ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TĂNG THANH PHƯƠNG

BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG DÂN CA MÔNG HÀ GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,

VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TĂNG THANH PHƯƠNG

BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG DÂN CA MÔNG HÀ GIANG

Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,

VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Ngọc Anh

THÁI NGUYÊN - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và nội dung này chưa từng

được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào trước đó.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2018

Tác giả luận văn

Tăng Thanh Phương

i

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Ngọc Anh -

người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thành

luận văn này.

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cán bộ, giảng viên khoa Ngữ

Văn, phòng Đào tạo trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã chỉ

bảo tận tình và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian học tập và

nghiên cứu để hoàn thành luận văn.

Em xin chân thành cảm ơn những ý kiến nhận xét, đánh giá, góp ý quý

báu của Hội đồng khoa học giúp em hoàn thiện hơn luận văn.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2018

Tác giả luận văn

Tăng Thanh Phương

ii

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 7

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 8

6. Đóng góp của đề tài ........................................................................................ 9

7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................ 9

NỘI DUNG ..................................................................................................... 10

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CA MÔNG VÀ

BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG VĂN HỌC ........................................ 10

1.1. Vài nét khái quát về dân ca Mông ở Hà Giang ........................................ 10

1.2. Biểu tượng văn hóa trong tác phẩm văn học............................................ 15

1.2.1. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học .................................................. 15

1.2.2. Biểu tượng và biểu tượng văn hóa trong văn học ................................. 19

Chương 2: NHỮNG BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG DÂN CA MÔNG

HÀ GIANG ...................................................................................................... 25

2.1. Biểu tượng thiên nhiên trong cảm quan văn hóa Mông ........................... 26

2.1.1. Biểu tượng trời ...................................................................................... 26

2.1.2. Biểu tượng núi ....................................................................................... 31

2.1.3. Biểu tượng nước .................................................................................... 35

2.1.4. Biểu tượng đá ........................................................................................ 40

2.2. Biểu tượng về con người trong văn hóa Mông ........................................ 45

2.2.1. Biểu tượng về người cha ....................................................................... 45

2.2.2. Biểu tượng về người mẹ ........................................................................ 50

iii

2.2.3. Biểu tượng về đrâu Mông ..................................................................... 54

2.2.4. Biểu tượng về gầu Mông ....................................................................... 58

Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA

TRONG DÂN CA MÔNG HÀ GIANG ...................................................... 64

3.1. Ngôn ngữ .................................................................................................. 64

3.1.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh ........................................................................ 64

3.1.2. Ngôn ngữ giàu nhịp điệu ....................................................................... 66

3.1.3. Ngôn ngữ giàu cảm xúc ........................................................................ 69

3.2. Quan niệm nghệ thuật của tác giả dân gian Mông ................................... 72

3.2.1. Quan niệm về thiên nhiên ..................................................................... 72

3.2.2. Quan niệm về con người ....................................................................... 75

KẾT LUẬN .................................................................................................... 80

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ................................... 82

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 83

iv

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Văn học dân tộc thiểu số nói chung là một bộ phận quan trọng tạo nên nét

vẽ hoàn chỉnh cho bức tranh văn học Việt Nam. Trong đó, bộ phận dân ca của

đồng bào dân tộc thiểu số được xem là một trong những nét phác họa cơ bản

giúp ta hình dung được đời sống vật chất, tinh thần cũng như lịch sử phát triển

của cộng đồng dân tộc đó từ thời điểm khai sinh cho đến ngày nay. Nguồn

dân ca đóng vai trò như một trung tâm lưu giữ và bảo tồn những giá trị văn

hóa quý giá cho mỗi dân tộc với đặc trưng thể loại là hình thành và tồn tại

trong tổng thể văn hóa dân gian. Hiểu dân ca cũng có nghĩa là hiểu tâm tư,

tình cảm, phong tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ... của dân tộc đó. Đặc biệt trong

một địa phương có cộng đồng người dân tộc thiểu số đa dạng như Hà Giang

thì vấn đề nghiên cứu dân ca của các dân tộc ở đây lại càng cần được chú

trọng hơn.

1.2. Nghiên cứu biểu tượng văn hóa nhằm giải mã các thành tố văn hóa được

hình thành trong đời sống con người đã và đang là một chủ đề thu hút sự quan

tâm của giới nghiên cứu trong một vài thập kỷ gần đây. Biểu tượng là loại mã

văn hóa mà nếu muốn hiểu về một nền văn học, các nhà nghiên cứu không thể

không quan tâm. Việc hiểu ý nghĩa của các biểu tượng trong văn học mỗi dân

tộc chính là quá trình đi vào khám phá đặc tính văn hóa của cộng đồng dân

tộc đó được thể hiện thông qua ngôn ngữ biểu tượng. Biểu tượng là một kênh

thông tin cho phép con người ở những thời đại khác nhau, những nền văn

minh khác nhau, những vùng văn hóa khác nhau có thể giao tiếp với nhau.

Việc nghiên cứu văn học từ góc độ văn hóa cho thấy một hướng đi triển vọng

trong việc tiếp cận tác phẩm bên cạnh những yếu tố thi pháp truyền thống.

Cách tiếp cận văn học từ văn hóa giúp phát hiện thêm những chiều kích của

tác phẩm, đẩy tư tưởng tác phẩm lên thành những vấn đề văn hóa chứ không

chỉ dừng lại ở mức văn học.

1

1.3. Trong các địa phương có người dân tộc Mông sinh sống, Hà Giang là nơi

có số lượng cộng đồng dân tộc thiểu số này đông hơn cả chiếm 1/3 số người

Mông của cả nước. Có thể nói văn hóa của cộng đồng người Mông chi phối

phần lớn văn hóa Hà Giang nói chung. Văn học dân tộc Mông có vị trí quan

trọng gần như chủ chốt với khối lượng tác phẩm tuy chưa nhiều nhưng khá

phong phú và đa dạng từ thơ, dân ca đến tục ngữ, câu đố, truyện cổ dân gian...

Nếu thiếu đi kho tàng văn học dân tộc Mông thì bức tranh văn học dân tộc

thiểu số ở Hà Giang sẽ có khoảng trống rất lớn. Không chỉ có giá trị nội dung

mà giá trị nghệ thuật của nhóm văn học dân tộc Mông cũng rất cần được quan

tâm và lý giải. Với đặc thù như vậy, việc khai thác hệ thống biểu tượng trong

dân ca của người Mông tại đây không chỉ có ý nghĩa về mặt lưu giữ văn hóa

dân tộc mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy đời sống văn hóa

dân tộc Mông cũng như việc truyền bá di sản văn học của cộng đồng dân tộc

giữ vị trí chủ đạo tại mảnh đất địa đầu tổ quốc.

1.4. Lựa chọn đề tài Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang, chúng

tôi mong muốn làm dày thêm hướng đi trong việc khám phá dân ca Mông ở

Hà Giang nói riêng và khám phá văn học dân gian Mông nói chung. Tạo tiền

đề xác lập vị trí xứng đáng của văn học dân gian Mông trong công tác giảng

dạy văn học tại nhà trường phổ thông, thúc đẩy sự phát triển của các hoạt

động giáo dục trong nhà trường gắn với văn học bản địa. Hiểu biểu tượng của

một cộng đồng dân tộc từ dân ca cũng là một phương thức góp phần phát triển

văn hóa thông qua những giá trị bản sắc được mở ra từ văn học.

2. Lịch sử vấn đề

Văn học dân gian Mông không phải là chủ đề mới lạ trong hướng tiếp

cận nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số nói chung. Thế nhưng khó có thể

khẳng định mảnh đất màu mỡ này đã không còn một khoảng trống nào để

tiếp tục cày xới. Mỗi bước tiến của khoa học nghiên cứu văn học sẽ đi kèm

2

theo đó là những hệ thống lý thuyết nghiên cứu mới, đây là chìa khóa mở

ra những cách cửa tiếp theo để giải mã những tác phẩm văn học mà chúng

ta tưởng chừng như đã hiểu hết về nó. Dân ca Mông ở Hà Giang là một đối

tượng như vậy.

Từ những năm 60 của thế kỉ XX trở lại đây, các công trình sưu tầm,

nghiên cứu về thơ văn dân tộc Mông dần xuất hiện. Dấu mốc đầu tiên phải kể

đến là cuốn Dân ca Mèo [58] xuất bản năm 1967 được giới thiệu bởi nhà

nghiên cứu, sưu tầm Doãn Thanh do nhà xuất bản Văn học ấn hành. Các di

sản về dân ca Mông lần lượt được giới thiệu trong các công trình sưu tầm sau

đó như: Chỉ vì quá yêu (Hùng Đình Quý, Nxb Văn hóa dân tộc, 1998) [48];

Không thương nhau sẽ khổ (Hờ A Di, Nxb Văn hóa dân tộc, 1999) [9]… Bên

cạnh đó, văn học dân gian Mông cũng xuất hiện trong những công trình mang

tính chất tập hợp và giới thiệu văn học dân tộc thiểu số nước nhà như: Hợp

tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945 – 1985 (Nxb Văn hóa –

1981) [34]; Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỉ XX (Nxb Văn hóa dân

tộc, 1985) [35]… Riêng mảnh đất Hà Giang, công trình sưu tầm của nhà thơ,

nhà sưu tầm văn học dân gian Hùng Đình Quý với tập thơ Chỉ vì quá yêu [48]

và ba tập Dân ca Mông ở Hà Giang [45-47] đã đặt những viên gạch đầu tiên

cho diện mạo thơ ca dân tộc Mông ở Hà Giang nói riêng và nền văn học dân

gian Hà Giang nói chung. Nối tiếp sau đó là các công trình sưu tầm khác về

văn học dân gian Mông Hà Giang như: Những bài khèn của người Mông ở

Hà Giang (Hùng Đình Quý, Nxb Khoa học Xã hội) [49]; tập truyện cổ dân

tộc Mông Hà Giang Cháng Sí Páo mồ côi [60] (nhóm tác giả Hạng Thị Vân

Thanh, Dương Thị Phương, Giàng Thị Sến, Hội VHNT tỉnh Hà Giang)… đã

làm cho diện mạo văn học dân gian Mông ở Hà Giang dần rõ nét hơn.

Cùng với sự tìm tòi của các nhà sưu tầm, các nhà nghiên cứu cũng đã

bắt tay tạo thêm một mảnh ghép giúp thơ ca dân tộc Mông hiện lên hoàn

3

chỉnh nhất. Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu về dân ca Mông

nói chung như Thơ ca dân gian H’Mông (2003) [17] của Hùng Thị Hà. Đề tài

nghiên cứu khoa học của Đỗ Ngọc Hoa Diễn xướng dân ca Mông Hà Giang

(2003). Dân ca giao duyên và lễ hội Gầu tào của dân tộc Mông của tác giả

Nguyễn Văn Tiệp (2003), Khảo sát nghi lễ cúng ma dân tộc Mông của tác giả

Hoàng Thị Thủy (2004). Tiếng hát về tình yêu đôi lứa trong dân ca Mông Hà

Giang của Vũ Hồng Cường (2010). Luận văn thạc sĩ Tính nữ và nữ quyền

trong dân ca Mông (2013) của Nguyễn Thị Phương Hoa. Các công trình, bài

báo khoa học khác như: Tình yêu trong thơ ca dân gian Mông [25] của tác giả

Hùng Thị Hiền, Không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ ca dân gian Mông

[19], Câu dân ca trên cao nguyên đá [20]... của tác giả Hùng Thị Hà.... Trong

các công trình, đề tài, bài viết kể trên, các tác giả đã tập trung khảo sát dân ca

Mông về nội dung biểu hiện, hình thức diễn xướng và một số yếu tố thi pháp.

Các tác giả có nhắc đến biểu tượng trong dân ca Mông nhưng mới chỉ là gợi dẫn

mà chưa đi vào phân tích ý nghĩa cụ thể từng biểu tượng cũng như vị trí của

những biểu tượng đó trong nền văn hóa dân tộc Mông.

Một trong những công trình nghiên cứu tập trung vào biểu tượng

trong dân ca Mông là luận văn Giải mã biểu tượng lanh trong dân ca

Hmông của tác giả Đặng Thị Oanh (2006) [42]. Tác giả đi vào khảo sát

biểu tượng lanh trong dân ca Mông từ cơ sở hình thành biểu tượng lanh

trong đời sống văn hóa.

Biểu tượng trong dân ca Mông cũng được nhắc đến trong luận án của tác

giả Nguyễn Kiến Thọ Thơ ca dân tộc Hmông - từ truyền thống đến hiện đại

(2012) [64]. Tác giả đã đề cập đến biểu tượng trong sự vận động của tiến trình

thơ ca dân tộc Mông. Tác giả đưa ra những biểu tượng mang tính truyền thống

vẫn thường xuyên xuất hiện trong thơ ca dân gian và những biểu tượng mới phát

sinh về cuộc sống và con người dân tộc Mông trong giai đoạn lịch sử. Từ đó, tác

4

giả đi đến kết luận thế giới biểu tượng là sợi dây gắn kết giữa truyền thống và

hiện đại trong thơ ca dân tộc Mông.

Nghiên cứu biểu tượng trong văn học dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa

cũng có thêm những bước tiến mới với sự xuất hiện ngày càng phong phú và đa

dạng nhiều công trình, bài viết. Các tác giả thể hiện sự quan tâm và cho thấy sự

cần thiết của việc nghiên cứu biểu tượng trong lĩnh vực văn học dân gian này.

Luận văn thạc sĩ của Trương Thị Thùy Anh Nghiên cứu biểu tượng khèn trong

dân ca Mông từ văn hóa đến văn học dân gian (2014) [1] tập trung phân tích

biểu tượng khèn và giải mã một số hướng nghĩa tiêu biểu của biểu tượng khèn từ

văn hóa đến văn học dân gian. Dưới góc nhìn văn hóa, tác giả đã đưa ra một số

hướng nghĩa cơ bản của biểu tượng khèn trong dân ca Mông: biểu tượng vật

thiêng trong nghi lễ tang ma, biểu tượng tính nam, dấu hiệu phân biệt thế giới

con người, biểu trưng cho thân phận con người, biểu trưng cho hai trạng thái

trong tình yêu. Luận văn đã khẳng định được giá trị của nghiên cứu biểu tượng

dưới góc nhìn văn hóa. Đây là sự gợi mở hết sức quý giá cho các công trình

nghiên cứu về biểu tượng trong dân ca Mông sau đó.

Hướng nghiên cứu tiếp cận văn học dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa

được đào sâu hơn qua luận án tiến sĩ Thơ ca dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa

(2015) [18] của tác giả Hùng Thị Hà. Tác giả công trình đã khảo sát thơ ca dân

gian Mông về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật từ góc nhìn văn hóa. Trong

quá trình phân tích, tác giả có đề cập đến một số biểu tượng phổ biến trong thơ

ca dân gian Mông như biểu tượng cây lanh, biểu tượng cây khèn, biểu tượng con

đường, biểu tượng nước, biểu tượng hoa, biểu tượng con số, biểu tượng bồ giáo,

thắt lưng, xà cạp, khăn đội đầu, biểu tượng lá ngón, cuộn dây, biểu tượng chiếc

ô, biểu tượng con ngựa... Tuy nhiên hệ thống biểu tượng tác giả chỉ ra mới chỉ

được nghiên cứu và xem xét như là một trong các yếu tố của phương diện cấu

trúc nghệ thuật trong thơ ca dân gian Mông chứ chưa phải là đối tượng nghiên

cứu chính từ góc nhìn văn hóa.

5

Tiến sĩ Trần Hữu Sơn trong bài viết: Cây lanh – Biểu tượng trong văn

hóa dân gian H’Mông đã nhận định “Văn hóa dân gian tộc người Mông giàu

bản sắc, xuất hiện nhiều hệ thống biểu tượng đặc thù như biểu tượng về hệ

thống cây (có các biểu tượng cây tre, cây lanh, cây thuốc phiện, cây cỏ tranh,

ngải cứu, cây ngô, cây kê, cây quả bầu…) biểu tượng về hệ thống loài vật

(con gà, con trâu, con ngựa, con lợn, con hổ, con chó…) hoặc biểu tượng về

đồ vật ví dụ cây khèn, cái ô, tù và , cái giường …. Các biểu tượng trên có tần

số xuất hiện nhiều trong nghi lễ, tín ngưỡng, phong tục tập quán và văn học

dân gian…” [51]. Từ đây có thể điểm qua một số công trình bài viết khác về

biểu tượng trong văn học dân gian Mông như: Bùi Xuân Tiệp với Bước đầu

giải mã một số biểu tượng trong lễ hội Gầu Tào và dân ca giao duyên dân tộc

Mông [55] đã giải mã biểu tượng lanh trong lễ hội Gầu Tào và tập trung sâu

hơn vào mảng biểu tượng trong dân ca giao duyên. Trần Duy Hưng với công

trình Biểu tượng trong dân ca nghi lễ tang ma của người Mông ở Hà Giang

[28] cũng đã khai thác hệ thống biểu tượng ở mảng dân ca nghi lễ. Tác giả

Hùng Thị Hà với bài viết Biểu tượng cây lanh trong thơ ca dân gian Mông

khẳng định giá trị biểu tượng lanh trong văn hóa Mông từ dân ca [16].

Từ những tìm hiểu về lịch sử nghiên cứu dân ca Mông nói chung và

biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông nói riêng, chúng tôi nhận thấy trong

các công trình nghiên cứu về dân ca Mông, các tác giả đều khẳng định về sự

có mặt của những biểu tượng và bước đầu đã có những kiến giải về ý nghĩa

của những biểu tượng đó. Tuy nhiên, tác giả những công trình nghiên cứu trên

mới chỉ tập trung vào một số biểu tượng như biểu tượng khèn, biểu tượng lanh

mà chưa chú ý tới một hệ thống các biểu tượng phong phú khác trong dân ca

Mông. Đồng thời, các tác giả thường nghiên cứu biểu tượng như một đơn vị

riêng lẻ mà chưa đặt các biểu tượng trong hệ thống các biểu tượng cùng loại để

xem xét, đánh giá ý nghĩa biểu tượng trong đời sống văn hóa. Đặc biệt chưa có

6

công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống biểu tượng văn hóa dân tộc

Mông trong dân ca Mông Hà Giang. Tuy vậy, những đề tài, bài viết kể trên là

nguồn tư liệu vô cùng quý giá và trở thành những công trình gợi dẫn cho chúng

tôi lựa chọn Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang làm đề tài luận

văn của mình.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống biểu tượng văn hóa dân

tộc Mông trong dân ca Mông Hà Giang.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề tài là ba tập Dân ca Mông Hà Giang

do nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Hùng Đình Quý sưu tầm và xuất bản: Hùng

Đình Quý, (1995), Dân ca Mông Hà Giang, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà

Giang (tập 1,2,3). Ngoài ra, trong quá trình triển khai các vấn đề của đề tài,

chúng tôi còn sử dụng các công trình sưu tầm và nghiên cứu khác về dân ca

Mông như cuốn Dân ca H’Mông, (1984), Doãn Thanh, Hoàng Thao, Chế Lan

Viên, Nxb Văn học, Hà Nội; Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam

1945 - 1985, (1981), Nxb Văn hóa dân tộc; Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam

thế kỉ XX, (1985), Nxb Văn hóa dân tộc.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Việc nghiên cứu biểu tượng văn hóa dân tộc Mông trong dân ca Mông ở

Hà Giang nhằm tìm hiểu nội dung, ý nghĩa và chức năng của hệ thống biểu

tượng trong dân ca Mông với việc thể hiện bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc

Mông. Từ đó, góp thêm tiếng nói vào công tác bảo tồn và phát huy các giá trị

văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa dân tộc Mông nói riêng.

7

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn những vấn đề có liên quan đến đề tài.

- Phân tích nội dung, ý nghĩa, giá trị nghệ thuật của các biểu tượng tiêu

biểu trong dân ca Mông Hà Giang. Đồng thời, đưa ra những nhận định, đánh giá

về vai trò của hệ thống biểu tượng với việc khẳng định giá trị văn hóa người

Mông Hà Giang.

5. Phương pháp nghiên cứu

Ở đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đề tài sử dụng nhằm phân tích các

tài liệu lý luận về biểu tượng, về lý thuyết bảo tồn và phát huy, phân tích các

khía cạnh để làm rõ các nội dung nghiên cứu. Từ đó tổng hợp các vấn đề nghiên

cứu để đưa ra đánh giá, kết luận về đối tượng nghiên cứu.

- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa: phương pháp này được sử dụng

để thống kê tần số xuất hiện các biểu tượng cũng như các công trình nghiên cứu

có liên quan đến đề tài để có cái nhìn tổng quát về vấn đề nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu so sánh: phương pháp này chúng tôi sử dụng

để so sánh diện mạo dân ca Mông với các dân tộc khác, đối chiếu hệ thống biểu

tượng trong văn hóa Mông với văn hóa các dân tộc khác để tìm ra nét riêng bản

sắc trong dân ca Mông Hà Giang

- Phương pháp điền dã văn học: phương pháp này hỗ trợ trong quá trình

tìm hiểu thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị dân ca Mông nói riêng và giá trị

văn học cổ truyền Mông ở Hà Giang nói chung.

- Phương pháp điều tra, khảo sát: điều tra, khảo sát bằng bảng hỏi và phỏng

vấn sâu về các vấn đề liên quan đến đề tài, đi sâu vào mục đích nghiên cứu, gắn

với thực tế tại địa bàn nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nghiên cứu văn học từ góc nhìn

văn hóa cần nhìn nhận dưới quan điểm liên ngành để có cái nhìn toàn diện, sâu

8

sắc. Có sự kết hợp với các ngành khoa học khác như: Lịch sử, Địa lí, Dân tộc

học, Nhân chủng học, Văn hóa học...

- Phương pháp nghiên cứu hệ thống: đặt biểu tượng trong mối vận động,

tác động qua lại trong hệ thống để khẳng định giá trị của biểu tượng.

- Phương pháp kí hiệu học: mối biểu tượng là một loại kí hiệu đặc biệt,

phương pháp kí hiệu học sẽ làm rõ hơn mối quan hệ giữa cái biểu đạt cái được

biểu đạt qua ngôn ngữ biểu tượng.

6. Đóng góp của đề tài

- Luận văn Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang là công trình

đầu tiên nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về biểu tượng trong dân ca Mông Hà

Giang từ góc nhìn văn hóa, với mục tiêu làm rõ những nét bản sắc của cộng đồng

dân tộc Mông Hà Giang qua dân ca nói riêng, cũng như chỉ ra vị trí, vai trò của nét

bản sắc này trong cộng đồng các dân tộc sinh sống tại Hà Giang nói chung.

- Trên cơ sở phân tích ý nghĩa của hệ thống biểu tượng trong dân ca Mông,

chỉ ra được sự cần thiết của việc đưa văn học dân gian Mông vào giảng dạy tại

nhà trường, nhất là với học sinh người Mông. Đây chính là môi trường bảo tồn

và phát huy văn hóa Mông một cách trọn vẹn nhất.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, nội dung

chính của luận văn gồm ba chương

Chương 1: Những vấn đề chung về dân ca Mông và biểu tượng văn hóa

trong văn học

Chương 2: Những biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang

Chương 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tượng văn hóa trong dân ca

Mông Hà Giang

9

NỘI DUNG

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CA MÔNG VÀ

BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG VĂN HỌC

1.1. Vài nét khái quát về dân ca Mông ở Hà Giang

Cao nguyên đá Hà Giang là vùng đất cư trú của nhiều tộc người anh em

các dân tộc thiểu số như Mông, Tày, Lô Lô, Dao, Giấy, Nùng, Pu Péo... Tuy

nhiên, tộc người chiếm ưu thế hơn cả là dân tộc Mông, những cư dân để lại

dấu ấn đậm nét nhất trong đời sống vật chất và tinh thần tại vùng đất này.

Vấn đề tộc danh của đồng bào Mông đã được đặt ra từ trước những năm

1945. Tuy nhiên cách gọi tên và phiên âm trong Tiếng Việt hơn nửa thế kỉ qua

của cộng đồng dân tộc này không có sự thống nhất. Trước đây người Hán gọi

người Mông là Miêu Tử hay Miêu Tộc, rồi sau đó Miêu trở thành tên tộc

người. Có thời gian, các cộng đồng ở phía Bắc Việt Nam gọi họ là người

Mèo. Một số văn bản và công trình nghiên cứu khác về tộc người sử dụng

cách viết H’Mông. Tại Hội nghị cốt cán năm 1978 đã chính thức gọi tên dân

tộc này là dân tộc Mông. Hội Đồng Dân tộc của Quốc Hội (khoá X) đã có công

văn số: 09-CV/HĐDT ngày 04/12/2001 về việc đề nghị đọc đúng tên và khái

niệm về dân tộc, công văn nêu rõ: “Tên gọi dân tộc Mông, nếu viết bằng chữ

phổ thông là ngôn ngữ chính thức của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam thì viết là dân tộc Mông” [5]. Với văn bản mang tính pháp quy đã ban

hành, tên gọi dân tộc Mông được coi là tộc danh chính thức. Tuy nhiên, chúng

tôi xin giữ nguyên cách viết về tên gọi dân tộc Mông trong các công trình trước

đó của các nhà nghiên cứu khi trích dẫn nguồn tư liệu trong đề tài.

