Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế: So sánh thể chế chính trị giữa Cộng hòa Pháp và Liên bang Nga
lượt xem 15
download
Mục đích nghiên cứu của luận văn trình bày sự giống nhau, khác nhau cũng như những ưu điểm, hạn chế của thể chế cộng hòa bán tổng thống ở hai quốc gia Pháp và Nga, rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế: So sánh thể chế chính trị giữa Cộng hòa Pháp và Liên bang Nga
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- VY THỊ NGỌC TRÂM SO SÁNH THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ CỘNG HÒA PHÁP VÀ LIÊN BANG NGA Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế Mã số: 60 31 02 06 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Quang Minh Hà Nội - 2015
- LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy PGS.TS. Phạm Quang Minh, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và động viên em trong suốt quá trình viết luận văn tốt nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Khoa Quốc tế học – Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn đã truyền đạt kiến thức và nhiều kinh nghiệm cho em trong suốt thời gian em học ở trường. Vốn kiến thức mà em được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quý báu để em bước vào đời một cách vững chắc và tự tin. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô ở Thư viện trường ĐHKHXH&NV và ở Viện nghiên cứu Châu Âu đã nhiệt tình giúp em tiếp cận được với nguồn tài liệu phong phú và hữu ích. Sau cùng em xin chúc toàn thể thầy cô trong khoa Quốc tế học, thầy giáo PGS.TS. Phạm Quang Minh lời chúc sức khoẻ, luôn thành công trong công việc và cuộc sống. Hà Nội, tháng 9 năm 2014 1
- MỤC LỤC Trang Mở đầu 03 Chƣơng 1: Khái quát về Thể chế chính trị trên thế giới 07 1.1. Các khái niệm cơ bản 07 1.1.1. Chính trị 07 1.1.2. Thể chế chính trị 08 1.2. Khái quát một số thể chế chính trị trên thế giới 10 1.3. Thể chế Cộng hoà bán tổng thống 13 Chƣơng 2: Thể chế cộng hòa bán tổng thống của Pháp và Nga 18 2.1. Lịch sử hình thành thể chế chính trị Pháp và Nga 18 2.1.1. Cộng hòa Pháp 18 2.1.2. Liên bang Nga 24 2.2. Sự giống và khác nhau giữa thể chế cộng hòa bán tổng thống 30 của Pháp và Nga 2.2.1. Hành pháp 30 2.2.2. Lập pháp 42 2.2.3. Tư Pháp 54 2.2.4. Các đảng phái chính trị 60 Chƣơng 3: Giá trị và bài học 64 3.1. Nhận xét chung 64 3.2. Góc nhìn tham chiếu 69 Kết luận 78 Tài liệu tham khảo 81 2
- MỞ ĐẦU 1, Lý do chọn đề tài Thể chế chính trị là một trong những vấn đề quan trọng của khoa học chính trị được nhiều các học giả quan tâm nghiên cứu. Qua nhiều giai đoạn hình thành và phát triển, cho đến nay thể chế chính trị của các quốc gia trở nên hoàn thiện hơn và đa dạng hơn so với các giai đoạn trước. Trong thời kỳ hiện tại này, trước xu thế phát triển mạnh mẽ của thế giới trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, xã hội, văn hóa đến chính trị, mỗi quốc gia luôn cố gắng xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị của mình để phát triển đất nước. Trong các thể chế chính trị phổ biến hiện nay có thể chế chính trị cộng hoà bán tổng thống mang những đặc điểm khác với hai thể chế cộng hoà tổng thống và đại nghị. Đây được xem là mô hình phân chia quyền lực “lưỡng đầu”, tức là quyền lực nhà nước nằm trong tay cả Tổng thống và Thủ tướng. Mô hình này trên thực tế đã thể hiện nhiều điểm tiến bộ trong việc kìm chế và thực thi quyền lực, tránh được sự lạm quyền, độc đoán, đồng thời quyền lực của người đứng đầu vẫn được thể hiện rơ nét và thậm chí còn được tăng cường nhằm phát huy tối đa hiệu quả quản lý, lãnh đạo đất nước. Trên thế giới có khoảng 60 quốc gia theo thể chế này. Đặc biệt ở khu vực châu Âu, không chỉ các quốc gia tư bản phát triển mà cả các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trước đây, sau khi Liên Xô tan rã cũng đã thiết lập hình thức thể chế cộng hoà bán tổng thống như là mô hình thể chế phù hợp cho quá trình chuyển đổi sang nền dân chủ của quốc gia mình. Hiện nay ở châu Âu có: Áo, Phần Lan, Pháp, Ai-xơ-len, Ai-rơ-len, Bồ Đào Nha, Bun-ga-ri, Lít-va, Ba Lan, Ru-ma-ni, Nga, U-crai-na,.... Trong đó, Pháp và Nga được xem là hai quốc gia điển hình cho dạng thể chế này. Vậy thì, thể chế cộng hòa bán tổng thống có điểm gì ưu việt, lịch sử và cơ sở hình thành cũng như cách thức vận hành của thể chế này như thế nào, ưu điểm và hạn chế ra sao, những điểm giống và khác nhau giữa hai thể chế điển 3
