VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ XUÂN LAN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO HÒA HẢO TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH AN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ XUÂN LAN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO HÒA HẢO TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH AN GIANG
Ngành: Chính sách công
Mã số: 8340402
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HỒ NGỌC TRƯỜNG
HÀ NỘI, 2021
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
TG là một thực thể xã hội xuất hiện sớm trong lịch sử loài người, trong quá
trình hình thành và phát triển, các TG đã ảnh hưởng đến đời sống chính trị, văn
hoá, xã hội khác nhau trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Tự do TG là một
trong những quyền tự nhiên của con người được pháp luật bảo vệ, đồng thời đó cũng
là một mặt của giá trị dân chủ trên thế giới hiện nay.
Nước ta là một quốc gia có nhiều tôn giáo, với trên 20 triệu người theo các
tôn giáo khác nhau. Tín đồ các TG đa số là nhân dân lao động nên có tinh thần yêu
nước, có ý thức gắn bó cùng dân tộc, dễ gần và đi theo cách mạng, nhiều chức sắc
đã tích cực cùng khối đại đoàn kết dân tộc, góp phần đấu tranh giành độc lập tự do
của dân tộc, cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, trong từng thời kỳ lịch sử, có lúc, có nơi do nhiều nguyên nhân và
sự tác động nhiều mặt của tình hình thế giới, cũng như chiến lược “diễn biến hoà
bình” của các thế lực thù địch... càng làm cho các hoạt động TG, tín ngưỡng trở
nên đa dạng và phức tạp hơn, có một số ít TG đã bị kẻ xấu lôi kéo, kích động đi
ngược lại lợi ích của dân tộc và tổ quốc, cũng như lợi ích của đại đa số tín đồ.
Trong các TG ở Việt Nam, PGHH là một TG nội sinh, ra đời ở tỉnh AG và
ảnh hưởng chủ yếu ở các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long, có nhiều đặc điểm
mang đậm tính văn hóa, tính cách của người dân Nam bộ. Dưới thời kỳ Việt Nam
bị đế quốc xâm chiếm, PGHH với giáo lý dễ hiểu, lễ nghi đơn giản dễ thực hành,
tỏ ra rất phù hợp với tâm lý của người dân vốn có trình độ văn hóa không cao, nên
đã nhanh chóng được đông đảo quần chúng nhân dân tiếp nhận, không ngừng tăng
nhanh. Tuy nhiên, PGHH, cũng như các TG khác, đã bị chính trị hóa, bị các thế
lực thù địch lợi dụng, chi phối nhằm thực hiện các hoạt động chống phá cách
mạng. Mặt khác, nội bộ PGHH cũng nảy sinh mâu thuẫn, chia rẽ sâu sắc.
Năm 1999, PGHH được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, sự kiện này
đã kịp thời động viên tinh thần, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của
đông đảo quần chúng có đạo. Từ khi được công nhận tư cách pháp nhân đến nay,
1
với tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, tín đồ PGHH luôn phát huy
tinh thần đại đoàn kết dân tộc, tích cực phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm
nghèo, làm tốt công tác từ thiện nhân đạo,… đóng góp nhất định, thiết thực vào
công cuộc xây dựng, phát triển quê hương đất nước theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa, tu hành theo phương châm “Vì đạo pháp, vì dân tộc”.
Tuy nhiên, ở một vài địa điểm vẫn còn một số tín đồ PGHH tham gia sinh
hoạt, hoạt động TG chưa đúng tinh thần “Vì dân tộc”, chưa “Tuỳ tài, tuỳ sức, nỗ
lực hy sinh cho xứ sở” như lời dạy của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ. Trên thực tế, vẫn
còn nhiều vụ án, vụ việc liên quan đến PGHH gây không ít khó khăn trong công
tác quản lý nhà nước của chính quyền, trong đó có một số đối tượng cực đoan ở
An Phú gây mất an ninh trật tự trong nhiều năm qua. Các vấn đề như xây dựng cơ
sở thờ tự không phép; xin lại, đòi lại, phục hồi lại cơ sở thờ tự; lợi dụng hoạt động
từ thiện xã hội chính quyền chưa kiểm soát được,… đòi hỏi phải được giải quyết
từ phương diện quản lý nhà nước đối với hoạt động của Giáo hội PGHH.
AG là tỉnh có đông tín đồ PGHH và cũng là nơi ra đời của đạo PGHH, nên các
chính sách liên quan đến PGHH lại càng được xem trọng. Bên cạnh những thành
quả đã đạt được thì quá trình thực hiện CSTG đối với PGHH vẫn còn bộc lộ một số
hạn chế nhất định. Với mong muốn đánh giá khách quan và trung thực kết quả cũng
như quá trình thực hiện CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh nên tôi chọn đề tài:
“Thực hiện chính sách tôn giáo đối với Phật giáo Hòa Hảo trên địa bàn tỉnh AG”
làm luận văn thạc sĩ cho chuyên ngành CSC của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Như chúng ta đã biết TG và CSTG là một trong những vấn đề được Đảng và
Nhà nước đặc biệt coi trọng và đây cũng là lĩnh vực thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tại Việt Nam, từ trước tới nay đã có nhiều tài
liệu và công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến TG, công tác quản lý nhà
nước về TG, chính sách về TG ở nhiều góc độ, phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Để
làm rõ hơn vấn đề nghiên cứu, trong phần tổng quan về tình hình nghiên cứu của đề
tài, chúng tôi xin điểm qua các tài liệu và công trình nghiên cứu có liên quan đến đề
tài theo 2 nhóm chính như sau:
2
2.1. Nhóm những công trình nghiên cứu liên quan đến TG và chính sách TG
Từ trước tới nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn
đề TG và CSTG. Song trong luận văn này, chúng tôi chỉ điểm qua một số công
trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Năm 2005, trong cuốn Một số TG ở Việt Nam tác giả Nguyễn Thanh Xuân đã
đề cập đến các TG lớn ở Việt Nam như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài,
PGHH, Hồi Giáo. Riêng về PGHH, tác giả đã dành nhiều trang nói về quá trình hình
thành và phát triển; về giáo lý, giáo luật; về sự phân hóa nội bộ dẫn đến sự thành các
phái khác nhau và hoạt động liên quan đến lĩnh vực chính trị của TG này.
Năm 2006, trong cuốn TG và chính sách TG ở Việt Nam của Ban Tôn giáo
Chính phủ đã trình bày khái quát về quá trình hình thành các TG ở Việt Nam, chủ
trương, chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với tín ngưỡng, TG, kết quả
việc thực hiện chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam đối với tín
ngưỡng, TG.
Năm 2009, trong cuốn Tôn giáo - Quan điểm, chính sách đối với tôn giáo
của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay, tác giả Nguyễn Đức Lữ đã trình bày
một cách hệ thống về quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về TG; nhận thức, quan điểm của Đảng về TG từ năm 1930 đến năm 1986; nhận
thức, quan điểm và chính sách đối với TG của Đảng và Nhà Nước ta trong thời kỳ
đổi mới và đặc biệt là trong chương cuối của cuốn sách, tác giả đã tập trung trình
bày về công tác quản lý Nhà nước đối với tôn giáo của Nhà nước Việt Nam hiện
nay.
Năm 2011, trong cuốn Tìm hiểu về Tôn giáo và chính sách đối với Tôn giáo
của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay của tác giả Nguyễn Đức Lữ, tác giả đã
nhìn nhận CSTG là “phương tiện, công cụ” của quản lý Nhà nước đối với hoạt
động TG.
Năm 2016, trong cuốn kỷ yếu Hội thảo Khoa học Chính sách, pháp luật về
Tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam: 25 năm nhìn lại của Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh do Nxb Lý luận Chính trị xuất bản. Cuốn sách là kết quả của
cuộc hội thảo lớn do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức nhằm đánh
3
giá, làm rõ thành tựu và hạn chế của chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, TG của
nước ta từ 1990 đến nay. Trong đó có nhiều bài viết đề cập đến quá trình phát
triển tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề TG và công tác TG;
chủ nghĩa xã hội và TG ở Việt Nam; nhà nước pháp quyền và TG; quyền tự do tín
ngưỡng, TG trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; chính sách
pháp luật của Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, TG ở Việt Nam hiện nay;
những điểm mới trong dự thảo Luật tín ngưỡng, TG; vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong việc phản biện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng; phát huy
nguồn lực - sức mạnh mềm của các TG trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...
Năm 2017, để đáp ứng nhu cầu của công tác TG và công tác quản lý TG Nhà
nước đối với TG cũng như nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu của đồng bào theo TG và
những người quan tâm đến các vấn đề về TG, Ban Tôn giáo Chính phủ đã xuất
bản cuốn Tài liệu giới thiệu luật tín ngưỡng, tôn giáo. Tài liệu đã trích dẫn đầy đủ
nội dung của Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14 được Quốc hội thông
qua ngày 18/11/2016 và Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 01/12/2016. Ngoài
ra, cuốn tài liệu này cũng phân tích sâu về sự cần thiết phải ban hành luật tín
ngưỡng, tôn giáo, mục tiêu, quan điểm chỉ đạo xây dựng luật, những điểm mới cơ
bản của Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
Đặc biệt là năm 2019, trong cuốn giáo trình Tôn giáo và tín ngưỡng của Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh do tác giả Đỗ Lan Hiền chủ biên đã cập nhật,
bổ sung một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đời sống TG trên thế giới và ở Việt
Nam hiện nay, nhất là nhưng nội dung về TG được đề cập trong Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, Nghị định của Chính phủ về TG và công tác TG những năm qua.
Gần đây nhất là năm 2020 trong cuốn Quản lý Nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay do tác giả Hà Ngọc Anh chủ biên đã tập trung
nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý Nhà nước đối với hoạt động TG ở Việt Nam;
phân tích thực tiễn quản lý Nhà Nước đối với hoạt động TG ở Việt Nam và đặc
biệt là tác giả đã giành trọn vẹn một chương sách để trình bày các quan điểm,
4
phương hướng và đề xuất giải pháp tăng cường quản lý Nhà Nước đối với hoạt
động TG ở Việt Nam trong thời gian tới.
Tóm lại, tuy những công trình nghiên cứu trên không đi sâu nghiên cứu về
PGHH nhưng đó là những kiến thức nền tảng cung cấp cho chúng tôi một bức
tranh khái quát về công tác TG và CSTG, góp phần định hướng cơ sở lý luận và
đánh giá một cách toàn diện đối với vấn đề nghiên cứu của luận văn.
2.2. Nhóm những công trình nghiên cứu liên quan đến PGHH và chính
sách TG đối với PGHH.
PGHH là đề tài luôn thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả, nhiều nhà khoa
học và quản lý. Do vậy từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu từ sách,
các đề tài, các luận án, luận văn. Điển hình như:
Về sách,
Trước năm 1975, người ta biết đến PGHH thông qua một số tác giả trong
giới lý luận của Hoà Hảo như: “Nguyễn Văn Hầu với các tác phẩm: “Nhận thức
Phật giáo Hoà Hảo”, “Năm cuộc đối thoại về Phật giáo Hoà Hảo”, “Thất Sơn
mầu nhiệm”, “Muốn về cõi Phật”,…các tác phẩm này nhằm giới thiệu cho người
đọc hiểu khái lược về giáo lý, giáo luật, lễ nghi và việc “Tu Nhân - Học Phật”
của Phật giáo Hoà Hảo.
Sau năm 1975, hoạt động nghiên cứu về Phật giáo Hoà Hảo đạt được nhiều
kết quả khá quan trọng như công trình: “Một số Tôn giáo ở Việt Nam” của Ban
Tôn giáo Chính phủ (1993).
Phạm Bích Hợp (2007), Người Nam bộ và Tôn giáo bản địa, Nxb TG, Hà
Nội. Cuốn sách này vốn là kết quả nghiên cứu của một đề tài khoa học cấp Nhà
nước, chỉ giới hạn ở việc khảo sát và kiến giải về đạo Cao Đài, Bửu Sơn Kỳ
Hương và PGHH từ góc độ tâm lý. Tác giả đã dành một số trang nói về PGHH,
song cũng chỉ là những miêu tả tóm tắt về Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, khảo sát
không nhiều về ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần ở Đồng bằng sông Cửu
Long.
5
Đoàn Nô (2007), PGHH ở Miền Tây Nam bộ, Nxb Văn hóa Sài Gòn. Công
trình này bàn về lịch sử hình thành, phát triển của PGHH và ảnh hưởng ở miền
Tây Nam bộ, còn ở An Giang tác giả hầu như chưa luận bàn.
Về đề tài nghiên cứu,
Năm 2001, Vụ Các Tôn giáo khác - Ban Tôn giáo Chính phủ có Báo cáo
tổng quan đề tài “Khảo sát thực trạng Phật giáo Hoà Hảo - kiến nghị và chủ
trương, chính sách”; Năm 2001, đề tài nhánh, “Thực trạng, xu hướng phát triển
PGHH ở nước ta hiện nay” thuộc đề tài cấp Nhà nước “Xu hướng phát triển Tôn
giáo ở nước ta hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với công tác lãnh đạo, quản
lý” do Ts. Nguyễn Thị Nga - Trung tâm khoa học về tín ngưỡng và Tôn giáo
thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm đề tài. Đề tài đi
sâu, phân tích thực trạng chung của PGHH trong giai đoạn hiện nay, phân tích
những xu hướng vận động chủ yếu, trên cơ sở đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý của Đảng và Nhà nước đối với TG này.
Năm 2012, đề tài khoa học Tổng kết lịch sử đấu tranh chống các thế lực thù
địch phản động lợi dụng PGHH (1975 - 2010) do Cục A88 - Bộ Công an chủ trì
thực hiện. Đề tài có nhiệm vụ: Khái quát lịch sử đấu tranh chống các thế lực phản
động lợi dụng PGHH và rút ra các bài học kinh nghiệm từ công tác này.
Viện Nghiên cứu khoa học - Bộ Công an có đề tài nghiên cứu về Phật giáo
Hoà Hảo ở cấp độ nghiệp vụ và kết quả nghiên cứu của công trình này nhận diện
rõ nét hơn về tính chính trị và tính TG của PGHH từ khi ra đời đến khi có Nghị
quyết số 24 (1990) của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình
hình mới.
Về luận án,
Phạm Bích Hợp với luận án Đời sống xã hội và tâm lý nông dân người Việt ở
làng Hoà Hảo tại AG trước và sau 1975 đã tổng quan về PGHH với tư cách là một
tổ chức TG (có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tín đồ), đời sống tâm lý của tín đồ
PGHH và người dân không có đạo ở làng Hòa Hảo.
Nguyễn Hoàng Sa với Luận án Tiến sĩ “Đạo Hòa Hảo và ảnh hưởng của nó ở
Đồng bằng sông Cửu Long” đã tập trung làm rõ sự ra đời, nét đặc trưng và xu
6
hướng phát triển của TG Hòa Hảo ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nêu lên một số
giải pháp cấp bách nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác TG trong vùng
Hòa Hảo trong giai đoạn cách mạng lúc đó.
Về luận văn,
Bùi Văn Hải với luận văn Thạc sĩ Triết học về công tác tôn giáo đối với Phật
giáo Hoà Hảo hiện nay đã phản ánh thực trạng PGHH, đề xuất chủ trương đối với
việc công nhận PGHH với tư cách là một tổ chức TG độc lập, quá trình thực hiện
chính sách đối với PGHH của các địa phương, dự báo xu hướng và đề xuất giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đối với PGHH.
Nguyễn Hồng Điệp với luận văn Thạc sĩ ngành quan hệ xã hội về Công tác
quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo Hoà Hảo ở Việt Nam hiện nay
đã làm rõ thực trạng của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật
giáo Hoà Hảo, luận văn đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo Hoà Hảo ở Việt Nam hiện nay.
Bùi Thị Thu Hà với luận văn Thạc sĩ bàn về “Đảng bộ An Giang vận động
quần chúng tín đồ Phật giáo Hoà Hảo tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước
từ năm 1954-1975”.
Phan Bá Tài với khóa luận tốt nghiệp đại học về Phật giáo Hoà Hảo ở Đồng
Tháp thực trạng và chính sách.
Nhìn lại các công trình nghiên cứu trên, chúng ta có thể thấy vấn đề PGHH
đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện nay
vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên biệt nào đi sâu phân tích, đánh giá
việc thực hiện CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang dưới góc độ của
chuyên ngành CSC. Do đó, đề tài nghiên cứu sẽ là một hướng tiếp cận mới, tác giả
hy vọng công trình nghiên cứu này sẽ là tài liệu bổ ích cho những ai quan tâm.
Chúng tôi xem các công trình của những tác giả đi trước như một nguồn tư
liệu tham khảo quý giá và cần thiết, đồng thời kế thừa các thành tựu mà giới nghiên
cứu đã đóng góp để có những định hướng thiết thực, những giải pháp cụ thể cho
việc tiếp cận đề tài nghiên cứu của mình.
7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng tới hai mục đích chính đó là đánh giá thực trạng thực hiện
CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang và đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả việc thực hiện CSTG đối với PGHH.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về CSTG đối với PGHH ở Việt
Nam hiện nay.
Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh
An Giang, chỉ ra ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn chế, bất cập đó.
Đề xuất, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách đối
với PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc thực hiện CSTG đối với PGHH từ
thực tiễn tại An Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về CSTG đối với PGHH trên địa
bàn tỉnh An Giang.
Về không gian: Không gian nghiên cứu được xác định là vùng địa lý - hành
chính tỉnh An Giang, hoạt động thu thập dữ liệu sẽ được thực hiện chủ yếu ở huyện
Phú Tân nơi khai sáng đạo PGHH và là nơi có đông tín đồ PGHH.
Về thời gian: Các số liệu thu thập để phục vụ cho việc phân tích, đánh giá thực
trạng sẽ được lấy từ năm 2015 - 2020. Dựa trên cơ sở thực trạng, luận văn sẽ đưa ra
hệ thống các giải pháp có giá trị đến năm 2030.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
- Nghiên cứu quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh về TG và công tác TG.
8
- Nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của
nhà nước về TG và việc thực hiện CSTG.
- Nghiên cứu các lý thuyết về CSC, về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội
trong các quá trình CSC.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả
sử dụng những phương pháp như: phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành chính
sách công và các phương pháp phân tích, tổng hợp từ các tài liệu liên quan đến
tôn giáo và chính sách tôn giáo trên địa bàn tỉnh An Giang.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Luận văn làm phong phú thêm những vấn đề lý luận có liên quan đến TG và
CSTG, góp phần làm rõ những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về các
CSTG mà cụ thể là các chính sách liên quan đến PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Về mặt thực tiễn, căn cứ trên kết quả đánh giá thực trạng việc thực hiện CSTG
đối với PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang, luận văn sẽ đưa ra hệ thống giải pháp
phù hợp có thể áp dụng trong công tác quản lý nhà nước về TG đối với PGHH trên
địa bàn tỉnh An Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
luận văn có kết cấu chủ yếu gồm có 3 chương và 10 tiết.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
1.1 Những khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm TG
TG, theo tiếng Latinh (Religare) có nghĩa là sự nối liền của cái tột cùng, như
sự gắn bó với Chúa, với Thượng đế hoặc được hiểu là sự phản ánh mối quan hệ
giữa con người và thần thánh; giữa thế giới vô hình với thế giới hữu hình; giữa cái
linh thiêng với cái trần tục. Trong tiếng anh, TG là religion, có nghĩa là sự tồn tại
của một quyền lực bên ngoài mà con người phải tuân theo; cảm giác mộ đạo và tuân
theo quyền lực đó. Theo tiếng Hy Lạp thì TG là regere - ràng buộc hay mối liên hệ
giữa con người và thần linh.
Theo từ điển tiếng việt: “TG là một hình thái ý thức xã hội hình thành nhờ vào
lòng tin và sùng bái thượng đế, thần linh” [50, tr.239],
Tại điều 2, Luật tín ngưỡng, tôn giáo có ghi rõ: TG là niềm tin của con người
tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý,
giáo luật, lễ nghi và tổ chức.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về TG, nhưng chúng ta có thể hiểu TG theo
định nghĩa như sau: TG là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên, vô
hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại
một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên
kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào từng thời kỳ lịch sử,
hoàn cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng TG, được vận
hành bằng những nghi lễ, giáo lý những hành vi TG khác nhau của từng cộng đồng
xã hội TG khác nhau.
1.1.2 Khái niệm chính sách TG
CSTG là chính sách đặc thù của Nhà nước ta. Từ trước tới nay đã có nhiều
quan niệm hay cách tiếp cận khác nhau về CSTG, trong phạm vi của luận văn này,
chúng tôi xin điểm qua một số quan niệm cũng như cách hiểu về CSTG như sau:
Theo tác giả Nguyễn Đức Lữ, CSTG là "phương tiện, công cụ" của quản lý
10
nhà nước đối với hoạt động TG, trong đó quản lý nhà nước với hoạt động TG được
hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp) của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp
luật để tác động, điều chỉnh hướng các quy trình TG và hành vi hoạt động TG của
tổ chức, cá nhân TG diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể quản
lý. Theo nghĩa hẹp, là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật
của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và UBND các cấp) để điều
chỉnh các quá trình TG và mọi hành vi hoạt động TG của tổ chức, cá nhân TG diễn
ra theo quy định của pháp luật [28, tr.103, tr.270 - 271].
Tác giả Hà Ngọc Anh cho rằng: Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành
động về phương diện nào đó của Chính phủ, bao gồm các mục tiêu mà Chính phủ
muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Chính sách đối với hoạt
động TG là hệ thống những quan điểm, chủ trương về nguyên tắc cho những hoạt
động của các TG như: Các TG của Việt Nam được hoạt động tự do trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam; mọi công dân của Việt Nam đều bình đẳng
trước pháp luật, Nhà nước Việt Nam xử lý bằng pháp luật đối với bất cứ công dân
Việt Nam nào vi phạm pháp luật, không phân biệt tôn giáo [1, tr. 33].
Tác giả Nguyễn Văn Thanh thì nêu quan điểm về CSTG theo cả nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Cụ thể là, theo nghĩa rộng: CSTG ở Việt Nam là tổng thể các quy định,
quy tắc xử sự chung, các biện pháp trên các lĩnh vực do Đảng, Nhà nước ban hành
nhằm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, TG, đoàn kết toàn dân tộc, làm cho đồng
bào có đạo được đảm bảo an sinh, sống tốt đời đẹp đạo, các hoạt động TG được
quản lý, nhằm góp phần ổn định chính trị - xã hội, phát triển đất nước, hội nhập
quốc tế. Còn theo nghĩa hẹp thì: CSTG của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là tổng thể những quy phạm pháp luật, các chương trình hành động, các biện
pháp chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… của Nhà nước, nhằm thực hiện quyền tự
do tín ngưỡng, TG, đoàn kết toàn dân tộc, làm cho đồng bào có tín ngưỡng, TG
được đảm bảo an sinh, sống tốt đời đẹp đạo, các hoạt động tín ngưỡng, TG được
quản lý, nhằm góp phần ổn định chính trị - xã hội, phát triển đất nước, hội nhập
quốc tế.
11
Tác giả Trương Ngọc Tuấn cho rằng: CSTG là CSC về lĩnh vực xã hội, được
biểu hiện bằng hệ thống các hành vi mà nhà nước ứng xử (làm hoặc không làm) với
TG, nhằm bảo vệ quyền và những lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi người trong
hoạt động tín ngưỡng, [39, tr. 80].
Trong phạm vi của luận văn này, CSTG được hiểu là những quy phạm pháp
luật, các chương trình hành động, các biện pháp chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…
của Nhà nước nhằm tác động điều chỉnh, hướng dẫn các quá trình TG và hành vi
hoạt động TG của tổ chức, cá nhân TG diễn ra phù hợp theo quy định của pháp luật,
nhằm góp phần ổn định chính trị - xã hội, phát triển đất nước.
1.1.3 Khái niệm thực hiện chính sách TG
Thực hiện chính sách là một khâu quan trọng, là toàn bộ quá trình chuyển hóa
ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt
mục tiêu nhất định. Thực hiện chính sách nói chung, CSTG nói riêng là khâu, là
bước đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách, có nhiệm vụ hiện thực hóa
chính sách, đưa chính sách vào cuộc sống.
CSTG ở Việt Nam chủ yếu thực hiện nguyên tắc, đường lối, quan điểm của
Đảng ta và nguyên tắc Hiến định: Mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, TG; có
quyền theo hay không theo tín ngưỡng, TG. Vì vậy, việc thực hiện CSTG của Việt
Nam phải đảm bảo và bảo hộ quyền tự do TG, tín ngưỡng của mọi người; phải bình
đẳng trước pháp luật giữa người theo TG và không theo TG; Đồng bào các TG là bộ
phận quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào có TG với
đồng bào không theo TG xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Trong quá trình thực hiện
CSTG cần phải chú ý đến những đặc điểm của CSTG riêng của Việt Nam như:
CSTG của Việt Nam chịu sự tác động, chi phối bởi các điều kiện kinh tế - văn hóa -
xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Việt Nam; Đối tượng thụ hưởng
CSTG là đồng bào có đạo, là những nhóm xã hội đặc thù, liên kết với nhau trên cơ
sở niềm tin TG; Việc thực hiện CSTG của Việt Nam cũng phải vừa có tính phổ
quát, hội nhập, tương thích với các quy tắc, thông lệ chung của thế giới, vừa phải có
những quy định, quy tắc riêng mang tính dân tộc. Có chính sách ban hành áp dụng
chung đối với tất cả các TG, có chính sách áp dụng đối với một TG cụ thể, có loại
12
chính sách không áp dụng đối với các tổ chức và cơ sở TG; Việc thực hiện chính
sách phải chịu sự tác động, chi phối bởi đặc trưng của hệ thống chính trị nước ta,
trong đó công tác TG được xác định là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Ngoài việc các cơ quan lãnh đạo của Đảng (Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư) ban hành các chủ trương, đường lối, nghị
quyết, kết luận, thông báo... về TG và CSTG để các cơ quan Nhà nước thể chế hóa
thành pháp luật, nhiều văn bản của Đảng, cơ quan lãnh đạo của Đảng hoặc những tổ
chức đảng được cấp có thẩm quyền ủy quyền có thể chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp
các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp giải quyết trực tiếp vấn đề TG
ở Trung ương, địa phương; có chính sách, văn bản chính sách mang tính nội bộ,
không phổ biến rộng hoặc ở chế độ Mật với các cấp độ khác nhau; Quá trình thực
hiện CSTG của Việt Nam phải có sự kế thừa những truyền thống lịch sử tốt đẹp của
cha ông, phát huy vai trò, tư tưởng và các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các
TG, tín ngưỡng trong xây dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng nền văn hóa Việt
Nam nhân nghĩa, khoan dung.
1.2 Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với TG
1.2.1 Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về TG
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc thực hiện các chính sách TG
được Đảng khẳng định trên rất nhiều văn bản, đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề
về TG và công tác TG; văn kiện các Đại hội Đảng, từ khóa VI đến nay.
Trong các Nghị quyết chuyên đề, trước hết phải kể đến Nghị quyết số 24-
NQ/TW ngày 16-10-1990 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác TG trong tình
hình mới. Tại Nghị quyết này, nhiều quan điểm về TG và chỉ đạo công tác TG của
Đảng lần đầu tiên được đưa ra với nhiều nội dung đổi mới và mang tính “đột phá”.
Đó là các quan điểm: TG là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và là vấn
đề còn tồn tại lâu dài; đạo đức TG có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng
xã hội mới, nội dung cốt lõi của công tác TG là công tác vận động quần chúng và
kiên quyết đấu tranh chống các thế lực phản động và lợi dụng TG chống phá cách
mạng.
13
Như vậy có thể thấy, quan điểm của Đảng về TG và công tác TG đã chuyển từ
nhận thức TG là chính trị, là nhạy cảm, tiêu cực, là địch lợi dụng TG sang TG là
nhu cầu của nhân dân, là lực lượng quần chúng của Đảng và TG có những giá trị
tích cực. Nhận thức của Đảng về TG như vậy là khách quan và toàn diện hơn so với
trước đây.
Đến Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX về công tác TG, Đảng ta một lần nữa lại thể hiện sự khẳng định nhất
quán cao độ với quan điểm: hoạt động TG và công tác TG phải nhằm tăng cường
đoàn kết đồng bào các TG trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nghị quyết số 25-NQ/TW còn đi sâu,
nhấn mạnh 5 quan điểm chính sách đối với TG, đó là:
- Tín ngưỡng, TG là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ
tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào
các TG là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Nội dung cốt lõi của công tác TG là công tác vận động quần chúng.
- Công tác TG là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
- Vấn đề theo đạo và truyền đạo.
Các quan điểm trên đòi hỏi công tác TG phải luôn quán triệt từ nhận thức đến
thực tiễn. Đó cũng là cơ sở trực tiếp để Đảng, Nhà nước tiếp tục đề ra chủ trương,
chính sách cụ thể đối với TG nói chung và đối với các hình thức TG cụ thể nói
riêng.
Có thể thấy từ những văn kiện Đại hội Đảng các khóa, Đảng ta đã đưa ra các
quan điểm nhận thức về TG và định hướng chính sách, pháp luật đối với TG mang
tầm chiến lược.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã mở ra thời kỳ đổi mới đất nước, trong đó vấn
đề TG và công tác TG được Đảng khẳng định trên một số quan điểm định hướng có
ý nghĩa căn cốt đối với chính sách, pháp luật về TG. Đó là: Lãnh đạo và giúp đỡ
14
đồng bào theo TG đoàn kết xây dựng cuộc sống mới và hăng hái tham gia bảo vệ
Tổ quốc. Cảnh giác, kiên quyết và kịp thời chống lại âm mưu, thủ đoạn của bọn đế
quốc và phản động chia rẽ đồng bào có đạo với đồng bào không có đạo, giữa đồng
bào theo đạo này với đồng bào theo đạo khác.
Trên cơ sở đó, đến các Đại hội Đảng VII, VIII, IX, X, XI và XII, các quan
điểm định hướng của Đại hội VI tiếp tục được Đảng ta khẳng định với sự mở rộng,
làm sâu sắc hơn và đặc biệt là đã nhấn mạnh tới quan điểm “phát huy những giá trị
văn hóa, đạo đức của các TG và đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Về nội dung này, Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục hoàn
thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, TG, phát huy những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp của các TG. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức TG sinh hoạt
theo hiến chương, điều lệ của tổ chức TG đã được Nhà nước công nhận, theo quy
định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng
tín ngưỡng, TG để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động
tín ngưỡng, TG trái quy định của pháp luật” [46, tr. 165].
Chính sách đối với TG của Đảng và Nhà nước ta một mặt được xây dựng dựa
trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vể vấn
đề tín ngưỡng, TG; mặt khác, căn cứ vào tình hình quốc tế, đặc điểm tín ngưỡng,
TG ở Việt Nam và nhu cầu của cách mạng trong từng thời kỳ lịch sử. Tuy nhiên, tư
tưởng nhất quán xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng của nhân dân, đoàn kết TG, hoà hợp dân tộc. Mặt khác, mọi người - kể cả
có hay không có tín ngưỡng cũng như có tín ngưỡng, TG khác nhau - cần đề cao
cảnh giác chống mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng TG chống phá cách mạng.
Chính sách đối với hoạt động TG là hệ thống những quan điểm, chủ trương về
nguyên tắc cho những hoạt động của các TG như: Các TG của Việt Nam được hoạt
động tự do trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam; mọi công dân
của Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước Việt Nam xử lý bằng pháp
luật đối với bất cứ công dân Việt Nam nào vi phạm pháp luật, không phân biệt TG
nào.
15
Thể chế hóa quan điểm, chính sách đối với TG của Đảng, năm 2004, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, TG và sau đó, Chính phủ
ra Nghị định số 22/2005/NĐ-CP, sau đó thay thế bằng Nghị định số 92/2012/NĐ-
CP ngày 08-11-2012 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo. Tiếp đó, đến ngày 18-11-2016, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, khóa XIV, kỳ họp thứ 2, đã thông qua Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Luật
này đã quy định những nội dung cụ thể của chính sách đối với tín ngưỡng, TG tại
Hiến pháp năm 2013 và đồng thời làm cơ sở trực tiếp cho công tác quản lý nhà
nước về tín ngưỡng, TG.
1.2.2 Quan điểm, chủ trương, chính sách của tỉnh An Giang về TG.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản chỉ đạo, triển
khai thực hiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, TG như: Nghị quyết số 25-
NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công
tác tôn giáo; Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016; Nghị định số 92/2012/NĐ-CP
ngày 08/11/2012 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo; Nghị định số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/12/2017 quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo…
Trên cơ sở đó, UBND tỉnh An Giang đã xây dựng và ban hành các văn bản
nhằm thể chế hóa và hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo như Quyết định số 43/2006/QĐ-UBND ngày 13/11/2006 quy định thẩm quyền
của cơ quan nhà nước trong thực hiện quản lý hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo;
Quyết định số 06/2013/QĐ-UBND ngày 18/3/2013 về việc ban hành quy định thẩm
quyền của cơ quan nhà nước trong thực hiện quản lý hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
trên địa bàn tỉnh; Kế hoạch số 196/KH-UBND ngày 11/4/2017 của UBND tỉnh về
việc triển khai thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
Song song với việc ban hành các văn bản chỉ đạo, Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ
tỉnh An Giang và chính quyền các địa phương thường xuyên tổ chức các khóa tập
huấn, tuyên truyền phổ biến pháp luật về tín ngưỡng, TG với nhiều hoạt động đa
dạng (lồng ghép với các buổi báo cáo tại các lớp bồi dưỡng giáo lý do các tổ chức
TG, các cuộc họp, hội nghị thường niên của các tổ chức TG…). Việc phổ biến pháp
16
luật về tín ngưỡng, TG đã nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật của chức
sắc, chức việc, tín đồ các TG; tạo sự đồng thuận, niềm tin của chức sắc, chức việc,
tín đồ các TG vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước.
Để thực hiện có hiệu quả công tác TG của tỉnh, Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ tỉnh
An Giang đã tích cực, chủ động tham mưu và thực hiện kết luận của Ban Chỉ đạo
công tác TG tỉnh đối với những vấn đề nổi cộm, nảy sinh liên quan đến tín ngưỡng,
TG trên địa bàn thông qua các phiên họp định kỳ hoặc đột xuất.
Các ngành liên quan và Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ tỉnh An Giang đã có sự phối
hợp chặt chẽ trong việc xem xét cho phép thành lập cơ sở TG, tổ chức TG cơ sở
trên địa bàn tỉnh. Phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, chính quyền cấp
huyện thu hồi, giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở
TG… Phối hợp với Sở Ngoại vụ và các địa phương về các đoàn công tác của Đại sứ
quán, Tổng lãnh sự các nước… đến thăm và làm việc tại AG. Trong đó có, Lãnh sự
quán Mỹ, Đại sứ quán Pháp, Đài phát thanh BBC, các đoàn sinh viên Mỹ, đoàn
phóng viên của các nước In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a… đến tìm hiểu và nghiên cứu
về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của một số tôn giáo, trong đó có Phật giáo Hòa
Hảo.
Đối với người nước ngoài sinh hoạt TG tại AG, tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi
cho người nước ngoài sinh hoạt tín ngưỡng, TG theo đúng quy định của pháp luật
Việt Nam. Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm, dễ bị các thế lực chống phá lợi dụng để
xuyên tạc, vu cáo Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, các ngành chức năng của tỉnh và
chính quyền địa phương đã chủ động tạo điều kiện mở rộng đối ngoại TG trên
nguyên tắc tôn trọng, phù hợp với pháp luật mỗi bên và thông lệ quốc tế.
UBND tỉnh cũng tạo điều kiện cho các chức sắc, chức việc, tín đồ Hồi giáo
Islam đi hành hương Mecca theo nguồn tài trợ hằng năm của Tổng lãnh sự quán các
nước Hồi giáo…
Với sự nỗ lực, cố gắng của Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ tỉnh An Giang và chính
quyền các cấp, tình hình hoạt động của các tổ chức TG trên địa bàn những năm gần
đây khá ổn định. Hằng năm các tổ chức TG đều đăng ký sinh hoạt, lễ hội TG với
17
chính quyền địa phương; các thủ tục liên quan đến thành lập, chia tách, sáp nhập
các tổ chức TG đều được chính quyền các cấp tạo điều kiện thuận lợi.
Là địa phương có đông chức sắc, nhà tu hành nên UBND tỉnh đã chủ động ban
hành các quy định hướng dẫn hoạt động phong phẩm, phong chức, bầu cử, suy cử,
cách chức, bãi nhiệm, thuyên chuyển chức sắc, nhà tu hành, vì vậy, việc quản lý khá
thuận lợi, được các TG ủng hộ. Tính từ năm 2015 đến nay, chính quyền các cấp trong
tỉnh đã tạo điều kiện cho việc thuyên chuyển công tác cho chức sắc trên địa bàn gần
300 trường hợp, chấp thuận việc phong phẩm, bổ nhiệm gần 400 trường hợp.
Tỉnh cũng tạo điều kiện cho các tổ chức TG mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng
những người chuyên hoạt động TG, bao gồm: thuyết giảng đạo, bồi dưỡng giáo lý
căn bản, lớp đạo sự hành chính, bồi dưỡng trụ trì… cho các chức sắc, chức việc.
UBND tỉnh cũng tạo điều kiện cho các TG cử các tu sỹ, tăng, ni trẻ tham dự các
khóa đào tạo TG tại các trường của các tổ chức TG như: Học viện Phật giáo, Viện
Thánh kinh Thần học, Đại Chủng viện…, kể cả đi đào tạo ở nước ngoài thông qua
con đường nhận tài trợ để nâng cao trình độ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế như sau:
- Việc quy định về phân cấp thẩm quyền chưa gắn với trách nhiệm và các chế
tài xử lý. Chẳng hạn, cấp phép xây mới, cải tạo lại, nâng cấp các công trình kiến
trúc tín ngưỡng, TG vẫn chưa phân cấp cho Sở Xây dựng và UBND cấp huyện;
công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn thuộc thẩm quyền của UBND
tỉnh; quản lý công trình kiến trúc TG được công nhận di tích lịch sử, danh lam thắng
cảnh chưa phân cấp cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch… Quy định về phân cấp
thẩm quyền chưa gắn với trách nhiệm và các chế tài xử lý vì hiện nay không có chế
tài xử phạt hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, TG.
- Việc áp dụng pháp luật trong quản lý hoạt động TG của cơ quan có thẩm
quyền chưa thống nhất. Tình trạng xây dựng cơ sở thờ tự không xin cấp phép vẫn
diễn ra, chưa có biện pháp chế tài, chỉ lập biên bản. Một số tu sĩ đi nước ngoài với
lý do du lịch, thăm thân nhân, chữa bệnh… nhưng thực chất là hoạt động TG, hiện
chưa được kiểm soát chặt chẽ.
1.3 Bối cảnh và điều kiện ra đời của Phật giáo Hòa Hảo
18
Về vị trí địa lý: Là nơi giáp biên giới Việt Nam - Campuchia, làng Hoà Hảo
là một địa danh mới được hình thành từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Từ xa
xưa, nơi đây cùng với vùng núi Thất Sơn hợp thành "Châu Đốc Tân Cương" được
coi là nơi biên viễn xa xôi hiểm trở của miền Tây Nam Bộ. Làng Hoà Hảo - nơi
sinh ra và là trung tâm Phật giáo Hoà Hảo thuộc quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc
trước đây, ngày nay thuộc huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
Về kinh tế: Đầu những năm 1930, bắt nguồn từ chính sách “đại khai thác”
của thực dân Pháp sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Việt Nam bước vào cuộc
khủng hoảng kinh tế nặng nề và kéo dài, cuộc sống nhân dân đói khổ cùng cực.
Nam bộ, nhất là đồng bằng sông Cửu Long là trọng điểm cho chúng vơ vét, bóc
lột nhân dân đến mức kiệt quệ; thiên tai, dịch bệnh, nạn đói hoành hành… càng
làm tăng thêm nỗi thống khổ của nhân dân lao động. Làng Hòa Hỏa cũng trong
tình trạng chung đó, song có lẽ là vùng xa xôi nên ở đây không bị ảnh hưởng quá
nặng nề. Như nhiều vùng khác của miền Tây Nam bộ, làng Hòa Hảo vốn là một
làng thuần nông. Tuy nhiên, do đất chật, người đông, ở đây dần hình thành một
vùng dân cư sầm uất.
Về chính trị - xã hội: Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, Pháp - Nhật
tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau ở Việt Nam, làm cho tình hình nước Việt Nam
thuộc địa vốn đã căng thẳng lại càng căng thẳng thêm. Trong khi đó, Nhà nước
phong kiến Việt Nam và hệ tư tưởng của nó đang suy tàn, thì sự phản động của
Nhà nước bảo hộ và bản chất kẻ xâm lược ngày càng lộ rõ. Hệ tư tưởng tư sản đã
tỏ ra bất lực, một số trí thức yêu nước vốn là học trò cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội
Châu cũng thực sự tỏ ra bế tắc về đường lối. Niềm hy vọng và chỗ dựa vững chắc
của nhân dân lao động lúc bấy giờ là Đảng Cộng sản. Song, vào thời kỳ này thực
dân Pháp và triều đình Huế tích cực đàn áp nên các hoạt động bị hạn chế, phong
trào yêu nước tạm thời đi vào thoái trào.
Trong hoàn cảnh đó, mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân phong kiến
tay sai càng trở nên sâu sắc. Khi các phong trào cách mạng bị đàn áp và chịu tổn
thất nặng nề thì một bộ phận quần chúng, trong đó phần lớn là nông dân mất
19
phương hướng, khủng hoảng niềm tin, cộng thêm trình độ dân trí thấp kém, đời
sống cùng cực, quần chúng đã tìm đến tín ngưỡng, tôn giáo, cầu mong có được
chỗ dựa tinh thần. Trong bối cảnh khủng hoảng đó quần chúng nảy sinh nhu cầu
khao khát tìm cho mình một chỗ dựa tinh thần. Vì vậy, khi ông Huỳnh Phú Sổ
đứng ra khai đạo thì những người nông dân vốn thuần phác nơi miền Tây Nam bộ
xa xôi đã nhanh chóng tìm đến, tự nguyện làm tín đồ.
Về tiền đề tư tưởng: Sự suy thoái của các tín ngưỡng, tôn giáo đương thời ở
Nam bộ. Trước hết là sự suy vi của Phật giáo Bắc tông truyền thống kéo dài từ
mấy thế kỷ trước nhưng đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX càng thêm trầm
trọng; thứ đến là Nho giáo - chỗ dựa của chế độ phong kiến tỏ ra không thích hợp
với thay đổi về kinh tế, văn hoá, xã hội của Nam bộ. Còn các tôn giáo khác mới du
nhập như Công giáo và Tin lành cũng không phát triển được vì một mặt gắn với
thực dân đế quốc, mặt khác nó khác lạ về văn hoá, lối sống.
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, đặc biệt là sự mở rộng và củng cố lãnh
thổ phía nam Tổ quốc, các tộc người Chăm, Hoa, Khơme đã cùng người Việt khai
hoang lập ấp. Chính trong quá trình chung sống và hợp tác của các tộc người này
đã sớm hình thành mối quan hệ gắn bó trong các lĩnh vực khác nhau, hình thành
những nét đặc trưng văn hoá của một vùng vừa phong phú về nội dung vừa đa
dạng về hình thức. Đây còn là nơi có nhiều tôn giáo: Hồi giáo, Công giáo, Bửu
Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Cao Đài; sự du nhập các yếu tố văn hoá bên
ngoài làm nảy sinh quá trình hỗn dung văn hoá (những tôn giáo mang sắc thái địa
phương có tính hỗn hợp bởi giáo lý được lấy từ nhiều tôn giáo khác nhau). Trong
bối cảnh như vậy, những yếu tố thiên nhiên đa dạng, phức tạp, trình độ dân trí có
hạn được giải thích một cách huyền bí cũng là nguyên nhân dẫn đến việc xuất hiện
nhiều đạo mang tính cứu thế suốt thế kỷ XIX và rộ lên vào cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX với hai địa điểm là miền Thất Sơn và núi Bà Đen (đạo Nằm, đạo Ngồi,
đạo Chuối, đạo Dừa, Bửu sơn kỳ hương, Tứ ân hiếu nghĩa…), những đạo này đã
có ảnh hưởng nhất định đến sự xuất hiện hai tôn giáo bản địa là đạo Cao Đài và
Phật giáo Hoà Hảo.
20
Những năm 30 của thế kỷ XX. Ở Việt Nam xuất hiện “phong trào chấn
hưng Phật giáo”. Cuộc vận động chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX không phải
chỉ có mục tiêu là chấn chỉnh tổ chức, chấn chỉnh tín ngưỡng Phật giáo, làm cho
nó thích hợp với xã hội đương thời, mà còn để nâng cao nhận thức đối với giáo lý,
nâng cao tư duy lý luận của Phật tử, nâng cao sự hiểu biết của con người lúc bấy
giờ đối với Phật giáo.Thông qua phong trào này, Phật giáo Việt Nam có sự phát
triển mới về nội dung và mục đích hành đạo.
Kết quả của Phong trào Chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX là một tiến bộ
lớn trong lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Có ý nghĩa mở đường cho Phật
giáo canh tân, ảnh hưởng đến tư tưởng của các "Ông Đạo" ở Nam bộ, tạo điều
kiện cho các phái Phật giáo biến dạng ra đời. Ông Đoàn Minh Huyên (1807-1856),
người sáng lập ra Bửu Sơn Kỳ Hương đã có ảnh hưởng to lớn đến người sáng lập
cũng như đến toàn bộ nội dung của Phật giáo Hoà Hảo.
1.4 Các bước tổ chức thực hiện chính sách TG
Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
Việc xây dựng kế hoạch triển khai thực thi CSTG là bước đầu tiên và rất quan
trọng, quyết định rất nhiều tới hiệu quả triển khai chính sách. Việc xây dựng kế
hoạch nếu chi tiết, chặt chẽ thì việc triển khai mới thuận lợi và đạt hiệu quả cao.
Trong bản kế hoạch triển khai thực thi CSTG phải có đầy đủ tên các cơ quan chủ trì
và phối hợp ở các cấp; nguồn kinh phí, trang thiết bị....phục vụ cho việc thực thi
CSTG; Thời gian, lộ trình thực hiện đối với từng CSTG cụ thể, các mốc thời gian
thực hiện chính sách đều được xây dựng căn cứ trên văn bản của Trung ương và địa
phương; các cơ quan chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát...
Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách
Sau khi kế hoạch được phê duyệt thì các tổ chức và cá nhân được giao nhiệm
vụ phải tiến hành phổ biến, tuyên truyền CSTG tốt giúp cho người tham gia thực thi
hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách. Công tác tuyên truyền phổ biến không
chỉ giúp cho người thực thi nắm rõ để thực hiện công tác TG mà còn giúp cho các
đồng bào TG nắm và tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước.
Công tác tuyên truyền, vận động thực thi CSTG cần được thực hiện thường
21
xuyên, liên tục, kể cả khi chính sách đang được thi hành, để mọi đối tượng tuyên
truyền luôn đặt lòng tin vào chính sách và tích cực thực thi chính sách.
Bước 3: Phân công, phối hợp thực hiện chính sách
Chính sách về TG rất phong phú và đa dạng, liên quan trực tiếp và gián tiếp
tới nhiều đối tượng và đơn vị từ Trung ương đến cấp tỉnh, thành phố và các huyện,
thị, xã, phường… Chính vì vậy để việc thực thi CSTG đạt hiệu quả thì nhất định
phải có sự phân công cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp thực hiện.
Bước 4: Theo dõi, kiểm tra và đôn đốc thực hiện chính sách
Theo dõi, kiểm tra và đôn đốc thực hiện CSTG giúp cho nhà quản lý nắm chắc
được tình hình thực thi chính sách, từ đó đánh giá khách quan những điểm mạnh,
điểm yếu của công tác tổ chức thực thi chính sách. Ngoài ra việc theo dõi, kiểm tra
đôn đốc thực hiện chính sách còn giúp các đối tượng thực thi chính sách biết được
những hạn chế của mình để điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện chính sách, vừa chấn
chỉnh công tác tổ chức thực thi chính sách.
Bước 5: Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện chính sách
Đánh giá, tổng kết trong bước tổ chức thực thi chính sách được hiểu là quá
trình xem xét, kết luận về chỉ đạo - điều hành và chấp hành CSTG của các đối
tượng thực thi chính sách.
Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo điều hành thực thi
CSTG là các cơ quan nhà nước. Ngoài ra, còn xem xét cả vai trò, chức năng của các
tổ chức chính trị - xã hội trong việc tham gia thực thi CSTG. Đồng thời còn phải
xem xét, đánh giá việc thực thi CSTG của chính đối tượng hưởng lợi ích trực tiếp và
gián tiếp từ chính sách.
1.5 Sự cần thiết phải tăng cường thực hiện chính sách TG
Như chúng ta đã biết, Việt Nam là đất nước có nhiều TG và ngày càng phát
triển về số lượng. Do tính đa dạng của các TG, tín ngưỡng nên đồng bào có đạo
cũng rất đa dạng về niềm tin và sinh hoạt TG. Để giúp cho đồng bào các TG được
tự do sinh hoạt tín ngưỡng theo đúng quy định của pháp luật đồng thời phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản và quy định nhằm thực hiện nhất quán chính sách về TG.
22
Tăng cường thực hiện tốt CSTG chính là chăm lo nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho quần chúng có đạo, tạo điều kiện cho họ được tham gia sinh hoạt
TG bình thường theo đúng pháp luật.
Như chúng ta cũng biết, nhiều TG có nguồn gốc từ nước ngoài đã du nhập vào
Việt Nam nên đồng bào các TG có mối quan hệ rất rộng rãi, không chỉ trong phạm
vi địa phương, Quốc gia mà còn có cả quan hệ quốc tế, chịu sự chi phối không chỉ
của pháp luật Việt Nam mà còn chịu sự chi phối về giáo luật, giáo hội có tính quốc
tế, có những giáo luật và sinh hoạt TG khác biệt với đời sống thế tục nói chung của
Nhà nước Việt Nam. Do đó tăng cường thực hiện tốt chính sách về TG sẽ giúp cho
đồng bào các TG luôn đảm bảo quyền tự do sinh hoạt tín ngưỡng theo đúng quy
định của pháp luật Việt Nam.
Đặc biệt là nhiều vấn đề TG, dân tộc, sắc tộc luôn được các thế lực thù địch
lợi dụng để kích động một số ít phần tử xấu, cuồng tín, lạc hậu trong các TG làm
đơn tố cáo, xuyên tạc CSTG của Đảng, Nhà nước ta nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Do đó tăng cường thực hiện CSTG sẽ góp phần giải quyết thỏa mãn nhu cầu tín
ngưỡng, TG chính đáng của quần chúng, làm cho đồng bào có đạo yên tâm, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn lợi dụng TG
của các thế lực thù địch để họ cảnh giác và đấu tranh chống lại chúng bảo vệ quyền
tự do tín ngưỡng chính đáng của mình, bảo vệ an ninh của Tổ quốc.
Ngoài ra, thực tiễn cũng đã cho thấy những vụ việc va chạm, khúc mắc giữa tổ
chức TG, chức sắc và tín đồ với chính quyền còn nảy sinh ở các địa phương. Do
vậy, điều quan trọng nhất hiện nay là khâu thực hiện chính sách, đây là lĩnh vực
thuộc trách nhiệm của Chính phủ, các Bộ, các cấp chính quyền địa phương. Khâu
thực hiện chính sách bao hàm việc ban hành các văn bản pháp quy dưới luật (như
nghị định của Chính phủ, Chỉ thị, quyết định của Thủ tướng; thông tư của Bộ, các
văn bản pháp quy khác của chính quyền địa phương) và các hành vi thực tế của
công chức và cơ quan hành chính, các tổ chức và cá nhân công dân liên quan tới tín
ngưỡng, TG. Những văn bản pháp lý của Chính phủ, Thủ tướng, Bộ Nội vụ được
ban hành trong những năm gần đây để thực hiện CSTG đã tạo hành lang pháp lý và
23
chỉ dẫn cần thiết cho các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương trong đối xử với các
tổ chức TG, các chức sắc và tín đồ TG ở địa phương.
Chính vì vậy việc tăng cường xây dựng và thực hiện các chính sách về TG có
ý nghĩa quan trọng, không chỉ giúp cho công tác quản lý các hoạt động tín ngưỡng
TG đạt hiệu quả mà nó còn tạo môi trường sinh hoạt TG lành mạnh, giúp cho đồng
bào các TG nắm vững những quy định của pháp luật để sống tốt đời, đẹp đạo.
Tiểu Kết Chương
Từ trước tới nay, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định xây dựng và thực hiện
các CSTG đối với đồng bào các TG là một trong những mục tiêu và nhiệm vụ quan
trọng, góp phần nâng cao dân trí và đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các
TG trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đã có nhiều nghiên cứu liên
quan đến các TG, tuy nhiên, việc nghiên cứu về vấn đề thực hiện CSTG đối với
đồng bào các TG nói chung và đồng bào TG PGHH nói riêng vẫn còn là một vấn đề
mới cần thiết và có giá trị thực tiễn cao.
Việc đánh giá kết quả thực hiện CSTG sẽ thiếu cơ sở nếu như không có nền
tảng lý luận. Do đó luận văn đã hệ thống hóa lại các khái niệm công cụ có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu như: TG, CSTG, công tác quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh
AG. Đặc biệt luận văn đã hệ thống lại các văn bản liên quan đến việc thực hiện
CSTG đối với PGHH. Đây được coi là nền tảng lý luận vững chắc và là cơ sở để tác
giả luận văn dựa vào đó đánh giá thực trạng thực hiện CSTG đối với PGHH trên địa
bàn tỉnh AG ở các chương sau.
24
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỐI VỚI
PHẬT GIÁO HÒA HẢO Ở TỈNH AN GIANG
2.1 Khái quát về PGHH
2.1.1 Đặc điểm tình hình địa phương
AG là tỉnh nông nghiệp với diện tích tự nhiên trên 3.536 km2, trong đó, có hơn
80% diện tích đất sản xuất nông nghiệp và hơn 65% dân số là lao động nông thôn;
dân số trên 2,16 triệu người (đứng thứ 06 trên cả nước và đứng đầu đồng bằng Sông
Cửu Long), với 04 dân tộc chủ yếu là Kinh, Hoa, Khmer và Chăm cùng sinh sống
lâu đời. Tỉnh An Giang có 11 đơn vị hành chính, gồm 02 thành phố, 01 thị xã và 08
huyện, với 156 xã, phường, thị trấn (trong đó có 18 xã, thị trấn biên giới). Do có
gần 100 km đường biên giới giáp 02 tỉnh Kandal và Tàkeo (Vương quốc
Campuchia) nên AG có vị trí chiến lược về quốc phòng - an ninh ở biên giới Tây
Nam và là 01 trong 04 tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm vùng Đồng bằng
sông Cửu Long.
Toàn tỉnh có 11 tổ chức TG được Nhà nước công nhận1, với 1.290 chức sắc,
3.359 chức việc và có khoảng 02 triệu tín đồ (chiếm trên 90% dân số toàn tỉnh); có
507 cơ sở thờ tự hợp pháp; ngoài ra, còn có một số cơ sở thờ tự có nguồn gốc TG chưa
được Nhà nước công nhận và trên 300 cơ sở tín ngưỡng dân gian. Tỉnh có các trung
tâm TG, như: Văn phòng Ban Trị sự Trung ương Giáo hội PGHH, trụ sở Tòa Giám
mục Giáo phận Long Xuyên, Văn phòng trung ương Đạo hội Tứ ân Hiếu nghĩa.
Những năm qua, trên lĩnh vực an ninh chính trị, các thế lực thù địch tiếp tục
thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, triệt để lợi dụng các vấn đề TG, dân tộc,
1(1) Phật giáo Hòa Hảo 1.005.275 tín đồ chiếm 47% dân số của tỉnh; (2) Phật giáo Việt Nam (Bắc Tông, Nam Tông Khmer và Khất sĩ) 814.662 tín đồ; Cao Đài (Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Ban Chỉnh đạo, Cao Đài Chơn Lý, Cao Đài Tiên Thiên) 84.354 tín đồ; (4) Công giáo 68.231 tín đồ; (5) Tin Lành (Hội thánh Tin Lành Việt Nam – Miền Nam, Giáo hội Báp – tít Việt Nam) 2.683 tín đồ; (6) Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô Việt Nam 45 tín đồ; Tịnh Độ Cư Sĩ 1.777 tín đồ; (8) Tứ ân Hiếu nghĩa 4.979 tín đồ; (9) Bửu Sơn Kỳ Hương 2.100 tín đồ; (10) Hồi giáo 14.379 tín đồ; (11) Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn 500 tín đồ.
dân chủ, nhân quyền để chống phá; tăng cường các hoạt động tuyên truyền, phá
25
hoại về tư tưởng, âm mưu liên kết trong ngoài để phối hợp hoạt động.
Trong TG, các phần tử phản động lợi dụng TG vừa ngấm ngầm hoạt động, vừa
công khai lợi dụng những tiêu cực của đời sống xã hội để tuyên truyền, chia rẽ khối
đại đoàn kết dân tộc.
Trước tình hình trên, Tỉnh ủy đã lãnh đạo các lực lượng vũ trang và các ban,
ngành, đoàn thể thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng an ninh, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh do vậy hoạt động của các phần tử phản động có
chiều hướng giảm rõ rệt.
2.1.2 Khái quát về PGHH
Sự ra đời của PGHH là sự kế thừa và phát triển của giáo thuyết Bửu Sơn Kỳ
Hương do Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên (1807 - 1856) sáng lập vào cuối thế
kỷ XIX, vốn là một nhánh của Thiền tông Lâm tế đã địa phương hóa. Tư tưởng của
Bửu Sơn Kỳ Hương là tứ đại trọng ân, tức là bốn điều ân nghĩa với Trời Phật, Đất
nước, Cha Mẹ và Sư phụ. Tư tưởng tứ đại trọng ân được ông Đoàn Minh Huyên thể
hiện trong “Sấm truyền Phật Thầy Tây An” gồm 402 câu thơ do một tín đồ chép lại
năm 1909 và ông Nguyễn Văn Hầu sưu tầm và biên soạn lại năm 1975. Các đời đệ
tử của Phật thầy Tây An có nhiều người nổi tiếng như Quản cơ Trần Văn Thành,
Chài Lịch, Cử Đa, Đình Tây, Đạo Ót, Đạo Đèn, Sư Vải Bán Khoai... và đặc biệt là
ông Ngô Lợi (1831 - 1890) còn gọi là Ngô Viện - người đã tiếp nối tư tưởng của
Phật Thầy Tây An hình thành môn phái Tứ ân Hiếu nghĩa, làm cơ sở trực tiếp của
việc ra đời của PGHH.
Người sáng lập ra PGHH là ông Huỳnh Phú Sổ sinh ngày 15 tháng 1 năm
1920 (tức ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi) trong một gia đình khá giả ở làng Hòa
Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay là xã Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh AG),
là con thứ ba trong gia đình nhưng là trưởng nam của ông Huỳnh Công Bộ
(Hương Cả Bộ) và bà Lê Thị Nhậm.
Sau khi tốt nghiệp tiểu học ông phải bỏ học vì mắc nhiều bệnh. Quá trình lên
núi chữa bệnh cũng là thời kỳ ông bắt đầu học đạo, học làm thuốc. Có thể nói đây
là bước ngoặt trong cuộc đời ông. Năm 1939, sau 5-6 năm ở vùng Thất Sơn chữa
bệnh, ông về quê vừa bốc thuốc vừa tuyên truyền tư tưởng cốt lõi của đạo Đoàn
26
Minh Huyên (Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương) là "Tứ Ân Hiếu Nghĩa". Ông tự nhận là
người được Đức Di đà phái xuống trần để truyền dạy những tư tưởng của Đức Phật.
Ngày 18/5 năm Kỷ Mão (1939), ông Huỳnh Phú Sổ tổ chức lễ Cáo Hoàng Thiên,
thành lập TG Phật giáo Hoà Hảo hay đạo Hoà Hảo. Ông Huỳnh Phú Sổ được tín đồ tôn
làm Giáo chủ (Đức Huỳnh Giáo chủ hay Đức Thầy).
Phật giáo Hoà Hảo ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt: chế độ phong kiến suy
tàn, nhân dân lầm than cực khổ, mảnh đất mà những người dân tha phương khai phá
gây dựng nên đang bị thực dân Pháp xâm lược. Phật giáo Hoà Hảo chính là một
"phương thuốc" cứu thế của một bộ phận nông dân Nam Bộ.
Từ ngày thành lập đạo (1939) đến năm 1947 là thời kỳ "hoàng kim" của Phật giáo
Hoà Hảo với tư cách là một TG. Ông Huỳnh Phú Sổ trở thành Đức Phật hoá kiếp, là
Phật sống vì những việc làm và lời lẽ "siêu phàm". Chính trong khoảng thời gian ngắn
này, Huỳnh Phú Sổ đã cho ra đời 6 tác phẩm trong "Sấm giảng giáo lý".
Bối cảnh xã hội phức tạp của không khí chiến tranh thế giới lần thứ hai đã
ảnh hưởng đến cá nhân ông Huỳnh Phú Sổ và ảnh hưởng đến sự phát triển của
Phật giáo Hoà Hảo. Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của Phật giáo Hoà Hảo:
giáo lý tiếp tục được hoàn chỉnh; nghi lễ TG được hình thành và ổn định, đặc biệt
là việc phát triển số lượng tín đồ. Theo tư liệu hiện có thì thời kỳ này (năm 1947),
số người được gọi là tín đồ Phật giáo Hoà Hảo tham gia đóng niên liễm là 2,1 triệu
người. Nguyên nhân cơ bản là do nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, họ ngưỡng
mộ giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, tự nguyện theo đạo để thoả mãn nhu cầu tinh thần;
chính vì vậy, đức tin bền vững hơn.
Từ năm 1947 Phật giáo Hoà Hảo chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ phát
triển có tổ chức hành chính đạo nhưng cũng là thời kỳ TG dần dần bị suy giảm,
biến dạng. Tháng 11-1964, Ban Trị sự Phật giáo Hoà Hảo nhiệm kỳ I chính thức
hoạt động. Sau 25 năm, từ khi ra đời, đây là mốc mở đầu cho thời kỳ Phật giáo
Hoà Hảo có tổ chức hành chính đạo, nhưng đồng thời cũng là tiền đề gây ra sự bất
đồng và suy thoái trong nội bộ giáo hội. Phật giáo Hoà Hảo chia ra 2 hệ phái riêng
biệt, một hệ phái do Lương Trọng Tường đứng đầu (đây là hệ phái duy nhất của
Phật giáo Hoà Hảo có tổ chức quân sự. Trong suốt quá trình tồn tại, hệ phái này
27
được đánh giá là có quan hệ mật thiết với chính quyền Nguỵ và Đế quốc Mỹ); một
hệ phái khác do Nguyễn Duy Hinh - Huỳnh Văn Nhiệm đứng đầu (phái này có
ảnh hưởng lớn trong tín đồ Phật giáo Hoà Hảo miền Tây, tín đồ sinh hoạt TG
thuần tuý, đối với các hoạt động chính trị chủ trương ôn hoà). Năm 1972 xuất hiện
hệ phái thứ 3 do Lê Quang Liêm làm hội trưởng (Lê Quang Liêm nguyên là cố
vấn kiêm giám đốc trung tâm phổ thông giáo lý của hệ phái Lương Trọng Tường,
do mâu thuẫn nội bộ nên đã tách ra thành lập giáo hội mới, Lê Quang Liêm vốn
không phải là tín đồ thuần tuý mà là người từng hoạt động chính trị, từng phục vụ
cho cả Pháp và Mỹ, tham gia bộ máy nguỵ quyền Sài Gòn).
Sau ngày giải phóng miền Nam (1975), do nhiều nguyên nhân, PGHH không
được phép hoạt động (chủ yếu tu tại gia). Trong môi trường xã hội của chế độ
mới, sự đạo của Phật giáo Hoà Hảo vẫn duy trì bình thường.Về đức tin, trong ý
thức đông đảo tín đồ vẫn tồn tại biểu trưng của Phật giáo Hoà Hảo, hầu hết các gia
đình Phật giáo Hoà Hảo đều xác nhận họ tôn thờ Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, con
người này được coi là cội nguồn của đức tin; nhu cầu TG không suy giảm; có biểu
hiện thế tục hoá trong đời sống đạo. Sự đạo của Phật giáo Hoà Hảo đang trở về
với giáo lý nguyên thuỷ.
Thể theo yêu cầu và nguyện vọng của đông đảo tín đồ Phật giáo Hoà Hảo,
Đảng và Nhà nước đã chấp thuận cho Phật giáo Hoà Hảo tiến hành Đại hội đại
biểu toàn đạo lần thứ nhất vào tháng 5/1999, bầu chọn ra Ban Đại diện. Đại hội
đại biểu toàn đạo lần thứ II tháng 6/2004, đã xây dựng Hiến chương, tiếp tục
khẳng định đường hướng hành đạo của Phật giáo Hoà Hảo trong giai đoạn mới là:
"Vì đạo pháp, vì dân tộc"; kiện toàn tổ chức, bao bồm Ban Trị sự 2 cấp: cấp toàn
đạo và cấp cơ sở. Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hoà Hảo - tổ chức đại diện
hợp pháp duy nhất của đồng bào theo Phật giáo Hoà Hảo. Trải qua 5 nhiệm kỳ
hoạt động, Phật giáo Hoà Hảo đã từng bước lớn mạnh và trở thành tổ chức giáo hội
2 cấp gồm có 01 Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hoà Hảo và 379 Ban Trị sự xã,
phường, thị trấn (cấp cơ sở), cùng 13 Ban Đại diện tại các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Đến nay Phật giáo Hoà Hảo có hơn 1,3 triệu tín đồ, sinh sống ở 20
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mà chủ yếu là ở 09 tỉnh miền Tây Nam bộ là:
28
AG, Cần Thơ, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bến Tre, Hậu Giang, Tiền Giang, Long An
và Kiên Giang.
Kể từ khi được công nhận tổ chức đến nay Ban Trị sự Trung ương Giáo hội
Phật giáo Hoà Hảo đã từng bước củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của
các Tiểu ban chuyên môn cũng như các hoạt động đạo sự. Hàng năm, các ngày lễ
trọng (ngày khai sáng đạo 18/5 âm lịch và ngày Đản sinh Đức Huỳnh Giáo chủ
25/11 âm lịch) của đạo được Ban Trị sự Trung ương Giáo hội PGHH tổ chức khá
trang trọng có khoảng từ hàng trăm nghìn lượt người về tham dự, tình hình an
ninh trật tự trước,` trong thời gian diễn ra lễ được đảm bảo. Đặc biệt Phật giáo
Hoà Hảo đã vận động đông đảo tín đồ tự nguyện tham gia có hiệu quả cao trong
công tác hoạt động từ thiện - xã hội như: xây mới và sửa chữa cầu nông thôn; sửa
chữa và nâng cấp đường bộ; sửa chữa và xây dựng nhà tình thương; quyên góp
gạo, tiền để tổ chức cứu trợ cho các vùng bị lũ lụt; ngoài ra còn cấp thuốc Đông
Nam y miễn phí và tham gia hỗ trợ cho những bệnh nhân nghèo đi khám, điều trị
bệnh (mỗi năm quy ra tiền hơn 50 tỷ đồng)… Bên cạnh đó, bà con tín đồ cũng đã
nêu cao trách nhiệm công dân sống và hoạt động theo luật pháp, kịp thời đấu tranh
với những hoạt động gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, đoàn kết TG; góp phần giữ
vững ổn định chính trị, xây dựng cuộc sống mới theo định hướng: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2.2 Thực trạng thực hiện chính sách TG đối với PGHH ở An Giang hiện nay
2.2.1 Quá trình thực hiện chính sách TG đối với PGHH
* Về xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
PGHH là TG nội sinh, được sáng lập năm 1939, lợi dụng lực lượng tín đồ
đông đảo và sự ảnh hưởng nhất định của PGHH đến đời sống của một bộ phận
người dân, các thế lực thù địch đã tìm mọi cách mua chuộc, lôi kéo tín đồ hoạt động
phi TG nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta. Do vậy, để khẳng định chủ trương,
chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng, TG, đưa công tác quản lý TG đi vào nề nếp, đồng thời đấu tranh
loại bỏ ý đồ lợi dụng PGHH để chống phá Đảng và Nhà nước ta của những phần tử
cực đoan và các thế lực thù địch, Ban Chấp hành Trung ương đã ra Thông báo số
29
165-TB/TW về ý kiến của Thường vụ Bộ Chính trị về chủ trương đối với PGHH
trong tình hình mới. Từ khi có Thông báo số 165-TB/TW cho đến nay, tình hình
hoạt động của PGHH tương đối ổn định, đại bộ phận chức việc, tín đồ đều phấn
khởi, yên tâm, sống “Tốt đời, đẹp đạo”, tin tưởng vào CSTG của Đảng và Nhà
nước, tích cực tham gia phong trào từ thiện - xã hội góp phần vào xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp.
Ngay sau khi có chính sách từ Trung ương, tỉnh AG đã ban hành nhiều văn
bản nhằm thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thực hiện
CSTG như:
- Chương trình hành động số 10-CTr/TU, ngày 16/6/2003 và Kế hoạch số 01-
KH/TU, ngày 28/10/2010 về “Công tác TG trong tình hình mới”.
- Kế hoạch số 40/KH-UBND, ngày 25/8/2003 UBND tỉnh để thực hiện
Chương trình hành động số 10-CTr/TU.
- Quyết định số 43/2006/QĐ-UBND, ngày 13/11/2006 về thẩm quyền của cơ
quan nhà nước trong thực hiện quản lý hoạt động tín ngưỡng, TG ở địa phương.
- Quyết định số 06/2013/QĐ-UBND, ngày 18/3/2013 về quy định thẩm quyền
của cơ quan nhà nước trong thực hiện quản lý hoạt động tín ngưỡng, TG trên địa
bàn tỉnh (thay thế Quyết định số 43/2006/QĐ-UBND, ngày 13/11/2006), đồng thời,
chỉ đạo quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện đến các cấp, các ngành trong tỉnh.
- Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ tỉnh AG đã triển khai thực hiện Kế hoạch số
182/KH-UBND ngày 6/8/2018, về việc thực hiện Kế hoạch số 53-KH/TU ngày
12/6/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Chỉ thị 18-CT/TW ngày
10/01/2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác TG trong tình hình mới.
- Trên tinh thần Công văn số 1306/TGCP-PCTT ngày 21/11/2018 của Ban
Tôn giáo Chính phủ, Công văn số 6146/VPUBND-KGVX ngày 26/11/2018 của
UBND tỉnh, về việc tuyên truyền, phổ biến Luật tín ngưỡng, TG và Nghị định số
162/2017/NĐ-CP năm 2019. Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ đã xây dựng kế hoạch triển
khai tuyên truyền, phổ biến Luật tín ngưỡng, TG và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP
cho chức sắc, chức việc, tín đồ TG.
30
- Công văn 5433/VPUBND-KGVX ngày 29/10/2019 của Văn phòng UBND
tỉnh, tăng cường tuyên truyền phổ biến Luật tín ngưỡng, TG và Nghị định 162 của
Chính phủ.
Có thể nói, các chính sách của tỉnh AG đối với TG nói chung và đối với
PGHH nói riêng đã thể hiện được một số đặc trưng như sau:
Thứ nhất, chính sách được ban hành một cách nhanh chóng, kịp thời, bám sát
với tình hình thực tiễn TG nói chung tại địa phương và PGHH nói riêng.
Thứ hai, nội dung của các chính sách đã tháo gỡ được những khó khăn, bất ổn
trong hoạt động TG tại địa phương, góp phần giúp cho các tín đồ có định hướng
đúng đắn trong sinh hoạt TG, đề cao lối sống “tốt đời đẹp đạo”.
Thứ ba, các chính sách của tỉnh AG một mặt đi đúng định hướng chỉ đạo của
Trung ương, mặt khác cũng có bổ sung, phát triển thêm các nội dung để phù hợp
với tình hình địa phương, cũng như đặc thù TG ở AG;
Thứ tư, các CSTG của AG xứng đáng là cơ sở pháp lý và định hướng quan
trọng cho các nhà quản lý, các chức việc trong quá trình tổ chức các hoạt động TG,
quản lý các tín đồ.
* Về phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách
Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác tuyên truyền thực hiện
CSTG đối với PGHH, Tỉnh ủy, UBND tỉnh và Ban Tôn giáo luôn quan tâm đến
công tác đối với PGHH. Trong rất nhiều Nghị quyết của Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã đề
cập đến công tác phổ biến tuyên truyền việc thực hiện chính sách, trong đó có
CSTG đối với PGHH. Hiện nay, hình thức tuyên truyền chủ yếu là thông qua các
văn bản, hội nghị, lớp giáo lý căn bản của PGHH...
Trên tinh thần Công văn số 1306/TGCP-PCTT ngày 21/11/2018 của Ban Tôn
giáo Chính phủ, Công văn số 6146/VPUBND-KGVX ngày 26/11/2018 của UBND
tỉnh, về việc tuyên truyền, phổ biến Luật tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số
162/2017/NĐ-CP năm 2019. Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ đã xây dựng kế hoạch triển
khai tuyên truyền, phổ biến Luật tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số
162/2017/NĐ-CP cho chức sắc, chức việc, tín đồ TG. Kết quả triển khai được 02
lớp, với số lượng 229 người.
31
Ngoài ra, trong những năm qua, Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ đã mở rất nhiều lớp
với tuyên truyền các chính sách, pháp luật về TG cho các đối tượng là cán bộ, công
chức và chức sắc, chức việc, tín đồ các tổ chức TG (bình quân mỗi năm 2 lớp cho
cán bộ, công chức; 2 lớp cho chức sắc, chức việc, tín đồ của các tổ chức TG. Riêng
năm 2018, mở 11 lớp cho cán bộ, công chức; 6 lớp cho chức sắc, chức việc, tín đồ
các tổ chức TG). Các tổ chức TG cũng chủ động mở các lớp bồi dưỡng dành cho
những người chuyên hoạt động trong lĩnh vực TG và có mời đại diện Ban Tôn giáo
cùng những ngành liên quan đến báo cáo về chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước. Cụ thể như lớp giáo lý căn bản PGHH kết hợp với tuyên truyền
chính sách tại Ban Trị sự PGHH xã Vĩnh Gia, xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn; Võ
Châu tự, xã Vĩnh Xương, thị xã Tân Châu; Phước Hòa tự, xã Cần Đăng và thị trấn
An Châu, huyện Châu Thành; xã Kiến Thành và xã Kiến An huyện Chợ Mới;
phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên; Bửu Lâm tự, thị trấn Chợ Vàm, huyện
Phú Tân (1.090 học viên); lớp bồi dưỡng khóa An cư Kiết hạ tại chùa Tây An,
phường Núi Sam, TP. Châu Đốc (140 học viên); 01 lớp bồi dưỡng trụ trì tại phường
Mỹ Bình, thành phố Long Xuyên (350 học viên).
Bên cạnh đó, Tỉnh ủy, UBND tỉnh AG không ngừng chỉ đạo các ngành, địa
phương tiếp tục triển khai tuyên truyền, phổ biến Luật tín ngưỡng, TG trong các tổ
chức TG nhằm đảm bảo việc thực thi Luật được hiệu quả, nâng cao nhận thức, ý
thức chấp hành pháp luật của chức sắc, chức việc, tín đồ TG nói chung và PGHH
nói riêng.
Đánh giá công tác tuyên truyền chính sách đối với PGHH, chúng tôi nhận thấy
một số điểm nổi bật như sau:
Thứ nhất, công tác tuyên truyền một mặt giúp các cán bộ làm công tác tôn
giáo và tín đồ PGHH hiểu rõ hơn, nắm vững hơn và thực hiện hiệu quả chính sách.
Mặt khác, công tác tuyên truyền nhằm giúp đồng bào TG nhận thức rõ về các chính
sách liên quan đến công tác TG nói chung và PGHH nói riêng được Đảng và Nhà
nước quy định.
Thứ hai, công tác tuyên truyền chính sách đối với PGHH ở AG được thực hiện
một cách sâu rộng, liên tục.
32
Thứ ba, công tác tuyên truyền chính sách đối với PGHH ở AG được thực hiện
dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, vừa theo phương thức truyền thống vừa
theo phương thức hiện đại.
Thứ tư, công tác tuyên truyền được thực hiện một cách nhất quán, chủ trương,
chính sách do Tỉnh ủy, UBND tỉnh ban hành đã được các cấp các ngành, chức sắc
chức việc, các tín đồ TG và người dân tiếp nhận, lan tỏa trong toàn dân.
* Phân công, phối hợp thực hiện chính sách
Thực hiện chính sách TG không phải là trách nhiệm của một cá nhân hay một
tổ chức riêng biệt nào mà đó là sự phân công phối hợp nhịp nhàng giữa nhiều cá
nhân, nhiều cơ quan ban ngành đoàn thể từ Trung ương đến địa phương.
Chính vì vậy, từ trước tới nay, tỉnh An Giang coi việc thực hiện chính sách TG
là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Điều này thể hiện rõ qua việc,
năm 2001 thành lập Ban Chỉ đạo Công tác TG tỉnh do đồng chí Bí thư Tỉnh ủy là
Trưởng ban; đồng chí Trưởng ban Ban Dân vận Tỉnh ủy làm Phó Trưởng ban
thường trực; đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh và đồng chí Chủ tịch Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Phó Trưởng ban; các thành viên được cơ cấu từ các
đơn vị Ban Dân vận tỉnh ủy, Mặt trận tổ quốc, Ban Tôn giáo, Công an tỉnh; đồng
thời, ban hành Quy chế hoạt động và phân công nhiệm vụ cụ thể đối với thành viên
trong Ban Chỉ đạo. Theo đó, cấp huyện thành lập ban chỉ huy thống nhất và đến
năm 2004, thành lập Ban Chỉ đạo Công tác tôn giáo - dân tộc và có cơ chế hoạt
động như Ban Chỉ đạo Công tác TG tỉnh.
Đối với công tác triển khai thực hiện chính sách về TG đối với PGHH ở tỉnh
AG được Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo, UBND tỉnh triển khai và chỉ đạo, Ban Tôn giáo
- Sở Nội vụ thực hiện. Ngoài ra, để chính sách đi vào thực tiễn một cách có hiệu quả
còn có sự phối hợp thực hiện của mạng lưới các phòng Nội vụ huyện, hệ thống các
cơ sở thờ tự của PGHH trên địa bàn tỉnh...Cụ thể như:
- Tỉnh ủy chỉ đạo chung.
- UBND tỉnh ban hành các văn bản chỉ đạo về thực hiện chính sách.
- Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ ra các văn bản thực hiện chính sách đối với PGHH
trên địa bàn tỉnh AG; triển khai thực hiện; giám sát hiệu quả và báo cáo cho UBND
tỉnh theo định kỳ...
33
- Sở Tài chính thực hiện tham mưu về kinh phí đầy đủ và kịp thời đảm bảo
cho việc thực hiện các nội dung của chính sách đối với PGHH hàng năm. Hướng
dẫn, quản lý sử dụng nguồn kinh phí theo đúng quy định của pháp luật.
- Các địa phương có tín đồ PGHH trên địa bàn tỉnh quán triệt thực hiện tốt các
chính sách đối với PGHH.
- Các huyện, thị, thành có đông tín đồ PGHH sinh sống, tu hành thì tổ chức
quán triệt và xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện các CSTG phù
hợp với tình hình.
- Đảng, Đoàn, Hội đồng nhân dân, Ban cán sự đảng UBND tỉnh kịp thời lãnh
đạo, chỉ đạo rà soát, điều chỉnh, bổ sung triển khai thực hiện các chính TG đối với
PGHH; cân đối các nguồn lực của Tỉnh để xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt
động kịp thời, hiệu quả.
- Đảng, Đoàn, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, các tổ chức chính trị xã hội tỉnh
và Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn thực hiện xây dựng kế hoạch theo chức năng nhiệm vụ
của mình để tăng cường giám sát, phản biện xã hội và kịp thời kiến nghị, đề xuất tháo
gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai các CSTG nói chung và
chính sách đối với PGHH nói riêng.
- Ban Dân vận Tỉnh ủy chủ trì, phối hợp với các bên liên quan hướng dẫn, theo
dõi, kiểm tra việc thực hiện chính sách và hàng năm tham mưu Ban Thường vụ
Tỉnh ủy báo cáo sơ kết, tổng kết kế hoạch này.
- Ủy ban Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng như Hội Nông dân, Hội
Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên thực hiện công tác tập
trung tín đồ PGHH tham gia tổ chức hội, đoàn thể quần chúng. Trên cơ sở đó, phối
hợp các hoạt động của hội và đoàn thể với công tác tuyên truyền, phổ biến CSTG
đến với tín đồ.
Có thể nói việc phân công, chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai, giám sát việc thực
hiện CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh AG được thực hiện một cách đồng bộ,
toàn diện, thể hiện được vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các
cơ quan đoàn thể, các cơ sở thờ tự của PGHH... Từ đó, chính sách đã thực sự đi vào
34
thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt TG đối với tín đồ PGHH trên địa
bàn tỉnh AG.
* Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách
Để công tác TG nói chung và PGHH nói riêng được thực thi có hiệu quả,
ngoài việc ban hành các chính sách đúng đắn, kịp thời; tuyên truyền tốt chính sách
đến với mọi tầng lớp nhân dân, nhất là tín đồ PGHH; phân công phối hợp thực hiện
chính sách một cách bài bản thì không thể thiếu khâu kiểm tra, giám sát, đôn đốc
thực hiện chính sách.
Quán triệt được tinh thần đó, những năm qua, Tỉnh ủy, UBND tỉnh AG và các
cấp các ngành có thẩm quyền không ngừng đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát,
đôn đốc thực hiện chính sách đối với PGHH trên địa bàn tỉnh. Công tác thanh tra,
kiểm tra các quy định của pháp luật về TG được Ban Tôn giáo quan tâm thực hiện,
tham mưu Sở Nội vụ xây dựng kế hoạch kiểm tra của ngành trong có có quản lý
Nhà nước về TG.
Gần đây nhất là trong năm 2019, Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ đã phối hợp với
Thanh tra Sở Nội vụ thực hiện triển khai 03 cuộc kiểm tra tại 3 địa phương: UBND
thành phố Châu Đốc; UBND huyện An Phú và UBND huyện Châu Phú. Trong đó,
có nội dung kiểm tra việc thực hiện pháp luật về TG tại các địa phương. Kết quả
kiểm tra 3 địa phương đã cho thấy cán bộ làm TG ở cấp huyện, cấp xã nắm chắc số
liệu và xử lý nhu cầu của cá nhân, tổ chức TG đúng quy định pháp luật, tạo điều
kiện cho cá nhân, tổ chức TG sinh hoạt và hoạt động TG bình thường trong khuôn
khổ pháp luật. Đoàn kiểm tra cũng đã nhắc nhở các địa phương lưu trữ hồ sơ theo
quy định, chú ý công tác triển khai thi hành Luật tín ngưỡng, TG và Nghị định 162
của Chính phủ trong giải quyết các thủ tục cho các cá nhân và tổ chức TG.
Có thể nói, công tác kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các CSTG đối với
PGHH ở tỉnh AG được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục. Hoạt động này
đã góp phần đưa chính sách vào thực thi đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, việc kiểm tra
quá trình thực thi CSTG đối với PGHH cũng nhằm kịp thời nắm bắt những mặt tích
cực, những hạn chế khách quan để từ đó có cơ sở điều chỉnh hoặc bổ sung chính
sách kịp thời.
35
* Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện chính sách
Khâu tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm là bước cuối cùng trong tổ chức thực
hiện chính sách. UBND tỉnh yêu cầu các Sở, ban ngành làm báo cáo tổng hợp về kết
quả thực hiện chính sách. Ban Tôn giáo cũng yêu cầu các địa phương, các cơ sở TG
của các huyện thị làm báo cáo sau đó tổng hợp và gửi về UBND tỉnh. Việc đánh giá
tổng kết, rút kinh nghiệm, được tiến hành theo từng cấp, từng ban ngành. Như ở
mỗi huyện thị sau khi triển khai thực hiện đều làm báo cáo tổng hợp và các địa
phương đều tiến hành họp tổng kết. Ban Tôn giáo cũng tổ chức các buổi họp tổng
kết với các lãnh đạo địa phương có đông tín đồ PGHH, với các chức sắc chức việc
để trao đổi, nắm tình hình cụ thể và có kế hoạch, điều chỉnh, bổ sung nếu cần thiết,
Ban Tôn giáo cũng tiến hành họp tổng kết tình hình thực thi các chính sách. Căn cứ
trên báo cáo của các Sở ban ngành, các địa phương có tín đồ PGHH, các cơ sở TG,
UBND tỉnh AG sẽ tổ chức các buổi họp với các sở, ban ngành để đánh giá lại tình
hình triển khai CSTG, các đơn vị tham gia họp có thể thẳng thắn trao đổi những vấn
đề tồn tại và khó khăn gặp phải trong quá trình thực hiện chính sách để UBND có
hướng điều chỉnh cho phù hợp. Việc tổng kết, đánh giá được tiến hành hằng năm
nhằm tìm ra những tồn tại hạn chế cũng như giải pháp để thực thi chính sách hiệu
quả hơn.
2.2.2 Kết quả thực hiện chính sách TG đối với PGHH tại An Giang.
* Những kết quả đạt được
Cùng với quá trình đổi mới của đất nước, cụ thể là sau đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhất quán chính sách đổi mới đối với
công tác TG, trong đó có công tác đối với đạo PGHH. Ngày 04/9/1998, Thường vụ
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Thông báo 165-TB/TW về
chủ trương công tác đối với PGHH trong tình hình mới. Thực hiện chủ trương trên,
Ban Tôn giáo Chính phủ đã phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương liên quan
triển khai chủ trương công tác đối với đạo PGHH trong tình hình mới, theo đó sau
20 năm tổ chức triển khai thực hiện nhận thấy chủ trương của Trung ương đối với
đạo PGHH là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp và tạo sự chuyển biến tích cực. Đặc biệt
là kể từ khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, TG hoạt động của PGHH từng bước ổn định,
36
có nề nếp và tuân thủ pháp luật. Các thủ tục hành chính để giải quyết các nhu cầu
chính đáng trong sinh hoạt và hoạt động TG được thuận tiện, đúng pháp luật. Sự tin
tưởng của chức việc, tín đồ và chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước về TG không ngừng tăng lên. Từng bước chuyển hóa Phật giáo Hào Hảo từ
một TG chịu nhiều ảnh hưởng về lịch sử chính trị trước đây trở thành một tổ chức
TG thuần túy, được đảm bảo hoạt động bình đẳng như các TG khác và được tạo
điều kiện thuận lợi để hoạt động đạo sự theo quy định của pháp luật.
Tại tỉnh An Giang, với trách nhiệm là nơi khai đạo PGHH, Tỉnh ủy, UBND
tỉnh đã triển khai nghiêm túc tinh thần của Thông báo 165-TB/TW. Ban Tôn giáo -
Sở Nội vụ đã phối hợp với Ban Dân vận Tỉnh ủy, Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt
Nam tỉnh, Công an tỉnh và các ngành liên quan tham mưu cho cấp ủy Đảng, UBND
tỉnh tổ chức quán triệt sâu rộng việc thực hiện Thông báo 165-TB/TW cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong toàn hệ thống chính trị của tỉnh. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã
thành lập tổ công tác để xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện với từng bước đi cụ
thể, từ đó làm cho hầu hết cán bộ, đảng viên thông suốt về tư tưởng, tạo sự đồng
thuận và nhất trí cao của các ban, ngành, đoàn thể trong việc triền khai thực hiện.
Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ cũng đã phối hợp với các ngành liên quan vận động
được nhiều tín đồ tiến bộ, có uy tín, tâm đạo làm nòng cốt tham gia hoạt động đạo
sự và trở thành lực lượng cốt cán của tổ chức TG ở cơ sở. Tổ chức nhiều đợt tiếp
xúc, gặp gỡ thường xuyên với các chức việc trong tổ chức PGHH để nắm bắt tâm tư
nguyện vọng chính đáng của bà con tín đồ và hoạt động của Ban Trị sự cơ sở, qua
đó tham mưu cho cấp ủy, chính quyền giải quyết kịp thời các vướng mắc trong sinh
hoạt TG của tín đồ PGHH, đồng thời hỗ trợ cho các Ban Trị sự cơ sở hoạt động
ngày càng hiệu quả. Nhờ vậy, vị thế, uy tín của Ban Trị sự cơ sở ngày càng được
củng cố vững chắc, có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn tín đồ thực hiện
nghiêm chỉnh những chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hoạt
động đúng tôn chỉ, mục đích hành đạo, tuân thủ Hiến Chương PGHH và chủ động
đấu tranh chống âm mưu gây chia rẽ, mất đoàn kết trong cộng đồng.
Bên cạnh đó, tỉnh cũng phát huy vai trò của Ủy ban Mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể quần chúng như Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến
37
binh, Đoàn Thanh niên trong việc tập hợp bà con tín đồ PGHH tham gia các tổ chức
hội, đoàn thể quần chúng và được tạo điều kiện tiếp nhận nguồn tín dụng ưu đãi từ
các chương trình mục tiêu, giúp đỡ về kinh tế gia đình...xây dựng kế hoạch triển
khai cuộc vận động quần chúng tín đồ PGHH tham gia các phong trào thi đua yêu
nước, các hoạt động từ thiện xã hội nhân đạo do địa phương tổ chức, phát động...Vì
vậy, trong thời gian qua tình hình trong vùng đồng bào PGHH từng bước ổn định và
có nhiều khởi sắc.
Nhìn chung, trong quá trình thực thi chính sách, Tỉnh ủy, UBND tỉnh AG cũng
như các cấp, các ngành tại địa phương luôn bám sát các chỉ đạo từ Trung ương. Căn
cứ trên các văn bản của Trung ương, tỉnh cũng đã chủ động triển khai nhiều chương
trình, kế hoạch hành động phù hợp, nhanh chóng, kịp thời, và hiệu quả liên quan
đến công tác TG, nhất là với PGHH. Các chính sách TG của tỉnh AG được tuyên
truyền phổ biến sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân, góp phần nâng cao nhận thức
của các chức việc, tín đồ PGHH tự giác chấp hành các quy định của pháp luật, cảnh
giác trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề TG, tín
ngưỡng phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Công tác kiểm tra giám sát được triển
khải hiệu quả, chặt chẽ và có tổng kết, đánh giá để rút ra mặt được, mặt hạn chế, từ
đó có những điều chỉnh kịp thời. Quá trình thực hiện chính sách của tỉnh đã thực sự
đi vào thực tiễn, đem lại hiệu quả tích cực, sinh hoạt của các tổ chức cơ sở của giáo
hội đi vào nề nếp, trật tự, an ninh vùng trọng điểm PGHH được đảm bảo. Công tác
quản lý nhà nước đối với PGHH đã có sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của
cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương. Các chức việc và tín đồ PGHH ngày càng
tích cực, năng động, nhiệt tình tham gia vào các hoạt động xã hội, từ thiện, nhân
đạo. Quyền tự do tín ngưỡng, không tín ngưỡng TG của nhân dân được tôn trọng và
ngày càng đảm bảo tốt hơn, mọi hoạt động TG thuần túy được diễn ra bình thường,
đúng pháp luật, đời sống vật chất, tinh thần của quần chúng tín đồ ngày càng được
cải thiện, hầu hết tín đồ PGHH an tâm, phấn khởi tin tưởng vào chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước. Các yếu tố tích cực của TG PGHH không ngừng được
phát huy và khơi dậy. Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền với Ban Trị sự, quần
38
chúng tín đồ PGHH ngày càng được củng cố, tăng cường và trở nên gắn bó gần gủi,
thân thiện và cởi mở.
Các cấp uỷ Đảng, chính quyền trong tỉnh tập trung chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân, trong đó có các tín đồ PGHH. Trong những năm qua đời
sống của đồng bào theo đạo PGHH đã từng bước được cải thiện, nâng cao lòng tin
của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng. Công tác vận động quần chúng trong
đồng bào PGHH được đẩy mạnh, các hoạt động tôn giáo đều tuân thủ theo quy định
của pháp luật, theo đúng hiến chương, điều lệ của Giáo hội. Các Đại hội nhiệm kỳ
của PGHH được tổ chức trang trọng, an toàn và theo đúng quy định.
Hoạt động từ thiện xã hội của PGHH được tiến hành thường xuyên, mức đóng
góp cho hoạt động này năm sau cao hơn năm trước, các hoạt động trở thành truyền
thống như: cất nhà đại đoàn kết, nhà tình thương, cầu nông thôn, hòm thí, tặng quà
đồng bào nghèo vui xuân, hỗ trợ bệnh nhân mổ mắt, xe đưa rước bệnh nhân cấp cứu
tuyến dưới lên tuyến trên, hỗ trợ gạo cho các tổ chức từ thiện nấu cháo trong các
bệnh viện, sưu tầm thuốc nam chế biến dược thảo, tặng sách, vở học sinh nghèo hiếu
học, vận động xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, tham gia quỹ vì người nghèo,
vòng tay nhân ái, nắm gạo tình thương…Mô hình xây cầu bê tông do Ban Trị sự cơ sở
vận động đóng góp kinh phí thi công công trình là phương thức mới gắn hoạt động từ
thiện xã hội với công cuộc xây dựng nông thôn mới do Nhà nước phát động vì lợi ích
của cộng đồng trong đó có tín đồ PGHH.
Chính quyền các cấp luôn quan tâm, gần gũi các tín đồ PGHH, thường xuyên
tổ chức các đoàn đi thăm, tặng quà cho tổ chức, gia đình tiêu biểu nhân dịp Tết cổ
truyền dân tộc và những ngày lễ trọng của PGHH. Quan tâm thực hiện tốt các thủ
tục hành chính, rút ngắn thời gian giải quyết các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng
trong sinh hoạt, hoạt động của PGHH. Các thủ tục hành chính liên quan đến sinh
hoạt, hoạt động TG đều được ưu tiên giải quyết khẩn trương với tinh thần trách
nhiệm cao trong thời gian nhanh nhất. Tỉnh cũng làm tốt công tác giám sát, định
hướng hoạt động TG của PGHH đảm bảo theo đúng đường hướng và phương châm
hành đạo, gắn bó với dân tộc, đồng thuận với mục tiêu chung của dân tộc và chấp
hành pháp luật của Nhà nước, thực hiện theo chương trình đăng ký hàng năm. Bên
39
cạnh đó tỉnh cũng làm tốt công tác vận động, phát huy vai trò người có uy tín, quan
tâm xây dựng lực lượng cốt cán TG, đặc biệt là chú ý những vùng trọng điểm, phức
tạp của PGHH.
Thường xuyên tiếp xúc, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của chức sắc, chức
việc, người đứng đầu các tổ chức tôn giáo, qua đó một mặt tạo sự đồng thuận trong
triển khai thực hiện các nội dung quản lý một cách “hợp tình, hợp lý” theo đúng quy
định về trình tự, thủ tục hành chính; mặt khác, kiên quyết đấu tranh với những hành
vi lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng.
* Một số hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được thì quá trình thực thi CSTG đối với PGHH
còn tồn tại một số hạn chế như:
Thứ nhất là tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về hoạt động TG các cấp còn
nhiều bất cập chưa tương xứng với nhiệm vụ đề ra trong khi số lượng tín đồ của
PGHH chiếm 47% dân số của tỉnh nhưng đội ngũ cán bộ làm công tác TG không
được bố trí phù hợp. Tại một số địa phương cán bộ làm công tác TG chủ yếu là cán
bộ kiêm nhiệm, đa số không có chuyên môn về công tác TG. Một bộ phận cán bộ,
công chức làm công tác TG chưa nhận thức đầy đủ về TG cũng như những CSTG
đối với PGHH dẫn đến ứng xử và giải quyết các vấn đề liên quan đến TG PGHH
chưa phù hợp, gây tâm lý bức xúc, phản ứng trong chức việc, tín đồ TG.
Thứ hai là việc cụ thể hóa CSTG của Nhà nước tại địa phương còn chậm, gây
lúng túng cho cấp cơ sở trong quá trình thực thi các CSTG đối với PGHH, đặc biệt
là trong việc giải quyết các vụ việc phát sinh như vấn đề đất đai liên quan đến
PGHH, các hoạt động của TG (các ngày lễ trọng, lớp giáo lý viên, từ thiện xã hội,
thuyết giảng trái phép…).
Thứ ba là công tác tuyên truyền, vận động chức việc, tín đồ PGHH chấp hành
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước tuy đã được
quan tâm triển khai phổ biến rộng rãi nhưng chưa đi vào chiều sâu, hiệu quả chưa
cao, có tư tưởng ỷ lại cho rằng đây là việc của riêng ngành quản lý nhà nước về TG.
Công tác tuyên truyền cũng chưa chú ý nhiều đến những đặc điểm riêng của đại bộ
phận tín đồ PGHH bởi vì đa số chức việc, tín đồ PGHH trên địa bàn tỉnh AG là
40
nông dân, trình độ hiểu biết về chính sách, pháp luật còn hạn chế chính vì vậy trong
quá trình tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho đồng bào PGHH phải chú ý đến các
hình thức và phương pháp tuyên truyền sao cho các tín đồ PGHH tiếp thu được dễ
dàng nhất.
Thứ tư là công tác phối hợp giữa cơ quan làm công tác quản lý nhà nước về
TG các cấp với các cơ quan, ban ngành, Mặt trận, đoàn thể đã được Uỷ ban nhân
dân tỉnh chỉ đạo xây dựng Chương trình, Quy chế, kế hoạch phối hợp liên ngành,
nhưng hoạt động còn nhiều hạn chế, bất cập, thiếu đồng bộ.
Thứ năm là công tác kiểm tra, giám sát quá trình thực thi chính sách còn mang
tính hình thức, chưa phát huy được vai trò, trách nhiệm trong việc giải quyết những
vấn đề mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra trong TG, việc giữ gìn sự trong sáng của nền
đạo, nhiều nơi còn buông lỏng trong công tác quản lý nhà nước, không tiến hành
thanh tra, kiểm tra kịp thời nhất là trong lĩnh vực đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự dẫn
đến khi các vụ việc được thực hiện mới phát hiện để xử lý nhưng gặp rất nhiều khó
khăn do sự việc đã xảy ra rồi. Trong khi đó, việc phát hiện, uốn nắn, ngăn chặn việc
làm đó của chính quyền cơ sở chưa sâu sát, thiếu cương quyết và việc hướng dẫn
cho đối tượng cũng chưa kịp thời, còn nhiều hạn chế…
Thứ sáu là việc chăm lo, bảo vệ và tham gia giải quyết các nhu cầu hợp pháp
chính đáng của tín đồ PGHH chưa được chủ động và thường xuyên. Việc phát hiện,
biểu dương, khen thưởng và nhân rộng những tập thể, cá nhân tiêu biểu trong đồng
bào tín đồ PGHH có nhiều thành tích trong các phong trào thi đua yêu nước,
sống "tốt đời, đẹp đạo" còn chưa được quan tâm đúng mức, chưa kịp thời.
Thứ bảy là hoạt động phổ truyền giáo lý cơ bản chỉ đáp ứng nhu cầu của tín
đồ, chưa đi vào chiều sâu, nhất là định hướng đúng giáo lý chân truyền của đạo;
chưa thực hiện tốt việc quản lý đội ngũ giáo lý viên trong việc thuyết giảng...
Thứ tám là việc xem xét công nhận các cơ sở thờ tự, xây dựng trụ sở làm việc của
Ban đại diện tỉnh và Ban Trị sự cơ sở, tỉnh đã triển khai thực hiện đúng yêu cầu, mục
đích đặt ra, tuy nhiên việc thực hiện còn chậm vì nhiều nguyên nhân khách quan.
41
Thứ chín là các đối tượng cực đoan lợi dụng PGHH vẫn còn tiếp tục câu móc
với các đối tượng trong và ngoài nước có những hoạt động chống phá Đảng, Nhà
nước nhất là trong những sự kiện lớn của đất nước hoặc có những vấn đề hạn chế
trong lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp...
* Nguyên nhân của hạn chế
TG là vấn đề nhạy cảm, phức tạp, là một trong những lĩnh vực mà các phần tử
xấu, thế lực thù địch trong và ngoài nước thường xuyên móc nối, liên kết nhau, lợi
dụng TG để thực hiện “diễn biến hòa bình” với nhiều hình thức khác nhau và ngày
càng tinh vi… AG là tỉnh có nhiều TG và có đường biên giới dài 196 km tiếp giáp
với nước bạn Campuchia, đồng bào PGHH sống tập trung chủ yếu tại những địa bàn
nông thôn, biên giới như huyện Phú Tân, Tân Châu và An Phú… nên trong công tác
tuyên truyền vận động còn nhiều trở ngại.
Tổ chức bộ máy thực hiện chức năng quản lý nhà nước về TG như hiện nay là
chưa tương xứng, chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn công tác đặt ra đối với tỉnh
AG. Mặt khác, bộ máy tổ chức cán bộ làm công tác TG các cấp chưa ổn định, còn
thiếu và không được đào tạo bài bản, thiếu ổn định, thiếu người có chuyên môn sâu,
càng xuống cơ sở thì cán bộ làm công tác TG càng ít lại. Trong chỉ đạo giải quyết
vụ việc phức tạp về TG còn thiếu sự thống nhất giữa cấp ủy Đảng, chính quyền với
ngành chức năng dẫn đến tâm lý né tránh, ngại va chạm. Kinh phí dành cho công
tác TG còn hạn hẹp. Công tác đãi ngộ đối với lực lượng làm công tác quản lý nhà
nước về TG còn bất cập, chưa quan tâm đúng mức.
Một số hoạt động của Ban Trị sự cơ sở còn kém hiệu quả, nặng về hình thức.
Một bộ phận bà con tín đồ PGHH do hạn chế về trình độ và môi trường sinh sống,
lao động nên điều kiện để tiếp cận các chính sách tôn giáo còn hạn chế.
2.2.3 Đánh giá chung
Có thể nói, mặt dù còn những tồn tại, hạn chế nhất định, nhưng công tác thực
hiện chính sách đối với PGHH ở tỉnh AG cơ bản đã đạt được những thành quả cao.
Chúng tôi nhận thấy, việc triển khai thực hiện CSTG đối với PGHH ở AG có một
số điểm nổi bật, như sau:
42
Thứ nhất, các chính sách được tỉnh AG ban hành kịp thời, vừa bám sát các
chính sách của Trung ương, vừa phù hợp với tình hình thực tiễn PGHH ở AG;
Thứ hai, công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách đến với quần chúng nhân
dân được thực hiện sâu rộng, liên tục, bằng nhiều hình thức và đạt hiệu quả cao.
Thứ ba, công tác phối hợp thực hiện chính sách đối với PGHH ở AG được các
cấp, các ngành và mọi tầng lớp nhân dân cùng tham gia.
Thứ tư, công tác kiểm tra, đánh giá, đôn đốc thực hiện chính sách được chỉ đạo
thực hiện nghiêm túc, thường xuyên. Chính điều này đã góp phần thúc đẩy việc thực
thi chính sách hiệu quả, mặt khác có thể bổ sung, điều chỉnh chính sách kịp thời.
Thứ năm, công tác tổng kết, đánh giá hiệu quả thực hiện chính sách được triển
khai thực hiện nghiêm túc, có sự phối hợp giữa tất cả các bên liên quan.
Thứ sáu, nhờ thực hiện tốt chính sách đối với PGHH nên tình hình sinh hoạt
TG ở AG nói chung và PGHH nói riêng ngày càng ổn định. Nhận thức của tín đồ
PGHH và mọi tầng lớp nhân dân về chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước ngày càng được nâng lên. Đó là cơ sở quan trọng để bà con tín đồ PGHH
“sống tốt đời - đẹp đạo” cùng chung tay với Đảng và Nhà nước ta xây dựng quê
hương đất nước ngày càng giàu đẹp`.
2.3 Bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra
2.3.1 Bài học kinh nghiệm
Một là, phải nắm vững đặc điểm của PGHH và truyền thống văn hóa của
đồng bào theo PGHH.
PGHH là TG nội sinh, giản dị và “bình dân”, không dựa vào một tư tưởng
triết học nào, PGHH mang tên Phật giáo nhưng hoàn toàn độc lập về kinh sách với
Phật giáo. Ra đời trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX nhiều biến
động, PGHH đã bổ sung thêm một số quan niệm và cúng lễ theo cách riêng của
mình đã làm nảy sinh nhiều tác động đối với tín đồ. PGHH thích hợp với nếp sống
dân tộc, gắn liền với nhân dân lao động, mang yếu tố xã hội sâu sắc.
PGHH không có hàng ngũ chức sắc xuất gia tu hành, không có hàng giáo
phẩm làm trung gian giữa tín đồ với đấng siêu nhiên. Sinh hoạt TG của cộng đồng
43
tín đồ PGHH là tại gia, nghĩa là về cơ bản mọi sinh hoạt trong đời sống TG của
các tín đồ đều thực hiện ở nhà.
Hoạt động từ thiện xã hội là hoạt động nhập thế của PGHH. Nắm vững các
đặc điểm nêu trên, quản lý nhà nước cần tạo điều kiện tốt cho tín đồ PGHH tham
gia sinh hoạt TG theo truyền thống của đạo qua các hình thức cầu nguyện, bình
giảng sấm giảng, thuyết giảng giáo lý tại gia, hành hương về Tổ Đình; tham gia
các hoạt động từ thiện nhân đạo (mở phòng thuốc nam, tổ từ thiện, bếp cơm từ
thiện…); thận trọng trong việc bình luận, so sánh về giáo lý giữa Phật giáo và
PGHH đồng thời phát huy điểm tương đồng, yếu tố tích cực của hai TG này tiến
tới xây dựng khối đoàn kết dân tộc; phát huy vai trò của đội ngũ chức việc, tạo vị
thế cho họ là trung tâm đoàn kết, hiệu triệu tín đồ PGHH thực hiện tín ngưỡng TG
theo tinh thần “Vì đạo pháp vì dân tộc”.
Hai là, kết hợp linh hoạt phương pháp giáo dục, thuyết phục và phương pháp
hành chính.
Nếu như trong quản lý hành chính nhà nước nói chung, mệnh lệnh hành
chính là biện pháp chủ yếu, thì biện pháp giáo dục thuyết phục là biện pháp hàng
đầu quyết định đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động TG.
Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX về công tác TG khẳng định: “Nội dung cốt lõi của công tác TG là công
tác vận động quần chúng”. Trong khi người tín đồ PGHH đại đa số là nông dân
mộc mạc, chất phác, hạn chế về học vấn, một phần còn mặc cảm là một “TG chính
trị”, nay được Nhà nước công nhận và hoạt động trong môi trường mới thì việc sơ
suất, sai phạm là điều không tránh khỏi. Nhận thức được với những hạn chế ấy,
đồng thời quán triệt sâu sắc quan điểm nêu trên của Đảng, chính quyền, Mặt trận
địa phương khéo léo tuyên truyền, vận động quần chúng tín đồ theo phương châm
“mưa dầm thấm sâu”, “lấy việc đạo giải quyết việc đạo”, bằng nhiều phương pháp
tuyên truyền, thuyết phục (theo giới, theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp,…), nhiều
vấn đề PGHH địa phương vướng mắc đã được tháo gỡ trong sự hài hòa giữa chính
quyền và TG, như việc chậm thành lập mới Ban Trị sự cơ sở, việc khôi phục lại
các chùa, …
44
Ngoài việc dùng đối sách mềm dẻo đối với quần chúng tín đồ chân chính,
linh hoạt trong đấu tranh ngăn chặn âm mưu, ý đồ lợi dụng TG để chống phá Nhà
nước, trong những trường hợp cần thiết chính quyền cùng các ngành chức năng
còn chủ động đề ra các kế hoạch thực hiện, triển khai đồng bộ các biện pháp
nghiệp vụ, thu thập, củng cố hồ sơ đưa ra xử lý hành chính, xử lý hình sự các vụ
án liên quan đến đến tôn giáo, ngăn chặn, đập tan âm mưu gây chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch. Tuy nhiên, trong lĩnh vực TG chưa
có chế tài xử lý cụ thể, chỉ vận dụng xử lý theo các quy định pháp luật có liên
quan trên từng lĩnh vực cụ thể, đây cũng là hạn chế ảnh hưởng đến hiệu quản lý lý
nhà nước đối với TG hiện nay.
Ba là, làm tốt công tác xây dựng lực lượng cốt cán, công tác tổ chức của đạo
PGHH, tăng cưởng công tác phối hợp trong quá trình thực hiện chính sách đối với
PGHH.
Cấp ủy, chính quyền các cấp có liên quan cần phối hợp làm tốt công tác vận
động những tín đồ tiến bộ, có uy tín, tâm đạo làm nòng cốt tham gia các hoạt động
đạo sự và trở thành lực lượng cốt cán của tổ chức TG. Thường xuyên tổ chức gặp
gỡ, tiếp xúc với các chức việc trong tổ chức PGHH để nắm bắt tâm tư nguyện
vọng, chính đáng của bà con tín đồ và hoạt động các cấp hành chính đạo của
PGHH, qua đó tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp giải quyết kịp thời các
vướng mắc trong sinh hoạt TG của tín đồ đồng thời hỗ trợ cho các cấp hành chính
đạo của PGHH hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, phát huy vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
quần chúng như Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn
Thanh niên trong việc tập hợp bà con tín đồ PGHH tham gia các tổ chức hội, đoàn
thể quần chúng và được tạo điều kiện tiếp nhận nguồn tín dụng ưu đãi từ các
chương trình mục tiêu, giúp đỡ về kinh tế gia đình,... Xây dựng kế hoạch và tổ
chức triển khai nhiều cuộc vận động quần chúng tín đồ PGHH tham gia các phong
trào thi đua yêu nước, các hoạt động từ thiện xã hội nhân đạo do địa phương, tổ
chức, phát động, kịp thời biểu dương, khen thưởng những tín đồ PGHH gương
45
mẫu trong các phong trào. Vì thế, trong thời gian qua, tình hình PGHH từng bước
ổn định, có nhiều khởi sắc, công tác vận động quần chúng có tác dụng tích cực.
2.3.2 Những vấn đề đặt ra
Một là, hệ thống chính sách, pháp luật về TG còn những bất cập cần được bổ
sung, sửa đổi.
Trong những năm qua, chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, TG ở nước ta
được sửa đổi, bổ sung và từng bước hoàn thiện. Dưới ánh sáng của Nghị quyết 25,
Pháp lệnh tín ngưỡng, TG, ra đời tiếp tục được cụ thể hóa bằng Nghị định
22/2005/NĐ-CP, sau đó là Nghị định 92/2012/NĐ-CP, nay là Luật tín ngưỡng, tôn
giáo đã tạo hành lang pháp lý cho quản lý nhà nước về TG và hoạt động TG thuận
lợi hơn. Tuy nhiên, tình hình TG luôn diễn biến phức tạp và đa dạng về hình thức,
trong đó, nhiều vấn đề chưa được pháp luật điều chỉnh kịp thời nên lúng túng
trong quản lý nhà nước. Đối với PGHH, chính quyền địa phương gặp phải những
vướng mắc đang đặt ra như: đối với việc thành lập mới tổ chức trực thuộc (Ban
Trị sự cơ sở) pháp luật và hiến chương PGHH chưa quy định cụ thể số lượng tín
đồ là bao nhiêu để được thành lập nên khó trả lời khi TG có yêu cầu; về vấn đề xin
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xây dựng trụ sở làm việc của Ban Đại
diện tỉnh và Ban Trị sự cơ sở, pháp luật cho phép thành lập tổ chức và thực tế tổ
chức đã ra đời và hoạt động ổn định nhưng mượn nhà tín đồ để làm việc là hết sức
trở ngại; về vấn đề cấp thẻ đạo cho tín đồ, đây là nhu cầu chính đáng, trong khi
các TG khác thì có nhưng PGHH thì không có cơ sở nào (giấy tờ gì) để được xem
là tín đồ,…Ngoài ra, dư luận trong PGHH còn đặt ra những vấn đề có tính gốc
cạnh đòi hỏi quản lý nhà nước cần nghiên cứu trong thời gian tới đó là: vấn đề
thành lập Ban Trị sự PGHH là một cấp hành chính đạo; việc xin thành lập đào tạo
giáo lý viên, trị sự viên các cấp,…
Hai là, công tác xây dựng và sử dụng đội ngũ cốt cán trong tín đồ PGHH còn
nhiều bất cập cần được quan tâm giải quyết.
Thời gian qua ta có quan tâm đầu tư cho công tác này, kết quả đạt được khả
quan, lực lượng cốt cán phát huy được vai trò tích cực trong những trường hợp cần
46
thiết. Tuy nhiên, nguồn đầu tư có hạn, lực lượng mỏng, khi phát sinh những vấn
đề ở diện rộng, họ bị rơi vào nhóm thiểu số, vai trò bị mờ nhạt.
Công tác vận động, tập hợp tín đồ vào đoàn viên, hội viên các tổ chức chính
trị xã hội được tăng cường, nâng cao về số lượng và chất lượng, nhưng với bản
chất nông dân chất phác, trọng tình làng nghĩa xóm, họ ngại và chưa thể hiện hết
bản lĩnh trong đấu tranh trực diện với các hoạt động lợi dụng PGHH phá hoại sự
nghiệp đại đoàn kết dân tộc. Mặt khác, công tác này đòi hỏi phải đầu tư về thời
gian, công sức, tiền bạc và cần có sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp cùng
tham gia tạo thế liên hoàn thống nhất trong chỉ đạo và hành động. Do đó, Ban Tôn
giáo Chính phủ cần hướng dẫn UBND các tỉnh, thành phố có PGHH trong việc
xây dựng đội ngũ chức việc làm cốt cán phong trào trong PGHH và công tác tranh
thủ chức sắc, chức việc, cốt cán theo chủ trương chung; phối hợp với tỉnh AG giúp
Ban Trị sự Trung ương Giáo hội PGHH củng cố sự đoàn kết nội bộ, kiện toàn các
Ban Đại diện PGHH tỉnh và Ban Trị sự cơ sở còn yếu, còn thiếu.
Ba là, Bộ máy làm công tác TG trong hệ thống chính trị ở tỉnh còn những
hạn chế, yếu kém cần được củng cố, tăng cường.
Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ, dưới sự quan tâm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và
sự lãnh đạo trực tiếp của UBND tỉnh, là đơn vị giải quyết những yêu cầu bức xúc
của TG từ phương diện quản lý Nhà nước. Tuy nhiên, Ban Tôn giáo hiện trong
tình trạng thiếu nhân lực (do biến động về nhân sự và phải cắt giảm biên chế theo
chủ trương chung) nên còn gặp khó khăn trong quá trình quản lý, theo dõi giải
quyết những vấn đề của TG cả tỉnh. Đôi lúc còn thụ động trong việc nắm tình hình
hoạt động của một số TG nên chưa đề xuất kịp thời những vấn đề phát sinh trong
quá trình quản lý.
Công tác TG là công tác vận động quần chúng, các cơ quan ban ngành, các
cấp chính quyền đều có phân công cán bộ phụ trách. Nhưng nếu kiểm tra lại sẽ
thấy số người thông suốt về CSTG rất ít. Như vậy, khó có thể làm tốt nhiệm vụ mà
công tác TG đặt ra, nhất là công tác vận động tín đồ các TG nói chung, tín đồ
PGHH nói riêng tham gia công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
47
Ủy ban Mặt trận tổ quốc kết hợp các đoàn thể tích cực vận động thực hiện
CSTG - dân tộc theo phương châm: “Chỉ đạo dọc, phối hợp ngang, tập trung cơ
sở”. Nhưng trên thực tế thực hiện phương châm đó là vấn đề không hề đơn giản.
Hiện nay, vẫn còn một số Ban cán sự đảng đoàn, các ban ngành của Đảng và Nhà
nước, có người vẫn còn xem “công tác vận động các TG là của Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc và của các đoàn thể”.
Công an tỉnh là đơn vị chủ lực phối hợp tham mưu giúp Tỉnh ủy, UBND tỉnh
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về TG trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là các vấn
đề liên quan đến nhân sự TG, “điểm nóng” TG. Tuy nhiên, đội ngũ chuyên ngành
còn mỏng cần tiếp tục được quan tâm tăng cường.
Ba là, các thế lực thù địch tiếp tục triệt để lợi dụng PGHH gây chia rẽ khối
đại đoàn kết toàn dân, phá hoại sự nghiệp cách mạng của địa phương và của cả
nước.
Đối với một TG như PGHH có một quá trình bị các thế lực đế quốc (Nhật,
Pháp Mỹ) lợi dụng để chống lại dân tộc và cách mạng. Hiện nay và lâu dài các thế
lực đế quốc và bọn phản động quốc tế không từ bỏ âm mưu và thủ đoạn lợi dụng
PGHH để phục vụ các âm mưu chính trị của chúng, đặc biệt trong chiến lược
chống phá Việt Nam bằng “diễn biến hòa bình”. Đến nay, trong PGHH vẫn còn
tồn tại một số phần tử xấu trong đó có những nhân vật “ngọn cờ” có thể dựng dậy
và gom lại những phần tử xấu thành lực lượng chống đối. Họ thường gợi lại và
khoét sâu những bất đồng giữa PGHH và cách mạng trong quá khứ, dựa vào
những nguyện vọng và nhu cầu sinh hoạt TG của tín đồ, đồng thời khai thác
những thiếu sót của chính quyền trong việc thực hiện những chủ trương, CSTG để
tập hợp lực lượng. Sự việc có thể trở nên nghiêm trọng, phức tạp nếu Đảng, Nhà
nước không có những chủ trương và giải pháp giải quyết thích hợp vừa kiên
quyết, vừa khéo léo. Những vấn đề cụ thể đặc biệt đang quan tâm đó là: việc đề
nghị được nâng Ban Đại diện hoặc Đại diện ở các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương thành Ban Trị sự PGHH là một cấp hành chính đạo; việc xin thành lập
trường đào tạo giáo lý viên, trị sự viên các cấp; việc cho Ban Đại diện tỉnh, thành
phố và Ban Trị sự cơ sở được nhận đất hiến, tặng quyền sử dụng đất để xây dựng
48
nơi làm việc; việc cho phép xây dựng, hợp pháp hóa các cơ sở thờ tự của PGHH
chưa được công nhận hoặc chỉ còn dấu tích tên gọi. Đây là những vấn đề hết sức
nhạy cảm mà các thế lực xấu đang “dòm ngó” quá trình thực thi CSTG của chính
quyền địa phương để thực hiện âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, phá
hoại sự nghiệp cách mạng của địa phương và của cả nước.
Tiểu kết chương 2
Trước khi đánh giá kết quả thực thi chính sách thì chúng ta phải nắm vững
đặc điểm tình hình của địa phương và những đặc điểm của PGHH. Do vậy, trước
khi đi vào phân tích thực trạng, tác giả đã trình bày khái quát về đặc điểm tự nhiên
của tỉnh AG, sự ra đời của PGHH để có cái nhìn tổng quan về địa bàn nghiên cứu.
Có thể nói, việc triển khai thực hiện CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh
AG trong thời gian qua đã được thực hiện khá toàn diện, sâu rộng từ cấp tỉnh đến cơ
sở. Để thực thi tốt chính sách, Tỉnh ủy, UBND tỉnh AG cùng với các cấp, các ban
ngành quán triệt tốt chủ trương từ Trung ương, ban hành nhiều chủ trương, chính
sách phù hợp, kịp thời nhằm cụ thể hóa các văn bản pháp quy từ Trung ương, nhằm
áp dụng chủ trương chính sách phù hợp với thực tiễn địa phương.
Ngoài ra, tỉnh AG luôn tăng cường công tác phổ biến tuyên truyền chính
sách sâu sát đến bà con tín đồ và hướng dẫn họ thực hiện chính sách một cách có
hiệu quả. Tỉnh cũng tiến hành phân công phối hợp thực hiện giữa các bên liên quan
một cách hợp lý, kiểm tra đôn đốc việc thực thi chính sách một cách thường xuyên,
bằng nhiều phương thức đa dạng. Đồng thời, tỉnh luôn chỉ đạo việc đánh giá, tổng
kết, rút kinh nghiệm việc thực thi chính sách theo định kỳ. Nhờ vậy, các bên liên
quan kịp thời nắm thông tin việc thực thi chính sách, thấy được mặt đạt được và mặt
hạn chế của quá trình thực thi chính sách để có những điều chỉnh kịp thời.
Việc thực hiện CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh AG thực sự đã tạo ra
những kết quả đáng khích lệ. Sinh hoạt của các tổ chức cơ sở của giáo hội đi vào nề
nếp, trật tự, an ninh vùng trọng điểm PGHH được đảm bảo. Các chức việc và tín đồ
PGHH ngày càng tích cực, năng động, nhiệt tình tham gia vào các hoạt động xã hội,
49
từ thiện, nhân đạo; mối quan hệ giữa chính quyền địa phương các cấp và các cơ sở
TG PGHH được củng cố, tăng cường, ngày càng gần gũi, thân thiện.
Song bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận thì vẫn còn không ít những hạn
chế liên quan đến công tác triển khai thực CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh
AG. Việc đánh giá và nhìn nhận một cách khách quan và trung thực những kết quả
và hạn chế trong quá trình thực chi CSTG đối với PGHH chính là cơ sở để tác giả
luận văn đề xuất những giải pháp mang tính chất căn bản, toàn diện nhằm nâng
cao hiệu quả của quá trình thực hiện CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh AG.
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
TÔN GIÁO ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO HÒA HẢO Ở TỈNH AN GIANG
3.1. Dự báo, mục tiêu phương hướng phát triển của PGHH trong thời
gian tới
3.1.1 Dự báo xu hướng phát triển của PGHH trong thời gian tới
Xu thế đa dạng hóa TG:
- TG đang diễn biến theo khuynh hướng đa dạng hóa với tình trạng: bảo thủ
và đổi mới, xung đột và hòa giải, cạnh tranh và hợp tác với nhiều loại, nhiều kiểu,
với nhiều hình thức và tính chất đặc điểm khác nhau với hình thức tổ chức khác
nhau. Xu hướng đa dạng hóa được thể hiện trước hết ở xu hướng phân ly tách biệt
từ những TG lớn thành những “giáo phái mới”. Với điều kiện kinh tế xã hội phát
triển như hiện nay, dân trí nâng cao, nhu cầu của họ ngày càng cao, họ không còn tiếp
cận với những TG có truyền thống lâu đời mà họ còn tiếp cận với các TG khác và
như vậy ở mỗi cá nhân có thể nảy sinh hiện tượng song hành TG, nghĩa là một cá
nhân một lúc theo nhiều TG khác nhau, trong điều kiện đó từng TG cũng có sự phân
rẽ thành các giáo phái thậm chí có những giáo lý xa lạ với giáo lý ban đầu.
50
- TG luôn gắn liền với chính trị, các thế lực chính trị không ngần ngại khi
lợi dụng sự chuyển biến đầy phức tạp của TG phục vụ cho ý đồ riêng tư, ngược lại
những tổ chức và lực lượng tiến bộ, trong đó có cả những người cộng sản lại
muốn đưa TG vào những cuộc đấu tranh vì những mục đích lành mạnh. Nội bộ
các TG bị phân rẽ thành ba bộ phận:
- Bộ phận toàn thống, bộ phận bảo thủ cực đoan, chống lại những sự cải cách
về giáo lý, giáo luật, chống phá cách mạng, chống lại sự nghiệp công nghiệp hóa hiện
đại hóa; Bộ phận ôn hòa muốn thay đổi để thích nghi, để bảo vệ đạo; Bộ phận tiến bộ
muốn hướng đạo phục vụ người nghèo, vì cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc.
Xu thế thế tục hóa và hiện đại hóa TG:
- Xu thế này thể hiện rất phong phú và đa dạng, là những hành vi nhập thế
của mọi TG bằng cách tham gia vào những hoạt động trần tục phi TG: xã hội, đạo
đức, từ thiện, y tế ..., xu thế này phù hợp với ý tưởng ban đầu của những đấng
sáng lập các TG, thiên về cái thiện, làm đẹp hơn cho cuộc đời, đây có thể xem là
sự thức tỉnh lương tâm của đa số tín đồ lựa chọn cái thiện phục vụ cho đời. Một bộ
phận tiến bộ trong từng TG muốn xóa bỏ những lỗi thời, không còn phù hợp trong
giáo lý, giáo luật muốn tiến tới sự đoàn kết giữa các tín đồ các TG và không TG.
- Xu thế thế tục hóa biểu hiện ở chỗ con người dường như ra khỏi những
TG nhất định, họ tiến hành cầu xin cho cá nhân hay tập thể qua những lời cầu
khẩn, những cuộc hành hương hay những buổi cầu Chú hay Thánh, không hẳn
theo giáo lý hay giáo luật đã được quy định sẵn, hoặc có khi lại gửi niềm tin vào
nội dung hay hành vi các TG khác. Xu thế này cũng có mặt trái của nó thể hiện ở
sự tiếp tục tham gia vào các họat động chính trị của các tổ chức TG, nhằm bảo vệ
trực tiếp hay gián tiếp quyền lợi của các thế lực chính trị phản động.
- Xã hội ngày càng hiện đại, phát triển thì tất yếu dẫn đến sự hiện đại hóa
TG, TG chuyển biến thích ứng với tiến trình dân chủ và hiện đại hóa xã hội. TG
tiếp cận với sự hiện đại hóa của xã hội, tìm cách thích ứng với những giá trị mới
và tiến hành cải cách nhằm xóa bỏ dần những yếu tố lạc hậu. Trước những tiến bộ
mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật hiện đại, TG không ngăn cản cấm đoán mà tích
cực theo dõi, chủ động đối thoại và còn lợi dụng những thành quả của khoa học,
51
kỹ thuật, công nghệ tin học,… Phục vụ cho sự phát triển của TG. Như vậy, trong
tiến trình hiện đại hóa, TG không ngừng cố gắng tự bổ sung, điều chỉnh và hoàn
thiện mình, TG hòa vào và thúc đẩy “hiện đại hóa” phát triển.
Xu thế dân tộc hóa TG:
- Đây là một xu thế quan trọng phản ánh tính thống nhất và đa dạng trong
tình hình toàn cầu hóa của TG nói riêng, cũng như của văn hóa nói chung, xu thế
này biểu hiện ở sự hướng trở về với TG truyền thống. TG truyền thống hay dân
tộc được coi như vũ khí để bảo vệ bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay trước
sự uy hiếp của các TG thế giới, đang được các thế lực chính trị sử dụng như một
vũ khí đồng hóa văn hóa, đồng thời là một chỗ tựa để các TG ngoại sinh được dân
tộc hóa - mang màu sắc dân tộc. Ở nước ta, đạo Phật cũng đã mang sắc thái Việt
Nam và trở thành một TG truyền thống.
- Hiện nay có hiện tượng các TG được truyền bá một cách nhanh chóng
sang các quốc gia khác với nhiều cách thức khác nhau vì vậy TG dân tộc hay TG
truyền thống được coi là một thứ vũ khí để bảo vệ bản sắc của dân tộc trước sự uy
hiếp của các TG thế giới, thường được các thế lực chính trị sử dụng như một
phương tiện để đồng hóa văn hóa, đồng thời là chỗ dựa để các TG ngoại sinh được
dân tộc hóa.
- Như vậy, các TG ở nước ta một mặt đang có xu hướng cải cách, tự đổi
mới để phù hợp với thời hiện đại, mặt khác cũng đang trở về với phong tục, truyền
thống, lễ hội, tín ngưỡng dân gian. Nhưng nếu không cách tân thì TG truyền
thống, tín ngưỡng dân gian khó có thể được nhân dân nhất là thế hệ trẻ chấp nhận.
Thờ cùng tổ tiên, tôn vinh những người có công với đất nước với dân tộc…là hiện
tượng trở lại nguồn của văn hóa tâm linh trong cộng đồng dân tộc, xu hướng này
thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, mặt khác là nhằm bảo vệ truyền thống
của dân tộc, bản sắc văn hóa của dân tộc. Xu hướng dân tộc hóa TG trước kia chỉ
diễn ra phổ biến ở các nước có nguy cơ thâm nhập và bành trướng bởi TG ngoại
lai, nay đã lan sang nhiều nước.
52
3.1.2 Mục tiêu
Kết quả phân tích trong phần thực trạng đã cho thấy việc thực hiện quan
điểm, CSTG của Đảng và Nhà nước đối với PGHH trên địa bàn tỉnh AG trong thời
gian qua đã đạt được những thành tựu nhất định. Tỉnh đã tạo điều kiện để cho
đồng bào theo đạo được sinh hoạt thuận lợi, ổn định, đi vào nền nếp theo Hiến
chương, Đạo quy của Giáo hội và quy định của Nhà nước. Các chức việc và tín đồ
của PGHH đã và đang đồng hành cùng nhân dân trong tỉnh, tích cực tham gia các
phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát triển kinh tế, ổn định an ninh chính trị
và trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì việc thực hiện
các CSTG đối với PGHH vẫn còn bộc lộ một số hạn chế.
Do vậy trong thời gian tới cần phải tăng cường hơn nữa công tác quản lý Nhà
nước trong việc thực hiện CSTG đối với PGHH nhằm hướng tới mục tiêu là làm
cho các CSTG của Đảng, Nhà nước ngày đi vào cuộc sống của nhân dân, giúp cho
các chức sắc, tín đồ phấn khởi trước sự đổi mới, phát triển của đất nước và của tỉnh,
tu theo giáo lý, giáo luật và làm tròn nghĩa vụ công dân, đoàn kết cộng đồng dân cư,
sống tốt đời đẹp đạo và đồng thuận vì độc lập dân tộc, tích cực góp phần vào mục
tiêu chung vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3.1.3 Phương hướng
Thứ nhất là những giải pháp thực thi CSTG đối với PGHH về cơ bản đều
phải dựa trên những quan điểm chung của Đảng và chính sách của Nhà nước. Các
chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng TG ngày
càng cụ thể, nhất là khi Luật tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành. Các cơ quan chức
năng Nhà nước Trung ương, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam
và các cơ quan chức năng các cấp ở địa phương phải luôn quan tâm hướng dẫn,
giúp đỡ tạo điều kiện cho Ban Trị sự Trung ương và cả hệ thống Giáo hội trong suốt
quá trình hoạt động.
Thứ hai là phải xác định CSTG là một chính sách lớn, có liên quan đến một
bộ phận của dân tộc. Vì vậy, việc thực hiện chính sách này không phải là việc riêng
của một cá nhân hay của một ngành, một đoàn thể hay một tổ chức nào mà nó phải
là nhiệm vụ chung của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo.
53
Thứ ba là trong quá trình thực hiện CSTG đối với PGHH phải luôn chú ý đến
vấn đề dân vận. Đó là quá trình xây dựng mối liên hệ thân thiết giữa Đảng với nhân
dân vùng đồng bào có đạo, giữa Nhà nước với quần chúng tín đồ. Quá trình đó phải
dựa trên tư tưởng của Chỉ tịch Hồ Chí Minh về công tác TG và tư tưởng của Người
về công tác dân vận.
Thứ tư là trong quá trình xây dựng và thực hiện CSTG đối với PGHH phải
luôn chú ý và phân biệt rõ giữa nhu cầu về tín ngưỡng chính đáng của tín đồ với âm
mưu lợi dụng Phật giáo Hòa Hảo vào mục đích ngoài TG. Từ trước tới nay Đảng và
Nhà nước ta luôn hướng đến việc xây dựng khối đoàn kết với TG Phật giáo Hòa
Hảo vì mục tiêu chung là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm bảo vệ và
xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Song điều đó không phải là đoàn kết với bất cứ ai và
bất cứ giá nào trong bất luận hoàn cảnh nào mà tình đoàn kết đó phải được xây
dựng dựa trên những nguyên tắc và quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ năm là việc đề xuất giải pháp phải chú ý tới xu hướng phát triển của
PGHH trong nước và thế giới. Đặc biệt là các giải pháp trong việc thực thi chính
sách luôn phải chú ý đến đặc thù của PGHH tại tỉnh AG.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách TG đối với
PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật về TG nói chung và với
PGHH nói riêng
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, TG đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế cũng như phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Pháp
luật về tín ngưỡng, TG là một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật của nhà
nước Việt Nam, góp phần tạo hành lang pháp lý điều chỉnh các hoạt động tín
ngưỡng, TG. Song trước sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của các TG ở Việt
Nam cũng như tính chất nhạy cảm, phức tạp của nó thì nhiều quy định trong các văn
bản này đã trở nên bất cập, một số quy định khó thực hiện. Hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực tín ngưỡng, TG chưa mang tính hệ thống, tính
đồng bộ, tính thống nhất, còn mâu thuẫn, chồng chéo, chưa thể hiện tinh thần đổi
mới của Đảng, Nhà nước về công tác TG và yêu cầu cải cách hành chính; một số
54
quy định còn thiếu tính khả khi, thiếu các biện pháp chế tài đảm bảo. Chính vì vậy
phải tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống pháp luật, đó là điều kiện quan
trọng nhất nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về TG. Đây cũng là
quan điểm, chủ trương quan trọng được xác định trong các Nghị quyết Đại hội
Đảng và Nghị quyết 48/NQ- TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến 2020". Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, TG không những tạo
ra một hành lang pháp lý nhằm đảm bảo các hoạt động TG diễn ra bình thường mà
còn là công cụ hữu hiệu cho nhà nước thi hành chức năng của chủ thể quản lý.
Đối với hoạt động của PGHH, một số vấn đề trong các quy định pháp luật
còn chưa rõ ràng, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước như việc xác định
chủ quyền đối với cơ sở thờ tự để công nhận (vì cơ sở của PGHH hiện nay thường
có nguồn gốc của TG khác); việc xác định phạm vi, hình thức hoạt động từ thiện
nhân đạo (đã đến các trường Trung học cơ sở và Trung học phổ thông); việc quản lý
đối với hoạt động của các lớp bồi dưỡng giáo lý căn bản PGHH (đối tượng học
phần lớn là lứa tuổi thanh thiếu niên, học sinh), việc xử lý hành chính đối với các vi
phạm trong hoạt động TG,...Từ thực tiễn những vấn đề đặt ra, để nâng cao hiệu quả
công tác quản lý nhà nước đối với TG nói chung và PGHH nói riêng, nhằm bảo
đảm cho hoạt động tín ngưỡng, TG được diễn ra thuận lợi trong khuôn khổ pháp
luật, thiết nghĩ việc xây dựng văn bản mới về tín ngưỡng, TG (Luật tín ngưỡng, tôn
giáo) trong tình hình mới là hết sức cần thiết và cấp bách.
Cần nghiên cứu xây dựng và ban hành một luật riêng đối với PGHH. Những
nội dung của luật này phải phù hợp với đặc điểm riêng của TG này để các địa
phương có cơ sở pháp lý mà áp dụng thực hiện và xử lý những tình huống cụ thể.
Bên cạnh những văn bản của Trung ương thì địa phương cũng phải xây dựng
hệ thống văn bản riêng phù hợp với đặc điểm, đặc thù riêng của địa phương mình.
Việc xây dựng các văn bản của tỉnh phải luôn bám sát vào những quy định chung
của Trung ương.
55
3.2.2. Giải pháp về thiết chế bộ máy quản lý nhà nước đối với PGHH
Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với PGHH đồng bộ thống
nhất từ Trung ương đến địa phương, từ tỉnh đến xã, phường, thị trấn. Để tổ chức
thực hiện tốt cần xây dựng hệ thống bộ máy quản lý nhà nước đối với PGHH thống
nhất, đồng bộ, có sự phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan
trong hệ thống, đảm bảo tính chủ động và chịu trách nhiệm cao. Bộ máy quản lý
nhà nước cần tổ chức theo ngành dọc và kết hợp chặt chẽ giữa quản lý ngành với
quản lý theo địa bàn lãnh thổ và ngược lại. Tổ chức tại bộ máy làm công tác tôn
giáo sao cho phù hợp với đặc thù của từng địa phương. Đồng thời, Nhà nước cần có
chính sách quy hoạch, đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ và có chính sách đãi ngộ
cho cán bộ công chức trực tiếp làm công tác TG. Tăng cường công tác tập hợp quần
chúng vào các tổ chức; phát triển đảng viên đoàn viên, hội viên trong vùng có đông
đồng bào TG. Phải tạo ra sự chuyển biến quan hệ giữa Nhà nước và tổ chức TG;
giữa cơ quan hành chính nhà nước với các chức sắc và tín đồ TG của PGHH.
Trải qua 20 năm hoạt động với sự giúp đỡ của Nhà nước, mọi hoạt động của
Ban Trị sự Trung ương, Ban Đại diện tỉnh, Ban Trị sự cơ sở của giáo hội PGHH
diễn ra khá thuận lợi và mang lại kết quả rõ nét được thể hiện qua báo cáo thường
niên, báo cáo nhiệm kỳ. Các tổ chức giáo hội (Ban Trị sự Trung ương, Ban Trị sự
cơ sở) từng bước được kiện toàn, mở rộng, nếu như nhiệm kỳ I (1999) toàn đạo
PGHH có 257 Ban Trị sự cơ sở, 920 nhân sự thì nay (2019) có đến 391 Ban Trị sự
cơ sở và 2.583 nhân sự . Việc tăng cường, mở rộng về tổ chức và nhân sự là nhu cầu
hết sức cần thiết để giúp cho đạo có đầu mối làm trung gian, hướng dẫn, điều hành
mọi hoạt động TG tại cơ sở. Và thời gian qua, lực lượng này đã phát huy tốt vai trò,
trách nhiệm của mình đối với giáo hội và xã hội, các thành viên Ban Đại diện tỉnh,
Ban Trị sự cơ sở năng nỗ, tích cực vận động, hướng dẫn tín đồ thực hiện tốt các
chương trình đạo sự trọng tâm mà giáo hội đề qua từng năm, từng nhiệm kỳ đồng
thời hoàn thành tốt trách nhiệm công dân ở địa phương.
Như vậy, không giống như các TG khác, đặc thù của PGHH là đạo bình đẳng
trong tu hành giữa mọi tín đồ, không chủ trương có hạng tín đồ xuất thế tu hành
chuyên nghiệp, tín đồ đồng thời là cư sĩ tại gia. Mọi tín đồ tự mình trực tiếp với đạo
56
pháp mà không cần thông qua một nhân vật tách biệt giữa đạo - đời hay một giáo
hội theo một trật tự đẳng cấp. Bởi PGHH không có hàng ngũ chức sắc xuất gia tu
hành, không có hàng giáo phẩm làm trung gian mà chỉ có đội ngũ chức việc trong
các cấp giáo hội như: Ban Trị sự Trung ương, Ban Trị sự cơ sở. Song, trên thực tế
thời gian qua, đội ngũ chức việc này được tín đồ lựa chọn, suy cử và phần lớn có
trình độ, năng lực, uy tín và ảnh hưởng cao trong tín đồ. Họ là những người gần gũi,
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của tín đồ, qua đó kịp thời lãnh đạo, hướng dẫn, điều
chỉnh các hoạt động của giáo hội theo đường hướng “tốt đời đẹp đạo”. Về phương
diện xã hội, hầu hết các địa phương đều có sự định hướng, lựa chọn khá kỹ lưỡng,
vì vậy phần đông lực lượng này thể hiện được quan điểm, nhận thức, bản lĩnh, trách
nhiệm công dân của mình trước xã hội theo tinh thần Pháp lệnh tín ngưỡng, TG
“Chức sắc, nhà tu hành có trách nhiệm thường xuyên giáo dục cho tín đồ lòng yêu
nước, thực hiện quyền, nghĩa vụ công dân và ý thức chấp hành pháp luật”. Từ
những lý do nêu trên, để làm tốt công tác quản lý nhà nước đối với PGHH trong
thời gian tới là cần tăng cường làm tốt công tác tổ chức, nhân sự PGHH các cấp.
Phát huy tinh thần đoàn kết, chung tay xây dựng một giáo hội PGHH “vì đạo pháp,
vì dân tộc” là hết sức cấp bách cần thực hiện kịp thời, thường xuyên.
Cần nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước và viên chức (thực
hiện nhiệm vụ đó) trong thực hiện nghĩa vụ công vụ hành chính với hoạt động TG.
Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý đối với tổ chức TG trong bộ máy hành chính
nhà nước. Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên trong thực hiện chính sách pháp luật về TG nói chung và đối với PGHH nói
riêng.
3.2.3. Những giải pháp đội ngũ viên chức, công chức quản lý nhà nước
đối với PGHH
Kiện toàn tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với
PGHH từ tỉnh đến xã, phường thị trấn. Bố trí cán bộ có năng lực và trình độ
chuyên môn để tham mưu cho cấp ủy, chính quyền về nhiệm vụ công tác quản lý
nhà nước đối với PGHH trong thời kỳ mới.
57
Quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
TG cho cán bộ, đảng viên và cán bộ làm công tác TG các cấp từ tỉnh đến cơ sở; tạo
điều kiện và giúp đỡ các Ban trị sự và tín đồ PGHH sinh hoạt theo đúng Hiến
chương, Điều lệ của Giáo hội và theo quy định pháp luật của Nhà nước.
Để nâng cao chất lượng của đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động của PGHH trên địa bàn tỉnh AG thì một trong những vấn đề mang tính
cốt lõi là phải nhận thức đúng, hiểu biết sâu về công tác này. Chỉ có nhận thức
đúng, đầy đủ, sâu sắc thì mới có hành động đúng, đem lại hiệu quả cao. Thiếu hiểu
biết hoặc nhận thức không đúng không những làm hạn chế hiệu quả công tác quản
lý mà còn có thể dẫn đến những sai lầm, gây ra hậu quả khó lường. Do vậy các cấp
ủy Đảng, thủ trưởng các ban ngành, đoàn thể cần tăng cường công tác tập huấn,
quán triệt một cách sâu sắc cho cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về TG nắm
chắc tinh thần, nội dung của CSTG đối với các hoạt động của đạo Hòa Hảo, phải
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, nhất là các văn bản pháp luật liên quan đến TG
như Luật tín ngưỡng, TG năm 2016, Nghị định 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ
Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật tín ngưỡng, TG năm 2016. Đồng thời
tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng đạo đức lối sống cho cán bộ, công chức để
tạo sự thống nhất nhận thức, tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, nâng cao
nhận thức thành quả cách mạng, về những thành tựu mà Đảng ta đã đạt được. Xác
định rõ trách nhiệm, vai trò của từng cán bộ, công chức đối với sự nghiệp xây
dựng đất nước, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh với các
luận điệu quan điểm sai trái phá hoại cách mạng. Phải thấu suốt quan điểm của
Đảng là: Xem tín ngưỡng, TG là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, là
vấn đề còn tồn tại lâu dài trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội; phải thực hiện
nhất quán việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, TG, phù hợp với hiến pháp, pháp
luật. Đặc biệt là phải có cách nhìn khách quan, toàn diện hơn về TG Hòa Hảo.
Chúng ta cũng biết đạo Hòa Hảo là một TG tu tại gia, thờ cúng tại nhà. Do vậy cần
phải tôn trọng những sinh hoạt TG chính đáng của giáo dân và từng bước tìm ra mô
hình tổ chức thích hợp cho TG đặc thù này.
58
3.2.4 Giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho đồng bào PGHH
Tập trung phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhất là các ngành có thế mạnh như
nông nghiệp công nghệ cao, thủy sản, du lịch tâm linh…qua đó nhằm nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho quần chúng tín đồ vừa là giải pháp cơ bản mang tính
chiến lược, vừa là yêu cầu cấp thiết để tạo thế và lực trong đấu tranh chống hoạt
động lợi dụng vấn đề TG xâm phạm an ninh trật tự ở trên địa bàn tỉnh AG. Sự phát
triển kinh tế - xã hội sẽ tác động trực tiếp đến tâm tư, tình cảm, niềm tin của quần
chúng tín đồ đối với Đảng, với chính quyền, tạo sức đề kháng trong quần chúng
trước sự tác động, mua chuộc, lôi kéo của các thế lực thù địch bằng những thứ vật
chất tầm thường. Đây là nhân tố nền tảng vững chắc trong đảm bảo an ninh quốc
phòng, ổn định chính trị và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Chăm lo đời sống cho đồng bào có đạo bằng cách tạo điều kiện thuận lợi để họ
phát triển kinh tế gia đình, cải thiện và nâng cao đời sống và ngày càng gắn bó với
các tổ chức quần chúng, tích cực góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
xã hội, an ninh, quốc phòng tại địa phương, phòng và chống các hoạt động lợi dụng
TG, dân tộc để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Để phát triển kinh tế ở vùng đồng bào có đạo thì ngoài việc đầu tư của Nhà
nước, các cấp chính quyền, mặt trận, đoàn thể cần thực hiện phương châm “nhà
nước và nhân dân cùng làm” để xây dựng đường điện, đường giao thông nông thôn,
trường học, bệnh xá, nước sạch, ở các vùng tập trung tín đồ đạo Hòa Hảo, góp phần
làm cho kinh tế phát triển, đời sống đồng bào ngày càng được cải thiện về mọi mặt,
tệ nạn xã hội được ngăn chặn. Đồng thời, tăng cường thực hiện Quy chế dân chủ cơ
sở. Các chương trình dự án triển khai cần phải có sự tham gia bàn bạc và quyết định
của nhân dân để từ đó mọi chủ trương chính sách đều thực sự xuất phát từ lợi ích
nhân dân, nhằm phát huy sự đồng thuận, xây dựng một niềm tin vững chắc của nhân
dân vào Đảng và chính quyền.
Đẩy mạnh chương trình xây dựng nông thôn mới. Kết hợp chương trình này
với các cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Cuộc vận
động rộng rãi cả nước, cuộc vận động “xây dựng vùng đồng bào TG không có tệ
59
nạn xã hội”, đề án “xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh tại các công trình tín
ngưỡng, TG” và đề án “cơ sở tín ngưỡng, TG văn minh”, những cuộc vận động và
đề án do UBND tỉnh và Mặt trận, các tổ chức đoàn thể xã hội tỉnh đang tiến hành.
Phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của Phật giáo Hòa Hảo, kịp thời
khen thưởng, biểu dương những tập thể, cá nhân chức sắc, tín đồ Hòa Hảo có nhiều
đóng góp cho các chương trình, các cuộc vận động nhân dân. Từ trước tới nay, hoạt
động từ thiện là một trong những hoạt động nổi trội kể từ khi Phật giáo Hòa Hảo ra
đời. Nó trở thành một nội dung của sự đạo, thành nếp sống đạo của nhiều tín đồ tu
chân chính, xét về mặt đạo đức, nhân bản thì hành vi “cứu khổ, cứu nạn giúp kẻ
nghèo hèn” của Phật giáo Hòa Hảo rất đáng hoan nghênh. Song vấn đề quan trọng
là phải luôn quan tâm, chú ý để hoạt động nhân đạo ấy không bị lợi dụng vào mục
đích “truyền giáo” và những tuyên truyền phản cách mạng, làm cho hoạt động này
thấm đượm “tình nhân ái” của sự sẻ chia, đùm bọc từ tình cảm cộng đồng, từ truyền
thống “lá lành đùm lá rách”,”nhường cơm, xẻ áo” của dân tộc chứ không phải “ban
ơn” và người nhận phải lệ thuộc.
Tập họp các lực lượng (chính quyền, Mặt trận, công đoàn, Hội Liên hiệp Phụ
nữ, Đoàn thanh niên, hội Nông dân, hội Cựu chiến binh,...) tham gia triển khai
chương trình xóa đói giảm nghèo, quan tâm đến các hộ nghèo là đồng bào tín đồ
PGHH.
Quan tâm chú trọng những nhu cầu hoạt động TG chính đáng phù hợp với
Luật tín ngưỡng, tôn giáo và giải quyết kịp thời, đáp ứng đúng theo nội dung tinh
thần chỉ đạo trong Nghị quyết 25 năm 2003 của Đảng về công tác TG. Giữ vững ổn
định trật tự xã hội, các hoạt động thuần túy TG cần được khuyến khích để phát huy
các giá trị tích cực của Phật giáo Hòa Hảo.
3.2.5 Giải pháp tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về TG nói chung, đối
vớ PGHH nói riêng
Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến và thực hiện tốt chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về TG. Đối với PGHH cần làm cho tín đồ hiểu sâu
sắc tinh thần đổi mới Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị khoá VI; Thông báo 165-
60
TB/TW về chủ trương đối với PGHH trong tình hình mới; Kế hoạch 182 của
UBND tỉnh thực hiện Kế hoạch số 53-KH/TU ngày 12/6/2018 của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy, thực hiện Chỉ thị 18 ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị, về tiếp tục thực
hiện Nghị quyết 25 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác TG trong
tình hình mới và các văn bản pháp luật khác liên quan.
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của nhà nước về TG
cho các tín đồ PGHH, giúp họ nhận thức đúng đắn, đầy đủ, chấp hành nghiêm túc
theo tinh thần Luật tín ngưỡng, TG và các văn bản có liên quan theo tinh thần Công
văn 5433/VPUBND-KGVX ngày 29/10/2019 của Văn phòng UBND tỉnh, tăng
cường tuyên truyền phổ biến Luật tín ngưỡng, TG và Nghị định 162 của Chính phủ.
Việc quán triệt sâu sắc quan điểm chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về TG phải được tổ chức thường xuyên, liên tục và xem đây là nhiệm vụ
thường xuyên để đảm bảo cho công tác quản lý nhà nước về TG đạt hiệu quả cao.
Về hình thức tuyên truyền nên kết hợp nhiều hình thức như cử các đoàn tuyên
truyền đến tuyên truyền trực tiếp cho chức sắc, chức việc, tín đồ tại cơ sở kết hợp
với tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng từ ở các cấp. Đặc biệt
cần chú trọng tranh thủ hàng ngũ chức sắc, chức việc, cốt cán, người có uy tín và
cán bộ ấp, khóm, xã, phường, thị trấn để lồng ghép nội dung tuyên truyền, vận động
quần chúng tín đồ tự giác chấp hành chính sách pháp luật của Nhà nước.
Về nội dung tuyên truyền, bên cạnh những vấn đề khái quát, cơ bản về chính
sách, pháp luật của nhà nước đối với Phật giáo Hòa Hảo, cần giải thích hướng dẫn
cụ thể những gì chức việc, tín đồ được làm trong quá trình hoạt động TG. Những
quy định về trình tự, thủ tục phải hướng dẫn thật chi tiết để chức việc, tín đồ có thể
thực hiện được ngay, tránh phổ biến chung chung, hình thức.
3.2.6 Giải pháp tăng cường công tác phối hợp với các ngành trong quá
trình thực thi các chính sách TG đối với PGHH
Thực thi CSTG là trách nhịêm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của
Đảng, không một cơ quan, một cấp nào có thể làm tốt nếu không có sự phối hợp, hỗ
trợ, tạo điều kiện. Vì vậy cần phải tăng cường công tác phối hợp giữa các Sở, ban,
ngành cấp tỉnh tỉnh đến các cơ quan ban ngành, đoàn thể cấp huyện, xã….nhằm
61
nắm bắt, bám sát các diễn biến tình hình tôn giáo ở địa phương để vừa có thể tháo
gỡ các khó khăn, vướng mắc phát sinh trong tổ chức và hoạt động của các tôn giáo
từ cơ sở, giải quyết hợp tình, hợp lý những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của
các tổ chức, cá nhân tôn giáo.
Tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra kịp thời, phối hợp với các ngành,
địa phương, phát hiện tình hình để chủ động đối phó, xử lý, đấu tranh, ngăn chặn có
hiệu quả, tìm ra hướng giải quyết phù hợp với tình hình địa phương, không để trở
thành “điểm nóng”.
Thường xuyên tiếp xúc với chức sắc, chức việc, nhất là người đứng đầu tạo
sự thân thiện, gần gũi, cởi mở, để tranh thủ, nắm tình hình và phối hợp xử lý các
vướng mắc. Xây dựng lực lượng cốt cán trong các TG để giữ vững mối đoàn kết, ổn
định tình hình.
Phối hợp với các cơ quan chức năng ở địa phương quan tâm hướng dẫn, tạo
điều kiện cho tổ chức, chức sắc và đồng bào tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tổ chức tốt
các ngày lễ trọng của TG này, đảm bảo trang nghiêm, chu đáo, an toàn, tiết kiệm và
theo quy định của pháp luật. Tổ chức thăm hỏi, động viên, tặng quà, thăm viếng các
tổ chức, chức việc, gia đình tiêu biểu PGHH nhân các ngày lễ trọng.
3.2.7 Giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính
sách đối với PGHH
Để việc thực thi CSTG đối với PGHH đạt hiệu quả cao thì nhất định phải chú
trọng và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Kiểm tra, giám sát là hoạt động
Quản lý Nhà nước về TG, làm tốt công tác này sẽ giúp cho hoạt động của TG và sự
quản lý của các cấp chính quyền được đảm bảo. Một mặt giúp tháo gỡ khó khăn
vướng mắc, một mặt không để nảy sinh những vấn đề phức tạp.
Giám sát, định hướng hoạt động TG đảm bảo theo đúng đường hướng và
phương châm hành đạo, gắn bó với dân tộc, đồng thuận với mục tiêu chung của dân
tộc và chấp hành pháp luật của Nhà nước.
Công tác kiểm tra, giám sát cần được tiến hành thường xuyên theo tháng,
theo quý với sự phối hợp của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn từ cấp tỉnh đến cấp
62
huyện, xã.... Ngoài việc kiểm tra theo định kỳ, cũng cần có kế hoạch kiểm tra đột
xuất.
Việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện cần được thực hiện một cách công
khai, minh bạch và khách quan. Cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát phải có
chuyên môn về công tác TG.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Đạo Hoà Hảo - thường gọi là Phật giáo Hoà Hảo - là một TG nội sinh ở miền
Tây Nam Bộ , kế thừa tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương trên nền tảng giáo lý Phật giáo
do ông Huỳnh Phú Sổ khởi xướng năm 1939. Khi mới ra đời, trong bối cảnh đất
nước đang khủng hoảng về kinh tế - chính trị, bị thực dân Pháp đô hộ, các phong
trào yêu nước bế tắc về đường lối, nhân dân lao động bị bần cùng, đạo Hoà Hảo đã
nhanh chóng thu hút các tầng lớp nhân dân lao động đặc biệt là nông dân. Đạo Hoà
Hảo ra đời không chỉ được coi là một hiện tương TG nhằm thỏa mãn nhu cầu tín
ngưỡng của tín đồ mà ban đầu còn được nhìn nhận như một phong trào yêu nước.
Song trong quá trình tồn tại và phát triển, cũng như trong mối quan hệ với các thế
lực đế quốc (Pháp, Nhật, Mỹ) và tay sai, vấn đề đạo, đời của Phật giáo Hoà Hảo trở
nên phức tạp. Tính TG của nó, tính dân tộc của một phong trào yêu nước ngày càng
bị lu mờ và được thay thế bởi những tham vọng chính trị, quân sự của một số cá
nhân, tổ chức phản động lợi dụng đạo Hoà Hảo. Sau ngày miền Nam giải phóng,
hoạt động của Ban trị sự Phật giáo Hoà Hảo cũng như các tổ chức chính trị, quân sự
của nó không còn hoạt động nhưng đông đảo tầng lớp tín đồ vẫn giữ đạo theo
truyền thống giáo lý Hoà Hảo “Học phật , tu nhân”. Song, trong quá trình đó, bọn
phản động được sự hỗ trợ của các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang lợi
dụng Phật giáo Hoà Hảo, lợi dụng chính sách “Mở cửa” , “Đổi mới” của Đảng và
Nhà nuớc ta (trong đó có đổi mới trong công tác TG) để chống phá lại sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta. Đó là chưa kể đến một bộ phận cán bộ còn hạn chế về
63
nhận thức đối với thực trạng và bản chất của Phật giáo Hoà Hảo. Những vấn đề
trên đòi hỏi người cán bộ đảng viên phải ra sức nghiên cứu những chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước một cách có hệ thống để có những căn cứ lý luận và
thực tiễn, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác TG trước mắt cũng như lâu dài.
Hoạt động TG và công tác TG phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các TG
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”. Với tinh thần ấy, tác giả thực hiện đề tài này mong muốn góp
phần thực hiện tốt CSTG, nhất là CSTG đối với Phật giáo Hoà Hảo ở Việt Nam
trong thời gian tới nói chung và ở AG nói riêng.
Tuy nhiên, do điều kiện nghiên cứu có hạn nên không thể tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong nhận được sự thông cảm và đóng góp để tác giả hoàn thiện hơn
đề tài.
4.2. Kiến nghị
2.1. Kiến nghị với cấp Trung ương
Thứ nhất là cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tín
ngưỡng, TG.
Thứ hai, kịp thời phối hợp với các địa phương quan tâm giúp Giáo hội
PGHH thực hiện việc kiện toàn nhân sự PGHH các cấp theo quy định của pháp luật.
Thứ ba là thường xuyên thông tin tình hình tín ngưỡng, TG trong cả nước,
nhất là những vụ việc phức tạp, điểm nóng về tín ngưỡng, TG để các địa phương có
thông tin đầy đủ, kịp thời tuyên truyền vận động các tổ chức tín ngưỡng, TG trên
địa bàn, vận động tín đồ an tâm sinh hoạt, hoạt động TG đúng quy định pháp luật
2.2. Kiến nghị với các cấp địa phương
UBND tỉnh AG sớm ban hành Quyết định về quy định một số điểm thực hiện
Luật tín ngưỡng, TG trên địa bàn tỉnh AG, để việc quản lý TG phù hợp với tình
hình phát triển của các TG và hoạt động của các TG trên địa bàn tỉnh giai đoạn hiện
nay.
64
Các cấp chính quyền tỉnh AG cần tiếp tục đẩy mạnh hiệu quả hoạt động cơ chế
quản lý hành chính một cửa, ban hành những văn bản để các cấp địa phương có thể
báo cáo về công tác TG từ khi phát sinh những điểm nóng để kịp thời giải quyết.
Các ngành liên quan căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của mình thực hiện quyết
liệt các mục tiêu chính sách liên quan đến TG như: Cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ở các cơ sở TG, cấp giấy phép xây dựng tôn tạo, sửa chữa, cấp đăng ký
sinh hoạt đạo, bảo tồn các di tích TG…
Đội ngũ cán bộ làm công tác TG trên địa bàn tỉnh cần phải được kiện toàn,
thống nhất giữa các cấp quản lý, đặc biệt ở cấp cơ sở chú ý khắc phục tình trạng
kiêm nhiệm. Các cấp ủy Đảng cần tăng cương hơn nữa sự kiểm tra chỉ đạo việc
thực hiện các CSTG bởi công tác TG là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị được
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đối với vấn đề nhà đất liên quan đến các TG, cơ sở thờ tự của các TG trên
địa bàn tỉnh, UBND tỉnh AG chỉ đạo các ngành chức năng: Tài nguyên môi trường,
Xây dựng, Thanh tra, Ban Tôn giáo tiến hành rà soát và đẩy nhanh việc cấp giấy
chứng nhận Quyền sử dụng đất cho các cơ sở TG và quy hoạch tạo quỹ đất dành
cho TG ở địa phương. Chính quyền các cấp cần xem xét, giải quyết kịp thời, có hiệu
quả theo pháp luật đơn thư khiếu nại liên quan đến đất đai, cơ sở vật chất của
PGHH.
UBND tỉnh chỉ đạo các ngành liên quan trực tiếp thực hiện CSTG của tỉnh
định kỳ tiến hành sơ kết, tổng kết, đánh giá những thành tựu và kết quả việc triển
khai thực hiện CSTG, nhằm xác định rõ những nguyên nhân bất cập để tìm biện
pháp khắc phục. Cần thực hiện một cách thường xuyên để nhằm kịp thời rút kinh
nghiệm và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện CSTG.
Hoạt động từ thiện là hoạt động vốn có và nổi trội kể từ khi TG này ra đời.
Nó trở thành một nội dung quan trọng trong bốn chương trình hoạt động theo từng
nhiệm kỳ, từng năm thậm chí hàng ngày trong nếp sống đối với người tín đồ PGHH
chân chính. Do đó chính quyền địa phương tiếp tục khuyến khích và định hướng
đúng cho các hoạt động từ thiện của tín đồ PGHH.
65
Các ngành, các cấp phối hợp tăng cường công tác đấu tranh chống lợi dụng
PGHH để chống phá Nhà nước. Ngoài việc dùng đối sách mềm dẻo, linh hoạt trong
đấu tranh ngăn chặn âm mưu, ý đồ lợi dụng TG để trong phá Nhà nước thì trong
những trường hợp cần thiết chính quyền cùng các ngành chức năng còn chủ động đề
ra kế hoạch và triển khai thực hiện đồng bộ với các biện pháp nghiệp vụ, thu thập,
củng cố hồ sơ đưa ra xử lý hành chính, xử lý hình sự các vụ án liên quan đến
PGHH, ngăn chặn, đập tan âm mưu phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các
thế lực thù địch.
Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh cần đổi mới và chú trọng các hình
thức khen thưởng để nhằm động viên, khích lệ kịp thời chức sắc, chức việc và tín đồ
các tôn giáo trong các phong trào, các hoạt động xã hội cũng như trong sự nghiệp
xây dựng quê hương đất nước. Bên cạnh đó Mặt trận tổ quốc cần phát huy vai trò là
cầu nối của các tầng lớp nhân dân trong đó có đồng bào theo đạo tới Đảng và Nhà
nước. Đây là khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp ý chí và sức mạnh toàn dân vào
các phong trào thi đua do mình phát động. Do đó cần phối hợp các tổ chức chính trị
xã hội, các tổ chức thành viên, các tầng lớp nhân dân đặc biệt là các tổ chức, cá
nhân các TG, đoàn kết thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Mặt
trận cần làm tốt hơn nữa chức năng các giám sát và phản biện xã hội của mình góp
phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả CSTG.
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và thực hiện các CSTG đối với hoạt
động của PGHH cần tiến hành đồng bộ các giải pháp như: Thống nhất nhận thức
của các cấp, ngành về công tác Quản lý nhà nước về an ninh trật tự đối với hoạt
động của PGHH; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước…
66