Dân ca là những sáng tác có từ lâu đời. Các tác giả Từ điển thuật ngữ văn

học định nghĩa về dân ca như sau:“Một loại hình sáng tác dân gian mang tính

chất tổng hợp bao gồm lời nhạc, động tác, điệu bộ kết hợp với nhau trong

10

diễn xướng” [14;108]. Dân ca nói chung là những bài hát sinh ra từ trong lòng

nhân dân và có đời sống ngay giữa cộng đồng nhân dân đó. Với đặc trưng như

vậy, dân ca gắn liền với mọi sinh hoạt của đời sống và thể hiện nếp cảm, nếp

nghĩ của cộng đồng sáng tạo ra nó. Hầu hết các dân tộc và các địa phương đều

có những làn điệu dân ca cho riêng mình. Sự xuất hiện của những tác phẩm

dân ca của các dân tộc ít nhiều có sự khác nhau. Tuy nhiên tựu chung lại, mỗi

bài dân ca thường có nguồn gốc từ những điều kiện chủ yếu như phong tục

sinh hoạt, nghi lễ, điều kiện tự nhiên xã hội, hoạt động vui chơi, lao động sản

xuất. Mỗi dân tộc cư trú trên những vùng miền, những khu vực địa lý khác

nhau sẽ tạo dựng những phong tục, lối sống, phương thức lao động để tồn tại,

ngôn ngữ giao tiếp cho dân tộc mình. Cũng như vậy, quá trình ra đời các làn

điệu dân ca mang dấu ấn thời gian, không gian, phong tục, ngữ âm của từng

dân tộc.

Dân tộc Mông sở hữu một kho tàng văn học nghệ thuật dân gian tương

đối phong phú bao gồm: truyện cổ tích, truyện thơ, tục ngữ, câu đố, dân ca,

thần thoại.... Các tác phẩm văn học dân gian ấy phản ánh thế giới quan, nhân

sinh quan và cuộc sống lao động, đấu tranh của người Mông. Nhiều tác phẩm

văn học dân gian Mông truyền từ đời này sang đời khác thực sự là những tác

phẩm văn học có giá trị cao. Nền văn học dân gian của dân tộc Mông phản

ánh chính cuộc sống của họ và phản ánh năng lực của con người trước thiên

nhiên khắc nghiệt. Nếu như truyện dân gian Mông tập trung đề cập đến mặt

trái xã hội, bênh vực lẽ phải, tràn đầy tính giáo dục và đạo đức nhân văn cao

cả. Bộ phận tục ngữ và câu đố với những nội dung phong phú thể hiện mối

quan hệ xã hội giữa người với người và giữa con người với thiên nhiên thì các

tác phẩm dân ca Mông có sức phản ánh mọi mặt của đời sống người Mông.

Dân ca Mông là một trong những di sản tinh thần độc đáo của nền văn học dân

tộc, là bộ phận tiêu biểu trong văn hóa dân tộc Mông chứa đựng nhiều giá trị

11

nghệ thuật đặc sắc. Đặc biệt phần dân ca về nghi lễ phong tục phản ánh những

quan niệm về tín ngưỡng có chiều sâu nhân bản của đồng bào.

Dân ca Mông có thể coi là người anh cả trong không gian văn học dân

tộc Mông bởi sự phong phú về số lượng tác phẩm cũng như giá trị biểu đạt.

Khi điều tra về vị trí của dân ca Mông so với các thể loại văn học dân gian

khác của người Mông, kết quả khảo sát tại Hà Giang cho thấy hơn 70% người

dân lựa chọn dân ca. Điều này khẳng định trong tâm thức của người dân nơi

đây, nhắc đến dân tộc Mông thì dân ca luôn là lựa chọn đầu tiên trong không

gian văn học của tộc người này. Dân ca còn là sự tích hợp của nhiều thể loại

văn học dân gian khác như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ, tục ngữ, câu

đố… Không khó để tìm thấy ở dân ca Mông sự lồng ghép trong lời ca những

yếu tố văn học kể trên. Ngược lại, muốn hiểu tường tận dân ca Mông cũng

phải cần đến sự trợ lực của các thể loại văn học khác. Rất nhiều nhà nghiên

cứu như Chế Lan Viên, Nguyễn Mạnh Tiến, Doãn Thanh, Trần Hữu Sơn,

Hồng Thao... đã nhận định dân ca là thể loại nền tảng mà những mảnh vỡ từ

nó có thể cấu thành nên các thể loại văn học dân gian khác như truyện thơ,

thần thoại... Tất cả những điều này khẳng định một lần nữa vị trí của dân ca

Mông trong không gian văn học của người Mông.

Theo các tài liệu lịch sử, tài liệu dân tộc học, người Mông đến Việt Nam

vào khoảng cách đây 300 – 500 năm. Khi mới đặt những bước chân đầu tiên

vào Việt Nam, họ mang theo vốn dân ca Mông từ Trung Quốc. Phải đến một

thời gian sau đó họ mới bắt đầu sáng tác những bài dân ca mới. Các bài dân

ca Mông lúc này phản ánh một bộ mặt văn hóa mới được người Mông kiến

tạo trên mảnh đất Việt Nam. Đó là quá trình những sáng tác dân ca được phát

triển thành từ những chất liệu đầy màu sắc của cuộc sống. Theo các nhà

nghiên cứu, dân ca Mông do các nghệ nhân sáng tác tại miền núi phía Bắc

nước ta dần dần qua quá trình truyền miệng, qua thời gian, qua sự sáng tạo

12

của nhiều người mới thành bài ca hoàn chỉnh. Những người Mông đầu tiên

đến miền đất mới đã sáng tác vài điệu dân ca mô tả cuộc sống mới, kể chuyện

phong cảnh thiên nhiên. Những bài dân ca mới được bồi đắp dần qua dấu ấn

tinh thần người Mông, đi từ ý tưởng chưa hoàn chỉnh thành những bài hát

được lưu truyền trong dân gian. Dân ca Mông cứ như vậy xuất hiện trên miền

đất mới ở phía Bắc Tổ quốc Việt Nam.

Từ những năm 60 của thế kỉ XX, dân ca Mông được sưu tầm và truyền

bá với vai trò là các tác phẩm văn học qua việc xuất bản và giới thiệu trong

các tuyển tập sách chung về văn học dân gian và xuất bản tuyển tập dân ca

Mông nói riêng. Tập Dân ca Mèo [58] của Doãn Thanh là công trình sưu tầm

tập hợp được số lượng các bài dân ca được coi là hoàn chỉnh nhất. Khi cuốn

sách được tái bản năm 1984 với tên gọi Dân ca H’mông [59] đã được thêm

hai bài trong đó có bài Tiếng hát mồ côi được Lê Trung Vũ sưu tầm ở Mèo

Vạc – Hà Giang. Như vậy, dân ca Mông Hà Giang đã bắt đầu được sưu tầm

và giới thiêu từ thời điểm đó. Tiếp nối sau đó từ năm 1995 đến năm 2003, nhà

thơ Hùng Đình Quý đã đi khắp những bản làn Mông ở Hà Giang và ghi lại

những bài dân ca từ trí nhớ các nghệ nhân còn lưu giữ được bằng cả tiếng

Mông và tiếng Việt. Nhà thơ đã tập hợp những bài dân ca sưu tầm được và

công bố trong tuyển tập ba tập Dân ca Mông Hà Giang [45-47] do Sở Văn

hóa Thông tin tỉnh Hà Giang xuất bản từ năm 1995 - 2003. Đây là công trình

khẳng định giá trị dân ca Mông trong kho tàng văn học dân gian Mông Hà

Giang từ số lượng tác phẩm cho đến nội dung và nghệ thuật.

Nếu như với các dân tộc vùng đất Tây Nguyên, sử thi luôn chiếm vị trí

quan trọng hàng đầu trong kho tàng văn hóa thì với dân tộc Mông vị trí đó

thuộc về dân ca. Với lịch sử buộc phải di chuyển triền miên thì hình thức

truyền khẩu và lưu giữ trong trí nhớ đã giúp dân ca trở thành bộ phận giữ

được số lượng phong phú và toàn diện nhất về mọi mặt. Số lượng dân ca

13

Mông được sưu tầm tuy chưa thể nói là đã đầy đủ nhưng dựa trên những

tuyển tập mà các nhà nghiên cứu sưu tầm được, chúng ta có cơ sở để nhận

định về một nền văn hóa Mông được hình thành và liên tục bồi đắp theo

những bước chân của người Mông. Dân ca được lựa chọn bởi nó gắn liền với

mọi hoạt động của người Mông. Từ ngày thường cho đến dịp lễ hội, từ khi

người Mông sinh ra cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay, từ những lần làm quen

hò hẹn cho đến ngày đôi nam nữ về một nhà, tất cả đều có sự hiện diện của

dân ca. Dân ca còn giúp người Mông nói lên bao tiếng lòng mà họ không biết

tâm sự cùng ai. Tiếng hát tình yêu, tiếng hát cưới xin, tiếng hát mồ côi, tiếng

hát làm dâu, tiếng hát đám ma – Tang ca chính là những minh chứng rõ nhất

cho điều này. Chính điều đó khiến dân ca trở thành thể loại nổi trội nhất trong

kho tàng văn học dân gian Mông và rộng hơn là cả kho tàng văn hóa Mông.

Quá trình khám phá dân ca Mông là quá trình tiếp xúc với chính văn hóa

Mông qua dấu ấn tinh thần của người Mông. Những câu từ tưởng như hình

thành từ vô thức lại phản ánh rất đậm nét những dấu vết hằn lại từ bao thế hệ

để rồi cứ thế xếp chồng lên cho bề dày văn hóa dân tộc.

Người Mông là tộc người yêu ca hát, họ bỏ vào trong lời hát của mình

mọi gia vị cuộc đời mà họ nếm trải. Từng lời dân ca là từng mảnh ghép tinh

túy nhất mà người Mông đã cô đúc lại và gắn vào bức tranh văn hóa chung

của các dân tộc Việt Nam. Khi khẳng định dân ca có vai trò quan trọng nhất

trong kho tàng văn học và cả văn hóa dân gian của người Mông. Đồng nghĩa

với việc chúng ta hoàn toàn có cơ sở để bóc tách được từ đó những yếu tố

thuộc về bản chất sâu sắc của tộc người. Đời sống của người Mông không bao

giờ thiếu tiếng hát, già, trẻ, gái, trai người Mông sinh ra đều làm bạn với tiếng

hát cho đến cuối đời. Dân ca trở thành ngôn ngữ chung của cả cộng đồng. Từ

hai người Mông xa lạ qua một cuộc hát đối đáp hay chỉ người này nghe người

kia hát mà họ có thể nhận ra nhau, hiểu nhau thì chắc hẳn yếu tố văn hóa

14

chính là sợi dây cho sự liên kết đặc biệt này. Mỗi thế hệ người Mông lại bồi

đắp cho dân ca những giá trị văn hóa của thời đại mình. Khi người Mông cất

tiếng hát, đem những làn điệu dân ca thực hành trong đời sống chính là họ

đang ôn lại những kinh nghiệm tổ tiên đã gửi gắm và đồng thời thực hiện việc

trao truyền những kinh ngiệm đó lại cho các thế hệ sau. Dân ca vì thế gần như

có sức sống mạnh mẽ hơn so với các thể loại khác trong đời sống hiện nay.

Tìm hiểu biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông là một bước đi cần thiết

trong quá trình xây dựng nền văn hóa dân tộc Mông bởi dân ca là phương tiện

bồi dưỡng, giáo dục thẩm mỹ cho đồng bào dân tộc. Đây là cơ sở cho việc

sáng tạo, phổ biến và hưởng thụ những giá trị văn hóa, nghệ thuật tiên tiến.

Góp phần giữ gìn những phong tục, tập quán, nghi thức tốt đẹp của đồng bào

Mông nơi đây.

1.2. Biểu tượng văn hóa trong tác phẩm văn học

1.2.1. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học

Văn hóa rộng hơn văn học về khái niệm, mối quan hệ giữa văn hóa và

văn học là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái toàn thể và cái

bộ phận, giữa hệ thống và các yếu tố trong hệ thống. Do văn học nằm trong

văn hóa nên nó gắn bó hữu cơ với văn hóa. Mỗi sáng tạo văn học đồng nghĩa

với sáng tạo văn hóa, cả hai đều là kết quả hoạt động của con người, sản

phẩm của tình cảm, trí tuệ của con người. Trong mối quan hệ với văn học,

văn hóa là nhân tố chi phối văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố,

toàn thể chi phối bộ phận. Văn học là một bộ phận của văn hóa và chịu sự

chi phối quyết định của văn hóa. Ngược lại, trong mối quan hệ với văn hóa,

văn học là bộ phận mang tính đại diện và có sự tác động quan trọng trở lại

đối với văn hóa.

Theo các nhà nghiên cứu, định nghĩa văn hoá đến nay đã có hàng trăm,

nhưng tựu chung lại, những định nghĩa về văn hóa thường hướng đến một số

15

nội hàm cơ bản. Văn hoá theo nghĩa rộng là tổng hoà mọi sản phẩm vật chất

và tinh thần do con người sáng tạo ra, nó thể hiện đời sống vật chất, tinh thần,

các loại tư tưởng, phương thức tư duy, hình thức biểu đạt, mô hình hành

động, thái độ ứng xử làm cho một cộng đồng dân tộc này phân biệt với các

dân tộc khác. Văn hoá thể hiện năng lực chế ngự thiên nhiên, phương thức tổ

chức xã hội cùng chế độ điển chương dùng để phát triển nhân cách con người

và phân chia hưởng thụ thành quả xã hội. Văn hoá theo nghĩa hẹp là quan

niệm tư tưởng và quan niệm giá trị. Văn hoá là những gì tiêu biểu nhất cho

một dân tộc, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác thông qua yếu tố mà

chúng ta gọi là bản sắc văn hóa dân tộc. Văn hóa có mặt trong toàn bộ hoạt

động sống của con người, thể hiện trong mọi lĩnh vực thuộc về con người như

ngôn ngữ, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật… Văn

hóa thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội và chịu sự quy định của điều

kiện kinh tế - xã hội. Văn hóa là sản phẩm trực tiếp của hoạt động tinh thần,

của ý thức con người thuộc một cộng đồng xã hội nhất định. Sự khác biệt văn

hóa xét đến cùng là do những khác biệt về môi trường sống quy định. Mỗi

nền văn hóa là kết quả của sự thích ứng của cộng đồng với môi trường để

tồn tại và phát triển.

Văn học là hình thái ý thức xã hội có chức năng kết tinh giá trị văn hóa

tinh thần của con người. Nhìn lại quá trình phát triển của văn hoá nhân loại có

thể thấy, văn học luôn mang trong mình sứ mệnh khai phá và thiết lập nên các

tư tưởng và giá trị, văn học xưa nay chưa bao giờ khư khư giữ lấy một thước

đo giá trị nào cả. Văn học có khả năng truyền cảm hứng mạnh mẽ và sức sống

lấu bền khi đi sâu vào tư tưởng, đạo đức, đời sống bên trong của con người.

Xuyên suốt quá trình phát triển ấy, văn học trước sau đều đảm nhiệm chức

năng sinh thành, phán đoán, truyền bá, biến đổi, tiêu huỷ và đổi mới các giá

trị văn hoá. Văn học mỗi dân tộc có hệ thống thể loại văn học, hệ thống thi

16

pháp, hệ thống biểu tượng đặc trưng. Đọc bất cứ tác phẩm văn học nào ta đều

có thể nhận thấy giá trị văn hoá của nó thể hiện ở những phương diện đó. Văn

học là một thành tố trong tổng thể những thành tố của văn hóa, nó đóng vai

trò là yếu tố chủ đạo. Yếu tố chủ đạo này không phải là bất biến mà nó

thường xuyên thay đổi qua những thời đại văn hóa, tức một hệ thống văn hóa.

Là một yếu tố mạnh, văn học luôn biết tiếp thu những yếu tố khác trong văn

hóa để phát triển. Đến một mức độ nào đó, yếu tố văn học sẽ không còn phù

hợp với hệ thống văn hóa nữa, nó chống lại hệ thống, làm cho hệ thống phải

thay đổi cùng với nó.

Trong mối quan hệ với văn học, văn hóa đóng vai trò là nhân tố chi

phối văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố, toàn thể chi phối bộ phận.

Văn học là một bộ phận của văn hóa và chịu sự chi phối quyết định của văn hóa.

Văn hóa là nền tảng tư tưởng chi phối mạnh mẽ tới sự lựa chọn nội dung và hình

thức của văn học. Văn hóa là bối cảnh của sự sáng tạo cũng như bối cảnh cho

quá trình tiếp nhận văn học. Hoạt động sáng tạo của nhà văn hay hoạt động tiếp

nhận tác phẩm của bạn đọc đều không nằm ngoài sự bao bọc của văn hóa. Bối

cảnh văn hóa liên quan trực tiếp đến sự cảm nhận và lí giải tác phẩm. Văn hóa

là nền tảng chất liệu tạo ra những đề tài, cảm hứng, nhân vật cho văn học. Sự

phân biệt văn học dân gian, văn học trung đại, văn học hiện đại cũng dựa trên

sự góp mặt không nhỏ của các yếu tố văn hóa. Văn hóa là chỗ dựa cho những

cảm hứng và tư tưởng nghệ thuật. Mỗi sáng tạo văn học đồng nghĩa với sáng

tạo văn hóa. Nói sáng tạo văn học là sáng tạo văn hóa vì những nhà văn lớn bao

giờ cũng là những nhà văn hóa lớn cho nên tác phẩm của họ vươn tới những

chuẩn mực của giá trị văn hóa. Những nhà văn lớn luôn có ý thức nhân danh

văn hóa để sáng tạo văn chương, phát minh ra những hình thái mới của văn học

nói riêng và văn hóa nói chung. Văn hóa còn gợi nên mối quan hệ giữa văn học

với các loại hình nghệ thuật khác, với các lĩnh vực khác của văn hóa. Không

17

khó để bắt gặp những trường phái văn học, những câu từ được sử dụng trong

tác phẩm văn chương không phải bắt nguồn từ bản thân văn học mà được bắt

nguồn từ những loại hình nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, âm

nhạc…Văn hóa vì vậy là mảnh đất màu mỡ, là cội nguồn nuôi dưỡng văn học.

Trong mối quan hệ với văn hóa, văn học là bộ phận mang tính đại diện

và có sự tác động quan trọng trở lại đối với văn hóa. Văn học lựa chọn xây

dựng những mô hình nhân cách, những con người lí tưởng cho văn hóa một

cách tự nhiên, một cách thuyết phục khiến cho con người cải biến và tiếp thu

các giá trị văn hóa dễ dàng hơn. Văn học là tấm gương của văn hoá, là hình

ảnh của văn hoá qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà văn, thông qua văn học,

có thể tìm ra bức tranh văn hoá của một thời đại. Văn học giáo dục con người

bằng những câu chuyện, nhân vật điển hình… đầy lôi cuốn, thuyết phục. Văn

học luôn đánh thức những giá trị văn hóa tốt đẹp của mỗi cá nhân và rộng hơn

là của toàn xã hội. Văn học có vai trò phản biện văn hóa, lên án những hiện

tượng trái tai, gai mắt trng đời sống xã hội. Văn học xây dựng những mẫu

hình văn hóa cần phát triển, phát huy, nuôi dưỡng ý chí sáng tạo của con

người. Văn học cũng góp phần lưu giữ, lưu truyền, phát triển những giá trị

văn hóa. Sáng tạo văn hóa không nằm ngoài những nguyên lí sáng tạo văn

học nghệ thuật, đó là sự phản ánh khái quát cuộc sống con người theo những

nguyên tắc thẩm mĩ, những trào lưu, khuynh hướng cụ thể. Quá trình một tác

phẩm văn học trở thành một tác phẩm văn hóa là quá trình đi tới cái hay, cái

đẹp, cái giá trị. Nhìn nhận văn học như một bộ phận của văn hoá giúp chúng

ta lý giải văn học gắn liền với hệ thống mã văn hoá bao hàm bên trong nó như

địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ… một cách toàn diện hơn.

Văn học là một bộ phận không tách rời của văn hóa và không thể hiểu

nó ngoài bối cảnh văn hóa tổng thể của một thời đại, một dân tộc. Nghiên cứu

văn học không thể không tiếp cận dưới góc nhìn văn hóa. Soi chiếu dưới ánh

18

sáng của văn hóa ta sẽ thấy những ý nghĩa, chiều kích lớn lao hơn của tác

phẩm văn học.

1.2.2. Biểu tượng và biểu tượng văn hóa trong văn học

1.2.2.1. Khái niệm biểu tượng

Thuật ngữ biểu tượng trong tiếng anh là symbol có nguồn gốc từ tiếng

Hi Lạp là Symbollon có nghĩa là kí hiệu, dấu hiệu để nhận ra nhau. Theo các

tác giả Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, khái niệm biểu tượng được dùng

để chỉ một vật được cắt làm đôi như mảnh sứ, gỗ, kim loại... Hai người có thể

là chủ - khách, hai người sắp chia tay lâu dài... mỗi bên giữ một phần. Sau

này, ráp hai mảnh lại với nhau họ sẽ nhận ra mối liên hệ ngày trước. Bằng

cách hiểu như thế, dần dần biểu tượng được mở rộng nghĩa chỉ mọi dấu hiệu

tập hợp, chỉ các qui ước... Biểu tượng chia ra và kết lại với nhau, nó chứa

đựng hai ý tưởng phân li và tái hợp, nó gợi lên ý một cộng đồng, một quan hệ

tình cảm đã bị chia tách và có thể tái hình thành. “Mọi biểu tượng đều chứa

đựng dấu hiệu bị đập vỡ: ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là

gãy vỡ, vừa là kết nối những phần của nó đã bị vỡ ra” [13;XXIII].

Cách hiểu này về biểu tượng có thể tìm thấy trong văn học cổ Trung

Quốc khá nhiều. Trong tiếng Hán, biểu là bày ra, trình bày; tượng là hình ảnh,

hình dạng. Trong Dịch thuyết cương lĩnh của Chu Hy, nhà triết học đời Tống

đã giải thích rằng tượng là lấy hình này để tỏ nghĩa kia, tức là dùng cái có thể

hiểu biết để nói lên điều khó có thể hiểu biết, hay dùng cái cụ thể để nói cái

trừu tượng, dùng cái tĩnh để nói cái động, dùng cái hữu hình để nói cái vô

hình. Biểu tượng là những dạng thức dùng hình này để tỏ nghĩa nọ, dùng một

hình ảnh cụ thể để nói lên một ý niệm trừu tượng. Một sự vật, hiện tượng khi

được chọn làm biểu tượng có khả năng biểu hiện tinh tế những ý niệm của

con người về cuộc sống, xã hội, thế giới. Biểu tượng là sự thống nhất của hai

mặt cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt có thể là một sự vật, một

19

hiện tượng, một hình ảnh,… cụ thể trong hiện thực khách quan hoặc trong

tưởng tượng của con người. Cái biểu đạt nhằm mục đích thể hiện cái được

biểu đạt, tức là thể hiện những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của con người về

cuộc sống, xã hội, thế giới.

Khi nghiên cứu biểu tượng, cần phân biệt khái niệm này với một vài

khái niệm dễ gây nhầm lẫn về mặt nội hàm. Trong Từ điển biểu tượng văn

hóa thế giới, các tác giả cũng quan niệm biểu tượng khác với biểu hiện, vật

hiệu, phúng dụ, loại suy, triệu trứng, ngụ ngôn luân lí... bởi tất cả những lối

diễn đạt bằng hình ảnh này đều là những dấu hiệu và không vượt qua mức

độ của sự biểu nghĩa

Với dấu hiệu, “Biểu tượng cơ bản khác với dấu hiệu ở chỗ dấu hiệu là

một quy ước tùy tiện trong đó cái biểu đạt và cái được biểu đạt vẫn xa lại

với nhau, trong khi biểu tượng giả định có sự đồng nhất giữa cái biểu đạt và

cái được biểu đạt theo nghĩa một lực năng động tổ chức” [13;XIX]. Mối

quan hệ, sự tương hợp, sự thâm nhập sâu xa giữa ý tưởng và hình thức ở

biểu tượng khiến cho ý nghĩa của biểu tượng trở nên rộng lớn hơn, sâu sắc

hơn cái ý nghĩa được gán cho nó một cách nhân tạo. Nó có một sức vang cốt

yếu và tự sinh.

