intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Phát triển năng lực nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm thông qua việc gắn kết tri thức khoa học với phát triển hóa học phổ thông phần Hidrocacbon lớp 11 với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin

Chia sẻ: Vân Trần | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:167

236
lượt xem
53
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu: làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc phát triển năng lực nghề nghiệp cho sinh viên hóa học, trên cơ sở đó để xây dựng các bài tập phát triển năng lực nghề nghiệp cho họ nhằm góp phần nâng cao chất lượng GD và ĐT sinh viên ngành hóa học ở các trường ĐH và CĐ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Phát triển năng lực nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm thông qua việc gắn kết tri thức khoa học với phát triển hóa học phổ thông phần Hidrocacbon lớp 11 với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin

  1.                ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM  KHOA HÓA HỌC ……… PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH  VIÊN SƯ PHẠM  THÔNG QUA VIỆC GẮN KẾT TRI  THỨC KHOA HỌC VỚI KIẾN THỨC  HÓA HỌC PHỔ  THÔNG PHẦN HIĐROCACBON LỚP 11 VỚI SỰ HỖ  TRỢ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY     GV hướng dẫn:                             Sinh viên thực hiện: Th.S ĐẶNG THỊ THUẬN AN              TRẦN THỊ HỒNG VÂN Huế, Khóa học 2010 – 2014 Lời cảm ơn Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận   văn  này,  em  đã nhận được  sự  hướng dẫn, giúp đỡ  quý báu của các thầy cô, các anh chị, các em  HS và các bạn. 
  2. Với lòng kính trọng và biết  ơn sâu sắc em xin được bày tỏ  lời cảm  ơn chân thành   tới: Cô giáo ­ Thạc sĩ Đặng Thị Thuận An, người đã động viên, dành nhiều thời  gian tâm huyết hướng dẫn và giúp đỡ tận tình cho  em trong suốt quá trình thực hiện  đề tài.  Xin cám ơn thầy giáo – Tiến sĩ Nguyễn Văn Dũng, cô giáo – Thạc sĩ Đặng Thị  Thuận An, thầy giáo Phan Thế  Bình đã tận tình hướng dẫn, dạy bảo chúng em  trong suốt 4 năm học đại học về phương pháp dạy hóa học mang lại hiệu quả cao   nhất, hướng dẫn chúng em cách thức xây dựng một luận văn hoàn chỉnh và nhiều   PPDH, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm khác. Xin cám ơn cô giáo Nguyễn Thị Kim Phương và Phan Nguyên Nhật Phương –  GV giảng dạy môn hóa học và các em HS lớp 11B8, 11A2 ở trường THPT Gia Hội,  Huế  đã tạo điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ  em thực nghiệm sư  phạm   trong quá trình thực tập tại trường. Xin chân thành cám ơn gia đình, các bạn sinh viên khoa hóa và em gái đã luôn  bên cạnh động viên, giúp đỡ em học tập, làm việc và hoàn thành luận văn. Bước đầu làm một đề tài luận văn, tìm hiểu về phương pháp giảng dạy môn   hóa học, kiến thức của em còn hạn chế và còn nhiều bỡ ngỡ. Do vậy, không tránh  khỏi những thiếu sót là điều chắc chắn, em rất mong nhận được những ý kiến đóng   góp quý báu của quý Thầy Cô trong hội đồng chấm điểm luận văn để  kiến thức   của em trong lĩnh vực này được hoàn thiện hơn. Trân trọng. Huế, ngày 01 tháng 05 năm 2014                                                                  Sinh viên thực hiện                                                               Trần Th ị H ồng Vân
  3. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
  4. MỤC LỤC
  5. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Cùng   với   xu   thế   hội   nhập   quốc   tế   và   toàn   cầu   hóa,   GD   và   ĐT   của Việt  Nam  đã  được  ưu tiên  ở  vị  trí  hàng  đầu  trong hệ  thống  các  chính   sách phát triển quốc gia, đặc biệt đối với ngành Sư  phạm. Thực tiễn của nền   GD   nước   ta   hiện   nay   đã   và   đang   đặt   "lên   vai"   ngành   Sư   phạm   những   nhiệm vụ  cao quý, những trọng trách nặng nề. Hệ  thống các trường Sư  phạm   và   các   trường   có   ngành   Sư   phạm   là   nơi   ĐT   ra   những   thế   hệ   người   giáo   viên,   những   người   sẽ   quyết   định   chất   lượng   GD   và   ĐT   trong   tương   lai.   Vì thế, để  đảm bảo cho sự  phát triển bền vững của đất nước, đáp  ứng yêu cầu   phát   triển   của   thời   đại,   mỗi   sinh   viên   sư   phạm   phải   được   rèn   luyện   trong   một   quy   trình   GD   hiệu   quả,   hợp   lý,   trong   đó   đặc   biệt   chú   trọng   khâu   giúp   sinh viên phát triển năng lực nghề nghiệp. Tuy   nhiên,   thực   tế   cho   thấy  ở   các   trường   Cao  đẳng,   Đại   học   nói  chung   không  ít sinh viên còn chưa xác định rõ mục tiêu, lý tưởng, động cơ  nghề  nghiệp   của mình, khả  năng thích ứng với hoạt động học tập và rèn luyện nghề  còn nhiều  hạn chế, hầu hết các em chưa được trang bị những tri thức cần thiết để hình thành   và   phát   triển   năng lực nghề  nghiệp. Vì thế  các bạn sinh viên gặp rất nhiều khó khăn trong quá   trình học tập và rèn luyện, nhiều bạn còn băn khoăn hoang mang với sự lựa chọn   nghề   của   mình. Điều đó  ảnh hưởng không nhỏ   đến hứng thú,  kết quả  học  tập và  rèn   luyện nghề nghiệp của các bạn. Xuất   phát   từ   mục   tiêu   chiến   lược   của   nền   GD   hiện   đại,   từ   thực   tiễn   GD và vai trò đặc biệt quan trọng của năng lực nghề  nghiệp, em chọn  đề  tài   nghiên cứu luận văn: "“Phát triển năng lực nghề  nghiệp cho sinh viên sư phạm   thông qua việc gắn kết tri thức khoa học với kiến thức hóa học phổ thông phần   hiđrocacbon – chương trình hóa học lớp 11 với sự hỗ trợ của công nghệ thông   tin”.   2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Làm sáng tỏ  những vấn đề  lý luận và thực tiễn của việc phát triển năng   lực nghề  nghiệp cho sinh viên Hóa học, trên cơ sở đó đề xây dựng các bài tập phát  triển năng lực nghề nghiệp cho họ nhằm góp phần nâng cao chất lượng GD và ĐT  sinh  viên ngành Hóa học ở các trường Đại học và Cao đẳng. 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 3.1. Nghiên cứu lý luận: Năng lực nghề nghiệp, những vấn đề tổng quan, tác  dụng nâng cao năng lực nghề nghiệp cho sinh viên. 3.2. Đề xuất các bước, một số biện pháp phát triển năng lực nghề nghiệp cho   sinh viên thông qua phần bài tập hóa học ở chương trình đại học.  3.3. Xây dựng hệ thống bài tập nhằm phát huy năng lực nghề nghiệp cho sinh   viên thông qua phần bài tập hóa học ở chương trình đại học.
  6. 3.4. Thực nghiệm sư phạm bước đầu nhằm kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu  quả của biện pháp và những đề xuất của đề tài. 4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC  Nếu xây dựng hệ thống bài tập tốt có chất lượng  sẽ giúp sinh viên phát triển   các năng lực tư  duy như: tư  duy khoa học, tư  duy logic, tư  duy sáng tạo... ;  có  phương pháp tự  học tốt. Từ  đó sẽ  góp phần nâng cao chất lượng  GD và ĐT sinh  viên ngành Hóa học. 5. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 5.1. Khách thể nghiên cứu:   ­ Chương trình hóa học ở bậc phổ thông. 5.2. Đối tượng nghiên cứu:  ­ Năng lực nghề nghiệp của sinh viên ngành Hóa học. ­ Nội dung, chương trình Hoá học ở phổ thông. ­ Hệ thống câu hỏi và bài tập hoá học ở phổ thông. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Thu thập, phân loại, tổng hợp các tài  liệu và các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài. 7.2. Phương pháp điều tra. 7.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI Xây dựng hệ thống lí thuyết và bài tập nhằm phát triển năng lực nghề nghiệp   cho sinh viên sư phạm thông qua việc gắn kết tri thức khoa học với kiến thức hóa  học phổ thông phần hiđrocacbon lớp 11 với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin. 9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn  gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài (... trang). Chương 2:  Một số  biện pháp phát triển năng lực nghề  nghiệp cho sinh viên  ngành hóa học (.... trang). Chương 3: Thực nghiệm sư phạm (... trang).
  7. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. Quan điểm về năng lực, năng lực nghề nghiệp 1.1. Năng lực "Năng lực" (competency)­ là một trong những thành tố  quan trọng trong cấu  trúc nhân cách. Có tác giả  cho rằng: “Người có năng lực (NL) là người đạt hiệu   suất và chất lượng hoạt động cao trong các hoàn cảnh khác nhau”. Theo tác giả  Phạm Minh Hạc, NL nói lên “người đó có thể  làm gì, làm đến mức nào, làm với  chất lượng ra sao. Thông thường người ta còn gọi là khả năng hay "tài"”. Dưới góc độ  GD học, chúng ta có thể  xem xét NL là kết quả  của quá trình   GD, rèn luyện của cá nhân, thể  hiện  ở  những kiến thức, kĩ năng và thái độ  phù   hợp để  cá nhân có thể  tham gia hiệu quả vào một lĩnh vực hoạt động nhất định.   Như vậy, ở góc độ này, người có NL ở lĩnh vực nào thì nhất định phải có tri thức   kĩ năng kĩ xảo trong lĩnh vực ấy, có thái độ  tích cực để vận dụng tri thức kĩ năng  hiệu quả vào các hoạt động. Tuy nhiên có tri thức, kĩ năng chưa thể khẳng định cá  nhân có NL hay không, bởi tri thức kĩ năng  ấy chưa chắc đã được hiện thực hóa   trong hoạt động. Vậy NL dưới góc độ  GD học được thể  hiện  ở  kết quả  hoạt  động của cá nhân, khả  năng vận dụng tri thức, kĩ năng để  tham gia có hiệu quả  trong một lĩnh vực hoạt động nhất định. NL có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn bởi “sự  phát triển NL của mọi  thành viên trong xã hội sẽ  đảm bảo cho mọi người tự  do lựa chọn một nghề  nghiệp phù hợp với khả năng cá nhân, làm cho hoạt động của cá nhân có kết quả  hơn,... và cảm thấy hạnh phúc khi lao động”. [1] Trong luận án này tôi cũng đồng ý với quan niệm:  “Năng lực là khả năng thực   hiện có hiệu quả  và có trách nhiệm các hành động, giải quyết  các nhiệm vụ, vấn   đề  thuộc lĩnh vực nghề  nghiệp, xã hội hay cá nhân trong những tình huống khác   nhau trên cơ sở kết hợp sự hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm”.[2] Hiện nay, việc phát triển năng lực thông qua dạy học được hiểu đồng nghĩa   với phát triển năng lực hành động. Năng lực hành động bao gồm: Năng lực chuyên môn: Là khả  năng thực hiện các nhiệm vụ  về  chuyên môn  cũng như  đánh giá kết quả  một cách độc lập, có phương pháp và đảm bảo chính   xác về mặt chuyên môn (bao gồm cả khả năng tư  duy logic, phân tích, tổng hợp và   trừu tượng; khả năng nhận biết các mối quan hệ thống nhất trong quá trình). Năng lực phương pháp: Là khả năng đối với những hành động có kế hoạch,  định hướng mục đích trong công việc giải quyết các nhiệm vụ  và vấn đề  đặt ra.  Trọng tâm của năng lực PP là những PP nhận thức, xử  lý, đánh giá, truyền thụ  và   giới thiệu. Năng lực xã hội: Là khả năng đạt được mục đích trong những tình huống xã  hội cũng như trong những nhiệm vụ khác nhau với sự phối hợp chặt chẽ với những   thành viên khác.
  8. Trọng tâm của năng lực xã hội là ý thức được trách nhiệm của bản thân cũng   như của những người khác, tự chịu trách nhiệm, tự tổ chức; có khả năng thực hiện   các hành động xã hội, khả năng cộng tác và giải quyết xung đột. Năng lực cá thể: Là khả  năng suy nghĩ và đánh giá được những cơ hội phát  triển cũng như những giới hạn của mình; phát triển được năng khiếu cá nhân cũng  như xây dựng và thực hiện kế hoạch cho cuộc sống riêng; những quan điểm, chuẩn   giá trị  đạo đức và động cơ  chi phối các hành vi  ứng xử. Các thành phần năng lực  “gặp nhau” tạo thành năng lực hành động. 1.2. Năng lực nghề nghiệp Năng lực nghề nghiệp là sự tương ứng giữa những đặc điểm tâm lý và sinh lý  của con người với những yêu cầu do nghề  nghiệp đặt ra. Không có sự  tương ứng   này thì con người không thể  theo  đuổi nghề   được.  Năng lực  nghề  nghiệp vốn   không có sẵn trong con người, không phải là những phẩm chất bẩm sinh. Nó hình   thành và phát triển qua hoạt động học tập và lao động. Trong quá trình làm việc,   năng lực này tiếp tục được phát triển hoàn thiện. Học hỏi và lao động không mệt   mỏi là con đường phát triển năng lực nghề nghiệp. ”.[3] 1.3. Tình hình nghiên cứu về  năng lực nghề  nghiệp  của sinh viên ngành Hóa  học ở các trường Đại học và Cao đẳng Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về năng lực nghề nghiệp chưa được  nhiều tác giả  quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu về  vấn đề  này còn   chưa có hệ thống.   Hội thảo khoa học: “Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học, nghề nghiệp   ́ ọc Trương Đai hoc Hung V cho sinh viên nganh Hoa h ̀ ̀ ̣ ̣ ̀ ương ” [22]. Hội thảo đã nhận  được 16 báo cáo khoa học của các nhà nghiên cứu, nhà quản lý, nhà khoa học và các  giảng viên trực tiếp giảng dạy tại Trường THPT và Đại học, Viện nghiên cứu. Các   báo cáo khoa học chủ yếu tập trung vào nội dung: 1. Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và giảng  dạy sinh học, hóa học ở các trường đại học hiện nay. 2. Thành tựu phát triển của ngành hóa học các hợp chất thiên nhiên và định   hướng nghề  nghiệp cho sinh viên hóa học có nguyện vọng học tập và nghiên cứu   tại Viện hàn lâm Khoa học và công nghệ Việt Nam. 3. Phương pháp học tập, nghiên cứu để trở thành những GV giỏi ở các trường  THPT chuyên và không chuyên. Khái quát các kết quả nghiên cứu trên có thể rút ra kết luận: ­ Những kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn, giúp cho thế  hệ trẻ và những người lao động nói chung đáp ứng những yêu cầu của hoạt động   nghề  nghiệp, tạo ra hiệu quả  tốt nhất trong lĩnh vực này. Tuy nhiên việc  ứng   dụng những kết quả  nghiên cứu để  giúp SV phát triển NLNN trong các trường  chuyên nghiệp nói chung và các trường SP nói riêng còn nhiều hạn chế.
  9. ­ Trong lĩnh vực ĐT GV, làm thế  nào để  giúp SV sư  phạm phát triển NLNN  vẫn còn là vấn đề  khá mới mẻ. Điều này một lần nữa khẳng định tính cấp thiết  của việc triển khai vấn đề nghiên cứu của luận văn.     Nội dung của cuộc hội thảo khoa học: " Phát triển năng lực nghề  nghiệp   của sinh viên sư phạm hóa học" của trường Đại học sư phạm Hà Nội [4] vào ngày  ngày 21 tháng 12 năm 2012 nói rõ:  1. ĐT các môn khoa học cơ  bản (Hóa học lý thuyết và Hóa lý, Hóa học Vô  cơ, Hóa học Hữu cơ, Hóa học Phân tích, Hóa học công nghệ  và môi trường) theo   định hướng phát triển năng lực nghề nghiệp của sinh viên sư phạm hóa học. 2. ĐT các môn khoa học GD (Tâm lý học sư phạm, GD học, Lý luận dạy học   hóa học) theo định hướng phát triển năng lực nghề  nghiệp của sinh viên sư  phạm   hóa học. 3. Sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông  trong ĐT GV hóa học. 4. Phối hợp với trường phổ thông trong việc phát triển năng lực nghề nghiệp  của sinh viên sư phạm hóa học. 5.  Nghiên  cứu bài  học  và   ứng  dụng trong  việc   phát triển  năng  lực  nghề  nghiệp của sinh viên sư phạm hóa học.   Luận án [5]: Phát triển năng lực độc lập sáng tạo cho sinh viên Đại học Kĩ   thuật thông qua dạy học Hóa học hữu cơ của nghiên cứu sinh Đinh Thị Hồng Minh   khóa ĐT 2008 – 2011 Viện Khoa học GD Việt Nam đã thực hiện được mục đích và  nhiệm vụ đề ra và đạt được các kết quả mới như sau: 1. Về lí luận: Đã hệ  thống hóa, làm sáng tỏ  một số  vấn đề  lí luận liên quan đến việc phát  triển năng lực độc lập sáng tạo của sinh viên Đại học kĩ thuật. Hệ thống hóa một số ý kiến của tác giả trong và ngoài nước về năng lực, năng  lực nghề nghiệp, sáng tạo, tư duy sang tạo, tính độc lập, năng lực độc lập sáng tạo,   tính độc lập, năng lực độc lập sáng tạo, biểu hiện của năng lực sáng tạo và cách  kiểm tra đánh giá. Trình bày bản chất, đặc điểm, ưu nhược điểm của một số PPDH tích cực có  thể vận dụng để phát triển năng lực độc lập sáng tạo cho SV trong DH Hóa học   hữu cơ.  2. Về thực tiễn:   Đã tiến hành nghiên cứu, điều tra phân tích một số vấn đề  thực tiễn có liên   quan đến việc phát triển năng lực độc lập sáng tạo của SV ĐH kĩ thuật thông qua   dạy học Hóa học hữu cơ.  Đã tiến hành nghiên cứu nội dung chương trình Hóa học hữu cơ   ở  trường  ĐH kĩ thuật ngành Hóa và ngành Y Dược để  thấy những điểm tương đồng và sự  khác biệt giữa chúng cũng như khác nhau về mức độ lý thuyết và thực tiễn so với  nội dung Hóa học hữu cơ ở trường phổ thông.
  10. Đã điều tra thực trạng việc sử  dụng PPDH tích cực trong DH Hóa học hữu  cơ ở trường ĐH ngành kĩ thuật. Đã phân tích đặc điểm tâm sinh lý, năng lực học Hóa học của SV ĐH kĩ  thuật. 3. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, đã đề xuất mới về phát triển năng lực độc   lập sáng tạo cho SV ĐH kĩ thuật cụ thể là:  + Đã xác định một số  biểu hiện năng lực độc lập sáng tạo của SV ĐH kĩ   thuật.  + Đề xuất thiết kế bộ công cụ đánh giá năng lực độc lập sáng tạo cho SV Kĩ  thuật gồm: bảng kiểm tra quan sát, phiếu hỏi, phiếu đánh giá sản phẩm, đề  kiểm  tra Hóa Hữu cơ. + Đề  xuất 4 định hướng, 5 nguyên tắc phát triển năng lực độc lập sáng tạo   cho SV ĐH kĩ thuật. 2. Cơ sở khoa học của việc phát triển năng lực nghề nghiệp [6] 2.1. Cơ sở triết học Khi xem xét cơ  sở  triết học của việc phát triển NLNN, cần đề  cập đến hai  nguyên lý của phép biện chứng duy vật là nguyên lý về  mối liên hệ  phổ  biến và  nguyên lý về sự phát triển. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho phép chúng ta xem xét đánh giá NLNN   của cá nhân trên nhiều góc độ, nhiều khía cạnh, từ yếu tố chủ quan đến khách quan,  yếu tố  bên trong cá nhân và ngoài cá nhân, phân tích được những mối liên hệ  giữa   chúng. Điều này giúp ta có cách nhìn bao quát, toàn bộ đối tượng nghiên cứu và đưa   ra những giải pháp hợp lí để nâng cao NLNN cho họ. Nguyên lý về  sự  phát triển: cho ta thấy thực chất NLNN là quá trình cá nhân   hình thành và phát triển những kĩ năng và NL để  giải quyết một loạt những mâu  thuẫn trong hoạt động nghề nghiệp, từ đó thúc đẩy sự phát triển các phẩm chất nghề  nghiệp, đáp ứng những yêu cầu của nghề. 2.2. Cơ sở sinh học Trong các tác phẩm, các công trình nghiên cứu về sinh vật học làm cơ  sở sinh   học cho việc hình thành và phát triển NLNN, đặc biệt lưu ý các lý thuyết sinh học  của Darwin, cơ thể con người để tồn tại và phát triển luôn phải điều chỉnh mình cho   thích nghi, thích ứng với những thay đổi của môi trường sống. Xét về mặt sinh học,   với học thuyết phản xạ có điều kiện của Palov, phát triển NLNN chính là việc hình  thành một loạt các phản xạ  có điều kiện, giúp cho cá nhân thay đổi cách  ứng xử,   hành vi, điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với yêu cầu và điều kiện hoàn   cảnh luôn luôn thay đổi của hoạt động nghề nghiệp.  2.3. Cơ sở tâm lý học Quá trình phát triển NLNN phải dựa trên những cơ  sở  tâm lý nhất định,   những đặc  điểm  tâm lý cá  nhân  và  đặc  điểm  tâm lý  lứa  tuổi,  các  chức  năng   tâm lý và cấu tạo tâm lý hay nói một cách ngắn gọn phải dựa trên những đặc  
  11. điểm về  ý thức nghề  của cá nhân, bao gồm các đặc điểm về  nhận thức, tình   cảm, ý chí, kỹ năng, kỹ xảo,… đối với một lĩnh vực nghề.  Xét về mặt tâm lý, nếu cá nhân có những đặc điểm tâm lý thuận lợi  thích hợp  với một nghề nào đó (về nhận thức, kỹ xảo, ý chí,…) thì sự phát triển NLNN  diễn  ra sẽ dễ dàng hơn nhiều đối với cá nhân không có những đặc điểm tâm lý đó. Ví dụ,  một SV sư phạm rất say mê, yêu thích nghề Sư phạm, đây sẽ  là điều kiện thuận lợi  cho sự phát triển NLNN Sư phạm của SV đó diễn ra nhanh chóng và dễ dàng hơn.  Do vậy, việc phát triển NLNN xét về mặt tâm lý cũng  chính là quá trình hình  thành những đặc điểm tâm lý, nhân cách cơ  bản phù   hợp và đáp  ứng những yêu  cầu luôn luôn thay đổi của nghề.  2.4. Cơ sở xã hội học Về mặt xã hội học, sự phát triển NLNN là quá trình mỗi cá nhân tiếp nhận   được các giá trị của xã hội, lĩnh hội các giá trị  và chuẩn mực xã hội, điều tiết các  mối quan hệ  xã hội, xác định vị  trí của mình trong những môi trường, hoàn cảnh  xã hội nhất định. Xét cho cùng, chính là việc cá nhân tham gia vào quá trình xã hội   hóa. Như vậy,  ở góc độ này, phát triển NLNN chính là việc cá nhân tạo ra những  hành vi, ứng xử đáp ứng mọi yêu cầu của môi trường và hoạt động nghề nghiệp.  Hành vi,  ứng xử đó rất linh hoạt và mới mẻ, thậm chí có khả  năng thay đổi môi   trường đặc điểm của nghề, tạo ra giá trị mới cho xã hội, khẳng định vị thế xã hội   của cá nhân. 2.5. Cơ sở lý luận GD hướng nghiệp Việc quan tâm tới quá trình phát triển NLNN của SV không thể  tách rời cơ  sở lý luận GD, bởi NLNN là một nội dung của GD hướng nghiệp, GD ngh ề trong   các nhà trường. GD hướng nghiệp là một hệ  thống các tác động GD nhằm định  hướng, hình thành và phát triển các phẩm chất và NLNN cho người lao động. Quá   trình này mang tính liên tục, lâu dài, có tính linh hoạt, bao gồm các giai đoạn có   mối lien hệ  chặc chẽ  với nhau, đó là các giai đoạn: Giới thiệu và tuyên truyền   nghề; Tư vấn nghề; Tuyển chọn nghề; Năng lực nghề nghiệp; Thích ứng nghề. Như  vậy, thích  ứng nghề  là giai đoạn cuối cùng của công tác hướng nghiệp  và cũng là giai đoạn phức tạp nhất, đòi hỏi sự nỗ lực của cá nhân nhiều nhất. Mỗi   nghề đòi hỏi con người phải có khả năng thích ứng ở những mức độ xác định. 3. Phát triển năng lực nghề nghiệp cho sinh viên ngành hóa học [8] 3.1.  Đặc  điểm  hoạt  động rèn  luyện  nghề  nghiệp của  sinh  viên ngành  sư  phạm hóa học Trong nhà trường sư  phạm, "nghề"  đang được ĐT là một "mô hình" của   nghề  dạy học. Nó chưa phải là môi trường GD đang diễn ra  ở  các cơ  sở  nhà  trường. Tuy nhiên, việc tham gia rèn luyện tích cực trong nhà trường "mô hình" đó  lại có ý nghĩa quyết định đối với SV, trang bị cho họ những kiến thức, kĩ năng cơ  bản để  có thể  tham gia "hành nghề" trong môi trường thực sự  sau này. Nếu đáp   ứng tốt, các SV sẽ dễ dàng thích nghi hiệu quả với môi trường nghề nghiệp thực   tế  sau khi tốt nghiệp. "Mô hình" ĐT nghề   ở  trường sư  phạm quy định đến đặc   điểm riêng trong hoạt  động rèn luyện nghề  của SV sư  phạm nói chung và sư 
  12. phạm hóa học nói riêng. Mục đích hoạt động rèn luyện nghề  của SV sư  phạm: có kiến thức chuyên   môn và kĩ năng thực hành cơ bản về nghề dạy học, có khả năng giải quyết những  vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành sư phạm,... Nội dung rèn luyện nghề của SV sư phạm: trau d ồi tri th ức chuyên môn, văn   hóa sư phạm, hiểu biết xã hội, rèn luyện các phẩm chất nhân cách người GV, rèn  luyện năng lực, kĩ năng sư phạm,... Phương pháp rèn luyện nghề  của SV sư  phạm: chú trọng phương pháp tự  học, tự  GD, tham gia tích cực vào các hoạt động rèn NVSP thường xuyên và các   hoạt động thực tế ở trường phổ thông,... Môi trường rèn luyện nghề của SV sư phạm là môi trường đạo đức đặc biệt   với những yêu cầu cao của xã hội. Các hình thức tham gia hoạt động rèn luyện nghề  của SV sư  phạm hóa nói  riêng rất phong phú và đa dạng, gắn liền với các hoạt động học tập và GD SV ở  trường sư  phạm như  rèn luyện các kĩ năng sư  phạm trên lớp,  ở  nhà, theo nhóm,  tổ, các hình thức tổ  chức câu lạc bộ  hóa học, seminar, thành lập các diễn đàn,   trang web về hóa học, tổ chức hội thi NVSP hàng năm. Trong quá trình học tập và rèn luyện nghề   ở  trường sư phạm, động cơ  có ý  nghĩa rất quan trọng đối với kết quả hoạt động của SV. Những động cơ này sẽ là   những động lực thôi thúc SV tham gia tích cực vào các hoạt động rèn luyện nghề,   vượt qua mọi khó khăn, đáp  ứng những yêu cầu của hoạt động rèn luyện nghề  nghiệp. Những động cơ  tích cực cần phải xây dựng  ở  SV đó là các động cơ  học   tập đúng đắn, học “vì ngày mai lập nghiệp”, vì “sự  nghiệp xây dựng đất nước   giàu mạnh, vì một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, động cơ thành đạt, động  cơ  nghề  nghiệp,... cần xây dựng thái độ  học tập tích cực, có ý thức tự  giác, chủ  động, có tinh thần cầu thị, khiêm tốn, học hỏi và sự  nỗ  lực ý chí trên con đường   rèn luyện nghề nghiệp của mình. 3.2. Các nội dung phát triển năng lực nghề    nghiệp cho sinh viên  ngành sư  phạm hóa học ĐT các môn khoa học cơ  bản (Hóa học lý thuyết và Hóa lý, Hóa học Vô cơ,  Hóa học Hữu cơ, Hóa học Phân tích, Hóa học công nghệ  và môi trường) theo định  hướng phát triển năng lực nghề nghiệp của sinh viên sư phạm hóa học. ĐT các môn khoa học GD (Tâm lý học sư phạm, GD học, Lý luận dạy học hóa   học) theo định hướng phát triển năng lực nghề  nghiệp của sinh viên sư  phạm hóa   học. Sử  dụng thiết bị  dạy học và  ứng dụng công nghệ  thông tin và truyền thông  trong ĐT GV hóa học. Phối hợp với trường phổ thông trong việc phát triển năng lực nghề nghiệp của  sinh viên sư phạm hóa học. Nghiên cứu bài học và  ứng dụng trong việc phát triển năng lực nghề  nghiệp   của sinh viên sư phạm hóa học. 
  13. Từ đó SV có thể:  + Lập kế hoạch dạy học và GD dưới sự hỗ trợ giúp đỡ của giảng viên, chuẩn  bị  giáo án hay kế  hoạch hoạt động GD, tùy theo mục đích đặt ra. SV có những tài   liệu tham khảo, trao đổi với bạn bè và chuẩn bị giáo án cho chính mình. + Chuẩn bị  những điều kiện để  dạy học hay tổ  chức họat động GD như:   chuẩn bị  và làm đồ  dùng dạy học, tập sử  dụng đồ  dùng dạy học, các tài liệu  ấn  phẩm, tranh/  ảnh, các vật liệu, sa bàn, luyện cách sử  dụng dụng cụ  thí nghiệm và  phối kết hợp với việc trình bày diễn giải hay ra câu hỏi thảo luận, luyện cách viết   bảng, tập sử dụng các thiết bị nghe nhìn hiện đại... + Tập giảng và rèn luyện các kĩ năng cụ thể như: kĩ năng trình bày bảng và lời   nói; kĩ năng trìnhh bày bằng lời nói; kĩ năng biểu đạt; kĩ năng ra câu hỏi; kĩ năng kết  hợp giảng dạy với sử  dụng đồ  dùng thiết bị  dạy học, kĩ năng tổ  chức thảo luận   nhóm… + Thực hành giảng dạy, đóng vai trước khi đi xuống thực tập tốt nghiệp tại   trường phổ  thông. Việc thực hành giảng dạy kết hợp ghi hình để  sinh viên có thể  nghiên cứu, xem lại băng hình, trao đổi rút kinh nghiệm sau thực hành. Việc ghi   hình giúp cho sinh viên và giảng viên có cơ  hội xem lại, phân tích sâu sắc những   thành công và bài học rút kinh nghiệm – là điều kiện để  sinh viên tập luyện trước   khi thực tập tốt nghiệp tại trường phổ thông. 3.3. Các mức độ phát triển năng lực nghề nghiệp của sinh viên sư phạm hóa  họ c Căn cứ vào những mức độ biểu hiện các tiêu chí đánh giá trong nội dung phát  triển NLNN của SV sư phạm có 4 mức độ phát triển NL này như sau: Ở mức độ  thấp:  Ở mức độ này, những biểu hiện trong các tiêu chí đánh giá  nội dung phát triển NLNN của SV không được thể  hiện rõ rệt, không thường  xuyên, chỉ đôi khi được thể  hiện trong những tình huống nhất định. SV chưa tích  cực trong học tập rèn luyện nghề nghiệp, sự thiếu linh hoạt và thụ động trong các  hoàn cảnh thích ứng. Ở  mức độ  trung bình : SV có những biểu hiện của việc phát triển NLNN  ở  mức độ  trung bình, nhưng chưa tích cực, chưa hiệu quả, có thể  thích nghi và làm  quen với môi trường học tập và rèn luyện nghề  nghiệp song kết quả  chỉ   ở mức   bình thường, chưa có sự  nhanh nhạy, sự  thay đổi kịp thời để  đáp  ứng những yêu   cầu của hoạt động. Ở  mức độ  cao:  Những biểu hiện  ở  mức độ  này cho thấy SV có khả  năng  thích  ứng với các hoạt động học tập và rèn luyện nghề  nghiệp một cách khá dễ  dàng, có phản xạ  nhanh với những biến đổi và yêu cầu của cuộc sống và hoạt   động rèn luyện nghề  nghiệp,   đạt kết quả  tốt trong các  lĩnh vực hoạt  động  ở  trường Sư phạm. Ở  mức độ  rất cao:  Đây là mức độ  cao nhất của phát triển NLNN của SV,   thể  hiện sự  linh hoạt sáng tạo, tính tích cực rất cao của SV trong các hoạt động   học tập và rèn luyện nghề  nghiệp.  Ở mức độ  này SV không những có khả  năng   thích nghi làm quen mà còn có khả  năng thay đổi, sáng tạo cải tạo hoàn cảnh và 
  14. bản thân cho phù hợp với sự biến đổi và yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp. 3.4. Các yếu tố   ảnh hưởng đến sự phát triển năng lực nghề  nghiệp của sinh   viên sư phạm hóa học Trong quá trình học tập rèn luyện ở trường SP, SV chịu  ảnh hưởng tác động  của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, khách quan và chủ quan.  Các yếu tố khách quan Ảnh hưởng của các giảng viên:  Thầy cô giáo là người trực tiếp tiến hành  quá trình giảng dạy, giúp SV học tập và rèn luyện các phẩm chất và NL nghề  nghiệp. Họ cũng chính là những người hơn ai hết hiểu được những khó khăn của  SV, ưu nhược điểm của SV, giúp SV làm quen, thích nghi với hoàn cảnh sống mới  ở trường chuyên nghiệp. Chính vì vậy, thầy cô giáo chính là yếu tố ảnh hưởng rất   lớn đến chất lượng GD SV cũng như NLNN của SV. Nội dung, chương trình, phương pháp và hình thức tổ  chức dạy học, GD  ở   trường SP: đây là những yếu tố  ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng ĐT nghề  ở  trường SP nói chung và khả  năng phát triển NLNN của SV sư phạm hóa học nói  riêng. Việc thực hiện nội dung, phương pháp và hình thức tổ  chức dạy học, GD   hợp lý, phù hợp với trình độ nhận thức, kích thích hứng thú học tập, củng cố lòng  yêu nghề, tạo điều kiện cơ hội cho SVthể hiện sự sáng tạo trong rèn luyện nghề  sẽ giúp SV dễ dàng thích nghi với các điều kiện học tập từ đó phát triển NLNN. Môn Rèn luyện NVSP thường xuyên: Trong trường SP, các môn học đều có ý  nghĩa nhất định trong rèn luyện nghề  nghiệp của SV sư  phạm, nhưng môn Rèn  luyện NVSP thường xuyên là môn học có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát triển  năng lực thích ứng nghề cho SV. Rèn luyện NVSP thường xuyên cung cấp cho SV   một  hệ   thống những  kiến  thức  và  kĩ năng,  những  yêu  cầu về  phẩm  chất  NL   người thầy giáo, những kiến thức nhất  định về  văn hoá sư  phạm và nghề  sư  phạm, những lĩnh vực rèn luyện cần phải thực hiện đối với SV sư  phạm. Đây   được coi là môn nghiệp vụ không thể thiếu và có tính chất đặc thù đối với SV sư  phạm. Do vậy, hiệu quả của môn học này có ý nghĩa rất lớn đối với sự thích ứng   nghề của SV sư phạm. Việc tham gia vào các hoạt động  ở  trường phổ  thông:  Bên cạnh môn  Rèn  luyện NVSP thường xuyên, hoạt động rèn NVSP của SV còn bao gồm các quá trình   thực tập, thực tế và thực hành ở trường phổ thông. Nhờ   việc tham gia vào các  hoạt động thực tập sư phạm, thực hành, thực tế. SV được sáng tỏ  lý thuyết, có cơ  hội so sánh và áp dụng lý thuyết vào thực tiễn, sự  linh hoạt trong tư  duy khi vận   dụng những điều đã học trên giảng đường vào thực tế  phổ  thông phong phú đa  dạng. Điều này giúp cho quá trình phát triển NLNN của SV trở nên dễ dàng hơn. Các phương tiện thông tin đại chúng (sách báo, truyền hình, phim  ảnh...).   Tuy không phải là yếu tố  cơ bản, song các phương tiện thông tin đại chúng cũng  ảnh hưởng nhất định tới khả  năng phát triển NLNN của SV sư  phạm. Những   thông tin khác nhau, những tấm gương tốt hay các phản ánh tiêu cực về  các thầy  cô giáo, những quan điểm, chính sách đối với ngành sư phạm,. được phản ánh trên   các phương tiện thông tin đại chúng ít nhiều cũng  ảnh hưởng đến hứng thú nghề  nghiệp, niềm tin, lý tưởng nghề nghiệp và từ  đó ảnh hưởng đến mức độ  tích cực  
  15. trong quá trình rèn luyện nghề, làm quen và phát triển NLNN của SV sư phạm. Môi trường và điều kiện học tập:  SV được học tập rèn luyện trong một môi  trường cụ  thể, với những  điều kiện cơ  sở  vật chất cụ  thể  như  giảng  đường,   trang thiết bị  học tập, thư  viện, ký túc xá, sân chơi,.. Nếu các điều kiện này đầy  đủ, đảm bảo thuận lợi cho hoạt động học tập và rèn luyện của SV thì sẽ  góp  phần tạo điều kiện cho sự phát triển NLNN của SV diễn ra dễ dàng hơn. Sự  giúp đỡ  của bạn bè, người thân:  Trong quá trình học tập và rèn luyện  nghề  nghiệp, SV sẽ gặp không ít những khó khăn. Khó khăn đó có thể  là về  học  tập, về  tài chính, về  tâm lý hay giao tiếp... Những khó khăn này không phải lúc   nào SV cũng có thể tự  giải quyết được và không phải lúc nào việc giải quyết đó   của SV cũng đúng, do vậy, sự hỗ  trợ  từ  phía bạn bè, người thân cũng có ý nghĩa  rất lớn và là nguồn động viên hỗ  trợ  SV vượt qua khó khăn, thích  ứng với cuộc  sống và hoạt động rèn luyện nghề nghiệp. Truyền thống gia đình: Nếu trong gia đình SV sư phạm có bố, mẹ, anh, chị,.  làm nghề  dạy học thì cũng có sự   ảnh hưởng của họ  đối với quá trình rèn luyện  nghề của SV, trong đó sự truyền đạt kinh nghiệm gia đình cũng là yếu tố giúp SV   tự tin, dễ thích ứng hơn đối với quá trình học tập và rèn luyện nghề.  Các yếu tố chủ quan Các yếu tố  sinh học, thể  chất:   Qua nghiên cứu cho thấy, những yếu tố  về  mặt sinh học, tư  chất cũng  ảnh hưởng nhất định đến khả  năng phát triển NLNN   của SV sư  phạm. Ví dụ, nếu SV có đặc điểm cấu tạo thanh quản tốt thuận lợi   cho việc phát âm chuẩn, âm vực tốt, giọng nói trầm  ấm dễ  nghe ... cũng là một  yếu tố thuận lợi cho SV trong việc t ập gi ảng, d ễ làm quen, dễ thích ứng với việc  sử dụng ngôn ngữ trong giảng dạy và GD. Ý thức của bản thân về  giá trị  nghề  dạy học:  Để  hình thành và phát triển  NLNN dạy học, SV cần ý thức sâu sắc về  giá trị  của nghề. Điều này thể  hiện ở  nhận thức sâu sắc của SV về  giá trị  nghề  dạy học, những phẩm chất và NL của   người thầy giáo, có tình cảm với nghề, yêu nghề, có niềm tin với nghề, nỗ lực cố  gắng, sẵn sàng thay đổi hành vi  ứng xử, thay đổi bản thân để  đáp  ứng yêu cầu  của nghề. Tất cả  những yếu tố  này chính là nội lực cơ  bản để  SV thích  ứng và   phát triển NLNN. Động  cơ,  lý   tưởng,   hứng  thú   nghề   nghiệp:   Việc   xác   định  động   cơ   nghề  nghiệp đúng đắn, có lý tưởng về  nghề, có hứng thú với nghề  cũng là những yếu   tố  quan trọng  ảnh hưởng đến sự  phát triển NLNN của SV sư  phạm. Nếu SV sư  phạm có động cơ  tích cực trong học tập, rèn luyện nghề  nghiệp (ví dụ  động cơ  mong muốn trở thành GV giỏi để phục vụ cho xã hội, động cơ thành đạt,...) thì sẽ  là yếu tố thuận lợi cho sự phát triển NLNN của SV.  Tri thức kĩ năng kĩ xảo đã có  ở  SV: Khi vào trường SP, mỗi SV sư phạm đã  có những trình độ nhất định về tri thức kĩ năng kĩ xảo, điều đó sẽ ảnh hưởng đến  quá trình học tập và khả  năng phát triển NLNN của SV, tạo thuận lợi cho quá   trình học tập và rèn luyện nghề của SV. Tính tích cực tự giác, sáng tạo trong học tập và ý chí rèn luyện nghề:  NLNN 
  16. đòi hỏi  ở  SV khả  năng tự  giác, tính tích cực sáng tạo cao trong học tập, ý chí nỗ  lực vươn lên khắc phục khó khăn, cải tạo hoàn cảnh, cải tạo bản thân đáp  ứng   yêu cầu của hoạt động rèn luyện nghề nghiệp. Càng tích cực sáng tạo, NLNN của  SV sẽ càng được nâng cao và thuận lợi cho SV trong học tập nghề cũng như  hoạt  động nghề sau này. 3.5. Các con đường phát triển năng lực nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm hóa  họ c   Phát triển NLNN thông qua việc đổi mới chương trình ĐT  ở  trường Sư   phạm Với một chương trình ĐT hợp lý, linh hoạt, luôn có sự  điều chỉnh cho phù  hợp với thực tiễn và yêu cầu xã hội, thể  hiện qua nội dung, chương trình ĐT các  môn học (việc sắp xếp các môn chung, môn cơ  sở, môn chuyên ngành,...), việc   phân bổ  các phần thực hành, các chương trình rèn NVSP thường xuyên và TTSP,   các hoạt động hỗ  trợ  trong rèn luyện nghề  cho SV... sẽ  là những yếu tố  cơ  bản   giúp SV nhanh chóng thích nghi và đạt hiệu quả tốt trong quá trình học tập và rèn  luyện nghề nghiệp, đặt cơ sở nền móng cho việc rèn luyện các phẩm chất và NL  nghề nghiệp của SV, giúp các bạn SV tự tin và tích cực trong việc lĩnh hội các tri  thức và NLNN.  Phát triển NLNN thông qua hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường   xuyên NVSP là nội dung học đặc trưng của ngành sư phạm, là một trong những tiêu   chí quyết định hiệu quả  và chất lượng ĐT  ở  trường sư  phạm. Quyết định về  "Chương trình rèn luyện NVSP thường xuyên” do Bộ  GD ban hành năm 1985   được xem là hành lang pháp lý để  thiết lập một mô hình ĐT NVSP có hệ  thống.  Trong quá trình phát triển, hoạt động này  ở  các trường sư  phạm cũng luôn có sự  thay đổi để đáp ứng những yêu cầu mới của nhiệm vụ ĐT GV. Việc tổ chức cho   SV tham gia hiệu quả  vào các hoạt  động rèn luyện NVSP thường xuyên (tập  giảng, thi NVSP, học môn Rèn luyện NVSP thường xuyên, tham gia thực tập sư  phạm,...) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc rèn luyện các phẩm chất và   năng lực nghề nghiệp của SV, từ đó tạo điều kiện tối ưu cho sự phát triển NLNN   của SV sư phạm.  Phát triển NLNN thông qua các hoạt động xã hội Ngoài nhiệm vụ  học tập, việc tổ  chức cho SV tích cực tham gia vào các   hoạt động xã hội như  phong trào tình nguyện, hiến máu nhân đạo, quyên góp  giúp đỡ  những người có hoàn cảnh khó khăn,  ủng hộ  các bạn SV nghèo vượt  khó, phòng chống thuốc lá... đều có ý nghĩa nhất định góp phần rèn luyện các   phẩm chất và NL nghề nghiệp cho SV. Giúp các bạn SV có điều kiện hiểu biết  về  đời sống xã hội rộng lớn, xác định ý thức trách nhiệm của mình đối với xã   hội, làm quen với việc thiết kế, tổ  chức các hoạt động xã hội ... đó là những   yêu cầu quan trọng để  các bạn SV vững vàng khi bước vào hoạt động nghề  nghiệp sau này ­ với tư cách là người GV tham gia vào các hoạt động xã hội và   tổ chức các hoạt động xã hội cho HS.  Phát triển NLNN thông qua các hoạt động của Đoàn, Hội sinh viên và các  
  17. hoạt động khác Hoạt động Đoàn, Hội SV tạo cơ  hội để  SV sư  phạm rèn luyện bản thân  mình, bồi dưỡng các kĩ năng như: kĩ năng sắp xếp, giải quyết công việc một   cách khoa học, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng viết, kĩ năng nói ... Đây là những công  cụ hữu hiệu phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp của người GV sau này. Tham   gia vào các hoạt động của Đoàn, Hội SV sẽ  giúp SV cảm thấy mình bản lĩnh,  tự tin và trưởng thành hơn về nhiều mặt. Vì thế, việc tổ chức cho SV sư phạm   có điều kiện, cơ  hội tham gia vào các hoạt động bổ  ích, thiết thực của Đoàn,  Hội SV cũng là con đường hữu hiệu nhằm giúp SV thích ứng nghề. Bên cạnh đó, các hoạt động khác như  hoạt động GD ngoài giờ  lên lớp, tham  gia các câu lạc bộ, tham quan học tập, tham gia các dự án GD... cũng góp phần tạo   môi trường phong phú, đa dạng và hấp dẫn để  SV sư  phạm rèn luyện các phẩm   chất và NLNN của mình. [7] 4. Bài tập hóa học 4.1. Khái niệm về bài tập và bài toán hóa học [9] Trong thực tiễn dạy học cũng như trong các tài liệu giảng dạy, thuật ngữ “bài   tập”, “bài tập hóa học” được sử  dụng cùng các thuật ngữ  “bài toán”, “bài toán hóa   học”. Theo từ  điển tiếng Việt “bài tập” và “bài toán” được giải nghĩa khác hẳn   nhau: bài tập là bài ra cho HS làm để  tập vận dụng những điều đã học; bài toán là  vấn đề cần giải quyết bằng phương pháp khoa học. Trong một số  tài liệu về lí luận dạy học thuật ngữ  “bài toán hóa học” được  dùng để  chỉ  những bài tập định lượng (có tính toán) trong đó HS phải thực hiện   những phép toán nhất định. Theo đó, “bài toán hóa học” được định nghĩa “là hệ  thông tin xác định, bao gồm những điều kiện và những yêu cầu luôn luôn không phù  hợp (mâu thuẩn) với nhau, dẫn tới nhu cầu phải khắc phục bằng cách bi ến đổi  chúng”; các tài liệu trên không đưa ra định nghĩa về bài tập hóa học. Theo Zueva M. V, “bài tập là một dạng bài làm gồm những bài toán, những câu  hỏi hay đồng thời cả  bài toán và câu hỏi, mà trong khi hoàn thành chúng HS nắm  được một tri thức hay kĩ năng nhất định hoặc hoàn thiện chúng”. Với cách dùng tên sách “ bài tập hóa học 10”, “ bài tập hóa học 11”…như hiện   nay thì thuật ngữ “bài tập” cũng được xem tương đồng với quan niệm trên. Theo tôi thuật ngữ “bài tập hóa học” chung hơn khái niệm “bài toán hóa học”  và bao hàm cả khái niệm bài toán hóa học. Và  có thể coi bài tập hóa học là một vấn   đề  học tập  được giải quyết nhờ  những suy luận logic, những phép toán và thí  nghiệm hóa học, trên cơ  sở  các khái niệm, định luật, học thuyết và phương pháp  hóa học.  4.2. Vị trí, phân loại và ý nghĩa của bài tập hóa học trong dạy và học 4.2.1. Vị trí của bài tập hóa học trong dạy và học Trong thực tế dạy học hiện nay, nhiều GV chưa nắm được vị  trí của bài tập   hóa học trong quá trình dạy học. Họ thường sử dụng BT vào đầu giờ  để  kiểm tra 
  18. bài cũ hoặc cuối giờ học, cuối chương, cuối học kì để ôn tập và kiểm tra kiến thức.  Quan niệm đó chưa thật đúng, làm giảm tác dụng của BT khi dạy học. GV có thể  sử  dụng BT  ở  bất cứ  lúc nào, bất cứ  nơi nào khi thấy nó có thể  giúp mình thỏa mãn nhiệm vụ dạy học và mục đích dạy học. Ngược lại, GV hoàn  toàn có thể không sử dụng BT khi điều đó không cần thiết cho công việc giảng dạy   của mình. BTHH không phải là nội dung nhưng nó chứa đựng nội dung dạy học. BT  phải phù hợp với nội dung dạy học, với năng lực nhận thức của HS và phải phục  vụ được ý đồ của GV. Khi ra một bài tập phải xác định đúng vị trí của nó để BT trở  thành một bộ phận hữu cơ của hệ thống kiến thức cần truyền thụ. 4.2.2. Phân loại bài tập hóa học Hiện nay, có nhiều cách phân loại bài tập khác nhau. Vì vậy, cần có cách nhìn  tổng quát về các dạng bài tập dựa vào việc nắm chắc các cơ sở phân loại. a.  Dựa vào nội dung toán học của bài tập ­ Bài tập định tính (không có tính toán). ­ Bài tập định lượng (có tính toán). b. Dựa vào nội dung của bài tập hóa học ­ Bài tập định lượng. ­ Bài tập lý thuyết. ­ Bài tập thực nghiệm. ­ Bài tập tổng hợp. c. Dựa vào tính chất hoạt động học tập của HS ­ Bài tập lý thuyết (không có tiến hành thí nghiệm). ­ Bài tập thực nghiệm (có tiến hành thí nghiệm). d. Dựa vào chức năng của bài tập ­ Bài tập tái hiện kiến thức (hiểu, biết, vận dụng). ­ Bài tập rèn luyện tư duy độc lập, sáng tạo (phân tích, tổng hợp, đánh giá). e. Dựa vào kiểu hay dạng bài tập ­ Bài tập xác định CTPT của hợp chất. ­ Bài tập xác định thành phần % của hỗn hợp. ­ Bài tập nhận biết các chất. ­ Bài tập tách các chất ra khỏi hỗn hợp. ­ Bài tập điều chế các chất. ­ Bài tập bằng hình vẽ… f. Dựa vào khối lượng kiến thức
  19. ­ Bài tập đơn giản (cơ bản). ­ Bài tập phức tạp (tổng hợp). g. Dựa vào cách thức kiểm tra ­ Bài tập trắc nghiệm. ­ Bài tập tự luận. h. Dựa vào phương pháp giải bài tập ­ Bài tập tính theo công thức và phương trình. ­ Bài tập biện luận. ­ Bài tập dùng các giá trị trung bình. ­ Bài tập dùng đồ thị… i. Dựa vào mục đích sử dụng ­ Bài tập dùng để kiểm tra đầu giờ. ­ Bài tập dùng để củng cố kiến thức. ­ Bài tập dùng để ôn luyện, tổng kết. ­ Bài tập để bồi dưỡng HS giỏi. ­ Bài tập để phụ đạo HS yếu… k. Dựa theo các bước của quá trình dạy học ­ Bài tập mở bài, tạo tình huống dạy học. ­ Bài tập vận dụng khi giảng bài mới. ­ Bài tập củng cố, hệ thống hóa kiến thức. ­ Bài tập về nhà. ­ Bài tập kiểm tra. Ngoài ra, có thể dựa vào đặc điểm của hoạt động nhận thức có thể chia thành: ­ Bài tập tái hiện: Bài tập yêu cầu HS nhớ  lại, tái hiện kiến thức, kĩ năng đã  học. ­ Bài tập sáng tạo: Bài tập yêu cầu HS phải áp dụng những kiến thức, kĩ năng  đã học để  giải quyết vấn đề  trong tình huống mới, phải vận dụng phối hợp các  kiến thức để  giải quyết vấn đề.  Ở  mức độ  cao hơn, bài tập sáng tạo đòi hỏi HS   giải quyết vấn đề theo một hướng mới, một kĩ thuật mới, một phương pháp mới. Trong thực tế dạy học, có hai cách phân loại bài tập có ý nghĩa hơn cả là phân  loại theo nội dung và theo dạng bài. 4.2.3. Ý nghĩa của bài tập hóa học Bài tập hóa học là phương tiện cơ bản để dạy HS tập vận dụng các kiến thức  hóa học vào thực tế đời sống, sản xuất và tập nghiên cứu khoa học. Ki ến thức HS  tiếp thu được chỉ  có ích khi được sử  dụng nó. Phương pháp luyện tập thông qua 
  20. việc sử  dụng BTHH là một trong các phương pháp quan trọng nhất để  nâng cao   chấtlượng học tập bộ môn. Đối với HS, giải bài tập là một phương pháp học tập   tích cực. BTHH có tác dụng: a) Rèn luyện cho HS khả  năng vận dụng được các ki ến thức đã học, biến  những kiến thức tiếp thu được qua các bài giảng của thầy thành kiến thức của  chính mình. Khi vận dụng được một kiến thức nào đó, kiến thức đó sẽ  được nhớ  lâu. b) BTHH là một trong những nguồn để hình thành kiến thức, kĩ năng mới cho  HS, đào sâu và mở rộng kiến thức đã học một cách sinh động, phong phú, hấp dẫn.  Chỉ có vận dụng kiến thức vào việc giải bài tập, HS mới nắm vững ki ến thức một  cách sâu sắc. Ví dụ, sau khi học về tính chất của nhôm, các hợp chất của nhôm, các  em sẽ  nhớ  rất lâu khi vận dụng ki ến thức đó để  giải các bài tập như: Giải thích   hiện tượng thực tế tại sao không dùng chậu nhôm để đựng vôi? Tại sao phèn chua  lại đánh trong được nước?… c) Ôn tập, củng cố và hệ thống hóa kiến thức một cách thuận lợi nhất. Trong  khi ôn tập nếu chỉ  đơn thuần nhắc lại kiến thức, HS sẽ  chán vì không có gì mới,  hấp dẫn. Thực tế HS khá giỏi chỉ thích giải bài tập trong giờ ôn tập. d) Rèn luyện được những kĩ năng cần thiết về hóa học như kĩ năng cân bằng  phương trình phản  ứng, kĩ năng tính toán theo công thức hóa học và phương trình  hóa học; kĩ năng thực hành,…góp phần vào việc GD kĩ thuật tổng hợp; rèn luyện kĩ  năng sử dụng ngôn ngữ hóa học và các thao tác tư duy cho HS. e) Phát triển năng lực nhận thức, tư  duy và trí thông minh cho HS. Trong quá  trình giải BTHH, HS phải thực hiện các thao tác tư duy để tái hiện kiến thức cũ, tìm  ra mối liên hệ bản chất giữa các sự vật và hiện tượng. HS phải phân tích, tổng hợp,   phán đoán suy luận để  tìm ra lời giải. Nhờ  vậy tư  duy của HS được phát triển và  năng lực làm việc độc lập của HS được nâng cao. Một số  bài tập ngoài cách giải   thông thường còn có cách giải độc đáo, thông minh, rất ngắn gọn mà lại chính xác.   Đưa ra một bài tập có nhiều cách giải, yêu cầu HS giải bằng nhi ều cách, tìm những  cách giải ngắn nhất, hay nhất là một cách rèn luyện trí thông minh cho các em.  f) GD tư  tưởng, đạo đức như  rèn luyện tính kiên nhẫn, trung thực, sáng tạo,  chính xác, khoa học. 4.2.4. Xu hướng phát triển của bài tập hóa học Thực tế  cho thấy có nhiều bài tập hóa học còn quá nặng nề  về  thuật toán,   nghèo nàn về kiến thức hóa học và không có liên hệ với thực tế hoặc mô tả  không  đúng với các quy trình hóa học. Khi giải các bài tập này thường mất thời gian tính   toán toán học, kiến thức hóa học lĩnh hội được không nhiều và hạn chế  khả  năng  sáng tạo, nghiên cứu khoa học hóa học của HS. Các dạng bài tập này dễ  tạo lối  mòn trong suy nghĩ hoặc nhiều khi lại quá phức tạp, rối rắm với HS làm cho các em  thiếu tự tin vào khả năng của bản thân dẫn đến chán học, học kém. Định hướng xây dựng chương trình sách giáo khoa THPT của Bộ  GD và ĐT   năm 2002 có chú trọng đến tính thực tiễn và đặc thù của môn học trong lựa chọn 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0