intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận Văn: Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho việt nam

Chia sẻ: Nguyen Van Tien | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:53

94
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tình hình nợ xấu của Việt Nam tính đến tháng 9/2012 do các ngân hàng báo cáo là 4,93%, còn do NHNN công bố là 8,6% tương đương là trên 202 ngàn tỷ đồng . Con số này tuy không quá lớn nếu so sánh với những nước cũng đã từng mắc căn bệnh tương tự như Thái Lan, Hàn Quốc… nhưng là rất đáng lo ngại, nguyên do là vì nợ xấu đã liên tục tăng trong nhiều năm qua. Cùng với bối cảnh bất ổn kinh tế vĩ mô, nhiều vấn đề nội tại của nền kinh tế và bản thân hệ thống ngân...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận Văn: Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho việt nam

  1. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam Lời mở đầu Tình hình nợ xấu của Việt Nam tính đến tháng 9/2012 do các ngân hàng báo cáo là 4,93%, còn do NHNN công bố là 8,6% tương đương là trên 202 ngàn tỷ đồng . Con số này tuy không quá lớn nếu so sánh với những nước cũng đã từng mắc căn bệnh tương tự như Thái Lan, Hàn Quốc… nhưng là rất đáng lo ngại, nguyên do là vì nợ xấu đã liên tục tăng trong nhiều năm qua. Cùng với bối cảnh bất ổn kinh tế vĩ mô, nhiều vấn đề nội tại của nền kinh tế và bản thân hệ thống ngân hàng được đặt lên bàn mổ xẻ, đây thực sự là một khối u cần phải gỡ bỏ. Riêng về vấn đề giải quyết nợ xấu cũng có nhiều ý kiến trái chiều, nhiều biện pháp có thể triển khai. Điều quan trọng đối với Việt Nam là cần lựa chọn phương án phù hợp với tình hình đất nước và có những xử lý quyết liệt để tránh nợ xấu quay trở lại trong tương lai. Thời điểm hiện tại nước ta cũng đã có một công ty chuyên về mua bán nợ xấu trực thuộc bộ tài chính là Công ty Mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, lấy tên quốc tế là Debt and Asset trading Company hay còn gọi tắt là DATC, với số vốn điều lệ ban đầu là 2000 tỷ đồng được hình thành từ nguồn NSNN và các nguồn hợp pháp khác cấp. DATC chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2004 với con dấu riêng, có tài khoản tại kho bạc NN, tài khoản tại các NHTM trong và ngoài nước, trụ sở chính của công ty tại số 4, ngõ Hàng Chuối 1, phố Hàng Chuối, phường Phạm Đình Hổ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Cùng với đó tại các NHTM hầu như cũng đều đã thành lập các công ty mua bán nợ cho riêng mình, nhưng với nguồn vốn còn eo hẹp, kinh nghiệm và chuyên môn chưa nhiều nên thời điểm hiện tại chưa có khả năng giải quyết hết số nợ xấu nói trên. Đòi hỏi nhà nước, chính phủ phải có phương án thích hợp để giúp các NHTM cũng như nền kinh tế giải quyết dứt điểm số nợ xấu đó, giúp lưu thông nguồn vốn chết để các doanh nghiệp, NHTM có nguồn vốn tái sản xuất, đầu tư phát triển. Việc thông qua Đề án thành lập Công ty Mua bán nợ quốc gia như một cú huých cho nền kinh tế phát triển trong thời điểm nợ xấu chồng chất,thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán đứng im, ảm đạm như hiện nay. SV: Nguyễn Văn Tiến 1
  2. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN VÀ XỬ LÝ NỢ TỒN ĐỌNG 1.1. Khái quát về vay nợ của nền kinh tế 1.1.1. Khái niệm vay nợ “Nợ”: là một thuật ngữ thường được sử dụng rộng rãi để chỉ về các khoản phải trả và thường dùng trong trường hợp các khoản nợ về tài sản. Một khoản nợ thường được xác định bởi các yếu tố: chủ nợ, khách nợ, thời hạn thanh toán, lãi suất, giá trị khoản nợ, tài sản thế chấp, tín chấp, … Có nhiều loại nợ nhưng tụ lại thì có 4 kiểu cơ bản: vay nợ, nợ tập đoàn, trái phi ếu và giấy hẹn trả tiền. “Vay nợ”: là hoạt động nhằm phát sinh các khoản nợ, được hình thành khi một bên đồng ý cho bên kia vay một khoản hay một l ượng tài sản nhất đ ịnh. Trong xã hội ngày nay thì đi kèm với việc vay nợ thường là khoản đảm bảo khả năng thanh toán hay còn gọi là mức lãi suất tính theo từng thời điểm. Ngoài ra, vay nợ nếu được hiểu theo nghĩa rộng sẽ là người đi vay sử dụng sức mua trước khi kiếm đủ tổng số tiền để trả cho toàn bộ sức mua đó - đây cũng là một trong những chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, công ty hiện nay. 1.1.2. Vai trò của vay nợ Trong kinh doanh, sản xuất, việc sử dụng công cụ vay nợ của doanh nghiệp như được coi là một chính sách quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đó. Vay nợ cũng là một giao dịch phức tạp, trong đó, bên cho vay cung ứng một lượng tiền có giá trị nào đó để đổi lấy nhiều lần trả nợ của bên đi vay theo lịch trình mà hai bên đã thỏa thuận từ trước và có mức lãi suất đi kèm với các khoản vay đó. Thông thường, các ông chủ doanh nghiệp sẽ sử dụng trực tiếp các khoản vay nợ để thực hiện các nghĩa vụ đối với người mua, người bán, hàng tồn kho và trang thiết bị, máy móc của doanh nghiệp hoặc đơn giản chỉ để duy trì một lượng tiền mặt ổn định ở mức an toàn tùy theo tình hình kinh tế. Thêm vào đó, các khoản nợ vay luôn là động lực giúp cho doanh nghiệp tìm kiếm những dự án mới, những chiến lước kinh doanh mới hoặc mở r ộng sản xuất kinh doanh, tạo đòn bẩy tài chính vì tương ứng với mỗi khoản vay là một áp lực trả nợ theo hạn rất lớn. Tạo đà phát triển cho doanh nghiệp trong ngắn hạn hoặc dài hạn. SV: Nguyễn Văn Tiến 2