- hình cho cộng hòa bán tổng thống là gì, giữa Pháp và Nga thì bên nào ưu việt hơn… là những câu hỏi đặt ra cho vấn đề nghiên cứu. Tìm hiểu vấn đề này, ngoài việc hệ thống hóa những thông tin về thể chế cộng hòa bán tổng thống của Pháp và Nga dưới góc nhìn chính trị học so sánh, đề tài cũng muốn rút ra những điểm cần lưu ý, những kết luận tổng quan trong việc xây dựng và thực thi quyền lực của mô hình này. Từ đó có những góc nhìn đối chiếu trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Với lý do trên, đề tài: “So sánh thể chế chính trị giữa Cộng hòa Pháp và Liên bang Nga” được chọn làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Quan hệ quốc tế. 2, Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: làm rõ sự giống nhau, khác nhau cũng như những ưu điểm, hạn chế của thể chế cộng hòa bán tổng thống ở hai quốc gia Pháp và Nga, rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền. - Nhiệm vụ: làm rõ một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài nghiên cứu, phân tích, đối chiếu, so sánh nhằm làm nổi bật quá trình hình thành thể chế cũng như những đặc điểm của thể chế cộng hòa bán tổng thống của Pháp và Nga, liên hệ với Việt Nam. 3, Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung phân tích đặc điểm của thể chế cộng hoà bán tổng thống thông qua các quy định của hiến pháp về các cơ quan nhà nước trong thể chế như: cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, và đặc biệt là chức năng và quyền hạn của nguyên thủ quốc gia, mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với các cơ quan trên. Về phạm vi nghiên cứu, luận văn lựa chọn 2 quốc gia để nghiên cứu gồm: Cộng hoà Pháp, Liên bang Nga, trong đó Pháp là quốc gia thuộc Tây Âu có thể chế dân chủ tự do được hình thành từ thế kỷ 19. Còn Nga – trước đó là nước xã hội chủ nghĩa, mới thành lập mô hình thể chế này thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh sau khi Liên bang Xô Viết tan rã năm 1991. 4
- 4, Tình hình nghiên cứu Hiện nay, có các tài liệu về thể chế chính trị nói chung trong đó có nghiên cứu về thể chế Cộng hoà bán tổng thống của các tác giả Nguyễn Đăng Dung, Vũ Hồng Anh, Nguyễn Chu Dương, Lê Đình Chân, Nguyễn Văn Bông, khoá luận tốt nghiệp của Trần Hồng Việt (K43), Kiều Hương Quỳnh (K45), Bùi Thị Phương Thảo, Nguyễn Thị Thuý An (K51)…Ngoài ra có một số sách của nước ngoài nghiên cứu về thể chế chính trị như: Comparative Politics Today của Gabriel A. Almond, G. Bingham Powell, Jr. Kaare Strom, Russell J.Dalton; Understanding the Political World của James N. Danziger; Government and Politics in Western Europe của Yves Mény và Andrew Knapp, đặc biệt là các bài viết của Robert Elgie. Tuy nhiên, chưa có tài liệu nào nghiên cứu chuyên sâu về thể chế chính trị Cộng hoà bán tổng thống nói chung và mô hình thể chế này ở châu Âu nói riêng. Bằng việc sử dụng kết quả trong nghiên cứu của các tác giả trên, luận văn trình bày đặc điểm của thể chế Cộng hoà bán tổng thống và vận dụng để phân tích so sánh thể chế của hai quốc gia ở châu Âu là Cộng hòa Pháp và Liên bang Nga. 5, Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được tiếp cận ở giác độ chính trị học so sánh và cách thức tiếp cận theo cấu trúc chức năng. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể để tìm hiểu đối tượng nghiên cứu như: - Phương pháp phân tích: Sử dụng để phân tích các đặc điểm của thể chế Cộng hoà bán tổng thống và thể chế này ở Pháp, Nga thông qua các quy định hiến pháp của mỗi quốc gia. - Phương pháp tổng hợp: Từ những nghiên cứu về thể chế của 2 quốc gia sẽ tổng hợp để rút ra nhận xét chung về thể chế Cộng hoà bán tổng thống. Tổng hợp các số liệu nghiên cứu về quyền hạn của tổng thống và thể hiện trong các bảng biểu. - Phương pháp so sánh: Đây là phương pháp phổ biến và được ưa chuộng hiện nay trong chính trị học, và là phương pháp được áp dụng xuyên suốt trong toàn luận văn. 5
- 6, Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận thì nội dung luận văn bao gồm ba chương chính như sau: + Chương 1: Khái quát về thể chế chính trị trên thế giới + Chương 2: Thể chế chính trị cộng hòa bán tồng thống ở Pháp và Nga + Chương 3: Giá trị và bài học Chương thứ nhất nêu những khái niệm cơ bản về thể chế chính trị trên thế giới, sơ lược về một số loại hình thể chế chính trị trên thế giới, phân tích chính trị theo cách hiểu đa dạng với nhiều khía cạnh như trên, nghiên cứu chính trị để hiểu được bằng cách nào con người tính toán và đạt được điều mình muốn, những điều tạo cho họ có thể tồn tại trong cộng đồng một cách hoà bình và hoà hợp. Bên cạnh đó chương một còn rút ra được khái niệm về thể chế chính trị bao gồm 3 yếu tố là 1) Một hệ thống các cơ quan nhà nước tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp, giữa chính phủ trung ương và cơ quan địa phương; 2) đảng phái chính trị, nhóm lợi ích và mối quan hệ giữa các cơ quan này với các thể chế nhà nước; 3) Thể chế chính trị cũng là các luật cơ bản như hiến pháp và luật bầu cử. Chương thứ hai trình bày điểm tương đồng trong sự phân công quyền lực giữa Pháp và Nga, tuy vậy, khi đi vào cụ thể vai trò của các nhánh quyền lực trên thực tế vẫn có nhiều khác biệt và phần nào đưa ra góc nhìn so sánh, đồng thời đưa ra những thông tin đa chiều hơn trong nghiên cứu chính trị học so sánh. Điều đó còn có ý nghĩa hơn khi nước ta đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chương thứ ba đánh giá khách quan những nội dung so sánh từ thể chế cộng hòa bán tổng thống của Pháp và Nga cùng với những kiến giải từ thực tế Việt Nam phần nào mở ra một góc nhìn mang tính tổng quan cho vấn đề nghiên cứu, góp phần định hướng một vài giá trị mang tính thực tiễn cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. 6
- CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ TRÊN THẾ GIỚI 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Chính trị Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam giải thích: Chính trị là toàn bộ những hoạt động mà tương ứng với nó là mối quan hệ giữa con người với nhau trong các vấn đề gắn với quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các tầng lớp xã hội mà cốt lơi của nó là các vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế có khá nhiều những quan điểm, trường phái khác nhau định nghĩa về chính trị. Theo Harold Lasswell thể chế chính trị là về vấn đề ai đạt được cái gì, khi nào, như thế nào và tại sao đạt được. Còn David Easton cho rằng chính trị là sự phân phối bắt buộc những giá trị của một xã hội. Một học giả chính trị học (Nhà Kinh tế chính trị học và xã hội học) Max Weber lại cho rằng: chính trị là quá trình để giành quyền lực và ảnh hưởng sự phân phối quyền lực giữa các quốc gia hoặc giữa các yếu tố trong một quốc gia. Theo quan điểm của Bernard Crick thì chính trị là chính phủ dưới một dạng nhất định, một phương thức đặc biệt để làm nên và thực hiện chính sách, luật lệ tác động lên dân chúng. Nghiên cứu chính trị theo nghĩa rộng hơn thì chính trị liên quan đến 6 khía cạnh: 1) cộng đồng, 2) luật lệ, 3) cấu trúc kinh tế, 4) xung đột và mâu thuẫn lợi ích, 5) quản trị và 6) quyền lực. Về khía cạnh cộng đồng: chính trị là về những cộng đồng do con người tổ chức nên. Có 3 yếu tố trong cộng đồng chính trị là: dân cư sinh sống trong lãnh thổ có chính phủ. Theo khía cạnh luật lệ thì chính trị gồm các luật lệ của cộng đồng gồm cả thành văn và các quy tắc không thành văn. Theo khía cạnh cấu trúc kinh tế: quy tắc kinh tế quyết định cách chúng ta đánh giá về kinh tế như cái gì là giá trị, cái gì được coi là hàng hoá, và tài sản được đánh giá như thế nào [18, 15]. Về khía cạnh thứ 4 (xung đột và mâu thuẫn lợi ích) thì chính trị là xung đột và mâu thuẫn lợi ích trên các quy tắc điều chỉnh cộng đồng. Xung đột không chỉ là chiến tranh mà còn là sự không hoà hợp, mâu thuẫn. Với khía cạnh quản trị, điều hành thì chính trị là sự điều hành 7
- và quản lý cộng đồng. Quản lý gồm việc tạo ra các quy tắc cho cộng đồng, các quyết định phân phối trong cộng đồng, giải quyết xung đột bằng luật lệ. Quản lý cũng bao hàm thực hiện quyền lực. Theo khía cạnh cuối cùng là quyền lực thì chính trị là quyền lực trong cộng đồng. Quyền lực là khái niệm trung tâm của chính trị với quyền lực và việc thực hiện nó tạo ra các hệ quả của chính trị (theo nghĩa tích cực). Quyền lực là khả năng thống trị của một người đối với người khác trong một xung đột lợi ích (theo nghĩa tiêu cực). Như vậy luận văn đã phân tích chính trị theo cách hiểu đa dạng với 6 khía cạnh như trên. Nghiên cứu chính trị để hiểu được bằng cách nào con người tính toán và đạt được điều mình muốn, những điều tạo cho họ có thể tồn tại trong cộng đồng một cách hoà bình và hoà hợp. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê nin thì chính trị bắt nguồn từ quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia dân tộc. Trong đó cơ bản và quan trọng nhất là lợi ích kinh tế [9, 7]. Tiếp theo, Lê nin cho rằng điều chi phối trực tiếp chính trị là quan hệ giai cấp và vấn đề quyền lực nhà nước là yếu tố trung tâm, then chốt nhất trong chính trị. Nói đến chính trị là phải nói đến giai cấp và nhà nước. Điều quan trọng nhất trong chính trị đó là tổ chức chính quyền nhà nước. Do vậy, từ những phân tích trên có thể kết luận như sau: Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các quốc gia, các dân tộc, các lực lượng xã hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. 1.1.2. Thể chế chính trị Nghiên cứu chính trị trong mối quan hệ với các yếu tố khác thì chính trị là một lĩnh vực rất rộng với nhiều mối quan hệ khác nhau với không gian và thời gian xác định như quan hệ giữa các giai cấp, giữa các đảng phái chính trị với các giai cấp và với nhà nước, giữa nhà nước với công dân, giữa công dân với nhau và mối quan hệ giữa các tổ chức trong mỗi nhà nước. Xét về mặt kết cấu thì chính trị bao gồm các yếu tố như: 1) Chính sách, các quyết định của các chủ thể chính trị; 2) Các thiết chế và thể chế chính trị; 3) Quan hệ con người chính trị - giới lãnh đạo chính trị với công dân [9, 9]. Như vậy thể chế chính trị là một yếu tố quan trọng trong chính trị. 8