Biểu tượng cũng khác với ẩn dụ. Tuy cùng là phương thức biểu hiện ý

nghĩa tượng trưng nhưng ý nghĩa của biểu tượng rộng lớn và khái quát hơn

hẳn về chất so với ẩn dụ. Ẩn dụ thường chỉ tồn tại trong một hình thức biểu

đạt cụ thể, trong một văn cảnh nhất định còn biểu tượng lại vượt qua khuôn

khổ của sự biểu đạt, biểu nghĩa. Biểu tượng được hình thành trong quá trình

lâu dài và có sức sống lâu bền hơn trong khi ẩn dụ sinh ra tức thời và mất đi

khá nhanh.

Một khái niệm dễ gây nhầm lẫn với biểu tượng là hình tượng. Tuy

nhiên khi xem xét kĩ ta thấy biểu tượng và hình tượng có những điểm khác

20

nhau cơ bản. Hình tượng nghệ thuật được nghệ sĩ tái hiện một cách sáng tạo

trong các tác phẩm nghệ thuật. Sự tồn tại của hình tượng nghệ thuật không

vượt quá giới hạn của một hình thức biểu đạt cụ thể, còn biểu tượng thì năng

lực biểu hiện của nó rộng lớn hơn cái ý nghĩa được gắn cho nó một cách

nhân tạo.

Biểu tượng văn học là một biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa.

Các tác giả văn học sử dụng những cổ mẫu gốc để xây dựng nên những biểu

tượng văn học. Trên cơ sở biểu tượng văn hóa gốc, tác giả văn học bồi đắp

thêm nhiều ý nghĩa mới, chuyển tải thêm nhiều cảm xúc, tình cảm của tác giả

về đời sống của con người đương đại. Những hình ảnh, sự kiện của thế giới

xung quanh được nhà văn, nhà thơ chắp nối, tái tạo theo một lôgic mới, trật tự

mới để tạo ra những biểu tượng hoàn toàn mới mẻ dựa trên cơ sở những mẫu

gốc và biểu tượng văn học xuất hiện. Trong khi biểu tượng văn hóa có xu

hướng được bổ sung ý nghĩa, sau một thời gian dường như ý nghĩa đó trở nên

cố định và trở nên khó hiểu đối với con người ở thế hệ sau thì biểu tượng văn

học luôn có xu hướng tái sinh về mặt ý nghĩa, không chỉ trong sáng tác mà cả

trong tiếp nhận văn học. Một vài nét nghĩa vẫn có thể được giữ nguyên trong

khi một vài nét nghĩa của nó được bổ sung. Khi xuất hiện trong tác phẩm với

nét nghĩa mới nó vẫn giữ trong mình những ý nghĩa từng có trong lịch sử. Bởi

ngoài môi trường xã hội thì biểu tượng văn học luôn còn một môi trường

không bao giờ mất đi là chỉnh thể tác phẩm. Khi những biểu tượng văn học

được nhiều người thừa nhận, đồng thời chính nó có một đời sống rộng lớn

trong lòng công chúng, chứa đựng sự toàn vẹn của nỗi niềm con người thì nó

trở thành biểu tượng văn hóa.

Sự khác nhau giữa biểu tượng và các khái niệm tương cận chủ yếu là ở

sự phức tạp trong lĩnh hội các ý nghĩa do biểu tượng khơi gợi ra. Nghĩa của

biểu tượng không phải bao giờ cũng tách bạch rõ ràng. Có những lúc chúng

21

ẩn sâu vào bên trong, đòi hỏi ở trí não con người một nguồn năng lực lớn lao

để khám phá, tìm tòi.

1.2.2.2. Biểu tượng văn hóa

Mỗi biểu tượng được sinh ra, tồn tại và phát triển trong những nền văn

hóa nhất định và nó chỉ sống trong nền văn hóa đó. Vì vậy, nó thường mang

các đặc điểm của nền văn hóa đã sinh ra nó, đồng thời vừa phản ánh lại nền

văn hóa đó trên các bình diện khác nhau, theo một kiểu nhận thức độc đáo

mang tính tổng hợp, khái quát và cảm tính. Biểu tượng văn hóa sẽ mất đi ý

nghĩa khi nó bị tách ra khỏi nền văn hóa mà nó đã sinh tồn. Chúng ta không

thể hiểu biểu tượng văn hóa khi đặt nó ra ngoài nền văn hóa nó đang tồn tại.

Bởi đây chính là tiền đề cơ sở để có sự lí giải đúng về biểu tượng văn hóa.

Tìm hiểu biểu tượng văn hóa của một dân tộc là cơ sở nền móng cho việc tìm

hiểu ý thức dân tộc. Bởi đây là hiện thân của kí ức tập thể, hành động tập thể,

và là một trơng những cơ sở cho sự thống nhất tộc người trong một cộng đồng

cư trú.

Theo GS.TS Trần Nho Thìn “Quá trình hình thành một biểu tượng có

thể hình dung về đại thể như sau: trước hết, con người phải có một mục đích

tìm kiếm một hình ảnh, một sự vật để diễn đạt một ý niệm nào đó. Tiếp theo,

quá trình quan sát, nhận thức hiện thực đời sống xã hội và tự nhiên, con

người nhận ra mối liên hệ ngữ nghĩa giữa sự vật, hiện tượng và ý niệm cần

diễn đạt”[63;59]. Biểu tượng văn hóa sẽ trở thành quy ước mang tính cộng

đồng. Sự vật, hiện tượng nào đó sở dĩ trở thành biểu tượng văn hóa là do một

cộng đồng người nhất định quy ước sử dụng nó. Nhắc đến nền văn hóa của

cộng đồng đó thì người ta nghĩ ngay đến biểu tượng văn hóa đó. Biểu tượng

văn hóa phải có những ý nghĩa ổn định tương đối nào đó, trong những thời kì

lịch sử nhất định, những hệ thống tác phẩm nhất định... Nếu ý nghĩa của sự

vật hiện tượng gợi ra luôn luôn biến đổi, nó sẽ tự phủ nhận giá trị biểu tượng

22

của chính bản thân. Chỉ những hình ảnh được cộng đồng chấp nhận, cùng

ngầm thỏa thuận thống nhất với nhau là nó chỉ ra một ý nghĩa nào đó ở bên

ngoài thì mới có thể trở thành biểu tượng văn hóa. Những hình ảnh này đã trải

qua thử thách khắc nghiệt của không gian, thời gian. Nó dần được định hình

và củng cố ngày một chắc chắn hơn trong tâm thức dân tộc qua quá trình sử

dụng. Do vậy, biểu tượng văn hóa có khả năng lớn lao trong việc tạo nên sự

hòa hợp, hòa nhập giữa những con người trong cùng một cộng đồng. Biểu

tượng văn hóa có sức mạnh liên kết mọi người lại với nhau vì nó là trung tâm

của những nhiệm vụ và tư tưởng chung, từ đó mọi người nhận ra mình thuộc

về một cộng đồng.

Con đường giải mã biểu tượng văn hóa để tìm ra cái ẩn chìm đằng sau

những hình tượng có nguồn gốc từ tìm hiểu những mẫu gốc. Khi đi vào đời

sống văn hoá, mỗi mẫu gốc có thể sản sinh những biểu tượng văn hoá khác

nhau, dấu vết của nó có thể được tìm thấy trong các thần thoại, truyền thuyết,

nghi lễ, phong tục. Mẫu gốc là những sự vật, hiện tượng xuất hiện sớm nhất,

mang tính phổ quát và có khả năng sản sinh ra các biểu tượng gốc.

Biểu tượng gốc là những biểu tượng có nguồn gốc từ các mẫu gốc - cổ

mẫu, biểu hiện quá trình nhận thức, khám phá thế giới của con người. những

biểu tượng gốc thường là những biểu tượng cổ xưa nhất, xuất hiện vào giai

đoạn đầu của lịch sử xã hội loài người. Dựa trên cơ sở của các biểu tượng

gốc, trong quá trình phát triển của đời sống văn hóa, xã hội, con người tiếp

tục sáng tạo ra các biểu tượng phái sinh.

Biểu tượng phái sinh chính là những nhánh phái sinh tiếp theo của các

mẫu gốc và biểu tượng gốc. Những biểu tượng phái sinh cơ chế ý nghĩa

thường được xây dựng trên mối liên hệ tương đối logic, có lí do giữa cái được

biểu trưng và vật biểu trưng. Những biểu tượng này thường được ra đời muộn

hơn và mang đậm hơi thở của hiện thực cuộc sống.

23

Hệ thống biểu tượng văn hóa cũng chính là hệ thống các khuôn mẫu

văn hoá. Biểu tượng văn hóa đặc trưng cho cách thức ứng xử khác nhau về

văn hoá giữa cộng đồng văn hoá này với cộng đồng văn hoá khác. Như vậy,

biểu tượng văn hoá được hình thành và tồn tại nhờ vào trí tuệ và sự sáng tạo

văn hóa của con người. Biểu tượng văn hóa là một trong những biểu hiện của

văn hoá, được cả cộng đồng xã hội chấp nhận đồng thời được xem như giá trị

định hướng của toàn thể cộng đồng.

 Tiểu kết chương 1

Văn hóa Mông là một nền văn hóa có truyền thống lâu đời được kết tinh

bởi những giá trị vật chất và tinh thần của người Mông trong mối quan hệ gắn bó

với thiên nhiên, xã hội, phong tục tập quán. Dân ca Mông với tư cách là một sản

phẩm của văn hóa Mông cũng hình thành trong quá trình lịch sử cư trú, đấu

tranh sinh tồn, lao động sản xuất và sáng tạo mang tính đặc thù dân tộc.

Theo hướng tiếp cận từ hoàn cảnh văn hóa, xã hội, lịch sử, nghiên cứu

biểu tượng trong dân ca Mông từ góc nhìn văn hóa là việc cần thiết để đi sâu

khai thác dân ca với tư cách là một di sản văn hóa phi vật thể và đặt nó trong mối

quan hệ với đời sống hiện thực phong phú của đồng bào, trong sự gắn bó mật

thiết với lao động sản xuất, phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội... của

người Mông. Văn hóa chính là cơ sở quan trọng cho việc tiếp cận và lí giải

những đặc trưng mang tính bản sắc của dân ca dân tộc Mông.

24

Chương 2

NHỮNG BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG DÂN CA MÔNG

HÀ GIANG

Diện mạo hệ thống biểu tượng trong dân ca Mông mang đậm dấu ấn cư

trú của người Mông. Từ những sự vật vô tri, vô giác trong tự nhiên cho đến

những nhân vật gần gũi trong chính cuộc sống, thông qua sự quan sát, liên

tưởng, thông qua phong tục, tín ngưỡng cũng như tâm lý chung của dân tộc

Mông, các biểu tượng khảm sâu vào kí ức cộng đồng và trở thành những biểu

tượng văn hóa. Những biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông giúp người đọc có

thể hiểu thêm về đời sống phong tục và tâm lí cộng đồng của một dân tộc.

Trong phạm vi đề tài, chúng tôi lựa chọn khảo sát và đưa ra một số kiến

giải về biểu tượng trời, biểu tượng núi, biểu tượng nước, biểu tượng đá, biểu

tượng người cha, biểu tượng người mẹ, biểu tượng đrâu Mông (chàng trai

Mông), biểu tượng gầu Mông (cô gái Mông). Đây là những biểu tượng tiêu biểu

trong hai nhóm biểu tượng thiên nhiên và biểu tượng về con người trong dân ca

Mông. Các biểu tượng có tần số xuất hiện lớn và trở đi trở lại nhiều lần trong các

tác phẩm. Đồng thời, những biểu tượng này còn có ý nghĩa quan trọng trong đời

sống văn hóa, xã hội của người Mông. Nhiều giá trị chân, thiện, mỹ tốt đẹp của

đồng bào gắn bó sâu sắc với ý nghĩa của hệ thống biểu tượng thiên nhiên và con

người trong dân ca Mông. Điều này không chỉ thể hiện ở giá trị nội dung và

nghệ thuật của các bài dân ca mà còn được thể hiện trong chính môi trường diễn

xướng mà bài ca tồn tại. Đây là cơ sở để chúng tôi lựa chọn hệ thống biểu tượng

trời, biểu tượng núi, biểu tượng nước, biểu tượng đá, biểu tượng người cha, biểu

tượng người mẹ, biểu tượng đrâu Mông (chàng trai Mông), biểu tượng gầu

Mông (cô gái Mông) làm đối tượng nghiên cứu chính của đề tài.

25

2.1. Biểu tượng thiên nhiên trong cảm quan văn hóa Mông

2.1.1. Biểu tượng trời

Trời là một biểu tượng có mặt trong văn hóa của nhiều dân tộc trên thế

giới. Mẫu gốc của biểu tượng trời được lí giải với những ý nghĩa như sau:

“Trời là một biểu tượng gần như phổ quát mà qua đó con người thể hiện niềm

tin vào một Sinh Linh thần thánh ở trên cao, người sáng tạo ra vũ trụ và đảm

bảo sự phì nhiêu cho đất bằng những cơn mưa đổ xuống” [13;957]. Biểu

tượng trời là một biểu hiện trực tiếp của cái siêu tại, uy quyền, của cái vĩnh

hằng, thiêng liêng mà không một sinh vật nào trên mặt đất này có thể đoạt

được. “Trời còn là biểu tượng của những uy lực tối cao đối với con người, dù

là thiện chí hay đáng sợ” [13;957]. Đó là sự bao la không thể dò được, là

nguồn của ánh sáng, và cũng có thể là nơi canh giữ những bí mật của số

mệnh. Trời cũng là nơi các thần linh cư ngụ. Trời và đất gắn bó với nhau tạo

nên sự tác động khiến muôn loài vật sinh sôi nảy nở.

Cũng giống như phần lớn các dân tộc khác trên thế giới, từ thời xa xưa,

do chưa lý giải được các hiện tượng thiên nhiên như mây mưa, sấm chớp, hạn

hán, mất mùa, dịch bệnh, sức khỏe, sự sống, cái chết… người Mông cho rằng,

có một lực lượng siêu nhiên nào đó chi phối đời sống của họ. Từ trong tâm

thức của mình họ tin rằng mỗi vật thể đều có hai phần: phần xác (phần biểu

hiện ra bên ngoài, nhìn thấy được, cụ thể như cái cây, hòn đá, dòng suối, con

vật…) và phần hồn (phần quan trọng chi phối phần xác mà người thường

không thể nhìn thấy được). Do đó người Mông tin, thờ và sợ tất cả các loại

linh hồn - ma. Và cũng như các tộc người khác, người Mông coi trời là đấng

toàn năng - vua trời chi phối muôn loài. Ngoài trời, người Mông coi các thần

linh - ma đều bình đẳng như nhau… Theo quan niệm của người Mông thì mặt

đất, bầu trời, mặt trăng, các vì sao, con người, muông thú, cây cỏ đều do

26

những đại diện của trời sáng tạo và điều chỉnh. Biểu tượng trời nhìn từ dân ca

Mông được giải mã với ý nghĩa văn hóa đầu tiên là nhân tố sáng tạo ra vũ trụ:

Không biết trời sinh hay đất sinh

Mà đạp núi xuống lấp đồng?

Không hiểu trời sinh hay đất khiến

Mà đạp núi xuống lấp thung?

Nặng tình riêng mất nghiệp chung [46;155]

Những mảnh vỡ của câu chuyện thần thoại về ông Chày, bà Chày được

nhắc lại trong dân ca của người Mông. Xuất phát từ quan niệm vạn vật nhất

thể, người Mông cho rằng mọi sự vật hiện tượng đều có chung một cội nguồn

nên nguồn gốc muôn loài trên thế gian đều được quy chiếu do trời sinh ra.

Dân tộc Mông thống nhất quan niệm Chử Lầu - Vua Trời là đấng thần linh có

vai trò rất lớn trong việc sáng tạo ra vạn vật. Đồng bào các dân tộc Mông cho

rằng muôn loài không tự nhiên có, đó là kết quả của quá trình tạo lập dưới sự

chi phối của đấng siêu nhiên mà ở đây là Vua Trời. Chính Chử Lầu - Vua

Trời đã gọi ông Chày bà Chày tạo ra bầu trời và mặt đất. Lúc mới được tạo ra

bầu trời tròn và nhỏ hơn mặt đất. Ông Chày bèn bảo bà Chày hãy co bớt mặt

đất lại để nhỏ bằng trời, bà Chày co lại và đã làm cho mặt đất lồi lõm: chỗ cao

thành núi, chỗ thấp thành đồng bằng, chỗ hằn sâu thành sông, suối, ao, hồ,

chỗ lõm sâu thành biển cả.

Biểu tượng trời trong dân ca Mông thống nhất với hình dung về sự hình

thành vũ trụ qua câu chuyện thần thoại của người Mông. Ở đây, ta bắt gặp

một lối tư duy chất phác của người Mông xưa khi lí giải vạn vật trong thiên

nhiên. Nguồn gốc vũ trụ và các hiện tượng tự nhiên đã phản ánh nhận thức

ban đầu hồn nhiên, chứa đựng cả quan niệm tâm linh của đồng bào. Trời vừa

là đấng sáng thế, vừa là nơi trú ngụ của các lực lượng siêu nhiên:

27

Trời đất thủa rất xa vời

Có những chín mặt trời,

Đất trời thủa xa xăm

Có những chín mặt trăng.

Ngọn nguồn [46;105]

Những lời ca về bầu trời, mặt trăng, mặt trời… là sự cụ thể hóa sinh

động quá trình nhận thức về sự tồn tại của hiện thực khách quan thông qua

quá trình quan sát và trí tưởng tượng phong phú của đồng bào. Biểu tượng

trời là sản phẩm của niềm tin và sự sùng bái tự nhiên kết hợp với nhận thức có

tính vật chất về thế giới của con người thời cổ. Đó là cách lý giải về nguồn

gốc vũ trụ, các hiện tượng tự nhiên và muôn loài. Biểu tượng trời trong văn

hóa Mông có ý nghĩa khác so với văn hóa người Việt. Với người Việt, trời

không mang ý nghĩa là đấng toàn năng sáng tạo ra muôn loài. Ý niệm thông

thường nhất của người Việt Nam về trời chính là bầu trời xanh vật chất ở trên

đầu chúng ta, là môi trường thiên nhiên của những biến đổi về thời tiết như

mưa, nắng, gió, bão… mà thôi. Văn học dân gian người Việt viết về trời với

sự hóm hỉnh, hồn nhiên, vui tươi như: “Bắc thang lên hỏi ông trời” hay

“Con cóc là cậu ông trời/ Hễ ai đánh nó thì trời đánh cho” chứ không hề

mang ý nghĩa sùng kính như của người Mông.

Ngoài ý nghĩa là nhân tố sáng tạo, trời còn là biểu tượng của không

gian thiêng, là nơi ở của tổ tiên người Mông, là điểm đến của con đường về

với tổ tiên của linh hồn người chết. Nó gắn liền với nghi lễ thờ cúng tổ tiên

của dân tộc Mông, với Bài ca chỉ đường – Khúa kê một khúc ca được diễn

xướng trong nghi lễ tang ma để chỉ đường về thế giới bên kia cho người

Mông. Khúa kê kể câu chuyện dẫn hồn người chết về thế giới bên kia, qua

bao nhiêu chặng đường ở trên trời rồi thu xếp đầu thai trở lại trần gian. Người

Mông nào khi nhắm mắt xuôi tay nhất thiết phải được chỉ con đường để lên

đến trời:

28

Người chồng gầu Mông

Làm ma to ầm ĩ

Đrâu Mông đã thổi ba mươi bài khèn

Nói về gầu Mông con đường trời tối.

… Đrâu Mông phải thổi ba mươi bài sáo

Kể lại gầu Mông con đường trời om.

Thương [45;120]

Người Mông cho rằng, người chết muốn tái sinh kiếp khác thì phải trở

về tầng trời rồi quay trở lại mặt đất thì mới có tái sinh và trở lại sự sống được.

Như vậy, phải lên trời thì người chết mới có thể tái sinh làm kiếp khác. Đồng

thời, xuất phát từ quan niệm của đồng bào Mông là thế giới có ba tầng: tầng

trên trời là tầng tổ tiên ở, tầng giữa là thế giới con người, tầng dưới mặt đất là

địa ngục, âm phủ. Vậy nên, trời là nơi người Mông tìm về để hội ngộ với ông

bà tổ tiên, đi theo ma tổ tiên để được đầu thai trở lại kiếp người ở trần gian.

Người Mông theo được lối ma của bà ma tổ, đường ma của ông ma tiên lên

trên trời thì trở về trái đất đi đầu thai mới dễ dàng. Các câu dân ca Mông hấp

thụ nguyên vẹn nét văn hóa truyền thống ấy mà biểu tượng trời là đại diện:

Đưa tay phải bấm lỗ khèn

Tiễn đưa em lên trời cao con đường tối tăm

… Lên trời cao con đường tối mù

Yêu đủ [46;136]

Trong dân ca Mông, sự xuất hiện của biểu tượng trời nhiều lần mang ý

nghĩa gắn với những lời ca về hình ảnh cái chết, về đám ma của người Mông.

Đó là em gái Mông:

Nằm lưng tì với đất

Quay ngực phơi với trời

Em gái tôi [45;97]

29

Là câu chuyện về những đôi trai gái Mông thề hẹn khi chết đi gặp nhau

ở cổng trời để cùng được đầu thai sang kiếp khác và nối duyên vợ chồng:

Để một ngày được thuận

Đợi anh ở cổng trời

Đòi ma bò [45;128]

So với một số biểu tượng thiên nhiên khác, biểu tượng trời xuất hiện

khá phổ biến trong dân ca Mông Hà Giang với 147 lần được nhắc đến trên

tổng số 45/120 bài dân ca. Nhưng khác với văn hóa chung của người Việt,

biểu tượng trời trong văn hóa Mông mang những đặc điểm riêng gắn với văn

hóa dân tộc. Đó là biểu hiện của cái thiêng liêng, của cái vĩnh hằng, của cái

siêu nhiên hùng mạnh đầy uy quyền, có vai trò to lớn trong đời sống tâm linh

của người Mông. Dân ca đã góp phần phản ánh quan niệm về trời trong văn

hóa dân tộc Mông. Ý nghĩa của biểu tượng trời cơ bản hướng tới các nét

nghĩa: là nhân tố sáng tạo, là không gian thiêng nơi trú ngụ của các lực lượng

siêu nhiên và tổ tiên tộc người. Biểu tượng trời trong dân ca Mông được mã

hóa bằng ngôn ngữ thông qua những ý niệm về trời trong các lĩnh vực đời

sống văn hóa.

Qua bao đời nay, dù có những biến động trong đời sống thế nhưng biểu

tượng trời vẫn luôn tồn tại và góp phần giữ gìn giá trị văn hóa Mông. Biểu

tượng trời trong dân ca Mông gắn với Bài ca chỉ đường – Khúa kê, với tục thờ

cúng tổ tiên. Người Mông di chuyển, cư trú rải rác ở khắp mọi nơi trên thế

giới nhưng hễ cùng ma là người Mông nhận nhau là anh em. Biểu tượng trời

từ góc nhìn văn hóa Mông trở thành sợi dây liên kết cộng đồng người Mông,

để dân tộc Mông cùng nhắc nhở nhau về cội nguồn. Đây là những giá trị văn

hóa truyền thống Mông tốt đẹp cần được bảo tồn và phát huy nhìn từ phương

diện dân ca.

30

2.1.2. Biểu tượng núi

Núi là một biểu tượng quen thuộc trong văn hóa các dân tộc trên thế

giới và được xuất hiện phổ biến trong các tác phẩm văn học. Với đồng bào

dân tộc thiểu số luôn gắn bó với miền sơn cước thì biểu tượng núi lại càng có

ý nghĩa lớn lao hơn. Nghĩa gốc của biểu tượng núi trong văn hóa được lí giải

như sau: “ý nghĩa tượng trưng của núi có nhiều mặt, vừa là chiều cao, vừa là

điểm trung tâm. Với những đặc điểm: cao, thẳng đứng, gần trời, núi tham gia

vào hệ biểu tượng của cái siêu tại, siêu phàm với tính cách là trung tâm của

những hiện tượng hiển linh trong khí quyển và rất nhiều sự tích thần hiện, núi

thuộc là biểu tượng của cái bản thể biểu hiện. Núi là nơi Trời và Đất gặp

nhau, là nơi ở của thánh thần và là điểm cuối của con đường đi lên của con

người” [13;701]. Núi cũng thể hiện những khái niệm về tính ổn định, bất di

bất dịch và đôi khi cả về tính thanh khiết. Nói chung, núi vừa là tâm điểm và

vừa là trục của thế giới. Mặt khác, núi cũng rất hay được coi là tượng trưng

cho quyền thế và tham vọng của loài người.

Có thể nói rằng, người Mông luôn hiện hữu ở những đỉnh núi cao nhất

trên mảnh đất Việt Nam. Với người Mông, núi đã trở thành máu thịt. Có

nhiều câu chuyện với những cách lí giải khác nhau song tất cả vẫn hội tụ ở

một điểm: những ngọn núi. Có câu chuyện kể về vị vua đầu tiên của người

Mông trong một lần tranh đất bằng thử thách chạy thi trong một ngày một

đêm đã chạy đến đúng vùng núi khi thời hạn kết thúc. Câu chuyện khác được

lưu giữ lại nói rằng ông tổ của người Mông trên quãng đường đua cùng với

các tộc người khác để dành quyền lựa chọn vùng đất sinh sống, đã bất ngờ bị

trượt ngã đúng chỗ các đỉnh núi khi gần về đích. Tựu chung lại đó là lí do

người Mông lí giải cho sự ở núi truyền đời của mình.

Với dân ca Mông Hà Giang, núi là biểu tượng của quê hương cội

nguồn. Khác với người Việt, mảnh đất quê hương bao giờ cũng là mảnh đất tổ

31

tiên thiêng liêng, là nơi cư trú của biết bao thế hệ, là nơi mà thế hệ con cháu

dù có đi xa tới đâu thì khi mỏi chân chùn sức vẫn luôn tìm về. Thì với lịch sử

thiên di của mình, người Mông không còn có thể tìm về mảnh đất quê hương,

vùng đất ấy giờ chỉ còn tồn tại lẩn khuất trong trí nhớ, trong những câu dân

ca. Với người Mông, tổ tiên của họ thường chỉ ba đến năm đời. Với họ, gánh

nặng tâm linh bởi mối ràng buộc với tổ tiên không quá lớn. Bởi vậy dường

như những ngọn núi đã trở thành quê hương của người Mông, ở đâu có núi, ở

đó có người Mông. Núi nâng đỡ người Mông, nuôi dưỡng họ, bảo vệ họ. Mọi

hoạt động vật chất, tinh thần của người Mông đều diễn ra ở núi. Núi là cái nôi

sinh ra và nuôi dưỡng đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của

người Mông. Từ không gian sinh hoạt lễ hội cộng đồng:

Đem cái tết ăn rồi

Đem cây niêu cây néo ngả xuống đồi

… Đem cây niêu cây néo ngả xuống núi.

Ghi nhớ để lòng [45;148]

Cho đến không gian yên nghỉ khi về với tổ tiên, người Mông đều gắn

bó với núi:

Bố mẹ làm ma em ba ngày

Sẽ đem em đi chôn cùng núi đồi

Chớ đùa [46;119]

Con đường chàng trai Mông đi đến nhà người thương là con đường “đi

qua núi qua thung/ đi vượt núi vượt ghềnh” [45;124]. Con đường cô gái

Mông đi lấy chồng là con đường “leo hết đèo/ vượt hết núi [45;99]”; “Qua

rừng qua núi mười chín tầng/ Qua rừng qua núi mười chín lô” [46;128].

Không gian sống của người Mông trải dài từ ngọn núi này sang ngọn núi

khác. Các cung đường cũng vắt ngang núi mà thành, con người băng qua

đường núi mà đến với nhau:

32

Đôi ta yêu mến nhau không lấy được

Có ngày sẽ làm gà lôi chim công

Bới sột soạt núi thẳm rừng sâu để gặp nhau

Gà công gặp nhau [47;250]

Núi còn là không gian để chàng trai Mông dốc bầu tâm sự, trút bỏ nỗi

buồn, núi trở thành điểm tựa sẻ chia. Núi mang đến cho những người con của

núi tâm trạng bình yên, thư thái. Sau bao biến động thăng trầm của số phận

chỉ muốn trở về núi vì ở đó con người cảm thấy mình được bảo vệ, chở che,

được là chính mình:

Lòng không buồn thì thôi

Buồn lòng anh trèo lên núi tầng

Huýt sáo líu lo trên vỉa rừng

Huýt sáo líu lo [47;215]

Trong dân ca Mông, một lần nữa người đọc lại được khám phá ý nghĩa

của biểu tượng núi trong quan niệm của người Mông gắn với một triết lý sống

hướng về nguồn cội. Sinh ra ở núi thì khi chết đi cũng nằm chung với núi để

mãi sống trong lòng quê hương:

Bố mẹ em

Đem em đi chôn lên núi cằn cỗi

Nhịn đói [46;125]

Không gian núi với cái nhìn trực quan đã gợi lên sự kì vĩ, lớn lao. Vùng

núi với sự hiểm trở của địa lí đã bảo vệ cho người Mông bao đời. Hệ thống

thành quách của thiên nhiên ấy che chở, cưu mang những cư dân trốn chạy, tị

33

nạn khỏi sự bành trướng của người Hán. Tộc người Mông duy trì quyền tự trị

của mình ở đó. Biểu tượng núi bắt nguồn từ biểu hiện độc đáo trong văn hóa

của những cư dân có truyền thống ở núi truyền đời. Đến Việt Nam khi các

dân tộc khác trước đó đã cư trú hầu hết ở vùng đồng bằng, người Mông sống

trên các đỉnh núi. Họ canh tác trên các triền núi, dựng nhà dựa vào sườn núi.

Cuộc sống mới của người Mông ra đời, phát triển gắn liền với núi. Vì vậy, núi

không chỉ là môi trường sống, tài nguyên, vật chất hiện hữu mà người Mông

dần nhận ra mối liên hệ giữa núi và tâm hồn của họ. Các ý niệm về biểu tượng

núi trong dân ca Mông được ra đời như vậy.

Những ngọn núi chập trùng đã vẽ nên không gian sống của người

Mông Hà Giang. Đỉnh Tây Côn Lĩnh cao 2418m sừng sững, một trong những

đỉnh núi cao bậc nhất nước ta. Mã Pì Lèng có thể nói là một kiệt tác từ đá mà

tạo hóa đã ban tặng con người nơi đây. Mã Pì Lèng nghĩa đen là sống mũi

ngựa với ý đây là một con đèo hiểm trở ngựa đi qua cũng phải bạt vía, lạc

hồn. Vì thế Mã Pì Lèng được nhắc đến như một biểu tượng hùng vĩ nhất của

cao nguyên đá Hà Giang nơi cộng đồng người Mông đang sinh sống. Những

dãy núi trên cao nguyên đá không đứng đó một cách vô tình. Những dãy núi

đã hình thành kề cạnh và hình thành lối sống của người Mông nơi đây. Nhắc

đến người Mông hiếm ai không liên tưởng đến ngay những đỉnh núi, đúng

như những câu dân ca Mông đã khắc họa:

Theo hướng quê đrâu Giàng Chính không thấy đrâu Giàng Chính

Chỉ thấy quê hương đrâu Giàng Chính

Núi rừng góc hang động rung rinh

Quanh co đồi núi [47;253]

Quá trình sinh trưởng, phát triển của người Mông gắn liền với núi. Núi

giờ đây đóng vai trò là nguồn sống không thể thiếu, đóng vai trò là biểu tượng

cho không gian văn hóa của người Mông. Người Mông thể hiện quyền lực

34

cũng như tâm hồn mộng mơ của mình trên những đỉnh núi. Với người Mông

Hà Giang, núi là nơi họ gắn bó cả cuộc đời mình. Biểu tượng núi trong dân ca

Mông được giải mã với nét nghĩa chính là quê hương người Mông, là không

gian chất chứa cả đời sống vật chất và tinh thần tộc người. Cũng chính nhờ

những đỉnh núi với bức tường thiên nhiên hùng vĩ mà người Mông được xem

là một trong những tộc người còn giữ được nhiều nét văn hóa dân tộc nhất

trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam. Người Mông ngày nay vẫn

dựng cho mình những pháo đài trên đỉnh núi để cắm dốc mốc cho sự tồn tại

bất kể khắc nghiệt của tự nhiên.

Dân ca Mông gửi gắm quê hương của người Mông vào biểu tượng núi.

Xem xét những khía cạnh biểu hiện của biểu tượng núi là cơ sở nắm được

chìa khóa để đi vào khám phá chiều sâu của văn hóa tộc người. Hiểu những

ngọn núi cũng là một cách để hiểu tâm hồn người Mông. Hình ảnh những

người con dân tộc Mông ngồi trên những mỏm đá cheo leo trên đỉnh núi và

cất cao tiếng hát đã trở thành biểu tượng đẹp không chỉ với dân ca Mông mà

còn cả với nền văn hóa Mông. Đây cũng là hình ảnh hiện lên trong tâm trí

mỗi người khi nhớ đến văn hóa của những cư dân miền sơn cước Hà Giang.

2.1.3. Biểu tượng nước

Biểu tượng nước xuất hiện hầu hết trong văn hóa các dân tộc phương

Đông. Với tư cách là một mẫu gốc trong văn hóa, những ý nghĩa tượng trưng

của nước có thể quy về ba chủ đề chiếm ưu thế: nguồn sống, phương tiện

thanh tẩy, trung tâm tái sinh [13 ;709]. Ba chủ đề này thường gặp trong

những tiểu thuyết cổ xưa nhất và hình thành những tổ hợp hình tượng đa dạng

nhất và đồng thời cũng chặt chẽ nhất. Đối với châu Á, nước ở dạng thức thực

thể của thế giới, là nguồn gốc sự sống và là yếu tố tái sinh thể xác và tinh

thần, là biểu tượng của khả năng sinh sôi nảy nở, của tính tinh khiết, tính hiền

minh, tính khoan dung và đức hạnh. Nước còn là nguồn gốc và phương tiện

chuyển tải sự sống, là hình tượng của hơi thở sự sống.

35

Đọc thơ ca dân gian của các dân tộc ít người Việt Nam, chúng ta càng

thấm thía sức ám ảnh của biểu tượng nước trong tâm thức dân gian. Những

con người miền núi quen sống giữa thiên nhiên đã gửi gắm những suy tưởng,

những tình cảm vào biểu tượng nước. Sự đồng điệu trong cách cảm, cách nghĩ

này cho thấy nước là biểu tượng lớn của văn hoá dân gian các dân tộc ít

người. Nước có một sức mạnh thần kỳ, nó mang trong mình những điều kỳ vỹ

bởi vậy nó luôn được tôn thờ. Từ đó, nảy sinh những quan điểm, tập tục tín

ngưỡng xung quanh môi trường nước. Với những cư dân miền núi, nước là

những nơi bí hiểm, ẩn chứa những sức mạnh hủy diệt, những mối nguy hiểm

đối với con người. Hiện tượng này được phản ánh trong một số bài dân ca

Mông. Sức mạnh hủy diệt của nước không nằm ở mỗi cá nhân mà là sự hủy

diệt mang tính chất cộng đồng, từ số phận con người đến cỏ cây, hoa lá, đất

đại. Nước tham gia vào cuộc sống của con người nhưng nó không chỉ mang

đến sự sống, sự thuận tiện mà còn mang đến những khó khăn trở ngại. Đó là

những thiên tai do nước mang đến, nước lúc này mang trong mình sức mạnh

hủy diệt, nó biểu hiện qua những trận mưa to, gió lớn, qua nạn hồng thủy kinh

hoàng. Nước dâng ngập trần gian, người và vật chết hết:

Mưa to nước lớn ngập tràn chín mươi chín vùng khe,

Trần gian có chín mươi chín hốc núi

Trần thế có chín mươi chín hốc hang

Mưa to nước lớn ngập tràn chín mươi chín vùng khe.

Ngọn nguồn [46;109]

Người Mông coi nước là một nhân tố sáng tạo ra vũ trụ, ra con người.

Nguồn gốc của tộc người Mông đến từ cặp anh trai em gái ruột Lề Lư và Sỡ

Nhỏ. Cặp anh em sinh thành nên tộc người Mông và được coi là tổ tiên của

người Mông. Thần thoại vẫn kể về trận đại hồng thủy khiến muôn loài bị

ngập nước diệt vong, chỉ còn lại hai anh em Lề Lư và Sỡ Nhỏ. Sau một vài

lần trải qua thử thách, đồng thời do trên mặt đất lúc này chỉ còn hai anh em,

36

họ buộc phải lấy nhau và đẻ ra bọc thịt. “Họ chặt bọc thịt ra làm trăm mảnh

đem rải khắp trần gian để từ đó người Mông xuất hiện khắp mọi nơi trên trái

đất” [44;102].

Về nạn hồng thủy trên trần gian, các nhà nghiên cứu dân tộc học và văn

hóa dân gian đều cho rằng những câu chuyện này chứa đựng nhiều yếu tố văn

hóa cổ độc đáo và được biểu hiện đa dạng tùy theo hoàn cảnh sinh sống và

nếp cảm, nếp nghĩ của từng tộc người trong chiều dài lịch sử, văn hóa. “Cuộc

hôn nhân sau đại nạn hồng thủy thường là khởi nguồn của loài người. Nước

xóa đi lịch sử và khôi phục lại lịch sử mới của con người trong một trạng thái

mới” [36;805]. Bởi vậy biểu tượng nước trong dân ca Mông vừa mang trong

mình ý nghĩa phương tiện thanh tẩy nhưng đồng thời biểu tượng nước còn

mang ý nghĩa tái sinh, là nguồn sống khởi nguồn cho sự ra đời và phát triển

của cả tộc người. Người Mông nhìn nhận về nạn đại hồng thủy với tính chất

hai mặt của nó. Nước ở đây cũng tiềm ẩn hai mặt của sự hủy diệt và sự sống.

Sau sự ngập lụt chết chóc là dấu vết của sự sống, những người còn sống sót

lấy nhau và trở thành tổ tiên của loài người, thể hiện khát vọng sống, khát

vọng sinh sôi, nảy nở mãnh liệt của con người. Các nhà nghiên cứu đa phần

thồng nhất nội dung nguồn nước hủy diệt của nạn đại hồng thủy sẽ tái sinh

một xã hội phát triển hơn. Quan niệm phổ biến được đồng tình ở đây là loài

người bị nhấn chìm trong nước, được làm cho sạch, được tẩy rửa, để rồi tái

sinh thành một lớp người mới sống ở một thời đại tiến bộ hơn. Biểu tượng

nước trong dân ca Mông là một cái cớ để mở đầu câu chuyện về nguồn gốc

tộc người. Đây cũng chính là lý giải về quy luật sinh tồn, hủy diệt của con

người nói chung và người Mông nói riêng qua dân ca :

Nước suối tràn mặt đất

Tiên nữ hộ trần gian sinh muôn loài về

Nước suối trôi thung sâu

Tiên nữ giúp trần gian đẻ muôn loài cho

Thành gia đình [47 ;155]

37

Người Mông nhận thấy ở nước sự rộng lớn mênh mông của vũ trụ,

chứa đựng những sức mạnh siêu nhiên có khả năng quyết định đến sự sống và

cái chết của con người và vạn vật trên trái đất. Bình yên của con người và vận

vật phải đến từ sự ủng hộ và bảo vệ của nguồn sức mạnh thiên nhiên này. Bắt

nguồn từ tâm lí đó mà người Mông phảo cầu cúng sức mạnh của nước. Vì

vậy, trong nhiều phong tục tập quán và trong nhiều nghi lễ của gia đình, dòng

họ, cộng đồng người Mông luôn có sự hiện diện của nước. Đặc biệt ngày 30

tết là ngày trọng đại nhất: Họ làm lễ cúng đêm 30 rất cẩn thận và chu đáo,

mong những điều chưa tốt đi theo năm cũ để năm mới làm mọi điều may mắn

để đạt kết quả tốt hơn. Sau giao thừa, người đàn ông mới được đi lấy nước, họ

cầm 3 thẻ hương, 3 tờ giấy bản, cắm đốt ở đầu nguồn nước, khấn xin được lấy

nước, nước lấy về qua cửa chính: 2 lần ra, 3 lần vào, sau đó đổ lên các chén

trên bàn thờ làm nước cúng. Nước sáng mùng 1 là nước tinh khiết, uống vào

người sẽ khoẻ mạnh và trừ được ma quỷ, vì thế họ đổ vào đun một ấm để

uống. Mùng một họ làm cơm mới, thịt mới, nước mới cúng tổ tiên. Người

Mông quan niệm nước lấy đầu năm là nước tinh khiết, lấy nước đó về thắp

hương làm lễ, ăn uống vào sẽ không sợ ma quỷ làm hại, năm mới sẽ gặp may

mắn, ăn nên làm ra, sạch sẽ khỏe mạnh.

Với các biến thể khác nhau của nước như sông, biển… người Mông lại

có những thái độ ứng xử khác nhau. Truyện cổ dân gian người Mông có Câu

chuyện mở đầu nói về hai nhân vât là ông Sương mù và Đào đá, hai yếu tố tự

nhiên mang giới tính nam đã có công giúp chàng trai Mông chiến đấu với cha

con vua biển để giành lại vợ là nàng Dua Pà. Vì lẽ đó, với người Mông, nước

với hình ảnh biển luôn là kẻ thù địch. Nhưng nước gắn vơi biến thể sông, với

thế giới vua Thủy Tề, với những người con gái, con trai xinh đẹp, hiền hậu lại

là sự thân thiện, tương trợ và liên kết. Nước lúc này là dấu hiệu dự báo điềm

lành, sự thịnh vượng. Dòng nước trong vắt, hiền hòa báo hiệu sự bình yên,

may mắn đem lại cuộc sống thịnh vượng cho người Mông:

38

Thung lũng dài tốt nuôi con ráy

Nước sông sâu tốt nuôi cá tôm

Nhận người thân [45;123]

Những câu dân ca của người Mông cũng thường mượn biểu tượng

nước mà định giá tình cảm. Nước được xem như là một giá trị đã định hình, là

cái hiển nhiên, mặc định. Nước với ý nghĩa là chất kết nối tình cảm, thiết lập

mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Dân ca Mông đã đúc kết một

cách hình ảnh ý nghĩa của biểu tượng nước với vai trò biểu hiện cho những

tình cảm lứa đôi hoặc tình nghĩa vợ chồng. Nó là cái cớ vin vào cho sự khẳng

định tình cảm vững bền của đôi lứa yêu nhau:

Giá em lấy được anh

Em sẽ lo chậu nước sạch

Cho anh rửa mặt,

...Giá em lấy được anh

Em sẽ lo chậu nước trong

Cho anh rửa chân.

Cài vạt áo[45;140]

Là cái cớ để chàng trai Mông bày tỏ tình yêu:

Nước trong veo đến mê say

Giá hai ta nên vợ nên chồng

Em nói một lời lòng anh yên cả đời

Anh nói một tiếng lòng em yên suốt ngày

Cởi không trôi [47;169]

Qua kết quả khảo sát, thống kê, chúng tôi nhận thấy biểu tượng nước

xuất hiện khá phổ biến trong dân ca Mông với các hình thức biểu hiện

phong phú và các hướng ý nghĩa biểu trưng dồi dào. Xuất hiện 107 lần trên

tổng số 41/120 bài dân ca Mông, biểu tượng nước hướng đến một số ý

39

nghĩa cơ bản : nước - sức mạnh thanh tẩy, hủy diệt. Nước - sức mạnh tái

sinh. Nước – chất kết nối tình cảm. Các hướng nghĩa của biểu tượng nước

chứa đựng nhiều giá trị văn hóa – xã hội, lịch sử, tín ngưỡng của dân tộc

Mông. Có thể nói sự xuất hiện của biểu tượng nước trong dân ca Mông là

một phương thức hữu hiệu phản ánh bản sắc văn hóa Mông. Các tầng lớp ý

nghĩa của biểu tượng nước trong dân ca Mông khẳng định một lần nữa giá

trị văn hóa Mông với sự phong phú, đa dạng, tạo tiền đề thúc đẩy việc bảo

tồn các giá trị văn hóa truyền thống đã và đang đứng trước nguy cơ mai

một, thất truyền từ các giá trị văn học.

2.1.4. Biểu tượng đá

Đá là một biểu tượng xuất hiện nhiều trong văn hóa dân gian Việt Nam.

Sự gắn kết của đá với đời sống con người đã xuất hiện trong văn học với tư

cách là một biểu tượng ẩn chứa nhiều lớp trầm tích văn hóa. Ý nghĩa gốc của

biểu tượng đá rất đa dạng. Nhìn chung, giữa linh hồn con người và đá có mối

liên quan chặt chẽ. Khi người ta lấy tảng đá làm nơi thờ cúng thì tức là con

người đang thờ vị thần đang ngự trong tảng đá đó. Đá bởi vậy không phải

những khối vô hồn mà là những vật sống. Đá gắn liền với việc định cư của

các dân tộc. Nó đóng vai trò quan trọng trong các mối liên hệ giữa trời và đất.

Các tảng đá được coi như sự hiện diện của thần linh, là sự bảo vệ linh thiêng

với con người. Có rất nhiều vị thần và anh hùng tài ba trong văn hóa thế giới

được sinh ra từ những tảng đá. Các tác giả của Từ điển biểu tượng văn hóa thế

giới [13] đã liệt kê rất nhiều dạng đá có ý nghĩa biểu tượng trong văn hóa

nhân loại từ đá thô, đá đẽo gọt cho đến cho đến các dạng thức khác của đá

như châu báu, kim cương… để thể hiện ý nghĩa, giá trị khác nhau của biểu

tượng đá trong văn hóa cộng đồng.

Khu vực miền núi phía Bắc có địa hình núi cao, hiểm trở, nhiều sông

suối, núi, đèo. Từ ngàn đời nay, cư dân đã gắn bó với những núi đá cao ngất

trời, trong tâm thức của họ, hình ảnh đá đã đi vào đời sống như một biểu

40

tượng về văn hóa. Đá ở Hà Giang là những bãi đá mọc tua tủa, đá nhọn sắc và

dựng ngược lên trời. Người Mông bắt đầu mọi thứ của mình trên đá. Đá hiện

hữu thường trực trong đời sống tâm linh của người Mông. Đá không phải

những vật vô tri mà luôn có những đấng linh thiêng trú ngụ. Chính nhờ có đá

trộn lẫn mà đất của người Mông mới chắc. Đá cứng cáp là thứ bền vững

trường tồn muôn đời. Đá hiện hữu trong mọi không gian, mọi hoạt động của

tộc người này. Từ hàng rào bên ngoài nhà cho đến bậc thềm bên trong nhà, từ

chân cột ở ngoài cửa cho đến chiếc cối ở dưới bếp, từ không gian của người

sống cho đến ngôi mộ chôn cất người chết, người Mông đều có đá ở bên.

Người Mông mạnh mẽ như sự cứng cáp của đá, nhờ vậy mà tộc người đã

trường tồn dù trải qua biết bao máu và nước mắt. Có vị trí quan trọng như vậy

nên người Mông suy tôn đá thành thần. Muốn lấy đá, người Mông phải xin sự

cho phép của thần đá. Người Mông ở trên cao, đá ở trong đời sống của họ

luôn luôn thường trực:

Cơm ăn nấu ấm đá

Nước uống đun ấm đồng

Tiễn nhau [47;180]

Đá gắn với đồng bào không chỉ lúc sống mà cả khi chết đi. Với người

dân miền núi, đá cũng là một biểu tượng tâm linh. Bài ca Khúa kê – Bài ca

chỉ đường của người Mông dạy cho con cháu, kể về hành trình của người chết

trở về gặp ma tổ tiên. Hành trình của họ phải trải qua “ba tầng trời, nhất thiết

phải vượt qua núi đá con rồng, miệng đá con hổ, đi trả tiền củi nước cho lính

của Ngọc hoàng, rồi mới được đầu thai sang kiếp khác” [12;185]. Đá đã

được hình tượng hóa thành biểu tượng linh thiêng, mang những hình hài,

truyền tải những quan niệm tâm linh về đá thiêng, những trở ngại, thử thách

gian nan mà hồn người chết phải trải qua để về xứ sở đầy hoa thơm cỏ lạ. Đá

không chỉ là sự vật trong đời sống con người như là một yếu tố tự nhiên của

môi trường sống mà trở thành biểu tượng đầy tự hào về nguồn cội. Với dân

41

tộc Mông thì những vùng núi đá tai mèo dựng ngược là quê hương của họ. Đá

tượng trưng cho sự hiểm trở, gian nan nhưng đôi khi lại rất gần gũi, thân thiết

với cuộc sống của con người. Đá còn là biểu tượng gắn liền với những tổ ấm

thân thương quen thuộc trong mỗi gia đình. Ngôi nhà bao giờ cũng có sự hiện

diện của đá là biểu tượng đẹp về cội nguồn văn hóa, truyền thống của gia

đình, dòng họ của người Mông.

