intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN:Phân tích cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:84

122
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong quá trình hội nhập nề kinh tế thế giới, hoạt động xuất nhập khẩu đang rất được Nhà nước cũng như nhiều doanh nghiệp quan tâm. Xuất khẩu không những đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, mà còn giảI quyết hàng triệu công ăn việc làm cho người lao động, thức đẩy các ngành khác phát triển. Ngành dệt may ngày nay đang là một trong những ngành xuất khẩu chính của toàn bộ các ngành công nghiệp. Ngành công nghiệp dệt may được đánh giá có vai trò rất quan trọng trong sự...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN:Phân tích cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai

  1. LUẬN VĂN: Phân tích cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai
  2. Lời mở đầu Trong quá trình hội nhập nề kinh tế thế giới, hoạt động xuất nhập khẩu đang rất được Nhà nước cũng như nhiều doanh nghiệp quan tâm. Xuất khẩu không những đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, mà còn giảI quyết hàng triệu công ăn việc làm cho người lao động, thức đẩy các ngành khác phát triển. Ngành dệt may ngày nay đang là một trong những ngành xuất khẩu chính của toàn bộ các ngành công nghiệp. Ngành công nghiệp dệt may được đánh giá có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Công ty dệt Minh Khai là một trong những doanh nghiệp xuất khẩu đứng đầu của sở công nghiệp Hà Nội. Hàng năm doanh thu xuất khẩu của công ty đạt trên 80% tổng doanh thu toàn doanh nghiệp. Trong thời gian qua công ty luôn hoàn thành nhiệm vụ sản xuất và các chỉ tiêu do Nhà nước giao và ngày càng khẳng định được vị thế của mình. Công ty đã xuất khẩu sang thị trường nhiều nước trên thế giới như thị trường Nhật Bản, EU, ĐàI Loan,… đồng thời tạo được uy tín của công ty trên thị trường thế giới. Với cơ cấu mặt hàng xuất khẩu khá đa dạng và phong phú, sản phẩm của công ty đã trở nên quen thuộc với người tiêu dùng các nước bạn. Sản phẩm của công ty được biết đến bởi chất lượng cao, kiểu dáng mẫu mã phong phú. Tuy nhiên trong môI trường cạnh tranh khốc liệt như hiẹn nay đòi hỏi doanh nghiệp phảI luôn đỏi mới và hoàn thiện mình. Lựa chọn một cơ cấu sản phẩm xuất khẩu có hiệu quả là một trong những vấn đề mà công ty cần xem xét nhằm tìm được một hướng đI đúng đắn nhất tạo khả năng cạnh tranh tốt nhất cho doanh nghiệp. Xuất phát từ thực tế trên, em đã chon đề tàI “Phân tích cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai”cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Chuyên đề gồm 3 phần: Phần 1. Giới thiệu chung về công ty dệt Minh Khai Phần 2. Thực trạng cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai Phần 3. Điều chỉnh cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai
  3. nội dung Phần 1. Giới thiệu chung về công ty dệt minh khai 1.1. Giới thiệu khái quát về công ty dệt Minh Khai: 1.1.1. Thông tin chung về công ty Tên công ty: Công ty dệt Minh Khai Tên giao dịch quốc tế: Minh Khai Textile Company Trụ sở chính: 423 Đường Minh Khai-Hà Nội Hình thức pháp lý: Doanh nghiệp nhà nước Ngành nghề kinh doanh chính: Sản xuất khăn mặt và khăn tắm, màn tuyn Điện thoại: 84-4-8624002 Fax: 84-4-8624255 1.1.2. Lịch sử hình thành của công ty: Công ty dệt Minh Khai là một trong những đơn vị chủ lực của ngành công nghiệp Hà Nội , thuộc sự quản lý của sở công nghiệp Hà Nội. Trước khi thành lập công ty có tên là Nhà máy dệt khăn mặt khăn tay. Công ty được khởi công xây dựng từ cuối những năm 60 - đầu những năm 70 của thế kỷ 20 - đây là thời kỳ cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở Miền Bắc Việt Nam đang ở giai đoạn ác liệt nhất. Vì vậy, việc xây dựng công ty có những thời gian bị gián đoạn và phải dời đi sơ tán ở những địa điểm khác nhau trên địa bàn Hà Nội. Đến đầu những năm 70, công ty chuyển về đóng trụ sở tại địa bàn phía Đông Nam thành phố Hà Nội. Năm 1974, Công ty cơ bản được xây dựng xong và chính thức được thành lập theo quyết định của UBND thành phố với tên gọi là Nhà máy dệt khăn mặt khăn tay. Cũng năm đó nhà máy đi vào sản xuất thử và đến năm 1975 công ty chính thức nhận kế hoạch của nhà nước giao. Đến năm 1983, công ty đổi tên thành: Nhà máy dệt Minh Khai. Năm 1992, công ty được thành lập lại theo quyết định số 338/TTg của thủ tướng chính phủ với số vốn là 8,680 tỷ đồng, trong đó: - Vốn ngân sách cấp: 1,300 tỷ đồng - Vốn huy động (vay): 7,380 tỷ đồng
  4. Năm 1994, để thuận tiện trong giao dịch sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường, nhà máy đổi tên thành Công ty dệt Minh Khai. Đến 2004, công ty dệt Minh Khai đã đạt đến quy mô:  Diện tích mặt bằng: gần 4 ha  Công ty gồm 4 phân xưởng sản xuất, 5 phòng chức năng, với tổng số cán bộ công nhân viên trong danh sách 1061 người.  Số ngày làm việc trong năm: 350 ngày  Số ca làm việc trong ngày: 3 ca (tuỳ theo phân xưởng) Số giờ làm việc trong ca: 8h   Thu nhập bình quân đầu người: 900.000 đ/người/tháng Công ty dệt Minh Khai là một doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong nghành công nghiệp địa phương của Hà Nội, đóng góp một phần đáng kể vào GDP của địa phương, đặc biệt là tạo công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động của thành phố và của các tỉnh lân cận. Nhiệm vụ chủ yếu của công ty là sản xuất các loại khăn bông, khăn tắm, khăn ăn phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa. Cho đến nay cơ cấu sản phẩm của công ty đã được mở rộng và đa dạng hơn, gồm: các loại khăn bông thường, khăn bông in hoa, khăn bông dệt Dobby, khăn bông dệt Jacquard, áo choàng tắm, khăn nhà bếp, màn tuyn... Các sản phẩm này chủ yếu là phục vụ xuất khẩu , ngoài ra được tiêu thụ tại các đại lý, siêu thị, khách sạn trong nước. 1.1.3. Quá trình phát triển: * Giai đoạn 1974-1980: Trong thời gian đầu mới thành lập và đi vào hoạt động, công ty gặp rất nhiều khó khăn do nhà xưởng xây dựng chưa hoàn chỉnh, thiết bị do Trung Quốc viện trợ về lắp đặt không đồng bộ, khâu đầu của dây chuyền sản xuất không hoạt động được phải làm theo phương pháp thủ công. Số máy ban đầu của công ty chỉ có 260 máy dệt thoi khổ hẹp của Trung Quốc, tài sản cố định của công ty khi đó mới chỉ có gần 3 triệu đồng. Là đơn vị đầu tiên của miền Bắc sản xuất mặt hàng khăn bông nên nhiều thông số kỹ thuật không có sẵn, mà phải vừa làm vừa mò mẫm tìm tòi. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề thiếu nhiều. Do vậy, những năm đầu sản xuất công ty mới chỉ đưa vào hoạt động được hơn 100 máy dệt, số cán bộ công nhân viên là 415 người. Năm 1975, năm đầu tiên đi vào sản xuất, công ty mới chỉ đạt:
  5. - Giá trị tổng sản lượng gần 2,5 triệu đồng - Sản phẩm chủ yếu gần 2 triệu khăn các loại. Những năm tiếp theo, hoạt động của công ty dần đi vào ổn định, việc xây dựng và hoàn thiện dây chuyền sản xuất được tiếp tục, năng lực sản xuất được tăng thêm, lao động được bổ sung, năng suất lao động và doanh thu ngày càng tăng. * Giai đoạn 1981-1989: Đây là thời kỳ phát triển cao của công ty. Những năm này, công ty được thành phố đầu tư thêm cho một dây chuyền công nghệ dệt kim đan dọc của CHDC Đức (cũ) để dệt các loại vải tuyn, rèm, valide. Như vậy, về mặt sản xuất, công ty đã được giao cùng một lúc quản lý và triển khai thực hiện 2 quy trình công nghệ dệt khác nhau là dệt kim đan dọc và dệt thoi. Công ty cũng đã tập trung đầu tư chiều sâu, đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất, bằng mọi phương pháp kinh tế và kỹ thuật đưa dần toàn bộ máy móc thiết bị ở khâu đầu dây chuyền sản xuất như: nồi hơi, nồi nấu áp lực, máy nhuộm, máy sấy sợi đi vào hoạt động, phục vụ cho sản xuất. Nhờ đó công ty đã chấm dứt được tình trạng khâu đầu của sản xuất phải làm thủ công và đi thuê ngoài gia công. Cũng trong thời kỳ này, để tháo gỡ những khó khăn về vấn đề nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ, chủ động sản xuất kinh doanh, công ty đã chỉnh hướng sản xuất kinh doanh từ chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa sang lĩnh vực sản xuất phục vụ cho xuất khẩu là chủ yếu (xuất khẩu sang cả 2 thị trường XHCN và TBCN). Năm 1981, thông qua công ty xuất nhập khẩu hàng dệt TEXTIMEX, công ty đã ký hợp đồng xuất khẩu dài hạn sang CHDC Đức và Liên Xô (cũ). Năm 1983, công ty bắt đầu sản xuất khăn ăn xuất khẩu cho thị trường Nhật Bản với sự giúp đỡ của UNIMEX Hà Nội, và từ đó đến nay, lượng hàng xuất khẩu sang thị trường này ngày càng lớn, thị phần của công ty trong thị trường Nhật Bản ngày càng tăng. Đặc biệt từ năm 1988, công ty được Nhà nước cho phép thực hiện xuất khẩu trực tiếp, trở thành công ty đầu tiên ở miền Bắc được Nhà nước cho phép làm thí điểm về xuất nhập khẩu trực tiếp sang thị trường nước ngoài. Trong thời kỳ 1981-1989, mức tăng trưởng trong sản xuất kinh doanh của công ty luôn ở mức cao (từ 9-11%/năm) , đặc biệt là chỉ tiêu xuất khẩu. * Giai đoạn 1990 đến nay: Những năm 90, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế quản lý mới theo tinh thần nghị quyết Đại hội VI - VII của Đảng. Tình hình chính trị trên thế giới cũng có nhiều biến
  6. động. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị sụp đổ, các quan hệ bạn hàng của công ty với các nước này cũng không còn, công ty mất đi một thị trường quan trọng và truyền thống. Trong lịch sử hơn 20 năm xây dựng và phát triển của công ty, có thể nói đây là thời kỳ mà công ty gặp nhiều khó khăn lớn nhất, phảI đối mặt với những thách thức khắc nghiệt nhất. Vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh thiếu trầm trọng, máy móc thiết bị đầu tư ở giai đoạn trước đã cũ và lạc hậu, không đủ đáp ứng cho yêu cầu mới. Đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty quá đông và đã quen với cơ chế bao cấp nay chuyển sang cơ chế mới không dễ thích nghi. Trước tình hình đó, bằng những nỗ lực cố gắng, chủ động sáng tạo của bản thân công ty, cùng với sự quan tâm của lãnh đạo cấp trên, sự hỗ trợ của các đơn vị bạn, công ty tập trung sức tháo gỡ những khó khăn, giải quyết từ những vấn đề quan trọng nhất về thị trường, về vốn, và về tổ chức lại sản xuất, lựa chọn bố trí lại lao động... Nhờ đó công ty đã từng bước thích nghi với cơ chế thị trường, ổn định và phát triển theo hướng xuất khẩu là chính, hoàn thành các nghĩa vụ với Nhà nước, bảo toàn và phát triển được vốn cho sản xuất kinh doan, cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên. Nhìn lại quá trình hơn 20 năm xây dựng và phát triển của công ty, tuy có lúc thăng trầm, song đó chỉ là những bước nhất định trong một tiến trình phát triển và đổi mới đi lên. Điều này được thể hiện thông qua kết quả như sau: - Giá trị tổng sản lượng năm 1975, công ty mới chỉ đạt được gần 2,5 triệu đồng, năm 1990, đã đạt hơn 9,1 tỷ đồng. - Sản phẩm chủ yếu, những năm đầu mới chỉ đạt được gần 2 triệu sản phẩm khăn các loại cho nhu cầu nội địa. Năm 1995 đã có sản phẩm xuất khẩu (85% sản phẩm khăn) và sản xuất thêm mặt hàng màn tuyn. - Doanh thu đạt gần 3,5 triệu đồng năm 1975, những năm 1990 đã đạt 13,5 tỷ đồng và đến năm 1997 đạt 54,6 tỷ đồng. - Kim ngạch xuất khẩu năm 1990 đạt 1.635.666 USD. Năm 1997 đạt 3.588.397 USD. - Nộp ngân sách năm đầu tiên gần 68.000 triệu đồng, năm 1990 nộp 525,9 triệu đồng và đến năm 1997 nộp 1.534,8 triệu đồng. Công tác khoa học kĩ thuật được đặc biệt chú ý và được coi là biện pháp hàng đầu
  7. để thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong hơn 20 năm, công ty đã chế thử được hơn 300 mẫu sản phẩm và đã đưa vào sản xuất trong đó 100 mẫu được khách hàng chấp nhận. Trên đây là sơ lược quá trình hình thành và phát triển của công ty dệt Minh Khai. Với lịch sử phát triển của mình, công ty dệt Minh Khai đã đạt được một số thành tựu lớn, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế nước ta, hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước, xứng đáng là một công ty lớn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và thành phố Hà Nội . 1.2. Những đặc điểm kinh tế – kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai : 1.2.1. Tính chất và nhiệm vụ sản xuất: Công ty dệt Minh Khai là một công ty chuyên sản xuất và xuấ t khẩu các loại khăn bông, áo choàng tắm, màn tuyn và vải tuyn, đồng thời đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng trong nước. Sản phẩm của công ty được sản xuất hàng loạt trên dây chuyền với số lượng lớn, kiểu dáng phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc do phòng kỹ thuật thiết kế trên máy vi tính. Công ty không đặt ra kế hoạch sản xuất trong thời gian dài mà đề ra kế hoạch theo năm, năm trước đặt kế hoạch cho năm sau trên cơ sở phân tích năng lực sản xuất hiện có của công ty về các mặt vốn, công nghệ, lao động...Bên cạnh đó công ty cũng căn cứ vào tình hình tiêu thụ sản phẩm của năm trước và những biến động trên thị trường. Việc xuất khẩu chủ yếu của công ty là làm theo đơn đặt hàng và Nhật Bản là một trong những khách hàng chính của công ty nên tính chất và nhiệm vụ sản xuất khó ổn định. Thêm vào đó là sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt làm cho công tác lập kế hoạch của công ty gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, do khách hàng chủ yếu của công ty là các bạn hàng Nhật Bản cộng với sự cạnh tranh gay gắt nên vấn đề đa dạng hoá sản phẩm, mẫu mã, chủng loại, cải tiến chất lượng và giá cả phù hợp với người tiêu dùng là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt quá trình sản xuất và kinh doanh của công ty. Với một môI trường cạnh tranh khốc liệt việc lựa chọn một cơ cấu sản phẩm xuất khẩu là tương đối khó và cần được thực hiện từng bước nhằm đạt mục tiêu đề ra. 1.2.2. Đặc điểm về sản phẩm và cơ cấu sản phẩm của công ty: Sản phẩm của công ty là sản phẩm thiết yếu đối với người tiêu dùng, vật dụng
  8. không thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày của người tiêu dùng như khăn mặt, khăn tắm, màn tuyn... Sản phẩm của công ty mang tính chất sử dụng nhiều lần, có tác dụng giữ gìn vệ sinh, và bảo vệ sức khoẻ. Sản phẩm tiêu dùng cho cá nhân nên đòi hỏi bền, mềm, thấm nước, màu sắc, mẫu mã phong phú, không phai màu, nhiều kích cỡ khác nhau, độ dày mỏng phù hợp. Do nhu cầu thị hiếu tiêu dùng của người dân ngày càng cao, cùng sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật nên công ty đã không ngừng cải tiến, thiết kế ra những mẫu mới. Hơn nữa các sản phẩm của công ty không những chỉ phong phú về kiểu dáng, mẫu mã, mà ngày càng được nâng cao về chất lượng. Hiện nay cơ cấu sản phẩm của công ty đã phong phú hơn rất nhiều và có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và thị trường xuất khẩu (sản phẩm xuất khẩu chiếm xấp xỉ 90% khối lượng sản phẩm sản xuất). Sản phẩm của công ty gồm 2 loại chủ yếu: - Khăn bông các loại - Vải màn tuyn Với sản phẩm khăn bông công ty sản xuất từ nguyên liệu sợi bông 100% nên có độ thấm nước, độ mềm mại cao, phù hợp với yêu cầu sử dụng của n gười tiêu dùng. Đây là nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của công ty, chiếm tới 98% khối lượng sản phẩm của công ty, bao gồm: + Khăn ăn: dùng trong các nhà hàng và gia đình. Đối với các loại khăn ăn dùng cho nhà hàng công ty bán cho các cơ sở cung cấp khăn cho nhà hàng làm khăn ướt. Loại khăn này chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, chỉ có một phần rất ít tiêu thụ trong nước. + Khăn rửa mặt: Đối với loại khăn này, công ty cũng có các loại khăn phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, song chủ yếu là tiêu thụ qua các nhà bán buôn và các siêu thị. + Khăn tắm: Loại khăn này công ty chủ yếu sản xuất cho nhu cầu xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Song hiện nay, xu hướng sử dụng khăn tắm trong nước cũng tăng nhiều nên công ty đã có hướng nghiên cứu mặt hàng khăn tắm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng và còn phục vụ cho nhu cầu quảng cáo, khuyến mãi các sản phẩm khác nh ư: dầu gội đầu, sứ vệ sinh, dụng cụ thể thao... + Bộ khăn dùng cho khách sạn bao gồm khăn tắm, khăn mặt, khăn tay, thảm chùi
  9. chân, và áo choàng tắm. Công ty có hợp đồng cung cấp loại sản phẩm này cho gần 100 khách sạn tại Nhật Bản thông qua các công ty thương mại Nhật Bản là ASAHI, HOUEI, DAIEI, VINASEIKO, DAIWABO, FUKIEN, FUJIWARA... Ngoài ra, các khách sạn trong nước nhất là các khách sạn liên doanh với nước ngoài tại các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh cũng đặt hàng tại công ty. - Các loại vải sợi bông sử dụng để may lót và may mũ giày phục vụ cho các cơ sở may xuất khẩu như: giày Ngọc Hà, may X40. - Với sản phẩm vải màn tuyn, công ty sản xuất từ nguyên liệu 100% sợi PETEX nên đảm bảo cho màn tuyn có độ bền cao và chống được oxy hoá gây vàng màn. Loại sản phẩm này mới được đưa vào sản xuất trong công ty hơn 10 năm, nên khối lượng sản xuất ra chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn. Ngoài ra công ty cũng ký các hợp đồng xuất khẩu màn tuyn sang các nước Châu Phi theo chương trình phòng chống sốt rét của Liên Hợp Quốc. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu gồm các loại sản phẩm chính sau:  Khăn Jacquard  Khăn ăn các loại  Khăn dobby  áo choàng tắm  màn tuyn 1.2.3. Đặc điểm thị trường xuất khẩu của công ty: Thị trường tiêu thụ chính của công ty dệt Minh Khai là thị trường nước ngoài với lượng sản phẩm chiếm khoảng 90% số lượng sản phẩm sản xuất. Trong đó thị trường xuất khẩu truyền thống của công ty là các khách hàng Nhật Bản (chiếm 85% số lượng sản phẩm xuất khẩu ), còn 5% là xuất khẩu sang các thị trường Châu Âu và Châu á và các thị trường khác . Trước đây sản phẩm của công ty chỉ xuất khẩu sang các nước Đông Âu và Liên Xô cũ là chính.. Song từ khi hệ thống Xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở những nước này thì công ty đã mất đi các bạn hàng, và đặc biệt từ khi thực hiện nền kinh tế mở cửa thì sản phẩm xuất khẩu của công ty hướng mạnh về các nước có nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Đây là những thị trường có tiềm năng xuất khẩu lớn đối với công ty. Nếu biết cách khai thác, sẽ đem lại lợi nhuận rất lớn cho công ty, giúp công ty có thể cải thiện đời sống cho đội ngũ cán bộ công nhân viên, hoàn thành nghĩa vụ ngân sách với Nhà nước, đóng góp một phần
  10. không nhỏ vào công cuộc xây dựng đất nước trở thành một nước công nghiệp. 2.3.1. Thị trường Nhật Bản: Với số dân khoảng 125 triệu người Nhật Bản không những là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn của Việt Nam mà còn là là thị trường xuất khẩu truyền thống của công ty dệt Minh Khai. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản luôn chiếm khoảng 80% - 90% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn công ty. Kể từ năm 1983 công ty bắt đầu tiếp cận thị trường này, cho tới nay công ty đã thiết lập và duy trì được mối quan hệ làm ăn lâu dài với các bạn hàng Nhật Bản. Có thể thấy đó là những nỗ lực rất lớn của công ty. Thị trường Nhật Bản vẫn nổi tiếng là rất khắt khe và khó tính. Khách hàng Nhật Bản yêu cầu kĩ càng về chất lượng, mẫu mã, giá cả và thời gian giao hàng trong đó chất lượng là yêu cầu cơ bản và họ duy trì những tiêu chuẩn chất lượng bằng cách kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt, kiểm tra nguyên liệu sản xuất, kiểu dáng và công nghệ, kiểm tra bao bì đóng gói. Chính phủ Nhật Bản quy định hàng dệt may nhập vào Nhật Bản phải an toàn, trên bao bì phải ghi rõ kích cỡ, chất liệu và cách sử dụng. Giá cả cũng là một yếu tố mà người tiêu dùng Nhật Bản quan tâm. Nếu sản phẩm của công ty không có ưu thế gì so với sản phẩm khác cùng chủng loại thì công ty có thể cạnh tranh bằng giá cả, tức là bán với giá rẻ hơn nhưng cần phải giải thích cụ thể những điểm khác biệt trong sản phẩm của công ty như sản phẩm có thiết kế độc đáo, hoặc sử dụng nguyên vật liêu sản xuất mới, hoặc giá trị gia tăng có được nhờ những điểm khác biệt này. Khách hàng Nhật Bản luôn tìm kiếm những sản phẩm có những đặc điểm khác biệt. Hiện nay để cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc và một nhà cung ứng trong nước công ty dệt Minh Khai đã chọn giảI pháp chú trọng tới chất lượng và mẫu mã sản phẩm các mặt hàng xuất khẩu. Những năm gần đây, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Châu á, nền kinh tế Nhật Bản có nhiều suy giảm, do đó nhu cầu tiêu dùng có giảm song sức tiêu thụ mặt hàng khăn bông không vì thế mà giảm đi, trái lại vì đây là mặt hàng thiết yếu cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của người dân Nhật Bản nên sức tiêu thụ hầu như vẫn giữ ở mức ổn định. Tuy nhiên giá cả có xu hướng giảm xuống. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới doanh số bán hàng của công ty trên thị trường Nhật Bản. Hơn nữa, hiện nay trên thị trường Nhật Bản công ty đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của các công ty sản xuất khăn bông Trung Quốc và của một số nước Đông Nam á trong đó đặc biệt là từ Trung Quốc: sản phẩm khăn bông của công ty và sản phẩm
  11. khăn bông của Trung Quốc tuy có chất lượng tương đương nhau, nhưng Trung Quốc lại có lợi thế giá rẻ, do đó làm cho tốc độ tiêu thụ sản phẩm của công ty trên thị tr ường Nhật Bản giảm xuống hẳn, gây ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động xuất khẩu của công ty. 2.3.2. Thị trường EU: EU là thị trường nhập khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất của VN, trên 40% hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam là xuất sang EU. Nhờ có hiệp định buôn bán dệt may mà số lượng hàng dệt may xuất khẩu sang EU tăng lên nhanh chóng, cơ hội mở rộng xuất khẩu sang EU đang mở ra đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. EU là thị trường rộng lớn gồm 15 quốc gia với hơn 375 triệu người tiêu dùng, nên nhu cầu về hàng hoá rất đa dạng, phong phú. Đặc biệt với mặt hàng dệt may thì nhu cầu càng đa dạng. Tuy có sự khác biệt về tập quán và thị hiếu tiêu dùng giữa thị trường các quốc gia, song 15 nước trong khối EU đều nằm trong khu vực Tây Âu và Bắc Âu nên có những nét tương đồng về kinh tế và văn hoá.Trình độ phát triển của những nước này khá đồng đều nên người dân EU có những điểm chung về sở thích và thói quen tiêu dùng. Đối với mặt hàng dệt may, khách hàng EU rất quan tâm tới chất lượng và thời trang, do đó yếu tố này có khi lại quan trọng hơn yếu tố giá cả. Người tiêu dùng EU có sở thích và thói quen tiêu dùng hàng của những hãng nổi tiếng thế giới, vì họ cho rằng những nhãn hiệu này gắn liền với chất lượng và uy tín lâu đời nên sử dụng những mặt hàng này có thể yên tâm về chất lượng và an toàn cho người sử dụng. Những sản phẩm của các nhà sản xuất ít danh tiếng hay những nhãn hiệu ít người biết đến sẽ rất khó tiêu thụ trên thị trường EU. Mức sống của người tiêu dùng trong cộng đồng EU tương đối đồng đều và ở mức cao nên tiêu dùng của họ rất cao cấp, yêu cầu khắt khe về chất l ượng và độ an toàn, giá cả không phải là vấn đề quyết định đối với thị trường này. Vì thế cạnh tranh về giá không hẳn là biện pháp tối ưu khi thâm nhập thị trường EU. Tuy nhiên đối với công ty dệt Minh Khai, thị trường Châu Âu vẫn còn khá mới mẻ. Hiểu biết về thị trường này của công ty vẫn còn hạn chế, chủ yếu công ty có được thông tin về thị trường này là thông qua Bộ Thương mại, các công ty trung gian thương mại . Quan hệ làm ăn của công ty với các bạn hàng EU chưa thực sự đủ để tạo ra niềm tin và uy tín đối với bạn hàng. So với thị trường Nhật Bản, thì giá trị xuất khẩu sản phẩm vào thị trường EU của công ty chỉ bằng một phần rất nhỏ. Do vậy mà hoạt động xuất khẩu của công ty hiện nay
  12. mới chỉ tập trung phần lớn vào thị trường Nhật Bản. Trong tương lai, công ty dự định sẽ cố gắng tìm mọi biện pháp để mở rộng thị trường xuất khẩu , đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu vào Nhật Bản và EU. Để thực hiện được điều này đòi hỏi công ty phảI không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, phong phú kiểu dáng mẫu mã đồng thời phảI tự xây dung một thương hiệu riêng cho mình, khẳng định được vị thế của mình trong một môI trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. 2.4. Đặc điểm máy móc thiết bị Việc nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, điều chỉnh cơ cấu sản phẩm xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng máy móc thiết bị. Những ngày đầu tiên mới thành lập, máy móc của công ty chủ yếu là của Trung Quốc và một số nước XHCN như Liên Xô (cũ), Ba Lan. Sản phẩm lúc đó chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước là chính. Nhưng kể từ khi công ty được Nhà nước cho phép xuất khẩu trực tiếp thì công ty đã chuyển hướng sản xuất kinh doanh sang phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu là chính. Máy móc thiết bị từ trước cũng đã trở nên cũ và lạc hậu không thể đáp ứng được nhu cầu sản xuất để xuất khẩu của công ty. Vì vậy công ty đã tiến hành đầu tư mua sắm, lắp đặt một số thiết bị của Nhật Bản, Đức, Trung Quốc. Trong thời gian từ năm 1997 – 2002 giá trị đầu tư đổi mới của công ty lên đến 3 triệu USD, trong đó có kiểu máy dệt kiểu Italy được lắp đồng bộ với đầu Jacquard STAUBLI và đầu Dobby STAUBLI của Thuỵ Sĩ, đây là loại thiết bị dệt khăn bông hiện đại lần đầu tiên được lắp đặt và sử dụng tại Việt Nam. Đồng thời công ty đã đầu tư một hệ thống thiết kế CAD/CAM trên máy vi tính, sử dụng phần mềm chuyên ngành của hãng NEDGRAPHICS – Hà Lan để thiết kế những mẫu khăn Jacquard. ở các phân xưởng công ty đều đầu tư thêm những máy móc thiết bị mới. Nhờ có sự đầu tư thêm máy móc thiết bị mà trình độ công nghệ của công ty ngày càng nâng cao. Từ khi mới thiết lập, trình độ công nghệ mới chỉ ở mức thủ công và cơ khí, đến nay trình độ công nghệ của công ty mới chỉ ở mức trung bình so với trong khu vực nhưng nhiều bộ phận đã đạt được trình độ công nghệ tự động hoá.Từ khi mới thành lập năm 1975, công ty chỉ có 260 máy dệt thoi khổ hẹp do Trung Quốc viện trợ. Sau đó công ty đã từng bước đầu tư cả về chiều sâu vầ chiều rộng nên đã có một hệ thống thiết bị tương đối
  13. hoàn chỉnh. Do vậy công ty đã lắp đặt được một số thiết bị của Nhật Bản, Đức, ý …chuyển từ trình độ công nghệ mức thủ công và cơ khí đến trình độ công nghệ ở mức trung bình và một số bộ phận đã được tự động hoá. Điều này đã tạo điều kiện cho công ty nâng cao chất lượng sản phẩm, năng suất lao động, sản xuất được các sản phẩm cao cấp và trung bình phục vụ nhu cầu trong nước cũng như xuất khẩu. Cụ thể hiện nay số máy móc thiết bị của công ty như sau:
  14. Bảng 1.1. Tình hình trang bị máy móc thiết bị hiện có của công ty dệt Minh Khai Loại máy Số lượng Khổ máy Xuất sứ (cái) rộng(cm) (nước) Máy dệt thoi 1511B và 1511S 300 175 Trung Quốc Máy dệt thoi ATM 40 175 Liên Xô(cũ) Máy dệt thoi SAKAMOTO 13 180 Nhật Bản Máy dệt thoi 1515B 58 175 Trung Quốc Máy dệt kiếm có lắp đầu 4 260 ITALIA Jacquard điện tử Hệ thống máy mắc và hồ dồn 01 Nhật bản Máy đánh ống sợi côn 03 Trung Quốc Máy nhuộm vải cao cấp 02 Đức Lò hơi 4 tấn và 6 tấn 01 Trung Quốc Máy nhuộm sợi bobbin cao áp 01 Đức Máy dệt kim dan dọc 20 Đức Máy mắc sợi 02 Đức Máy đo gấp 01 Đài Loan Máy may công nghiệp 130 Nhật Bản Như vậy, cho đến nay mặc dù hệ thống thiết bị của công ty tuy không được đồng bộ song hầu hết đều là những máy móc trung bình khá hiện đại, tương đối phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty, trong đó có kiểu máy dệt kiểu Italy được lắp đồng bộ với đầu Jacquard STAUBLI và đầu Dobby STAUBLI của Thuỵ Sĩ, đây là loại thiết bị dệt khăn bông hiện đại lần đầu tiên được lắp đặt và sử dụng tại Việt Nam. Đồng thời công ty đã đầu tư một hệ thống thiết kế CAD/CAM trên máy vi tính, sử dụng phần
  15. mềm chuyên ngành của hãng NEDGRAPHICS – Hà Lan để thiết kế những mẫu khăn Jacquard. Tuy nhiên, quá trình đẩy mạnh xuất khẩu luôn đòi hỏi công ty phải thường xuyên đổi mới, cải tiến mẫu mã sản phẩm và nâng cao chất l ượng sản phẩm đồng thời giảm giá thành để nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu trên thị trường nhập khẩu của công ty, mà chủ yếu là thị trường Nhật Bản. Chính vì vậy mà công ty luôn quan tâm và không ngừng tập trung đầu tư mới máy móc thiết bị hiện đại, tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.Không những thế đó còn là tiền đề vật chất kỹ thuật quan trọng trong sự phát triển của công ty trong chiến lược lâu dài đẩy mạnh hoạt động sản xuất của công ty ra các nước khác và mở rộng thị trường nội địa. Tính đến cuối năm 2002 tổng giá trị tài sản cố định của công ty là 35 tỷ đồng. Vào cuối năm 2004, công ty đã cho nhập thêm một số máy móc mới hiện đại nhập từ Trung Quốc với giá trị lên tới hàng tỷ đồng và công ty đang tiến hành xây dựng thêm nhà xưởng để có thể đưa công nghệ mới vào sử dụng trong thời gian tới. Bảng 1.2. Giá trị đầu tư năm 2004 (triệu đồng) Chỉ tiêu Giá trị - thiết bị 11,000 - xây dựng cơ bản khác 1,000 Tổng đầu tư 12,000 2.5. Đặc điểm về nguyên vật liệu sản xuất Nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất của công ty chủ yếu là các loại sợi, trong đó sợi bông để sản xuất khăn bông và áo choàng tắm chiếm 50%, 45% cho sợi PETEX sản xuất ra màn tuyn và vải tuyn và các loại hợp chất, thuốc nhuộm. Tất cả các nguyên vật liệu này chủ yếu được nhập khẩu từ các nước như ấn Độ, Pakistan, Indonexia, Nhật, Thuỵ Sỹ... lượng này thường chiếm 70-80% nhu cầu đầu vào của công ty, còn lại được cung cấp từ thị trường trong nước. Cấc cơ sở trong nước thường cung cấp nguyên liệu sợi 100% Cotton cho công ty bao gồm; công ty dệt 8-3, công ty dệt Hà Nội công ty dệt 19/5, công ty dệt Vĩnh Phú, công ty dệt Huế, công ty dệt Nha Trang. Sở dĩ công ty phải nhập khẩu một lượng lớn nguyên vật liệu đầu vào từ nước ngoài như vậy là do yêu cầu của sản phẩm công ty sản xuất ra chủ yếu là để xuất khẩu nên sản
  16. phẩm phải có chất lượng cao và ổn định trong khi đó nguyên vật liệu từ thị trường cung cấp trong nước không đáp ứng được yêu cầu công ty về chất lượng cũng như số lượng Vì vậy công ty phải tìm nguồn cung cấp đầu vào từ thị trường nước ngoài. Tuy nhiên do quá trình nhập khẩu nguyên vật liệu làm tăng chi phí vận chuyển, các hợp đồng nhập khẩu thường phải mất nhiều thời gian mới được hoàn tất do các thủ tục nhập khẩu tương đối phức tạp. Do vậy chi phí nguyên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm thường cao hơn trong nước song chất lượng lại ổn định hơn, đáp ứng được khách hàng nước ngoài của công ty. Chất lượng và giá cả nguyên vật liệu có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động xuất khẩu của công ty nói chung và tới việc điều chỉnh cơ cấu sản phẩm xuất khẩu nói riêng. Nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng và giá thành sản phẩm hoàn thành và ảnh tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 2.6. Đặc điểm lao động: Yếu tố lao động có vai trò quyết định đến sản xuất kinh doanh. Trình độ hiểu biết, trình độ tay nghề bậc thợ nâng cao thì sản phẩm làm ra càng có chất lượng và khả năng nắm bắt, thích nghi với công nghệ mới của người lao động càng nhanh, nhờ đó mới có thể đáp ứng được kịp thời yêu cầu của thị trường. Công ty dệt Minh Khai ngày đầu khi mới thành lập mới chỉ có khoảng 415 cán bộ CNV, trong đó có 55 cán bộ quản lý kinh tế và kỹ thuật. Hiện nay số lượng cán bộ - công nhân viên trong công ty là 1.061 người trong đó:  Giám đốc: 01  Phó giám đốc kỹ thuật- QMR: 01  Phó giám đốc sản xuất: 01  Phó giám đốc nội chính và XDCB: 01  Lao động trực tiếp: 981 người  Lao động gián tiếp: 76 người Tính đến thời điểm 31/12/2004 theo báo cáo sử dụng lao động của công ty:
  17. Bảng 1.3 : Báo cáo lao động Chỉ tiêu Số lượng (người) Lao động có trong danh sách 1190 Lao động có việc làm 1061 Nghỉ theo chế độ 105 Nghỉ vì lý do khác 24 Nguồn: Phòng tổ chức- Công ty dệt Minh Khai Bảng 1.4 : Cơ cấu lao động của công ty dệt Minh Khai Chỉ tiêu Người % 1. Tổng số cán bộ CNV 1061 100 Lao động trực tiếp 981 92.5 Lao động gián tiếp 80 7,5 Lao động nữ 840 79 2. Tuổi đời bình quân 32 Nguồn : Phòng tổ chức- Công ty dệt Minh
  18. Bảng 1.5 : Chất lượng lao động trực tiếp sản xuất SL STT Tay nghề Tỷ lệ (%) (người) 1 Bậc 7 0 0 2 Bậc 6 12 1,2 3 Bậc 5 146 14,9 4 Bậc 4 240 24,4 5 Bậc 3 455 46,4 6 Bậc 2 80 8,2 7 Bậc 1 48 4,9 Tổng 981 100 Nguồn : Phòng tổ chức- Công ty dệt Minh Khai Với đặc điểm là doanh nghiệp sản xuất trong ngành dệt nên tỷ lệ lao động nữ trong công ty là tương đối cao. Điều này thực hiện thông qua bảng 2. Lao động nữ có đặc điểm cần cù, khéo léo, chăm chỉ nên năng suất lao động cao, song những đối tượng lao động này có một đặc điểm khác biệt đó là họ cần có thời gian nghỉ phép để sinh đẻ, chăm sóc con cái đau ốm. Đây là một hạn chế của đối tượng lao động này. Mặc dù vậy, công ty dệt Minh Khai vẫn tạo mọi điều kiện cho đội ngũ lao động để họ có thể phát huy tối đa khả năng làm việc. Trình độ của đội ngũ lao động có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất của công ty dệt Minh Khai. Lao động trực tiếp sản xuất có tay nghề bậc thợ càng cao thì sản phẩm công ty sản xuất ra mới đạt được yêu cầu xuất khẩu. Sản phẩm chất lượng càng cao thì lượng xuất khẩu được càng nhiều. Cán bộ quản lý trong công ty cũng đóng vai trò rất lớn trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty thông qua hoạt động giao dịch, đàm phán ký kết các hợp đồng xuất khẩu. Công ty dệt Minh Khai chủ yếu dựa vào các hợp đồng xuất khẩu trực tiếp. Giám đốc công ty là người quyết định việc xuất khẩu, ký kết hợp đồng xuất khẩu với các bạn hàng nước ngoài.Trình độ cán bộ công ty hiện nay:
  19.  Đại học: 5.4% Tổng cán bộ- công nhân viên  Công nhân bậc cao: 42% Tổng cán bộ- công nhân viên Hiện nay, công ty dệt Minh Khai rất chú trọng quan tâm tới việc bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ lao động. Những lao động quản lý có bằng cấp, lao động có trình độ tay nghề cao, nhiều kinh nghiệm ngày càng tăng và chiếm một tỷ trọng khá cao trong số lao động của công ty. 2.7. Đặc điểm cơ cấu sản xuất và bộ máy quản lý của công ty: 2.7.1. Cơ cấu sản xuất Cơ cấu sản xuất có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu của công ty. Mặc dù các yếu tố sản xuất khác nhau đã chuẩn bị tốt và đầy đủ nhưng nếu cơ cấu sản xuất không hợp lý sẽ gây lãng phí nguồn lực, và không đảm bảo cho việc thực hiện đúng thời hạn hợp đồng xuất khẩu quy định. Cơ cấu sản xuất của công ty thể hiện thông qua sơ đồ 1.1 Sơ đồ 1.1 : Sơ đồ cơ cấu sản xuất của công ty: Cơ cấu sản xuất của công ty Phân xưởng Phân xưởng Phân xưởng Phân xưởng dệt thoi dệt kim tẩy nhuộm hoàn thành Kho sợi Kho trung gian Kho thành phẩm Nguồn:Phòng kế hoạch thị trường-Công ty dệt Minh Khai - Phân xưởng dệt thoi có nhiệm vụ: Có nhiệm vụ thực hiện các công đoạn chuẩn bị các trục dệt tuốt sợi ngang, đưa vào máy dệt để dệt khăn thành phẩm theo quy trình công nghệ sản xuất khăn bông. - Phân xưởng dệt kim: Có nhiệm vụ thực hiện các công đoạn chuẩn bị các bộ sợi mắc lên máy để dệt thành
  20. vải tuyn mộc theo quy trình công nghệ sản xuất vải màn tuyn. -Phân xưởng tẩy nhuộm: Có nhiệm vụ thực hiện các công đoạn nấu, nhuộm, sấy khô và đóng hìnhcác loại khăn, sợi và vải màn tuyn theo quy trình công nghệ sản xuất vải màn tuyn và mặt hàng khăn bông xuất khẩu. - Phân xưởng hoàn thành: Có nhiệm vụ thực hiện các công đoạn cắt may, kiểm đóng gói, đóng kiện các sản phẩm khăn bông, và cắt kiểm các loại vải tuyn, vải nối cùng quy trình công nghệ sản xuất các mặt hàng. Bốn phân xưởng này được bố trí theo yêu cầu của dây chuyền công nghệ sản xuất sản phẩm. Do vậy các phân xưởng có mối quan hệ qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Riêng hai phân xưởng là phân xưởng dệt và phân xưởng dệt thoi thì có sự độc lập nhau, do những phân xưởng này có một quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm riêng biệt, song vẫn chịu sự quản lý chung. Với cơ cấu sản xuất như trên tuỳ theo tình hình hoạt động cụ thể mà công ty có kế hoạch tổ chức, sản xuất, bố trí hợp lý các tổ sản xuất trong các phân xưởng và các bộ phận phụ hợp lý bảo đảm dây chuyền sản xuất hoạt động cân đối nhịp nhàng và liên tục. Có thể nói cơ cấu tổ chức sản xuất này đã giúp đỡ cho công ty có điều kiện chuyên môn hóa và hợp tác hoá giữa các bộ phận một cách có hiệu quả, đồng thời tạo ra khả năng tự chủ và quản lý sản xuất kinh doanh nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, khuyến khích nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng doanh thu và doanh lợi cho công ty. 2.7.2 Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty Trong thời kỳ bao cấp bộ máy quản lý của công ty rất cồng kềnh, kém hiệu quả. Nhưng từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, công ty đã tiến hành cải tổ, đổi mới bộ máy quản lý làm cho nó gọn nhẹ và phù hợp với cơ chế mới. Một cơ cấu tổ chức hợp lý gọn nhẹ sẽ tạo nên một môi trường nội bộ công ty thuận lợi cho công việc của công nhân và các bộ phận khác. Nó tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu của công ty được diễn ra thuận lợi. Bộ máy tổ chức quản lý của công ty hiện nay được tổ chức như sơ đồ 2.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2