- Và cũng giống như chính trị, có nhiều quan điểm đưa ra khái niệm về thể chế chính trị. Có quan điểm cho rằng thể chế chính trị có thể là nội dung, phương thức tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị của một quốc gia mà trọng tâm là nhà nước, được thể hiện trên các mức độ: 1) Hoạt động: cơ cấu vận hành của hệ thống chính trị; 2) Cấu trúc: đảng cầm quyền, bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội; 3) Pháp luật: Những định chế gồm hiến pháp, pháp luật và các quy định nhằm bảo vệ hệ thống chính trị quốc gia. Ngoài ra, một quan điểm khác lại cho rằng thể chế chính trị gồm: 1) Những chuẩn mực, quy chế, quy phạm, luật lệ phản ánh mối quan hệ chức năng giữa các bộ phận của một tổng thể - chỉnh thể (trong đời sống xã hội); 2) Những dạng thức, những cấu trúc tổ chức phân bố theo những chức năng của hệ thống xã hội; 3) Hoặc thể chế là tổng hợp gồm cả hai cấp độ mà cấp độ này là cơ sở để xác định cấp độ kia. Căn cứ vào mức độ tham gia của nhân dân vào các công việc của nhà nước thì có thể chế chính trị hành vi và thể chế chính trị tổ chức. Thể chế chính trị hành vi là tập hợp các quy tắc được hình thành trong quá trình phát triển của quốc gia, quy định sự tham gia của dân chúng vào các công việc của nhà nước theo một hình thức nhất định. Hình thức này trở thành các quy tắc xử sự của các công dân thông qua các hành vi ứng xử của mình trong các công việc của quốc gia như việc nhân dân tham gia bỏ phiếu trưng cầu dân ý do quốc gia tổ chức. Thể chế chính trị tổ chức được hiểu theo 2 nghĩa: một là các tổ chức, các cơ quan thực hiện các công việc của nhà nước; hai là bao gồm toàn bộ các quy tắc xử sự của cơ quan, tổ chức khi thực thi quyền hạn của mình. Những cơ quan và tổ chức này là những tổ chức chính trị có mối tương quan chặt chẽ với nhau và hợp thành hệ thống chính trị của mỗi quốc gia. Hệ thống chính trị này ở tầm vĩ mô bao gồm: cơ quan nhà nước, các nhóm lợi ích, đảng phái chính trị và các đoàn thể chính trị khác. Từ những quan điểm trên, luận văn tổng hợp và nêu khái niệm thể chế chính trị như sau: Thể chế chính trị bao gồm: 1) Một hệ thống các cơ quan nhà nước tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp, giữa chính phủ trung ương và cơ quan địa phương; 2) đảng phái chính trị, 9
- nhóm lợi ích và mối quan hệ giữa các cơ quan này với các thể chế nhà nước; 3) Thể chế chính trị cũng là các luật cơ bản như hiến pháp và luật bầu cử. Và sau đây luận văn sẽ tập trung phân tích thể chế chính trị thông qua một hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước: quốc hội, chính phủ, tư pháp, đảng phải chính trị, các định chế về tổng thống, thủ tướng và quy định bầu cử… 1.2. Khái quát một số thể chế chính trị trên thế giới Như đã trình bày ở trên, luận văn lựa chọn phân tích thể chế chính trị tổ chức do vậy sẽ tập trung nghiên cứu các cơ quan nhà nước ở trung ương gồm: nguyên thủ quốc gia, cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, nhưng trước hết là nguyên thủ quốc gia và tiếp theo là mối quan hệ của nguyên thủ quốc gia với các cơ quan nhà nước trong thể chế. Theo cách tiếp cận này thì hiện nay trên thế giới có hai loại thể chế chính trị cơ bản: quân chủ và cộng hoà. Nói chung, thể chế quân chủ là thể chế “mà ở đó nguyên thủ quốc gia do thế tập mà ra, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ cơi „hư vô‟ do thiên đình định đoạt”. Thể chế cộng hoà là thể chế “nguyên thủ quốc gia do bầu cử lập nên và quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân” . Trong thể chế quân chủ lại có hai loại cơ bản: quân chủ tuyệt đối và quân chủ đại nghị. Quân chủ tuyệt đối là một loại hình tổ chức mà quyền lực nhà nước hầu như tập trung trong tay nhà vua. Đây là loại hình của nhà nước phong kiến. Hiện nay trên thế giới còn có hai nước là Ô-man và Xu-đăng vẫn còn tổ chức theo loại mô hình này. Ở các nước này không có hiến pháp, không có các cơ quan đại diện, Kinh Cô-ran được sử dụng như hiến pháp. Nhà Vua là người có quyền lực nhà nước cao nhất, đồng thời cũng là người đứng đầu về tinh thần của đất nước. Thể chế quân chủ đại nghị là thể chế mà quyền lực được chia đều cho cả vua và nghị viện cùng một số cơ quan nhà nước khác. Quyền lực của vua bị hạn chế bởi hiến pháp. Do vậy, hình thức thể chế này còn có tên gọi là quân chủ lập hiến hoặc quân chủ đại nghị. Quân chủ đại nghị là thể chế khá phổ biến hiện nay ở các nước châu Âu như Vương quốc Anh, Vương quốc Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy...Trong đó Anh quốc là điển hình cho mô hình thể chế chính trị này. Trong thể chế quân chủ đại nghị, nguyên thủ quốc gia là các vị vua, quốc výõng, 10
- hoàng để được truyền ngôi lại cho các thế hệ sau (cha truyền con nối). Cơ quan hành pháp (chính phủ) được thành lập và hoạt động khi có tín nhiệm của cơ quan lập pháp (nghị viện). Thể chế chính trị quân chủ đại nghị ở các nước đang phát triển thì có điểm khác biệt với các nước phát triển đã trình bày ở trên bởi vì các vị vua vẫn có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống chính trị của các quốc gia này (như ở Thái Lan, Ma- lai-xi-a,…) Đặc biệt ở Liên bang Ma-lai-xi-a thì nguyên thủ quốc gia không phải do truyền ngôi mà là do những ngýời đứng đầu các tiểu bang thay nhau trị vì vương quốc này với nhiệm kỳ 5 năm theo sự lựa chọn của Hội nghị các tiểu vương quốc. Bên cạnh đó, ở một số quốc gia Ả rập như Bu-tan, Ka-ta-ra có hiến pháp quy định nghị viện là cơ quan có quyền lập pháp độc lập nhưng cũng quy định đây là cơ quan tư vấn cho nhà vua. Vua là người đứng đầu chính phủ, hoặc có quyền trao cho người trong gia đình là người đứng đầu chính phủ. Mô hình thể chế chính trị hiện đại thứ hai là thể chế cộng hòa. Thể chế cộng hoà mới xuất hiện vài trăm năm nay, kể từ khi cuộc các mạng tư sản nổ ra ở các nước Châu Âu. Nói chung thì hình thức thể chế này có nhiều đặc điểm giống với thể chế quân chủ đại nghị, ngoại trừ người đứng đầu nhà nước, nguyên thủ quốc gia được thành lập không do thế tập mà do bầu cử. Nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra người đứng đầu quốc gia mình. Vị nguyên thủ quốc gia này được hiến pháp gọi là tổng thống, người đại diện cho nhà nước về đối nội và đối ngoại. Tuy nhiên, quyền hạn của tổng thống có thực sự hay không, hình thức hay không hình thức phụ thuộc vào chính thể chế chính trị của quốc gia đó thuộc hình thức thể chế cộng hoà nào. Hiện nay trên thế giới có 4 hình thức thể chế chính trị cộng hòa gồm: Cộng hoà đại nghị (Parliamentarism), Cộng hoà tổng thống (Presidentialism), Cộng hoà bán tổng thống (Semi- Presidentialism) và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa (Socialism). Thể chế cộng hoà đại nghị có những đặc điểm sau: Nguyên thủ quốc gia do nghị viện bầu ra, chính phủ đứng đầu là thủ tướng chịu trách nhiệm trước nghị viện. Nguyên thủ quốc gia không trực tiếp tham gia giải quyết các công việc của đất nước. Việc người dân không trực tiếp bầu tổng thống mà gián tiếp 11
- thông qua nghị viện là nguyên nhân làm cho nguyên thủ quốc gia không thực quyền. Các quốc gia châu Âu theo mô hình thể chế này như: Cộng hoà I-ta-li-a, Cộng hoà Liên bang Đức, Hy Lạp. Trong các quốc gia thể chế cộng hoà đại nghị, nguyên thủ quốc gia không là người đứng đầu cơ quan hành pháp và cũng không là thành viên của chính phủ. Hiến pháp của các nước này còn quy định cụ thể về việc không chịu trách nhiệm của tổng thống. Ví dụ như điều 90 Hiến pháp I-ta-li-a quy định: “Tổng thống nước cộng hoà không chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình trong thời gian đảm nhiệm chức vụ, trừ trường hợp phản bội tổ quốc hoặc có hành động xâm phạm đến bản Hiến pháp này”. Về mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với chính phủ, tổng thống được quy định có quyền bổ nhiệm người đứng đầu chính phủ. Nhưng trên thực tế, thủ tướng thường là người đứng đầu đảng giành thắng lợi trong cuộc bầu cử vào nghị viện. Như vậy, tổng thống ở thể chế cộng hoà đại nghị cũng giống như nguyên thủ quốc gia ở thể chế quân chủ đại nghị đều tồn tại mang tính hình thức. Cơ quan hành pháp và thủ tướng ngày càng trở thành cơ quan trung tâm, thực hiện chủ yếu quyền lực trong thể chế nhà. Khác với thể chế cộng hoà đại nghị, cộng hoà tổng thống là thể chế mà tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, đồng thời là người đứng đầu và điều hành trực tiếp chính phủ. Tổng thống do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu nên không chịu trách nhiệm trước nghị viện. Thành viên của chính phủ đều do tổng thống bổ nhiệm hoặc chỉ định và chịu trách nhiệm trực tiếp trước tổng thống. Ở những thể chế chính trị này đã áp dụng toàn bộ nội dung học thuyết phân chia quyền lực, quyền lực nhà nước được phân chia giữa ba cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mối quan hệ giữa Tổng thống (nhánh hành pháp) với Quốc hội (nhánh lập pháp) là quan hệ kiềm chế và đối trọng lẫn nhau. Quyền lực của tổng thống được tăng cường và chính phủ không có chức danh thủ tướng. Loại hình thể chế này được áp dụng phổ biến ở các nước châu Mỹ la tinh như Bra-xin, Mê-hi-cô, Ác-hen-ti-na…và Hoa Kỳ là nước được coi là khuôn mẫu và đầu tiên thành lập mô hình thể chế này. Nhưng ngược lại, hình thức thể chế này lại không phổ biến ở khu vực châu Âu. 12
- Thể chế cộng hoà xã hội chủ nghĩa là thể chế chịu ảnh hưởng đầu tiên từ mô hình thể chế nhà nước Liên Xô trước những năm 1990. Hiện nay, thể chế chính trị cộng hoà xã hội chủ nghĩa không còn ở khu vực châu Âu mà gồm ở một số ít các quốc gia trong đó có Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thể chế chính trị của Việt Nam hiện nay theo quy định của Hiến pháp năm 1992 tuy có một số thay đổi nhưng vẫn theo nguyên tắc tập quyền (khác với nguyên tắc tam quyền phân lập như đã trình bày trong thể cộng hoà tổng thống ở trên). Quyền lực tập trung vào cơ quan lập pháp (Quốc hội). Quốc hội bầu những chức vụ cao cấp nhất của nhà nước như Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chánh án Toà án và Viện trưởng Viện Kiểm soát nhân dân tối cao. Nguyên thủ quốc gia của thể chế chính trị Việt Nam là Chủ tịch nước, người đại diện cho nhà nước trong các hoạt động đối nội và đối ngoại. Người đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng có nhiệm vụ lãnh đạo và điều hành các công việc của Chính phủ Việt Nam. Và như vậy thì tuy có những đặc điểm riêng, nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu về thể chế chính trị cho rằng thể chế chính trị của Việt Nam hiện nay có những điểm chung với chính thể cộng hoà đại nghị. Thể chế cộng hoà thứ tư là thể chế cộng hoà bán tổng thống. Thể chế này có nhiều đặc điểm cụ thể khác với cả ba thể chế trên. Ngoài ra, đây là một thể chế phổ biến hiện nay ở khu vực châu Âu. 1.3. Thể chế Cộng hoà bán tổng thống Thể chế chính trị này có tên gọi từ tiếng Anh là “semi-presidentialism” (bán tổng thống) lần đầu tiên được học giả người Pháp Maurice Duverger đề cập đến trong một tài liệu nghiên cứu vào những năm đầu 1970. Trong các tài liệu tiếng Việt khi viết về thể chế này lại gọi với tên khác nhau như thể chế cộng hoà nhị nguyên, cộng hoà lưỡng tính hoặc cộng hoà hỗn hợp. Tuy nhiên, luận văn sẽ sử dụng thống nhất thuật ngữ “semi-presidentialism” là thể chế cộng hoà bán tổng thống để nghiên cứu và tìm hiểu về thể chế này ở châu Âu vì lý do sẽ trình bày sau đây. Thực tế là ở khu vực châu Âu hiện nay có đến 19 quốc gia theo mô hình thể chế cộng hoà bán tổng thống (Xin xem bảng 1). Trong nhiều tài liệu tiếng 13
- Việt hiện nay thì Cộng hoà Pháp cũng được đánh giá là quốc gia có thể chế chính trị bán tổng thống điển hình. Ví dụ như tác giả Nguyễn Đăng Dung cho rằng “hình mẫu tiêu biểu của loại chính thể cộng hoà lưỡng tính là nước Pháp nền cộng hoà thứ V của Hiến pháp 1958 hiện hành”. Bảng 1: 19 quốc gia có thể chế chính trị cộng hoà bán tổng thống ở châu Âu (tên quốc gia được xếp theo trật tự chữ cái) tt Quốc gia Năm thành lập tt Quốc gia Năm thành lập 1 Áo 1945 11 Mông-tơ-nê-grô 2007 2 Bê-la-rút 1994 12 Ba Lan 1990 3 Bun-ga-ri 1991 13 Bồ Đào Nha 1976 4 Croatia 1990 14 Ru-ma-ni 1990 5 Phần Lan 1919 15 Nga 1993 6 Pháp 1962 16 Séc-bi 2007 7 Ai-xơ-len 1944 17 Xlô-va-ki-a 1999 8 Ai-rơ-len 1937 18 Xlô-ven-ni-a 1991 9 Lithuania 1992 19 U-crai-na 1991 10 Macedonia 1991 Tuy nhiên có nhiều công trình nghiên cứu lại cho rằng Cộng hoà Pháp không phải là quốc gia điển hình của hình thức thể chế này. Ví dụ như cũng chính Maurice Duverger khi phân tích quyền hạn của Tổng thống Pháp và so sánh với một số quốc gia khác ở Tây Âu với nhau thì cho rằng quyền hạn của Tổng thống Pháp là yếu hơn khi so với quyền hạn của các tổng thống ở các quốc gia này (Xin xem bảng 2). Ngoài ra, tác giả cũng phân tích tiếp là Cộng hoà Pháp thành lập mô hình thể chế của mình sau khi sửa đổi Hiến pháp 1958 (Hiến pháp 1958 được sửa đổi lần thứ nhất vào năm 1962 mới thành lập theo thể chế cộng hoà bán tổng thống). Khác với Cộng hoà Pháp, Bun-ga-ri, Phần Lan lại thành lập thể chế này theo đúng với bản hiến pháp đầu tiên (Xin xem bảng 3). Bảng 2: Danh sách xếp loại quyền lực của tổng thống theo thứ tự giảm dần 14
- TT Quốc gia 1 Phần Lan 2 Ai-xơ-len 3 Đức 4 Áo 5 Pháp 6 Ai-rơ-len Bảng 3: Căn cứ thành lập thể chế của một số quốc gia so với Cộng hoà Pháp TT Quốc gia Căn cứ thể chế được thành lập 1 Bun-ga-ri-a Hiến pháp mới (1991) 2 Croatia Hiến pháp mới (1990) 3 Phần Lan Hiến pháp mới (1919) thông qua sau nội chiến và nền độc lập. 4 Pháp Theo hiến pháp sửa đổi (1962, tổng thống được bầu trực tiếp). Về đặc điểm của thể chế cộng hoà bán tổng thống thì một số tác giả cho rằng đây là thể chế mà việc tổ chức “vừa có đặc điểm của cộng hoà đại nghị, vừa có những đặc điểm của cộng hoà tổng thống”. Cụ thể như sau: tổng thống không do nghị viện hoặc dựa trên cơ sở nghị viện bầu ra như các nước theo thể chế cộng hoà đại nghị mà do nhân dân trực tiếp bầu ra. Và giống với chính thể cộng hoà đại nghị có thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Nhưng chính phủ lại đặt dưới sự chỉ đạo của tổng thống. Tổng thống chủ toạ các phiên họp của hội đồng chính phủ để quyết định các chính sách quốc gia. Thủ tướng chỉ được quyền lãnh đạo các phiên họp này khi tổng thống cho phép, chuẩn bị và lãnh đạo chính phủ thực thi các chính sách đó được tổng thống quyết định. Thủ tướng chịu trách nhiệm trước nghị viện và tổng thống trong việc thực thi chính sách này. Trên thực tế thì tổng thống càng thực quyền hơn nếu đảng chính trị của tổng thống cùng với đảng chiếm đa số ghế trong nghị viện của thể chế đó. 15
- Trong tài liệu của Maurice Duverger liệt kê cụ thể ba yếu tố cơ bản của thể chế cộng hoà bán tổng thống như sau: 1) nguyên thủ quốc gia được bầu phổ thông trực tiếp; 2) tổng thống có nhiều quyền hạn trong lĩnh vực hành pháp; 3) thủ tướng chính phủ và tập thể chính phủ do nghị viện thành lập và chịu trách nhiệm trước nghị viện. Tuy nhiên, một số tác giả như: Robert Elgie, Sartori, Matthew S. Shugart và John M. Carey lại cho rằng tiêu chí thứ nhất khi phân tích thể chế cộng hoà bán tổng thống của Duverger đã không còn phù hợp trong thời điểm hiện nay. Tổng thống của thể chế cộng hoà bán tổng thống có thể sẽ được bầu trực tiếp hoặc gián tiếp, chứ không phải chỉ bầu trực tiếp như trên đã trình bày. Cho đến nay, đặc điểm của thể chế cộng hoà bán tổng thống bao gồm : 1) Tổng thống được bầu phổ thông với nhiệm kỳ xác định; 2) Thủ tướng và nội các chịu trách nhiệm trước nghị viện. Và khái niệm thể chế Cộng hoà bán tổng thống được khái quát như sau: Thể chế Cộng hoà bán tổng thống là thể chế chính trị trong đó tổng thống do dân bầu phổ thông trực tiếp hoặc gián tiếp, tổng thống và thủ tướng cùng phối hợp và chia sẻ quyền lực để lãnh đạo bộ máy hành pháp, tổng thống chỉ định thủ tướng và đồng chủ toạ các phiên họp của chính phủ, chính phủ đồng thời chịu trách nhiệm trước cả nghị viện và tổng thống. Về ưu điểm thì thể chế Cộng hoà bán tổng thống khắc phục được hạn chế của thể chế Cộng hoà tổng thống. Vì ở thể chế Cộng hoà tổng thống, tổng thống đồng thời là nguyên thủ quốc gia và đứng đầu chính phủ nên tổng thống có thể trở nên độc tài do tập trung nhiều quyền lực. Thể chế Cộng hoà bán tổng thống, bên cạnh tổng thống có thủ tướng điều hành chính phủ nên tổng thống không có nhiều quyền lực hành pháp. Ngoài ra, thể chế Cộng hoà bán tổng thống cũng khắc phục được hạn chế của thể chế Cộng hoà đại nghị vì tổng thống có quyền giới thiệu ứng cử viên thủ tướng để nghị viện bầu hoặc chỉ định, tổng thống có quyền giải tán nghị viện nên tránh việc nghị viện toàn quyền thành lập và lật đổ chính phủ thông qua một nghị quyết bất tín nhiệm. Tóm lại, chương 1 đã trình bày khái quát về một số khái niệm cơ bản như chính trị và thể chế chính trị. Mặc dù có nhiều quan điểm về thể chế chính trị 16
- nhưng luận văn đã sử dụng quan điểm phân tích thể chế chính trị theo cơ cấu tổ chức gồm các cơ quan trong thể chế, những người lãnh đạo đứng đầu như nguyên thủ quốc gia, thủ tướng. Trong các thể chế chính trị cộng hoà thì thể chế cộng hoà bán tổng thống là một thể chế đặc biệt. Và đặc điểm của thể chế cũng đã thay đổi theo thời gian. Vì vậy các tiêu chí dùng để xác định thể chế cộng hoà bán tổng thống cũng đã khác với các tài liệu ở nước ta hiện nay. Do đó luận văn cũng đã gọi đây là thể chế bán tổng thống thay cho tên gọi là thể chế nhị nguyên hay lưỡng tính và nêu ra một khái niệm chung cho thể chế này. Ngoài ra, hiện nay khá nhiều quốc gia ở châu Âu áp dụng thể chế Cộng hoà bán tổng thống. Kể cả Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa ở Trung và Đông Âu trước đây sau những năm 1990 cũng đã lựa chọn mô hình thể chế chính trị này cho quốc gia mình thay vì chọn thể chế cộng hoà tổng thống hay đại nghị. 17
- CHƢƠNG 2 THỂ CHẾ CỘNG HÒA BÁN TỔNG THỐNG CỦA PHÁP VÀ NGA 2.1. Lịch sử hình thành thể chế cộng hòa bán tổng thống ở Pháp và Nga 2.1.1. Cộng hòa Pháp Bản đồ 1: Cộng hoà Pháp Khái quát về đặc điểm tự nhiên, Cộng hoà Pháp về phía Bắc giáp biển Măng-sơ, phía Tây Nam giáp vịnh Biscay và Đại Tây Dương, phía Đông Nam giáp Địa Trung Hải. Tổng chiều dài Cộng hoà Pháp là 2500 km; phía Đông giáp các nước Bỉ (620 km), Cộng hoà Liên bang Đức (452 km), Luxembourg (73 km), Thuỵ Sĩ (573 km), Italia (488 km); phía Nam giáp với Tây Ban Nha (650 km). Cộng hoà Pháp được chia thành 26 Vùng địa lý: 22 trong Mẫu quốc Pháp (21 trên phần lục địa Mẫu quốc; 1 là "lãnh thổ tập thể" Corse, trên đảo Corsica, thường được gọi là một vùng theo cách nói thông thường région), và 4 Vùng hải ngoại. Các Vùng được chia tiếp thành 100 Tỉnh. Các Tỉnh lại được chia tiếp thành 342 Quận, nhưng các Quận không có hội đồng lập pháp theo bầu cử và chỉ là đơn vị hành chính của đất nước. Các Quận được chia thành 4,035 Tổng, các 18
- Tổng này cũng chỉ có ý nghĩa hành chính. Cuối cùng, các Quận được chia thành 36,682 Làng, đây là các chính quyền tự quản với hội đồng được bầu cử riêng biệt (hội đồng tự quản). Nước Pháp đã trải qua rất nhiều lần thay đổi thể chế chính trị. Quá trình xây dựng nhà nước ở Pháp gắn liền với sự phát triển của đất nước qua các giai đoạn lịch sử khác nhau với vô vàn biến động dữ dội. Nó cũng thể hiện quyết tâm của người Pháp trong việc đi tìm cho mình cách thức tổ chức quyền lực và vận hành quyền lực sao cho đảm bảo khẳng định được vị thế của nước Pháp là trung tâm văn minh của châu Âu và của nhân loại. Không chỉ dừng lại như vậy mà trong sâu thẳm suy nghĩ, người Pháp còn muốn dân tộc mình trở thành một trong những dân tộc đi đầu thế giới, có tiếng nói quyết định đến chính trường quốc tế. Trong quá trình đi tìm một phương thức tổ chức và vận hành chính trị tối ưu phù hợp nhất cho mình, nước Pháp cũng đã trải qua nhiều lần trả giá và nhiều lúc đất nước bị đặt trước những sóng gió tưởng chừng không thể vượt qua. Nhưng cuối cùng xu thế văn minh và dân chủ đã thắng thế và thông qua những sóng gió như vậy người Pháp càng thấm thía và coi trọng những thành quả của công cuộc xây dựng một nền dân chủ mà sau này nhiều dân tộc phải xem Pháp như một ví dụ điển hình để tham khảo học tập. Pháp là một trong những nước có lịch sử hiến pháp phong phú nhất thế giới, cùng với Mỹ là những nước đầu tiên đưa ra và thực hiện những ý tưởng hiện đại của hiến pháp. Lịch sử hiến pháp bắt đầu từ cuộc cách mạng Pháp năm 1789. Trong 169 năm từ năm 1789 tới năm 1958, trải qua 12 chế độ chính trị với 16 bản Hiến pháp khác nhau trong đó có 5 nền cộng hòa, 2 đế chế, 1 chế độ phát xít, vài chính phủ lâm thời; khuynh hướng thay đổi khá cực đoan từ dân chủ quá trớn (vô tổ chức) sang độc tài có kỷ luật (quân chủ hay đế chế) trước khi đạt tới chế độ chính trị ổn định từ năm 1958 với nền cộng hòa thứ 5 hiện nay. Trước năm 1789, nước Pháp sống dưới chế độ quân chủ. Vào thời kỳ đó, ở Pháp không có văn bản Hiến pháp chính thức nào, quền lực tối cao của vua bị hạn chế một phần không đáng kể theo những tập quán từ xa xưa để lại. Nhà vua giữ vị trí thống trị trong đời sống chính trị Pháp, chế độ chuyên chế được xác lập 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề cương luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản trị kinh doanh
71 p | 1174 | 144
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển dịch vụ bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân trên địa bàn tỉnh Bình Định
26 p | 399 | 64
-
Hướng dẫn chi tiết thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế tài chính - ngân hàng - ĐH Kinh tế Luật
15 p | 311 | 58
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Nghiên cứu giảm nghèo bền vững trên địa bàn thành phố Đông Hà - Tỉnh Quảng Trị
127 p | 122 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH tư vấn Xây dựng và Thương mại Anh Phong
133 p | 87 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học: Vai trò của cộng đồng trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di tích, lễ hội đền Trần, tỉnh Nam Định
17 p | 137 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện công tác quản lý thu - chi ngân sách tại phường Ngọc Sơn, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng
70 p | 100 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Xã hội học: Vai trò của Đoàn Thanh niên trong giáo dục văn hóa giao thông cho thanh niên đô thị hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp phường Cầu Dền, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội)
117 p | 75 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tư vấn Xây dựng và Thương mại Anh Phong
133 p | 20 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Cổ phần Lắp máy Điện nước và Xây dựng
171 p | 19 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kế toán chi phí và giá thành sản phẩm tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng & Thiết bị điện nước Minh Hà
166 p | 22 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Thực phẩm Hữu Nghị
117 p | 67 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kế toán tài sản cố định tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Nhà xuất bản Tài nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam
140 p | 17 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Nhân học: Nâng cấp lễ hội truyền thống làng Bình Đa (Những đa dạng biểu hiện quyền của chủ thể văn hóa)
104 p | 54 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kế toán chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh tại Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC)
145 p | 73 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lưu trữ: Nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động dịch vụ về lưu trữ ở Việt Nam
114 p | 41 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Châu Á học: Nhà ở truyền thống của các cộng đồng người Nam Đảo ở Việt Nam: Những biến đổi và hướng bảo tồn
147 p | 39 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn