NSP trong điều kiện còn khác biệt lớn giữa các địa phương, nên các quy định của NSP chưa phù hợp với thực tế, một số địa phương vẫn còn dấu ấn đặc trưng của quỹ phường ngày xưa, đó là tính tuỳ tiện và tính hà lạm. Vì vậy, những năm trước đây, NSP vẫn còn là cấp ngân sách để ngoài NSNN. Toàn bộ kết quả thu chi NSP được tập hợp riêng, quyết toán riêng như đã phân tích trên. Để thống nhất quản lý nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của chính quyền các cấp trong việc quản lý và sử dụng NSNN, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm ngân sách, tăng tích lũy nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, ngày 20-3-1996, sự kiện Quốc hội (khoá XI) đã thông qua Luật NSNN được coi là mốc quan trọng trong công tác quản lý và điều hành NSNN, tạo cơ sở pháp lý cao nhất cho hoạt động NSNN, đưa công tác quản lý tài chính ngân sách từ không có luật chuyển sang xây dựng, quản lý điều hành NSNN theo luật; đồng thời, khi đó NSP mới được coi là một cấp ngân sách hoàn chỉnh, nằm trong hệ thống NSNN thống nhất. Đây cũng là một sự điều chỉnh phù hợp trong điều kiện nền kinh tế đất nước đã có nhiều thay đổi tiến bộ. Khi chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp phường ngày càng được mở rộng thì nội dung thu, chi và quản lý NSP trở nên rộng hơn và phức tạp hơn, cũng có nghĩa là trách nhiệm về mặt quản lý tài chính của chính quyền cấp phường ngày càng nặng nề hơn. Đến kỳ họp thứ hai, Quốc hội (khoá XI) ngày 16-12-2002 đã thông qua Luật NSNN sửa đổi, chính thức có hiệu lực năm 2004; luật NSNN đã tăng cường nguồn thu, phương tiện và cán bộ quản lý tài chính-ngân sách để quản lý tốt, có hiệu quả các nguồn lực tài chính trên địa bàn phường. NSP là một cấp ngân sách đầy đủ, được bố trí nguồn thu và nhiệm vụ chi phù hợp với chức năng, nhiệm vụ; không bị giới hạn trong quá trình thực thi các nhiệm vụ của chính quyền phường. Qui mô, cơ cấu NSP không chỉ phụ thuộc vào chức năng và nhiệm vụ của chính quyền cấp phường mà còn phụ thuộc vào khả năng và thực tế phát triển KT-XH ở địa bàn phường.
- 1.1.2. Khái niệm ngân sách phường Hơn hai mươi năm qua, chính quyền cấp phường đã khẳng định vai trò quan trọng của mình, nhất là trong điều kiện thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần; các phường đã sử dụng tốt các công cụ tài chính, trong đó, NSP đóng một vai trò quan trọng, tích cực giúp phường hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Qua quá trình triển khai và thực hiện các văn bản hướng dẫn của Trung ương và địa phương, nội dung thu, chi của NSP ngày càng được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với tình hình thực tế. Có thể đưa ra một định nghĩa chung về ngân sách cấp phường như sau: NSP là một bộ phận của NSNN do UBND phường xây dựng, quản lý và HĐND phường quyết định, giám sát thực hiện. Đó là một quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của chính quyền cấp phường để đảm bảo cho các hoạt động quản lý nhà nước và góp phần thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH tại địa bàn; hoạt động của quỹ này thể hiện trên hai phương diện: nguồn thu vào quỹ và phân phối sử dụng các khoản vốn quỹ đó. Từ định nghĩa trên, cho thấy: Về mặt bản chất, NSP là hệ thống những mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền cấp phường nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước ở cấp cơ sở trong khuôn khổ đã được phân công, phân cấp quản lý, như: xây dựng và thực hiện các kế hoạch thuộc phạm vi phường như sự nghiệp kinh tế; sự nghiệp văn hoá thông tin, thể dục thể thao, y tế; quản lý dân số, hộ tịch, hộ khẩu, sinh tử, lập sổ địa chính cho từng hộ dân, quản lý lao động và tổ chức thực hiện sự phân bố lao động; quản lý và thi hành chính sách tài chính, thuế, thu nợ cho Nhà nước, xây dựng và quản lý thu chi NSP theo luật NSNN; thực hiện công tác quản lý đô thị, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện chế độ và kế hoạch nghĩa vụ quân sự theo pháp luật; chăm lo cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân trong phường; phát hiện và thu giữ, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật theo phạm vi quyền hạn được phân công. Về mặt định lượng, NSP là tổng số thu, tổng số chi trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định, phục vụ cho phần lớn các lĩnh vực hoạt động KT-XH trên địa bàn phường, được hình thành trên cơ sở phân chia nguồn thu, đảm nhận nhiệm vụ
- chi và tổ chức thực hiện trong thời gian một năm. NSP cung cấp các phương tiện vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước ở cơ sở và đó chính là một công cụ đặc biệt quan trọng để chính quyền cấp phường thực hiện quản lý toàn diện các hoạt động KT- XH tại địa phương. Về nguồn gốc của NSP: Ngày nay, Nhà nước ngày càng có vai trò quan trọng trong việc huy động và phân phối thu nhập quốc dân qua NSNN, chính sự tồn tại và phát triển của Nhà nước đã tạo ra những điều kiện cần và đủ cho NSNN nói chung, trong đó có NSP ra đời và tồn tại. Chừng nào Nhà nước còn tồn tại thì chừng đó ngân sách các cấp còn tồn tại; nhất là khi mọi quốc gia đều có sự phân công, phân cấp quản lý KT-XH cho mỗi cấp quản lý hành chính nên hệ thống NSNN bao giờ cũng bao gồm các cấp khác nhau, vì vậy, NSP ra đời là tất yếu khách quan trong quá trình quản lý nhà nước. Về cấp độ phân cấp ngân sách: NSP là cấp ngân sách trong hệ thống NSNN thống nhất do HĐND cấp tỉnh, thành phố quy định cụ thể nội dung thu, chi; UBND phường xây dựng dự toán và thống nhất tổ chức, quản lý thực hiện dưới sự giám sát của HĐND phường. 1.1.3. Vị trí của ngân sách phường trong hệ thống ngân sách nhà nước Như nội dung định nghĩa trên, NSP là một bộ phận của NSNN, mà NSNN đã xuất hiện và tồn tại từ lâu, với tư cách là một công cụ tài chính quan trọng của Nhà nước. Nó ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở hai tiền đề là nhà nước và nền kinh tế hàng hoá-tiền tệ; nó phản ánh mối quan hệ giữa nhà nước với các chủ thể kinh tế, xã hội trong phân phối tổng sản phẩm xã hội, thông qua việc tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, chuyển dịch một bộ phận thu nhập bằng tiền của các chủ thể đó, thành thu nhập của nhà nước và nhà nước chuyển dịch thu nhập đó đến các chủ thể được hưởng thụ nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Hệ thống NSNN ở đây được hiểu là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp ngân sách. ở nư- ớc ta, tổ chức hệ thống NSNN gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức bộ máy Nhà nước và vị trí, vai trò của bộ máy trong qúa trình phát triển KT-XH. Theo Hiến pháp nước ta, mỗi cấp chính quyền có một cấp ngân sách riêng cung cấp phương tiện vật chất cho cấp chính
- quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên vùng lãnh thổ. Phù hợp với mô hình tổ chức hệ thống chính quyền Nhà nước, hiện nay hệ thống NSNN ở nước ta bao gồm: NSTW và ngân sách các cấp chính quyền địa phương, bao gồm: Ngân sách cấp tỉnh và thành phố trực thuộc TW; Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và ngân sách cấp phường, xã, thị trấn. Trong đó, NSTW phản ánh nhiệm vụ thu chi theo ngành và giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống NSNN. Ngân sách tỉnh, thành phố phản ánh nhiệm vụ thu chi theo lãnh thổ đảm bảo thực hiện tổ chức quản lý toàn diện KT-XH của chính quyền cấp thành phố và tỉnh trực thuộc Trung ương. Ngân sách quận là một bộ phận của NSĐP do UBND quận xây dựng quản lý và HĐND quận quyết định, giám sát thực hiện. Và NSP là cấp ngân sách cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt và có tính đặc thù riêng. Tầm quan trọng đặc biệt của NSP được thể hiện: Mặc dù là cấp ngân sách cuối cùng, nhưng NSP có vị trí quan trọng trong hệ thống ngân sách NSNN, nếu NSP thực hiện thu đúng, thu đầy đủ, tận thu các nguồn thu thì sẽ giảm sự hỗ trợ từ ngân sách cấp trên, cụ thể là ngân sách cấp quận, thành phố, khi đó, ngân sách cấp trên sẽ có thêm kinh phí đầu tư vào các lĩnh vực khác, có tầm quan trọng hơn như xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội, tập trung phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, như công nghiệp, dịch vụ, … NSP giúp tận thu tốt nhất các nguồn thu từ phí, lệ phí; thu thuế môn bài v.v.. vì địa bàn phường thường không lớn, thuận tiện cho công tác quản lý thuế, cán bộ của phường thường nắm rõ từng tập thể, cá nhân hộ kinh doanh trên địa bàn phường nên sẽ thuận tiện hơn cho công tác thu ngân sách. Tính đặc thù riêng được thể hiện: NSP vừa là một cấp ngân sách do Luật NSNN quy định, vừa là một đơn vị dự toán NSNN. Là đơn vị dự toán NSNN nghĩa là các đơn vị được quyền chi nguồn của NSNN, nhưng lại là một đơn vị dự toán NSNN đặc thù vì dưới nó không có đơn vị dự toán trực thuộc, nó vừa phải tạo nguồn kinh phí thông qua các khoản thu ngân sách cấp phường được phân định, vừa duyệt cấp, chi trực tiếp, tổng hợp các khoản chi trực tiếp vào chi ngân sách cấp phường. Nguồn thu của NSP được khai thác trực tiếp trên địa bàn và nhiệm vụ chi cũng được bố trí để phục vụ cho cộng đồng dân cư trong phường mà không qua khâu trung gian nào. Trong hệ thống NSNN, NSP là các cấp ngân sách cơ sở đảm bảo điều kiện tài chính để chính quyền phường chủ động khai
- thác các thế mạnh về đất đai, phát triển KT-XH, giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn. Cụ thể hơn, NSP vừa quản lý ngân sách thông qua các nghiệp vụ thuế, tài vụ, quỹ NSP lại vừa quản lý tiền mặt, vật tư, tài sản và các hoạt động KT-XH khác thuộc địa bàn phường; ở phường có những khoản phải chuẩn chi và thực hiện kiểm soát theo đúng quy định của pháp luật, cũng có những khoản phải thuận chi theo yêu cầu nhiệm vụ công việc của phường. Vì vậy, NSP vừa phải quản lý các nguồn thu theo luật định, vừa quản lý các khoản thu, chi từ các hoạt động KT-XH khác trên địa bàn phường, nó không gò bó trong hạn mức kinh phí giống như một đơn vị dự toán thông thường. Để đảm bảo thực hiện tốt vai trò của mình, NSP cần có tiềm lực, khả n ăng bảo đảm cho những nhu cầu của chính quyền và nhân dân trên địa bàn phường. Nếu chính quyền cấp trên nhìn nhận một cách đúng đắn về tầm quan trọng cũng như tính đặc thù này của NSP thì sẽ phát huy tốt vai trò của nó trong khai thác các nguồn thu trên địa bàn để phục vụ cho phát triển KT-XH. 1.2. Nội dung của ngân sách phường Là một cấp trong hệ thống NSNN, NSP có những nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể, theo quy định của Luật NSNN và theo phân cấp quản lý của HĐND cấp tỉnh, thành phố mà NSP là hệ thống các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước; quỹ này được xây dựng trên cơ sở các nguồn thu vào NSP để thực hiện các nhiệm vụ chi, nguồn thu vào sẽ quyết định sự phân phối nguồn quỹ đó (thực hiện nhiệm vụ chi), nhưng qua việc thực hiện nhiệm vụ chi cũng có tác động lại nguồn thu, nó sẽ tạo động lực cho việc thực hiện tốt nguồn thu, tạo thêm những nguồn thu mới cho phường. Nội dung cụ thể của NSP sẽ được HĐND tỉnh, thành phố đề xuất phù hợp với tình hình phát triển KT-XH của phường, thời kỳ ổn định của nội dung thu chi ngân sách nói chung và NSP nói riêng là trong 3 năm. Sau 3 năm ổn định ngân sách, HĐND tỉnh, thành phố sẽ nghiên cứu, điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế sao cho ngày càng tăng nguồn thu, nâng cao tính chủ động cho NSP; đồng thời, nhiệm vụ chi ngày càng rõ ràng, minh bạch hơn.