Nếu như người Việt sống với đất thì người Mông sống với đá. Những

mỏm đá như vươn cao tới trời. Đá đứng sừng sững như người Mông từ bao

đời nay sừng sững trên vùng đất khắc nghiệt này. Đá phủ khắp mọi không

gian sống của người Mông. Đá hòa chung trong lòng đất. Người Mông bước a

khỏi cánh cửa nhà là thấy đá. Đá in trong từng bước chân người Mông.

Những bãi đá mọc tua tủa sắc như những lưỡi dao dựng ngược lên trời và từ

trên đá, người Mông gửi sự sống, khẳng định sức mạnh của dân tộc mình.

Truyền thuyết người Mông lưu giữ một niềm tin rằng khi vũ trụ ra đời, quả

đất chỉ như một trái bùn loãng và yếu ớt, ông Chày bà Chày đã làm ra đá và

cây cấu kết với nhau tạo thành quả đất. Từ đấy quả đất mới vững chắc, đất

vững chắc nhờ trong đất có đá. Đá làm hàng rào, đá làm nhà cho người Mông

sống yên ổn. Phần lớn không gian sống của người Mông là đá. Hàng rào đá vẽ

nên ranh giới trong không gian sống của người Mông. Từ xa nhìn lại cả bản

làng với những ngôi làng quần tụ quanh bức vách đá. Người Mông đã chọn

phiến đá bằng phẳng để lót lối vào nhà. Để nền nhà tránh bị lở người Mông

cũng dùng đá kè quanh nền. Những phiến đá dài từ cả mét đến nửa mét tạo

một sự bền vững. Các cột gỗ trong nhà đều được kê trên chân đế bằng đá. Đó

là một nét kiến trúc đặc thù của người Mông. Biểu tượng đá đi vào trong dân

ca Mông cũng với những hình ảnh thân thuộc, gắn bó thân thiết với cuộc sống

con người. Đá với sự cứng rắn, mạnh mẽ mang ý nghĩa bảo vệ cho cuộc sống

42

của các thế hệ người Mông. Biểu tượng đá gắn liền với quá trình định cư của

những người dân Mông:

Giá hai ta lấy được nhau

Sẽ sống cùng bố mẹ

Cái nhà cửa chính xây bằng đá xanh

Cho người già sống ấm êm

Cho con em lập gia đình,

Cái cửa nhà chính xây bằng đá phiến

Cho người già sống ấm êm

Cho con trẻ xây gia quyến

Bõ thời son trẻ [47;219]

Đá trở thành công cụ giúp họ sinh tồn thậm chí trở thành vật thiêng

trong nhà. Gia đình nhà Mông nào cũng có một chiếc cối đá. Người Mông có

tục lệ khi chuyển nhà dứt khoát phải cầm theo ba thứ: cái váy của người phụ

nữ, túi đựng hạt lanh và chiếc cối đá. Vì không có cối đá thì không thể say

ngô nấu mèn mén được. Một người con của cao nguyên đá đã từng viết sống

trong đá chết nằm trong đá. Với người Mông không gian sống và chết đều hòa

lẫn vào trong đá. Ngôi mộ của người Mông khi đắp đều phải có đá xếp cùng:

Đằng trước xếp bằng đá

Đằng sau xây bằng đất

… Đằng sau mồ xây bằng đất

Đằng trước mả xếp bằng đá

Làm ma khô [47;290]

Ở người Mông chúng ta sẽ thấy với tín ngưỡng thờ đá, người Mông coi

đá như một vị thần. Người Mông quan niệm vật nào cũng có linh hồn, người

Mông đi nhận những tảng đá to, đẹp làm bố nuôi, mẹ nuôi của đứa con. Người

Mông là tộc người sống trên núi đá, ở trên núi đá, ăn trên đá, ngủ trên đá.

Người xưa có câu: Người Tày thửa ruộng, người Dao thửa đầu nước còn người

43

Mông thì sống trên đá. Đá thiên nhiên non sông đất nước đã nằm trong tâm

thức người Mông. Người Mông có quan niệm đá cũng có thể cầu nó phù hộ

mình, để nó không làm hại mình. Người Mông có tục tổ chức cúng thần đá vào

ngày rằm, mùng một. Lễ vật bao giờ cũng gồm một con gà, một chai rượu. Với

người Mông cúng đá chính là cúng tổ tiên. Người Mông cúng một phiến đá

trong nhà và cúng một phiến đá ngoài nhà. Trong gia đình người Mông chọn

một tảng đá để tượng trưng cho thần linh, thổ công, thổ địa. Khi lên rừng làm

nương hay trước khi làm một việc gì quan trọng, người Mông cúng thần đá xin

đi đường không gặp đá lăn, đi vào rừng không gặp cây đổ. Gia đình người

Mông nào cũng có một tảng đá trước cửa hay trong vườn, không bao giờ chọn

những tảng đá sau nhà. Tảng đá được chọn chắc, nhọn, cao lên phía trước

tượng trưng cho bầu trời. Với việc thờ cúng này người Mông tin rằng thần đá

sẽ phù hộ cho cuộc sống của họ được bình an và sinh sôi nảy nở. Cuộc sống

của người Mông từ thời trai trẻ đến lúc bạc đầu gắn liền với đá:

Tuổi già không còn xa

Tung tóe lấp chân đá

Lứa tuổi như đôi mình

Tuổi xuân chẳng còn mấy

Chân trời rơi [46;150]

Có một hình ảnh mà mọi người có thể thấy trên những tảng đá dọc

đường vào bản của người Mông, những tảng đá màu đen tua tủa sắc nhọn

đâm lên trời được quấn quanh bởi những sợi chỉ đỏ. Theo phong tục người

Mông cây và đá là do trời sinh ra tượng trưng cho sức mạnh thiên nhiên. Với

những đứa trẻ người Mông, đá cũng là thần hộ mệnh. Người Mông có tục xin

đá làm bố mẹ nuôi che chở cho những đứa trẻ đau ốm. Thầy cúng sẽ lấy một

mảnh vải đỏ, tại phiến đá thầy cúng sẽ làm lễ thắt, đọc tên và cầu xin những

điều tốt lành cho đứa bé. Sau cùng người ta tước một vài sợi chỉ đỏ từ mảnh

vải mang về buộc vào chân đứa trẻ. Người ta gọi tảng đá này là đá sinh, đó

44

phải là tảng đá có chân ngầm vững chắc và những nhú đá sắc tua tủa bên trên

tượng trưng cho những sự sinh sôi. Tảng đá đã được buộc sợi vải đỏ thì sẽ

không được đập đi. Người Mông tin sự vững chãi của những tảng đá sẽ tiếp

sức cho những đứa trẻ lớn khôn, bước từng bước đi vững vàng trên đá. Những

tập tục này cho thấy sự hiện diện độc đáo của đá in sâu trong tâm thức người

Mông. Đá đã thành cha, thành mẹ, đá chở che suốt cuộc đời người Mông, đá

là bố, là mẹ của những đứa trẻ. Vì thế, đá của dãy núi kia chính là sự hình

thành lối sống của người Mông. Đá cho họ chỗ dựa, cho họ niềm tin vào cuộc

sống và đá rèn lên một chí khí mãnh liệt cho họ sống và làm chủ mảnh đất

này. Đấy là sự gắn kết linh thiêng, chặt chẽ giữa con người và thiên nhiên.

Biểu tượng đá trong dân ca cũng gắn với những tín ngưỡng, huyền

thoại của người Mông. Biểu tượng đá biểu trưng cho sự có mặt của thánh

thần, giữ các vía hồn lành hoặc dữ. Thờ đá xuất phát từ tín ngưỡng thờ thần tự

nhiên gắn với niềm tin mọi sự vật xung quanh đều có một vị thần trú ngụ.

Biểu tượng đá trong dân ca Mông mang ý nghĩa quan trọng, gắn bó sâu sắc

với mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần trong suốt chiều dài lịch sử văn

hóa của người Mông. Là vật thiêng bảo vệ các thế hệ từ trẻ đến già, trợ giúp

người Mông những lúc khó khăn. Bởi vậy, dân ca Mông giữ gìn hình ảnh biểu

tượng đá với vai trò một biểu tượng tâm linh vô cùng thiêng liêng, là cội rễ

bền chặt trong lòng người, gốc rễ của sự sống, nơi những người con của đá,

dù ở bất cứ phương trời nào cũng hướng về đầy tin yêu, thành khẩn.

2.2. Biểu tượng về con người trong văn hóa Mông

2.2.1. Biểu tượng về người cha

Biểu tượng người cha có mặt trong mọi nền văn hóa trên thế giới.

Người cha là biểu tượng của sự sản sinh, của sự hữu và chiếm hữu, của sự

thống trị, của giá trị. Theo ý nghĩa gốc của biểu tượng, người cha là một nhân

vật ức chế, hoặc áp chế. “Nói theo ngôn ngữ phân tâm học, cha hay bố là hình

45

ảnh của mọi nhân vật có uy lực: người thủ lĩnh, ông chủ, người bảo hộ, thánh

thần. Vai trò của người cha được thụ cảm như một sức mạnh làm nhụt ý chí

tự giải phóng của kẻ bề dưới, với những tác động tước đoạt, hạn chế, ức hiếp,

vô hiệu hóa nhằm giữ kẻ ấy trong trạng thái lệ thuộc” [13;150]. Trong những

huyền thoại về cội nguồn, hình tượng người cha đạt tầm kích văn hóa to lớn.

Nội hàm phong phú của biểu tượng cha bắt nguồn từ vị thế siêu tại của nhân

vật này, Người cha xuất hiện với tư cách là người ban hành những luật lệ và

phép tắc. Người cha là nguồn gốc của các thiết chế.

Biểu tượng người cha trong dân ca Mông mang ý nghĩa là người chủ

gia đình - một nhân vật có uy lực, các thành viên còn lại trong gia đình đều

phải lệ thuộc vào nhân vật này, đặc biệt là những người phụ nữ trong gia đình.

Người cha có quyền quyết định hầu hết công việc lớn nhỏ của gia đình trong

đó có việc quyết định hôn nhân của con cái:

Bố mẹ gầu Mông

Gả gầu Mông làm dâu con đường xa

Nước mắt rơi [45;104]

Trong văn hóa Mông nói chung, biểu tượng người cha có ý nghĩa hết

sức quan trọng. Với đặc điểm cư trú tại những vùng núi cao và hiểm trở, đồng

bào Mông sống rải rác thành từng bản nhỏ theo dòng họ. Đây được coi như

một đơn vị tự quản, các thành viên trong đó đều phải chấp hành những luật

tục và những quy định cụ thể. Cũng do đặc điểm địa hình môi trường sống

nên cấu trúc gia đình người Mông là cấu trúc gia đình nhỏ phụ hệ, chỉ dao

động từ hai đến ba thế hệ. Trong gia đình người Mông, người đàn ông (có thể

là bố hoặc con trai trưởng) luôn là chủ nhà và nắm giữ mọi quyền lực trong

gia đình về mọi phương diện. Bởi vậy người cha là người làm chủ trong gia

đình, chỉ có họ mới có quyền tham gia chủ trì trong các nghi lễ lớn của gia

đình và quyết định mọi việc của các thành viên trong gia đình.

46

Với sức mạnh của một nhân vật mang trên mình uy lực khiến các thành

viên khác phải phục tùng, thì người con gái với địa vị thấp hơn trong gia đình

lẽ dĩ nhiên phải khuất phục sức mạnh từ phía cha mình. Trong dân ca phản

ánh rất nhiều những cuộc hôn nhân mang tính chất gả bán mà người quyết

định là người cha. Vị thế của người cha trong gia đình với quyền làm chủ

khiến các thành viên khác trong gia đình, nhất là người phụ nữ phải hầu như

lệ thuộc vào ý kiến và sự sắp xếp của nhân vật này. Trong ý thức của các

thành viên gia đình mặc định việc người chủ gia đình nắm giữ quyền lực là

đương nhiên và việc họ phải phục tùng là tất yếu. Dân ca khắc họa hình ảnh

quyền lực của biểu tượng người cha rất nhiều lần gắn với sự áp chế các thành

viên khác trong gia đình mà tiêu biểu nhất là người con gái. Họ phải nghe

theo mọi việc kể cả chuyện hôn nhân của cuộc đời nếu như ý kiến người cha

đã quyết định:

Bố gầu Sênh rằng nhà ấy phúc đức

Bố gầu Sênh đem gầu Sênh đi cắm dâu

Bố mẹ bảo nơi ấy tốt [47;213]

Rất nhiều các bài dân ca nằm trong cùng hệ thống chủ đề cuộc hôn

nhân gả bán vì quyền lợi này đã phản ánh sự tác động lớn từ phía người cha.

Chứng minh sự nắm giữ quyền lực về mọi phương diện của biểu tượng đầy

sức mạnh này:

Bố gầu lía lòng không yêu

Bắt gả gầu lía cho nhà Mông kia

Gả mổ đám cưới [46;180]

Dân ca Mông đưa ra những ví dụ minh họa rõ nét cho ảnh hưởng quyền

lực của biểu tượng người cha đến số phận người con gái trong việc hôn nhân.

Và như một sự mặc định, dù không có yêu cầu chính thức nhưng người con

gái đó sẽ mang thân phận con dâu trừ những món nợ sính lễ cho nhà chồng:

47

Bố con đem tiền người tiêu hết rồi

Tiền đến tay bố khác nào rồng già uống nước trôi

Bố con đem vật người bán hết lâu

Vật đến tay bố khác nào rồng già chui hố sâu

Bố mẹ bảo nơi ấy tốt [47;213]

Đám cưới của người Mông, nhà trai phải chuẩn bị rất nhiều sính lễ mới

có thể nhận được sự chấp thuận của cha mẹ cô gái. Món hồi môn lớn từ việc

gả con gái là một trong những nguyên nhân mà nhiều bậc sinh thành gật đầu

chấp nhận cuộc hôn nhân:

Mẹ gầu mông rằng con gái yêu

Bố con bàn tay chẳng được lành

Đã đem lợn người làm tanh bành

Bố con bàn tay chẳng được nên

Đã đem tiền người làm nghiêng cân

Em gái tôi [45;95]

Thậm chí những người con gái sau cuộc hôn nhân gả bán có chịu nhiều

thiệt thòi, ấm ức nhưng vì đã sử dụng hết của hồi môn của nhà trai nên họ

cũng không thể rời bỏ cuộc hôn nhân đó. Tuy người con gái đã rời nhà đi lấy

chồng thì quyền lực người cha vẫn hiện hữu, vẫn có tác động mạnh mẽ đến

suy nghĩ của người con gái. Chính sự áp chế vô hình về tinh thần này là một

nguyên nhân khiến các cô gái Mông hầu như không li dị khi gặp bế tắc trong

hôn nhân mà tìm đến cái chết để phản kháng. Những đặc điểm biểu hiện của

biểu tượng cha trong dân ca Mông hầu như hợp nhất với hình ảnh người cha

trong cuộc sống người Mông. Suy nghĩ cũng như hành động của người phụ

nữ trong dân ca Mông hầu như chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi quyết định của

người chủ gia đình. Biểu tượng về người cha trong dân ca Mông hầu hết gắn

với hình ảnh những cuộc gả bán, những quyết định không thể thay đổi về

tương lai của người con gái trong gia đình.

48

Biểu tượng người cha từ dân ca Mông còn biểu hiện vai trò của mình

trong việc chi phối mọi sinh hoạt thường ngày của cuộc sống. Trong gia đình

người Mông, việc nấu nướng hàng ngày do người phụ nữ đảm nhiệm. Tuy

nhiên, các ngày lễ tết thì việc này lại dành cho người đàn ông. Cũng theo tập

tục của người Mông, trong khi ăn, đàn ông ăn riêng ở trên nhà còn phụ nữ và

trẻ em gái ăn ở dưới bếp. Trong bữa ăn, ông chủ gia đình bao giờ cũng ngồi

gần nơi thờ ma nhà nhất. Với ảnh hưởng và vị trí quan trọng trong gia đình,

người cha đóng vai trò bảo hộ cho tất cả:

Người ta có mẹ hộ nhà

Có cha hộ bếp

Có mẹ thổi cơm đưa

Có cha nấu cơm tiếp

Có mẹ giúp bếp

Có cha hộ nhà

Có mẹ nấu cơm tiếp

Có cha thổi cơm đưa

Treo ngọn lau [47;135]

Biểu tượng về người cha gắn với những hình ảnh mang ý nghĩa quan

trọng trong đời sống vật chất và tinh thần đã đóng vai trò là hình mẫu lí tưởng

cho những thành viên nam khác trong gia đình. Hình ảnh đầy sức mạnh của

người cha đảm bảo uy quyền cho nhân vật này, đồng thời cũng là cái đích

hướng tới của sự trao truyền vị trí chủ nhà cho các thành viên nam tiếp theo

trong gia đình. Bởi vậy, người cha khẳng định vị thế của một nhân vật định

hình cho quyền lực của những thành viên nam nối tiếp sau đó.

Người cha trong dân ca Mông phản ánh sự tác động mạnh mẽ và sâu

sắc của một biểu tượng đầy uy quyền đến tư tưởng, tình cảm, quan niệm,

nhận thức của những người phụ nữ khác trong gia đình. Hướng nghĩa của

49

biểu tượng cha trong dân ca Mông được hiện thực hóa trên nhiều phương diện

đời sống xã hội. Với tần số xuất hiện là 304 lần trong 57/120 tác phẩm, biểu

tượng cha trong dân ca Mông tạo nên một cái nhìn khái quát về vị trí của nhân

vật này trong đời sống văn hóa. Đây cũng là cơ sở nắm bắt tâm lí dân tộc và

góp phần thể hiện tổ chức xã hội của người Mông trong đời sống.

2.2.2. Biểu tượng về người mẹ

Thi ca nói chung có muôn vàn áng văn chương ca ngợi hình ảnh người

mẹ. “Biểu tượng người mẹ gắn với tình mẫu tử, với sợi dây huyết thống, với

tình yêu thương chan chứa vô bờ. Biểu tượng người mẹ đại diện cho nơi

mang giữ sự sống. Sự sống của người con bao giờ cũng gắn liền với sự sống

của người mẹ” [13;586]. Quá trình mang nặng đẻ đau đại diện cho sự gắn kết

máu thịt cao cả và thiêng liêng của tình mẫu tử. Trong biểu tượng người mẹ

có hai chiều đối nghịch. Đầu tiên, người mẹ là sự an toàn của chỗ trú thân,

của sự nồng ấm, yêu thương. Nhưng ngược lại, khi người mẹ bao bọc quá kĩ

càng thì đó cũng là nguy cơ làm xuất hiện chiều đối nghịch. Người con sẽ

cảm thấy bị o ép bởi môi trường chật hẹp và bị ngạt thở do sự kéo dài quá

mức chức năng của người nuôi dưỡng và dẫn dắt. Khi đó biểu tượng người

mẹ trở thành kiểu giam hãm, áp chế, làm thui chột. Về cơ bản, ý nghĩa phổ

biến nhất của biểu tượng người mẹ là tượng trưng cho bản năng đã thăng hoa

ở mức hoàn hảo nhất và sự hài hòa sâu sắc nhất của tình yêu thương. Người

mẹ là biểu tượng của sức sống biểu hiện ở khắp mọi nơi. Sức sống này chính

là bản nguyên tinh thần thể hiện qua hình hài phụ nữ. Người mẹ còn là biểu

tượng của nữ tính vĩnh hằng. Người mẹ thể hiện những khả năng chứa ẩn

trong một trạng thái sinh tồn nhất định. Biểu tượng người mẹ có giá trị một

mẫu gốc trong văn hóa nói chung.

Người Mông quan niệm người mẹ cũng có một vai trò quan trọng, hỗ

trợ chồng trong mọi công việc sản xuất, có trách nhiệm chính trong mọi công

50

việc nội trợ, quản lý tài sản, nuôi dạy con cái. Người mẹ, người phụ nữ Mông

trong dân ca Mông được khắc họa đầy tình yêu thương, thủy chung, suốt đời

tần tảo hy sinh cho hạnh phúc gia đình. Dân ca Mông xây dựng được biểu

tượng văn hóa về người mẹ với vẻ đẹp của người luôn tỏa sáng để bao bọc và

chở che cho các con, vì cuộc sống bình yên của các con. Trong những cuộc

hôn nhân gả bán vì quyền lợi gia đình, trước sự đau khổ và bất hạnh của

những người con gái gạt nước mắt về nhà chồng chỉ có những người mẹ cất

tiếng xót thương cho con gái mình, sẵn sàng dang rộng vòng tay mình chở che

cho con mỗi khi có bất trắc, đau buồn:

Con mẹ hãy quay về

Khó cũng sống dễ cũng ở

Quạt cám nuôi lợn người

Bố mẹ bảo nơi ấy tốt [47;276]

Biểu tượng về người mẹ trong dân ca Mông là hình ảnh của của chỗ trú

thân, của sự nồng ấm, yêu thương khi người con gái gặp trắc trở trong cuộc

sống. Giống như bao người mẹ Việt Nam khác tần tảo, lặn lội vất vả vì con,

các con chính là sự sống của người mẹ. Biểu tượng người mẹ trong văn hóa

Mông qua lăng kính của dân ca cũng trọn vẹn tình yêu thương đong đầy.

Người mẹ cũng là người đầu tiên cất lời khuyên can người cha vì hạnh phúc

của con mình:

Mẹ nói bố nhận tiền người bao lạng hãy giả lại họ cả

Đem tiền người trả cân người

Con mới hết tiệt đường khóc đời

Bố mẹ bảo nơi ấy tốt [47;276]

Khi người con gái gặp bế tắc trong hôn nhân phải tìm đến cái chết để phản

kháng, người mẹ cũng là người khuyên can đôi lẽ thiệt hơn:

51

Mẹ gầu Mông rằng

Đường làm dâu còn biết đi biết về

Đường chết mới như tảng đá rêu lăn hố sâu

Quỳ gối đòi [47;186]

Sau đó là lời dặn dò hết sức thương yêu:

Con gái của mẹ

Con cố đi chăm nom nhà người

Dài lòng chăn nuôi con lợn

Béo tròn đầy chuồng người

Cho bố mẹ có nơi lui tới chơi

Quỳ gối đòi [47;186]

Nhìn chung, biểu tượng về người mẹ trong dân ca Mông gắn với ý

nghĩa chỉ sự an toàn của chỗ trú thân, của sự nồng ấm, yêu thương và nuôi

dưỡng. Vai trò của người mẹ góp phần lớn đảm bảo cho cuộc sống bình yên

của những người con trong gia đình. Hôn nhân của người Mông truyền thống

chỉ cho phép kết hôn trong nội tộc, chỉ cần khác họ. Những đứa trẻ mồ côi

người Mông không được họ hàng gia đình cưu mang mà phải tự thân tìm lấy

cái ăn bởi người Mông lo lằng việc nuôi con côi sẽ gây những hiểu lầm, oán

giận. Vì thế, thân phận mồ côi trong xã hội Mông vô cùng khổ cực. Vai trò

của người mẹ lúc này càng hiện rõ hơn bao giờ hết:

Ma mồ côi tôi đây

Y như bò con mất mẹ ngựa con cút côi

Đứng nhìn [47;179]

Một đặc điểm văn hóa tộc người có ảnh hưởng đến ý nghĩa của biểu

tượng người mẹ là quan niệm về con cái của người Mông. Nhu cầu về con cái

của người Mông liên quan chặt chẽ với truyền thống văn hóa, đặc điểm tâm lí

xã hội tộc người và chính các quan niệm truyền thống đó đã ràng buộc mỗi

52

con người trong cuộc đời của họ. Trong việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái,

người Mông cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi những quan niệm này. Một trong

những tiêu chuẩn để đánh giá sự toàn mĩ của một người phụ nữ chính là khả

năng sinh đẻ. Trường hợp người vợ không thể sinh con, hay có con nhưng

không có con trai thì người chồng có thể vin vào đó để bỏ vợ hoặc lấy vợ hai,

vợ ba. Điều này xuất phát từ quan niệm trọng nam khinh nữ cho rằng con trai

đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc và nuôi dưỡng bố mẹ khi về già,

làm các công việc nặng nhọc, quyết định các việc hệ trọng trong gia đình.

Quan niệm coi trọng và thần thánh hóa sự sinh đẻ là quan niệm phổ biến trên

toàn thế giới. Nó phản ánh thời kì con người ăn hang ở hốc sống đời sống

hoang dã. Trong hoàn cảnh phải sinh tồn giữa thiên nhiên khắc nghiệt với

công cụ lao động thô sơ, hiển nhiên con người cần có nguồn nhân lực hùng

hậu để cùng nhau khai phá. Quá trình sinh đẻ của người phụ nữ - người mẹ

chính là quá trình tạo ra nguồn nhân lực. Nằm trong môi trường văn hóa châu

Á, sự sinh sôi nảy nở với tín ngưỡng phồn thực cũng hết sức quan trọng và

linh thiêng trong văn hóa Mông vậy nên vai trò của người mẹ trong văn hóa

có vị trí rất cao. Với dân ca Mông, biểu tượng người mẹ hiện lên với vẻ đẹp

của sự nữ tính, của sự nuôi dưỡng, dẫn dắt và hết lòng cho tình yêu thương.

Người mẹ luôn là biểu trưng của điểm tựa tinh thần bình yên và dịu dàng nơi

những thành viên trong gia đình gửi gắm suy nghĩ, tâm tư, tình cảm:

Anh đrâu Mông

Quay liền trở về nhà

Nói thì cùng mẹ già

… Nói thầm cùng mẹ yêu

Dám tay trái con là tay phải

Con sẽ xin em gầu Mông về làm bạn đời trăm tuổi.

Yêu [45;111]

53

Nhưng cũng có nhiều trường hợp, người mẹ sóng đôi với biểu tượng

người cha hợp thành quyền lực áp chế khiến người con trong gia đình buộc

phải tuân theo như một mệnh lệnh. Đó là những khi người cha, người mẹ bị

vật chất, đồng tiền chi phối mà ép gả con gái vào con đường làm dâu:

Bố mẹ gầu Mông

Phải chăng thích người ta con bò trắng chân

Đem gầu mông gả đi làm dâu

Con đường lạ không biết tên. [45;102]

Tuy nhiên, phần lớn điều này đến từ sự ảnh hưởng quyền lực áp chế từ

phía người cha. Người mẹ hầu như cũng bị lệ thuộc vào quyền lực người chủ

gia đình của người cha.

Biểu tượng người mẹ xuất hiện 319 lần ở 58/120 bài dân ca Mông.

Người mẹ là nguồn suối nuôi dưỡng đời sống tinh thần của những người con

trong gia đình. Người mẹ đáp ứng nhu cầu về nhận thức, về tình yêu thương,

về sự bình an cho các con của mình. Biểu tượng người mẹ trong dân ca Mông

mang ý nghĩa chủ yếu là biểu tượng của tình yêu thương, sức sống, của tình

mẫu tử thiêng liêng, cao cả. Người mẹ có vai trò to lớn trong quá trình hình

thành tâm hồn và nhân cách của các con. Những câu dân ca Mông sống từ thế

hệ này đến thế hệ khác trong tâm hồn những người con dân tộc Mông cũng

chính nhờ những câu hát của người mẹ. Đây cũng chính môi trường bảo lưu

tốt nhất các giá trị văn hóa, văn học cổ truyền của dân tộc Mông. Tự nhiên

như hơi thở, người mẹ Mông thổi vào tâm hồn các con mình văn hóa dân tộc

bằng những câu dân ca. Và dân ca cũng khẳng định vai trò của người mẹ với

tư cách là một biểu tượng văn hóa trong dòng chảy truyền thống cộng đồng.

2.2.3. Biểu tượng về đrâu Mông

Đrâu Mông là cách gọi những chàng trai Mông, những thanh niên

người Mông, đây là cách gọi nói chung dành cho nam giới đồng bào dân tộc

54

Mông. Biểu tượng về đrâu Mông được hiểu như biểu tượng về người nam

giới, tương ứng với biểu tượng về các chàng trai trong văn học dân gian người

Việt. Nhìn chung, đây là sự tiếp nối của biểu tượng người cha. Đến một giai

đoạn nhất định sẽ là quá trình chuyển giao uy quyền với vị trí người chủ gia

đình. Các đrâu Mông sẽ tạo lập gia đình và dần in dấu trong văn hóa những

biểu tượng tiếp theo về hình ảnh vĩ đại của người cha.

Biểu tượng về đrâu Mông cũng có nguồn gốc từ chế độ phụ hệ của

người Mông. Người Mông có theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, họ quan niệm

người con gái khi lấy chồng sẽ làm ma nhà chồng, không được phụng dưỡng,

thờ cúng bố mẹ đẻ. Chính vì vậy mà việc bắt buộc phải có con trai của mỗi

cặp vợ chồng là rất cần thiết và bằng mọi giá phải có. Đối với mỗi cặp vợ

chồng Mông, sinh đẻ là một trong những việc hệ trọng, nó không chỉ như là

sợi dây gắn kết giữa họ mà còn thỏa mãn nhu cầu làm cha, làm mẹ. Đặc biệt

đối với người chồng, khi có đứa con đầu lòng họ sẽ được đổi tên đệm. Khi

một đứa trẻ ra đời và nhất là đứa trẻ đó là con trai, thì đó là niềm hạnh phúc

của cả gia đình, dòng họ. Vì việc tăng thêm số người là việc củng cố thêm thế

lực cho gia đình và của cả dòng họ đó trong cộng đồng. Người Mông thường

cắt rốn đứa trẻ bằng một thanh tre cật được tẩy trùng bằng nước sôi. Theo

phong tục của người Mông, nhau của đứa trẻ được chôn ở chân cột cái nếu là

bé trai và ở chân giường của bố mẹ nếu là bé gái. Vị trí chôn nhau này cũng

đã ngầm quyết định vị trí của người con trai Mông và người con gái Mông

trong gia đình. Gian chính, gần bàn thờ nơi có ma nhà là nơi thuộc về người

con trai:

Phân chia trai gái:

Ba gian gian nào cũng xinh

Có gian dành riêng cho con gái chủ nhân

… Ba gian gian nào cũng hay

Có gian dành riêng cho con trai chủ nhà

55

Cửa chính treo vải đỏ

Bàn thờ dành dán giấy

Giữa gian làm đrâu Mông nơi uống rượu

Ngoài hiên làm gầu Mông nơi in váy,

Cửa chính treo vải đỏ

Bàn thờ dành cúng tổ

Gian giữa làm gian đrâu Mông nơi uống nước

Hiên ngoài làm gầu Mông nơi thêu áo.

Nơi in váy [47;222]

Ngay từ khi còn nhỏ các đrâu Mông đã theo người cha đi khắp mọi nơi.

Theo cha lên nương cày cuốc lao động, được người cha dạy đập đá làm

nương, xây nhà, xếp hàng rào vững chãi. Những hình ảnh từ người cha thấm

dần theo năm tháng và trở thành hình ảnh lí tưởng mà các đrâu Mông hướng

tới sau này. Như chúng ta đã biết, với chế độ phụ hệ thì vai trò của người đàn

ông luôn ở vị trí chủ đạo. Họ chính là người chủ gia đình và có quyền quyết

định phần lớn các công việc. Những công việc quan trọng trong gia đình như

thờ cúng tổ tiên, nuôi dưỡng cha mẹ hay quyền được thừa kế tài sản trong gia

đình đều giành cho con trai. Nam giới Mông đến tuổi trưởng thành tiếp tục

học tập các nghi lễ và những kiêng cữ của dòng họ mình. Điều này đã trở

thành quy ước, thành nếp sống của mỗi dòng họ. Các chàng trai Mông sẽ dần

dần tiếp nối vị trí người chủ gia đình của người cha và trở thành một biểu

tượng quyền lực mới. Biểu tượng đrâu Mông do vậy là sự tiếp nối hình ảnh

quyền lực của người cha trong gia đình và trong xã hội:

Anh sinh thành làm bố mẹ chàng trai

Anh đi được chín núi qua chín thung

Cân phải đủ [45;128]

56

Các chàng trai người Mông được “đi học người ở phương trời, đi học

việc ở phương đất” [45;129]. Họ được chủ động hơn trong việc quyết định

cuộc đời mình. Những hình ảnh gắn với quyền lực gia đình, với sự tiếp nối

vai trò của người cha là hình ảnh lặp đi lặ lại nhiều lần trong dân ca Mông khi

nhắc đến biểu tượng đrâu Mông. Bởi như đã trình bày, gia đình người Mông

theo chế độ phụ quyền, đàn ông đóng vai trò chủ đạo. Trong các gia đình

người Mông, đàn ông có quyền quyết định phần lớn các công việc. Tâm lý

người Mông luôn mong muốn có con trai để cúng bái, nối dõi tông đường.

Biểu tượng về đrâu Mông còn đi liền với hình ảnh mang ý nghĩa của sự

chủ động. Chúng ta biết các chàng trai người Mông truyền thống tìm bạn đời

bằng tài thổi khèn, thổi sáo. Những buổi đêm hẹn hò vùng cao với tiếng khèn,

tiếng sáo réo rắt gọi bạn đã trở nên hết sức quen thuộc nơi miền núi. Những

phiên chợ hay lễ hội vùng cao cũng là nơi các chàng trai phô diễn tài nghệ của

mình nhằm tìm kiếm trái tim các cô gái Mông. Cách thức tỏ tình của chàng

thanh niên Mông tràn đầy sự lãng mạn và phóng khoáng của những người con

núi rừng. Đây cũng là những phẩm chất kiến tạo nên tính cách tự do, yêu âm

nhạc của phần lớn người Mông. Những chàng trai người Mông là biểu tượng

quan trọng trong mắt xích văn hóa dân tộc Mông. Vẻ đẹp tâm hồn và tài nghệ

của chàng trai Mông đi vào dân ca biểu hiện cho sự lãng mạn, phóng khoáng

đầy mộng mơ của tộc người dù họ sinh sống trong những điều kiện khắc

nghiệt nhất. Vì thế, vẻ đẹp nam tính của chàng trai Mông luôn gắn với hình

ảnh chiếc khèn:

Anh không có lòng thì thôi

Có lòng anh đi học khèn

Tận đồi cao núi sóng đôi

Yêu đủ [45;120]

57

Biểu tượng về đrâu Mông cũng mang những nét nghĩa tương ứng với

biểu tượng về người cha trong văn hóa Mông. Dân ca Mông thể hiện các khía

cạnh về người con trai Mông mang vẻ đẹp cả thể chất và tâm hồn. Đây sẽ là

những đại diện cho các thế hệ người Mông trong tương lai, những con người

kiêu hùng nhưng cũng hết sức mộng mơ. Đời sống văn hóa tinh thần truyền

thống Mông vận động và phát triển thông qua ba thiết chế xã hội: gia đình;

dòng họ; cộng đồng bản, làng. Các thiết chế này vừa đảm bảo quá trình sản

xuất và tái sản xuất không ngừng giá trị văn hóa tinh thần, vừa bảo tồn tính

truyền thống văn hóa tộc người. Thông qua các thiết chế này văn hóa tộc

người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, được thầm dần vào

mỗi thành viên. Văn hóa dân tộc cũng nhờ vậy mà tồn tại bền vững.

2.2.4. Biểu tượng về gầu Mông

Gầu Mông là cách gọi những cô gái Mông, những “em gái Mông”.

Trong dân ca Mông Hà Giang thì đó là những cô gái chưa chồng và cả những

cô gái đang làm dâu. Gầu Mông cũng là sự tiếp nối của biểu tượng người mẹ

với sức sống và sự nữ tính. Dân ca Mông thể hiện tiêu chuẩn về vẻ đẹp của

một cô gái Mông thông qua các công việc cần đến sự khéo léo của bàn tay

người phụ nữ Mông như dệt vải, phục vụ việc may mặc. Trong gia đình đây

cũng là công việc do người phụ nữ đảm nhiệm. Nối tiếp hình ảnh người mẹ

với ý nghĩa là đại diện cho sự khéo léo, chăm chỉ. Các cô gái trong gia đình

ngay từ nhỏ đã được người mẹ dạy cho cách làm sợi, dệt vải, may, thêu quần,

áo, khăn, chăn,… Đây là một trong những tiêu chuẩn đánh giá một cô gái khi

trưởng thành đến trước lúc đi làm dâu. Sự khéo léo, chăm chỉ biết may vá các

bộ trang phục cho mọi người trong gia đình là điều luôn được răn dạy và

truyền lại trong gia đình cho các thế hệ phụ nữ. Sự chăm chỉ của người con

gái Mông thể hiện bằng việc ra ngoài dù là đi đâu thì cũng không lúc nào

quên mang theo cuộn lanh

58

Gầu Mông đi ngắm hoa trăng hoa trời bay lên,

Cầm liền nắm lanh sợi cuộn lên tay

Chớ đùa [45;125]

Các cô gái Mông còn tự chuẩn bị sính lễ để dành tặng cho chồng, đây

cũng là minh chứng cho sự khéo léo, chăm chỉ và vẻ đẹp, giá trị của cô gái

Mông. Sản phẩm các gầu Mông tạo ra thể hiện sự đảm đang, giỏi giang, biết

lo toan công việc. Chàng trai Mông nào cũng mong muốn tìm được một cô

gái như vậy :

Em may miếng may hoa văn xinh

Cho anh đem trải đất nằm

… Em thêu mảnh thêu hoa văn đẹp

Cho anh đem trải đất ngủ

Yêu đủ [45;126]

Thế nhưng với truyền thống văn hóa xã hội đặt trung tâm vào chế độ

phụ hệ thì người phụ nữ lẽ đương nhiên bị đẩy ra ngoại vi. Xã hội Mông với

cán cân quyền lực nghiêng về người đàn ông thì người phụ nữ phải chịu trăm

ngàn áp bức đè trên vai. Thân phận cay đắng, tủi nhục khiến những đau khổ

của người phụ nữ thêm chồng chất. họ chủ yếu được phán ánh trong dân ca

với nỗi đau khổ và bế tắc. Xã hội Mông là xã hội phụ hệ. Bởi vậy, vai trò của

người đàn ông được đề cao hơn. Người đàn ông là trung tâm của xã hội, của

gia đình và lẽ tất nhiên vị thế cả người phụ nữ thấp kém hơn hẳn. Họ bị đẩy ra

ngoài trung tâm, phải chịu những quy định hết sức khắt khe, nhiều khi là vô lí.

Xã hội nam quyền đặt lên vai họ những gánh nặng khiến người phụ nữ phải

chịu trăm ngàn cay đắng. Đây cũng là nguyên nhân lớn gây nên những khổ

đau mà người phụ nữ Mông phải gánh chịu. Thêm vào đó, người phụ nữ

Mông không có thói quen li dị nên họ cam chịu, chấp nhận dù số phận có bất

hạnh đến đâu. Và phản ứng tiêu cực nhất mà họ lựa chọn để phản kháng với

59

số phận là cái chết. Nhìn từ dân ca Mông, thân phận người phụ nữ cất lên

những tiếng kêu đầy ai oán bởi họ bị đánh đập, bị hành hạ. Không khí bao

trùm quanh họ luôn là sự ảm đạm, khổ não của kiếp làm dâu. Cuộc sống của

các Gầu Mông luôn bị lệ thuộc, hiếm khi được tự quyết định số phận mình:

Em sinh ra làm con gái bố mẹ

Em không đi được chín núi vượt chín đồi

Cân phải đủ [45;137]

Rất nhiều các bài dân ca khác cũng phản ánh tình trạng tương tự:

Gầu Mông lòng dạ hết đường thoát

Đành quay lại nhà bố mẹ ta

Em gái tôi [45;115]

Người đàn ông luôn đóng vai trò trung tâm trong gia đình. Người phụ

nữ hầu như chỉ đóng vai trò ở ngoại vi trung tâm. Gánh nặng đè lên vai họ

khiến họ phải chịu trăm ngàn cay đắng. Nỗi khổ đau của người phụ nữ vì thế

cũng được thể hiện sâu sắc hơn. Nguyên nhân nỗi khổ của người phụ nữ

thường đến từ người chồng không tốt hoặc sự ghẻ lạnh từ gia đình nhà chồng.

Thêm vào đó, người phụ nữ Mông không có thói quen li dị, họ chấp nhận cam

chịu và những lời dân ca như một phương tiện giải tỏa nỗi ai oán của họ. Nhìn

vào dân ca Mông cảnh những người phụ nữ đã đi làm dâu thường đến từ sự

ép buộc của cha mẹ. Họ đi làm dâu trong nước mắt. Không khí xung quanh

họ luôn mang màu sắc ảm đạm của sự hành hạ cả về thể xác và tinh thần.

Quyền lợi trong xă hội người Mông được xếp theo thứ tự: Quyền lợi

đàn ông – quyền lợi dòng họ - quyền lợi người phụ nữ. Người phụ nữ đứng

thấp nhất trong việc phân chia quyền lợi xã hội. Khi đi lấy chồng, mọi tài sản

của người phụ nữ đều trở thành của nhà chồng, thậm chí bản thân người phụ

nữ lúc này cũng không được làm chủ chính mình. Đã bước qua cánh cửa, đã

bị nhận mặt thì chết cũng phải làm ma nhà chồng. Thêm nữa ở người Mông,

60

phổ biến cấu trúc gia đình một vợ một chồng, rất ít khi thấy các cặp vợ chồng

Mông li dị. Chúng ta dễ dàng bắt gặp ở mảnh đất vùng cao hình ảnh người

phụ nữ Mông kiên nhẫn ngồi bên người chồng say rượu nằm ngả mình bên vệ

đường. Người vợ ấy sẽ ngồi chờ cho đến khi người chồng tỉnh rồi hai vợ

chồng mới trở về. Nếu chồng chết, người Mông có tục nối dây, người phụ nữ

Mông có thể lấy em chồng và vẫn là người nhà chồng.

Xuất phát từ việc trọng nam khinh nữ mà nhiều bậc cha mẹ đã gả bán

con gái mình để lấy của hồi môn. Những người con gái được gả bán vào hôn

nhân như vậy thường không có hạnh phúc. Nhiều gia đình nhà chồng hỏi vợ

cho con chỉ là để kiếm thêm một nhân lực lao động cho gia đình. Nỗi đau khổ

của người con gái Mông còn đến từ gia đình nhà chồng. Những câu dân ca

chân chất, mộc mac đã diễn tả nỗi đắng cay, tủi nhục đầy ấm ức của các co

gái Mông khi về làm dâu trong cái nhìn xét nét đầy cay nghiệt của gia đình

nhà chồng. Tục ngữ Mông có câu Mẹ già mẹ không làm được mẹ phải mua

dâu. Điều này tồn tại khá phổ biến trong văn hóa Mông khi người con dâu

được mua về được hợp thức hóa qua một cuộc hôn nhân để làm thay mẹ

chồng những công việc gia đình, làm thân trâu ngựa cung phụng cho nhà

chồng, gánh tất cả những công việc nặng nhọc ở nhà chồng. Phận làm dâu của

các cô gái Mông dường như trở thành phận làm thuê, là mướn.

Đám cưới người Mông có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế. Nếu như

ở người Thái muốn gả con gái đi phải kèm theo số lễ vật lớn thì ngược lại, với

người Mông, các chàng trai muốn cưới được vợ phải bỏ ra một số sính lễ

không nhỏ. Tục thách cưới cao khá phổ biến ở các đám cưới dân tộc Mông.

Việc cha mẹ gả bán con gái có ý nghĩa quan trọng về kinh tế với gia đình nhà

gái. Lễ vật thách cưới là nguồn tài sản hậu hĩnh mà gia đình cô gái nhận được.

Vì vậy không hiếm thấy các cô dâu trẻ người Mông kết hôn khi tuổi vẫn còn

khá nhỏ. Trong dân ca không hiếm thấy những cảnh ngộ đầy éo le khi cha mẹ

gả con gái đi quá sớm:

61

Gầu Mông lại nhà

Vớ dây thừng quàng lên cành đa

Định thế cho vĩnh viễn biệt tăm

Quỳ gối đòi [45;136]

Thân phận đau khổ, buồn thương, oan ức của người con gái Mông khi bị nhà

chồng đày đọa còn gắn với hình ảnh lá ngón, hình ảnh gắn liền với sự phản

kháng cho số phận của biểu tượng về gầu Mông:

Gầu Mông vẫn sợ ăn lá ngón

Nhưng làm sao hết được đau lòng

… Nuốt thì lá độc thật đắng kinh

Lá ngón tan gầu Mông hết thở

Em gái tôi [45;96]

Tuy biểu tượng về người phụ nữ trong dân ca Mông không phải lúc nào

cũng là sự cay đắng, tủi nhục. Đó còn là sự khát khao đầy sức sống của những

thiếu nữ Mông vùng cao. Những buổi hò hẹn dưới đêm trăng. Nhưng trong

dân ca hầu hết là những mảnh đời bất hạnh, cay đắng với hình ảnh buồn khổ,

đau thương được khắc họa rõ hơn khi nhắc đến biểu tượng về gầu Mông.

Biểu tượng gầu Mông đại diện cho vẻ đẹp của những thiếu nữ người

Mông nhưng đồng thời cũng gợi nên thân phận buồn khổ của họ. Mối quan hệ

giữa người mẹ và các cô gái Mông là sự chuyển tiếp vị trí bà chủ gia đình.

Biểu tượng gầu Mông là hình ảnh người phụ nữ Mông với cuộc sống của họ.

Qua đó thể hiện sự trân trọng những ước mơ của người phụ nữ về một cuộc

đời hạnh phúc và khẳng định vị trí của người phụ nữ trong đời sống văn hóa.

 Tiểu kết chương 2

Qua những biểu tượng về thiên nhiên và về con người trong dân ca Mông,

chúng ta thấy bức tranh văn hóa tinh thần của đồng bào nơi đây hiện ra rõ nét

hơn. Hệ thống biểu tượng ăn hóa đã thể hiện những quan niệm của dân tộc

Mông về con người và hiện thực đời sống. Biểu tượng thiên nhiên vừa là sự lí

62

giải của người Mông về vũ trụ, vừa mang đậm yếu tố tâm linh, gắn kết tinh thần

người Mông bao thế hệ. Biểu tượng con người là sợi dây kết nối các thành viên

trong gia đình và rộng hơn là cả dòng họ và cộng đồng người Mông. Những biểu

tượng văn hóa ấy góp phần làm nên nội dung đặc sắc cho dân ca Mông, làm giàu

thêm những giá trị văn hóa cho dân tộc Mông.

Hệ thống biểu tượng thiên nhiên và con người trong dân ca Mông mang

những dấu ấn tiêu biểu của văn hóa Mông. Nhờ vào hệ thống biểu tượng ấy,

chúng ta có những hình dung cơ bản về con người, về cuộc sống của đồng bào

Mông ở Hà Giang nói riêng và cộng đồng dân tộc Mông tại Việt Nam nói chung.

Các giá trị văn hóa Mông kết tinh qua hệ thống biểu tượng trong dân ca trở thành

kho tàng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa cổ truyền dân tộc Mông.

63

Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA

TRONG DÂN CA MÔNG HÀ GIANG

3.1. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ xây dựng biểu tượng được khảo sát trong luận văn là ngôn ngữ

tiếng Việt được chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Mông do nhà thơ, nhà nghiên

cứu văn hóa dân người Mông Hùng Đình Quý dịch. Bản thân là người dân tộc

Mông, có những am hiểu sâu sắc về văn hóa dân tộc mình, bản dịch của tác giả

Hùng Đình Quý đươc nhận định là sát với nguyên tác. Những hình ảnh so sánh

đậm đà hương vị dân tộc cũng được ông lựa chọn từ ngữ tiếng Việt tương ứng

mà không làm mất đi màu sắc riêng của ngôn ngữ dân tộc mình.

Qua bản dịch của Hùng Đình Quý, chúng tôi khám phá nghệ thuật xây

dựng biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông qua ba phương diện của ngôn ngữ:

ngôn ngữ giàu hình ảnh, ngôn ngữ giàu nhịp điệu, ngôn ngữ giàu cảm xúc.

3.1.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh

Đặc điểm nổi bật của dân ca Mông là các hình ảnh, chất liệu để xây dựng

biểu tượng luôn gắn với thiên nhiên, với hoàn cảnh sống và điều kiện sinh hoạt

gần gũi của chính đồng bào. Dân ca Mông sử dụng nghệ thuật so sánh biểu

tượng với cách so sánh, ví von dùng cái cụ thể, gần gũi nhất để nói về cái trừu

tượng xa xôi khiến người đọc, người nghe dễ dàng hình dung, cảm nhận được

cảm xúc tỏa ra từ chiều sâu của tứ thơ, hồn thơ

Trong dân ca Mông, các biểu tượng gắn bó mật thiết với môi trường và tâm

lý đồng bào. Các biểu tượng nói về số phận hẩm hiu, cảnh đời tủi cực của gầu

Mông trong cảnh làm dâu thường gắn với hình ảnh con đường, hình ảnh lá ngón:

đường làm dâu con đường lạ không biết chốn [45;102], Gầu Mông làm dâu

đường xa tít mù [45;106], đường làm dâu đường tối đen, con đường gầu Mông

làm dâu như đường hoang, như đường khóc, con đường ống đũa, ống tre,...,

[46;128]. Lá ngón tan gầu Mông hết thở [45;96], Đi nằm cùng khóm ngón xanh

64

[45;115]. Hình ảnh cuộc đời của gầu Mông đi làm dâu là đời buồn tênh, đời

buồn tẻ [46;129], buồn đến chết lả... [46;156]. Nỗi đau khi bị gả bán, ép duyên:

Nhà Mông lạ đem gầu Lía mổ ăn

... moi gan lấy lòng

... Đem nấu canh húp

Đãi cả nhà Mông kia một đám khách

Ai cũng khen vừa ý vừa lòng [47;149]

Biểu tượng về người cha, người mẹ cũng được khắc họa bằng những hình

ảnh chân thực, gần gũi với chính cuộc sống người dân Mông. Nỗi bất hạnh khi

người cha, người mẹ mất cũng được diễn tả lên bằng hình ảnh cụ thể:

Bố mẹ giang tay luôn trên đá

... Sợ sẽ như xa quay xa đòi con thoi

… Sợ sẽ như xa quay xa đòi quàng ách. [47;210]

Cha mẹ mất đi để cho cái cuốc, cái cày bị mọc rêu…Để cho cái cuốc, cái

cày bị mọc rễ…. [47;219]. Cái chết của người phụ nữ Mông trong dân ca Mông

cũng được thể hiện bằng những hình ảnh biểu tượng như:

Quay lưng em chống đất

Quay ngực em chống trời

...chân bám thung tay bám núi

...chân bám núi tay bám thung [47;230]

Có hiểu được tính chất của sự vật, sự việc, hiện tượng thì mới hiểu sâu sắc

ý nghĩa những lời so sánh ví von ấy. Sử dụng so sánh tu từ dày đặc, ẩn dụ tu từ

kín đáo và tinh tế, chất liệu để xây dựng hình tượng nghệ thuật gắn với thiên

nhiên, với đời sống sinh hoạt thể hiện rõ cách cảm cách nghĩ của đồng bào

Mông.

Phải khẳng định rằng những hình ảnh tạo nên biểu tượng trong ngôn ngữ

dân ca Mông là ngôn từ mộc mạc, giản dị nhưng đã được kết tinh, gọt rũa

hàng ngàn đời. Ngôn ngữ có sự kết hợp hài hòa lời ăn tiếng nói của nhân dân,

65

rất gần gũi với nhân dân, mang đậm bản chất lối ăn nói hàng ngày của một

dân tộc, đặc biệt là rất giàu hình ảnh, nhạc điệu theo ngôn ngữ riêng của dân

tộc Mông. Trong dân ca các hình ảnh so sánh được sử dụng khá phổ biến để

xây dựng biểu tượng. Sự so sánh được nhấn mạnh để cụ thể hóa trạng thái của

thiên nhiên, của tình cảm con người. Cách so sánh của người Mông cũng thật

bình dị mà độc đáo. Tác giả dân gian đặt những câu chữ, những chi tiết,

những hình tượng đẹp, chân thực để đi cùng biểu tượng. Cái đẹp thơ mộng

mang dáng dấp tâm hồn, tính cách của con người miền núi dịu dàng, hiền hậu,

đáng yêu.

Biểu tượng trong dân ca Mông được xây dựng bằng ngôn từ với những

quy ước cộng đồng. Thế giới biểu tượng này vừa mang những đặc điểm của

biểu tượng nói chung, vừa mang những nét riêng đặc thù của nó do nghệ thuật

ngôn từ, nghệ thuật dân ca và văn hóa truyền thống cộng đồng dân tộc Mông

quy định. Biểu tượng trong dân ca là những hình ảnh được một cộng đồng chấp

nhận và sử dụng rộng rãi, phổ biến, mang đậm tính truyền thống. Để tạo nên

biểu tượng, nghĩa đen, nghĩa biểu vật của các từ ngữ sẽ là cơ sở để từ đó người

tiếp nhận khai thác nghĩa bóng, nghĩa biểu cảm. Được xây dựng trên cơ sở tính

hàm nghĩa, hàm xúc của ngôn ngữ văn chương. Hệ thống biểu tượng văn hóa

trong dân ca Mông đã góp phần làm cho ngôn ngữ của loại hình dân ca này

mang tính đa nghĩa và giàu màu sắc khơi gợi. Rõ ràng ở đây trời, núi, nước,

đất, người cha, người mẹ, đrâu Mông, gầu Mông không còn được hiểu như

chính nó trong thực tại, mà đã trở thành hình thức biểu đạt chứa đựng nội

dung...., một nội dung mà ta chỉ có thể nắm bắt được khi hiểu sâu sắc về phong

tục, tập quán, văn hóa Mông thì mới có thể cảm thụ những biểu tượng trên.

3.1.2. Ngôn ngữ giàu nhịp điệu

Tồn tại trong cuộc sống dưới hình thức sinh hoạt diễn xướng, thơ ca dân

gian Mông mang đậm lối đối đáp, dù bài thơ còn giữ nguyên kết cấu hai vế hay

chỉ còn lưu lại hình thức một vế thì dấu ấn của lối đối đáp vẫn in khá rõ trong

66

cách thể hiện. Thủ pháp trùng điệp cũng góp phần giúp ngôn ngữ tạo nên biểu

tượng với sự tràn đầy của cảm xúc, tăng sức thuyết phục của lí lẽ và tính nhất

quán của biểu tượng. Sự có mặt của các từ, cụm từ ngữ được lặp đi lặp lại nhiều

lần và mỗi lầm lặp lại đều có sự biến đổi đôi chút theo quy luật phù hợp với âm,

vần khiến việc lặp lại không bị nhàm chán, đơn điệu, vừa sinh động, vừa khắc

họa rõ ý đồ nghệ thuật, vừa tạo nên sắc thái biểu đạt riêng cho các biểu tượng. Thủ

pháp kết cấu trùng điệp được sử dụng hầu hết trong tất cả các bài dân ca Mông để

khắc họa rõ nét tính chất của biểu tượng, ý nghĩa của biểu tượng văn hóa như tăng

lên gấp bội với sự lặp lại cấu trúc ngôn ngữ này. Biểu tượng về người cha với uy

quyền dường như tăng nhiều thêm sau mỗi lần lời ca dao lặp lại:

Bố gầu lía lòng không yêu

Bắt gả gầu lía cho nhà Mông lạ

Đem mổ làm đám rượu

Bố gầu lía lòng không thương

Bắt gả gầu lía cho nhà Mông kia

Đem thịt làm đám cưới. [47;149]

Về cơ bản, nhịp điệu ngôn từ trong dân ca Mông đến từ việc các khổ thơ

đã bao hàm cả thủ pháp điệp từ, điệp câu. Việc lặp lại không hề gây nhàm

chán, đơn điệu bởi một số từ ngữ đã được thay đổi, thêm bớt, đảo trật tự, để

tạo ra nhịp điệu khi diễn xướng. Cũng chính nhờ kết cấu trùng điệp mà bài ca

dân gian Mông tuy dài nhưng không tạo cảm giác nhàm chán, trái lại vẫn hấp

dẫn, thú vị. Thủ pháp trùng điệp góp phần tạo nên nhịp điệu, tiết tấu cho khúc

hát, tạo lập mối liên kết giữa các câu thơ liền mạch cảm xúc nhất định phù

hợp với hoàn cảnh diễn xướng cụ thể. Thêm vào đó, tính chất đa thanh cùng

với sự phối hợp các âm vực cao thấp trong ngôn ngữ thơ tạo cho dân ca Mông

nhịp điệu cân đối, hài hòa về cả số lượng câu chữ và thanh điệu. Các biểu

tượng nhờ nhịp điệu ngôn ngữ mà cứ thế ra đời.

67

Các câu dân ca được lặp đi lặp lại như một biện pháp nghệ thuật nhằm tạo

nhạc, giữ nhịp, phép song hành trong lời hát dân gian tộc người. Sự tái lặp lại

chuỗi ngôn từ chứa đựng những vết tích tâm lý đặc biệt, kiểu ám ảnh ngôn

ngữ quyết định số phận nghĩa văn bản. Các câu hát lặp lại phần lời trong dân

ca Mông vì thế biểu trưng cho vô thức tập thể tộc người. Có thể nói những

câu hát được lặp lại như quan niệm về cuộc đời cũng như cuộc hát, bất tận

tưởng như không hết.

Tính chất này luôn gắn bó mật thiết với nhau tạo thành quy luật sóng

đôi của các biểu tượng trong dân ca. Cấu trúc đối xứng song song trong các

dòng thơ, khổ thơ xuất hiện với mật độ rất cao trong dân ca Mông. Có thể chỉ

ra bất kì cặp thơ nào, bất cứ khổ thơ nào trong dân ca Mông cũng có thể thấy

sự đối xứng trong cấu trúc song song đó. Đây có thể coi là tính chất đối đáp,

trò chuyện trong dân ca. Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông cũng ra đời

nhờ thủ pháp đối ngẫu này. Các ý biểu nghĩa biểu trưng của biểu tượng được

so sánh với những nét tương đồng trong bức tranh miêu tả tự nhiên và tình

cảm con người. Biểu tượng vì vậy gắn chặt với ngôn ngữ tạo nên sự nhất

quán trong ý nghĩa của biểu tượng:

Gầu Mông rằng đrâu Mông

Giá em lấy được anh

Hồn vía anh để em làm ô bênh,

Có một cành đâm chồi lê

Gầu Mông rằng đrâu Mông

Giá em lấy được anh

Bóng hình anh để em làm ô che.

Đrâu Mông rằng gầu Mông

Anh trở lại đến nhàn

68

Anh sắm tiền cho đầy gang tay

Anh sẽ cưới em về làm người vợ hay

Anh sắm tiền cho đầy ngăn tủ

Anh sẽ cưới em về làm người vợ tốt [46;160]

Sức biểu đạt của biểu tượng gầu Mông và đrâu Mông dường như cảm

xúc hơn, tăng sức thuyết phục hơn, giàu ý nghĩa hơn nhờ phần đối ngẫu này.

Ngôn ngữ trong kết cấu đối ngẫu tạo nên sự rung cảm bởi vẻ đẹp của biểu

tượng các chàng trai, cô gái Mông.

Tồn tại dưới dạng các làn điệu dân ca và những câu nói có vần nhịp, thơ

ca dân gian Mông trở thành phương tiện sinh hoạt, kinh nghiệm sống, lưu giữ

nếp sống cộng đồng, gắn liền với nhịp sống của đồng bào. Thơ ca dân gian

Mông được dùng trong mọi sinh hoạt sống thác của người Mông. Đặc điểm nổi

bật trong thơ ca dân gian Mông là mỗi bài gồm nhiều khổ thơ, mỗi khổ thơ gồm

2 vế, vế sau lặp lại hoàn toàn vế trước chỉ khác ở từ để gieo vần. Biểu tượng

trong dân ca Mông vì thế cũng dễ nhớ, dễ thuộc, dễ đi vào lòng người hơn.

3.1.3. Ngôn ngữ giàu cảm xúc

Tác giả dân gian đã lựa chọn ngôn ngữ phù hợp để thể hiện được tình

cảm có phần mộc mạc, giản dị, thẳng thắn, bộc trực của dân tộc Mông. Ngôn

ngữ ở đây không màu mè, không tìm có sự sự cường điệu, phóng đại. Chính

vì vậy, con người và thiên nhiên miền núi hiện ra rất thực, cách sử dụng từ

chính xác, sống động làm cho sự vật, hiện tượng xây dựng biểu tượng hiện ra

một cách rõ ràng, hấp dẫn.

Với hệ thống biểu tượng thiên nhiên trong dân ca Mông, tác giả dân

gian coi thiên nhiên như một sinh thể sống, chia sẻ vui buồn và tác động đến

con người. Trong đó, ngôn ngữ dùng để miêu tả thiên nhiên thường được chú

trọng nhiều hơn cả. Đó là thứ ngôn ngữ đẹp, trong sáng, thuần khiết. Cách

cảm thụ thiên nhiên khác nhau cùng ngôn ngữ đầy chất thơ trong cách miêu

69

tả, các tác giả đã đem đến cho người đọc một hệ thống biểu tượng chân thực

về bức tranh miền núi trữ tình hùng vĩ. Thiên nhiên không chỉ là một sinh thể

gắn liền với đời sống vật chất, tinh thần của con người vùng cao mà còn là

một hiện thực đặc biệt, một biểu tượng văn hóa đặc sắc của con người. Nó

đem đến một vẻ đẹp rất riêng và độc đáo cho mảng văn học này. Biểu tượng

nước góp phần thể hiện ý nghĩa cố kết tình cảm gia đình bằng cảm xúc khi vai

trò của cha mẹ không còn:

Còn bố còn mẹ ở

Là bếp nước ấm cúng

Sao mà bố mẹ chết xong

Là giường chiếu lại bị rối tung. [47;236]

Hệ thống biểu tượng thể hiện một mối quan hệ máu thịt giữa con

người và thiên nhiên. Trong nhiều trường hợp, thiên nhiên đã trở thành

người bạn thủy chung, gắn bó nghĩa tình với con người. Đối với người dân

tộc thiểu số, thiên nhiên mang thật nhiều ý nghĩa khi vừa là môi trường

sống, vừa là không gian sinh tồn, vừa chở che, bầu bạn, thấu hiểu, cảm

thông và bồi đắp tình cảm, thanh lọc tâm hồn con người. Do đó, thiên

nhiên còn được coi là đối tượng “đặc biệt”, một “sinh thể sống” được chính

con người bảo vệ và gìn giữ.

Với hệ thống biểu tượng về con người, trong dân ca Mông mọi cung bậc và

trạng thái tâm hồn con người dù là những chuyện kể gia đình đầm ấm cho đến

những nghịch cảnh éo le gây nên bao đau thương uất hận... đều được diễn tả một

cách sống động. Tâm lý, thị hiếu và điều kiện sống không phải bao giờ cũng

đồng nhất giữa các dân tộc cho nên bên cạnh những nét chung, thơ ca dân gian

Mông vẫn nổi rõ sắc thái biểu hiện riêng trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh

không trộn lẫn với các dân tộc khác. Dân ca đưa vào thơ cảm xúc sinh hoạt đời

thường. Coi trọng hạnh phúc gia đình, đề cao tình yêu chân chính của các chàng

70

trai, cô gái Mông, hay những ước mơ lại thật giản của người cha, người mẹ.

Trong dân ca Mông, ngôn ngữ đã nói hết được cái chân thành thắm thiết của

tâm trạng con người đang yêu, cái đau khổ của kiếp làm dâu, cái uy quyền đến

độc tôn của ngừi cha, sự dịu dàng, bao dung của người mẹ. Từ đó các biểu tượng

về con người được khắc họa đậm nét qua từng lời thơ. Biểu tượng người mẹ với

sự yêu thương, che chở, chỗ trú thân an toàn của những người con thể hiện rõ ý

nghĩa trong tâm trạng buồn khổ của người con gái bị đày đọa khi làm dâu:

Hỡi trời mẹ ơi!

Tiền người còn không?

Chắc phải đem tiền người trả người

Con mới hết đường than với đời,

Lợn họ còn không?

Chắc phải đem lợn họ trả họ

Con mới hết đường khóc với nợ. [47;189]

Muốn hiểu thơ ca của mỗi dân tộc, trước hết hãy hiểu chính con người và

đời sống sinh hoạt của họ. Có như vậy, mới thấy sự sâu sắc về tình yêu, sự chân

thật trong khát vọng sống của đồng bào. Ngôn ngữ giàu cảm xúc trong dân ca

Mông thể hiện ở một số giọng điệu chính như sau: giọng điệu kể, giọng tâm sự

giãi bày, giọng than vãn, oán hận hoặc có sự đan xen nhiều giọng điệu trong một

bài ca. Thơ ca dân gian Mông không mượt mà mà có tính chất gãy khúc, nhấp

nhô do đặc thù ngôn ngữ và thể thơ. Lời thơ mang nhiều chất văn xuôi, đồng

điệu với mạch tư duy của người Mông, không gò ép trong phạm vi câu thơ,

không giới hạn số lượng chữ trong câu. Cái thường ngày của đời sống đi vào câu

ca rất tự nhiên; cái thô mộc, mạnh mẽ với những biến đổi bất thường có sức

chinh phục người nghe trước những bài ca của đồng bào.

71

3.2. Quan niệm nghệ thuật của tác giả dân gian Mông

3.2.1. Quan niệm về thiên nhiên

Người Mông có nhiều tập tục văn hoá với những nét đẹp phong tục dân

tộc. Đồng bào quan niệm sống đa thần, chung đạo lý cộng đồng. Sống hoà

hợp thiên nhiên môi trường con người xã hội. Chính điều kiện cư trú mà

người Mông lựa chọn trong suốt nhiều thế kỉ đã tác động sâu sắc đến văn hóa

của họ. Các biểu tượng trời, núi, đá, nước vì thế cũng được sinh ra trong dân

ca Mông từ những dấu ấn của thiên nhiên vùng cao mang lại. Thiên nhiên đã

in hằn trong tâm trí và khảm sâu trong tâm hồn những người Mông nơi đây

những dấu ấn rõ rệt. Người Mông đưa thiên nhiên về bảo vệ cuộc sống của

mình, thích ứng với thiên nhiên để tồn tại. Đó là một quy luật sinh tồn bền

vững nhất. Từ đời sống vật chất, thiên nhiên đã thấm vào đời sống tinh thần

của đồng bào và cất lên thành những lời ca:

Trời đất thủa rất xa vời

Có những chín mặt trời,

Đất trời thủa xa xăm

Có những chín mặt trăng.

Ngọn nguồn [46;105]

Biểu tượng trong dân ca Mông thường được chọn tái hiện bằng những

hình ảnh thực tế pha lẫ chút lãng mạn và huyền ảo. Các biểu tượng mang vẻ

đẹp kì bí nhưng đượm buồn như những đỉnh núi cô đơn, xa xăm, trập trùng, suốt

đời mù sương khói, đẹp như những dải nắng nơi miền đất vùng cao lụa là, những

mỏm đá tai mèo vươn mình lên bầu trời. Những ví von, so sánh mang tính tượng

trưng làm cho thơ ca Mông xuất hiện những biểu tượng đầy dấu ấn.

Không gian cư trú của người Mông được nối liền bởi đỉnh những ngọn

núi đá dựng đứng như gần chạm đến bầu trời. Cảm quan vũ trụ hỗn mang,

hoang sơ buổi ban đầu của loài người chi phối cách xây dựng hệ thống biểu

72

tượng thiên nhiên trong dân ca: Lúc này trời đất vũ trụ u mờ lặng ngắt… xưa

kia biển dâng ngập trời, nước sông dâng ngập đất [12;184]. Ẩn bên trong sự

hoang vu, hỗn mang đó là cuộc sống, sự sống và trật tự trên trần gian được

dần dần thiết lập. Các biểu tượng thiên nhiên trong dân ca Mông là những

mẫu gốc văn hóa Mông tiêu biểu cho tâm hồn, cốt cách, quan niệm thẩm mĩ

của tộc người gắn bó với vùng rừng núi phía Bắc. Đặt trong một hệ thống,

các biểu tượng thiên nhiên vừa là sự lí giải buổi ban đầu lịch sử của người

Mông, vừa mang ý nghĩa thể hiện đời sống tâm hồn, tâm linh của những con

người miền núi. Sự hướng về cội nguồn và truyền thống văn hóa dân tộc

cũng là đây. Mỗi biểu tượng thiên nhiên ra đời đều gắn bó sâu sắc với không

gian quê hương:

Cái nhà cửa chính xây bằng đá xanh

Cho người già sống ấm êm

Cho con em lập gia đình,

Cái cửa nhà chính xây bằng đá phiến

Cho người già sống ấm êm

Cho con trẻ xây gia quyến

Bõ thời son trẻ [47;219]

Đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc sống với thiên nhiên, núi

rừng. Trong quá trình đó, biểu tượng được hình thành. Mang hình hài của

những sự vật tự nhiên nhưng các biểu tượng này đã được thổi vào đó những

linh hồn, ban cho những sứ mệnh, chuyển tải những thông điệp mang dấu ấn

văn hóa tộc người. Tìm hiểu những biểu tượng mang vỏ bọc thiên nhiên này

sẽ giúp ta tìm ra chìa khóa bước vào thế giới tâm hồn, tâm linh, đời sống văn

hóa muôn màu, muôn vẻ của đồng bào các dân tộc.

Có thể khẳng định, biểu tượng thiên nhiên trong dân ca Mông Hà

Giang mang vẻ đẹp tinh thần, chiều sâu văn hóa của cộng đồng dân tộc, được

73

dồn tụ theo thời gian, đắp bồi cùng năm tháng. Hệ thống biểu tượng thiên

nhiên trong dân ca Mông thể hiện quan niệm về thế giới một cách hồn nhiên về

vũ trụ mang đậm chất thần thoại, đậm tính sử thi. Thiên nhiên lúc đa sắc màu,

lúc là không gian sinh hoạt hàng ngày, nhưng có lúc lại là không gian siêu nhiên

huyền bí biểu hiện quan niệm tâm linh của con người:

Bố mẹ làm ma em ba ngày

Sẽ đem em đi chôn cùng núi đồi

Chớ đùa [46;119]

Diện mạo hệ thống biểu tượng thiên nhiên trong dân ca Mông Hà

Giang mang đậm dấu ấn môi trường cư trú của người Mông. Từ những vật vô

tri, vô giác trong tự nhiên, các biểu tượng thiên nhiên khảm sâu vào trong kí

ức cộng đồng thông qua sự quan sát, liên tưởng, thông qua phong tục, tín

ngưỡng cũng như tâm lí chung của cộng đồng. Đó không còn là những biểu

tượng tự nhiên nữa mà trở thành những biểu tượng văn hóa. Cuộc sống người

Mông luôn phải nương tựa vào thiên nhiên, con người bị thiên nhiên chi phối.

Trước vũ trụ và muôn vàn hiện tượng tự nhiên, cũng như nhiều dân tộc khác,

văn hóa Mông thể hiện sự chi phối mạnh mẽ của quan niệm vạn vật hữu linh,

của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các vị thần. Từ vai trò quan trọng

trong đời sống vật chất, đi vào đời sống tinh thần người Mông, các biểu tượng

xuất hiện và thể hiện sự gắn bó với nhiều lĩnh vực trong đời sống văn hóa

người Mông từ phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, lịch sử, xã hội... Các

biểu tượng trời, núi, nước, đá là những biểu tượng gắn liền với môi trường

sống thực tại, tồn tại xung quanh cộng đồng dân tộc Mông. Vì vậy, các biểu

tượng này đi từ cuộc sống vào dân ca Mông tự nhiên như chính cuộc sống gắn

bó bao đời nay của người Mông với thiên nhiên hoang sơ, khắc nghiệt mà tộc

người lựa chọn.

74

Trong dân ca Mông mọi biểu hiện tình cảm của con người đều liên quan

mật thiết với thiên nhiên. Thiên nhiên trở thành bối cảnh, duyên cớ dẫn dắt cảm

xúc để cho tâm trạng con người bộc lộ. Tình cảm con người luôn được so sánh,

ví von với các hình tượng tự nhiên. Biểu tượng thiên nhiên trong dân ca Mông

không chỉ có hình ảnh kì vĩ, rộng lớn mà còn là những bức tranh đẹp, sinh động

và gần gũi. Nói đúng hơn, tất cả những gì thân thuộc gắn bó với cuộc sống của

người Mông đều in bóng trong dân ca, đi vào dân ca và trở thành nét văn hóa mà

khi đọc dân ca Mông ta sẽ nhận ngay ra văn hóa Mông ở trong đó.

3.2.2. Quan niệm về con người

Thơ ca dân gian Mông phản ánh sâu sắc các mối quan hệ gia đình và cộng

đồng. Dù ở bất cứ nơi đâu, quốc gia nào, dù mới lần đầu gặp nhau nhưng khi đã

nhận ra người cùng dân tộc, đặc biệt cùng dòng họ thì người Mông coi như anh

em ruột thịt, sống chết cùng nhau. Trong thơ ca dân gian Mông, tình cảm gia

đình được nói bằng hình ảnh rất cụ thể. Dưới mái nhà Mông, mối quan hệ anh

em cũng chiếm một vị trí quan trọng. Anh em trưởng thành, dù sống gần hay xa

nhau, khác nhau về quan điểm, lẽ sống, thậm chí có thể đối lập nhau về ý thức

chính trị, khác xa nhau về vị trí trong xã hội... nhưng chẳng ai có thể quên cái

gốc “cùng ma” của gia đình và dòng họ.

Đồng bào Mông rất coi trọng và đề cao mối quan hệ gia đình và có quan

niệm rất rõ ràng: Một tay cầm không chắc, một chân đứng không vững, ở một

mình không thể gọi là một gia đình. Trong gia đình người Mông, nam giới là

nhân tố được quan tâm hàng đầu trong xã hội, là cốt lõi của gia đình, là “hình

bóng” của cha mẹ, là niềm tin của thế hệ đi trước. Thân phận của người phụ nữ

được thể hiện rõ qua mối quan hệ “nam tôn nữ ti” giữa các thành viên của gia

đình: Nuôi con lợn béo còn được ăn mỡ/ Nuôi con gái lớn không được cái gì.

Với những người phụ nữ Mông phục tùng chồng và chăm sóc chồng được coi là

nghĩa vụ tất yếu. Mối quan hệ một vợ một chồng tồn tại vững chắc và là hạt

nhân của quan hệ gia đình người Mông.

75

Quan niệm làm người của đồng bào Mông, đã là con người ngoài những

đức tính tốt đẹp như lạc quan, yêu lao động… còn phải biết sống có tình, có

nghĩa, gắn bó với bản làng, với cộng đồng. Thành tố quan trọng được đề cao

trong xã hội truyền thống của đồng bào Mông là sự thương yêu và lòng chung

thủy. Nguyên tắc tạo sinh vũ trụ của các tộc người trên thế giới luôn tồn tại

quan niệm tình yêu sinh nở thế giới. Vũ trụ, vạn vật được hình thành qua con

đường kết hợp và sinh thành. Con người cũng xuất hiện khởi nguyên từ các cặp

nam – nữ mà thành. Với người Mông đó là hình ảnh ông Chày và bà Chày:

Nước suối tràn mặt đất

Tiên nữ hộ trần gian sinh muôn loài về

Nước suối trôi thung sâu

Tiên nữ giúp trần gian đẻ muôn loài cho

Thành gia đình [47 ;155]

Gia đình và dòng họ với các thế hệ nối tiếp nhau là nền tảng cho tộc

người lớn mạnh và phát triển. Trong quá trình dịch chuyển tìm vùng đất mới

để tồn tại và khai phá vùng đất mới để canh tác thì mỗi gia đình tự đóng vai

trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của chính mình. Mỗi gia đình

người Mông xây dựng cho mình những pháo đài kiên cố thể hiện sự độc lập,

chủ động, tự chủ của mình trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Người Mông

không mang trên mình gánh nặng tâm linh. Với họ chỉ có gia đình và dòng họ

- siêu gia đình mới thực có vai trò lớn lao trên những chặng đường di chuyển.

Sự gắn kết giữa con người với con người, con người với cộng đồng, với

dân tộc thể hiện qua ngôi nhà. Nhà chính là sự gắn kết đầu tiên của người

Mông. Nhà là nơi gặp gỡ sau những ngày làm viêc vất vả, vui đùa bên người

thân. Về với nhà là về với sự xum vầy, ấm cúng. Nét đặc biệt trong gia đình

người Mông đó chính là bếp lửa bởi cái bếp giữ nhà của người Mông là cả

một câu chuyện về sinh tồn và gắn kết. Đây cũng là không gian quây quần

76

chuyện trò của các thành viên trong gia đình. Vì thế, bếp chính là nơi gắn bó

tình cảm giữa những người ruột thịt. Từ trên cao nhìn xuống những ngôi nhà

người Mông quần tụ thành từng khối cách biệt. Điểm dễ nhận thấy có thể là

năm, là bảy hoặc thậm chí là mười nhà sát với nhau trong hàng rào đá. Họ là

anh, là em, là họ hàng ruột thịt. Người Mông rất quan trọng dòng họ, họ quan

niệm, người cùng dòng họ là những người anh em có cùng tổ tiên, có thể đẻ và

chết chung nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau. Người Mông quan niệm khi

sống cùng họ, lúc chết cùng ma và vì thế nhà người Mông gắn bó với nhau và

những đứa trẻ người Mông khi sinh ra đã sống trọng sự gắn kết dòng tộc:

Cái nhà cửa chính xây bằng đá xanh

Cho người già sống ấm êm

Cho con em lập gia đình,

Cái cửa nhà chính xây bằng đá phiến

Cho người già sống ấm êm

Cho con trẻ xây gia quyến

Bõ thời son trẻ [47;219]

Nghi lễ của dòng họ và những sinh hoạt chung của gia đình người Mông

là tập hợp các nguyên tắc ứng xử mang tính tộc họ. Việc thực hành các nghi

lễ dòng họ và những sinh hoạt chung của gia đình không chỉ đáp ứng nhu cầu

tâm linh, giải tỏa vấn đề tâm lý, niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện tập

quán tộc người mà còn là dịp để người già trao truyền cho con cháu (con trai)

học phong tục và nhắc cho các thành viên nhớ rõ anh em trong họ tộc. Như

vậy, thông qua việc thực hành các nghi lễ dòng họ và những sinh hoạt chung

của gia đình, người Mông sẽ bảo lưu, duy trì và phát huy bản sắc văn hóa tộc

người mình.

Người Mông sống gắn bó, thủy chung nên gia đình ít bị tan vỡ. Vợ

chồng con cái luôn ở bên nhau, trong nhà ngoài nương, khi đi chợ phiên hay

77

nhà thờ, họ thường đi cả gia đình. Các em bé sơ sinh thì được mẹ địu trên

lưng hay trước ngực, lớn hơn một chút sẽ được bố cõng hay dắt tay. Sự gắn

bó còn được thể hiện qua việc cả gia đình chỉ có một chiếc giường, cha mẹ

con cái chen chúc trên đó; bữa cơm không có chuyện kẻ trước người sau, mà

cả nhà cùng ăn. Cuộc sống túm tụm quây quần, không ai chịu đi xa. Họ chấp

nhận thà nghèo khổ mà có nhau, còn hơn giàu có mà xa nhau. Trong gia đình

có tôn ti trật tự, chồng có ưu thế hơn vợ, con cái vâng nghe cha mẹ, anh có

quyền hơn em; nơi bản làng cũng thế, người trưởng bản được mọi người tuân

phục răm rắp.

Văn hóa gia đình, dòng họ có vai trò quan trọng trong thiết chế xã hội

của người Mông. Hệ thống biểu tượng về con người trong dân ca Mông là sự

thể hiện cấu trúc hình mẫu ấy. Sự trao truyền từ thế hệ người Mông này sang

thế hệ người Mông khác gắn bó trực tiếp với văn hóa gia đình. Các biểu

tượng Người cha, Người mẹ, Đrâu Mông, Gầu Mông đòng vai trò là những

hạt nhân cơ bản trong cấu trúc gia đình người Mông. Nếu như dòng họ của

người Mông được coi là một đơn vị để cố kết cộng đồng theo huyết thống thì

gia đình của người Mông là một đơn vị kinh tế, văn hóa. Ngoài chức năng tạo

lập và sản xuất ra của cải vật chất, tích lũy tài sản, tổ chức lao động cho các

thành viên trong gia đình thì vai trò quan trọng nhất của gia đình là nơi tái sản

xuất ra con người. Cũng chính từ gia đình, các truyền thống văn hóa tộc

người, từ cách ăn ở, các tri thức dân gian, kinh nghiệm trong lao động và đặc

biệt là các lễ tục… được lưu giữ, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Gia đình chính là cái nôi hình thành và phát triển văn hóa truyền thống

của một tộc người, bởi vậy khi nghiên cứu văn hóa của người Mông trước hết

cần tìm hiểu về gia đình họ. Gia đình người Mông là một đơn vị kinh tế và

đồng thời cũng là một đơn vị văn hóa có vai trò quan trọng trong việc trao

quyền và phát huy các yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc. Các bài hát

78

dân ca truyền thống qua đó được các thế hệ ông bà, bố mẹ truyền lại cho con

cháu. Gia đình là môi trường thuận lợi để các thế hệ trẻ tiếp cận yếu tố văn

hóa truyền thống từ những người thân của họ. Thông qua môi trường gia đình

mỗi thành viên cũng tự học cách ứng xử và nếp sống văn hóa của dân tộc.

Thế giới biểu tượng trong thơ ca dân gian Mông phong phú và đa dạng.

Từ sự quan sát tự nhiên và cuộc sống hàng ngày, biểu tượng hình thành trong kí

ức và chuyển thành nghệ thuật, giúp người đọc có thể hiểu thêm về đời sống

phong tục và tâm lí cộng đồng của một dân tộc. Thế giới biểu tượng gắn với tiềm

thức dân gian đã cộng hưởng với nhau tạo nên rung động thẩm mỹ, màu sắc

riêng của dân ca Mông. Hành trình khám phá biểu tượng trong văn học là hành

trình trở về cội nguồn văn hóa với những giá trị chân, thiện, mỹ của mỗi dân tộc.

 Tiểu kết chương 3

Để tạo ra biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang có rất nhiều

yếu tố, trong đó ngôn ngữ và quan niệm nghệ thuật là hai phương diện có ý

nghĩa nhất góp phần tạo nên những biểu tượng về thiên nhiên và con người.

Ngôn ngữ và quan niệm nghệ thuật của tác giả dân gian Mông là sản phầm

của đời sống văn hóa dân tộc Mông, mang dấu ấn về nhân sinh quan, thế giới

quan, phương thức tư duy của cả cộng đồng. Nhờ đó, các biểu tượng khẳng

định được giá trị văn hóa của mình trong dân ca và trong cả đời sống xã hội.

Ngôn ngữ trong dân ca Mông là một phương tiện quan trọng tạo nên

những biểu tượng văn hóa để biểu hiện tâm hồn, tư tưởng của người Mông.

Ngôn ngữ không cầu kì, bóng bẩy mà chân thực, gian dị với cách nói ví von,

giàu hình ảnh, nhịp điệu và cảm xúc đặc trưng của cuộc sống người Mông đã

tạo nên phong cách riêng cho biểu tượng trong dân ca Mông. Cùng với đó là

quan niệm nghệ thuật về thiên nhiên và con người của tác giả dân gian Mông

đã ảnh hưởng trực tiếp tới việc lựa chọn biểu tượng để biểu đạt ý nghĩa văn

hóa trong từng lời ca. Dân ca Mông bởi vậy tạo được dấu ấn riêng trong nghệ

thuật xây dựng biểu tượng văn hóa.

79

KẾT LUẬN

Dân ca Mông với vị trí quan trọng trong kho tàng văn học, văn hóa dân

tộc Mông đã khẳng định giá trị to lớn của mình. Những biểu tượng văn hóa

trong dân ca Mông Hà Giang đề cập đến những dấu ấn vật chất, tinh thần

được hình thành và lưu giữ qua bao thế hệ người Mông. Trong quá trình tìm

hiểu, chọn lọc và phân tích một số biểu tượng về thiên nhiên và con người,

các biện pháp nghệ thuật tạo nên biểu tượng cũng như vị trí của các biểu

tượng trong đời sống văn hóa, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:

1. Lịch sử và điều kiện sống đặc biệt của dân tộc Mông đã sản sinh ra nền

văn học dân gian Mông khá độc đáo mang đậm dấu ấn miền núi cao. Sống giữa

thiên nhiên hùng vĩ với quan niệm nghệ thuật hồn nhiên, cùng với cuộc đấu

tranh lâu dài gian khổ để chống lại thiên tai và kẻ thù, đồng bào Mông đã sáng

tạo ra kho tàng dân ca có nội dung và hình thức phong phú làm dày thêm kho

tàng văn hóa đặc sắc của dân tộc Mông, phản ánh trung thành đời sống tinh thần

của đồng bào. Dân ca Mông từ những tiếng hát lời ca, từ những lời nhắn gửi tâm

tình trở thành văn hóa dân tộc. Chính môi trường sống, phong tục tập quán và

tâm hồn con người vùng cao đã tạo nên nguồn cảm hứng cho những biểu tượng

văn hóa muôn màu sắc về thiên nhiên và con người Mông Hà Giang.

2. Dân ca Mông là một bộ phận đặc sắc trong văn hóa truyền thống dân

tộc Mông. Đó là bức tranh chân thực và sinh động về cuộc sống con người

trong mối quan hệ gắn bó với thiên nhiên và xã hội. Những biểu tượng văn hóa

trong dân ca Mông phản ánh các quan niệm về thẩm mĩ, về vũ trụ, nhân sinh,

đời sống sản xuất, tình cảm gia đình, những bất công ngang trái trong xã hội và

các cung bậc của tình yêu nam nữ v.v... thể hiện khát vọng sống mãnh liệt của

con người. Đồng thời, những biểu tượng văn hóa còn chứa đựng trong đó

những phong tục tập quán, nếp cảm, nếp nghĩ, là triết lý nhân sinh được hun

đúc lên qua nhiều thế hệ và trở thành nét văn hóa tiêu biểu của cả cộng đồng

dân tộc Mông. Từ việc tìm hiểu biểu tượng trong dân ca Mông, có thể nhận

80

thức khá đầy đủ về đời sống xã hội, tình cảm, sự gắn bó đoàn kết trong cộng

đồng người Mông, những nét tâm lí mang tính đặc thù của đồng bào Mông.

3. Bên cạnh những đặc điểm tương đồng với dân ca các dân tộc khác, dân

ca Mông có nét riêng độc đáo trong quan niệm thẩm mĩ, phương thức thể hiện,

đặc biệt là ngôn ngữ và quan niệm nghệ thuật dân gian. Biểu tượng văn hóa

trong dân ca Mông có sự kết hợp hài hòa giữa lời ăn tiếng nói hàng ngày và

ngôn ngữ nghệ thuật giàu hình ảnh, nhịp điệu, cảm xúc. Giữa kết cấu đối đáp

cùng các thủ pháp điệp từ, điệp ý thể hiện rõ hình thức biểu hiện trong môi

trường văn hóa dân gian của người Mông. Hệ thống biểu tượng trong dân ca

Mông Hà Giang hiện lên phong phú cả về nội dung và hình thức bằng những lời

thơ sống động giàu nhạc tính. Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông còn gắn

với quan niệm nghệ thuật của tộc người trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, trong

lao động sản xuất, sinh hoạt gia đình, trong hôn lễ, tang ma, trong lễ hội dân

gian, các sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh như thờ cúng tổ tiên, quan niệm “vạn vật

hữu linh”.

4. Dân ca Mông là phương tiện quan trọng để nuôi dưỡng tâm hồn người

Mông. Khi sự phát triển của kinh tế thị trường mở ra cơ hội cho việc giao lưu

kinh tế văn hoá giữa các vùng dân tộc, đời sống vật chất và tinh thần của người

Mông đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, đi kèm với đó việc bảo tồn và phát huy

bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số nói chung và của người Mông nói riêng còn

gặp nhiều khó khăn. Các sinh hoạt văn hoá trong lễ hội chưa được quan tâm

đúng mức thậm chí nhiều nơi tỏ ra mờ nhạt; nhiều bài dân ca chỉ còn lại trong kí

ức người cao tuổi vẫn chưa được sưu tầm lưu giữ. Các làn điệu dân ca đang dần

dần mai một. Việc nghiên cứu biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông là một

cách thức ghi lại những dấu ấn văn hóa Mông thể hiện qua văn học, hòa cùng

dòng chảy bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống dân tộc.

81

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

1. Trần Thị Ngọc Anh, Tăng Thanh Phương (2018), Biểu tượng thiên nhiên

trong dân ca Mông ở Hà Giang – từ góc nhìn văn hóa, Tạp chí Lý luận Phê

bình Văn học – Nghệ thuật, số tháng 3/2018, tr63 -70.

82

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trương Thị Thùy Anh (2014), Nghiên cứu biểu tượng khèn trong dân

ca Mông từ văn hóa đến văn học dân gian, Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn.

2. Trần Thị An (2008), Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và

motif – Những khả thủ và bất cập, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7.

3. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

4. Nguyễn Duy Bắc (2006), Cảm nhận về văn hóa và văn học trong hành

trình đổi mới, Tiểu luận – Phê bình, Nxb Văn hóa dân tộc.

5. Công văn số: 09-cv/hđdt ngày 04/12/2001, http: hddt.gov.vn/tintuc/c-

315/Ten-goi-dan-toc-Mong.html.

6. Minh Chi (1987), Mấy Suy nghĩ về đổi mới tư duy trong văn hóa, Tạp

chí nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, Số 6.

7. Đoàn Văn Chúc (1993), Những bài giảng về Văn Hóa, Nxb văn hóa

thông tin.

8. Vũ Hồng Cường (2010), Tiếng hát tình yêu lứa đôi trong dân ca

H’Mông Hà Giang, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

9. Hờ A Di (1999), Không thương nhau sẽ khổ, Nxb Văn hóa dân tộc.

10. Chu Xuân Diên (2006), Văn hóa dân gian - mấy vấn đề phương pháp

luận và nghiên cứu thể loại, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội.

11. Đinh Xuân Dũng (2004), Văn hóa, Văn học: Tiếp nhận và suy nghĩ,

Nxb Từ điển bách khoa.

12. Giàng Seo Gà (2015), Bài tang ca của người Hmôngz Sa Pa, Nxb

Khoa học Xã hội.

83

13. Jean Chevaller (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà

Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du.

14. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật

ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

15. Trần Duy Hưng (2013), Biểu tượng trong dân ca nghi lễ tang ma của

người Mông ở Hà Giang, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

16. Hùng Thị Hà (2015), Biểu tượng cây lanh trong thơ ca dân gian Mông,

www.vannghe.hagiang.gov.vn

17. Hùng Thị Hà (2003), Thơ ca dân gian H’Mông, Luận văn thạc sĩ, Đại

học Sư phạm Hà Nội.

18. Hùng Thị Hà (2015), Thơ ca dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa,

Luận án tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.

19. Hùng Thị Hà (2008), Không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ ca

dân gian Mông, số tháng 8+9, Tạp chí Văn nghệ Hà Giang.

20. Hùng Thị Hà (2011), Câu dân ca trên cao nguyên đá, Tạp chí Văn hóa

các dân tộc, số 2.

21. Nguyễn Thị Bích Hà (2014), Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn

hóa, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.

22. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng – một số hướng tiếp

cận lý thuyết mới, Nxb Thế giới.

23. Nguyễn Văn Hạnh Văn hoá nguồn mạch sáng tạo và khám phá văn

chương http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=10715.

24. Nguyễn Văn Hiệu Mối quan hệ giữa nghiên cứu văn học và văn hóa

học www.dlu.edu.vn/FileUpload/201132410812453.doc.

25. Hùng Thị Hiền (2006), Tình yêu trong thơ ca dân gian Mông, Tạp chí

văn nghệ Hà Giang.

84

26. Đỗ Huy (1990), Một vài suy nghĩ về bản sắc dân tộc của Văn hóa. Tạp

chí triết học, số 3, tr 26 – 30.

27. Nguyễn Thị Thu Huyền (2012), Hình tượng đá trong dân ca H’Mông,

Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.

28. Trần Duy Hưng (2013), Biểu tượng trong dân ca nghi lễ tang ma của

người Mông ở Hà Giang, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

29. Đỗ Ngọc Hoa (2008), Diễn xướng dân ca Mông Hà Giang, Đề tài

nghiên cứu khoa học, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

30. Nguyễn Phương Hoa (2013), Tính nữ và nữ quyền trong dân ca Mông,

Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

31. Nguyễn Xuân Kính (1993), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học Xã hội

Hà Nội.

32. Trường Lưu – Hùng Đình Quý (1996), Văn hóa dân tộc Mông Hà

Giang, Sở Văn hóa – Thông tin – Thể thao Hà Giang.

33. Phương Lựu (chủ biên) (1986), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

34. Nhiều tác giả (1981), Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam

1945 – 1985, Nxb Văn hóa.

35. Nhiều tác giả (1985), Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỉ XX,

Nxb Văn hóa dân tộc.

36. Nhiều tác giả (1997), Nghiên cứu văn nghệ dân gian tập I, Nxb Văn

hóa dân gian.

37. Phan Ngọc (2006), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học Hà Nội.

38. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn

hóa thông tin.

39. Phan Ngọc Quan hệ văn chương và văn hóa ở Việt Nam,

http://www.vienvanhoc.org.vn.

85

40. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn

hóa thông tin.

41. Phan Thị Thanh Nhàn (2009), Biểu tượng khèn trong trong dân ca dân

tộc H’Mông, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

42. Đặng Thị Oanh (2006) Giải mã biểu tượng lanh trong dân ca dân tộc

H’Mông, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.

43. Hoàng Phê (chủ biên - 1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã

hội Hà Nội.

44. Hùng Đình Quý (1994), Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà Giang,

Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Giang.

45. Hùng Đình Quý (1995), Dân ca Mông Hà Giang (tập 1), Sở Văn hóa

Thông tin tỉnh Hà Giang.

46. Hùng Đình Quý (2001), Dân ca Mông Hà Giang (tập 2), Sở Văn hóa

Thông tin tỉnh Hà Giang.

47. Hùng Đình Quý (2001), Dân ca Mông Hà Giang (tập 3), Sở Văn hóa

Thông tin tỉnh Hà Giang.

48. Hùng Đình Quý (1998), Chỉ vì quá yêu, Nxb Văn hóa dân tộc.

49. Hùng Đình Quý (2005), Những bài khèn của người Mông ở Hà Giang,

Nxb Khoa học xã hội.

50. Trần Hữu Sơn (1996), Văn hóa H’Mông, Nxb Văn hóa dân tộc.

51. Trần Hữu Sơn (2008), Cây lanh - Biểu tượng trong văn hóa dân gian

H’Mông, http://www.vanhoahoc.edu.vn.

52. Trần Đình Sử (1996), Lý luận phê bình văn học, Nxb Hội Nhà văn Hà Nội.

53. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

54. Nguyễn Mạnh Tiến (2014), Những đỉnh núi du ca, Nxb Thế giới.

86

55. Bùi Xuân Tiệp (2005) Bước đầu giải mã một số biểu týợng trong lễ hội

Gầu Tào và dân ca giao duyên dân tộc Mông, Tạp chí văn hóa dân gian

số 3 (99)/2005.

56. Nguyễn văn Tiệp (2003), Dân ca giao duyên và lễ hội Gầu tào của

dân tộc Mông, Đại học Sư phạm Hà Nội.

57. Vũ Anh Tuấn (1884), Về một số biểu tượng văn học dân gian miền

núi, Tạp chí văn hóa dân gian, Nxb Giáo dục Hà Nội.

58. Doãn Thanh (1967), Dân ca Mèo, Hội Văn học nghệ thuật Lào Cai.

59. Doãn Thanh, Hoàng Thao (1984), Dân ca H’Mông, Nxb Văn học.

60. Hạng Thị Vân Thanh, Dương Thị Phương, Giàng Thị sến (2013),

Cháng Sí Páo mồ côi, Hội VHNT tỉnh Hà Giang.

61. Hoàng Thị Thủy (2004), Khảo sát nghi lễ cúng ma dân tộc Mông,

Luạn văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.

62. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới cái nhìn văn

hóa, Nxb Giáo dục.

63. Trần Nho Thìn (2017), Biểu tượng người nam và người nữ trong thơ

tình Việt Nam-một cái nhìn khái quát, Tạp chí Lý luận phê bình văn

học nghệ thuật, số 55 , tháng 3/2017

64. Nguyễn Kiến Thọ (2012), Thơ ca dân tộc H mông – từ truyền thống

đến hiện đại, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

65. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc.

66. Đỗ Thị Minh Thúy (1999), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Nxb

Văn hóa thông tin.

87

PHỤ LỤC

Bảng thống kê các biểu tượng thiên nhiên và con người được khảo sát xuất hiện trong dân ca Mông

STT Tên biểu tượng Số lần xuất hiện Số bài xuất hiện

Trời 1 147 45/120

Núi 2 81 41/120

Nước 3 107 31/120

Đá 4 55 33/120

Người cha 5 304 57/120

Người mẹ 6 319 58/120

Đrâu Mông 7 983 84/120

Gầu Mông 8 1166 87/120

88