intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học: Thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở hiện nay (Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:122

66
lượt xem
27
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn: Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về dân chủ và dân chủ cấp cơ sở, Luận văn trình bày thành tựu và hạn chế việc thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, từ đó đưa ra các giải pháp tăng cường hơn nữa hiệu quả việc thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học: Thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở hiện nay (Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- LÊ MINH NAM THỰC HIỆN DÂN Ở CẤP CƠ SỞ (Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học Hà Nội - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- LÊ MINH NAM THỰC HIỆN DÂN Ở CẤP CƠ SỞ (Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số: 60 22 03 08 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. Ngô Thị Phƣợng Hà Nội - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở (Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình)” do tôi thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn của Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ Ngô Thị Phƣợng. Các số liệu, kết quả trong luận văn là hoàn toàn trung thực, chƣa từng công bố trong công trình nghiên cứu nào trƣớc đó. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đƣợc trích dẫn đầy đủ, chính xác từ các sách, báo, tạp chí. Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2015 Tác giả Lê Minh Nam
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNTB Chủ nghĩa tƣ bản CNXH Chủ nghĩa xã hội CSCN Cộng sản chủ nghĩa TBCN Tƣ bản chủ nghĩa UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 2 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH NINH BÌNH ............................................................................................................... 10 1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ cấp cơ sở ............................ 10 1.2. Khái quát về cấp cơ sở và các yếu tố tác động đến thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình ......................................................... 34 Chƣơng 2: THỰC HIỆN DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH NINH BÌNH – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ................................................................... 48 2.1. Thực trạng thực hiện dân chủ cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình ............ 48 2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cƣờng việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trên địa bàn tình Ninh Bình hiện nay ................................ 80 KẾT LUẬN .................................................................................................... 92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 94 1
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thực hiện dân chủ ở cơ sở góp phần tích cực vào việc thúc đẩy, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh trật tự ở cơ sở. Xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và chất lƣợng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Trung ƣơng, các cấp ủy đảng, chính quyền đã chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện các quy chế, quy định, quy trình dân chủ, công khai, bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác đảng. Việc các cấp ủy đảng, chính quyền tổ chức đối thoại trực tiếp với dân, lấy ý kiến nhân dân tham gia các công việc đã góp phần nâng cao chất lƣợng hoạt động của các cấp ủy và chất lƣợng đảng viên, từng bƣớc xây dựng tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng, nâng cao chất lƣợng hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc và nhất là trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở cơ sở đang là nhu cầu bức xúc hiện nay. Những năm qua, việc thông báo công khai và truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn, công khai kết quả hoạt động giám sát và các kiến nghị của cử tri tại các kỳ họp của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đã thu hút sự quan tâm, theo dõi của nhân dân, nâng cao trách nhiệm của cơ quan đại diện và của ngƣời đại biểu nhân dân. Việc thực hiện công khai, dân chủ đã trở thành phƣơng thức quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nƣớc và nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức đối với nhân dân; đồng thời, khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nƣớc, góp ý cho cán bộ, công chức về đạo đức lối sống, phong cách làm việc và tôn trọng nhân dân. 2
  7. Quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở đã làm chuyển biến đáng kể nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền và đoàn thể, phát huy đƣợc quyền làm chủ trực tiếp của cán bộ, công chức, ngƣời lao động, góp phần tích cực, hiệu quả vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, xây dựng khối đoàn kết trong cơ quan, đơn vị, giữ vững ổn định chính trị từ cơ sở, tạo động lực quan trọng để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Bên cạnh những thành tựu bƣớc đầu đạt đƣợc, việc thực hiện dân chủ ở từng địa phƣơng còn có những hạn chế, thiếu sót, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Có nơi, có lúc, quyền làm chủ của nhân dân chƣa đƣợc tôn trọng thậm chí vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Các chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở chƣa thực sự làm tròn vai trò, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Việc tổng kết quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở là một việc làm cấp bách mang tính thƣờng xuyên, liên tục để đánh giá những mặt tích cực, hạn chế… để sửa chữa hoặc khuyến khích, nhân rộng những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trên địa bàn cả nƣớc. Ninh Bình là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, trong những năm qua, đặc biệt từ năm 1998 đến nay có Chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam về Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở kế đến là các Nghị định của Chính phủ, Pháp lệnh của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn. Các địa phƣơng trên toàn tỉnh đã tích cực triển khai thực hiện dân chủ nhằm góp phần dân chủ hóa đời sống xã hội. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, đặc biệt là về nhận thức chƣa đầy đủ của đội ngũ cán bộ và nhân dân ở cơ sở. Triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở còn nhiều lúng túng. Do vậy, quyền lực và lợi ích hợp pháp của một bộ phận nhân dân chƣa đƣợc đảm 3
  8. bảo.Với những lý do đó, tôi đã chọn vấn đề Thực hiện dân chủ ở cấp cơ sởhiện nay (Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình) làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Liên quan đến đề tài luận văn, ở Việt Nam đã có nhiều công trình đƣợc công bố, những năm gần đây các công trình đó đƣợc phân chia theo ba nhóm vấn đề sau. Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về dân chủ TS. Đoàn Minh Huấn: “Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và quá trình mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 8- 2004; Tác giả đã làm rõ đặc trƣng của hai hình thức dân chủ là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, đồng thời làm rõ vai trò, ƣu thế của mỗi hình thức cũng nhƣ sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ hai hình thức dân chủ này trong quá trình mở rộng dân chủ XHCN ở nƣớc ta hiện nay. GS. TS. Hoàng Chí Bảo: “Dân chủ và dân chủ ở nông thôn trong tiến trình đổi mới”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008; Trong công trình này tác giả đã nêu lên tầm quan trọng của dân chủ và dân chủ ở cơ sở, nhất là tầm quan trọng của thực hiện dân chủ ở nông thôn; thực trạng và những hạn chế trong thực hiện dân chủ ở nông thôn trong thời gian qua. Qua đó tác giả đề ra các giải pháp thực hiện dân chủ trong tiến trình đổi mới ở nông thôn. PGS. TS. Nguyễn Văn Mạnh - Th.s. Tào Thị Quyên: “Dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2010. Đây là kỷ yếu Hội thảo Công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ và dân chủ trực tiếp của một số nƣớc và Việt Nam, các tác giả đã đánh giá thực trạng thực hiện dân chủ trực tiếp và nêu ra các giải pháp nhằm phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp. 4
  9. Đào Trí Úc (Chủ biên), Trịnh Đức Thảo, Vũ Công Giao...: “Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam”, Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014; Trình bày một loạt vấn đề về lý luận, thực tiễn và các mô hình tổ chức thực hiện dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và Việt Nam. Đề xuất những quan điểm, giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và các cơ chế bảo đảm dân chủ trực tiếp và dân chủ cơ sở ở nƣớc ta trong thời gian tới. Thứ hai, các công trình nghiên cứu về dân chủ ở cấp cơ sở Phạm Ngọc Trâm: “Nhìn lại quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở 1998 - 2012”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11/ 2012. Bài viết trên bổ sung nhận thức mới, đề xuất cách làm mới để xây dựng, thực hiện dân chủ phù hợp với đặc điểm lịch sử, truyền thống của dân tộc, đặc điểm của thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Nguyễn Hồng Chuyên: “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới”, Nxb: Tƣ pháp, Hà nội, 2013. Đây là cuốn sách chuyên khảo giới thiệu một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới.Trình bày chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính quyền, pháp luật của Nhà nƣớc về thực hiện dân chủ ở cấp xã và xây dựng nông thôn mới. Phân tích lý luận vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới qua thực tế của tỉnh Thái Bình. Đề xuất các giải pháp đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới ở nƣớc ta hiện nay. Nguyễn Văn Phƣơng: “Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh trong thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay”, Luận án Tiến sĩ khoa học Chính trị bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014. Trên cơ sở luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản lý luận về dân chủ ở cơ sở và thực tiễn hoạt động của Mặt trận tổ quốc (MTTQ) trong thực hiện 5
  10. dân chủ ở cơ sở, góp phần xây dựng MTTQ xã, phƣờng, thị trấn tỉnh Bắc Ninh vững mạnh, tăng cƣờng hoạt động của MTTQ xã, phƣờng, thị trấn trong thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay. Thứ ba, các công trình nghiên cứu về thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở tỉnh Ninh Bình “Ninh Bình phát huy quyền làm chủ của nhân dân, rèn luyện đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở” của Đinh Văn Hùng, Tạp chí Cộng sản, Chuyên đề cơ sở, số 30/2009. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá mặt đƣợc và mặt chƣa đƣợc trong thực hiện Pháp lệnh dân chủ, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện tốt hơn Pháp lệnh dân chủ gắn với rèn luyện đội ngũ cán bộ, công chức. “Ninh Bình thực hiện quy chế dân chủ” của Đỗ Tấn, đăng trên Báo Nhân dân điện tử, ngày 22-8-2013. Tác giả khẳng định những thành công trong thực hiện Quy chế dân chủ Ninh Bình, rút ra kinh nghiệm của Ninh Bình là tạo ra nhiều kênh để ngƣời dân thực hiện quyền làm chủ. Quy chế dân chủ chính là cầu nối giữa nhân dân với cấp ủy đảng và chính quyền để qua đó tạo sự đồng thuận giúp cho việc thực hiện thắng lợi các chƣơng trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phƣơng, khơi thông mọi nguồn lực nhằm xóa đói, giảm nghèo, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân. “Khi Quy chế dân chủ đi vào đời sống” của Quốc Khang, đăng trên báo Ninh Bình điện tử, ngày 24 - 9-2013. Qua khảo sát các quá trình thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, tác giả nhận định: Thời gian qua, việc thực hiện Quy chế dân chủ (QCDC) ở cơ sở trên địa bàn tỉnh đã đạt đƣợc nhiều kết quả rõ nét, quyền làm chủ của ngƣời dân ngày càng đƣợc phát huy, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Những nội dung cơ bản của QCDC đã và đang trở thành phƣơng châm hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở và góp phần tăng thêm sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng và tạo sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân... Tác giả trình 6
  11. bày các sáng kiến thực thi quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, đề xuất những giải pháp tiếp tục nâng cao chất lƣợng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Nhìn chung, các công trình khoa học trên cho thấy, chƣa có một công trình độc lập nào đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình triển khai thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Tuy nhiên, đó là những tài liệu quý để tác giả tham khảo trong nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về dân chủ và dân chủ cấp cơ sở, Luận văn trình bày thành tựu và hạn chế việc thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, từ đó đƣa ra các giải pháp tăng cƣờng hơn nữa hiệu quả việc thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn này. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt đƣợc mục đích trên luận văn thực hiện các nhiệm vụ: - Trình bày khái niệm và bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa - Những nội dung cơ bản của dân chủ cấp cơ sở. - Nêu những yếu tố tác động đến thực hiện dân chủ cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình. - Phân tích, đánh giá thành tựu và hạn chế việc thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. - Đề xuất một số giải pháp tăng cƣờng hơn nữa hiệu quả của việc thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn đƣợc tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng và Nhà nƣớc, nhất là chỉ thị 30- CT/TW của Bộ Chính trị, Nghị Định 29 NĐ- CP của Chính phủ ban hành 7
  12. kèm theo quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn; Pháp lệnh số 34/2007/PL - UBTVQH của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn. Đồng thời ngƣời viết cũng kế thừa có chọn lọc các công trình và các bài viết khác của một số tác giả đã công bố. 4.2. Cơ sở thực tiễn Những hoạt động triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bản tỉnh Ninh Bình. 4.3. Phương pháp nghiên cứu Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, trong đó sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: phƣơng pháp lịch sử và logic, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh, điều tra xã hội học, nghiên cứu tài liệu… 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 5.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Dân chủ cấp cơ sở đƣợc thực hiện bằng hai hình thức, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại điện. Luận văn tập trung nghiên cứu dân chủ trực tiếp, thông qua “Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn” trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. 5.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Tiến hành nghiên cứu việc thực hiện dân chủ ở cơ sở chỉ bao gồm xã, phƣờng, thị trấn trên một số địa bàn Ninh Bình từ năm 1998 nay (từ khi có Quy chế dân chủ cơ sở đến nay). 6. Đóng góp của luận văn Làm rõ thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế, xác định các vấn đề đặt trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. 8
  13. Luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính khả thi phù hợp với quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay. 7. Ý nghĩa của luận văn 7.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở để phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở xã, phƣờng, thị trấn ở nƣớc ra nói chung, ở Ninh Bình nói riêng. 7.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy và học tập về dân chủ cơ sở, là tài liệu tham khảo đối với cơ quan chức năng của tỉnh trong việc thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chƣơng, 4 tiết. 9
  14. Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH NINH BÌNH 1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ cấp cơ sở 1.1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa Thuật ngữ dân chủ có gốc từ tiếng Hy lạp cổ: Demokratos đƣợc ghép từ hai chữ demos có nghĩa là dân chúng, nhân dân và kratos có nghĩa là quyền lực. Và nghĩa khởi thủy của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Cho đến ngày nay, cùng với lịch sử phát triển của xã hội, thuật ngữ dân chủ đƣợc dùng với nhiều nội dung khác nhau, tùy theo từng góc độ tiếp cận nhất định. Ở góc độ chính trị - xã hội, dân chủ là một hiện tƣợng chính trị - xã hội, gắn liền với nhà nƣớc, dân chủ cũng dùng để chỉ một hình thức tổ chức nhà nƣớc. Ở góc độ văn hóa, dân chủ là một hiện tƣợng, một yếu tố cấu thành đời sống văn hóa của xã hội - văn hóa dân chủ. Dân chủ còn đƣợc xem xét nhƣ một giá trị xã hội, mọi cuộc đấu tranh giành dân chủ đều hƣớng tới giải phóng con ngƣời, nâng cao vị trí của con ngƣời trong lịch sử, hình thành và phát triển ở con ngƣời ý thức, năng lực làm chủ xã hội. Do vậy, dân chủ là một lý tƣởng nhân đạo, một giá trị nhân văn. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân; dân chủ là hình thức tổ chức của các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, một hình thức nhà nƣớc. Với tính cách là một hình thức tổ chức nhà nƣớc, dân chủ là sự thống nhất biện chứng của hai mặt. Thứ nhất, dân chủ đảm bảo quyền lực cho giai cấp thống trị xã hội, giai cấp mà nó đại diện. Thứ hai, dân chủ cũng chính là thực hiện chuyên chính với các lực lƣợng đối lập. Dân chủ và chuyên chính là hai mặt thống nhất trong bất cứ một hình thức nhà nƣớc nào. Theo cách tiếp cận này, dân chủ là một phạm trù 10
  15. lịch sử. Dân chủ ra đời, tồn tại và phát triển trong một giai đoạn lịch sử nhất định, khi xã hội có sự phân chia giai cấp. Gắn với mỗi giai đoạn lịch sử, một xã hội có giai cấp, xã hội tồn tại một hình thức dân chủ khác nhau. Mỗi hình thức dân chủ lại có bản chất, hình thức tổ chức khác nhau nhằm thể hiện và thực hiện quyền lực của giai cấp cầm quyền. Khi giai cấp công nhân giành đƣợc chính quyền, thiết lập nhà nƣớc chuyên chính vô sản (nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa), một hình thức dân chủ mới ra đời - Dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đa số nhân dân lao động (giai cấp công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác) bảo vệ quyền, lợi ích của đa số nhân dân lao động, đồng thời trấn áp mọi sự phản kháng của giai cấp bóc lột - giai cấp có lợi ích đối kháng với lợi ích của nhân dân lao động. Để thực hiện mục tiêu ấy, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện bản chất của giai cấp công nhân của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nói lên tính chất nhất nguyên của dân chủ xã hội chủ nghĩa đồng thời là điều kiện hàng đầu thể hiện tính định hƣớng trong tổ chức và hoạt động của nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa và tính tự giác của toàn thể nhân dân lao động trong quá trình xây dựng, củng cố, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung và tham gia vào công việc quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội nói riêng. Chế độ dân chủ XHCN, trong bản chất của nó, gắn chặt với cuộc đấu tranh vì dân chủ nhằm giải phóng con ngƣời khỏi áp bức, bóc lột. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “Giai cấp vô sản mỗi nƣớc trƣớc hết phải tự mình giành lấy chính quyền, phải tự vƣơn lên thành giai cấp dân tộc”[39, tr 623,624], phải giành lấy dân chủ với ý nghĩa là trực tiếp giành lấy quyền lực nhà nƣớc (quyền lực dân chủ về chính trị) và tổ chức quyền lực đã giành đƣợc đó thành nhà nƣớc dân chủ 11
  16. vô sản. Chế độ dân chủ vô sản “chế độ sẽ tự thi hành ngay lập tức những biện pháp để chặt tận gốc rễ chế độ quan liêu và sẽ có thể thi hành những biện pháp ấy tới cùng, tới chỗ hoàn toàn phá bỏ chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn toàn xây dựng một chế độ dân chủ nhân dân”[34,tr 135]. Chỉ có chế độ dân chủ vô sản, chế độ dân chủ đƣợc thiết lập trên cơ sở của chế độ kinh tế mà ở đó các tƣ liệu sản xuất thuộc về toàn xã hội, lực lƣợng sản xuất không ngừng tăng lên, sự đối kháng giai cấp bị thủ tiêu thì quyền làm chủ của nhân dân lao động mới đƣợc thực hiện đầy đủ. V. I. Lênin đã chỉ rõ: “Dƣới chế độ xã hội chủ nghĩa, nhiều mặt của chế độ dân chủ nguyên thủy tất nhiên sẽ sống lại, vì lần đầu tiên trong lịch sử những xã hội văn minh, quần chúng nhân dân đang vƣơn lên tham gia một cách độc lập không những vào việc bầu cử và tuyển cử, mà cả vào việc quản lý hàng ngày nữa”[34, tr 143]. Với ý nghĩa đó, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đóng vai trò to lớn trong các cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con ngƣời. Tƣ tƣởng về dân chủ xã hội chủ nghĩa còn đƣợc V.I. Lênin cụ thể hoá hơn nữa khi đề cập đến quyền của công dân. Ngƣời viết: “Tính chất xã hội chủ nghĩa của chính quyền Xô viết - tức là dân chủ vô sản (dân chủ xã hội chủ nghĩa) nếu đƣợc áp dụng một cách cụ thể là: Các cử tri đều là quần chúng bị bóc lột, phải xoá bỏ mọi hạn chế có tính chất quan liêu, quần chúng hoàn toàn có quyền bãi miễn những ngƣời mà họ bầu ra, dƣới sự lãnh đạo của đội tiền phong của giai cấp công nhân, toàn dân đều học tập quản lý và bắt đầu đảm nhận công tác quản lý” [37, tr 259] và “nhà nƣớc - Xô viết - đảm bảo cho họ tham gia quản lý nhà nƣớc”[38, tr 116]. Để đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân thì phải chống chủ nghĩa quan liêu, chống tính bảo thủ, trì trệ và cuộc đấu tranh ấy chỉ có thể thắng lợi một khi có sự tham gia của đông đảo nhân dân. V. I. Lênin khẳng định: “Chỉ khi 12
  17. nào toàn thể nhân dân đều tham gia quản lý thì khi ấy mới có thể đả phá chủ nghĩa quan liêu đến cùng, đến thắng lợi hoàn toàn đƣợc”[37, tr 205] t38. V. I. Lênin chỉ rõ: “Để chống các bệnh lề mề, quan liêu, xa hoa, lãng phí, ăn hối lộ, thực hành tiết kiệm và phát hiện tốt hơn nữa các hiện tƣợng lạm dụng, cũng nhƣ để vạch mặt và sa thải các công chức bất lƣơng đã chui vào các cơ quan Xô viết, nay đặt ra các quy tắc sau: Quy chế về ngày giờ mở cửa tiếp công chúng cần phải đƣợc yết thị ở từng cơ quan chẳng những ở trong mà còn ở ngoài nữa để ai cũng có thể đến các cơ quan Xô viết mà không cần có giấy phép gì cả… Trong mỗi cơ quan Xô viết, phải có một quyển sổ để ghi hết sức vắn tắt tên ngƣời có việc yêu cầu, tính chất yêu cầu và chuyển việc ấy đến đâu”[36, tr 449]. V. I. Lênin cũng đặt ra yêu cầu với nhà nƣớc về việc mở các lớp học đào tạo cán bộ của nhà nƣớc về quản lý. Biên soạn giáo trình quản lý nhà nƣớc, cử ngƣời sang Anh, sang Đức học về khoa học quản lý. Vì theo V. I. Lênin: “Muốn quản lý đƣợc phải hiểu công việc. Không thể quản lý đƣợc nếu không có kiến thức đầy đủ, nếu không tinh thông khoa học quản lý”[37, tr 257] “Cán bộ phải học tập, học tập nữa, học tập mãi. Phải làm cho việc học không hình thức, không nằm trên giấy, hoặc chỉ là lời nói theo mốt nữa, phải làm cho việc học ăn sâu vào trí não, trở thành bộ phận khăng khít của cuộc sống”[38, tr 444]. Một trong nhiều điều kiện để thực hiện dân chủ là phải thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra.V. I. Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Ngƣời cho rằng phải cải tổ “bộ dân uỷ thanh tra công nông” để có thể hoàn thành nhiệm vụ thanh tra hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc, đồng thời phải phát động và tạo điều kiện để chính nhân dân có thể kiểm tra công việc của nhân viên nhà nƣớc. Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ chính trị mà ở đó những giá trị dân chủ, quyền lực của nhân dân đƣợc thể chế hóa thành pháp luật, thành 13
  18. nguyên tắc, mục tiêu của sự phát triển xã hội nói chung và thành hệ thống chính trị trong CNXH nói riêng. Các giá trị và chuẩn mực dân chủ thâm nhập và chi phối mọi hoạt động xã hội. Mọi công dân và tổ chức có khả năng nhận thức, vận dụng các giá trị dân chủ và biến thành những nguyên tắc phổ biến trong mọi hoạt động cũng nhƣ trong những quan hệ xã hội. Quá trình hình thành và phát triển dân chủ XHCN là quá trình mang tính biện chứng sâu sắc. Nó kế thừa những giá trị và kinh nghiệm về dân chủ mà loài ngƣời đã tích lũy đƣợc trong lịch sử, đặc biệt là những giá trị và kinh nghiệm trong nền dân chủ tƣ sản. Đồng thời, khi hoàn thiện, nền dân chủ XHCN lại là sự phát triển mang tính cách mạng so với các nền dân chủ trong lịch sử. Dân chủ XHCN là thành quả của quá trình hoạt động tự giác của quần chúng nhân dân, nó với tƣ cách là quyền lực của nhân dân lao động, đồng thời với tƣ cách là chế độ chính trị, dân chủ XHCN sẽ đƣợc từng bƣớc xây dựng và hoàn thiện, phát huy vai trò là động lực to lớn trong tiến trình cách mạng, dƣới sự lãnh đạo duy nhất của đảng mácxít. Tuy nhiên, trình độ chín muồi của dân chủ XHCN tùy thuộc vào trình độ trƣởng thành về tính xã hội chủ nghĩa của các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó quan hệ kinh tế có vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ cuối cùng trong lịch sử, khi tất cả mọi ngƣời đã tự học đƣợc cách quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội, không còn sự quản lý giữa ngƣời với ngƣời mà chỉ còn là sự quản lý ngƣời với vật. Chế độ dân chủ XHCN sẽ tiêu vong cùng với sự tiêu vong của nhà nƣớc. Khi đó, dân chủ với tƣ cách là quyền lực của con ngƣời trong việc sử dụng mọi sức mạnh để thực hiện quyền lực và lợi ích của chính mình sẽ hiện hữu một cách đích thực nhƣ bản chất vốn có của nó, trở thành giá trị nhân văn, đóng vai trò cho sự phát triển bền vững của xã hội. 14
  19. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cho nhân dân lao động, phục vụ lợi ích cho số đông. Dân chủ thực sự đƣợc thống nhất giữa quyền đƣợc ghi trong hiến pháp, pháp luật với quyền lực ở thực tế. Nhà nƣớc có nghĩa vụ tạo đầy đủ điều kiện vật chất để có thể thực hiện dân chủ nhƣ trong luật quy định. Nền dân chủ XHCN là nền dân chủ toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa. Nhƣng dân chủ không thể vƣợt qua trình độ phát triển kinh tế, đồng thời sự phát triển của kinh tế, văn hóa cũng không thể tách ra khỏi dân chủ. Theo V.I. Lênin: “Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ đƣợc thắng lợi của mình và sẽ không dẫn đƣợc nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nƣớc, nếu không thực hiện đƣợc đầy đủ chế độ dân chủ”[33, tr 167]. Để phát huy đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, V. I. Lênin đặc biệt nhấn mạnh quyền tham gia quản lý nhà nƣớc của ngƣời lao động, coi sự tham gia của những ngƣời lao động là mục đích của chính quyền Xô viết, Ngƣời viết: “Việc thu hút đƣợc ngƣời lao động tham gia quản lý là một trong những ƣu thế quyết định của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa… Vì rằng, một thiểu số ngƣời, tức là Đảng không thể thực hiện đƣợc chủ nghĩa xã hội”[34, tr 67,68]. Thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự tham gia một cách thực sự bình đẳng và ngày càng rộng rãi của ngƣời lao động vào quản lý công việc của nhà nƣớc và của xã hội. Chính sự tham gia ấy đã tạo nên chất lƣợng mới của nền dân chủ, làm thay đổi căn bản đời sống chính trị - xã hội, từ vai trò làm chủ của nhân dân, tính chất nhà nƣớc kiểu mới đến sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ của công dân. Từ đó dân chủ trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Theo V. I. Lênin, “Chủ nghĩa xã hội sẽ không có nếu không có dân chủ với hai ý nghĩa: 1. Giai cấp vô sản không thể hoàn thành cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu không có sự chuyển bị dân chủ cho mình thông qua cuộc đấu tranh vì dân chủ. 2. Chủ nghĩa xã hội sẽ không thể giữ đƣợc thắng lợi và không dẫn đến sự tiêu vong của nhà nƣớc nếu thiếu thực hiện dân chủ một cách trọn vẹn”[33, tr 28]. 15
  20. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, khi lực lƣợng sản xuất chƣa phát triển cao, trình độ dân trí của ngƣời dân còn thấp, bên cạnh đó là sự chống phá mạnh mẽ của các thế lực thù địch thì cần phải thấy vai trò và phải biết kết hợp giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp, nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Theo V.I. Lênin, tính chất của chế độ vô sản, “nếu áp dụng một cách cụ thể và nhất định là ở chỗ: Trƣớc hết các cử tri đều phải là quần chúng lao động và bị bóc lột, còn giai cấp tƣ sản thì bị loại ra; hai là, mọi thủ tục và những chế độ có tính chất quan liêu đều bị xóa bỏ, quần chúng tự quy định lấy thể thức và thời hạn bầu cử, hoàn toàn có quyền tự do bãi miễn những ngƣời mà họ đã bầu ra; ba là, hình thành một tổ chức quần chúng tốt nhất của đội tiền phong của những ngƣời lao động - giai cấp vô sản đại công nghiệp, tổ chức đó giúp cho đội tiền phong có thể lãnh đạo đƣợc đại đa số quần chúng bị bóc lột, có thể thu hút số quần chúng đó độc lập tham gia và sinh hoạt chính trị, và do đó có thể bắt tay, lần đầu tiên, vào việc thi hành nhiệm vụ sau đây: làm thế nào cho thực sự toàn thể nhân dân đều học tập đƣợc công tác quản lý và bắt đầu đảm nhận công tác quản lý”[35, tr 240]. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng cầm quyền nhƣng dân là chủ. Mọi “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[42, tr 698]. Ngƣời luôn nhấn mạnh vấn đề quyền lực thuộc về dân là vấn đề nguyên tắc, là bản chất chế độ mới mà Đảng ta, nhân dân ta đang ra sức xây dựng. Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo chính quyền là nhằm thiết lập và củng cố quyền làm chủ của dân, mọi quyền lực phải thuộc về nhân dân. Dân làm chủ - mọi quyền hành, mọi lực lƣợng ở dân. Nhân dân thực sự tham gia vào việc quản lý nhà nƣớc. Hồ Chí Minh dạy rằng: “Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trƣởng, thứ trƣởng, ủy viên này khác làm gì? Làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan cách mạng”[44, tr 375]. Nền dân chủ chúng ta đã và đang phấn đấu xây dựng 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2