- 1.2.1. Về nguồn thu của ngân sách phường Ngay từ khi Luật NSNN sửa đổi (năm 2002) chính thức có hiệu lực, theo định kỳ 3 năm, nguồn thu của NSP do HĐND cấp thành phố quyết định, phân cấp trong phạm vi nguồn thu NSĐP được hưởng. Thu NSP bao gồm các khoản thu của NSNN phân cấp cho NSP và các khoản huy động đóng góp của tổ chức, cá nhân theo nguyên tắc tự nguyện để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng và thực thi những nhiệm vụ phát triển KT-XH tại phường. Là một bộ phận trực thuộc NSĐP, NSP được HĐND tỉnh, thành phố phân cấp nguồn thu dựa trên ba nguyên tắc cơ bản sau: Một là, phải phù hợp với phân cấp quản lý KT-XH, quốc phòng, an ninh của Nhà nước và chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của cấp phường. Hai là, phải phù hợp với việc phân định nguồn thu giữa NSTW và NSĐP. Ba là, phải căn cứ vào nhiệm vụ chi, khả năng thu từ các nguồn NSNN trên địa bàn; phân cấp tối đa nguồn thu tại chỗ, đảm bảo các phường có nguồn thu cân đối được nhiệm vụ chi thường xuyên, các phường có nguồn thu khá có phần dành để đầu tư phát triển, hạn chế bổ sung từ ngân sách cấp trên, tăng số phường tự đối được ngân sách, giảm dần số phường phải nhận bổ sung cân đối ngân sách từ cấp trên. Về cơ bản, nguồn thu của NSP gồm các khoản thu NSP được hưởng 100%, các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa NSP với ngân sách cấp trên và thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cho NSP. Trước hết, là các khoản thu NSP hưởng 100%: Đây là các khoản thu dành cho phường sử dụng toàn bộ để chủ động về nguồn tài chính bảo đảm các nhiệm vụ chi thường xuyên. Căn cứ quy mô nguồn thu, chế độ phân cấp quản lý KT-XH và nguyên tắc đảm bảo tối đa nguồn tại chỗ cân đối cho các nhiệm vụ chi thường xuyên, khi phân cấp nguồn thu, HĐND cấp tỉnh, thành phố đã xem xét dành cho NSP hưởng 100% các nguồn thu từ các khoản phí, lệ phí theo quy định, do cấp có thẩm quyền giao cho phường tổ chức thu theo quy định của luật pháp. Trong đó, phí là khoản tiền mà tổ chức cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ được quy định trong danh mục phí. Còn lệ phí
- là khoản tiền mà tổ chức cá nhân phải nộp khi được cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức được uỷ quyền phục vụ công việc quản lý nhà nước được quy định trong danh mục lệ phí. Chính quyền cấp phường có quyền quyết định các biện pháp thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển KT-XH và quy hoạch đô thị nên phường cũng được có các khoản thu từ các hoạt động sự nghiệp kinh tế, văn hoá-xã hội trên địa bàn phường, đó là phần nộp vào NSNN theo quy định của pháp luật do phường quản lý. Theo phân cấp, phường quản lý và sử dụng hợp lý có hiệu quả đất công sản được để lại nhằm phục vụ các nhu cầu công ích của phường nên phường còn có nguồn thu đấu thầu, thu khoán theo mùa vụ từ quỹ đất công ích và hoa lợi công sản khác theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, phường còn được hưởng theo tỷ lệ 100% các khoản huy động đóng góp của tổ chức, cá nhân gồm: các khoản huy động đóng góp theo pháp luật quy định, các khoản đóng góp theo nguyên tắc tự nguyện để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội do HĐND phường quyết định đưa vào NSP quản lý; nguồn viện trợ không hoàn lại của các tổ chức và cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho NSP theo chế độ quy định và các khoản thu khác của NSP theo quy định của pháp luật: Thu phạt xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (thu từ các hoạt động chống buôn lậu và kinh doanh trái pháp luật). Thu về quản lý, sử dụng tài sản công do phường quản lý: cho thuê tài sản không cần dùng, thanh lý tài sản… Và cũng như các cấp ngân sách khác, NSP cũng được hưởng 100% nguồn thu kết dư ngân sách từ năm trước. Hai là, các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa NSP với ngân sách cấp trên, gồm nguồn thu từ thuế chuyển quyền sử dụng đất; từ thuế nhà, đất; từ thuế môn bài thu từ các cá nhân, hộ kinh doanh từ bậc 4- bậc 6 trên địa bàn phường và lệ phí trước bạ nhà đất. Đối với các khoản thu trên, tỷ lệ NSP được hưởng tối thiểu là 70%. Căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi của phường mà HĐND cấp thành phố có thể quyết định tỷ lệ NSP được hưởng cao hơn, đến tối đa là 100%. Ngoài ra, phường còn thu thuế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như: thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt (là thuế thu đối với việc sản xuất
- trong nước thu vào các mặt hàng bài lá, vàng mã, hàng mã và các dịch vụ kinh doanh vũ trường, mát-xa, karaôkê; kinh doanh gôn bán thẻ hội viên, vé chơi gôn; kinh doanh casinô, trò chơi bằng máy giắcpot). Ba là, nguồn thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cho NSP: Hàng năm, căn cứ vào quyết toán ngân sách năm trước, thì HĐND tỉnh, thành phố có bổ sung thêm ngân sách cho phường, khi mà tổng các nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí phân chia theo Luật NSNN đã dành 100% cho phường và các khoản thu NSP được hưởng 100% nhưng vẫn chưa cân đối được nhiệm vụ chi. Nguồn bổ sung này gồm: Thu bổ sung để cân đối ngân sách là khoản thu được xác định trên cơ sở giữa dự toán chi được chuyển giao và các nguồn thu phân cấp (các khoản thu 100% và các khoản thu phân chia theo tỷ lệ %), nếu thiếu được ngân sách cấp trên cấp bổ sung. Số thu này do HĐND cấp quận quyết định sau khi đã báo cáo UBND thành phố để đảm bảo cân đối chung và được giao ổn định trong 3 năm. Hàng năm, được tăng thêm một phần theo tỷ lệ trượt giá do UBND thành phố quyết định. Và thu bổ sung theo mục tiêu được giao hàng năm (không giao ổn định) do UBND quận xem xét trên cơ sở đề nghị của cấp phường và các mục tiêu của ngân sách cấp trên. 1.2.2. Về nhiệm vụ chi của ngân sách phường Chính quyền phường cần thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển KT-XH, công tác quy hoạch đô thị, giải phóng mặt bằng, bảo đảm trật tự giao thông đô thị, trật tự xây dựng trên địa bàn theo phân cấp quản lý của tỉnh, thành phố; căn cứ vào nguồn thu của mình, chính quyền cấp phường thực hiện chi ngân sách để hoàn thành các nhiệm vụ trên. Những nhiệm vụ chi NSP được thực hiện theo phân cấp quản lý KT-XH của HĐND tỉnh, thành phố gồm nhiệm vụ chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Đối với nhiệm vụ chi NSP phục vụ nhiệm vụ đầu tư phát triển là nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng KT-XH của phường từ nguồn huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân cho từng dự án nhất định theo quy định của pháp luật, do HĐND phường quyết định đưa vào ngân sách quản lý. Đối với các khoản chi NSP phục vụ nhiệm vụ thường xuyên, đây là khoản chi chủ yếu của chính quyền cấp phường, phục vụ cho hoạt động của hệ thống chính trị của
- phường, chi sự nghiệp kinh tế, y tế, văn hoá-thông tin, thể dục-thể thao, dân quân tự vệ, quản lý đô thị…. Một là, các khoản chi phục vụ hoạt động của cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể (Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân) ở phường, gồm: Tiền lương, tiền công, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các khoản phụ cấp khác theo quy định của Nhà nước cho các bộ, công chức cấp phường. Tiền sinh hoạt phí cho đại biểu HĐND, tiền công tác phí cho cán bộ, công chức của phường. Các khoản chi về hoạt động văn phòng, như chi phí điện, nước, văn phòng phẩm, phí bưu điện, điện thoại, hội nghị, chi phí tiếp tân, khánh tiết; chi mua sắm, sửa chữa thường xuyên trụ sở, phương tiện làm việc. Hai là, chi cho công tác dân quân tự vệ, trật tự an toàn xã hội gồm, chi huấn luyện dân quân tự vệ, các khoản phụ cấp huy động dân quân tự vệ, đăng ký tổ chức thanh niên đi làm nghĩa vụ quân sự, đón tiếp quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về, tổ chức hội nghị tập huấn, kỷ niệm ngày truyền thống dân quân tự vệ và các hoạt động khác. Chi tuyên truyền, vận động và tổ chức phong trào quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn (ngoài phần sử dụng quỹ bảo trợ an ninh); hỗ trợ các chiến dịch giữ gìn an ninh trật tự và an toàn xã hội; hỗ trợ công tác phòng cháy chữa cháy; hỗ trợ sơ kết, tổng kết phong trào quần chúng bảo vệ an ninh và các khoản chi khác về dân quân tự vệ thuộc nhiệm vụ chi của NSP theo quy định của Pháp lệnh về Dân quân tự vệ. Chi thực hiện việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, công tác nghĩa vụ quân sự khác thuộc nghĩa vụ chi của NSP theo quy định của pháp luật. Chi tuyên truyền, vận động và tổ chức phong trào bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội, giải phóng mặt bằng, đảm bảo trật tự giao thông đô thị, trật tự xây dựng trên địa bàn phường và các khoản chi khác theo chế độ quy định. Ba là, các khoản chi cho công tác xã hội và hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao do phường quản lý. Theo phân cấp của HĐND tỉnh, thành phố, phường có nhiệm vụ quan trọng là phát triển văn hoá, văn nghệ, thể dục-thể thao, hướng dẫn tổ chức các lễ hội cổ truyền, bảo vệ và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh ở địa phương; xây dựng nếp sống văn minh đô thị, chi công tác quản lý dân cư và tổ chức đời sống nhân dân trên địa bản phường. Hàng năm, HĐND phường đưa vào dự toán ngân
- sách các khoản chi trợ cấp hàng tháng cho cán bộ phường nghỉ việc theo chế độ quy định (không kể tự cấp hàng tháng cho cán bộ phường nghỉ việc và trợ cấp thôi việc 1 lần cho cán bộ phường nghỉ việc từ ngày 01-01-1998 trở về sau do tổ chức Bảo hiểm xã hội chi); chi thăm hỏi các gia đình chính sách, thực hiện chế độ đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, những người và gia đình có công với nước, thực hiện công tác cứu trợ xã hội và vận động giúp đỡ gia đình khó khăn, người già, người khuyết tật, trẻ mồ côi, không nơi nương tựa, biện pháp thực hiện xoá đói, giảm nghèo. Chi chính sách xã hội đối với các đối tượng do phường quản lý, như, chi công tác xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội: mại dâm, ma tuý và các hoạt động xã hội khác do phường quản lý; chi trợ cấp cứu đói, hoả hoạn, thiên tai, mất mùa, tai nạn… Ngoài ra, phường còn có nhiệm vụ chi phục vụ các hoạt động văn hoá-thông tin, thể dục -thể thao, hoạt động truyền thanh do phường quản lý. Bốn là, nhiệm vụ chi cho các hoạt động sự nghiệp, gồm: Sự nghiệp kinh tế, như: Chi duy tu, sửa chữa các tuyến đường, ngõ, ngách; công trình cấp thoát nước công cộng trong các khu dân cư ; các công trình phúc lợi, các công trình hạ tầng cơ sở do phường quản lý như trường học, lớp mẫu giáo, nhà văn hoá, thư viện, đài tưởng niệm, cơ sở thể dục-thể thao... Chi hoạt động giữ gìn vệ sinh, trật tự công cộng và cảnh quan đô thị trên địa bàn phường. Sự nghiệp y tế: Hỗ trợ chi thường xuyên và mua sắm các khoản trang thiết bị phục vụ cho khám chữa bệnh của trạm y tế phường; phòng,chữa bệnh, công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, thực hiện chăm sóc, khám sức khoẻ ban đầu cho người dân, hỗ trợ phường kiểm tra an toàn thực phẩm. Đối với thành phố Hà Nội, nhằm tăng cường vai trò chủ động cho chính quyền phường, HĐND và UBND thành phố Hà Nội đã cụ thể hoá những quy định của Bộ Tài chính bằng Quyết định số 134/2003/QĐ-UB ngày 24-10-2003 về việc ban hành Quy định phân cấp quản lý ngân sách các cấp chính quyền thuộc thành phố Hà Nội. Văn bản quy định, ngoài các nguồn thu NSP của Hà Nội được hưởng như quy định chung, các phường của Hà Nội được hưởng 100% các nguồn thu từ: thuế môn bài thu từ cá nhân hộ kinh doanh từ bậc 4 đến bậc 6 trên địa bàn phường (do Chi cục Thuế của quận UNT cho
- phường), thuế chuyển quyền sử dụng đất, lệ phí trước bạ nhà đất. Các phường được hưởng theo tỷ lệ điều tiết 32% các khoản thu NSP từ: thuế GTGT thu từ cá nhân và hộ kinh doanh có mức thuế môn bài từ bậc 4 đến bậc 6; thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ cá nhân và hộ kinh doanh có mức thuế môn bài từ bậc 4 đến bậc 6; thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước của cá nhân và hộ kinh doanh có mức thuế môn bài từ bậc 4 đến bậc 6. Đối với nguồn thu theo Pháp lệnh ngày công nghĩa vụ lao động công ích theo Nghị định 81/2000/NĐ-CP của Chính phủ, các phường ở Hà Nội được hưởng 80% tỷ lệ điều tiết với ngân sách cấp trên. Ngoài các nhiệm vụ chi chung, các phường ở Thủ đô Hà Nội còn thực hiện nhiệm vụ chi phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách ở ph ường và tổ dân phố theo quy định của Nhà nước và của thành phố. Hỗ trợ cho giáo viên mầm non bán công do ph ường trực tiếp quản lý theo quy định của Nhà nước và hỗ trợ các hoạt động thể dục thể thao trên địa bàn theo quy định của Thành phố. Chi hỗ trợ hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội của phường; Uỷ ban MTTQ (kể cả hoạt động của Ban Thanh tra Nhân dân); hoạt động của Hội Người cao tuổi, Hội Chữ thập đỏ và các tổ chức xã hội của ph ường theo quy định của pháp luật; hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, hoạt động hoà giải. Chi hỗ trợ hoạt động của các khu dân cư trên địa bàn phường. 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu, chi ngân sách phường NSP được hình thành từ rất nhiều nguồn thu phí, lệ phí, thu thuế, thu bổ sung từ ngân sách cấp trên; từ nguồn thu đó, chính quyền phường sẽ tổ chức thực hiện nhiệm vụ chi phục vụ cho mọi hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội của phường. Chính vì vậy, công tác thu, chi ngân sách phường chịu ảnh hưởng trực tiếp của các nhân tố sau: Một là, tình hình phát triển KT-XH trên địa bàn phường. Trong những năm gần đây, với chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, những chính sách phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước, với xu thế thời đại, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, với chủ trương mở rộng, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ; mọi người, mọi nhà đều có thể làm kinh tế, chủ động phát triển kinh tế gia đình, nên nhìn chung, các hoạt
- động kinh tế ở trên địa bàn các phường đã có nhiều thay đổi; mọi điều kiện tự nhiên, xã hội ở trên địa bàn phường được tận dụng để làm kinh tế, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân. Những thay đổi theo hướng trên đã tác động không nhỏ đến nội dung, cơ cấu thu, chi cũng như cơ chế quản lý NSP. Những thay đổi đó đã làm cho cơ cấu nguồn thu đa dạng và phong phú hơn trước, đồng thời đặt ra nhiệm vụ chi của NSP cũng rộng hơn, phức tạp hơn. Đối với những phường có nhiều nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh thương mại, dịch vụ; những phường ở vị trí có nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, gần các trường đại học, cao đẳng thì phường đó sẽ có nguồn thu từ thuế môn bài, thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp, các khoản thu từ phí, thuế thu từ tiền thuê nhà trọ và các khoản thu khác trên địa bàn lớn hơn các phường khác. Vì vậy, sự phát triển KT-XH trên địa bàn phường không chỉ góp phần tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân địa phương mà còn tăng nguồn thu cho NSP. Hai là, tỷ lệ phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho NSP: Theo Luật NSNN năm 1996, thì các nguồn thu, nhiệm vụ chi của NSP được quy định cụ thể trong luật NSNN, nhưng Luật NSNN sửa đổi năm 2002 (có hiệu lực năm 2004) chỉ quy định chung về những nội dung mà NSP được thu, còn tỷ lệ điều tiết lại do HĐND tỉnh, thành phố quy định phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Ví dụ: Bộ Tài chính quy định chung là NSP được hưởng theo tỷ lệ điều tiết một số nguồn thu, HĐND thành phố Hà Nội đã cụ thể hoá, phân cấp ngân sách cấp phường ở Hà Nội được hưởng 32% nguồn thu từ thuế môn bài, hưởng 100% lệ phí trước bạ nhà đất v.v... Sự phân cấp của địa phương có thể làm tăng hoặc giảm nguồn thu của NSP, phát huy hoặc kìm hãm vai trò, hiệu quả của NSP đối với sự phát triển KT-XH của phường. Nếu nguồn thu của ph ường, nhất là nguồn thu phường được hưởng 100% tăng lên khi đó, phường được sẽ sở hữu một nguồn vốn lớn , chủ động hơn trong công tác tổ chức quản lý và tiến hành phân phối hợp lý. Ba là, tổ chức bộ máy quản lý thu, chi NSP : Bộ máy quản lý tài chính cấp phường gồm Đ ảng uỷ phường lãnh đạo chung, HĐND và UBND phường chỉ đạo, tổ chức thực hiện và Ban Tài chính ph ường là cơ quan tham mưu cho phường về công
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn :“Một số vấn đề cơ bản về chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời gian qua”
46 p | 463 | 169
-
Luận văn: Phân tích tình hình quản lý chi ngân sách Phường 4, Thành phố Bến Tre năm 2009 - 2010
34 p | 197 | 55
-
Bất cập và giải pháp phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước - 2
10 p | 132 | 49
-
Bất cập và giải pháp phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước - 4
10 p | 89 | 19
-
Luận văn: Sử dụng phương pháp thống kê trong việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
57 p | 132 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý chi ngân sách cấp xã trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
91 p | 39 | 11
-
Bất cập và giải pháp phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước - 6
9 p | 91 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý tài chính ngân sách nhà nước tại các phường trên địa bàn quận Cầu Giấy
109 p | 11 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Chính sách marketing đối với tín dụng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long - Chi nhánh Đà Nẵng
139 p | 15 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Chính sách marketing cho vay khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng Phương Đông, chi nhánh tỉnh Đắk Lắk
106 p | 9 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý ngân sách tại UBND phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
146 p | 26 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Kiểm soát chi thường xuyên ngân sách phường qua Kho bạc Nhà nước trên địa bàn Thành phố Bắc Kạn
140 p | 27 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kinh tế phát triển: Hoàn thiện công tác quản lý chi Ngân sách huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông
26 p | 23 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Luận cứ khoa học của phương thức lập ngân sách theo kết quả đầu ra trong quản lý chi tiêu công của Việt Nam
89 p | 23 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
92 p | 19 | 4
-
Tóm tắt Luận án tiến sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thu-chi ngân sách của thành phố Hải Phòng
24 p | 33 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường nguyên ngân sách xã qua Kho bạc nhà nước Tân Hồng - Đồng Tháp
113 p | 6 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn