ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TĂNG THANH PHƯƠNG
BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG DÂN CA MÔNG HÀ GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TĂNG THANH PHƯƠNG
BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG DÂN CA MÔNG HÀ GIANG
Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Ngọc Anh
THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và nội dung này chưa từng
được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào trước đó.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2018
Tác giả luận văn
Tăng Thanh Phương
i
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Ngọc Anh -
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thành
luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cán bộ, giảng viên khoa Ngữ
Văn, phòng Đào tạo trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã chỉ
bảo tận tình và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian học tập và
nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn những ý kiến nhận xét, đánh giá, góp ý quý
báu của Hội đồng khoa học giúp em hoàn thiện hơn luận văn.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2018
Tác giả luận văn
Tăng Thanh Phương
ii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 8
6. Đóng góp của đề tài ........................................................................................ 9
7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................ 9
NỘI DUNG ..................................................................................................... 10
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CA MÔNG VÀ
BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG VĂN HỌC ........................................ 10
1.1. Vài nét khái quát về dân ca Mông ở Hà Giang ........................................ 10
1.2. Biểu tượng văn hóa trong tác phẩm văn học............................................ 15
1.2.1. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học .................................................. 15
1.2.2. Biểu tượng và biểu tượng văn hóa trong văn học ................................. 19
Chương 2: NHỮNG BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG DÂN CA MÔNG
HÀ GIANG ...................................................................................................... 25
2.1. Biểu tượng thiên nhiên trong cảm quan văn hóa Mông ........................... 26
2.1.1. Biểu tượng trời ...................................................................................... 26
2.1.2. Biểu tượng núi ....................................................................................... 31
2.1.3. Biểu tượng nước .................................................................................... 35
2.1.4. Biểu tượng đá ........................................................................................ 40
2.2. Biểu tượng về con người trong văn hóa Mông ........................................ 45
2.2.1. Biểu tượng về người cha ....................................................................... 45
2.2.2. Biểu tượng về người mẹ ........................................................................ 50
iii
2.2.3. Biểu tượng về đrâu Mông ..................................................................... 54
2.2.4. Biểu tượng về gầu Mông ....................................................................... 58
Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA
TRONG DÂN CA MÔNG HÀ GIANG ...................................................... 64
3.1. Ngôn ngữ .................................................................................................. 64
3.1.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh ........................................................................ 64
3.1.2. Ngôn ngữ giàu nhịp điệu ....................................................................... 66
3.1.3. Ngôn ngữ giàu cảm xúc ........................................................................ 69
3.2. Quan niệm nghệ thuật của tác giả dân gian Mông ................................... 72
3.2.1. Quan niệm về thiên nhiên ..................................................................... 72
3.2.2. Quan niệm về con người ....................................................................... 75
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 83
iv
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học dân tộc thiểu số nói chung là một bộ phận quan trọng tạo nên nét
vẽ hoàn chỉnh cho bức tranh văn học Việt Nam. Trong đó, bộ phận dân ca của
đồng bào dân tộc thiểu số được xem là một trong những nét phác họa cơ bản
giúp ta hình dung được đời sống vật chất, tinh thần cũng như lịch sử phát triển
của cộng đồng dân tộc đó từ thời điểm khai sinh cho đến ngày nay. Nguồn
dân ca đóng vai trò như một trung tâm lưu giữ và bảo tồn những giá trị văn
hóa quý giá cho mỗi dân tộc với đặc trưng thể loại là hình thành và tồn tại
trong tổng thể văn hóa dân gian. Hiểu dân ca cũng có nghĩa là hiểu tâm tư,
tình cảm, phong tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ... của dân tộc đó. Đặc biệt trong
một địa phương có cộng đồng người dân tộc thiểu số đa dạng như Hà Giang
thì vấn đề nghiên cứu dân ca của các dân tộc ở đây lại càng cần được chú
trọng hơn.
1.2. Nghiên cứu biểu tượng văn hóa nhằm giải mã các thành tố văn hóa được
hình thành trong đời sống con người đã và đang là một chủ đề thu hút sự quan
tâm của giới nghiên cứu trong một vài thập kỷ gần đây. Biểu tượng là loại mã
văn hóa mà nếu muốn hiểu về một nền văn học, các nhà nghiên cứu không thể
không quan tâm. Việc hiểu ý nghĩa của các biểu tượng trong văn học mỗi dân
tộc chính là quá trình đi vào khám phá đặc tính văn hóa của cộng đồng dân
tộc đó được thể hiện thông qua ngôn ngữ biểu tượng. Biểu tượng là một kênh
thông tin cho phép con người ở những thời đại khác nhau, những nền văn
minh khác nhau, những vùng văn hóa khác nhau có thể giao tiếp với nhau.
Việc nghiên cứu văn học từ góc độ văn hóa cho thấy một hướng đi triển vọng
trong việc tiếp cận tác phẩm bên cạnh những yếu tố thi pháp truyền thống.
Cách tiếp cận văn học từ văn hóa giúp phát hiện thêm những chiều kích của
tác phẩm, đẩy tư tưởng tác phẩm lên thành những vấn đề văn hóa chứ không
chỉ dừng lại ở mức văn học.
1
1.3. Trong các địa phương có người dân tộc Mông sinh sống, Hà Giang là nơi
có số lượng cộng đồng dân tộc thiểu số này đông hơn cả chiếm 1/3 số người
Mông của cả nước. Có thể nói văn hóa của cộng đồng người Mông chi phối
phần lớn văn hóa Hà Giang nói chung. Văn học dân tộc Mông có vị trí quan
trọng gần như chủ chốt với khối lượng tác phẩm tuy chưa nhiều nhưng khá
phong phú và đa dạng từ thơ, dân ca đến tục ngữ, câu đố, truyện cổ dân gian...
Nếu thiếu đi kho tàng văn học dân tộc Mông thì bức tranh văn học dân tộc
thiểu số ở Hà Giang sẽ có khoảng trống rất lớn. Không chỉ có giá trị nội dung
mà giá trị nghệ thuật của nhóm văn học dân tộc Mông cũng rất cần được quan
tâm và lý giải. Với đặc thù như vậy, việc khai thác hệ thống biểu tượng trong
dân ca của người Mông tại đây không chỉ có ý nghĩa về mặt lưu giữ văn hóa
dân tộc mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy đời sống văn hóa
dân tộc Mông cũng như việc truyền bá di sản văn học của cộng đồng dân tộc
giữ vị trí chủ đạo tại mảnh đất địa đầu tổ quốc.
1.4. Lựa chọn đề tài Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang, chúng
tôi mong muốn làm dày thêm hướng đi trong việc khám phá dân ca Mông ở
Hà Giang nói riêng và khám phá văn học dân gian Mông nói chung. Tạo tiền
đề xác lập vị trí xứng đáng của văn học dân gian Mông trong công tác giảng
dạy văn học tại nhà trường phổ thông, thúc đẩy sự phát triển của các hoạt
động giáo dục trong nhà trường gắn với văn học bản địa. Hiểu biểu tượng của
một cộng đồng dân tộc từ dân ca cũng là một phương thức góp phần phát triển
văn hóa thông qua những giá trị bản sắc được mở ra từ văn học.
2. Lịch sử vấn đề
Văn học dân gian Mông không phải là chủ đề mới lạ trong hướng tiếp
cận nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số nói chung. Thế nhưng khó có thể
khẳng định mảnh đất màu mỡ này đã không còn một khoảng trống nào để
tiếp tục cày xới. Mỗi bước tiến của khoa học nghiên cứu văn học sẽ đi kèm
2
theo đó là những hệ thống lý thuyết nghiên cứu mới, đây là chìa khóa mở
ra những cách cửa tiếp theo để giải mã những tác phẩm văn học mà chúng
ta tưởng chừng như đã hiểu hết về nó. Dân ca Mông ở Hà Giang là một đối
tượng như vậy.
Từ những năm 60 của thế kỉ XX trở lại đây, các công trình sưu tầm,
nghiên cứu về thơ văn dân tộc Mông dần xuất hiện. Dấu mốc đầu tiên phải kể
đến là cuốn Dân ca Mèo [58] xuất bản năm 1967 được giới thiệu bởi nhà
nghiên cứu, sưu tầm Doãn Thanh do nhà xuất bản Văn học ấn hành. Các di
sản về dân ca Mông lần lượt được giới thiệu trong các công trình sưu tầm sau
đó như: Chỉ vì quá yêu (Hùng Đình Quý, Nxb Văn hóa dân tộc, 1998) [48];
Không thương nhau sẽ khổ (Hờ A Di, Nxb Văn hóa dân tộc, 1999) [9]… Bên
cạnh đó, văn học dân gian Mông cũng xuất hiện trong những công trình mang
tính chất tập hợp và giới thiệu văn học dân tộc thiểu số nước nhà như: Hợp
tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945 – 1985 (Nxb Văn hóa –
1981) [34]; Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỉ XX (Nxb Văn hóa dân
tộc, 1985) [35]… Riêng mảnh đất Hà Giang, công trình sưu tầm của nhà thơ,
nhà sưu tầm văn học dân gian Hùng Đình Quý với tập thơ Chỉ vì quá yêu [48]
và ba tập Dân ca Mông ở Hà Giang [45-47] đã đặt những viên gạch đầu tiên
cho diện mạo thơ ca dân tộc Mông ở Hà Giang nói riêng và nền văn học dân
gian Hà Giang nói chung. Nối tiếp sau đó là các công trình sưu tầm khác về
văn học dân gian Mông Hà Giang như: Những bài khèn của người Mông ở
Hà Giang (Hùng Đình Quý, Nxb Khoa học Xã hội) [49]; tập truyện cổ dân
tộc Mông Hà Giang Cháng Sí Páo mồ côi [60] (nhóm tác giả Hạng Thị Vân
Thanh, Dương Thị Phương, Giàng Thị Sến, Hội VHNT tỉnh Hà Giang)… đã
làm cho diện mạo văn học dân gian Mông ở Hà Giang dần rõ nét hơn.
Cùng với sự tìm tòi của các nhà sưu tầm, các nhà nghiên cứu cũng đã
bắt tay tạo thêm một mảnh ghép giúp thơ ca dân tộc Mông hiện lên hoàn
3
chỉnh nhất. Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu về dân ca Mông
nói chung như Thơ ca dân gian H’Mông (2003) [17] của Hùng Thị Hà. Đề tài
nghiên cứu khoa học của Đỗ Ngọc Hoa Diễn xướng dân ca Mông Hà Giang
(2003). Dân ca giao duyên và lễ hội Gầu tào của dân tộc Mông của tác giả
Nguyễn Văn Tiệp (2003), Khảo sát nghi lễ cúng ma dân tộc Mông của tác giả
Hoàng Thị Thủy (2004). Tiếng hát về tình yêu đôi lứa trong dân ca Mông Hà
Giang của Vũ Hồng Cường (2010). Luận văn thạc sĩ Tính nữ và nữ quyền
trong dân ca Mông (2013) của Nguyễn Thị Phương Hoa. Các công trình, bài
báo khoa học khác như: Tình yêu trong thơ ca dân gian Mông [25] của tác giả
Hùng Thị Hiền, Không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ ca dân gian Mông
[19], Câu dân ca trên cao nguyên đá [20]... của tác giả Hùng Thị Hà.... Trong
các công trình, đề tài, bài viết kể trên, các tác giả đã tập trung khảo sát dân ca
Mông về nội dung biểu hiện, hình thức diễn xướng và một số yếu tố thi pháp.
Các tác giả có nhắc đến biểu tượng trong dân ca Mông nhưng mới chỉ là gợi dẫn
mà chưa đi vào phân tích ý nghĩa cụ thể từng biểu tượng cũng như vị trí của
những biểu tượng đó trong nền văn hóa dân tộc Mông.
Một trong những công trình nghiên cứu tập trung vào biểu tượng
trong dân ca Mông là luận văn Giải mã biểu tượng lanh trong dân ca
Hmông của tác giả Đặng Thị Oanh (2006) [42]. Tác giả đi vào khảo sát
biểu tượng lanh trong dân ca Mông từ cơ sở hình thành biểu tượng lanh
trong đời sống văn hóa.
Biểu tượng trong dân ca Mông cũng được nhắc đến trong luận án của tác
giả Nguyễn Kiến Thọ Thơ ca dân tộc Hmông - từ truyền thống đến hiện đại
(2012) [64]. Tác giả đã đề cập đến biểu tượng trong sự vận động của tiến trình
thơ ca dân tộc Mông. Tác giả đưa ra những biểu tượng mang tính truyền thống
vẫn thường xuyên xuất hiện trong thơ ca dân gian và những biểu tượng mới phát
sinh về cuộc sống và con người dân tộc Mông trong giai đoạn lịch sử. Từ đó, tác
4
giả đi đến kết luận thế giới biểu tượng là sợi dây gắn kết giữa truyền thống và
hiện đại trong thơ ca dân tộc Mông.
Nghiên cứu biểu tượng trong văn học dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa
cũng có thêm những bước tiến mới với sự xuất hiện ngày càng phong phú và đa
dạng nhiều công trình, bài viết. Các tác giả thể hiện sự quan tâm và cho thấy sự
cần thiết của việc nghiên cứu biểu tượng trong lĩnh vực văn học dân gian này.
Luận văn thạc sĩ của Trương Thị Thùy Anh Nghiên cứu biểu tượng khèn trong
dân ca Mông từ văn hóa đến văn học dân gian (2014) [1] tập trung phân tích
biểu tượng khèn và giải mã một số hướng nghĩa tiêu biểu của biểu tượng khèn từ
văn hóa đến văn học dân gian. Dưới góc nhìn văn hóa, tác giả đã đưa ra một số
hướng nghĩa cơ bản của biểu tượng khèn trong dân ca Mông: biểu tượng vật
thiêng trong nghi lễ tang ma, biểu tượng tính nam, dấu hiệu phân biệt thế giới
con người, biểu trưng cho thân phận con người, biểu trưng cho hai trạng thái
trong tình yêu. Luận văn đã khẳng định được giá trị của nghiên cứu biểu tượng
dưới góc nhìn văn hóa. Đây là sự gợi mở hết sức quý giá cho các công trình
nghiên cứu về biểu tượng trong dân ca Mông sau đó.
Hướng nghiên cứu tiếp cận văn học dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa
được đào sâu hơn qua luận án tiến sĩ Thơ ca dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa
(2015) [18] của tác giả Hùng Thị Hà. Tác giả công trình đã khảo sát thơ ca dân
gian Mông về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật từ góc nhìn văn hóa. Trong
quá trình phân tích, tác giả có đề cập đến một số biểu tượng phổ biến trong thơ
ca dân gian Mông như biểu tượng cây lanh, biểu tượng cây khèn, biểu tượng con
đường, biểu tượng nước, biểu tượng hoa, biểu tượng con số, biểu tượng bồ giáo,
thắt lưng, xà cạp, khăn đội đầu, biểu tượng lá ngón, cuộn dây, biểu tượng chiếc
ô, biểu tượng con ngựa... Tuy nhiên hệ thống biểu tượng tác giả chỉ ra mới chỉ
được nghiên cứu và xem xét như là một trong các yếu tố của phương diện cấu
trúc nghệ thuật trong thơ ca dân gian Mông chứ chưa phải là đối tượng nghiên
cứu chính từ góc nhìn văn hóa.
5
Tiến sĩ Trần Hữu Sơn trong bài viết: Cây lanh – Biểu tượng trong văn
hóa dân gian H’Mông đã nhận định “Văn hóa dân gian tộc người Mông giàu
bản sắc, xuất hiện nhiều hệ thống biểu tượng đặc thù như biểu tượng về hệ
thống cây (có các biểu tượng cây tre, cây lanh, cây thuốc phiện, cây cỏ tranh,
ngải cứu, cây ngô, cây kê, cây quả bầu…) biểu tượng về hệ thống loài vật
(con gà, con trâu, con ngựa, con lợn, con hổ, con chó…) hoặc biểu tượng về
đồ vật ví dụ cây khèn, cái ô, tù và , cái giường …. Các biểu tượng trên có tần
số xuất hiện nhiều trong nghi lễ, tín ngưỡng, phong tục tập quán và văn học
dân gian…” [51]. Từ đây có thể điểm qua một số công trình bài viết khác về
biểu tượng trong văn học dân gian Mông như: Bùi Xuân Tiệp với Bước đầu
giải mã một số biểu tượng trong lễ hội Gầu Tào và dân ca giao duyên dân tộc
Mông [55] đã giải mã biểu tượng lanh trong lễ hội Gầu Tào và tập trung sâu
hơn vào mảng biểu tượng trong dân ca giao duyên. Trần Duy Hưng với công
trình Biểu tượng trong dân ca nghi lễ tang ma của người Mông ở Hà Giang
[28] cũng đã khai thác hệ thống biểu tượng ở mảng dân ca nghi lễ. Tác giả
Hùng Thị Hà với bài viết Biểu tượng cây lanh trong thơ ca dân gian Mông
khẳng định giá trị biểu tượng lanh trong văn hóa Mông từ dân ca [16].
Từ những tìm hiểu về lịch sử nghiên cứu dân ca Mông nói chung và
biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông nói riêng, chúng tôi nhận thấy trong
các công trình nghiên cứu về dân ca Mông, các tác giả đều khẳng định về sự
có mặt của những biểu tượng và bước đầu đã có những kiến giải về ý nghĩa
của những biểu tượng đó. Tuy nhiên, tác giả những công trình nghiên cứu trên
mới chỉ tập trung vào một số biểu tượng như biểu tượng khèn, biểu tượng lanh
mà chưa chú ý tới một hệ thống các biểu tượng phong phú khác trong dân ca
Mông. Đồng thời, các tác giả thường nghiên cứu biểu tượng như một đơn vị
riêng lẻ mà chưa đặt các biểu tượng trong hệ thống các biểu tượng cùng loại để
xem xét, đánh giá ý nghĩa biểu tượng trong đời sống văn hóa. Đặc biệt chưa có
6
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống biểu tượng văn hóa dân tộc
Mông trong dân ca Mông Hà Giang. Tuy vậy, những đề tài, bài viết kể trên là
nguồn tư liệu vô cùng quý giá và trở thành những công trình gợi dẫn cho chúng
tôi lựa chọn Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang làm đề tài luận
văn của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống biểu tượng văn hóa dân
tộc Mông trong dân ca Mông Hà Giang.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề tài là ba tập Dân ca Mông Hà Giang
do nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Hùng Đình Quý sưu tầm và xuất bản: Hùng
Đình Quý, (1995), Dân ca Mông Hà Giang, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà
Giang (tập 1,2,3). Ngoài ra, trong quá trình triển khai các vấn đề của đề tài,
chúng tôi còn sử dụng các công trình sưu tầm và nghiên cứu khác về dân ca
Mông như cuốn Dân ca H’Mông, (1984), Doãn Thanh, Hoàng Thao, Chế Lan
Viên, Nxb Văn học, Hà Nội; Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam
1945 - 1985, (1981), Nxb Văn hóa dân tộc; Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam
thế kỉ XX, (1985), Nxb Văn hóa dân tộc.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu biểu tượng văn hóa dân tộc Mông trong dân ca Mông ở
Hà Giang nhằm tìm hiểu nội dung, ý nghĩa và chức năng của hệ thống biểu
tượng trong dân ca Mông với việc thể hiện bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc
Mông. Từ đó, góp thêm tiếng nói vào công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa dân tộc Mông nói riêng.
7
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn những vấn đề có liên quan đến đề tài.
- Phân tích nội dung, ý nghĩa, giá trị nghệ thuật của các biểu tượng tiêu
biểu trong dân ca Mông Hà Giang. Đồng thời, đưa ra những nhận định, đánh giá
về vai trò của hệ thống biểu tượng với việc khẳng định giá trị văn hóa người
Mông Hà Giang.
5. Phương pháp nghiên cứu
Ở đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đề tài sử dụng nhằm phân tích các
tài liệu lý luận về biểu tượng, về lý thuyết bảo tồn và phát huy, phân tích các
khía cạnh để làm rõ các nội dung nghiên cứu. Từ đó tổng hợp các vấn đề nghiên
cứu để đưa ra đánh giá, kết luận về đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa: phương pháp này được sử dụng
để thống kê tần số xuất hiện các biểu tượng cũng như các công trình nghiên cứu
có liên quan đến đề tài để có cái nhìn tổng quát về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu so sánh: phương pháp này chúng tôi sử dụng
để so sánh diện mạo dân ca Mông với các dân tộc khác, đối chiếu hệ thống biểu
tượng trong văn hóa Mông với văn hóa các dân tộc khác để tìm ra nét riêng bản
sắc trong dân ca Mông Hà Giang
- Phương pháp điền dã văn học: phương pháp này hỗ trợ trong quá trình
tìm hiểu thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị dân ca Mông nói riêng và giá trị
văn học cổ truyền Mông ở Hà Giang nói chung.
- Phương pháp điều tra, khảo sát: điều tra, khảo sát bằng bảng hỏi và phỏng
vấn sâu về các vấn đề liên quan đến đề tài, đi sâu vào mục đích nghiên cứu, gắn
với thực tế tại địa bàn nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nghiên cứu văn học từ góc nhìn
văn hóa cần nhìn nhận dưới quan điểm liên ngành để có cái nhìn toàn diện, sâu
8
sắc. Có sự kết hợp với các ngành khoa học khác như: Lịch sử, Địa lí, Dân tộc
học, Nhân chủng học, Văn hóa học...
- Phương pháp nghiên cứu hệ thống: đặt biểu tượng trong mối vận động,
tác động qua lại trong hệ thống để khẳng định giá trị của biểu tượng.
- Phương pháp kí hiệu học: mối biểu tượng là một loại kí hiệu đặc biệt,
phương pháp kí hiệu học sẽ làm rõ hơn mối quan hệ giữa cái biểu đạt cái được
biểu đạt qua ngôn ngữ biểu tượng.
6. Đóng góp của đề tài
- Luận văn Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang là công trình
đầu tiên nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về biểu tượng trong dân ca Mông Hà
Giang từ góc nhìn văn hóa, với mục tiêu làm rõ những nét bản sắc của cộng đồng
dân tộc Mông Hà Giang qua dân ca nói riêng, cũng như chỉ ra vị trí, vai trò của nét
bản sắc này trong cộng đồng các dân tộc sinh sống tại Hà Giang nói chung.
- Trên cơ sở phân tích ý nghĩa của hệ thống biểu tượng trong dân ca Mông,
chỉ ra được sự cần thiết của việc đưa văn học dân gian Mông vào giảng dạy tại
nhà trường, nhất là với học sinh người Mông. Đây chính là môi trường bảo tồn
và phát huy văn hóa Mông một cách trọn vẹn nhất.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm ba chương
Chương 1: Những vấn đề chung về dân ca Mông và biểu tượng văn hóa
trong văn học
Chương 2: Những biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tượng văn hóa trong dân ca
Mông Hà Giang
9
NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CA MÔNG VÀ
BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG VĂN HỌC
1.1. Vài nét khái quát về dân ca Mông ở Hà Giang
Cao nguyên đá Hà Giang là vùng đất cư trú của nhiều tộc người anh em
các dân tộc thiểu số như Mông, Tày, Lô Lô, Dao, Giấy, Nùng, Pu Péo... Tuy
nhiên, tộc người chiếm ưu thế hơn cả là dân tộc Mông, những cư dân để lại
dấu ấn đậm nét nhất trong đời sống vật chất và tinh thần tại vùng đất này.
Vấn đề tộc danh của đồng bào Mông đã được đặt ra từ trước những năm
1945. Tuy nhiên cách gọi tên và phiên âm trong Tiếng Việt hơn nửa thế kỉ qua
của cộng đồng dân tộc này không có sự thống nhất. Trước đây người Hán gọi
người Mông là Miêu Tử hay Miêu Tộc, rồi sau đó Miêu trở thành tên tộc
người. Có thời gian, các cộng đồng ở phía Bắc Việt Nam gọi họ là người
Mèo. Một số văn bản và công trình nghiên cứu khác về tộc người sử dụng
cách viết H’Mông. Tại Hội nghị cốt cán năm 1978 đã chính thức gọi tên dân
tộc này là dân tộc Mông. Hội Đồng Dân tộc của Quốc Hội (khoá X) đã có công
văn số: 09-CV/HĐDT ngày 04/12/2001 về việc đề nghị đọc đúng tên và khái
niệm về dân tộc, công văn nêu rõ: “Tên gọi dân tộc Mông, nếu viết bằng chữ
phổ thông là ngôn ngữ chính thức của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thì viết là dân tộc Mông” [5]. Với văn bản mang tính pháp quy đã ban
hành, tên gọi dân tộc Mông được coi là tộc danh chính thức. Tuy nhiên, chúng
tôi xin giữ nguyên cách viết về tên gọi dân tộc Mông trong các công trình trước
đó của các nhà nghiên cứu khi trích dẫn nguồn tư liệu trong đề tài.
Dân ca là những sáng tác có từ lâu đời. Các tác giả Từ điển thuật ngữ văn
học định nghĩa về dân ca như sau:“Một loại hình sáng tác dân gian mang tính
chất tổng hợp bao gồm lời nhạc, động tác, điệu bộ kết hợp với nhau trong
10
diễn xướng” [14;108]. Dân ca nói chung là những bài hát sinh ra từ trong lòng
nhân dân và có đời sống ngay giữa cộng đồng nhân dân đó. Với đặc trưng như
vậy, dân ca gắn liền với mọi sinh hoạt của đời sống và thể hiện nếp cảm, nếp
nghĩ của cộng đồng sáng tạo ra nó. Hầu hết các dân tộc và các địa phương đều
có những làn điệu dân ca cho riêng mình. Sự xuất hiện của những tác phẩm
dân ca của các dân tộc ít nhiều có sự khác nhau. Tuy nhiên tựu chung lại, mỗi
bài dân ca thường có nguồn gốc từ những điều kiện chủ yếu như phong tục
sinh hoạt, nghi lễ, điều kiện tự nhiên xã hội, hoạt động vui chơi, lao động sản
xuất. Mỗi dân tộc cư trú trên những vùng miền, những khu vực địa lý khác
nhau sẽ tạo dựng những phong tục, lối sống, phương thức lao động để tồn tại,
ngôn ngữ giao tiếp cho dân tộc mình. Cũng như vậy, quá trình ra đời các làn
điệu dân ca mang dấu ấn thời gian, không gian, phong tục, ngữ âm của từng
dân tộc.
Dân tộc Mông sở hữu một kho tàng văn học nghệ thuật dân gian tương
đối phong phú bao gồm: truyện cổ tích, truyện thơ, tục ngữ, câu đố, dân ca,
thần thoại.... Các tác phẩm văn học dân gian ấy phản ánh thế giới quan, nhân
sinh quan và cuộc sống lao động, đấu tranh của người Mông. Nhiều tác phẩm
văn học dân gian Mông truyền từ đời này sang đời khác thực sự là những tác
phẩm văn học có giá trị cao. Nền văn học dân gian của dân tộc Mông phản
ánh chính cuộc sống của họ và phản ánh năng lực của con người trước thiên
nhiên khắc nghiệt. Nếu như truyện dân gian Mông tập trung đề cập đến mặt
trái xã hội, bênh vực lẽ phải, tràn đầy tính giáo dục và đạo đức nhân văn cao
cả. Bộ phận tục ngữ và câu đố với những nội dung phong phú thể hiện mối
quan hệ xã hội giữa người với người và giữa con người với thiên nhiên thì các
tác phẩm dân ca Mông có sức phản ánh mọi mặt của đời sống người Mông.
Dân ca Mông là một trong những di sản tinh thần độc đáo của nền văn học dân
tộc, là bộ phận tiêu biểu trong văn hóa dân tộc Mông chứa đựng nhiều giá trị
11
nghệ thuật đặc sắc. Đặc biệt phần dân ca về nghi lễ phong tục phản ánh những
quan niệm về tín ngưỡng có chiều sâu nhân bản của đồng bào.
Dân ca Mông có thể coi là người anh cả trong không gian văn học dân
tộc Mông bởi sự phong phú về số lượng tác phẩm cũng như giá trị biểu đạt.
Khi điều tra về vị trí của dân ca Mông so với các thể loại văn học dân gian
khác của người Mông, kết quả khảo sát tại Hà Giang cho thấy hơn 70% người
dân lựa chọn dân ca. Điều này khẳng định trong tâm thức của người dân nơi
đây, nhắc đến dân tộc Mông thì dân ca luôn là lựa chọn đầu tiên trong không
gian văn học của tộc người này. Dân ca còn là sự tích hợp của nhiều thể loại
văn học dân gian khác như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ, tục ngữ, câu
đố… Không khó để tìm thấy ở dân ca Mông sự lồng ghép trong lời ca những
yếu tố văn học kể trên. Ngược lại, muốn hiểu tường tận dân ca Mông cũng
phải cần đến sự trợ lực của các thể loại văn học khác. Rất nhiều nhà nghiên
cứu như Chế Lan Viên, Nguyễn Mạnh Tiến, Doãn Thanh, Trần Hữu Sơn,
Hồng Thao... đã nhận định dân ca là thể loại nền tảng mà những mảnh vỡ từ
nó có thể cấu thành nên các thể loại văn học dân gian khác như truyện thơ,
thần thoại... Tất cả những điều này khẳng định một lần nữa vị trí của dân ca
Mông trong không gian văn học của người Mông.
Theo các tài liệu lịch sử, tài liệu dân tộc học, người Mông đến Việt Nam
vào khoảng cách đây 300 – 500 năm. Khi mới đặt những bước chân đầu tiên
vào Việt Nam, họ mang theo vốn dân ca Mông từ Trung Quốc. Phải đến một
thời gian sau đó họ mới bắt đầu sáng tác những bài dân ca mới. Các bài dân
ca Mông lúc này phản ánh một bộ mặt văn hóa mới được người Mông kiến
tạo trên mảnh đất Việt Nam. Đó là quá trình những sáng tác dân ca được phát
triển thành từ những chất liệu đầy màu sắc của cuộc sống. Theo các nhà
nghiên cứu, dân ca Mông do các nghệ nhân sáng tác tại miền núi phía Bắc
nước ta dần dần qua quá trình truyền miệng, qua thời gian, qua sự sáng tạo
12
của nhiều người mới thành bài ca hoàn chỉnh. Những người Mông đầu tiên
đến miền đất mới đã sáng tác vài điệu dân ca mô tả cuộc sống mới, kể chuyện
phong cảnh thiên nhiên. Những bài dân ca mới được bồi đắp dần qua dấu ấn
tinh thần người Mông, đi từ ý tưởng chưa hoàn chỉnh thành những bài hát
được lưu truyền trong dân gian. Dân ca Mông cứ như vậy xuất hiện trên miền
đất mới ở phía Bắc Tổ quốc Việt Nam.
Từ những năm 60 của thế kỉ XX, dân ca Mông được sưu tầm và truyền
bá với vai trò là các tác phẩm văn học qua việc xuất bản và giới thiệu trong
các tuyển tập sách chung về văn học dân gian và xuất bản tuyển tập dân ca
Mông nói riêng. Tập Dân ca Mèo [58] của Doãn Thanh là công trình sưu tầm
tập hợp được số lượng các bài dân ca được coi là hoàn chỉnh nhất. Khi cuốn
sách được tái bản năm 1984 với tên gọi Dân ca H’mông [59] đã được thêm
hai bài trong đó có bài Tiếng hát mồ côi được Lê Trung Vũ sưu tầm ở Mèo
Vạc – Hà Giang. Như vậy, dân ca Mông Hà Giang đã bắt đầu được sưu tầm
và giới thiêu từ thời điểm đó. Tiếp nối sau đó từ năm 1995 đến năm 2003, nhà
thơ Hùng Đình Quý đã đi khắp những bản làn Mông ở Hà Giang và ghi lại
những bài dân ca từ trí nhớ các nghệ nhân còn lưu giữ được bằng cả tiếng
Mông và tiếng Việt. Nhà thơ đã tập hợp những bài dân ca sưu tầm được và
công bố trong tuyển tập ba tập Dân ca Mông Hà Giang [45-47] do Sở Văn
hóa Thông tin tỉnh Hà Giang xuất bản từ năm 1995 - 2003. Đây là công trình
khẳng định giá trị dân ca Mông trong kho tàng văn học dân gian Mông Hà
Giang từ số lượng tác phẩm cho đến nội dung và nghệ thuật.
Nếu như với các dân tộc vùng đất Tây Nguyên, sử thi luôn chiếm vị trí
quan trọng hàng đầu trong kho tàng văn hóa thì với dân tộc Mông vị trí đó
thuộc về dân ca. Với lịch sử buộc phải di chuyển triền miên thì hình thức
truyền khẩu và lưu giữ trong trí nhớ đã giúp dân ca trở thành bộ phận giữ
được số lượng phong phú và toàn diện nhất về mọi mặt. Số lượng dân ca
13
Mông được sưu tầm tuy chưa thể nói là đã đầy đủ nhưng dựa trên những
tuyển tập mà các nhà nghiên cứu sưu tầm được, chúng ta có cơ sở để nhận
định về một nền văn hóa Mông được hình thành và liên tục bồi đắp theo
những bước chân của người Mông. Dân ca được lựa chọn bởi nó gắn liền với
mọi hoạt động của người Mông. Từ ngày thường cho đến dịp lễ hội, từ khi
người Mông sinh ra cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay, từ những lần làm quen
hò hẹn cho đến ngày đôi nam nữ về một nhà, tất cả đều có sự hiện diện của
dân ca. Dân ca còn giúp người Mông nói lên bao tiếng lòng mà họ không biết
tâm sự cùng ai. Tiếng hát tình yêu, tiếng hát cưới xin, tiếng hát mồ côi, tiếng
hát làm dâu, tiếng hát đám ma – Tang ca chính là những minh chứng rõ nhất
cho điều này. Chính điều đó khiến dân ca trở thành thể loại nổi trội nhất trong
kho tàng văn học dân gian Mông và rộng hơn là cả kho tàng văn hóa Mông.
Quá trình khám phá dân ca Mông là quá trình tiếp xúc với chính văn hóa
Mông qua dấu ấn tinh thần của người Mông. Những câu từ tưởng như hình
thành từ vô thức lại phản ánh rất đậm nét những dấu vết hằn lại từ bao thế hệ
để rồi cứ thế xếp chồng lên cho bề dày văn hóa dân tộc.
Người Mông là tộc người yêu ca hát, họ bỏ vào trong lời hát của mình
mọi gia vị cuộc đời mà họ nếm trải. Từng lời dân ca là từng mảnh ghép tinh
túy nhất mà người Mông đã cô đúc lại và gắn vào bức tranh văn hóa chung
của các dân tộc Việt Nam. Khi khẳng định dân ca có vai trò quan trọng nhất
trong kho tàng văn học và cả văn hóa dân gian của người Mông. Đồng nghĩa
với việc chúng ta hoàn toàn có cơ sở để bóc tách được từ đó những yếu tố
thuộc về bản chất sâu sắc của tộc người. Đời sống của người Mông không bao
giờ thiếu tiếng hát, già, trẻ, gái, trai người Mông sinh ra đều làm bạn với tiếng
hát cho đến cuối đời. Dân ca trở thành ngôn ngữ chung của cả cộng đồng. Từ
hai người Mông xa lạ qua một cuộc hát đối đáp hay chỉ người này nghe người
kia hát mà họ có thể nhận ra nhau, hiểu nhau thì chắc hẳn yếu tố văn hóa
14
chính là sợi dây cho sự liên kết đặc biệt này. Mỗi thế hệ người Mông lại bồi
đắp cho dân ca những giá trị văn hóa của thời đại mình. Khi người Mông cất
tiếng hát, đem những làn điệu dân ca thực hành trong đời sống chính là họ
đang ôn lại những kinh nghiệm tổ tiên đã gửi gắm và đồng thời thực hiện việc
trao truyền những kinh ngiệm đó lại cho các thế hệ sau. Dân ca vì thế gần như
có sức sống mạnh mẽ hơn so với các thể loại khác trong đời sống hiện nay.
Tìm hiểu biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông là một bước đi cần thiết
trong quá trình xây dựng nền văn hóa dân tộc Mông bởi dân ca là phương tiện
bồi dưỡng, giáo dục thẩm mỹ cho đồng bào dân tộc. Đây là cơ sở cho việc
sáng tạo, phổ biến và hưởng thụ những giá trị văn hóa, nghệ thuật tiên tiến.
Góp phần giữ gìn những phong tục, tập quán, nghi thức tốt đẹp của đồng bào
Mông nơi đây.
1.2. Biểu tượng văn hóa trong tác phẩm văn học
1.2.1. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
Văn hóa rộng hơn văn học về khái niệm, mối quan hệ giữa văn hóa và
văn học là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái toàn thể và cái
bộ phận, giữa hệ thống và các yếu tố trong hệ thống. Do văn học nằm trong
văn hóa nên nó gắn bó hữu cơ với văn hóa. Mỗi sáng tạo văn học đồng nghĩa
với sáng tạo văn hóa, cả hai đều là kết quả hoạt động của con người, sản
phẩm của tình cảm, trí tuệ của con người. Trong mối quan hệ với văn học,
văn hóa là nhân tố chi phối văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố,
toàn thể chi phối bộ phận. Văn học là một bộ phận của văn hóa và chịu sự
chi phối quyết định của văn hóa. Ngược lại, trong mối quan hệ với văn hóa,
văn học là bộ phận mang tính đại diện và có sự tác động quan trọng trở lại
đối với văn hóa.
Theo các nhà nghiên cứu, định nghĩa văn hoá đến nay đã có hàng trăm,
nhưng tựu chung lại, những định nghĩa về văn hóa thường hướng đến một số
15
nội hàm cơ bản. Văn hoá theo nghĩa rộng là tổng hoà mọi sản phẩm vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo ra, nó thể hiện đời sống vật chất, tinh thần,
các loại tư tưởng, phương thức tư duy, hình thức biểu đạt, mô hình hành
động, thái độ ứng xử làm cho một cộng đồng dân tộc này phân biệt với các
dân tộc khác. Văn hoá thể hiện năng lực chế ngự thiên nhiên, phương thức tổ
chức xã hội cùng chế độ điển chương dùng để phát triển nhân cách con người
và phân chia hưởng thụ thành quả xã hội. Văn hoá theo nghĩa hẹp là quan
niệm tư tưởng và quan niệm giá trị. Văn hoá là những gì tiêu biểu nhất cho
một dân tộc, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác thông qua yếu tố mà
chúng ta gọi là bản sắc văn hóa dân tộc. Văn hóa có mặt trong toàn bộ hoạt
động sống của con người, thể hiện trong mọi lĩnh vực thuộc về con người như
ngôn ngữ, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật… Văn
hóa thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội và chịu sự quy định của điều
kiện kinh tế - xã hội. Văn hóa là sản phẩm trực tiếp của hoạt động tinh thần,
của ý thức con người thuộc một cộng đồng xã hội nhất định. Sự khác biệt văn
hóa xét đến cùng là do những khác biệt về môi trường sống quy định. Mỗi
nền văn hóa là kết quả của sự thích ứng của cộng đồng với môi trường để
tồn tại và phát triển.
Văn học là hình thái ý thức xã hội có chức năng kết tinh giá trị văn hóa
tinh thần của con người. Nhìn lại quá trình phát triển của văn hoá nhân loại có
thể thấy, văn học luôn mang trong mình sứ mệnh khai phá và thiết lập nên các
tư tưởng và giá trị, văn học xưa nay chưa bao giờ khư khư giữ lấy một thước
đo giá trị nào cả. Văn học có khả năng truyền cảm hứng mạnh mẽ và sức sống
lấu bền khi đi sâu vào tư tưởng, đạo đức, đời sống bên trong của con người.
Xuyên suốt quá trình phát triển ấy, văn học trước sau đều đảm nhiệm chức
năng sinh thành, phán đoán, truyền bá, biến đổi, tiêu huỷ và đổi mới các giá
trị văn hoá. Văn học mỗi dân tộc có hệ thống thể loại văn học, hệ thống thi
16
pháp, hệ thống biểu tượng đặc trưng. Đọc bất cứ tác phẩm văn học nào ta đều
có thể nhận thấy giá trị văn hoá của nó thể hiện ở những phương diện đó. Văn
học là một thành tố trong tổng thể những thành tố của văn hóa, nó đóng vai
trò là yếu tố chủ đạo. Yếu tố chủ đạo này không phải là bất biến mà nó
thường xuyên thay đổi qua những thời đại văn hóa, tức một hệ thống văn hóa.
Là một yếu tố mạnh, văn học luôn biết tiếp thu những yếu tố khác trong văn
hóa để phát triển. Đến một mức độ nào đó, yếu tố văn học sẽ không còn phù
hợp với hệ thống văn hóa nữa, nó chống lại hệ thống, làm cho hệ thống phải
thay đổi cùng với nó.
Trong mối quan hệ với văn học, văn hóa đóng vai trò là nhân tố chi
phối văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố, toàn thể chi phối bộ phận.
Văn học là một bộ phận của văn hóa và chịu sự chi phối quyết định của văn hóa.
Văn hóa là nền tảng tư tưởng chi phối mạnh mẽ tới sự lựa chọn nội dung và hình
thức của văn học. Văn hóa là bối cảnh của sự sáng tạo cũng như bối cảnh cho
quá trình tiếp nhận văn học. Hoạt động sáng tạo của nhà văn hay hoạt động tiếp
nhận tác phẩm của bạn đọc đều không nằm ngoài sự bao bọc của văn hóa. Bối
cảnh văn hóa liên quan trực tiếp đến sự cảm nhận và lí giải tác phẩm. Văn hóa
là nền tảng chất liệu tạo ra những đề tài, cảm hứng, nhân vật cho văn học. Sự
phân biệt văn học dân gian, văn học trung đại, văn học hiện đại cũng dựa trên
sự góp mặt không nhỏ của các yếu tố văn hóa. Văn hóa là chỗ dựa cho những
cảm hứng và tư tưởng nghệ thuật. Mỗi sáng tạo văn học đồng nghĩa với sáng
tạo văn hóa. Nói sáng tạo văn học là sáng tạo văn hóa vì những nhà văn lớn bao
giờ cũng là những nhà văn hóa lớn cho nên tác phẩm của họ vươn tới những
chuẩn mực của giá trị văn hóa. Những nhà văn lớn luôn có ý thức nhân danh
văn hóa để sáng tạo văn chương, phát minh ra những hình thái mới của văn học
nói riêng và văn hóa nói chung. Văn hóa còn gợi nên mối quan hệ giữa văn học
với các loại hình nghệ thuật khác, với các lĩnh vực khác của văn hóa. Không
17
khó để bắt gặp những trường phái văn học, những câu từ được sử dụng trong
tác phẩm văn chương không phải bắt nguồn từ bản thân văn học mà được bắt
nguồn từ những loại hình nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, âm
nhạc…Văn hóa vì vậy là mảnh đất màu mỡ, là cội nguồn nuôi dưỡng văn học.
Trong mối quan hệ với văn hóa, văn học là bộ phận mang tính đại diện
và có sự tác động quan trọng trở lại đối với văn hóa. Văn học lựa chọn xây
dựng những mô hình nhân cách, những con người lí tưởng cho văn hóa một
cách tự nhiên, một cách thuyết phục khiến cho con người cải biến và tiếp thu
các giá trị văn hóa dễ dàng hơn. Văn học là tấm gương của văn hoá, là hình
ảnh của văn hoá qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà văn, thông qua văn học,
có thể tìm ra bức tranh văn hoá của một thời đại. Văn học giáo dục con người
bằng những câu chuyện, nhân vật điển hình… đầy lôi cuốn, thuyết phục. Văn
học luôn đánh thức những giá trị văn hóa tốt đẹp của mỗi cá nhân và rộng hơn
là của toàn xã hội. Văn học có vai trò phản biện văn hóa, lên án những hiện
tượng trái tai, gai mắt trng đời sống xã hội. Văn học xây dựng những mẫu
hình văn hóa cần phát triển, phát huy, nuôi dưỡng ý chí sáng tạo của con
người. Văn học cũng góp phần lưu giữ, lưu truyền, phát triển những giá trị
văn hóa. Sáng tạo văn hóa không nằm ngoài những nguyên lí sáng tạo văn
học nghệ thuật, đó là sự phản ánh khái quát cuộc sống con người theo những
nguyên tắc thẩm mĩ, những trào lưu, khuynh hướng cụ thể. Quá trình một tác
phẩm văn học trở thành một tác phẩm văn hóa là quá trình đi tới cái hay, cái
đẹp, cái giá trị. Nhìn nhận văn học như một bộ phận của văn hoá giúp chúng
ta lý giải văn học gắn liền với hệ thống mã văn hoá bao hàm bên trong nó như
địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ… một cách toàn diện hơn.
Văn học là một bộ phận không tách rời của văn hóa và không thể hiểu
nó ngoài bối cảnh văn hóa tổng thể của một thời đại, một dân tộc. Nghiên cứu
văn học không thể không tiếp cận dưới góc nhìn văn hóa. Soi chiếu dưới ánh
18
sáng của văn hóa ta sẽ thấy những ý nghĩa, chiều kích lớn lao hơn của tác
phẩm văn học.
1.2.2. Biểu tượng và biểu tượng văn hóa trong văn học
1.2.2.1. Khái niệm biểu tượng
Thuật ngữ biểu tượng trong tiếng anh là symbol có nguồn gốc từ tiếng
Hi Lạp là Symbollon có nghĩa là kí hiệu, dấu hiệu để nhận ra nhau. Theo các
tác giả Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, khái niệm biểu tượng được dùng
để chỉ một vật được cắt làm đôi như mảnh sứ, gỗ, kim loại... Hai người có thể
là chủ - khách, hai người sắp chia tay lâu dài... mỗi bên giữ một phần. Sau
này, ráp hai mảnh lại với nhau họ sẽ nhận ra mối liên hệ ngày trước. Bằng
cách hiểu như thế, dần dần biểu tượng được mở rộng nghĩa chỉ mọi dấu hiệu
tập hợp, chỉ các qui ước... Biểu tượng chia ra và kết lại với nhau, nó chứa
đựng hai ý tưởng phân li và tái hợp, nó gợi lên ý một cộng đồng, một quan hệ
tình cảm đã bị chia tách và có thể tái hình thành. “Mọi biểu tượng đều chứa
đựng dấu hiệu bị đập vỡ: ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là
gãy vỡ, vừa là kết nối những phần của nó đã bị vỡ ra” [13;XXIII].
Cách hiểu này về biểu tượng có thể tìm thấy trong văn học cổ Trung
Quốc khá nhiều. Trong tiếng Hán, biểu là bày ra, trình bày; tượng là hình ảnh,
hình dạng. Trong Dịch thuyết cương lĩnh của Chu Hy, nhà triết học đời Tống
đã giải thích rằng tượng là lấy hình này để tỏ nghĩa kia, tức là dùng cái có thể
hiểu biết để nói lên điều khó có thể hiểu biết, hay dùng cái cụ thể để nói cái
trừu tượng, dùng cái tĩnh để nói cái động, dùng cái hữu hình để nói cái vô
hình. Biểu tượng là những dạng thức dùng hình này để tỏ nghĩa nọ, dùng một
hình ảnh cụ thể để nói lên một ý niệm trừu tượng. Một sự vật, hiện tượng khi
được chọn làm biểu tượng có khả năng biểu hiện tinh tế những ý niệm của
con người về cuộc sống, xã hội, thế giới. Biểu tượng là sự thống nhất của hai
mặt cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt có thể là một sự vật, một
19
hiện tượng, một hình ảnh,… cụ thể trong hiện thực khách quan hoặc trong
tưởng tượng của con người. Cái biểu đạt nhằm mục đích thể hiện cái được
biểu đạt, tức là thể hiện những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của con người về
cuộc sống, xã hội, thế giới.
Khi nghiên cứu biểu tượng, cần phân biệt khái niệm này với một vài
khái niệm dễ gây nhầm lẫn về mặt nội hàm. Trong Từ điển biểu tượng văn
hóa thế giới, các tác giả cũng quan niệm biểu tượng khác với biểu hiện, vật
hiệu, phúng dụ, loại suy, triệu trứng, ngụ ngôn luân lí... bởi tất cả những lối
diễn đạt bằng hình ảnh này đều là những dấu hiệu và không vượt qua mức
độ của sự biểu nghĩa
Với dấu hiệu, “Biểu tượng cơ bản khác với dấu hiệu ở chỗ dấu hiệu là
một quy ước tùy tiện trong đó cái biểu đạt và cái được biểu đạt vẫn xa lại
với nhau, trong khi biểu tượng giả định có sự đồng nhất giữa cái biểu đạt và
cái được biểu đạt theo nghĩa một lực năng động tổ chức” [13;XIX]. Mối
quan hệ, sự tương hợp, sự thâm nhập sâu xa giữa ý tưởng và hình thức ở
biểu tượng khiến cho ý nghĩa của biểu tượng trở nên rộng lớn hơn, sâu sắc
hơn cái ý nghĩa được gán cho nó một cách nhân tạo. Nó có một sức vang cốt
yếu và tự sinh.
Biểu tượng cũng khác với ẩn dụ. Tuy cùng là phương thức biểu hiện ý
nghĩa tượng trưng nhưng ý nghĩa của biểu tượng rộng lớn và khái quát hơn
hẳn về chất so với ẩn dụ. Ẩn dụ thường chỉ tồn tại trong một hình thức biểu
đạt cụ thể, trong một văn cảnh nhất định còn biểu tượng lại vượt qua khuôn
khổ của sự biểu đạt, biểu nghĩa. Biểu tượng được hình thành trong quá trình
lâu dài và có sức sống lâu bền hơn trong khi ẩn dụ sinh ra tức thời và mất đi
khá nhanh.
Một khái niệm dễ gây nhầm lẫn với biểu tượng là hình tượng. Tuy
nhiên khi xem xét kĩ ta thấy biểu tượng và hình tượng có những điểm khác
20
nhau cơ bản. Hình tượng nghệ thuật được nghệ sĩ tái hiện một cách sáng tạo
trong các tác phẩm nghệ thuật. Sự tồn tại của hình tượng nghệ thuật không
vượt quá giới hạn của một hình thức biểu đạt cụ thể, còn biểu tượng thì năng
lực biểu hiện của nó rộng lớn hơn cái ý nghĩa được gắn cho nó một cách
nhân tạo.
Biểu tượng văn học là một biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa.
Các tác giả văn học sử dụng những cổ mẫu gốc để xây dựng nên những biểu
tượng văn học. Trên cơ sở biểu tượng văn hóa gốc, tác giả văn học bồi đắp
thêm nhiều ý nghĩa mới, chuyển tải thêm nhiều cảm xúc, tình cảm của tác giả
về đời sống của con người đương đại. Những hình ảnh, sự kiện của thế giới
xung quanh được nhà văn, nhà thơ chắp nối, tái tạo theo một lôgic mới, trật tự
mới để tạo ra những biểu tượng hoàn toàn mới mẻ dựa trên cơ sở những mẫu
gốc và biểu tượng văn học xuất hiện. Trong khi biểu tượng văn hóa có xu
hướng được bổ sung ý nghĩa, sau một thời gian dường như ý nghĩa đó trở nên
cố định và trở nên khó hiểu đối với con người ở thế hệ sau thì biểu tượng văn
học luôn có xu hướng tái sinh về mặt ý nghĩa, không chỉ trong sáng tác mà cả
trong tiếp nhận văn học. Một vài nét nghĩa vẫn có thể được giữ nguyên trong
khi một vài nét nghĩa của nó được bổ sung. Khi xuất hiện trong tác phẩm với
nét nghĩa mới nó vẫn giữ trong mình những ý nghĩa từng có trong lịch sử. Bởi
ngoài môi trường xã hội thì biểu tượng văn học luôn còn một môi trường
không bao giờ mất đi là chỉnh thể tác phẩm. Khi những biểu tượng văn học
được nhiều người thừa nhận, đồng thời chính nó có một đời sống rộng lớn
trong lòng công chúng, chứa đựng sự toàn vẹn của nỗi niềm con người thì nó
trở thành biểu tượng văn hóa.
Sự khác nhau giữa biểu tượng và các khái niệm tương cận chủ yếu là ở
sự phức tạp trong lĩnh hội các ý nghĩa do biểu tượng khơi gợi ra. Nghĩa của
biểu tượng không phải bao giờ cũng tách bạch rõ ràng. Có những lúc chúng
21
ẩn sâu vào bên trong, đòi hỏi ở trí não con người một nguồn năng lực lớn lao
để khám phá, tìm tòi.
1.2.2.2. Biểu tượng văn hóa
Mỗi biểu tượng được sinh ra, tồn tại và phát triển trong những nền văn
hóa nhất định và nó chỉ sống trong nền văn hóa đó. Vì vậy, nó thường mang
các đặc điểm của nền văn hóa đã sinh ra nó, đồng thời vừa phản ánh lại nền
văn hóa đó trên các bình diện khác nhau, theo một kiểu nhận thức độc đáo
mang tính tổng hợp, khái quát và cảm tính. Biểu tượng văn hóa sẽ mất đi ý
nghĩa khi nó bị tách ra khỏi nền văn hóa mà nó đã sinh tồn. Chúng ta không
thể hiểu biểu tượng văn hóa khi đặt nó ra ngoài nền văn hóa nó đang tồn tại.
Bởi đây chính là tiền đề cơ sở để có sự lí giải đúng về biểu tượng văn hóa.
Tìm hiểu biểu tượng văn hóa của một dân tộc là cơ sở nền móng cho việc tìm
hiểu ý thức dân tộc. Bởi đây là hiện thân của kí ức tập thể, hành động tập thể,
và là một trơng những cơ sở cho sự thống nhất tộc người trong một cộng đồng
cư trú.
Theo GS.TS Trần Nho Thìn “Quá trình hình thành một biểu tượng có
thể hình dung về đại thể như sau: trước hết, con người phải có một mục đích
tìm kiếm một hình ảnh, một sự vật để diễn đạt một ý niệm nào đó. Tiếp theo,
quá trình quan sát, nhận thức hiện thực đời sống xã hội và tự nhiên, con
người nhận ra mối liên hệ ngữ nghĩa giữa sự vật, hiện tượng và ý niệm cần
diễn đạt”[63;59]. Biểu tượng văn hóa sẽ trở thành quy ước mang tính cộng
đồng. Sự vật, hiện tượng nào đó sở dĩ trở thành biểu tượng văn hóa là do một
cộng đồng người nhất định quy ước sử dụng nó. Nhắc đến nền văn hóa của
cộng đồng đó thì người ta nghĩ ngay đến biểu tượng văn hóa đó. Biểu tượng
văn hóa phải có những ý nghĩa ổn định tương đối nào đó, trong những thời kì
lịch sử nhất định, những hệ thống tác phẩm nhất định... Nếu ý nghĩa của sự
vật hiện tượng gợi ra luôn luôn biến đổi, nó sẽ tự phủ nhận giá trị biểu tượng
22
của chính bản thân. Chỉ những hình ảnh được cộng đồng chấp nhận, cùng
ngầm thỏa thuận thống nhất với nhau là nó chỉ ra một ý nghĩa nào đó ở bên
ngoài thì mới có thể trở thành biểu tượng văn hóa. Những hình ảnh này đã trải
qua thử thách khắc nghiệt của không gian, thời gian. Nó dần được định hình
và củng cố ngày một chắc chắn hơn trong tâm thức dân tộc qua quá trình sử
dụng. Do vậy, biểu tượng văn hóa có khả năng lớn lao trong việc tạo nên sự
hòa hợp, hòa nhập giữa những con người trong cùng một cộng đồng. Biểu
tượng văn hóa có sức mạnh liên kết mọi người lại với nhau vì nó là trung tâm
của những nhiệm vụ và tư tưởng chung, từ đó mọi người nhận ra mình thuộc
về một cộng đồng.
Con đường giải mã biểu tượng văn hóa để tìm ra cái ẩn chìm đằng sau
những hình tượng có nguồn gốc từ tìm hiểu những mẫu gốc. Khi đi vào đời
sống văn hoá, mỗi mẫu gốc có thể sản sinh những biểu tượng văn hoá khác
nhau, dấu vết của nó có thể được tìm thấy trong các thần thoại, truyền thuyết,
nghi lễ, phong tục. Mẫu gốc là những sự vật, hiện tượng xuất hiện sớm nhất,
mang tính phổ quát và có khả năng sản sinh ra các biểu tượng gốc.
Biểu tượng gốc là những biểu tượng có nguồn gốc từ các mẫu gốc - cổ
mẫu, biểu hiện quá trình nhận thức, khám phá thế giới của con người. những
biểu tượng gốc thường là những biểu tượng cổ xưa nhất, xuất hiện vào giai
đoạn đầu của lịch sử xã hội loài người. Dựa trên cơ sở của các biểu tượng
gốc, trong quá trình phát triển của đời sống văn hóa, xã hội, con người tiếp
tục sáng tạo ra các biểu tượng phái sinh.
Biểu tượng phái sinh chính là những nhánh phái sinh tiếp theo của các
mẫu gốc và biểu tượng gốc. Những biểu tượng phái sinh cơ chế ý nghĩa
thường được xây dựng trên mối liên hệ tương đối logic, có lí do giữa cái được
biểu trưng và vật biểu trưng. Những biểu tượng này thường được ra đời muộn
hơn và mang đậm hơi thở của hiện thực cuộc sống.
23
Hệ thống biểu tượng văn hóa cũng chính là hệ thống các khuôn mẫu
văn hoá. Biểu tượng văn hóa đặc trưng cho cách thức ứng xử khác nhau về
văn hoá giữa cộng đồng văn hoá này với cộng đồng văn hoá khác. Như vậy,
biểu tượng văn hoá được hình thành và tồn tại nhờ vào trí tuệ và sự sáng tạo
văn hóa của con người. Biểu tượng văn hóa là một trong những biểu hiện của
văn hoá, được cả cộng đồng xã hội chấp nhận đồng thời được xem như giá trị
định hướng của toàn thể cộng đồng.
Tiểu kết chương 1
Văn hóa Mông là một nền văn hóa có truyền thống lâu đời được kết tinh
bởi những giá trị vật chất và tinh thần của người Mông trong mối quan hệ gắn bó
với thiên nhiên, xã hội, phong tục tập quán. Dân ca Mông với tư cách là một sản
phẩm của văn hóa Mông cũng hình thành trong quá trình lịch sử cư trú, đấu
tranh sinh tồn, lao động sản xuất và sáng tạo mang tính đặc thù dân tộc.
Theo hướng tiếp cận từ hoàn cảnh văn hóa, xã hội, lịch sử, nghiên cứu
biểu tượng trong dân ca Mông từ góc nhìn văn hóa là việc cần thiết để đi sâu
khai thác dân ca với tư cách là một di sản văn hóa phi vật thể và đặt nó trong mối
quan hệ với đời sống hiện thực phong phú của đồng bào, trong sự gắn bó mật
thiết với lao động sản xuất, phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội... của
người Mông. Văn hóa chính là cơ sở quan trọng cho việc tiếp cận và lí giải
những đặc trưng mang tính bản sắc của dân ca dân tộc Mông.
24
Chương 2
NHỮNG BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG DÂN CA MÔNG
HÀ GIANG
Diện mạo hệ thống biểu tượng trong dân ca Mông mang đậm dấu ấn cư
trú của người Mông. Từ những sự vật vô tri, vô giác trong tự nhiên cho đến
những nhân vật gần gũi trong chính cuộc sống, thông qua sự quan sát, liên
tưởng, thông qua phong tục, tín ngưỡng cũng như tâm lý chung của dân tộc
Mông, các biểu tượng khảm sâu vào kí ức cộng đồng và trở thành những biểu
tượng văn hóa. Những biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông giúp người đọc có
thể hiểu thêm về đời sống phong tục và tâm lí cộng đồng của một dân tộc.
Trong phạm vi đề tài, chúng tôi lựa chọn khảo sát và đưa ra một số kiến
giải về biểu tượng trời, biểu tượng núi, biểu tượng nước, biểu tượng đá, biểu
tượng người cha, biểu tượng người mẹ, biểu tượng đrâu Mông (chàng trai
Mông), biểu tượng gầu Mông (cô gái Mông). Đây là những biểu tượng tiêu biểu
trong hai nhóm biểu tượng thiên nhiên và biểu tượng về con người trong dân ca
Mông. Các biểu tượng có tần số xuất hiện lớn và trở đi trở lại nhiều lần trong các
tác phẩm. Đồng thời, những biểu tượng này còn có ý nghĩa quan trọng trong đời
sống văn hóa, xã hội của người Mông. Nhiều giá trị chân, thiện, mỹ tốt đẹp của
đồng bào gắn bó sâu sắc với ý nghĩa của hệ thống biểu tượng thiên nhiên và con
người trong dân ca Mông. Điều này không chỉ thể hiện ở giá trị nội dung và
nghệ thuật của các bài dân ca mà còn được thể hiện trong chính môi trường diễn
xướng mà bài ca tồn tại. Đây là cơ sở để chúng tôi lựa chọn hệ thống biểu tượng
trời, biểu tượng núi, biểu tượng nước, biểu tượng đá, biểu tượng người cha, biểu
tượng người mẹ, biểu tượng đrâu Mông (chàng trai Mông), biểu tượng gầu
Mông (cô gái Mông) làm đối tượng nghiên cứu chính của đề tài.
25
2.1. Biểu tượng thiên nhiên trong cảm quan văn hóa Mông
2.1.1. Biểu tượng trời
Trời là một biểu tượng có mặt trong văn hóa của nhiều dân tộc trên thế
giới. Mẫu gốc của biểu tượng trời được lí giải với những ý nghĩa như sau:
“Trời là một biểu tượng gần như phổ quát mà qua đó con người thể hiện niềm
tin vào một Sinh Linh thần thánh ở trên cao, người sáng tạo ra vũ trụ và đảm
bảo sự phì nhiêu cho đất bằng những cơn mưa đổ xuống” [13;957]. Biểu
tượng trời là một biểu hiện trực tiếp của cái siêu tại, uy quyền, của cái vĩnh
hằng, thiêng liêng mà không một sinh vật nào trên mặt đất này có thể đoạt
được. “Trời còn là biểu tượng của những uy lực tối cao đối với con người, dù
là thiện chí hay đáng sợ” [13;957]. Đó là sự bao la không thể dò được, là
nguồn của ánh sáng, và cũng có thể là nơi canh giữ những bí mật của số
mệnh. Trời cũng là nơi các thần linh cư ngụ. Trời và đất gắn bó với nhau tạo
nên sự tác động khiến muôn loài vật sinh sôi nảy nở.
Cũng giống như phần lớn các dân tộc khác trên thế giới, từ thời xa xưa,
do chưa lý giải được các hiện tượng thiên nhiên như mây mưa, sấm chớp, hạn
hán, mất mùa, dịch bệnh, sức khỏe, sự sống, cái chết… người Mông cho rằng,
có một lực lượng siêu nhiên nào đó chi phối đời sống của họ. Từ trong tâm
thức của mình họ tin rằng mỗi vật thể đều có hai phần: phần xác (phần biểu
hiện ra bên ngoài, nhìn thấy được, cụ thể như cái cây, hòn đá, dòng suối, con
vật…) và phần hồn (phần quan trọng chi phối phần xác mà người thường
không thể nhìn thấy được). Do đó người Mông tin, thờ và sợ tất cả các loại
linh hồn - ma. Và cũng như các tộc người khác, người Mông coi trời là đấng
toàn năng - vua trời chi phối muôn loài. Ngoài trời, người Mông coi các thần
linh - ma đều bình đẳng như nhau… Theo quan niệm của người Mông thì mặt
đất, bầu trời, mặt trăng, các vì sao, con người, muông thú, cây cỏ đều do
26
những đại diện của trời sáng tạo và điều chỉnh. Biểu tượng trời nhìn từ dân ca
Mông được giải mã với ý nghĩa văn hóa đầu tiên là nhân tố sáng tạo ra vũ trụ:
Không biết trời sinh hay đất sinh
Mà đạp núi xuống lấp đồng?
Không hiểu trời sinh hay đất khiến
Mà đạp núi xuống lấp thung?
Nặng tình riêng mất nghiệp chung [46;155]
Những mảnh vỡ của câu chuyện thần thoại về ông Chày, bà Chày được
nhắc lại trong dân ca của người Mông. Xuất phát từ quan niệm vạn vật nhất
thể, người Mông cho rằng mọi sự vật hiện tượng đều có chung một cội nguồn
nên nguồn gốc muôn loài trên thế gian đều được quy chiếu do trời sinh ra.
Dân tộc Mông thống nhất quan niệm Chử Lầu - Vua Trời là đấng thần linh có
vai trò rất lớn trong việc sáng tạo ra vạn vật. Đồng bào các dân tộc Mông cho
rằng muôn loài không tự nhiên có, đó là kết quả của quá trình tạo lập dưới sự
chi phối của đấng siêu nhiên mà ở đây là Vua Trời. Chính Chử Lầu - Vua
Trời đã gọi ông Chày bà Chày tạo ra bầu trời và mặt đất. Lúc mới được tạo ra
bầu trời tròn và nhỏ hơn mặt đất. Ông Chày bèn bảo bà Chày hãy co bớt mặt
đất lại để nhỏ bằng trời, bà Chày co lại và đã làm cho mặt đất lồi lõm: chỗ cao
thành núi, chỗ thấp thành đồng bằng, chỗ hằn sâu thành sông, suối, ao, hồ,
chỗ lõm sâu thành biển cả.
Biểu tượng trời trong dân ca Mông thống nhất với hình dung về sự hình
thành vũ trụ qua câu chuyện thần thoại của người Mông. Ở đây, ta bắt gặp
một lối tư duy chất phác của người Mông xưa khi lí giải vạn vật trong thiên
nhiên. Nguồn gốc vũ trụ và các hiện tượng tự nhiên đã phản ánh nhận thức
ban đầu hồn nhiên, chứa đựng cả quan niệm tâm linh của đồng bào. Trời vừa
là đấng sáng thế, vừa là nơi trú ngụ của các lực lượng siêu nhiên:
27
Trời đất thủa rất xa vời
Có những chín mặt trời,
Đất trời thủa xa xăm
Có những chín mặt trăng.
Ngọn nguồn [46;105]
Những lời ca về bầu trời, mặt trăng, mặt trời… là sự cụ thể hóa sinh
động quá trình nhận thức về sự tồn tại của hiện thực khách quan thông qua
quá trình quan sát và trí tưởng tượng phong phú của đồng bào. Biểu tượng
trời là sản phẩm của niềm tin và sự sùng bái tự nhiên kết hợp với nhận thức có
tính vật chất về thế giới của con người thời cổ. Đó là cách lý giải về nguồn
gốc vũ trụ, các hiện tượng tự nhiên và muôn loài. Biểu tượng trời trong văn
hóa Mông có ý nghĩa khác so với văn hóa người Việt. Với người Việt, trời
không mang ý nghĩa là đấng toàn năng sáng tạo ra muôn loài. Ý niệm thông
thường nhất của người Việt Nam về trời chính là bầu trời xanh vật chất ở trên
đầu chúng ta, là môi trường thiên nhiên của những biến đổi về thời tiết như
mưa, nắng, gió, bão… mà thôi. Văn học dân gian người Việt viết về trời với
sự hóm hỉnh, hồn nhiên, vui tươi như: “Bắc thang lên hỏi ông trời” hay
“Con cóc là cậu ông trời/ Hễ ai đánh nó thì trời đánh cho” chứ không hề
mang ý nghĩa sùng kính như của người Mông.
Ngoài ý nghĩa là nhân tố sáng tạo, trời còn là biểu tượng của không
gian thiêng, là nơi ở của tổ tiên người Mông, là điểm đến của con đường về
với tổ tiên của linh hồn người chết. Nó gắn liền với nghi lễ thờ cúng tổ tiên
của dân tộc Mông, với Bài ca chỉ đường – Khúa kê một khúc ca được diễn
xướng trong nghi lễ tang ma để chỉ đường về thế giới bên kia cho người
Mông. Khúa kê kể câu chuyện dẫn hồn người chết về thế giới bên kia, qua
bao nhiêu chặng đường ở trên trời rồi thu xếp đầu thai trở lại trần gian. Người
Mông nào khi nhắm mắt xuôi tay nhất thiết phải được chỉ con đường để lên
đến trời:
28
Người chồng gầu Mông
Làm ma to ầm ĩ
Đrâu Mông đã thổi ba mươi bài khèn
Nói về gầu Mông con đường trời tối.
… Đrâu Mông phải thổi ba mươi bài sáo
Kể lại gầu Mông con đường trời om.
Thương [45;120]
Người Mông cho rằng, người chết muốn tái sinh kiếp khác thì phải trở
về tầng trời rồi quay trở lại mặt đất thì mới có tái sinh và trở lại sự sống được.
Như vậy, phải lên trời thì người chết mới có thể tái sinh làm kiếp khác. Đồng
thời, xuất phát từ quan niệm của đồng bào Mông là thế giới có ba tầng: tầng
trên trời là tầng tổ tiên ở, tầng giữa là thế giới con người, tầng dưới mặt đất là
địa ngục, âm phủ. Vậy nên, trời là nơi người Mông tìm về để hội ngộ với ông
bà tổ tiên, đi theo ma tổ tiên để được đầu thai trở lại kiếp người ở trần gian.
Người Mông theo được lối ma của bà ma tổ, đường ma của ông ma tiên lên
trên trời thì trở về trái đất đi đầu thai mới dễ dàng. Các câu dân ca Mông hấp
thụ nguyên vẹn nét văn hóa truyền thống ấy mà biểu tượng trời là đại diện:
Đưa tay phải bấm lỗ khèn
Tiễn đưa em lên trời cao con đường tối tăm
… Lên trời cao con đường tối mù
Yêu đủ [46;136]
Trong dân ca Mông, sự xuất hiện của biểu tượng trời nhiều lần mang ý
nghĩa gắn với những lời ca về hình ảnh cái chết, về đám ma của người Mông.
Đó là em gái Mông:
Nằm lưng tì với đất
Quay ngực phơi với trời
Em gái tôi [45;97]
29
Là câu chuyện về những đôi trai gái Mông thề hẹn khi chết đi gặp nhau
ở cổng trời để cùng được đầu thai sang kiếp khác và nối duyên vợ chồng:
Để một ngày được thuận
Đợi anh ở cổng trời
Đòi ma bò [45;128]
So với một số biểu tượng thiên nhiên khác, biểu tượng trời xuất hiện
khá phổ biến trong dân ca Mông Hà Giang với 147 lần được nhắc đến trên
tổng số 45/120 bài dân ca. Nhưng khác với văn hóa chung của người Việt,
biểu tượng trời trong văn hóa Mông mang những đặc điểm riêng gắn với văn
hóa dân tộc. Đó là biểu hiện của cái thiêng liêng, của cái vĩnh hằng, của cái
siêu nhiên hùng mạnh đầy uy quyền, có vai trò to lớn trong đời sống tâm linh
của người Mông. Dân ca đã góp phần phản ánh quan niệm về trời trong văn
hóa dân tộc Mông. Ý nghĩa của biểu tượng trời cơ bản hướng tới các nét
nghĩa: là nhân tố sáng tạo, là không gian thiêng nơi trú ngụ của các lực lượng
siêu nhiên và tổ tiên tộc người. Biểu tượng trời trong dân ca Mông được mã
hóa bằng ngôn ngữ thông qua những ý niệm về trời trong các lĩnh vực đời
sống văn hóa.
Qua bao đời nay, dù có những biến động trong đời sống thế nhưng biểu
tượng trời vẫn luôn tồn tại và góp phần giữ gìn giá trị văn hóa Mông. Biểu
tượng trời trong dân ca Mông gắn với Bài ca chỉ đường – Khúa kê, với tục thờ
cúng tổ tiên. Người Mông di chuyển, cư trú rải rác ở khắp mọi nơi trên thế
giới nhưng hễ cùng ma là người Mông nhận nhau là anh em. Biểu tượng trời
từ góc nhìn văn hóa Mông trở thành sợi dây liên kết cộng đồng người Mông,
để dân tộc Mông cùng nhắc nhở nhau về cội nguồn. Đây là những giá trị văn
hóa truyền thống Mông tốt đẹp cần được bảo tồn và phát huy nhìn từ phương
diện dân ca.
30
2.1.2. Biểu tượng núi
Núi là một biểu tượng quen thuộc trong văn hóa các dân tộc trên thế
giới và được xuất hiện phổ biến trong các tác phẩm văn học. Với đồng bào
dân tộc thiểu số luôn gắn bó với miền sơn cước thì biểu tượng núi lại càng có
ý nghĩa lớn lao hơn. Nghĩa gốc của biểu tượng núi trong văn hóa được lí giải
như sau: “ý nghĩa tượng trưng của núi có nhiều mặt, vừa là chiều cao, vừa là
điểm trung tâm. Với những đặc điểm: cao, thẳng đứng, gần trời, núi tham gia
vào hệ biểu tượng của cái siêu tại, siêu phàm với tính cách là trung tâm của
những hiện tượng hiển linh trong khí quyển và rất nhiều sự tích thần hiện, núi
thuộc là biểu tượng của cái bản thể biểu hiện. Núi là nơi Trời và Đất gặp
nhau, là nơi ở của thánh thần và là điểm cuối của con đường đi lên của con
người” [13;701]. Núi cũng thể hiện những khái niệm về tính ổn định, bất di
bất dịch và đôi khi cả về tính thanh khiết. Nói chung, núi vừa là tâm điểm và
vừa là trục của thế giới. Mặt khác, núi cũng rất hay được coi là tượng trưng
cho quyền thế và tham vọng của loài người.
Có thể nói rằng, người Mông luôn hiện hữu ở những đỉnh núi cao nhất
trên mảnh đất Việt Nam. Với người Mông, núi đã trở thành máu thịt. Có
nhiều câu chuyện với những cách lí giải khác nhau song tất cả vẫn hội tụ ở
một điểm: những ngọn núi. Có câu chuyện kể về vị vua đầu tiên của người
Mông trong một lần tranh đất bằng thử thách chạy thi trong một ngày một
đêm đã chạy đến đúng vùng núi khi thời hạn kết thúc. Câu chuyện khác được
lưu giữ lại nói rằng ông tổ của người Mông trên quãng đường đua cùng với
các tộc người khác để dành quyền lựa chọn vùng đất sinh sống, đã bất ngờ bị
trượt ngã đúng chỗ các đỉnh núi khi gần về đích. Tựu chung lại đó là lí do
người Mông lí giải cho sự ở núi truyền đời của mình.
Với dân ca Mông Hà Giang, núi là biểu tượng của quê hương cội
nguồn. Khác với người Việt, mảnh đất quê hương bao giờ cũng là mảnh đất tổ
31
tiên thiêng liêng, là nơi cư trú của biết bao thế hệ, là nơi mà thế hệ con cháu
dù có đi xa tới đâu thì khi mỏi chân chùn sức vẫn luôn tìm về. Thì với lịch sử
thiên di của mình, người Mông không còn có thể tìm về mảnh đất quê hương,
vùng đất ấy giờ chỉ còn tồn tại lẩn khuất trong trí nhớ, trong những câu dân
ca. Với người Mông, tổ tiên của họ thường chỉ ba đến năm đời. Với họ, gánh
nặng tâm linh bởi mối ràng buộc với tổ tiên không quá lớn. Bởi vậy dường
như những ngọn núi đã trở thành quê hương của người Mông, ở đâu có núi, ở
đó có người Mông. Núi nâng đỡ người Mông, nuôi dưỡng họ, bảo vệ họ. Mọi
hoạt động vật chất, tinh thần của người Mông đều diễn ra ở núi. Núi là cái nôi
sinh ra và nuôi dưỡng đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của
người Mông. Từ không gian sinh hoạt lễ hội cộng đồng:
Đem cái tết ăn rồi
Đem cây niêu cây néo ngả xuống đồi
… Đem cây niêu cây néo ngả xuống núi.
Ghi nhớ để lòng [45;148]
Cho đến không gian yên nghỉ khi về với tổ tiên, người Mông đều gắn
bó với núi:
Bố mẹ làm ma em ba ngày
Sẽ đem em đi chôn cùng núi đồi
Chớ đùa [46;119]
Con đường chàng trai Mông đi đến nhà người thương là con đường “đi
qua núi qua thung/ đi vượt núi vượt ghềnh” [45;124]. Con đường cô gái
Mông đi lấy chồng là con đường “leo hết đèo/ vượt hết núi [45;99]”; “Qua
rừng qua núi mười chín tầng/ Qua rừng qua núi mười chín lô” [46;128].
Không gian sống của người Mông trải dài từ ngọn núi này sang ngọn núi
khác. Các cung đường cũng vắt ngang núi mà thành, con người băng qua
đường núi mà đến với nhau:
32
Đôi ta yêu mến nhau không lấy được
Có ngày sẽ làm gà lôi chim công
Bới sột soạt núi thẳm rừng sâu để gặp nhau
Gà công gặp nhau [47;250]
Núi còn là không gian để chàng trai Mông dốc bầu tâm sự, trút bỏ nỗi
buồn, núi trở thành điểm tựa sẻ chia. Núi mang đến cho những người con của
núi tâm trạng bình yên, thư thái. Sau bao biến động thăng trầm của số phận
chỉ muốn trở về núi vì ở đó con người cảm thấy mình được bảo vệ, chở che,
được là chính mình:
Lòng không buồn thì thôi
Buồn lòng anh trèo lên núi tầng
Huýt sáo líu lo trên vỉa rừng
Huýt sáo líu lo [47;215]
Trong dân ca Mông, một lần nữa người đọc lại được khám phá ý nghĩa
của biểu tượng núi trong quan niệm của người Mông gắn với một triết lý sống
hướng về nguồn cội. Sinh ra ở núi thì khi chết đi cũng nằm chung với núi để
mãi sống trong lòng quê hương:
Bố mẹ em
Đem em đi chôn lên núi cằn cỗi
Nhịn đói [46;125]
Không gian núi với cái nhìn trực quan đã gợi lên sự kì vĩ, lớn lao. Vùng
núi với sự hiểm trở của địa lí đã bảo vệ cho người Mông bao đời. Hệ thống
thành quách của thiên nhiên ấy che chở, cưu mang những cư dân trốn chạy, tị
33
nạn khỏi sự bành trướng của người Hán. Tộc người Mông duy trì quyền tự trị
của mình ở đó. Biểu tượng núi bắt nguồn từ biểu hiện độc đáo trong văn hóa
của những cư dân có truyền thống ở núi truyền đời. Đến Việt Nam khi các
dân tộc khác trước đó đã cư trú hầu hết ở vùng đồng bằng, người Mông sống
trên các đỉnh núi. Họ canh tác trên các triền núi, dựng nhà dựa vào sườn núi.
Cuộc sống mới của người Mông ra đời, phát triển gắn liền với núi. Vì vậy, núi
không chỉ là môi trường sống, tài nguyên, vật chất hiện hữu mà người Mông
dần nhận ra mối liên hệ giữa núi và tâm hồn của họ. Các ý niệm về biểu tượng
núi trong dân ca Mông được ra đời như vậy.
Những ngọn núi chập trùng đã vẽ nên không gian sống của người
Mông Hà Giang. Đỉnh Tây Côn Lĩnh cao 2418m sừng sững, một trong những
đỉnh núi cao bậc nhất nước ta. Mã Pì Lèng có thể nói là một kiệt tác từ đá mà
tạo hóa đã ban tặng con người nơi đây. Mã Pì Lèng nghĩa đen là sống mũi
ngựa với ý đây là một con đèo hiểm trở ngựa đi qua cũng phải bạt vía, lạc
hồn. Vì thế Mã Pì Lèng được nhắc đến như một biểu tượng hùng vĩ nhất của
cao nguyên đá Hà Giang nơi cộng đồng người Mông đang sinh sống. Những
dãy núi trên cao nguyên đá không đứng đó một cách vô tình. Những dãy núi
đã hình thành kề cạnh và hình thành lối sống của người Mông nơi đây. Nhắc
đến người Mông hiếm ai không liên tưởng đến ngay những đỉnh núi, đúng
như những câu dân ca Mông đã khắc họa:
Theo hướng quê đrâu Giàng Chính không thấy đrâu Giàng Chính
Chỉ thấy quê hương đrâu Giàng Chính
Núi rừng góc hang động rung rinh
Quanh co đồi núi [47;253]
Quá trình sinh trưởng, phát triển của người Mông gắn liền với núi. Núi
giờ đây đóng vai trò là nguồn sống không thể thiếu, đóng vai trò là biểu tượng
cho không gian văn hóa của người Mông. Người Mông thể hiện quyền lực
34
cũng như tâm hồn mộng mơ của mình trên những đỉnh núi. Với người Mông
Hà Giang, núi là nơi họ gắn bó cả cuộc đời mình. Biểu tượng núi trong dân ca
Mông được giải mã với nét nghĩa chính là quê hương người Mông, là không
gian chất chứa cả đời sống vật chất và tinh thần tộc người. Cũng chính nhờ
những đỉnh núi với bức tường thiên nhiên hùng vĩ mà người Mông được xem
là một trong những tộc người còn giữ được nhiều nét văn hóa dân tộc nhất
trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam. Người Mông ngày nay vẫn
dựng cho mình những pháo đài trên đỉnh núi để cắm dốc mốc cho sự tồn tại
bất kể khắc nghiệt của tự nhiên.
Dân ca Mông gửi gắm quê hương của người Mông vào biểu tượng núi.
Xem xét những khía cạnh biểu hiện của biểu tượng núi là cơ sở nắm được
chìa khóa để đi vào khám phá chiều sâu của văn hóa tộc người. Hiểu những
ngọn núi cũng là một cách để hiểu tâm hồn người Mông. Hình ảnh những
người con dân tộc Mông ngồi trên những mỏm đá cheo leo trên đỉnh núi và
cất cao tiếng hát đã trở thành biểu tượng đẹp không chỉ với dân ca Mông mà
còn cả với nền văn hóa Mông. Đây cũng là hình ảnh hiện lên trong tâm trí
mỗi người khi nhớ đến văn hóa của những cư dân miền sơn cước Hà Giang.
2.1.3. Biểu tượng nước
Biểu tượng nước xuất hiện hầu hết trong văn hóa các dân tộc phương
Đông. Với tư cách là một mẫu gốc trong văn hóa, những ý nghĩa tượng trưng
của nước có thể quy về ba chủ đề chiếm ưu thế: nguồn sống, phương tiện
thanh tẩy, trung tâm tái sinh [13 ;709]. Ba chủ đề này thường gặp trong
những tiểu thuyết cổ xưa nhất và hình thành những tổ hợp hình tượng đa dạng
nhất và đồng thời cũng chặt chẽ nhất. Đối với châu Á, nước ở dạng thức thực
thể của thế giới, là nguồn gốc sự sống và là yếu tố tái sinh thể xác và tinh
thần, là biểu tượng của khả năng sinh sôi nảy nở, của tính tinh khiết, tính hiền
minh, tính khoan dung và đức hạnh. Nước còn là nguồn gốc và phương tiện
chuyển tải sự sống, là hình tượng của hơi thở sự sống.
35
Đọc thơ ca dân gian của các dân tộc ít người Việt Nam, chúng ta càng
thấm thía sức ám ảnh của biểu tượng nước trong tâm thức dân gian. Những
con người miền núi quen sống giữa thiên nhiên đã gửi gắm những suy tưởng,
những tình cảm vào biểu tượng nước. Sự đồng điệu trong cách cảm, cách nghĩ
này cho thấy nước là biểu tượng lớn của văn hoá dân gian các dân tộc ít
người. Nước có một sức mạnh thần kỳ, nó mang trong mình những điều kỳ vỹ
bởi vậy nó luôn được tôn thờ. Từ đó, nảy sinh những quan điểm, tập tục tín
ngưỡng xung quanh môi trường nước. Với những cư dân miền núi, nước là
những nơi bí hiểm, ẩn chứa những sức mạnh hủy diệt, những mối nguy hiểm
đối với con người. Hiện tượng này được phản ánh trong một số bài dân ca
Mông. Sức mạnh hủy diệt của nước không nằm ở mỗi cá nhân mà là sự hủy
diệt mang tính chất cộng đồng, từ số phận con người đến cỏ cây, hoa lá, đất
đại. Nước tham gia vào cuộc sống của con người nhưng nó không chỉ mang
đến sự sống, sự thuận tiện mà còn mang đến những khó khăn trở ngại. Đó là
những thiên tai do nước mang đến, nước lúc này mang trong mình sức mạnh
hủy diệt, nó biểu hiện qua những trận mưa to, gió lớn, qua nạn hồng thủy kinh
hoàng. Nước dâng ngập trần gian, người và vật chết hết:
Mưa to nước lớn ngập tràn chín mươi chín vùng khe,
Trần gian có chín mươi chín hốc núi
Trần thế có chín mươi chín hốc hang
Mưa to nước lớn ngập tràn chín mươi chín vùng khe.
Ngọn nguồn [46;109]
Người Mông coi nước là một nhân tố sáng tạo ra vũ trụ, ra con người.
Nguồn gốc của tộc người Mông đến từ cặp anh trai em gái ruột Lề Lư và Sỡ
Nhỏ. Cặp anh em sinh thành nên tộc người Mông và được coi là tổ tiên của
người Mông. Thần thoại vẫn kể về trận đại hồng thủy khiến muôn loài bị
ngập nước diệt vong, chỉ còn lại hai anh em Lề Lư và Sỡ Nhỏ. Sau một vài
lần trải qua thử thách, đồng thời do trên mặt đất lúc này chỉ còn hai anh em,
36
họ buộc phải lấy nhau và đẻ ra bọc thịt. “Họ chặt bọc thịt ra làm trăm mảnh
đem rải khắp trần gian để từ đó người Mông xuất hiện khắp mọi nơi trên trái
đất” [44;102].
Về nạn hồng thủy trên trần gian, các nhà nghiên cứu dân tộc học và văn
hóa dân gian đều cho rằng những câu chuyện này chứa đựng nhiều yếu tố văn
hóa cổ độc đáo và được biểu hiện đa dạng tùy theo hoàn cảnh sinh sống và
nếp cảm, nếp nghĩ của từng tộc người trong chiều dài lịch sử, văn hóa. “Cuộc
hôn nhân sau đại nạn hồng thủy thường là khởi nguồn của loài người. Nước
xóa đi lịch sử và khôi phục lại lịch sử mới của con người trong một trạng thái
mới” [36;805]. Bởi vậy biểu tượng nước trong dân ca Mông vừa mang trong
mình ý nghĩa phương tiện thanh tẩy nhưng đồng thời biểu tượng nước còn
mang ý nghĩa tái sinh, là nguồn sống khởi nguồn cho sự ra đời và phát triển
của cả tộc người. Người Mông nhìn nhận về nạn đại hồng thủy với tính chất
hai mặt của nó. Nước ở đây cũng tiềm ẩn hai mặt của sự hủy diệt và sự sống.
Sau sự ngập lụt chết chóc là dấu vết của sự sống, những người còn sống sót
lấy nhau và trở thành tổ tiên của loài người, thể hiện khát vọng sống, khát
vọng sinh sôi, nảy nở mãnh liệt của con người. Các nhà nghiên cứu đa phần
thồng nhất nội dung nguồn nước hủy diệt của nạn đại hồng thủy sẽ tái sinh
một xã hội phát triển hơn. Quan niệm phổ biến được đồng tình ở đây là loài
người bị nhấn chìm trong nước, được làm cho sạch, được tẩy rửa, để rồi tái
sinh thành một lớp người mới sống ở một thời đại tiến bộ hơn. Biểu tượng
nước trong dân ca Mông là một cái cớ để mở đầu câu chuyện về nguồn gốc
tộc người. Đây cũng chính là lý giải về quy luật sinh tồn, hủy diệt của con
người nói chung và người Mông nói riêng qua dân ca :
Nước suối tràn mặt đất
Tiên nữ hộ trần gian sinh muôn loài về
Nước suối trôi thung sâu
Tiên nữ giúp trần gian đẻ muôn loài cho
Thành gia đình [47 ;155]
37
Người Mông nhận thấy ở nước sự rộng lớn mênh mông của vũ trụ,
chứa đựng những sức mạnh siêu nhiên có khả năng quyết định đến sự sống và
cái chết của con người và vạn vật trên trái đất. Bình yên của con người và vận
vật phải đến từ sự ủng hộ và bảo vệ của nguồn sức mạnh thiên nhiên này. Bắt
nguồn từ tâm lí đó mà người Mông phảo cầu cúng sức mạnh của nước. Vì
vậy, trong nhiều phong tục tập quán và trong nhiều nghi lễ của gia đình, dòng
họ, cộng đồng người Mông luôn có sự hiện diện của nước. Đặc biệt ngày 30
tết là ngày trọng đại nhất: Họ làm lễ cúng đêm 30 rất cẩn thận và chu đáo,
mong những điều chưa tốt đi theo năm cũ để năm mới làm mọi điều may mắn
để đạt kết quả tốt hơn. Sau giao thừa, người đàn ông mới được đi lấy nước, họ
cầm 3 thẻ hương, 3 tờ giấy bản, cắm đốt ở đầu nguồn nước, khấn xin được lấy
nước, nước lấy về qua cửa chính: 2 lần ra, 3 lần vào, sau đó đổ lên các chén
trên bàn thờ làm nước cúng. Nước sáng mùng 1 là nước tinh khiết, uống vào
người sẽ khoẻ mạnh và trừ được ma quỷ, vì thế họ đổ vào đun một ấm để
uống. Mùng một họ làm cơm mới, thịt mới, nước mới cúng tổ tiên. Người
Mông quan niệm nước lấy đầu năm là nước tinh khiết, lấy nước đó về thắp
hương làm lễ, ăn uống vào sẽ không sợ ma quỷ làm hại, năm mới sẽ gặp may
mắn, ăn nên làm ra, sạch sẽ khỏe mạnh.
Với các biến thể khác nhau của nước như sông, biển… người Mông lại
có những thái độ ứng xử khác nhau. Truyện cổ dân gian người Mông có Câu
chuyện mở đầu nói về hai nhân vât là ông Sương mù và Đào đá, hai yếu tố tự
nhiên mang giới tính nam đã có công giúp chàng trai Mông chiến đấu với cha
con vua biển để giành lại vợ là nàng Dua Pà. Vì lẽ đó, với người Mông, nước
với hình ảnh biển luôn là kẻ thù địch. Nhưng nước gắn vơi biến thể sông, với
thế giới vua Thủy Tề, với những người con gái, con trai xinh đẹp, hiền hậu lại
là sự thân thiện, tương trợ và liên kết. Nước lúc này là dấu hiệu dự báo điềm
lành, sự thịnh vượng. Dòng nước trong vắt, hiền hòa báo hiệu sự bình yên,
may mắn đem lại cuộc sống thịnh vượng cho người Mông:
38
Thung lũng dài tốt nuôi con ráy
Nước sông sâu tốt nuôi cá tôm
Nhận người thân [45;123]
Những câu dân ca của người Mông cũng thường mượn biểu tượng
nước mà định giá tình cảm. Nước được xem như là một giá trị đã định hình, là
cái hiển nhiên, mặc định. Nước với ý nghĩa là chất kết nối tình cảm, thiết lập
mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Dân ca Mông đã đúc kết một
cách hình ảnh ý nghĩa của biểu tượng nước với vai trò biểu hiện cho những
tình cảm lứa đôi hoặc tình nghĩa vợ chồng. Nó là cái cớ vin vào cho sự khẳng
định tình cảm vững bền của đôi lứa yêu nhau:
Giá em lấy được anh
Em sẽ lo chậu nước sạch
Cho anh rửa mặt,
...Giá em lấy được anh
Em sẽ lo chậu nước trong
Cho anh rửa chân.
Cài vạt áo[45;140]
Là cái cớ để chàng trai Mông bày tỏ tình yêu:
Nước trong veo đến mê say
Giá hai ta nên vợ nên chồng
Em nói một lời lòng anh yên cả đời
Anh nói một tiếng lòng em yên suốt ngày
Cởi không trôi [47;169]
Qua kết quả khảo sát, thống kê, chúng tôi nhận thấy biểu tượng nước
xuất hiện khá phổ biến trong dân ca Mông với các hình thức biểu hiện
phong phú và các hướng ý nghĩa biểu trưng dồi dào. Xuất hiện 107 lần trên
tổng số 41/120 bài dân ca Mông, biểu tượng nước hướng đến một số ý
39
nghĩa cơ bản : nước - sức mạnh thanh tẩy, hủy diệt. Nước - sức mạnh tái
sinh. Nước – chất kết nối tình cảm. Các hướng nghĩa của biểu tượng nước
chứa đựng nhiều giá trị văn hóa – xã hội, lịch sử, tín ngưỡng của dân tộc
Mông. Có thể nói sự xuất hiện của biểu tượng nước trong dân ca Mông là
một phương thức hữu hiệu phản ánh bản sắc văn hóa Mông. Các tầng lớp ý
nghĩa của biểu tượng nước trong dân ca Mông khẳng định một lần nữa giá
trị văn hóa Mông với sự phong phú, đa dạng, tạo tiền đề thúc đẩy việc bảo
tồn các giá trị văn hóa truyền thống đã và đang đứng trước nguy cơ mai
một, thất truyền từ các giá trị văn học.
2.1.4. Biểu tượng đá
Đá là một biểu tượng xuất hiện nhiều trong văn hóa dân gian Việt Nam.
Sự gắn kết của đá với đời sống con người đã xuất hiện trong văn học với tư
cách là một biểu tượng ẩn chứa nhiều lớp trầm tích văn hóa. Ý nghĩa gốc của
biểu tượng đá rất đa dạng. Nhìn chung, giữa linh hồn con người và đá có mối
liên quan chặt chẽ. Khi người ta lấy tảng đá làm nơi thờ cúng thì tức là con
người đang thờ vị thần đang ngự trong tảng đá đó. Đá bởi vậy không phải
những khối vô hồn mà là những vật sống. Đá gắn liền với việc định cư của
các dân tộc. Nó đóng vai trò quan trọng trong các mối liên hệ giữa trời và đất.
Các tảng đá được coi như sự hiện diện của thần linh, là sự bảo vệ linh thiêng
với con người. Có rất nhiều vị thần và anh hùng tài ba trong văn hóa thế giới
được sinh ra từ những tảng đá. Các tác giả của Từ điển biểu tượng văn hóa thế
giới [13] đã liệt kê rất nhiều dạng đá có ý nghĩa biểu tượng trong văn hóa
nhân loại từ đá thô, đá đẽo gọt cho đến cho đến các dạng thức khác của đá
như châu báu, kim cương… để thể hiện ý nghĩa, giá trị khác nhau của biểu
tượng đá trong văn hóa cộng đồng.
Khu vực miền núi phía Bắc có địa hình núi cao, hiểm trở, nhiều sông
suối, núi, đèo. Từ ngàn đời nay, cư dân đã gắn bó với những núi đá cao ngất
trời, trong tâm thức của họ, hình ảnh đá đã đi vào đời sống như một biểu
40
tượng về văn hóa. Đá ở Hà Giang là những bãi đá mọc tua tủa, đá nhọn sắc và
dựng ngược lên trời. Người Mông bắt đầu mọi thứ của mình trên đá. Đá hiện
hữu thường trực trong đời sống tâm linh của người Mông. Đá không phải
những vật vô tri mà luôn có những đấng linh thiêng trú ngụ. Chính nhờ có đá
trộn lẫn mà đất của người Mông mới chắc. Đá cứng cáp là thứ bền vững
trường tồn muôn đời. Đá hiện hữu trong mọi không gian, mọi hoạt động của
tộc người này. Từ hàng rào bên ngoài nhà cho đến bậc thềm bên trong nhà, từ
chân cột ở ngoài cửa cho đến chiếc cối ở dưới bếp, từ không gian của người
sống cho đến ngôi mộ chôn cất người chết, người Mông đều có đá ở bên.
Người Mông mạnh mẽ như sự cứng cáp của đá, nhờ vậy mà tộc người đã
trường tồn dù trải qua biết bao máu và nước mắt. Có vị trí quan trọng như vậy
nên người Mông suy tôn đá thành thần. Muốn lấy đá, người Mông phải xin sự
cho phép của thần đá. Người Mông ở trên cao, đá ở trong đời sống của họ
luôn luôn thường trực:
Cơm ăn nấu ấm đá
Nước uống đun ấm đồng
Tiễn nhau [47;180]
Đá gắn với đồng bào không chỉ lúc sống mà cả khi chết đi. Với người
dân miền núi, đá cũng là một biểu tượng tâm linh. Bài ca Khúa kê – Bài ca
chỉ đường của người Mông dạy cho con cháu, kể về hành trình của người chết
trở về gặp ma tổ tiên. Hành trình của họ phải trải qua “ba tầng trời, nhất thiết
phải vượt qua núi đá con rồng, miệng đá con hổ, đi trả tiền củi nước cho lính
của Ngọc hoàng, rồi mới được đầu thai sang kiếp khác” [12;185]. Đá đã
được hình tượng hóa thành biểu tượng linh thiêng, mang những hình hài,
truyền tải những quan niệm tâm linh về đá thiêng, những trở ngại, thử thách
gian nan mà hồn người chết phải trải qua để về xứ sở đầy hoa thơm cỏ lạ. Đá
không chỉ là sự vật trong đời sống con người như là một yếu tố tự nhiên của
môi trường sống mà trở thành biểu tượng đầy tự hào về nguồn cội. Với dân
41
tộc Mông thì những vùng núi đá tai mèo dựng ngược là quê hương của họ. Đá
tượng trưng cho sự hiểm trở, gian nan nhưng đôi khi lại rất gần gũi, thân thiết
với cuộc sống của con người. Đá còn là biểu tượng gắn liền với những tổ ấm
thân thương quen thuộc trong mỗi gia đình. Ngôi nhà bao giờ cũng có sự hiện
diện của đá là biểu tượng đẹp về cội nguồn văn hóa, truyền thống của gia
đình, dòng họ của người Mông.
Nếu như người Việt sống với đất thì người Mông sống với đá. Những
mỏm đá như vươn cao tới trời. Đá đứng sừng sững như người Mông từ bao
đời nay sừng sững trên vùng đất khắc nghiệt này. Đá phủ khắp mọi không
gian sống của người Mông. Đá hòa chung trong lòng đất. Người Mông bước a
khỏi cánh cửa nhà là thấy đá. Đá in trong từng bước chân người Mông.
Những bãi đá mọc tua tủa sắc như những lưỡi dao dựng ngược lên trời và từ
trên đá, người Mông gửi sự sống, khẳng định sức mạnh của dân tộc mình.
Truyền thuyết người Mông lưu giữ một niềm tin rằng khi vũ trụ ra đời, quả
đất chỉ như một trái bùn loãng và yếu ớt, ông Chày bà Chày đã làm ra đá và
cây cấu kết với nhau tạo thành quả đất. Từ đấy quả đất mới vững chắc, đất
vững chắc nhờ trong đất có đá. Đá làm hàng rào, đá làm nhà cho người Mông
sống yên ổn. Phần lớn không gian sống của người Mông là đá. Hàng rào đá vẽ
nên ranh giới trong không gian sống của người Mông. Từ xa nhìn lại cả bản
làng với những ngôi làng quần tụ quanh bức vách đá. Người Mông đã chọn
phiến đá bằng phẳng để lót lối vào nhà. Để nền nhà tránh bị lở người Mông
cũng dùng đá kè quanh nền. Những phiến đá dài từ cả mét đến nửa mét tạo
một sự bền vững. Các cột gỗ trong nhà đều được kê trên chân đế bằng đá. Đó
là một nét kiến trúc đặc thù của người Mông. Biểu tượng đá đi vào trong dân
ca Mông cũng với những hình ảnh thân thuộc, gắn bó thân thiết với cuộc sống
con người. Đá với sự cứng rắn, mạnh mẽ mang ý nghĩa bảo vệ cho cuộc sống
42
của các thế hệ người Mông. Biểu tượng đá gắn liền với quá trình định cư của
những người dân Mông:
Giá hai ta lấy được nhau
Sẽ sống cùng bố mẹ
Cái nhà cửa chính xây bằng đá xanh
Cho người già sống ấm êm
Cho con em lập gia đình,
Cái cửa nhà chính xây bằng đá phiến
Cho người già sống ấm êm
Cho con trẻ xây gia quyến
Bõ thời son trẻ [47;219]
Đá trở thành công cụ giúp họ sinh tồn thậm chí trở thành vật thiêng
trong nhà. Gia đình nhà Mông nào cũng có một chiếc cối đá. Người Mông có
tục lệ khi chuyển nhà dứt khoát phải cầm theo ba thứ: cái váy của người phụ
nữ, túi đựng hạt lanh và chiếc cối đá. Vì không có cối đá thì không thể say
ngô nấu mèn mén được. Một người con của cao nguyên đá đã từng viết sống
trong đá chết nằm trong đá. Với người Mông không gian sống và chết đều hòa
lẫn vào trong đá. Ngôi mộ của người Mông khi đắp đều phải có đá xếp cùng:
Đằng trước xếp bằng đá
Đằng sau xây bằng đất
… Đằng sau mồ xây bằng đất
Đằng trước mả xếp bằng đá
Làm ma khô [47;290]
Ở người Mông chúng ta sẽ thấy với tín ngưỡng thờ đá, người Mông coi
đá như một vị thần. Người Mông quan niệm vật nào cũng có linh hồn, người
Mông đi nhận những tảng đá to, đẹp làm bố nuôi, mẹ nuôi của đứa con. Người
Mông là tộc người sống trên núi đá, ở trên núi đá, ăn trên đá, ngủ trên đá.
Người xưa có câu: Người Tày thửa ruộng, người Dao thửa đầu nước còn người
43
Mông thì sống trên đá. Đá thiên nhiên non sông đất nước đã nằm trong tâm
thức người Mông. Người Mông có quan niệm đá cũng có thể cầu nó phù hộ
mình, để nó không làm hại mình. Người Mông có tục tổ chức cúng thần đá vào
ngày rằm, mùng một. Lễ vật bao giờ cũng gồm một con gà, một chai rượu. Với
người Mông cúng đá chính là cúng tổ tiên. Người Mông cúng một phiến đá
trong nhà và cúng một phiến đá ngoài nhà. Trong gia đình người Mông chọn
một tảng đá để tượng trưng cho thần linh, thổ công, thổ địa. Khi lên rừng làm
nương hay trước khi làm một việc gì quan trọng, người Mông cúng thần đá xin
đi đường không gặp đá lăn, đi vào rừng không gặp cây đổ. Gia đình người
Mông nào cũng có một tảng đá trước cửa hay trong vườn, không bao giờ chọn
những tảng đá sau nhà. Tảng đá được chọn chắc, nhọn, cao lên phía trước
tượng trưng cho bầu trời. Với việc thờ cúng này người Mông tin rằng thần đá
sẽ phù hộ cho cuộc sống của họ được bình an và sinh sôi nảy nở. Cuộc sống
của người Mông từ thời trai trẻ đến lúc bạc đầu gắn liền với đá:
Tuổi già không còn xa
Tung tóe lấp chân đá
Lứa tuổi như đôi mình
Tuổi xuân chẳng còn mấy
Chân trời rơi [46;150]
Có một hình ảnh mà mọi người có thể thấy trên những tảng đá dọc
đường vào bản của người Mông, những tảng đá màu đen tua tủa sắc nhọn
đâm lên trời được quấn quanh bởi những sợi chỉ đỏ. Theo phong tục người
Mông cây và đá là do trời sinh ra tượng trưng cho sức mạnh thiên nhiên. Với
những đứa trẻ người Mông, đá cũng là thần hộ mệnh. Người Mông có tục xin
đá làm bố mẹ nuôi che chở cho những đứa trẻ đau ốm. Thầy cúng sẽ lấy một
mảnh vải đỏ, tại phiến đá thầy cúng sẽ làm lễ thắt, đọc tên và cầu xin những
điều tốt lành cho đứa bé. Sau cùng người ta tước một vài sợi chỉ đỏ từ mảnh
vải mang về buộc vào chân đứa trẻ. Người ta gọi tảng đá này là đá sinh, đó
44
phải là tảng đá có chân ngầm vững chắc và những nhú đá sắc tua tủa bên trên
tượng trưng cho những sự sinh sôi. Tảng đá đã được buộc sợi vải đỏ thì sẽ
không được đập đi. Người Mông tin sự vững chãi của những tảng đá sẽ tiếp
sức cho những đứa trẻ lớn khôn, bước từng bước đi vững vàng trên đá. Những
tập tục này cho thấy sự hiện diện độc đáo của đá in sâu trong tâm thức người
Mông. Đá đã thành cha, thành mẹ, đá chở che suốt cuộc đời người Mông, đá
là bố, là mẹ của những đứa trẻ. Vì thế, đá của dãy núi kia chính là sự hình
thành lối sống của người Mông. Đá cho họ chỗ dựa, cho họ niềm tin vào cuộc
sống và đá rèn lên một chí khí mãnh liệt cho họ sống và làm chủ mảnh đất
này. Đấy là sự gắn kết linh thiêng, chặt chẽ giữa con người và thiên nhiên.
Biểu tượng đá trong dân ca cũng gắn với những tín ngưỡng, huyền
thoại của người Mông. Biểu tượng đá biểu trưng cho sự có mặt của thánh
thần, giữ các vía hồn lành hoặc dữ. Thờ đá xuất phát từ tín ngưỡng thờ thần tự
nhiên gắn với niềm tin mọi sự vật xung quanh đều có một vị thần trú ngụ.
Biểu tượng đá trong dân ca Mông mang ý nghĩa quan trọng, gắn bó sâu sắc
với mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần trong suốt chiều dài lịch sử văn
hóa của người Mông. Là vật thiêng bảo vệ các thế hệ từ trẻ đến già, trợ giúp
người Mông những lúc khó khăn. Bởi vậy, dân ca Mông giữ gìn hình ảnh biểu
tượng đá với vai trò một biểu tượng tâm linh vô cùng thiêng liêng, là cội rễ
bền chặt trong lòng người, gốc rễ của sự sống, nơi những người con của đá,
dù ở bất cứ phương trời nào cũng hướng về đầy tin yêu, thành khẩn.
2.2. Biểu tượng về con người trong văn hóa Mông
2.2.1. Biểu tượng về người cha
Biểu tượng người cha có mặt trong mọi nền văn hóa trên thế giới.
Người cha là biểu tượng của sự sản sinh, của sự hữu và chiếm hữu, của sự
thống trị, của giá trị. Theo ý nghĩa gốc của biểu tượng, người cha là một nhân
vật ức chế, hoặc áp chế. “Nói theo ngôn ngữ phân tâm học, cha hay bố là hình
45
ảnh của mọi nhân vật có uy lực: người thủ lĩnh, ông chủ, người bảo hộ, thánh
thần. Vai trò của người cha được thụ cảm như một sức mạnh làm nhụt ý chí
tự giải phóng của kẻ bề dưới, với những tác động tước đoạt, hạn chế, ức hiếp,
vô hiệu hóa nhằm giữ kẻ ấy trong trạng thái lệ thuộc” [13;150]. Trong những
huyền thoại về cội nguồn, hình tượng người cha đạt tầm kích văn hóa to lớn.
Nội hàm phong phú của biểu tượng cha bắt nguồn từ vị thế siêu tại của nhân
vật này, Người cha xuất hiện với tư cách là người ban hành những luật lệ và
phép tắc. Người cha là nguồn gốc của các thiết chế.
Biểu tượng người cha trong dân ca Mông mang ý nghĩa là người chủ
gia đình - một nhân vật có uy lực, các thành viên còn lại trong gia đình đều
phải lệ thuộc vào nhân vật này, đặc biệt là những người phụ nữ trong gia đình.
Người cha có quyền quyết định hầu hết công việc lớn nhỏ của gia đình trong
đó có việc quyết định hôn nhân của con cái:
Bố mẹ gầu Mông
Gả gầu Mông làm dâu con đường xa
Nước mắt rơi [45;104]
Trong văn hóa Mông nói chung, biểu tượng người cha có ý nghĩa hết
sức quan trọng. Với đặc điểm cư trú tại những vùng núi cao và hiểm trở, đồng
bào Mông sống rải rác thành từng bản nhỏ theo dòng họ. Đây được coi như
một đơn vị tự quản, các thành viên trong đó đều phải chấp hành những luật
tục và những quy định cụ thể. Cũng do đặc điểm địa hình môi trường sống
nên cấu trúc gia đình người Mông là cấu trúc gia đình nhỏ phụ hệ, chỉ dao
động từ hai đến ba thế hệ. Trong gia đình người Mông, người đàn ông (có thể
là bố hoặc con trai trưởng) luôn là chủ nhà và nắm giữ mọi quyền lực trong
gia đình về mọi phương diện. Bởi vậy người cha là người làm chủ trong gia
đình, chỉ có họ mới có quyền tham gia chủ trì trong các nghi lễ lớn của gia
đình và quyết định mọi việc của các thành viên trong gia đình.
46
Với sức mạnh của một nhân vật mang trên mình uy lực khiến các thành
viên khác phải phục tùng, thì người con gái với địa vị thấp hơn trong gia đình
lẽ dĩ nhiên phải khuất phục sức mạnh từ phía cha mình. Trong dân ca phản
ánh rất nhiều những cuộc hôn nhân mang tính chất gả bán mà người quyết
định là người cha. Vị thế của người cha trong gia đình với quyền làm chủ
khiến các thành viên khác trong gia đình, nhất là người phụ nữ phải hầu như
lệ thuộc vào ý kiến và sự sắp xếp của nhân vật này. Trong ý thức của các
thành viên gia đình mặc định việc người chủ gia đình nắm giữ quyền lực là
đương nhiên và việc họ phải phục tùng là tất yếu. Dân ca khắc họa hình ảnh
quyền lực của biểu tượng người cha rất nhiều lần gắn với sự áp chế các thành
viên khác trong gia đình mà tiêu biểu nhất là người con gái. Họ phải nghe
theo mọi việc kể cả chuyện hôn nhân của cuộc đời nếu như ý kiến người cha
đã quyết định:
Bố gầu Sênh rằng nhà ấy phúc đức
Bố gầu Sênh đem gầu Sênh đi cắm dâu
Bố mẹ bảo nơi ấy tốt [47;213]
Rất nhiều các bài dân ca nằm trong cùng hệ thống chủ đề cuộc hôn
nhân gả bán vì quyền lợi này đã phản ánh sự tác động lớn từ phía người cha.
Chứng minh sự nắm giữ quyền lực về mọi phương diện của biểu tượng đầy
sức mạnh này:
Bố gầu lía lòng không yêu
Bắt gả gầu lía cho nhà Mông kia
Gả mổ đám cưới [46;180]
Dân ca Mông đưa ra những ví dụ minh họa rõ nét cho ảnh hưởng quyền
lực của biểu tượng người cha đến số phận người con gái trong việc hôn nhân.
Và như một sự mặc định, dù không có yêu cầu chính thức nhưng người con
gái đó sẽ mang thân phận con dâu trừ những món nợ sính lễ cho nhà chồng:
47
Bố con đem tiền người tiêu hết rồi
Tiền đến tay bố khác nào rồng già uống nước trôi
Bố con đem vật người bán hết lâu
Vật đến tay bố khác nào rồng già chui hố sâu
Bố mẹ bảo nơi ấy tốt [47;213]
Đám cưới của người Mông, nhà trai phải chuẩn bị rất nhiều sính lễ mới
có thể nhận được sự chấp thuận của cha mẹ cô gái. Món hồi môn lớn từ việc
gả con gái là một trong những nguyên nhân mà nhiều bậc sinh thành gật đầu
chấp nhận cuộc hôn nhân:
Mẹ gầu mông rằng con gái yêu
Bố con bàn tay chẳng được lành
Đã đem lợn người làm tanh bành
Bố con bàn tay chẳng được nên
Đã đem tiền người làm nghiêng cân
Em gái tôi [45;95]
Thậm chí những người con gái sau cuộc hôn nhân gả bán có chịu nhiều
thiệt thòi, ấm ức nhưng vì đã sử dụng hết của hồi môn của nhà trai nên họ
cũng không thể rời bỏ cuộc hôn nhân đó. Tuy người con gái đã rời nhà đi lấy
chồng thì quyền lực người cha vẫn hiện hữu, vẫn có tác động mạnh mẽ đến
suy nghĩ của người con gái. Chính sự áp chế vô hình về tinh thần này là một
nguyên nhân khiến các cô gái Mông hầu như không li dị khi gặp bế tắc trong
hôn nhân mà tìm đến cái chết để phản kháng. Những đặc điểm biểu hiện của
biểu tượng cha trong dân ca Mông hầu như hợp nhất với hình ảnh người cha
trong cuộc sống người Mông. Suy nghĩ cũng như hành động của người phụ
nữ trong dân ca Mông hầu như chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi quyết định của
người chủ gia đình. Biểu tượng về người cha trong dân ca Mông hầu hết gắn
với hình ảnh những cuộc gả bán, những quyết định không thể thay đổi về
tương lai của người con gái trong gia đình.
48
Biểu tượng người cha từ dân ca Mông còn biểu hiện vai trò của mình
trong việc chi phối mọi sinh hoạt thường ngày của cuộc sống. Trong gia đình
người Mông, việc nấu nướng hàng ngày do người phụ nữ đảm nhiệm. Tuy
nhiên, các ngày lễ tết thì việc này lại dành cho người đàn ông. Cũng theo tập
tục của người Mông, trong khi ăn, đàn ông ăn riêng ở trên nhà còn phụ nữ và
trẻ em gái ăn ở dưới bếp. Trong bữa ăn, ông chủ gia đình bao giờ cũng ngồi
gần nơi thờ ma nhà nhất. Với ảnh hưởng và vị trí quan trọng trong gia đình,
người cha đóng vai trò bảo hộ cho tất cả:
Người ta có mẹ hộ nhà
Có cha hộ bếp
Có mẹ thổi cơm đưa
Có cha nấu cơm tiếp
Có mẹ giúp bếp
Có cha hộ nhà
Có mẹ nấu cơm tiếp
Có cha thổi cơm đưa
Treo ngọn lau [47;135]
Biểu tượng về người cha gắn với những hình ảnh mang ý nghĩa quan
trọng trong đời sống vật chất và tinh thần đã đóng vai trò là hình mẫu lí tưởng
cho những thành viên nam khác trong gia đình. Hình ảnh đầy sức mạnh của
người cha đảm bảo uy quyền cho nhân vật này, đồng thời cũng là cái đích
hướng tới của sự trao truyền vị trí chủ nhà cho các thành viên nam tiếp theo
trong gia đình. Bởi vậy, người cha khẳng định vị thế của một nhân vật định
hình cho quyền lực của những thành viên nam nối tiếp sau đó.
Người cha trong dân ca Mông phản ánh sự tác động mạnh mẽ và sâu
sắc của một biểu tượng đầy uy quyền đến tư tưởng, tình cảm, quan niệm,
nhận thức của những người phụ nữ khác trong gia đình. Hướng nghĩa của
49
biểu tượng cha trong dân ca Mông được hiện thực hóa trên nhiều phương diện
đời sống xã hội. Với tần số xuất hiện là 304 lần trong 57/120 tác phẩm, biểu
tượng cha trong dân ca Mông tạo nên một cái nhìn khái quát về vị trí của nhân
vật này trong đời sống văn hóa. Đây cũng là cơ sở nắm bắt tâm lí dân tộc và
góp phần thể hiện tổ chức xã hội của người Mông trong đời sống.
2.2.2. Biểu tượng về người mẹ
Thi ca nói chung có muôn vàn áng văn chương ca ngợi hình ảnh người
mẹ. “Biểu tượng người mẹ gắn với tình mẫu tử, với sợi dây huyết thống, với
tình yêu thương chan chứa vô bờ. Biểu tượng người mẹ đại diện cho nơi
mang giữ sự sống. Sự sống của người con bao giờ cũng gắn liền với sự sống
của người mẹ” [13;586]. Quá trình mang nặng đẻ đau đại diện cho sự gắn kết
máu thịt cao cả và thiêng liêng của tình mẫu tử. Trong biểu tượng người mẹ
có hai chiều đối nghịch. Đầu tiên, người mẹ là sự an toàn của chỗ trú thân,
của sự nồng ấm, yêu thương. Nhưng ngược lại, khi người mẹ bao bọc quá kĩ
càng thì đó cũng là nguy cơ làm xuất hiện chiều đối nghịch. Người con sẽ
cảm thấy bị o ép bởi môi trường chật hẹp và bị ngạt thở do sự kéo dài quá
mức chức năng của người nuôi dưỡng và dẫn dắt. Khi đó biểu tượng người
mẹ trở thành kiểu giam hãm, áp chế, làm thui chột. Về cơ bản, ý nghĩa phổ
biến nhất của biểu tượng người mẹ là tượng trưng cho bản năng đã thăng hoa
ở mức hoàn hảo nhất và sự hài hòa sâu sắc nhất của tình yêu thương. Người
mẹ là biểu tượng của sức sống biểu hiện ở khắp mọi nơi. Sức sống này chính
là bản nguyên tinh thần thể hiện qua hình hài phụ nữ. Người mẹ còn là biểu
tượng của nữ tính vĩnh hằng. Người mẹ thể hiện những khả năng chứa ẩn
trong một trạng thái sinh tồn nhất định. Biểu tượng người mẹ có giá trị một
mẫu gốc trong văn hóa nói chung.
Người Mông quan niệm người mẹ cũng có một vai trò quan trọng, hỗ
trợ chồng trong mọi công việc sản xuất, có trách nhiệm chính trong mọi công
50
việc nội trợ, quản lý tài sản, nuôi dạy con cái. Người mẹ, người phụ nữ Mông
trong dân ca Mông được khắc họa đầy tình yêu thương, thủy chung, suốt đời
tần tảo hy sinh cho hạnh phúc gia đình. Dân ca Mông xây dựng được biểu
tượng văn hóa về người mẹ với vẻ đẹp của người luôn tỏa sáng để bao bọc và
chở che cho các con, vì cuộc sống bình yên của các con. Trong những cuộc
hôn nhân gả bán vì quyền lợi gia đình, trước sự đau khổ và bất hạnh của
những người con gái gạt nước mắt về nhà chồng chỉ có những người mẹ cất
tiếng xót thương cho con gái mình, sẵn sàng dang rộng vòng tay mình chở che
cho con mỗi khi có bất trắc, đau buồn:
Con mẹ hãy quay về
Khó cũng sống dễ cũng ở
Quạt cám nuôi lợn người
Bố mẹ bảo nơi ấy tốt [47;276]
Biểu tượng về người mẹ trong dân ca Mông là hình ảnh của của chỗ trú
thân, của sự nồng ấm, yêu thương khi người con gái gặp trắc trở trong cuộc
sống. Giống như bao người mẹ Việt Nam khác tần tảo, lặn lội vất vả vì con,
các con chính là sự sống của người mẹ. Biểu tượng người mẹ trong văn hóa
Mông qua lăng kính của dân ca cũng trọn vẹn tình yêu thương đong đầy.
Người mẹ cũng là người đầu tiên cất lời khuyên can người cha vì hạnh phúc
của con mình:
Mẹ nói bố nhận tiền người bao lạng hãy giả lại họ cả
Đem tiền người trả cân người
Con mới hết tiệt đường khóc đời
Bố mẹ bảo nơi ấy tốt [47;276]
Khi người con gái gặp bế tắc trong hôn nhân phải tìm đến cái chết để phản
kháng, người mẹ cũng là người khuyên can đôi lẽ thiệt hơn:
51
Mẹ gầu Mông rằng
Đường làm dâu còn biết đi biết về
Đường chết mới như tảng đá rêu lăn hố sâu
Quỳ gối đòi [47;186]
Sau đó là lời dặn dò hết sức thương yêu:
Con gái của mẹ
Con cố đi chăm nom nhà người
Dài lòng chăn nuôi con lợn
Béo tròn đầy chuồng người
Cho bố mẹ có nơi lui tới chơi
Quỳ gối đòi [47;186]
Nhìn chung, biểu tượng về người mẹ trong dân ca Mông gắn với ý
nghĩa chỉ sự an toàn của chỗ trú thân, của sự nồng ấm, yêu thương và nuôi
dưỡng. Vai trò của người mẹ góp phần lớn đảm bảo cho cuộc sống bình yên
của những người con trong gia đình. Hôn nhân của người Mông truyền thống
chỉ cho phép kết hôn trong nội tộc, chỉ cần khác họ. Những đứa trẻ mồ côi
người Mông không được họ hàng gia đình cưu mang mà phải tự thân tìm lấy
cái ăn bởi người Mông lo lằng việc nuôi con côi sẽ gây những hiểu lầm, oán
giận. Vì thế, thân phận mồ côi trong xã hội Mông vô cùng khổ cực. Vai trò
của người mẹ lúc này càng hiện rõ hơn bao giờ hết:
Ma mồ côi tôi đây
Y như bò con mất mẹ ngựa con cút côi
Đứng nhìn [47;179]
Một đặc điểm văn hóa tộc người có ảnh hưởng đến ý nghĩa của biểu
tượng người mẹ là quan niệm về con cái của người Mông. Nhu cầu về con cái
của người Mông liên quan chặt chẽ với truyền thống văn hóa, đặc điểm tâm lí
xã hội tộc người và chính các quan niệm truyền thống đó đã ràng buộc mỗi
52
con người trong cuộc đời của họ. Trong việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái,
người Mông cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi những quan niệm này. Một trong
những tiêu chuẩn để đánh giá sự toàn mĩ của một người phụ nữ chính là khả
năng sinh đẻ. Trường hợp người vợ không thể sinh con, hay có con nhưng
không có con trai thì người chồng có thể vin vào đó để bỏ vợ hoặc lấy vợ hai,
vợ ba. Điều này xuất phát từ quan niệm trọng nam khinh nữ cho rằng con trai
đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc và nuôi dưỡng bố mẹ khi về già,
làm các công việc nặng nhọc, quyết định các việc hệ trọng trong gia đình.
Quan niệm coi trọng và thần thánh hóa sự sinh đẻ là quan niệm phổ biến trên
toàn thế giới. Nó phản ánh thời kì con người ăn hang ở hốc sống đời sống
hoang dã. Trong hoàn cảnh phải sinh tồn giữa thiên nhiên khắc nghiệt với
công cụ lao động thô sơ, hiển nhiên con người cần có nguồn nhân lực hùng
hậu để cùng nhau khai phá. Quá trình sinh đẻ của người phụ nữ - người mẹ
chính là quá trình tạo ra nguồn nhân lực. Nằm trong môi trường văn hóa châu
Á, sự sinh sôi nảy nở với tín ngưỡng phồn thực cũng hết sức quan trọng và
linh thiêng trong văn hóa Mông vậy nên vai trò của người mẹ trong văn hóa
có vị trí rất cao. Với dân ca Mông, biểu tượng người mẹ hiện lên với vẻ đẹp
của sự nữ tính, của sự nuôi dưỡng, dẫn dắt và hết lòng cho tình yêu thương.
Người mẹ luôn là biểu trưng của điểm tựa tinh thần bình yên và dịu dàng nơi
những thành viên trong gia đình gửi gắm suy nghĩ, tâm tư, tình cảm:
Anh đrâu Mông
Quay liền trở về nhà
Nói thì cùng mẹ già
… Nói thầm cùng mẹ yêu
Dám tay trái con là tay phải
Con sẽ xin em gầu Mông về làm bạn đời trăm tuổi.
Yêu [45;111]
53
Nhưng cũng có nhiều trường hợp, người mẹ sóng đôi với biểu tượng
người cha hợp thành quyền lực áp chế khiến người con trong gia đình buộc
phải tuân theo như một mệnh lệnh. Đó là những khi người cha, người mẹ bị
vật chất, đồng tiền chi phối mà ép gả con gái vào con đường làm dâu:
Bố mẹ gầu Mông
Phải chăng thích người ta con bò trắng chân
Đem gầu mông gả đi làm dâu
Con đường lạ không biết tên. [45;102]
Tuy nhiên, phần lớn điều này đến từ sự ảnh hưởng quyền lực áp chế từ
phía người cha. Người mẹ hầu như cũng bị lệ thuộc vào quyền lực người chủ
gia đình của người cha.
Biểu tượng người mẹ xuất hiện 319 lần ở 58/120 bài dân ca Mông.
Người mẹ là nguồn suối nuôi dưỡng đời sống tinh thần của những người con
trong gia đình. Người mẹ đáp ứng nhu cầu về nhận thức, về tình yêu thương,
về sự bình an cho các con của mình. Biểu tượng người mẹ trong dân ca Mông
mang ý nghĩa chủ yếu là biểu tượng của tình yêu thương, sức sống, của tình
mẫu tử thiêng liêng, cao cả. Người mẹ có vai trò to lớn trong quá trình hình
thành tâm hồn và nhân cách của các con. Những câu dân ca Mông sống từ thế
hệ này đến thế hệ khác trong tâm hồn những người con dân tộc Mông cũng
chính nhờ những câu hát của người mẹ. Đây cũng chính môi trường bảo lưu
tốt nhất các giá trị văn hóa, văn học cổ truyền của dân tộc Mông. Tự nhiên
như hơi thở, người mẹ Mông thổi vào tâm hồn các con mình văn hóa dân tộc
bằng những câu dân ca. Và dân ca cũng khẳng định vai trò của người mẹ với
tư cách là một biểu tượng văn hóa trong dòng chảy truyền thống cộng đồng.
2.2.3. Biểu tượng về đrâu Mông
Đrâu Mông là cách gọi những chàng trai Mông, những thanh niên
người Mông, đây là cách gọi nói chung dành cho nam giới đồng bào dân tộc
54
Mông. Biểu tượng về đrâu Mông được hiểu như biểu tượng về người nam
giới, tương ứng với biểu tượng về các chàng trai trong văn học dân gian người
Việt. Nhìn chung, đây là sự tiếp nối của biểu tượng người cha. Đến một giai
đoạn nhất định sẽ là quá trình chuyển giao uy quyền với vị trí người chủ gia
đình. Các đrâu Mông sẽ tạo lập gia đình và dần in dấu trong văn hóa những
biểu tượng tiếp theo về hình ảnh vĩ đại của người cha.
Biểu tượng về đrâu Mông cũng có nguồn gốc từ chế độ phụ hệ của
người Mông. Người Mông có theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, họ quan niệm
người con gái khi lấy chồng sẽ làm ma nhà chồng, không được phụng dưỡng,
thờ cúng bố mẹ đẻ. Chính vì vậy mà việc bắt buộc phải có con trai của mỗi
cặp vợ chồng là rất cần thiết và bằng mọi giá phải có. Đối với mỗi cặp vợ
chồng Mông, sinh đẻ là một trong những việc hệ trọng, nó không chỉ như là
sợi dây gắn kết giữa họ mà còn thỏa mãn nhu cầu làm cha, làm mẹ. Đặc biệt
đối với người chồng, khi có đứa con đầu lòng họ sẽ được đổi tên đệm. Khi
một đứa trẻ ra đời và nhất là đứa trẻ đó là con trai, thì đó là niềm hạnh phúc
của cả gia đình, dòng họ. Vì việc tăng thêm số người là việc củng cố thêm thế
lực cho gia đình và của cả dòng họ đó trong cộng đồng. Người Mông thường
cắt rốn đứa trẻ bằng một thanh tre cật được tẩy trùng bằng nước sôi. Theo
phong tục của người Mông, nhau của đứa trẻ được chôn ở chân cột cái nếu là
bé trai và ở chân giường của bố mẹ nếu là bé gái. Vị trí chôn nhau này cũng
đã ngầm quyết định vị trí của người con trai Mông và người con gái Mông
trong gia đình. Gian chính, gần bàn thờ nơi có ma nhà là nơi thuộc về người
con trai:
Phân chia trai gái:
Ba gian gian nào cũng xinh
Có gian dành riêng cho con gái chủ nhân
… Ba gian gian nào cũng hay
Có gian dành riêng cho con trai chủ nhà
55
Cửa chính treo vải đỏ
Bàn thờ dành dán giấy
Giữa gian làm đrâu Mông nơi uống rượu
Ngoài hiên làm gầu Mông nơi in váy,
Cửa chính treo vải đỏ
Bàn thờ dành cúng tổ
Gian giữa làm gian đrâu Mông nơi uống nước
Hiên ngoài làm gầu Mông nơi thêu áo.
Nơi in váy [47;222]
Ngay từ khi còn nhỏ các đrâu Mông đã theo người cha đi khắp mọi nơi.
Theo cha lên nương cày cuốc lao động, được người cha dạy đập đá làm
nương, xây nhà, xếp hàng rào vững chãi. Những hình ảnh từ người cha thấm
dần theo năm tháng và trở thành hình ảnh lí tưởng mà các đrâu Mông hướng
tới sau này. Như chúng ta đã biết, với chế độ phụ hệ thì vai trò của người đàn
ông luôn ở vị trí chủ đạo. Họ chính là người chủ gia đình và có quyền quyết
định phần lớn các công việc. Những công việc quan trọng trong gia đình như
thờ cúng tổ tiên, nuôi dưỡng cha mẹ hay quyền được thừa kế tài sản trong gia
đình đều giành cho con trai. Nam giới Mông đến tuổi trưởng thành tiếp tục
học tập các nghi lễ và những kiêng cữ của dòng họ mình. Điều này đã trở
thành quy ước, thành nếp sống của mỗi dòng họ. Các chàng trai Mông sẽ dần
dần tiếp nối vị trí người chủ gia đình của người cha và trở thành một biểu
tượng quyền lực mới. Biểu tượng đrâu Mông do vậy là sự tiếp nối hình ảnh
quyền lực của người cha trong gia đình và trong xã hội:
Anh sinh thành làm bố mẹ chàng trai
Anh đi được chín núi qua chín thung
Cân phải đủ [45;128]
56
Các chàng trai người Mông được “đi học người ở phương trời, đi học
việc ở phương đất” [45;129]. Họ được chủ động hơn trong việc quyết định
cuộc đời mình. Những hình ảnh gắn với quyền lực gia đình, với sự tiếp nối
vai trò của người cha là hình ảnh lặp đi lặ lại nhiều lần trong dân ca Mông khi
nhắc đến biểu tượng đrâu Mông. Bởi như đã trình bày, gia đình người Mông
theo chế độ phụ quyền, đàn ông đóng vai trò chủ đạo. Trong các gia đình
người Mông, đàn ông có quyền quyết định phần lớn các công việc. Tâm lý
người Mông luôn mong muốn có con trai để cúng bái, nối dõi tông đường.
Biểu tượng về đrâu Mông còn đi liền với hình ảnh mang ý nghĩa của sự
chủ động. Chúng ta biết các chàng trai người Mông truyền thống tìm bạn đời
bằng tài thổi khèn, thổi sáo. Những buổi đêm hẹn hò vùng cao với tiếng khèn,
tiếng sáo réo rắt gọi bạn đã trở nên hết sức quen thuộc nơi miền núi. Những
phiên chợ hay lễ hội vùng cao cũng là nơi các chàng trai phô diễn tài nghệ của
mình nhằm tìm kiếm trái tim các cô gái Mông. Cách thức tỏ tình của chàng
thanh niên Mông tràn đầy sự lãng mạn và phóng khoáng của những người con
núi rừng. Đây cũng là những phẩm chất kiến tạo nên tính cách tự do, yêu âm
nhạc của phần lớn người Mông. Những chàng trai người Mông là biểu tượng
quan trọng trong mắt xích văn hóa dân tộc Mông. Vẻ đẹp tâm hồn và tài nghệ
của chàng trai Mông đi vào dân ca biểu hiện cho sự lãng mạn, phóng khoáng
đầy mộng mơ của tộc người dù họ sinh sống trong những điều kiện khắc
nghiệt nhất. Vì thế, vẻ đẹp nam tính của chàng trai Mông luôn gắn với hình
ảnh chiếc khèn:
Anh không có lòng thì thôi
Có lòng anh đi học khèn
Tận đồi cao núi sóng đôi
Yêu đủ [45;120]
57
Biểu tượng về đrâu Mông cũng mang những nét nghĩa tương ứng với
biểu tượng về người cha trong văn hóa Mông. Dân ca Mông thể hiện các khía
cạnh về người con trai Mông mang vẻ đẹp cả thể chất và tâm hồn. Đây sẽ là
những đại diện cho các thế hệ người Mông trong tương lai, những con người
kiêu hùng nhưng cũng hết sức mộng mơ. Đời sống văn hóa tinh thần truyền
thống Mông vận động và phát triển thông qua ba thiết chế xã hội: gia đình;
dòng họ; cộng đồng bản, làng. Các thiết chế này vừa đảm bảo quá trình sản
xuất và tái sản xuất không ngừng giá trị văn hóa tinh thần, vừa bảo tồn tính
truyền thống văn hóa tộc người. Thông qua các thiết chế này văn hóa tộc
người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, được thầm dần vào
mỗi thành viên. Văn hóa dân tộc cũng nhờ vậy mà tồn tại bền vững.
2.2.4. Biểu tượng về gầu Mông
Gầu Mông là cách gọi những cô gái Mông, những “em gái Mông”.
Trong dân ca Mông Hà Giang thì đó là những cô gái chưa chồng và cả những
cô gái đang làm dâu. Gầu Mông cũng là sự tiếp nối của biểu tượng người mẹ
với sức sống và sự nữ tính. Dân ca Mông thể hiện tiêu chuẩn về vẻ đẹp của
một cô gái Mông thông qua các công việc cần đến sự khéo léo của bàn tay
người phụ nữ Mông như dệt vải, phục vụ việc may mặc. Trong gia đình đây
cũng là công việc do người phụ nữ đảm nhiệm. Nối tiếp hình ảnh người mẹ
với ý nghĩa là đại diện cho sự khéo léo, chăm chỉ. Các cô gái trong gia đình
ngay từ nhỏ đã được người mẹ dạy cho cách làm sợi, dệt vải, may, thêu quần,
áo, khăn, chăn,… Đây là một trong những tiêu chuẩn đánh giá một cô gái khi
trưởng thành đến trước lúc đi làm dâu. Sự khéo léo, chăm chỉ biết may vá các
bộ trang phục cho mọi người trong gia đình là điều luôn được răn dạy và
truyền lại trong gia đình cho các thế hệ phụ nữ. Sự chăm chỉ của người con
gái Mông thể hiện bằng việc ra ngoài dù là đi đâu thì cũng không lúc nào
quên mang theo cuộn lanh
58
Gầu Mông đi ngắm hoa trăng hoa trời bay lên,
Cầm liền nắm lanh sợi cuộn lên tay
Chớ đùa [45;125]
Các cô gái Mông còn tự chuẩn bị sính lễ để dành tặng cho chồng, đây
cũng là minh chứng cho sự khéo léo, chăm chỉ và vẻ đẹp, giá trị của cô gái
Mông. Sản phẩm các gầu Mông tạo ra thể hiện sự đảm đang, giỏi giang, biết
lo toan công việc. Chàng trai Mông nào cũng mong muốn tìm được một cô
gái như vậy :
Em may miếng may hoa văn xinh
Cho anh đem trải đất nằm
… Em thêu mảnh thêu hoa văn đẹp
Cho anh đem trải đất ngủ
Yêu đủ [45;126]
Thế nhưng với truyền thống văn hóa xã hội đặt trung tâm vào chế độ
phụ hệ thì người phụ nữ lẽ đương nhiên bị đẩy ra ngoại vi. Xã hội Mông với
cán cân quyền lực nghiêng về người đàn ông thì người phụ nữ phải chịu trăm
ngàn áp bức đè trên vai. Thân phận cay đắng, tủi nhục khiến những đau khổ
của người phụ nữ thêm chồng chất. họ chủ yếu được phán ánh trong dân ca
với nỗi đau khổ và bế tắc. Xã hội Mông là xã hội phụ hệ. Bởi vậy, vai trò của
người đàn ông được đề cao hơn. Người đàn ông là trung tâm của xã hội, của
gia đình và lẽ tất nhiên vị thế cả người phụ nữ thấp kém hơn hẳn. Họ bị đẩy ra
ngoài trung tâm, phải chịu những quy định hết sức khắt khe, nhiều khi là vô lí.
Xã hội nam quyền đặt lên vai họ những gánh nặng khiến người phụ nữ phải
chịu trăm ngàn cay đắng. Đây cũng là nguyên nhân lớn gây nên những khổ
đau mà người phụ nữ Mông phải gánh chịu. Thêm vào đó, người phụ nữ
Mông không có thói quen li dị nên họ cam chịu, chấp nhận dù số phận có bất
hạnh đến đâu. Và phản ứng tiêu cực nhất mà họ lựa chọn để phản kháng với
59
số phận là cái chết. Nhìn từ dân ca Mông, thân phận người phụ nữ cất lên
những tiếng kêu đầy ai oán bởi họ bị đánh đập, bị hành hạ. Không khí bao
trùm quanh họ luôn là sự ảm đạm, khổ não của kiếp làm dâu. Cuộc sống của
các Gầu Mông luôn bị lệ thuộc, hiếm khi được tự quyết định số phận mình:
Em sinh ra làm con gái bố mẹ
Em không đi được chín núi vượt chín đồi
Cân phải đủ [45;137]
Rất nhiều các bài dân ca khác cũng phản ánh tình trạng tương tự:
Gầu Mông lòng dạ hết đường thoát
Đành quay lại nhà bố mẹ ta
Em gái tôi [45;115]
Người đàn ông luôn đóng vai trò trung tâm trong gia đình. Người phụ
nữ hầu như chỉ đóng vai trò ở ngoại vi trung tâm. Gánh nặng đè lên vai họ
khiến họ phải chịu trăm ngàn cay đắng. Nỗi khổ đau của người phụ nữ vì thế
cũng được thể hiện sâu sắc hơn. Nguyên nhân nỗi khổ của người phụ nữ
thường đến từ người chồng không tốt hoặc sự ghẻ lạnh từ gia đình nhà chồng.
Thêm vào đó, người phụ nữ Mông không có thói quen li dị, họ chấp nhận cam
chịu và những lời dân ca như một phương tiện giải tỏa nỗi ai oán của họ. Nhìn
vào dân ca Mông cảnh những người phụ nữ đã đi làm dâu thường đến từ sự
ép buộc của cha mẹ. Họ đi làm dâu trong nước mắt. Không khí xung quanh
họ luôn mang màu sắc ảm đạm của sự hành hạ cả về thể xác và tinh thần.
Quyền lợi trong xă hội người Mông được xếp theo thứ tự: Quyền lợi
đàn ông – quyền lợi dòng họ - quyền lợi người phụ nữ. Người phụ nữ đứng
thấp nhất trong việc phân chia quyền lợi xã hội. Khi đi lấy chồng, mọi tài sản
của người phụ nữ đều trở thành của nhà chồng, thậm chí bản thân người phụ
nữ lúc này cũng không được làm chủ chính mình. Đã bước qua cánh cửa, đã
bị nhận mặt thì chết cũng phải làm ma nhà chồng. Thêm nữa ở người Mông,
60
phổ biến cấu trúc gia đình một vợ một chồng, rất ít khi thấy các cặp vợ chồng
Mông li dị. Chúng ta dễ dàng bắt gặp ở mảnh đất vùng cao hình ảnh người
phụ nữ Mông kiên nhẫn ngồi bên người chồng say rượu nằm ngả mình bên vệ
đường. Người vợ ấy sẽ ngồi chờ cho đến khi người chồng tỉnh rồi hai vợ
chồng mới trở về. Nếu chồng chết, người Mông có tục nối dây, người phụ nữ
Mông có thể lấy em chồng và vẫn là người nhà chồng.
Xuất phát từ việc trọng nam khinh nữ mà nhiều bậc cha mẹ đã gả bán
con gái mình để lấy của hồi môn. Những người con gái được gả bán vào hôn
nhân như vậy thường không có hạnh phúc. Nhiều gia đình nhà chồng hỏi vợ
cho con chỉ là để kiếm thêm một nhân lực lao động cho gia đình. Nỗi đau khổ
của người con gái Mông còn đến từ gia đình nhà chồng. Những câu dân ca
chân chất, mộc mac đã diễn tả nỗi đắng cay, tủi nhục đầy ấm ức của các co
gái Mông khi về làm dâu trong cái nhìn xét nét đầy cay nghiệt của gia đình
nhà chồng. Tục ngữ Mông có câu Mẹ già mẹ không làm được mẹ phải mua
dâu. Điều này tồn tại khá phổ biến trong văn hóa Mông khi người con dâu
được mua về được hợp thức hóa qua một cuộc hôn nhân để làm thay mẹ
chồng những công việc gia đình, làm thân trâu ngựa cung phụng cho nhà
chồng, gánh tất cả những công việc nặng nhọc ở nhà chồng. Phận làm dâu của
các cô gái Mông dường như trở thành phận làm thuê, là mướn.
Đám cưới người Mông có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế. Nếu như
ở người Thái muốn gả con gái đi phải kèm theo số lễ vật lớn thì ngược lại, với
người Mông, các chàng trai muốn cưới được vợ phải bỏ ra một số sính lễ
không nhỏ. Tục thách cưới cao khá phổ biến ở các đám cưới dân tộc Mông.
Việc cha mẹ gả bán con gái có ý nghĩa quan trọng về kinh tế với gia đình nhà
gái. Lễ vật thách cưới là nguồn tài sản hậu hĩnh mà gia đình cô gái nhận được.
Vì vậy không hiếm thấy các cô dâu trẻ người Mông kết hôn khi tuổi vẫn còn
khá nhỏ. Trong dân ca không hiếm thấy những cảnh ngộ đầy éo le khi cha mẹ
gả con gái đi quá sớm:
61
Gầu Mông lại nhà
Vớ dây thừng quàng lên cành đa
Định thế cho vĩnh viễn biệt tăm
Quỳ gối đòi [45;136]
Thân phận đau khổ, buồn thương, oan ức của người con gái Mông khi bị nhà
chồng đày đọa còn gắn với hình ảnh lá ngón, hình ảnh gắn liền với sự phản
kháng cho số phận của biểu tượng về gầu Mông:
Gầu Mông vẫn sợ ăn lá ngón
Nhưng làm sao hết được đau lòng
… Nuốt thì lá độc thật đắng kinh
Lá ngón tan gầu Mông hết thở
Em gái tôi [45;96]
Tuy biểu tượng về người phụ nữ trong dân ca Mông không phải lúc nào
cũng là sự cay đắng, tủi nhục. Đó còn là sự khát khao đầy sức sống của những
thiếu nữ Mông vùng cao. Những buổi hò hẹn dưới đêm trăng. Nhưng trong
dân ca hầu hết là những mảnh đời bất hạnh, cay đắng với hình ảnh buồn khổ,
đau thương được khắc họa rõ hơn khi nhắc đến biểu tượng về gầu Mông.
Biểu tượng gầu Mông đại diện cho vẻ đẹp của những thiếu nữ người
Mông nhưng đồng thời cũng gợi nên thân phận buồn khổ của họ. Mối quan hệ
giữa người mẹ và các cô gái Mông là sự chuyển tiếp vị trí bà chủ gia đình.
Biểu tượng gầu Mông là hình ảnh người phụ nữ Mông với cuộc sống của họ.
Qua đó thể hiện sự trân trọng những ước mơ của người phụ nữ về một cuộc
đời hạnh phúc và khẳng định vị trí của người phụ nữ trong đời sống văn hóa.
Tiểu kết chương 2
Qua những biểu tượng về thiên nhiên và về con người trong dân ca Mông,
chúng ta thấy bức tranh văn hóa tinh thần của đồng bào nơi đây hiện ra rõ nét
hơn. Hệ thống biểu tượng ăn hóa đã thể hiện những quan niệm của dân tộc
Mông về con người và hiện thực đời sống. Biểu tượng thiên nhiên vừa là sự lí
62
giải của người Mông về vũ trụ, vừa mang đậm yếu tố tâm linh, gắn kết tinh thần
người Mông bao thế hệ. Biểu tượng con người là sợi dây kết nối các thành viên
trong gia đình và rộng hơn là cả dòng họ và cộng đồng người Mông. Những biểu
tượng văn hóa ấy góp phần làm nên nội dung đặc sắc cho dân ca Mông, làm giàu
thêm những giá trị văn hóa cho dân tộc Mông.
Hệ thống biểu tượng thiên nhiên và con người trong dân ca Mông mang
những dấu ấn tiêu biểu của văn hóa Mông. Nhờ vào hệ thống biểu tượng ấy,
chúng ta có những hình dung cơ bản về con người, về cuộc sống của đồng bào
Mông ở Hà Giang nói riêng và cộng đồng dân tộc Mông tại Việt Nam nói chung.
Các giá trị văn hóa Mông kết tinh qua hệ thống biểu tượng trong dân ca trở thành
kho tàng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa cổ truyền dân tộc Mông.
63
Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA
TRONG DÂN CA MÔNG HÀ GIANG
3.1. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ xây dựng biểu tượng được khảo sát trong luận văn là ngôn ngữ
tiếng Việt được chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Mông do nhà thơ, nhà nghiên
cứu văn hóa dân người Mông Hùng Đình Quý dịch. Bản thân là người dân tộc
Mông, có những am hiểu sâu sắc về văn hóa dân tộc mình, bản dịch của tác giả
Hùng Đình Quý đươc nhận định là sát với nguyên tác. Những hình ảnh so sánh
đậm đà hương vị dân tộc cũng được ông lựa chọn từ ngữ tiếng Việt tương ứng
mà không làm mất đi màu sắc riêng của ngôn ngữ dân tộc mình.
Qua bản dịch của Hùng Đình Quý, chúng tôi khám phá nghệ thuật xây
dựng biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông qua ba phương diện của ngôn ngữ:
ngôn ngữ giàu hình ảnh, ngôn ngữ giàu nhịp điệu, ngôn ngữ giàu cảm xúc.
3.1.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh
Đặc điểm nổi bật của dân ca Mông là các hình ảnh, chất liệu để xây dựng
biểu tượng luôn gắn với thiên nhiên, với hoàn cảnh sống và điều kiện sinh hoạt
gần gũi của chính đồng bào. Dân ca Mông sử dụng nghệ thuật so sánh biểu
tượng với cách so sánh, ví von dùng cái cụ thể, gần gũi nhất để nói về cái trừu
tượng xa xôi khiến người đọc, người nghe dễ dàng hình dung, cảm nhận được
cảm xúc tỏa ra từ chiều sâu của tứ thơ, hồn thơ
Trong dân ca Mông, các biểu tượng gắn bó mật thiết với môi trường và tâm
lý đồng bào. Các biểu tượng nói về số phận hẩm hiu, cảnh đời tủi cực của gầu
Mông trong cảnh làm dâu thường gắn với hình ảnh con đường, hình ảnh lá ngón:
đường làm dâu con đường lạ không biết chốn [45;102], Gầu Mông làm dâu
đường xa tít mù [45;106], đường làm dâu đường tối đen, con đường gầu Mông
làm dâu như đường hoang, như đường khóc, con đường ống đũa, ống tre,...,
[46;128]. Lá ngón tan gầu Mông hết thở [45;96], Đi nằm cùng khóm ngón xanh
64
[45;115]. Hình ảnh cuộc đời của gầu Mông đi làm dâu là đời buồn tênh, đời
buồn tẻ [46;129], buồn đến chết lả... [46;156]. Nỗi đau khi bị gả bán, ép duyên:
Nhà Mông lạ đem gầu Lía mổ ăn
... moi gan lấy lòng
... Đem nấu canh húp
Đãi cả nhà Mông kia một đám khách
Ai cũng khen vừa ý vừa lòng [47;149]
Biểu tượng về người cha, người mẹ cũng được khắc họa bằng những hình
ảnh chân thực, gần gũi với chính cuộc sống người dân Mông. Nỗi bất hạnh khi
người cha, người mẹ mất cũng được diễn tả lên bằng hình ảnh cụ thể:
Bố mẹ giang tay luôn trên đá
... Sợ sẽ như xa quay xa đòi con thoi
… Sợ sẽ như xa quay xa đòi quàng ách. [47;210]
Cha mẹ mất đi để cho cái cuốc, cái cày bị mọc rêu…Để cho cái cuốc, cái
cày bị mọc rễ…. [47;219]. Cái chết của người phụ nữ Mông trong dân ca Mông
cũng được thể hiện bằng những hình ảnh biểu tượng như:
Quay lưng em chống đất
Quay ngực em chống trời
...chân bám thung tay bám núi
...chân bám núi tay bám thung [47;230]
Có hiểu được tính chất của sự vật, sự việc, hiện tượng thì mới hiểu sâu sắc
ý nghĩa những lời so sánh ví von ấy. Sử dụng so sánh tu từ dày đặc, ẩn dụ tu từ
kín đáo và tinh tế, chất liệu để xây dựng hình tượng nghệ thuật gắn với thiên
nhiên, với đời sống sinh hoạt thể hiện rõ cách cảm cách nghĩ của đồng bào
Mông.
Phải khẳng định rằng những hình ảnh tạo nên biểu tượng trong ngôn ngữ
dân ca Mông là ngôn từ mộc mạc, giản dị nhưng đã được kết tinh, gọt rũa
hàng ngàn đời. Ngôn ngữ có sự kết hợp hài hòa lời ăn tiếng nói của nhân dân,
65
rất gần gũi với nhân dân, mang đậm bản chất lối ăn nói hàng ngày của một
dân tộc, đặc biệt là rất giàu hình ảnh, nhạc điệu theo ngôn ngữ riêng của dân
tộc Mông. Trong dân ca các hình ảnh so sánh được sử dụng khá phổ biến để
xây dựng biểu tượng. Sự so sánh được nhấn mạnh để cụ thể hóa trạng thái của
thiên nhiên, của tình cảm con người. Cách so sánh của người Mông cũng thật
bình dị mà độc đáo. Tác giả dân gian đặt những câu chữ, những chi tiết,
những hình tượng đẹp, chân thực để đi cùng biểu tượng. Cái đẹp thơ mộng
mang dáng dấp tâm hồn, tính cách của con người miền núi dịu dàng, hiền hậu,
đáng yêu.
Biểu tượng trong dân ca Mông được xây dựng bằng ngôn từ với những
quy ước cộng đồng. Thế giới biểu tượng này vừa mang những đặc điểm của
biểu tượng nói chung, vừa mang những nét riêng đặc thù của nó do nghệ thuật
ngôn từ, nghệ thuật dân ca và văn hóa truyền thống cộng đồng dân tộc Mông
quy định. Biểu tượng trong dân ca là những hình ảnh được một cộng đồng chấp
nhận và sử dụng rộng rãi, phổ biến, mang đậm tính truyền thống. Để tạo nên
biểu tượng, nghĩa đen, nghĩa biểu vật của các từ ngữ sẽ là cơ sở để từ đó người
tiếp nhận khai thác nghĩa bóng, nghĩa biểu cảm. Được xây dựng trên cơ sở tính
hàm nghĩa, hàm xúc của ngôn ngữ văn chương. Hệ thống biểu tượng văn hóa
trong dân ca Mông đã góp phần làm cho ngôn ngữ của loại hình dân ca này
mang tính đa nghĩa và giàu màu sắc khơi gợi. Rõ ràng ở đây trời, núi, nước,
đất, người cha, người mẹ, đrâu Mông, gầu Mông không còn được hiểu như
chính nó trong thực tại, mà đã trở thành hình thức biểu đạt chứa đựng nội
dung...., một nội dung mà ta chỉ có thể nắm bắt được khi hiểu sâu sắc về phong
tục, tập quán, văn hóa Mông thì mới có thể cảm thụ những biểu tượng trên.
3.1.2. Ngôn ngữ giàu nhịp điệu
Tồn tại trong cuộc sống dưới hình thức sinh hoạt diễn xướng, thơ ca dân
gian Mông mang đậm lối đối đáp, dù bài thơ còn giữ nguyên kết cấu hai vế hay
chỉ còn lưu lại hình thức một vế thì dấu ấn của lối đối đáp vẫn in khá rõ trong
66
cách thể hiện. Thủ pháp trùng điệp cũng góp phần giúp ngôn ngữ tạo nên biểu
tượng với sự tràn đầy của cảm xúc, tăng sức thuyết phục của lí lẽ và tính nhất
quán của biểu tượng. Sự có mặt của các từ, cụm từ ngữ được lặp đi lặp lại nhiều
lần và mỗi lầm lặp lại đều có sự biến đổi đôi chút theo quy luật phù hợp với âm,
vần khiến việc lặp lại không bị nhàm chán, đơn điệu, vừa sinh động, vừa khắc
họa rõ ý đồ nghệ thuật, vừa tạo nên sắc thái biểu đạt riêng cho các biểu tượng. Thủ
pháp kết cấu trùng điệp được sử dụng hầu hết trong tất cả các bài dân ca Mông để
khắc họa rõ nét tính chất của biểu tượng, ý nghĩa của biểu tượng văn hóa như tăng
lên gấp bội với sự lặp lại cấu trúc ngôn ngữ này. Biểu tượng về người cha với uy
quyền dường như tăng nhiều thêm sau mỗi lần lời ca dao lặp lại:
Bố gầu lía lòng không yêu
Bắt gả gầu lía cho nhà Mông lạ
Đem mổ làm đám rượu
Bố gầu lía lòng không thương
Bắt gả gầu lía cho nhà Mông kia
Đem thịt làm đám cưới. [47;149]
Về cơ bản, nhịp điệu ngôn từ trong dân ca Mông đến từ việc các khổ thơ
đã bao hàm cả thủ pháp điệp từ, điệp câu. Việc lặp lại không hề gây nhàm
chán, đơn điệu bởi một số từ ngữ đã được thay đổi, thêm bớt, đảo trật tự, để
tạo ra nhịp điệu khi diễn xướng. Cũng chính nhờ kết cấu trùng điệp mà bài ca
dân gian Mông tuy dài nhưng không tạo cảm giác nhàm chán, trái lại vẫn hấp
dẫn, thú vị. Thủ pháp trùng điệp góp phần tạo nên nhịp điệu, tiết tấu cho khúc
hát, tạo lập mối liên kết giữa các câu thơ liền mạch cảm xúc nhất định phù
hợp với hoàn cảnh diễn xướng cụ thể. Thêm vào đó, tính chất đa thanh cùng
với sự phối hợp các âm vực cao thấp trong ngôn ngữ thơ tạo cho dân ca Mông
nhịp điệu cân đối, hài hòa về cả số lượng câu chữ và thanh điệu. Các biểu
tượng nhờ nhịp điệu ngôn ngữ mà cứ thế ra đời.
67
Các câu dân ca được lặp đi lặp lại như một biện pháp nghệ thuật nhằm tạo
nhạc, giữ nhịp, phép song hành trong lời hát dân gian tộc người. Sự tái lặp lại
chuỗi ngôn từ chứa đựng những vết tích tâm lý đặc biệt, kiểu ám ảnh ngôn
ngữ quyết định số phận nghĩa văn bản. Các câu hát lặp lại phần lời trong dân
ca Mông vì thế biểu trưng cho vô thức tập thể tộc người. Có thể nói những
câu hát được lặp lại như quan niệm về cuộc đời cũng như cuộc hát, bất tận
tưởng như không hết.
Tính chất này luôn gắn bó mật thiết với nhau tạo thành quy luật sóng
đôi của các biểu tượng trong dân ca. Cấu trúc đối xứng song song trong các
dòng thơ, khổ thơ xuất hiện với mật độ rất cao trong dân ca Mông. Có thể chỉ
ra bất kì cặp thơ nào, bất cứ khổ thơ nào trong dân ca Mông cũng có thể thấy
sự đối xứng trong cấu trúc song song đó. Đây có thể coi là tính chất đối đáp,
trò chuyện trong dân ca. Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông cũng ra đời
nhờ thủ pháp đối ngẫu này. Các ý biểu nghĩa biểu trưng của biểu tượng được
so sánh với những nét tương đồng trong bức tranh miêu tả tự nhiên và tình
cảm con người. Biểu tượng vì vậy gắn chặt với ngôn ngữ tạo nên sự nhất
quán trong ý nghĩa của biểu tượng:
Gầu Mông rằng đrâu Mông
Giá em lấy được anh
Hồn vía anh để em làm ô bênh,
Có một cành đâm chồi lê
Gầu Mông rằng đrâu Mông
Giá em lấy được anh
Bóng hình anh để em làm ô che.
Đrâu Mông rằng gầu Mông
Anh trở lại đến nhàn
68
Anh sắm tiền cho đầy gang tay
Anh sẽ cưới em về làm người vợ hay
Anh sắm tiền cho đầy ngăn tủ
Anh sẽ cưới em về làm người vợ tốt [46;160]
Sức biểu đạt của biểu tượng gầu Mông và đrâu Mông dường như cảm
xúc hơn, tăng sức thuyết phục hơn, giàu ý nghĩa hơn nhờ phần đối ngẫu này.
Ngôn ngữ trong kết cấu đối ngẫu tạo nên sự rung cảm bởi vẻ đẹp của biểu
tượng các chàng trai, cô gái Mông.
Tồn tại dưới dạng các làn điệu dân ca và những câu nói có vần nhịp, thơ
ca dân gian Mông trở thành phương tiện sinh hoạt, kinh nghiệm sống, lưu giữ
nếp sống cộng đồng, gắn liền với nhịp sống của đồng bào. Thơ ca dân gian
Mông được dùng trong mọi sinh hoạt sống thác của người Mông. Đặc điểm nổi
bật trong thơ ca dân gian Mông là mỗi bài gồm nhiều khổ thơ, mỗi khổ thơ gồm
2 vế, vế sau lặp lại hoàn toàn vế trước chỉ khác ở từ để gieo vần. Biểu tượng
trong dân ca Mông vì thế cũng dễ nhớ, dễ thuộc, dễ đi vào lòng người hơn.
3.1.3. Ngôn ngữ giàu cảm xúc
Tác giả dân gian đã lựa chọn ngôn ngữ phù hợp để thể hiện được tình
cảm có phần mộc mạc, giản dị, thẳng thắn, bộc trực của dân tộc Mông. Ngôn
ngữ ở đây không màu mè, không tìm có sự sự cường điệu, phóng đại. Chính
vì vậy, con người và thiên nhiên miền núi hiện ra rất thực, cách sử dụng từ
chính xác, sống động làm cho sự vật, hiện tượng xây dựng biểu tượng hiện ra
một cách rõ ràng, hấp dẫn.
Với hệ thống biểu tượng thiên nhiên trong dân ca Mông, tác giả dân
gian coi thiên nhiên như một sinh thể sống, chia sẻ vui buồn và tác động đến
con người. Trong đó, ngôn ngữ dùng để miêu tả thiên nhiên thường được chú
trọng nhiều hơn cả. Đó là thứ ngôn ngữ đẹp, trong sáng, thuần khiết. Cách
cảm thụ thiên nhiên khác nhau cùng ngôn ngữ đầy chất thơ trong cách miêu
69
tả, các tác giả đã đem đến cho người đọc một hệ thống biểu tượng chân thực
về bức tranh miền núi trữ tình hùng vĩ. Thiên nhiên không chỉ là một sinh thể
gắn liền với đời sống vật chất, tinh thần của con người vùng cao mà còn là
một hiện thực đặc biệt, một biểu tượng văn hóa đặc sắc của con người. Nó
đem đến một vẻ đẹp rất riêng và độc đáo cho mảng văn học này. Biểu tượng
nước góp phần thể hiện ý nghĩa cố kết tình cảm gia đình bằng cảm xúc khi vai
trò của cha mẹ không còn:
Còn bố còn mẹ ở
Là bếp nước ấm cúng
Sao mà bố mẹ chết xong
Là giường chiếu lại bị rối tung. [47;236]
Hệ thống biểu tượng thể hiện một mối quan hệ máu thịt giữa con
người và thiên nhiên. Trong nhiều trường hợp, thiên nhiên đã trở thành
người bạn thủy chung, gắn bó nghĩa tình với con người. Đối với người dân
tộc thiểu số, thiên nhiên mang thật nhiều ý nghĩa khi vừa là môi trường
sống, vừa là không gian sinh tồn, vừa chở che, bầu bạn, thấu hiểu, cảm
thông và bồi đắp tình cảm, thanh lọc tâm hồn con người. Do đó, thiên
nhiên còn được coi là đối tượng “đặc biệt”, một “sinh thể sống” được chính
con người bảo vệ và gìn giữ.
Với hệ thống biểu tượng về con người, trong dân ca Mông mọi cung bậc và
trạng thái tâm hồn con người dù là những chuyện kể gia đình đầm ấm cho đến
những nghịch cảnh éo le gây nên bao đau thương uất hận... đều được diễn tả một
cách sống động. Tâm lý, thị hiếu và điều kiện sống không phải bao giờ cũng
đồng nhất giữa các dân tộc cho nên bên cạnh những nét chung, thơ ca dân gian
Mông vẫn nổi rõ sắc thái biểu hiện riêng trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh
không trộn lẫn với các dân tộc khác. Dân ca đưa vào thơ cảm xúc sinh hoạt đời
thường. Coi trọng hạnh phúc gia đình, đề cao tình yêu chân chính của các chàng
70
trai, cô gái Mông, hay những ước mơ lại thật giản của người cha, người mẹ.
Trong dân ca Mông, ngôn ngữ đã nói hết được cái chân thành thắm thiết của
tâm trạng con người đang yêu, cái đau khổ của kiếp làm dâu, cái uy quyền đến
độc tôn của ngừi cha, sự dịu dàng, bao dung của người mẹ. Từ đó các biểu tượng
về con người được khắc họa đậm nét qua từng lời thơ. Biểu tượng người mẹ với
sự yêu thương, che chở, chỗ trú thân an toàn của những người con thể hiện rõ ý
nghĩa trong tâm trạng buồn khổ của người con gái bị đày đọa khi làm dâu:
Hỡi trời mẹ ơi!
Tiền người còn không?
Chắc phải đem tiền người trả người
Con mới hết đường than với đời,
Lợn họ còn không?
Chắc phải đem lợn họ trả họ
Con mới hết đường khóc với nợ. [47;189]
Muốn hiểu thơ ca của mỗi dân tộc, trước hết hãy hiểu chính con người và
đời sống sinh hoạt của họ. Có như vậy, mới thấy sự sâu sắc về tình yêu, sự chân
thật trong khát vọng sống của đồng bào. Ngôn ngữ giàu cảm xúc trong dân ca
Mông thể hiện ở một số giọng điệu chính như sau: giọng điệu kể, giọng tâm sự
giãi bày, giọng than vãn, oán hận hoặc có sự đan xen nhiều giọng điệu trong một
bài ca. Thơ ca dân gian Mông không mượt mà mà có tính chất gãy khúc, nhấp
nhô do đặc thù ngôn ngữ và thể thơ. Lời thơ mang nhiều chất văn xuôi, đồng
điệu với mạch tư duy của người Mông, không gò ép trong phạm vi câu thơ,
không giới hạn số lượng chữ trong câu. Cái thường ngày của đời sống đi vào câu
ca rất tự nhiên; cái thô mộc, mạnh mẽ với những biến đổi bất thường có sức
chinh phục người nghe trước những bài ca của đồng bào.
71
3.2. Quan niệm nghệ thuật của tác giả dân gian Mông
3.2.1. Quan niệm về thiên nhiên
Người Mông có nhiều tập tục văn hoá với những nét đẹp phong tục dân
tộc. Đồng bào quan niệm sống đa thần, chung đạo lý cộng đồng. Sống hoà
hợp thiên nhiên môi trường con người xã hội. Chính điều kiện cư trú mà
người Mông lựa chọn trong suốt nhiều thế kỉ đã tác động sâu sắc đến văn hóa
của họ. Các biểu tượng trời, núi, đá, nước vì thế cũng được sinh ra trong dân
ca Mông từ những dấu ấn của thiên nhiên vùng cao mang lại. Thiên nhiên đã
in hằn trong tâm trí và khảm sâu trong tâm hồn những người Mông nơi đây
những dấu ấn rõ rệt. Người Mông đưa thiên nhiên về bảo vệ cuộc sống của
mình, thích ứng với thiên nhiên để tồn tại. Đó là một quy luật sinh tồn bền
vững nhất. Từ đời sống vật chất, thiên nhiên đã thấm vào đời sống tinh thần
của đồng bào và cất lên thành những lời ca:
Trời đất thủa rất xa vời
Có những chín mặt trời,
Đất trời thủa xa xăm
Có những chín mặt trăng.
Ngọn nguồn [46;105]
Biểu tượng trong dân ca Mông thường được chọn tái hiện bằng những
hình ảnh thực tế pha lẫ chút lãng mạn và huyền ảo. Các biểu tượng mang vẻ
đẹp kì bí nhưng đượm buồn như những đỉnh núi cô đơn, xa xăm, trập trùng, suốt
đời mù sương khói, đẹp như những dải nắng nơi miền đất vùng cao lụa là, những
mỏm đá tai mèo vươn mình lên bầu trời. Những ví von, so sánh mang tính tượng
trưng làm cho thơ ca Mông xuất hiện những biểu tượng đầy dấu ấn.
Không gian cư trú của người Mông được nối liền bởi đỉnh những ngọn
núi đá dựng đứng như gần chạm đến bầu trời. Cảm quan vũ trụ hỗn mang,
hoang sơ buổi ban đầu của loài người chi phối cách xây dựng hệ thống biểu
72
tượng thiên nhiên trong dân ca: Lúc này trời đất vũ trụ u mờ lặng ngắt… xưa
kia biển dâng ngập trời, nước sông dâng ngập đất [12;184]. Ẩn bên trong sự
hoang vu, hỗn mang đó là cuộc sống, sự sống và trật tự trên trần gian được
dần dần thiết lập. Các biểu tượng thiên nhiên trong dân ca Mông là những
mẫu gốc văn hóa Mông tiêu biểu cho tâm hồn, cốt cách, quan niệm thẩm mĩ
của tộc người gắn bó với vùng rừng núi phía Bắc. Đặt trong một hệ thống,
các biểu tượng thiên nhiên vừa là sự lí giải buổi ban đầu lịch sử của người
Mông, vừa mang ý nghĩa thể hiện đời sống tâm hồn, tâm linh của những con
người miền núi. Sự hướng về cội nguồn và truyền thống văn hóa dân tộc
cũng là đây. Mỗi biểu tượng thiên nhiên ra đời đều gắn bó sâu sắc với không
gian quê hương:
Cái nhà cửa chính xây bằng đá xanh
Cho người già sống ấm êm
Cho con em lập gia đình,
Cái cửa nhà chính xây bằng đá phiến
Cho người già sống ấm êm
Cho con trẻ xây gia quyến
Bõ thời son trẻ [47;219]
Đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc sống với thiên nhiên, núi
rừng. Trong quá trình đó, biểu tượng được hình thành. Mang hình hài của
những sự vật tự nhiên nhưng các biểu tượng này đã được thổi vào đó những
linh hồn, ban cho những sứ mệnh, chuyển tải những thông điệp mang dấu ấn
văn hóa tộc người. Tìm hiểu những biểu tượng mang vỏ bọc thiên nhiên này
sẽ giúp ta tìm ra chìa khóa bước vào thế giới tâm hồn, tâm linh, đời sống văn
hóa muôn màu, muôn vẻ của đồng bào các dân tộc.
Có thể khẳng định, biểu tượng thiên nhiên trong dân ca Mông Hà
Giang mang vẻ đẹp tinh thần, chiều sâu văn hóa của cộng đồng dân tộc, được
73
dồn tụ theo thời gian, đắp bồi cùng năm tháng. Hệ thống biểu tượng thiên
nhiên trong dân ca Mông thể hiện quan niệm về thế giới một cách hồn nhiên về
vũ trụ mang đậm chất thần thoại, đậm tính sử thi. Thiên nhiên lúc đa sắc màu,
lúc là không gian sinh hoạt hàng ngày, nhưng có lúc lại là không gian siêu nhiên
huyền bí biểu hiện quan niệm tâm linh của con người:
Bố mẹ làm ma em ba ngày
Sẽ đem em đi chôn cùng núi đồi
Chớ đùa [46;119]
Diện mạo hệ thống biểu tượng thiên nhiên trong dân ca Mông Hà
Giang mang đậm dấu ấn môi trường cư trú của người Mông. Từ những vật vô
tri, vô giác trong tự nhiên, các biểu tượng thiên nhiên khảm sâu vào trong kí
ức cộng đồng thông qua sự quan sát, liên tưởng, thông qua phong tục, tín
ngưỡng cũng như tâm lí chung của cộng đồng. Đó không còn là những biểu
tượng tự nhiên nữa mà trở thành những biểu tượng văn hóa. Cuộc sống người
Mông luôn phải nương tựa vào thiên nhiên, con người bị thiên nhiên chi phối.
Trước vũ trụ và muôn vàn hiện tượng tự nhiên, cũng như nhiều dân tộc khác,
văn hóa Mông thể hiện sự chi phối mạnh mẽ của quan niệm vạn vật hữu linh,
của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các vị thần. Từ vai trò quan trọng
trong đời sống vật chất, đi vào đời sống tinh thần người Mông, các biểu tượng
xuất hiện và thể hiện sự gắn bó với nhiều lĩnh vực trong đời sống văn hóa
người Mông từ phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, lịch sử, xã hội... Các
biểu tượng trời, núi, nước, đá là những biểu tượng gắn liền với môi trường
sống thực tại, tồn tại xung quanh cộng đồng dân tộc Mông. Vì vậy, các biểu
tượng này đi từ cuộc sống vào dân ca Mông tự nhiên như chính cuộc sống gắn
bó bao đời nay của người Mông với thiên nhiên hoang sơ, khắc nghiệt mà tộc
người lựa chọn.
74
Trong dân ca Mông mọi biểu hiện tình cảm của con người đều liên quan
mật thiết với thiên nhiên. Thiên nhiên trở thành bối cảnh, duyên cớ dẫn dắt cảm
xúc để cho tâm trạng con người bộc lộ. Tình cảm con người luôn được so sánh,
ví von với các hình tượng tự nhiên. Biểu tượng thiên nhiên trong dân ca Mông
không chỉ có hình ảnh kì vĩ, rộng lớn mà còn là những bức tranh đẹp, sinh động
và gần gũi. Nói đúng hơn, tất cả những gì thân thuộc gắn bó với cuộc sống của
người Mông đều in bóng trong dân ca, đi vào dân ca và trở thành nét văn hóa mà
khi đọc dân ca Mông ta sẽ nhận ngay ra văn hóa Mông ở trong đó.
3.2.2. Quan niệm về con người
Thơ ca dân gian Mông phản ánh sâu sắc các mối quan hệ gia đình và cộng
đồng. Dù ở bất cứ nơi đâu, quốc gia nào, dù mới lần đầu gặp nhau nhưng khi đã
nhận ra người cùng dân tộc, đặc biệt cùng dòng họ thì người Mông coi như anh
em ruột thịt, sống chết cùng nhau. Trong thơ ca dân gian Mông, tình cảm gia
đình được nói bằng hình ảnh rất cụ thể. Dưới mái nhà Mông, mối quan hệ anh
em cũng chiếm một vị trí quan trọng. Anh em trưởng thành, dù sống gần hay xa
nhau, khác nhau về quan điểm, lẽ sống, thậm chí có thể đối lập nhau về ý thức
chính trị, khác xa nhau về vị trí trong xã hội... nhưng chẳng ai có thể quên cái
gốc “cùng ma” của gia đình và dòng họ.
Đồng bào Mông rất coi trọng và đề cao mối quan hệ gia đình và có quan
niệm rất rõ ràng: Một tay cầm không chắc, một chân đứng không vững, ở một
mình không thể gọi là một gia đình. Trong gia đình người Mông, nam giới là
nhân tố được quan tâm hàng đầu trong xã hội, là cốt lõi của gia đình, là “hình
bóng” của cha mẹ, là niềm tin của thế hệ đi trước. Thân phận của người phụ nữ
được thể hiện rõ qua mối quan hệ “nam tôn nữ ti” giữa các thành viên của gia
đình: Nuôi con lợn béo còn được ăn mỡ/ Nuôi con gái lớn không được cái gì.
Với những người phụ nữ Mông phục tùng chồng và chăm sóc chồng được coi là
nghĩa vụ tất yếu. Mối quan hệ một vợ một chồng tồn tại vững chắc và là hạt
nhân của quan hệ gia đình người Mông.
75
Quan niệm làm người của đồng bào Mông, đã là con người ngoài những
đức tính tốt đẹp như lạc quan, yêu lao động… còn phải biết sống có tình, có
nghĩa, gắn bó với bản làng, với cộng đồng. Thành tố quan trọng được đề cao
trong xã hội truyền thống của đồng bào Mông là sự thương yêu và lòng chung
thủy. Nguyên tắc tạo sinh vũ trụ của các tộc người trên thế giới luôn tồn tại
quan niệm tình yêu sinh nở thế giới. Vũ trụ, vạn vật được hình thành qua con
đường kết hợp và sinh thành. Con người cũng xuất hiện khởi nguyên từ các cặp
nam – nữ mà thành. Với người Mông đó là hình ảnh ông Chày và bà Chày:
Nước suối tràn mặt đất
Tiên nữ hộ trần gian sinh muôn loài về
Nước suối trôi thung sâu
Tiên nữ giúp trần gian đẻ muôn loài cho
Thành gia đình [47 ;155]
Gia đình và dòng họ với các thế hệ nối tiếp nhau là nền tảng cho tộc
người lớn mạnh và phát triển. Trong quá trình dịch chuyển tìm vùng đất mới
để tồn tại và khai phá vùng đất mới để canh tác thì mỗi gia đình tự đóng vai
trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của chính mình. Mỗi gia đình
người Mông xây dựng cho mình những pháo đài kiên cố thể hiện sự độc lập,
chủ động, tự chủ của mình trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Người Mông
không mang trên mình gánh nặng tâm linh. Với họ chỉ có gia đình và dòng họ
- siêu gia đình mới thực có vai trò lớn lao trên những chặng đường di chuyển.
Sự gắn kết giữa con người với con người, con người với cộng đồng, với
dân tộc thể hiện qua ngôi nhà. Nhà chính là sự gắn kết đầu tiên của người
Mông. Nhà là nơi gặp gỡ sau những ngày làm viêc vất vả, vui đùa bên người
thân. Về với nhà là về với sự xum vầy, ấm cúng. Nét đặc biệt trong gia đình
người Mông đó chính là bếp lửa bởi cái bếp giữ nhà của người Mông là cả
một câu chuyện về sinh tồn và gắn kết. Đây cũng là không gian quây quần
76
chuyện trò của các thành viên trong gia đình. Vì thế, bếp chính là nơi gắn bó
tình cảm giữa những người ruột thịt. Từ trên cao nhìn xuống những ngôi nhà
người Mông quần tụ thành từng khối cách biệt. Điểm dễ nhận thấy có thể là
năm, là bảy hoặc thậm chí là mười nhà sát với nhau trong hàng rào đá. Họ là
anh, là em, là họ hàng ruột thịt. Người Mông rất quan trọng dòng họ, họ quan
niệm, người cùng dòng họ là những người anh em có cùng tổ tiên, có thể đẻ và
chết chung nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau. Người Mông quan niệm khi
sống cùng họ, lúc chết cùng ma và vì thế nhà người Mông gắn bó với nhau và
những đứa trẻ người Mông khi sinh ra đã sống trọng sự gắn kết dòng tộc:
Cái nhà cửa chính xây bằng đá xanh
Cho người già sống ấm êm
Cho con em lập gia đình,
Cái cửa nhà chính xây bằng đá phiến
Cho người già sống ấm êm
Cho con trẻ xây gia quyến
Bõ thời son trẻ [47;219]
Nghi lễ của dòng họ và những sinh hoạt chung của gia đình người Mông
là tập hợp các nguyên tắc ứng xử mang tính tộc họ. Việc thực hành các nghi
lễ dòng họ và những sinh hoạt chung của gia đình không chỉ đáp ứng nhu cầu
tâm linh, giải tỏa vấn đề tâm lý, niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện tập
quán tộc người mà còn là dịp để người già trao truyền cho con cháu (con trai)
học phong tục và nhắc cho các thành viên nhớ rõ anh em trong họ tộc. Như
vậy, thông qua việc thực hành các nghi lễ dòng họ và những sinh hoạt chung
của gia đình, người Mông sẽ bảo lưu, duy trì và phát huy bản sắc văn hóa tộc
người mình.
Người Mông sống gắn bó, thủy chung nên gia đình ít bị tan vỡ. Vợ
chồng con cái luôn ở bên nhau, trong nhà ngoài nương, khi đi chợ phiên hay
77
nhà thờ, họ thường đi cả gia đình. Các em bé sơ sinh thì được mẹ địu trên
lưng hay trước ngực, lớn hơn một chút sẽ được bố cõng hay dắt tay. Sự gắn
bó còn được thể hiện qua việc cả gia đình chỉ có một chiếc giường, cha mẹ
con cái chen chúc trên đó; bữa cơm không có chuyện kẻ trước người sau, mà
cả nhà cùng ăn. Cuộc sống túm tụm quây quần, không ai chịu đi xa. Họ chấp
nhận thà nghèo khổ mà có nhau, còn hơn giàu có mà xa nhau. Trong gia đình
có tôn ti trật tự, chồng có ưu thế hơn vợ, con cái vâng nghe cha mẹ, anh có
quyền hơn em; nơi bản làng cũng thế, người trưởng bản được mọi người tuân
phục răm rắp.
Văn hóa gia đình, dòng họ có vai trò quan trọng trong thiết chế xã hội
của người Mông. Hệ thống biểu tượng về con người trong dân ca Mông là sự
thể hiện cấu trúc hình mẫu ấy. Sự trao truyền từ thế hệ người Mông này sang
thế hệ người Mông khác gắn bó trực tiếp với văn hóa gia đình. Các biểu
tượng Người cha, Người mẹ, Đrâu Mông, Gầu Mông đòng vai trò là những
hạt nhân cơ bản trong cấu trúc gia đình người Mông. Nếu như dòng họ của
người Mông được coi là một đơn vị để cố kết cộng đồng theo huyết thống thì
gia đình của người Mông là một đơn vị kinh tế, văn hóa. Ngoài chức năng tạo
lập và sản xuất ra của cải vật chất, tích lũy tài sản, tổ chức lao động cho các
thành viên trong gia đình thì vai trò quan trọng nhất của gia đình là nơi tái sản
xuất ra con người. Cũng chính từ gia đình, các truyền thống văn hóa tộc
người, từ cách ăn ở, các tri thức dân gian, kinh nghiệm trong lao động và đặc
biệt là các lễ tục… được lưu giữ, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Gia đình chính là cái nôi hình thành và phát triển văn hóa truyền thống
của một tộc người, bởi vậy khi nghiên cứu văn hóa của người Mông trước hết
cần tìm hiểu về gia đình họ. Gia đình người Mông là một đơn vị kinh tế và
đồng thời cũng là một đơn vị văn hóa có vai trò quan trọng trong việc trao
quyền và phát huy các yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc. Các bài hát
78
dân ca truyền thống qua đó được các thế hệ ông bà, bố mẹ truyền lại cho con
cháu. Gia đình là môi trường thuận lợi để các thế hệ trẻ tiếp cận yếu tố văn
hóa truyền thống từ những người thân của họ. Thông qua môi trường gia đình
mỗi thành viên cũng tự học cách ứng xử và nếp sống văn hóa của dân tộc.
Thế giới biểu tượng trong thơ ca dân gian Mông phong phú và đa dạng.
Từ sự quan sát tự nhiên và cuộc sống hàng ngày, biểu tượng hình thành trong kí
ức và chuyển thành nghệ thuật, giúp người đọc có thể hiểu thêm về đời sống
phong tục và tâm lí cộng đồng của một dân tộc. Thế giới biểu tượng gắn với tiềm
thức dân gian đã cộng hưởng với nhau tạo nên rung động thẩm mỹ, màu sắc
riêng của dân ca Mông. Hành trình khám phá biểu tượng trong văn học là hành
trình trở về cội nguồn văn hóa với những giá trị chân, thiện, mỹ của mỗi dân tộc.
Tiểu kết chương 3
Để tạo ra biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang có rất nhiều
yếu tố, trong đó ngôn ngữ và quan niệm nghệ thuật là hai phương diện có ý
nghĩa nhất góp phần tạo nên những biểu tượng về thiên nhiên và con người.
Ngôn ngữ và quan niệm nghệ thuật của tác giả dân gian Mông là sản phầm
của đời sống văn hóa dân tộc Mông, mang dấu ấn về nhân sinh quan, thế giới
quan, phương thức tư duy của cả cộng đồng. Nhờ đó, các biểu tượng khẳng
định được giá trị văn hóa của mình trong dân ca và trong cả đời sống xã hội.
Ngôn ngữ trong dân ca Mông là một phương tiện quan trọng tạo nên
những biểu tượng văn hóa để biểu hiện tâm hồn, tư tưởng của người Mông.
Ngôn ngữ không cầu kì, bóng bẩy mà chân thực, gian dị với cách nói ví von,
giàu hình ảnh, nhịp điệu và cảm xúc đặc trưng của cuộc sống người Mông đã
tạo nên phong cách riêng cho biểu tượng trong dân ca Mông. Cùng với đó là
quan niệm nghệ thuật về thiên nhiên và con người của tác giả dân gian Mông
đã ảnh hưởng trực tiếp tới việc lựa chọn biểu tượng để biểu đạt ý nghĩa văn
hóa trong từng lời ca. Dân ca Mông bởi vậy tạo được dấu ấn riêng trong nghệ
thuật xây dựng biểu tượng văn hóa.
79
KẾT LUẬN
Dân ca Mông với vị trí quan trọng trong kho tàng văn học, văn hóa dân
tộc Mông đã khẳng định giá trị to lớn của mình. Những biểu tượng văn hóa
trong dân ca Mông Hà Giang đề cập đến những dấu ấn vật chất, tinh thần
được hình thành và lưu giữ qua bao thế hệ người Mông. Trong quá trình tìm
hiểu, chọn lọc và phân tích một số biểu tượng về thiên nhiên và con người,
các biện pháp nghệ thuật tạo nên biểu tượng cũng như vị trí của các biểu
tượng trong đời sống văn hóa, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
1. Lịch sử và điều kiện sống đặc biệt của dân tộc Mông đã sản sinh ra nền
văn học dân gian Mông khá độc đáo mang đậm dấu ấn miền núi cao. Sống giữa
thiên nhiên hùng vĩ với quan niệm nghệ thuật hồn nhiên, cùng với cuộc đấu
tranh lâu dài gian khổ để chống lại thiên tai và kẻ thù, đồng bào Mông đã sáng
tạo ra kho tàng dân ca có nội dung và hình thức phong phú làm dày thêm kho
tàng văn hóa đặc sắc của dân tộc Mông, phản ánh trung thành đời sống tinh thần
của đồng bào. Dân ca Mông từ những tiếng hát lời ca, từ những lời nhắn gửi tâm
tình trở thành văn hóa dân tộc. Chính môi trường sống, phong tục tập quán và
tâm hồn con người vùng cao đã tạo nên nguồn cảm hứng cho những biểu tượng
văn hóa muôn màu sắc về thiên nhiên và con người Mông Hà Giang.
2. Dân ca Mông là một bộ phận đặc sắc trong văn hóa truyền thống dân
tộc Mông. Đó là bức tranh chân thực và sinh động về cuộc sống con người
trong mối quan hệ gắn bó với thiên nhiên và xã hội. Những biểu tượng văn hóa
trong dân ca Mông phản ánh các quan niệm về thẩm mĩ, về vũ trụ, nhân sinh,
đời sống sản xuất, tình cảm gia đình, những bất công ngang trái trong xã hội và
các cung bậc của tình yêu nam nữ v.v... thể hiện khát vọng sống mãnh liệt của
con người. Đồng thời, những biểu tượng văn hóa còn chứa đựng trong đó
những phong tục tập quán, nếp cảm, nếp nghĩ, là triết lý nhân sinh được hun
đúc lên qua nhiều thế hệ và trở thành nét văn hóa tiêu biểu của cả cộng đồng
dân tộc Mông. Từ việc tìm hiểu biểu tượng trong dân ca Mông, có thể nhận
80
thức khá đầy đủ về đời sống xã hội, tình cảm, sự gắn bó đoàn kết trong cộng
đồng người Mông, những nét tâm lí mang tính đặc thù của đồng bào Mông.
3. Bên cạnh những đặc điểm tương đồng với dân ca các dân tộc khác, dân
ca Mông có nét riêng độc đáo trong quan niệm thẩm mĩ, phương thức thể hiện,
đặc biệt là ngôn ngữ và quan niệm nghệ thuật dân gian. Biểu tượng văn hóa
trong dân ca Mông có sự kết hợp hài hòa giữa lời ăn tiếng nói hàng ngày và
ngôn ngữ nghệ thuật giàu hình ảnh, nhịp điệu, cảm xúc. Giữa kết cấu đối đáp
cùng các thủ pháp điệp từ, điệp ý thể hiện rõ hình thức biểu hiện trong môi
trường văn hóa dân gian của người Mông. Hệ thống biểu tượng trong dân ca
Mông Hà Giang hiện lên phong phú cả về nội dung và hình thức bằng những lời
thơ sống động giàu nhạc tính. Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông còn gắn
với quan niệm nghệ thuật của tộc người trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, trong
lao động sản xuất, sinh hoạt gia đình, trong hôn lễ, tang ma, trong lễ hội dân
gian, các sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh như thờ cúng tổ tiên, quan niệm “vạn vật
hữu linh”.
4. Dân ca Mông là phương tiện quan trọng để nuôi dưỡng tâm hồn người
Mông. Khi sự phát triển của kinh tế thị trường mở ra cơ hội cho việc giao lưu
kinh tế văn hoá giữa các vùng dân tộc, đời sống vật chất và tinh thần của người
Mông đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, đi kèm với đó việc bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số nói chung và của người Mông nói riêng còn
gặp nhiều khó khăn. Các sinh hoạt văn hoá trong lễ hội chưa được quan tâm
đúng mức thậm chí nhiều nơi tỏ ra mờ nhạt; nhiều bài dân ca chỉ còn lại trong kí
ức người cao tuổi vẫn chưa được sưu tầm lưu giữ. Các làn điệu dân ca đang dần
dần mai một. Việc nghiên cứu biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông là một
cách thức ghi lại những dấu ấn văn hóa Mông thể hiện qua văn học, hòa cùng
dòng chảy bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống dân tộc.
81
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Trần Thị Ngọc Anh, Tăng Thanh Phương (2018), Biểu tượng thiên nhiên
trong dân ca Mông ở Hà Giang – từ góc nhìn văn hóa, Tạp chí Lý luận Phê
bình Văn học – Nghệ thuật, số tháng 3/2018, tr63 -70.
82
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Thị Thùy Anh (2014), Nghiên cứu biểu tượng khèn trong dân
ca Mông từ văn hóa đến văn học dân gian, Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn.
2. Trần Thị An (2008), Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và
motif – Những khả thủ và bất cập, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7.
3. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
4. Nguyễn Duy Bắc (2006), Cảm nhận về văn hóa và văn học trong hành
trình đổi mới, Tiểu luận – Phê bình, Nxb Văn hóa dân tộc.
5. Công văn số: 09-cv/hđdt ngày 04/12/2001, http: hddt.gov.vn/tintuc/c-
315/Ten-goi-dan-toc-Mong.html.
6. Minh Chi (1987), Mấy Suy nghĩ về đổi mới tư duy trong văn hóa, Tạp
chí nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, Số 6.
7. Đoàn Văn Chúc (1993), Những bài giảng về Văn Hóa, Nxb văn hóa
thông tin.
8. Vũ Hồng Cường (2010), Tiếng hát tình yêu lứa đôi trong dân ca
H’Mông Hà Giang, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
9. Hờ A Di (1999), Không thương nhau sẽ khổ, Nxb Văn hóa dân tộc.
10. Chu Xuân Diên (2006), Văn hóa dân gian - mấy vấn đề phương pháp
luận và nghiên cứu thể loại, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội.
11. Đinh Xuân Dũng (2004), Văn hóa, Văn học: Tiếp nhận và suy nghĩ,
Nxb Từ điển bách khoa.
12. Giàng Seo Gà (2015), Bài tang ca của người Hmôngz Sa Pa, Nxb
Khoa học Xã hội.
83
13. Jean Chevaller (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà
Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du.
14. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15. Trần Duy Hưng (2013), Biểu tượng trong dân ca nghi lễ tang ma của
người Mông ở Hà Giang, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
16. Hùng Thị Hà (2015), Biểu tượng cây lanh trong thơ ca dân gian Mông,
www.vannghe.hagiang.gov.vn
17. Hùng Thị Hà (2003), Thơ ca dân gian H’Mông, Luận văn thạc sĩ, Đại
học Sư phạm Hà Nội.
18. Hùng Thị Hà (2015), Thơ ca dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa,
Luận án tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
19. Hùng Thị Hà (2008), Không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ ca
dân gian Mông, số tháng 8+9, Tạp chí Văn nghệ Hà Giang.
20. Hùng Thị Hà (2011), Câu dân ca trên cao nguyên đá, Tạp chí Văn hóa
các dân tộc, số 2.
21. Nguyễn Thị Bích Hà (2014), Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn
hóa, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
22. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng – một số hướng tiếp
cận lý thuyết mới, Nxb Thế giới.
23. Nguyễn Văn Hạnh Văn hoá nguồn mạch sáng tạo và khám phá văn
chương http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=10715.
24. Nguyễn Văn Hiệu Mối quan hệ giữa nghiên cứu văn học và văn hóa
học www.dlu.edu.vn/FileUpload/201132410812453.doc.
25. Hùng Thị Hiền (2006), Tình yêu trong thơ ca dân gian Mông, Tạp chí
văn nghệ Hà Giang.
84
26. Đỗ Huy (1990), Một vài suy nghĩ về bản sắc dân tộc của Văn hóa. Tạp
chí triết học, số 3, tr 26 – 30.
27. Nguyễn Thị Thu Huyền (2012), Hình tượng đá trong dân ca H’Mông,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
28. Trần Duy Hưng (2013), Biểu tượng trong dân ca nghi lễ tang ma của
người Mông ở Hà Giang, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
29. Đỗ Ngọc Hoa (2008), Diễn xướng dân ca Mông Hà Giang, Đề tài
nghiên cứu khoa học, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
30. Nguyễn Phương Hoa (2013), Tính nữ và nữ quyền trong dân ca Mông,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
31. Nguyễn Xuân Kính (1993), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học Xã hội
Hà Nội.
32. Trường Lưu – Hùng Đình Quý (1996), Văn hóa dân tộc Mông Hà
Giang, Sở Văn hóa – Thông tin – Thể thao Hà Giang.
33. Phương Lựu (chủ biên) (1986), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
34. Nhiều tác giả (1981), Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam
1945 – 1985, Nxb Văn hóa.
35. Nhiều tác giả (1985), Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỉ XX,
Nxb Văn hóa dân tộc.
36. Nhiều tác giả (1997), Nghiên cứu văn nghệ dân gian tập I, Nxb Văn
hóa dân gian.
37. Phan Ngọc (2006), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học Hà Nội.
38. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn
hóa thông tin.
39. Phan Ngọc Quan hệ văn chương và văn hóa ở Việt Nam,
http://www.vienvanhoc.org.vn.
85
40. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn
hóa thông tin.
41. Phan Thị Thanh Nhàn (2009), Biểu tượng khèn trong trong dân ca dân
tộc H’Mông, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
42. Đặng Thị Oanh (2006) Giải mã biểu tượng lanh trong dân ca dân tộc
H’Mông, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
43. Hoàng Phê (chủ biên - 1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã
hội Hà Nội.
44. Hùng Đình Quý (1994), Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà Giang,
Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Giang.
45. Hùng Đình Quý (1995), Dân ca Mông Hà Giang (tập 1), Sở Văn hóa
Thông tin tỉnh Hà Giang.
46. Hùng Đình Quý (2001), Dân ca Mông Hà Giang (tập 2), Sở Văn hóa
Thông tin tỉnh Hà Giang.
47. Hùng Đình Quý (2001), Dân ca Mông Hà Giang (tập 3), Sở Văn hóa
Thông tin tỉnh Hà Giang.
48. Hùng Đình Quý (1998), Chỉ vì quá yêu, Nxb Văn hóa dân tộc.
49. Hùng Đình Quý (2005), Những bài khèn của người Mông ở Hà Giang,
Nxb Khoa học xã hội.
50. Trần Hữu Sơn (1996), Văn hóa H’Mông, Nxb Văn hóa dân tộc.
51. Trần Hữu Sơn (2008), Cây lanh - Biểu tượng trong văn hóa dân gian
H’Mông, http://www.vanhoahoc.edu.vn.
52. Trần Đình Sử (1996), Lý luận phê bình văn học, Nxb Hội Nhà văn Hà Nội.
53. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
54. Nguyễn Mạnh Tiến (2014), Những đỉnh núi du ca, Nxb Thế giới.
86
55. Bùi Xuân Tiệp (2005) Bước đầu giải mã một số biểu týợng trong lễ hội
Gầu Tào và dân ca giao duyên dân tộc Mông, Tạp chí văn hóa dân gian
số 3 (99)/2005.
56. Nguyễn văn Tiệp (2003), Dân ca giao duyên và lễ hội Gầu tào của
dân tộc Mông, Đại học Sư phạm Hà Nội.
57. Vũ Anh Tuấn (1884), Về một số biểu tượng văn học dân gian miền
núi, Tạp chí văn hóa dân gian, Nxb Giáo dục Hà Nội.
58. Doãn Thanh (1967), Dân ca Mèo, Hội Văn học nghệ thuật Lào Cai.
59. Doãn Thanh, Hoàng Thao (1984), Dân ca H’Mông, Nxb Văn học.
60. Hạng Thị Vân Thanh, Dương Thị Phương, Giàng Thị sến (2013),
Cháng Sí Páo mồ côi, Hội VHNT tỉnh Hà Giang.
61. Hoàng Thị Thủy (2004), Khảo sát nghi lễ cúng ma dân tộc Mông,
Luạn văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
62. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới cái nhìn văn
hóa, Nxb Giáo dục.
63. Trần Nho Thìn (2017), Biểu tượng người nam và người nữ trong thơ
tình Việt Nam-một cái nhìn khái quát, Tạp chí Lý luận phê bình văn
học nghệ thuật, số 55 , tháng 3/2017
64. Nguyễn Kiến Thọ (2012), Thơ ca dân tộc H mông – từ truyền thống
đến hiện đại, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
65. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc.
66. Đỗ Thị Minh Thúy (1999), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Nxb
Văn hóa thông tin.
87
PHỤ LỤC
Bảng thống kê các biểu tượng thiên nhiên và con người được khảo sát xuất hiện trong dân ca Mông
STT Tên biểu tượng Số lần xuất hiện Số bài xuất hiện
Trời 1 147 45/120
Núi 2 81 41/120
Nước 3 107 31/120
Đá 4 55 33/120
Người cha 5 304 57/120
Người mẹ 6 319 58/120
Đrâu Mông 7 983 84/120
Gầu Mông 8 1166 87/120
88