  3. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam 1.1.3. Các hình thức vay nợ Nợ được hình thành khi một bên đồng ý cho bên đi vay được vay một khoản có giá trị nhất định và thường được đảm bảo bởi một mức chi trả nhất định. Các khoản nợ có giá trị lớn thường được đảm bảo bằng các khoản thế chấp hoặc lãi suất chứng khoán của tài sản của bên đi vay, trong đó bên cho vay có thể có một số quyền hạn nhất định đối với tài sản đó khi bên đi vay không có khả năng trả nợ hay vỡ nợ. Một số hình thức vay nợ cơ bản: - Vay nợ cơ bản là hình thức đơn giản nhất của nợ. Nó bao gồm một bản thoả thuận về việc cho vay một lượng tiền trong một khoảng thời gian nhất định và ghi rõ thời hạn hoàn lại số tiền đó. Trong vay thương mại còn có thêm lãi suất. Lãi suất được tính bằng tỷ lệ phần trăm của tổng số tiền cho vay hàng năm. Lãi suất cũng được trả vào ngày theo thoả thuận. - Nợ tập đoàn là khoản nợ được cung cấp cho các công ty muốn vay số tiền nhiều hơn những người cho vay đơn lẻ và chịu rủi ro trong phạm vi vay đơn lẻ đó. Số tiền vay thường có giá trị rất lớn. Trong trường hợp này, mỗi tập đoàn hay ngân hàng có thể đồng ý đưa ra một tỷ lệ lãi suất trên tổng số tiền cho vay. - Trái phiếu là một chứng khoán nợ được phát hành bởi công ty hoặc chính phủ. Người sở hữu trái phiếu sẽ được hoàn trả số tiền mua trái phiếu gốc cộng thêm lãi suất. Trái phiếu được phát hành cho các nhà đầu tư tại thị trường mà tổ chức phát hành muốn vay tiền. Trái phiếu có thời hạn xác đ ịnh thường là một số năm; có những loại trái phiếu dài hạn trên 30 năm, tuy nhiên loại này không phổ biến. Đến kỳ hạn thanh toán, số tiền mua trái phiếu sẽ được trả đầy đủ cho nhà đầu tư và phần lãi suất. Lãi suất có thể được trả vào cuối kỳ hạn hoặc được trả theo giai đoạn. Trái phiếu có thể được giao dịch trên thị trường trái phiếu. Trái phiếu được các nhà đầu tư coi là một hình thức đ ầu tư tương đối an toàn hơn cổ phiếu. - Giấy hẹn trả tiền cũng giống như giấy xác nhận khả năng trả nợ trong kế toán, là một bản thoả thuận trong đó nêu rõ sự cam kết của bên vay n ợ đ ối với bên cho vay về nghĩa vụ trả một số tiền nhất định. Nghĩa vụ đó có thể phát sinh thêm khi trả nợ vay hoặc phát sinh từ các hình thức vay nợ khác. Ví dụ, trong kinh doanh, giá mua bán có thể bao gồm giá của những khoản thanh toán ngay và của những khoản hẹn trả sau. Những nội dung trong giấy hẹn trả tiền bao gồm số tiền chính phải thanh toán, lãi suất và ngày hạn trả tiền. Ngoài ra, giấy hẹn trả tiền cũng có thể có những điều khoản quy định về quyền của người cho vay trong trường hợp người vay bị vỡ nợ bao gồm cả việc tịch thu tài SV: Nguyễn Văn Tiến 3
  4. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam sản thế chấp. Đối với các khoản vay cá nhân, giấy hẹn trả nợ thường là bản viết tay có chữ ký của hai bên để thuận lợi cho việc tính thuế và làm chứng t ừ lưu giữ. 1.1.4. Các chủ thể tham gia vay nợ - Chính phủ: Chính phủ tại mỗi quốc gia với vai trò làm đầu tàu về điều tiết nền kinh tế quốc dân, hoạch định chính sách và nghiên cứu những vấn đề vĩ mô của nền kinh tế. Tùy vào mỗi giai đoạn và tùy vào từng điều kiện của mỗi Chính phủ mà những nhà hoạch định chính sách đưa ra những quyết sách về các khoản nợ của Chính phủ. Chính phủ có thể tham gia vay nợ trên trường quốc tế, có thể là vay của tổ chức, Ngân hàng Thế giới hoặc vay trực tiếp hoặc nhận viện trợ có điều kiện từ một Chính phủ khác. Mặc khác, Chính phủ có thể vay trong chính quốc gia của mình, đó là việc phát hành trái phiếu chính phủ, thường những trái phiếu này có thời gian đáo hạn dài, trái phiếu Chính phủ thường được huy động từ phía tiền nhàn rỗi của người dân. Các khoản vay nợ của Chính phủ hay được gọi bằng nợ công. Tùy vào chính sách và điều kiện mà tỷ lệ vay nợ của Chính phủ cao hay thấp. Chính phủ sẽ sủ dụng những khoản này cho những mục đích an sinh, xã hội, trợ cấp hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng, … - Doanh nghiệp: doanh nghiệp là chủ thể có số lượng lớn nhất trong nền kinh tế có nhu cầu về vốn và vay nợ. Doanh nghiệp khi có nhu cầu về vay vốn có thể vay trong nước hoặc vay nước ngoài. Với các khoản vay nợ nước ngoài, chủ thể doanh nghiệp thường vay từ các tổ chức, Chính phủ, phi Chính phủ hoặc vay viện trợ từ một số quỹ. Doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh có thể vay từ các khoản FDI từ các tổ chức Chính phủ hoặc đơn vị, tổ chức đầu tư trực tiếp vào quốc gia đó, các khoản vay này thì thường được Chính phủ phê duyệt với tỷ lệ nhất định đối với từng doanh nghiệp có nhu cầu. - Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng: ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng thường là chủ thể đứng ra cho vay hoặc làm trung gian tài chính đáp ứng nhu cầu của việc huy động vốn, vay nợ từ phía doanh nghiệp hoặc Chính phủ. Các ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tín dụng thường vay từ ngân hàng trung ương nếu như họ có nhu cầu, hoặc là đ ầu mối tiếp nhận nguồn vay nợ từ tổ chức quản lý vốn nước ngoài hoặc tổ chức nước ngoài tại nước sở tại, hoặc sẽ tiếp cận nguồn vay từ khoản tiền nhàn rỗi ở khu vực dân cư với mức lãi suất theo quy định không vượt quá mức trần mà Chính phủ quy định. SV: Nguyễn Văn Tiến 4
  5. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam - Người dân: người dân trong một quốc gia khi có nhu cầu về vốn cũng sẽ được tiếp cận để vay tùy vào mục đích sử dụng. Người dân thường thực hiện vay nợ từ các ngân hàng thương mại vì đây là kênh dễ nhất, an toàn và nhanh nhất đối với người dân. Thông thường, nhu cầu vay nợ của người dân thường để đầu tư vào một số lĩnh vực như bất động sản, chứng khoán, góp vốn cổ phần hoặc cũng có thể vay nợ để cho tiêu dùng như trả góp tài sản, cho vay lại với mức lãi suất cao hơn … 1.2. Hoạt động mua, bán và xử lý nợ tồn đọng 1.2.1. Một số khái niệm 1.2.1.1. Nợ tồn đọng “Nợ tồn đọng”: là thuật ngữ được sử dụng để nói về các khoản nợ phải thu, nợ phải trả đã quá hạn thanh toán nhưng chưa thu được hay chưa trả được. Trong giới hạn bài viết, có thể chỉ sử dụng từ “nợ” để chỉ “nợ tồn đọng” tại các công ty, doanh nghiệp. “Chủ nợ”: là các doanh nghiệp hay tổ chức có nợ phải thu. “Khách nợ”: là các doanh nghiệp, tổ chức hay cá nhân có nợ phải trả. 1.2.1.2. Hoạt động mua, bán nợ tồn đọng “Hoạt động mua, bán nợ tồn đọng”: là việc chủ nợ có các khoản nợ tồn đọng phải thu bán lại cho công ty mua, bán nợ. Lúc này, công ty mua, bán n ợ (được thành lập để mua bán và xử lý nợ tồn đọng cho doanh nghiệp) sẽ trở thành chủ nợ mới của khách nợ. Có hai loại mua, bán nợ tồn đọng chính là mua, bán nợ tồn đọng theo chỉ định và mua, bán nợ tồn đọng theo thỏa thuận. “Mua, bán nợ tồn đọng theo chỉ định”: là việc mua, bán nợ tồn đọng theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở đề nghị của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. “Mua, bán nợ tồn đọng theo thỏa thuận”: là hình thức mà bên bán là các chủ nợ hoặc bên mua là các nhà đầu tư tiềm năng khác và công ty mua, bán nợ liên hệ, giao dịch trực tiếp để tìm hiểu nhu cầu và năng lực để ký hợp đồng mua bán khoản nợ theo cơ chế thị trường "thuận mua vừa bán", trong đó giá cả được hai bên thống nhất trên cơ sở thoả thuận trực tiếp hoặc thông qua các hình thức khác như đấu thầu, đấu giá ... “Phương án mua nợ”: là phương án do công ty mua, bán nợ xây dựng để mua một hoặc một số khoản nợ phải thu của một hoặc một số chủ nợ. 1.2.1.3. Hoạt động xử lý nợ tồn đọng “Hoạt động xử lý nợ tồn đọng”: là những hoạt động thực hiện nghĩa vụ với những khoản nợ tồn đọng như tổ chức đòi nợ trực tiếp hoặc thông qua các SV: Nguyễn Văn Tiến 5
  6. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam tổ chức khác cung cấp dịch vụ đòi nợ hợp pháp tại Việt Nam, bán lại các khoản nợ tồn đọng đã mua với các hình thức thỏa thuận, chào giá hoặc tổ chức đấu giá công khai hoặc có thể cho thuê, đầu tư, tổ chức sản xuất kinh doanh, liên doanh khai thác tài sản … 1.2.2. Sự cần thiết phải mua, bán và xử lý nợ tồn đọng Trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh, các doanh nghiệp không thể tránh khỏi việc phát sinh các khoản nợ hoặc sử dụng nợ là một trong những chiến lược phát triển của một số ông chủ doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể là chủ thể vay nợ hoặc cũng có thể là chủ thể cho vay các đối tượng như Chính phủ, các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp khác, người lao động ... Việc thanh toán đúng thời hạn các khoản nợ là một yêu cầu rất cần thiết nhưng trên thực tế, do những yếu tố chủ quan và khách quan, có những khoản nợ không được thanh toán đúng thời điểm, hoặc trả chậm, hoặc không thể có khả năng thanh toán, điều đó làm phát sinh những khoản nợ đọng và nó sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của nền kinh tế và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp dù là cho vay hay là đi vay. Nợ tồn đọng nhiều khả năng sẽ gây mất khả năng thanh toán của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, hoạt động mua, bán và xử lý nợ tồn đọng được thực hiện để xử lý dứt điểm các khoản nợ và tài sản tồn đọng, kém phẩm chất, … góp phần làm lành mạnh hóa tình hình TCDN, thúc đẩy sắp xếp và chuyển đ ổi hay cổ phần hóa doanh nghiệp, củng cố được tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có nợ tồn đọng và sẽ giúp cho tình hình kinh tế tăng trưởng, xã hội phát triển. 1.2.3. Mục đích mua, bán và xử lý nợ tồn đọng Đối với doanh nghiệp, hoạt động mua, bán nợ được sử dụng để giải quyết các vấn đề về tài chính còn tồn đọng như mua lại các khoản nợ bằng các biện pháp thương lượng trực tiếp, đấu giá hoặc theo chỉ định, sau đó, các công ty đứng ra nhận trách nhiệm mua bán nợ có trách nhiệm với các khoản nợ tồn đọng này thay cho doanh nghiệp khách nợ có nhu cầu, qua đó, giảm bớt những khó khăn và hạn chế cho doanh nghiệp này, đặc biệt với những khoản nợ đ ến hạn và doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa, tái cấu trúc, chuyển đ ổi hình thức đang gặp những khó khăn về vốn. Sau khi mua lại các khoản nợ tồn đọng, việc quan trọng nhất tiếp theo đó là xử lý các khoản nợ tồn đ ọng này. Với vai trò quan trọng là giảm bớt gánh nặng, rủi ro cho các khoản nợ tồn đọng của doanh nghiệp thì các khoản nợ tồn đọng sẽ được xem xét, giải quyết và xử lý SV: Nguyễn Văn Tiến 6
  7. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam bằng nhiều hình thức, qua đó, đã lành mạnh hóa được tình hình tài chính của các công ty hay doanh nghiệp khách nợ. Nhìn chung, hoạt động mua bán và xử lý nợ tồn đọng đóng góp một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nó không chỉ là một hình thức hợp pháp nhằm xử lý, hợp lý hóa các khoản nợ tồn đọng, mà còn góp phần giải quyết những tồn tại về tài chính của công ty nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa, sắp xếp, giao, bán hay cho thuê. Ngoài ra, nghiệp vụ này góp phần tạo đ ịnh hướng cho việc phát sinh một số hoạt động trung gian tài chính, đẩy nhanh tiến trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, thị trường vốn, thị trường tài sản … tạo thêm các công cụ hợp lý để xử lý những khó khăn có ảnh hưởng đến hệ thống tài chính của một quốc gia nói chung hoặc từng doanh nghiệp trong nền kinh tế nói riêng. 1.2.4. Quy trình mua, bán và xử lý nợ tồn đọng 1.2.4.1. Quy trình mua, bán nợ tồn đọng Mua nợ và bán nợ là hai hoạt động quan trọng nhất của mỗi công ty mua bán nợ vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và chi phí của công ty. Hiện nay, có 2 hình thức chính trong hoạt động mua, bán nợ tồn đọng, đó là mua, bán nợ tồn đọng theo thỏa thuận và mua, bán nợ tồn đọng theo chỉ định. a. Mua, bán nợ tồn đọng theo thỏa thuận Mua, bán nợ tồn đọng theo thỏa thuận là việc mua, bán nợ được thực hiện dựa trên hợp đồng ký kết giữa hai bên là công ty nhận trách nhiệm mua, bán nợ và bên chủ nợ có nhu cầu giải quyết khoản nợ. Trước hết, các công ty mua, bán nợ và các chủ nợ có nợ tồn đọng chủ động tiếp cận để tìm hiểu nhu cầu mua, bán nợ của các bên, sau đó, khi hình thành nhu cầu, chủ nợ sẽ tr ực tiếp cung cấp cho công ty nhận trách nhiệm mua, bán nợ tồn đọng các tài liệu liên quan đến các khoản nợ tồn đọng này. Vì việc trao đổi, mua, bán nợ được thực hiện trực tiếp giữa hai bên cho nên công tác kiểm tra, thẩm định, định giá các khoản nợ rất quan trọng đối với công ty nhận trách nhiệm mua, bán nợ vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và chi phí của công ty, nếu giá mua cao quá sẽ khiến cho chi phí mua lại khoản nợ này cao hay ngược lại giá bán thấp sẽ làm giảm doanh thu của công ty mua, bán nợ gây thất thoát về tài chính cho những công ty này. b. Mua, bán nợ tồn đọng theo chỉ định Hoạt động mua, bán nợ tồn đọng theo chỉ định tức là việc công ty mua, bán nợ sẽ mua, bán các khoản nợ tồn đọng theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ, trong hoạt động này, công ty chịu trách nhiệm mua, bán nợ sẽ không phải SV: Nguyễn Văn Tiến 7
  8. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam chịu những rủi ro mà khoản nợ này mang lại, tức là sẽ chịu ít rủi ro hơn từ các khoản nợ trong hoạt động mua, bán nợ tồn đọng theo thỏa thuận mang lại, ngoài ra sẽ được nhận một khoản phí tùy theo các khoản nợ tồn đọng được chỉ định mua. Các đối tượng thường được xem xét bán các khoản nợ tồn đọng theo chỉ định là các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa khi phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp không đủ để xử lý lỗ lũy kế và nợ không có khả năng thu hồi, các doanh nghiệp Nhà nước cần giữ lại là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước theo đề án sắp xếp, đổi mới được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhưng bị thua lỗ và không có khả năng thanh toán nợ do thực hiện các quy ết đ ịnh c ủa cơ quan có thẩm quyền, thay đổi cơ chế, chính sách tác động trực tiếp đ ến doanh nghiệp hoặc một số nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh. 1.2.4.2. Quy trình xử lý nợ tồn đọng a. Quy trình xử lý nợ tồn đọng theo thỏa thuận Khi hợp đồng mua, bán nợ có hiệu lực, công ty mua, bán nợ coi các khoản nợ như loại hàng hóa đặc biệt, qua đó lập ra các phương án để xử lý các khoản nợ đã được mua về.Thông thường, các hình thức xử lý nợ tồn đọng thường là: xử lý nợ thông qua hình thức xử lý tồn tại tài chính và tái cơ cấu doanh nghiệp gắn hoặc không gắn với chuyển nợ thành vốn góp (sau đây sẽ gọi tắt là xử lý nợ gắn với tái cơ cấu doanh nghiệp), chuyển nhượng tài sản đảm bảo để thanh toán nợ do khách nợ tự thực hiện hoặc phối hợp cùng công ty mua, bán nợ, bán nợ thông qua đấu giá hoặc thỏa thuận, thu nợ theo phương án thỏa thuận với khách nợ, thu hồi nợ có chiết khấu, hoán đổi nợ lấy tài sản, thỏa thuận đ ể khách nợ hoán đổi nghĩa vụ trả nợ cho bên thứ ba, chuyển nợ thành vốn góp cổ phần, chứng khoán hóa khoản nợ, cơ cấu lại giá trị và thời gian trả nợ, kể cả việc ân hạn nợ gốc và lãi, khởi kiện ra Tòa án để áp dụng các biện pháp tố tụng thu hồi nợ. Ở bài viết sẽ nêu rõ quy trình xử lý nợ theo 4 hình thức xử lý chủ yếu được sử dụng trong thời gian hiện nay. * Quy trình xử lý nợ tồn đọng bằng hình thức thanh toán nợ nhờ chuyển nhượng tài sản đảm bảo của khoản nợ Quy trình được thực hiện từ việc công ty mua, bán nợ lập hồ sơ về phương án xử lý để trình Tổng giám đốc duyệt, trong đó có cả đề xuất về giá của tài sản đảm bảo và hiệu quả của việc thực hiện phương án bán tài sản đảm bảo để thanh toán khoản nợ. Sau khi hồ sơ về phương án xử lý được duyệt, công ty sẽ tổ chức thực hiện phương án chuyển nhượng tài sản như đã đề ra. Tài sản đảm bảo có thể được thực hiện chuyển nhượng bằng hình thức thỏa thuận trực tiếp hoặc đấu giá SV: Nguyễn Văn Tiến 8
  9. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam công khai tùy theo hiệu quả của phương án đề xuất đã được Tổng Giám đốc duyệt. Số tiền thu được từ việc bán tài sản đảm bảo sẽ dùng đ ể chi tr ả cho khoản nợ tồn đọng này và các chi phí liên quan khác trong quá trình bán tài sản đảm bảo. SV: Nguyễn Văn Tiến 9
  10. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam * Quy trình xử lý nợ tồn đọng bằng hình thức bán nợ Quy trình được thực hiện cũng bằng việc lập hồ sơ phương án xử lý nợ tồn đọng để trình Tổng giám đốc xét duyệt, trong đó cũng cần có đề xuất về giá bán khoản nợ tồn đọng đó cùng với hiệu quả của việc thực hiện phương án. Sau khi phương án được duyệt, công ty sẽ thực hiện việc bán nợ theo phương án đã đề ra ở trên. Khoản nợ tồn đọng có thể được bán theo hình thức đấu giá, chào giá cạnh tranh hoặc thỏa thuận trực tiếp tùy theo hiệu quả c ủa phương án được duyệt. Số tiền thu được từ việc bán các khoản nợ sẽ được thanh toán cho khoản nợ tồn đọng và các chi phí thực hiện liên quan khác trong quá trình bán nợ tồn đọng. * Quy trình xử lý nợ tồn đọng gắn với tái cơ cấu doanh nghiệp Sau khi công ty mua, bán nợ thực hiện việc phân loại doanh nghiệp thành 3 loại: DN 100% vốn Nhà nước, DN cổ phần và các loại hình DN khác, từ đó, công ty sẽ có các cơ sở để đánh giá việc giảm trừ trách nhiệm về các khoản nợ tồn đọng của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước: công ty mua, bán nợ sẽ tổ chức làm việc và lập biên bản để thỏa thuận một số nội dung về chuyển đổi sở hữu, định giá doanh nghiệp với cơ quan chủ quản của doanh nghiệp, xây dựng phương án chuyển đổi sở hữu theo quy đ ịnh để trình cơ quan có thẩm quyền duyệt, cùng với đó là sẽ tìm ra những nhà đ ầu tư chiến lược cam kết góp vốn. Nếu doanh nghiệp là doanh nghiệp cổ phần: công ty cũng tổ chức làm việc với doanh nghiệp để thỏa thuận một số nội dung cơ bản về vấn đề xử lý tồn tại tài chính, xử lý các khoản nợ gắn với tái cơ cấu doanh nghiệp, xác định giá trị cổ phiếu hoặc giá trị phần vốn góp. Sau đó, doanh nghiệp sẽ phải tiến hành đại hội cổ đông phê duyệt nội dung xử lý tài chính gắn với việc tái cơ cấu doanh nghiệp, 2 bên sẽ thống nhất tổ chức thực hiện phương án đã đề ra. Với các loại hình doanh nghiệp khác: đơn vị thực hiện phương án chủ động thống nhất cách thức thực hiện phương án xử lý các khoản nợ gắn với tái cơ cấu doanh nghiệp theo những nguyên tắc như đã nêu ở trên và trình Tổng giám đốc xem xét và phê duyệt. Công ty mua, bán nợ kết hợp với doanh nghiệp thực hiện phương án đã được thông qua. b. Quy trình xử lý nợ tồn đọng theo chỉ định Cũng giống như quy trình, thủ tục xử lý nợ tồn đọng theo thỏa thuận, công ty mua, bán nợ cũng thực hiện các bước tương tự với từng hình thức xử lý với các khoản nợ được chỉ định, cũng có 4 phương thức chủ yếu đó là xử lý nợ thông qua việc bán tài sản đảm bảo, xử lý nợ thông qua chuyển nhượng các SV: Nguyễn Văn Tiến 10
  11. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam khoản nợ và các hình thức xử lý các khoản nợ tồn đọng khác đã nêu chi tiết ở trên và có thêm một số quy định khác. Ngoài ra, khi tiến hành mua nợ tồn đ ọng theo chỉ định, công ty mua, bán nợ sẽ Bộ Tài chính cấp tiền từ nguồn chi phí cải cách doanh nghiệp Nhà nước để thanh toán cho bên bán theo giá của phương án được chỉ định sau khi hợp đồng có hiệu lực. Phần giá trị thu hồi khoản nợ tồn đọng sẽ được xử lý bằng cách chi cho việc bù đắp chi phí sửa chữa, nâng cấp tài sản đảm bảo, chi phí định giá, đấu giá và khuyến khích việc xử lý nhanh, hiệu quả các khoản nợ tồn đọng nhằm thu hồi vốn cho Nhà nước, phần còn lại sẽ được nộp lại cho NSNN. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mua, bán và xử lý nợ tồn đọng 1.3.1. Nhân tố chủ quan 1.3.1.1. Vốn của công ty Vốn của công ty là một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến hoạt động mua, bán và xử lý nợ tồn đọng tại các công ty mua, bán nợ. Khách hàng của công ty là những tổ chức, doanh nghiệp có những khoản nợ tồn đọng đến hạn có nhu cầu xử lý, đặc biệt là trong thời kỳ nền kinh tế đang dần ổn định hiện nay thì giá trị các khoản nợ thường rất lớn. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng về các khoản nợ, công ty mua, bán nợ cần phải có số vốn lớn để mua, bán và xử lý các khoản nợ. Giả sử các khoản nợ của khách hàng có nhu cầu có giá trị lớn, vốn của công ty mua, bán nợ không đủ sẽ làm giảm khả năng kinh doanh và uy tín của công ty trên thị trường, vì với những khoản n ợ có nhu cầu giải quyết thông thường sẽ được mua, bán theo cơ chế thị trường. Mặt khác, khi có một số vốn lớn, công ty sẽ có thể có khả năng mở rộng quan hệ, hợp tác với nhiều doanh nghiệp, tổ chức có nhu cầu giải quyết các khoản nợ vì khi ấy khả năng tiếp cận với các khoản nợ sẽ dễ dàng hơn, tạo đà phát triển cho công ty mua, bán nợ. Vốn của các công ty bao gồm vốn chủ sở hữu và nợ nhưng với công ty mua bán nợ thì chủ yếu vốn của công ty là vốn chủ sở hữu vì những nhà quản lý cần giữ an toàn cho công ty, tất nhiên, các công ty mua, bán nợ cũng có quyền phát hành trái phiếu hoặc vay ở các tổ chức tín dụng để phục vụ cho hoạt động mua, bán và xử lý nợ tồn đọng khi có nhu cầu. 1.3.1.2. Mạng lưới và quan hệ của công ty mua, bán nợ Bên cạnh vốn, thì mạng lưới và quan hệ của công ty mua, bán nợ cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của công ty. Trong khi mạng l ưới của công ty ảnh hưởng đến việc tiếp xúc của công ty mua, bán nợ đến các khoản nợ tồn đọng có nhu cầu xử lý thì quan hệ của công ty mua, bán nợ là uy tín của họ với đối tác khi nhận trách nhiệm mua, bán để xử lý các khoản nợ tồn SV: Nguyễn Văn Tiến 11
  12. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam đọng của khách hàng, đặc biệt trong trường hợp thực hiện mua, bán nợ theo thỏa thuận. Nếu công ty có mạng lưới rộng lớn thì khả năng biết đến và tiếp cận với các khoản nợ của những doanh nghiệp từ nhỏ đến lớn sẽ dễ dàng hơn vì các công ty, doanh nghiệp thường cũng có nhiều chi nhánh nằm rải rác ở nhiều địa phương khác nhau và nhu cầu về giải quyết nợ của các chi nhánh cũng khác nhau, khi công ty mua, bán nợ có mạng lưới rộng sẽ giảm thiểu được thời gian, chi phí cho cả công ty và bên khách hàng có nợ tồn đọng. Ngoài ra, việc thẩm định của công ty mua, bán nợ đến các doanh nghiệp có nhu cầu sẽ dễ dàng và thuận tiện hơn nếu công ty mua, bán nợ có mạng l ưới chi nhánh rộng. Giả sử như doanh nghiệp ở địa phương có nợ tồn đọng, tại đó, công ty có chi nhánh của mình, việc được tiếp cận để tìm hiểu thông tin c ủa doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn và giảm được rủi ro hơn cho phía công ty mua, bán nợ vì đã biết rõ về công ty ở địa phương ấy, nhiều khi việc tiếp cận các khoản nợ sẽ được chủ động hơn. 1.3.1.3. Uy tín của công ty Trong nền kinh tế thị trường, cho dù kinh doanh ở bất kỳ loại mặt hàng nào thì uy tín cũng đều là một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu, quan trọng hơn, khi các công ty mua bán nợ kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt - mua, bán nợ tồn đọng - lĩnh vực rất mới và nhạy cảm thì uy tín của công ty càng được đẩy lên cao, đặc biệt là với những khách hàng lớn, những khách hàng tiềm năng và uy tín với Chính phủ trong những khoản mua, bán nợ được chỉ định. Chính vì thế, khi lựa chọn một công ty mua, bán nợ thì khách hàng sẽ l ựa chọn dựa trên việc tiếp cận một số thông tin hoặc tiêu chi như sau: - Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty dựa trên các báo cáo tài chính, báo cáo thường niên có kiểm toán hàng năm, những giấy tờ, dự án, phương án giải quyết các vấn đề liên quan đến mua, bán và xử lý nợ tồn đọng trong nhiều năm. Mọi khách hàng sẽ lựa chọn những công ty mua, bán nợ có kết quả kinh doanh tốt, đều đặn hàng năm và có tình hình tài chính lành mạnh. Các công ty lớn, có uy tín sẽ thường được lựa chọn, đây cũng là điều quan trọng để các công ty mua, bán nợ có thể tăng vốn chủ sở hữu hoặc huy động vốn cũng như tiếp cận với các khoản nợ tồn đọng một cách dễ dàng hơn. - Cơ sở vật chất, trình độ kỹ thuật công nghệ dựa trên sự minh bạch của các giấy tờ đăng ký kinh doanh, địa điểm, trụ sở, mạng lưới khách hàng, hệ thống quản lý, hệ thống thông tin, trang điện tử … ngoài ra, khách hàng còn chú ý đến tính chuyên nghiệp của công ty. Công ty có cơ sở vật chất tốt, công nghệ SV: Nguyễn Văn Tiến 12
  13. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam cao sẽ không chỉ giảm thiểu được thời gian, áp lực công việc mà còn là điều kiện tốt để tăng tính hiệu quả của việc xử lý công việc. 1.3.1.4. Trình độ cán bộ quản lý, nhân viên và tổ chức bộ máy công ty mua, bán nợ Trình độ cán bộ quản lý, nhân viên ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn và niềm tin của khách hàng. Qua đó, mọi người sẽ để ý đến qua việc nhân viên công ty thực hiện các nghiệp vụ như thẩm định, tiếp cận, thu thập thông tin về các khoản nợ tồn đọng, qua đó đưa ra những phương án mang lại hiệu quả tối ưu sẽ tạo ra môi trường kinh doanh tốt, kết quả hoạt động kinh doanh tăng đều hàng năm và tạo được uy tín trên thị trường cũng như tạo ấn tượng đối với khách hàng. Tổ chức bộ máy khoa học của công ty mua, bán nợ sẽ giúp cho công việc thuận liên hơn, linh động hơn, qua đó cho thấy khả năng của những nhà lãnh đạo công ty, đặc biệt là trong những quyết định mang tầm chiến lược của họ, những quyết định đúng đắn và phù hợp với tình hình thị trường hiện tại. Từ đó, công việc mua, bán và xử lý nợ sẽ chuyên nghiệp hơn, nhanh hơn và mang lại hiệu quả cao hơn. Không những vậy, nếu cán bộ quản lý và nhân viên công ty làm việc khoa học, chuyên nghiệp sẽ tạo niềm tin cho khách hàng có nhu cầu giải quyết các vấn đề về nợ tồn đọng. 1.3.1.5. Vấn đề thực hiện quy trình mua, bán và xử lý nợ tồn đọng Các quy trình thực hiện mua, bán và xử lý nợ tại các công ty mua, bán nợ sẽ ảnh hưởng đến thời gian và tính chính xác từ khâu tiếp nhận hồ sơ, thu thập số liệu, thẩm định, định giá và lên kế hoạch phương án giải quyết, xử lý các khoản nợ tồn đọng. Việc thực hiện các quy trình mua, bán và xử lý nợ tồn đọng góp vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của công ty, vì chỉ khi công việc được thực hiện một cách khoa học, chính xác, tuần tự và những quyết định được đưa ra đúng đắn thì mới giảm thiểu được thời gian, chi phí của c ả bên công ty lẫn khách hàng cần xử lý nợ tồn đọng. Ngoài ra, những quy định trong việc thực hiện những hoạt động liên quan đến công tác mua, bán và xử lý nợ cần được nêu rõ ràng, khoa học và được sửa đổi, bổ sung dựa trên tình hình thực tế hàng kỳ, hàng năm, nếu không rất có thể sẽ gây chồng chéo, không minh bạch và đặc biệt làm giảm hiệu quả của công việc, tăng thời gian trong việc giải quyết các vấn đề liên quan, gây mất niềm tin cho doanh nghiệp có nhu cầu giải quyết nợ tồn đọng. SV: Nguyễn Văn Tiến 13
  14. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam 1.3.2. Nhân tố khách quan 1.3.2.1. Cơ chế, chính sách Cơ chế chính sách hay môi trường pháp lý chính là những yếu tố về luật pháp quy định về các hoạt động liên quan đến mua, bán và xử lý nợ tồn đọng, hoặc những quy định của bộ Tài chính với từng công ty mua, bán nợ, vì thế nên các nhân tố pháp lý ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các công ty mua, bán nợ. Vì kinh doanh, mua, bán nợ tồn đọng là một mặt hàng còn rất mới, đặc biệt và nhạy cảm nên những quy định của pháp luật về hoạt động này vẫn còn hạn chế và sơ khai, gây ra một số khó khăn cho công việc kinh doanh của các công ty mua, bán nợ. Qua đó cho thấy, một môi trường pháp lý chính xác, chặt chẽ, quy định về các chuẩn tắc hợp lý sẽ tạo điều kiện cho công việc kinh doanh mặt hàng nợ tồn đọng của các công ty mua, bán nợ sẽ gặp thuận lợi, đồng thời tạo điều kiện cho việc giải quyết, xử lý nợ tồn đọng được dễ dàng và thuận tiện. Qua đó, khách hàng cũng sẽ cảm thấy an toàn, và việc mua, bán nợ để xử lý sẽ phù hợp hơn với cơ chế thị trường hiện nay. 1.3.2.2. Tình hình nền kinh tế Dù kinh doanh mặt hàng gì và ở thời điểm nào thì tình hình kinh tế không ít thì nhiều cũng ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến mọi doanh nghiệp trên thị trường, trong đó có các công ty mua, bán nợ. Khi một nền kinh tế kém, chậm tăng trưởng và phát triển, lạm phát cao sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp có tỷ lệ nợ trên tổng tài sản lớn, qua đó sẽ xuất hiện rất nhiều những khoản nợ. Tuy nhiên, khi nền kinh tế trì trệ, những khoản nợ sẽ trở thành những khoản nợ khó đòi, khó thu hồi, khó giải quyết hoặc chậm xử lý, việc này sẽ gây ra khó khăn cho các công ty mua, bán nợ nếu nhận về những khoản nợ như thế, đặc biệt là những khoản nợ xấu, không thể thu hồi. Mặt khác, với một nền kinh tế mạnh, phát triển đều, tất nhiên, sẽ không thể thiếu những khoản nợ tồn đọng, vì bất cứ một công ty hay doanh nghiệp kinh doanh ở các ngành nghề nào đi chăng nữa thì việc sử dụng nợ cũng là một trong những chiến lược phát triển của họ. Nhưng lúc này, những khoản nợ sẽ hấp dẫn hơn với những công ty mua, bán nợ vì tính khả thi ở những phương án xử lý nó. Những khoản nợ lúc này sẽ làm giảm áp lực, rủi ro hơn với các doanh nghiệp, đây là những khoản nợ tồn đọng do công việc sản xuất kinh doanh bị chậm, hoặc chưa thu hồi, chưa bán được sản phẩm theo kế hoạch, những khoản nợ tồn đọng có thể được khắc phục, được chi trả nhưng cần thời gian, đây cũng chính là lúc thích hợp cho việc xuất hiện của các công ty mua, bán nợ. SV: Nguyễn Văn Tiến 14
  15. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam 1.3.2.3. Sự phát triển của thị trường mua, bán nợ Như đã nói nhiều lần ở trên, mặt hàng kinh doanh nợ tồn đọng là một mặt hàng đặc biệt và nhạy cảm nên sự phát triển của thị trường mua, bán nợ cũng là tác nhân quan trọng giúp cho các công ty mua, bán nợ gặp nhiều thuận lợi trong các vấn đề giải quyết những khoản nợ tồn đọng. Thị trường mua, bán nợ phát triển sẽ giúp cho các thông tin trên thị trường được chính xác, nhanh chóng và thuận lợi hơn, sẽ xuất hiện nhiều chủ thể mua, bán nợ hơn làm cho những khoản nợ có thể dễ dàng mua, bán và trao đổi trên thị trường, tạo môi trường thuận lợi cho các công ty mua, bán nợ hoạt động mở rộng và những khách hàng có nợ tồn đọng cần xử lý gặp nhau và có hướng giải quyết tối ưu cho những khoản nợ tồn đọng này. Ngược lại, một thị trường mua, bán nợ chưa phát triển sẽ gây ra khó khăn cho việc phát triển các công ty mua, bán nợ vì sẽ khó tạo được niềm tin trên thị trường cũng như việc khó tìm các phe đối tác, tìm kiếm khách hàng và tiếp cận mặt hàng nợ tồn đọng. Hoạt động mua, bán nợ vì thế mà gặp khó khăn và không thể phát triển được. SV: Nguyễn Văn Tiến 15
  16. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN VÀ XỬ LÝ NỢ TỒN ĐỌNG TẠI CÔNG TY MUA BÁN NỢ VIỆT NAM (DATC) 2.1. Sự cần thiết hình thành Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Mua bán nợ Việt Nam Tại Nghị quyết hội nghị lần thứ ba của Ban chấp hành TW Đảng khóa IX về việc tiếp tục, sắp xếp và nâng cao hiệu quả của DNNN, Thủ tướng Chính phủ đã ký phê duyệt quyết định số 109/2003/QĐ-TTg vào ngày 06 tháng 3 năm 2003 về việc thành lập Công ty Mua, bán nợ và tài sản tồn đ ọng của doanh nghiệp, lấy tên quốc tế là Debt and Asset trading Company hay còn gọi tắt là DATC, với số vốn điều lệ ban đầu là 2000 tỷ đồng được hình thành từ nguồn NSNN và các nguồn hợp pháp khác cấp. DATC chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2004 với con dấu riêng, có tài khoản tại kho bạc NN, tài khoản tại các NHTM trong và ngoài nước, trụ sở chính của công ty tại số 4, ngõ Hàng Chuối 1, phố Hàng Chuối, phường Phạm Đình Hổ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Công ty kinh doanh với đối tượng và phạm vi là các khoản nợ và tài sản tồn đọng của các doanh nghiệp và các hoạt động khác như mua các khoản nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp dưới các hình thức thỏa thuận trực tiếp, đấu thầu, đấu giá hoặc theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ, tiếp nhận các khoản nợ và tài sản đã loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp để xử lý khi thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN. Theo Quyết định số 55/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ đã công nhận DATC là DNNN hạng đặc biệt với mục tiêu xử lý các khoản nợ hoặc tài sản tồn đọng như tổ chức đòi nợ, bán các khoản nợ và tài sản, đầu tư dưới việc sử dụng các khoản nợ và tài sản tồn đọng để góp cổ phần, tư vấn, môi giới xử lý nợ và tài sản tồn đọng nhằm lành mạnh hóa tình hình TCDN. Ngày 30 tháng 6 năm 2010, theo quyết định số 1494/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc tổ chức lại Công ty Mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp chuyển đổi thành Công ty TNHH một thành viên Mua, bán nợ Việt Nam hay còn gọi là Công ty Mua, bán nợ Việt Nam, tên gọi quốc tế Vietnam Debt and Asset trading Corporation và giữ nguyên tên viết tắt DATC trong giao dịch, trụ sở chính của công ty được chuyển đến số 51 Quang Trung, phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Công ty Mua, bán nợ Việt Nam hoạt động với mục tiêu giúp đỡ các DN và NHTM nhằm lành mạnh hóa tình hình TC thông qua việc mua, bán nợ và tài sản tồn đọng để xử lý. Số vốn SV: Nguyễn Văn Tiến 16
  17. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam điều lệ của công ty đã được tăng lên ở mức 2481 tỷ đồng. Sau 8 năm đi vào hoạt động, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam - DATC đã đạt được nhiều thành tích trong lĩnh vực kinh doanh đặc biệt này và hoàn thành nhiệm vụ mà Thủ tướng Chính phủ và Bộ Tài chính giao, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường nợ, tạo thêm nguồn hàng cho thị trường tài chính, qua đó, gián tiếp đẩy nhanh sự phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường. Thêm vào đó, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam đã góp phần định hướng cho việc hình thành và phát triển một số định chế tài chính trung gian như công ty đòi nợ, công ty tư vấn tài chính, công ty mua, bán nợ trong nền kinh tế thị trường hiện nay, DATC đã từng bược tạo nên thương hiệu và hiệu quả kinh doanh, có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước. Thời gian tới, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam sẽ tiến hành nâng cấp để trở thành một Tập đoàn hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực mua, bán và xử lý nợ và tài sản tồn đọng, cùng với phương châm hoạt động kể từ những ngày đầu là: “Hợp tác tạo nên sức mạnh - Chia sẻ tạo dựng thành công”, trở thành cánh chim đầu đàn trong lĩnh vực đang kinh doanh. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức và vận hành bộ máy Công ty Mua bán nợ Việt Nam DATC là DNNN hạng đặc biệt, do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ. Đến nay, Công ty Mua, bán nợ Việt Nam đã mở rộng mạng lưới hệ thống chi nhánh của mình trên một số thành phố lớn nước ta như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng tạo ra một mạng lưới bao gồm 12 công ty con và 32 công ty liên kết trên toàn lãnh thổ Việt nam, ngoài ra thì còn 7 công ty có vốn góp t ại DATC. Bộ máy quản lý của công ty dưới quyền Bộ Tài chính bao gồm: Hội đồng thành viên, Kiểm soát viên, Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng và Bộ máy giúp việc được biểu diễn trên sơ đồ bộ máy công ty như sau: 2.1.2.1. Bộ Tài chính Công ty Mua, bán nợ Việt Nam có chủ sở hữu nhà nước. Chính phủ phân công Bộ Tài chính thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với DATC. Qua đó, Bộ Tài chính sẽ quản lý, giám sát hoạt động của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam và ủy quyền cho Hội đồng thành viên trực tiếp quản lý. 2.1.2.2. Hội đồng thành viên Hội động thành viên do Bộ trưởng Bộ Tài chính bổ nhiệm không quá 5 thành viên với nhiệm kỳ tối đa 5 năm, trong đó 1 thành viên sẽ đ ược bổ nhi ệm làm Chủ tịch hội đồng thành viên. Hội đồng thành viên là cơ quan quản lý công ty, nhân danh chủ sở hữu Công ty Mua, bán nợ tổ chức thực hiện một số quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu, chịu trách nhiệm trước pháp luật và sở hữu về SV: Nguyễn Văn Tiến 17
  18. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật liên quan. Hồi đồng thành viên thực hiện nhiệm vụ quản lý Công ty Mua, bán nợ từ Bộ Tài chính được phép quyết định cơ cấu tổ chức bộ máy, tổ chức họp, phương án tổ chức kinh doanh, tiền lương và những kế hoạch ngắn, trung và dài hạn của công ty và bộ máy quản lý. Hồi đồng thành viên đ ược phép bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, khen thưởng hay kỷ luật với Tổng giám đốc nhưng phải có ý kiến của Bộ Tài chính. Thành viên Hội đồng thành viên sẽ bị miễn nhiệm nếu vi phạm pháp luật hoặc thiếu năng lực hay tuổi cao. Hội đồng thành viên làm việc theo chế độ tập thể, họp thường kỳ hàng quý để xem xét những vẫn đề thuộc thẩm quyền và các quyết định chỉ được thông qua nếu được tán thành quá 50% tổng số thành viên HĐQT có mặt, ngoài ra, Hội đồng thành viên cũng có thể họp bất thường nếu công ty có những vấn đề cấp bách. 2.1.2.3. Chủ tịch Hội đồng thành viên Chủ tịch Hội đồng thành viên là 1 trong 5 thành viên của Hội đồng thành viên Công ty Mua, bán nợ Việt Nam do Bộ Tài chính bổ nhiệm. Chủ tịch Hội đồng thành viên đại diện cho Hội đồng thành viên ký nhận vốn, đất đai, tài nguyên và các nguồn lực khác do chủ sở hữu giao, chuẩn bị cho các chương trình hoạt động, nội dung và tài liệu họp của Hội đồng thành viên cũng như chủ trì, lấy ý kiến trong cuộc họp Hội đồng thành viên hàng kỳ. Chủ tịch Hội đ ồng thành viên có nhiệm vụ giám sát Hội đồng thành viên, có thể đình chỉ các quyết định của Tổng giám đốc nếu trái với Nghị quyết DATC cũng như của Hội đồng thành viên, thêm vào đó, Chủ tịch Hội đồng thành viên trực tiếp ký các Quy ết định, Nghị quyết của Hội đồng thành viên, kiểm tra, giám sát trực tiếp Tổng giám đốc, thông qua các phương án về nhân sự để Tổng Giám đốc quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, mức lương và các lợi ích khác đối với Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng, Giám đốc Chi nhánh, Trung tâm, Trưởng Văn phòng đại diện và trưởng các đơn vị hạch toán độc lập. 2.1.2.4. Kiểm soát viên Kiểm soát viên của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam bao gồm không quá 3 thành viên chuyên trách do Bộ trưởng Bộ Tài chính bổ nhiệm, miễn nhiệm, 1 Kiểm soát viên sẽ đứng ra để phụ trách chung các vấn đề liên quan đến việc phân công, điều phối công việc của các Kiểm soát viên, nhiệm kỳ của Kiểm soát viên không quá 3 năm và có thể được bổ nhiệm lại khi hết nhiệm kỳ. Kiểm soát viên sẽ làm công việc chịu trách nhiệm trước pháp luật và Bộ Tài chính về việc kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của Hội đồng thành viên, Chủ SV: Nguyễn Văn Tiến 18
  19. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam tịch Hội đồng thành viên và Tổng giám đốc khi thực hiện các quyền và nhiệm vụ trong công tác quản lý Công ty Mua, bán nợ Việt Nam. Nhiệm vụ của các Kiểm soát viên là thẩm định lại các báo cáo tài chính, báo cáo tình hình kinh doanh và các báo cáo liên quan đến công tác quản lý trước khi trình các cơ quan có chức năng quản lý, qua đó đưa ra các kiến nghị để sửa đổi, bổ sung, cơ cấu lại tổ chức hoặc các công việc liên quan đến điều hành và hoạt động kinh doanh của DATC. 2.1.2.5. Tổng Giám đốc Tổng Giám đốc Công ty Mua, bán nợ Việt Nam là thành viên do Hội đồng thành viên bổ nhiệm dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Tài chính với nhiệm kỳ không quá 5 năm và có thể được bổ nhiệm lại khi hết nhiệm kỳ. Tổng Giám đốc của DATC sẽ là người đại diện trước pháp luật, trực tiếp điều hành các hoạt động hàng ngày của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam thực hiện theo kế hoạch, Nghị quyết, Quyết định của Hội đồng thành viên sau các kỳ họp thường kỳ. Tổng Giám đốc có nhiệm vụ sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn theo phương án đã được Hội đồng thành viên duyệt, thực hiện các phương án đầu tư, phương án mua, bán và xử lý nợ tồn đọng, góp vốn, cho thuê hoặc thanh lý tài sản dưới sự ủy quyền của Hội đồng thành viên. Tổng Giám đốc có thể đề nghị Hội đồng thành viên quyết định bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm, khen thưởng hoặc xử phạt với thành viên Bộ máy giúp việc của mình. Tổng Giám đốc có quyền ký các hợp đồng nhân danh DATC, tuyển dụng lao động theo đúng quy định theo pháp luật dưới sự kiểm tra và giám sát của Hội đ ồng thành viên và Kiểm soát viên, qua đó, trực tiếp điều hành Bộ máy giúp việc để cung cấp đầy đủ các tài liệu theo yêu cầu của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam, chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của DATC, Bộ Tài chính, Hội đồng thành viên về việc thực hiện các nhiệm vụ được giao. 2.1.2.6. Bộ máy giúp việc cho Tổng Giám đốc Bộ máy giúp việc cho Tổng Giám đốc bao gồm Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng, Văn phòng và các Ban chuyên môn, các Chi nhánh, Văn phòng đại diện và đơn vị hạch toán phụ thuộc. Phó Tổng Giám đốc là thành viên do Tổng Giám đốc bổ nhiệm, sẽ giúp Tổng Giám đốc Công ty Mua, bán nợ Việt Nam điều hành công ty theo sự phân công và ủy quyền của Tổng Giám đốc, chịu trách nhiệm về nhiệm vụ được phân công và ủy quyền. SV: Nguyễn Văn Tiến 19
  20. Sự cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ cấp quốc gia cho Việt Nam Kế toán trưởng là thành viên cũng do Tổng Giám đốc bổ nhiệm, giúp Tổng Giám chỉ đạo, tổ chức thực hiện các công tác liên quan đến kế toán tài chính, thống kê của công ty. Văn phòng, các Ban chuyên môn, các Chị nhánh, Văn phòng đại diện và đơn vị hạch toán phụ thuộc có chức năng tham mưu, giúp việc Hội đồng thành viên và Tổng Giám đốc trong việc quản lý, điều hành các công việc của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam. Chức năng và nhiệm vụ cụ thể của cơ cấu bộ máy giúp việc cho Tổng Giám đốc trên từng giai đoạn, thời điểm và công việc cụ thể sẽ do chính Tổng Giám đốc đề nghị lên Hội đồng thành viên xét duyệt. 2.1.3. Phạm vi hoạt động và kết quả kinh doanh của Công ty Mua bán nợ Việt Nam những năm gần đây Công ty Mua, bán nợ Việt Nam chính thức đi vào hoạt động kinh doanh từ năm 2004 sau Nghị quyết 05 thành lập của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị lần thứ 3 của Ban chấp hành TW Đảng khóa IX với mục tiêu chính được nêu trong Hội nghị: “Xử lý các khoản nợ tồn đọng và tài sản không cần dùng, chờ thanh lý, vật tư ứ đọng kém, mất phẩm chất, góp phần lành mạnh hóa tình hình tài chính doanh nghiệp, thúc đẩy quá trình sắp xếp và chuyển đổi DNNN”. 2.1.3.1. Những năm đầu đi vào hoạt động (giai đoạn 2004-2008) Công ty Mua, bán nợ Việt Nam là một trong những đơn vị đi đầu trong lĩnh vực kinh doanh một mặt hàng vẫn còn khá mới và đặc biệt ở Việt Nam - nợ và tài sản tồn đọng, vì thế nên những năm đầu tiên gặp khá nhiều khó khăn từ khâu tổ chức nhân sự đến đi vào hoạt động kinh doanh, sản xuất, nhưng những thành tựu bước đầu đạt được đã phần nào đem lại niềm tin cho các nhà quản lý và khách hàng. Về hoạt động tiếp nhận, xử lý nợ và tài sản đã loại trừ không tính vào giá trị của doanh nghiệp khi chuyển đổi sở hữu DNNN, tính trong 5 năm đầu hoạt động giai đoạn 2004-2008, DATC đã tiếp nhận nợ và tài sản tồn đọng của 2215 doanh nghiệp trong nước bao gồm 874 DNTW và 1341 DN địa phương. Đến năm 2006, DATC đã hoàn thành nhiệm vụ tiếp nhận nợ và các tài sản đã đ ược loại trừ khỏi DN cổ phần hóa. Năm 2007, phương châm làm việc của Công ty Mua, bán nợ Việt Nam đã thay đổi thành tiếp nhận nợ và tài sản loại trừ ở đâu thì xử lý ngay ở đó. Trong giai đoạn 5 năm đầu, DATC đã tiếp nhận nợ và tài sản loại trừ có giá trị sổ sách lên đến 2802 tỷ đồng. Lũy kế đến năm 2008, DATC đã xử lý xong tài sản ở 1363 DN, tổng số tiền thu về cho NSNN từ việc xử lý nợ và tài sản loại trừ lên đến 347 tỷ đồng. SV: Nguyễn Văn Tiến 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2