BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

VÀO CHDCND LÀO TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP

Ngành: Kinh tế quốc tế

SOULINTHONE ITSALIYAPHONE

Hà Nội - 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

VÀO CHDCND LÀO TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP

Ngành: Kinh tế quốc tế

Mã số: 8310106

Họ và tên học viên: SOULINTHONE ITSALIYAPHONE

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS, TS NGUYỄN VĂN HỒNG

Hà Nội - 2020

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Tôi xin cam đoan rằng số

liệu và kết quả nghiên cứu trong luận này là trung thực và không trùng lặp với các

đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn

này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn

gốc. Kết luận khoa học trong luận văn là kết quả quá trình nghiên cứu khoa học

nghiêm túc của tôi, trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình

nào khác.

Hà Nội, ngày …… tháng …… năm 2020

Tác giả luận văn

SOULINTHONE ITSALIYAPHONE

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT .................................................. iv

DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH ẢNH .......................................................... vi

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................. vii

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ

TRỰC TIẾP RA NƢỚC NGOÀI CỦA DOANH NGHIỆP TRONG ĐIỀU

KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ .................................................................................. 5

1.1 Tổng quan về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ..................................................... 5

1.1.1 Khái niệm .................................................................................................... 5

1.1.2 Các hình thức của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ...................................... 7

1.1.3 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. .......................................... 11

1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ..... 12

1.1.5 Tăng cường đầu tư trực tiếp ra nướcn goài của doanh nghiệp ................ 18

1.2 Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với các quốc gia đang phát triển trong điều

kiện hội nhập quốc tế ............................................................................................. 19

1.2.1 Nhận thức của các doanh nghiệp ở các quốc gia đang phát triển về vấn đề

hội nhập và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ....................................................... 19

1.2.2 Tính tất yếu của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với các

nước đang phát triển .......................................................................................... 21

1.2.3 Vai trò của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với các quốc gia đang phát

triển trong điều kiện hội nhập ............................................................................ 23

1.3 Kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài. ...................................................................................................................... 24

1.3.1 Kinh nghiệm của Nhật Bản ....................................................................... 24

1.3.2 Kinh nghiệm của Trung Quốc ................................................................... 26

1.3.3 Bài học đối với Việt Nam .......................................................................... 28

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP CỦA CÁC DOANH

NGHIỆP VIỆT NAM VÀO CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ......... 31

2.1 Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội và hệ thống pháp luật của CHDCND

Lào liên quan đến hoạt động thu hút FDI .............................................................. 31

iii

2.1.1 Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội của CHDCND Lào ..................... 31

2.1.2 Tổng quan hệ thống pháp luật của CHDCND Lào liên quan tới hoạt động

thu hút FDI ......................................................................................................... 38

2.2 Hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của

Việt Nam ................................................................................................................ 40

2.3 Thực trạng đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào của các doanh nghiệp

Việt Nam ................................................................................................................ 42

2.3.1 Đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào theo giời gian .................................. 42

2.3.2 Đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào phân theo ngành. ............................. 45

2.3.3 Đầu tư trực tiếp vào Lào phân theo hình thức đầu tư ............................... 53

2.3.4 Đầu tư trực tiếp vào Lào phân theo địa phương của Việt Nam ................ 54

2.4 Đánh giá hoạt động đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào của các doanh nghiệp

Việt Nam ................................................................................................................ 55

2.4.1 Nhứng kết quả đạt được ............................................................................ 55

2.4.2 Những hạn chế ........................................................................................... 60

2.4.3 Nguyên nhân của những hạn chế .............................................................. 63

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƢỜNG DÒNG VỐN

OFDI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀO THỊ TRƢỜNG LÀO 69

3.1 Dự báo xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Lào nói chung và từ các

doanh nghiệp Việt Nam nói riêng .......................................................................... 69

3.1.1 Dự báo về tình hình đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào nói chung ......... 69

3.1.2 Dự báo về tình hình đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào của các doanh

nghiệp Việt Nam trong thời gian tới................................................................... 70

3.2 Các kiến nghị tăng cường đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào của các doanh

nghiệp Việt Nam trong thời gian tới ...................................................................... 71

3.3.Một số kiến nghị đối với Chính phủ Việt Nam ............................................... 73

3.4 Một số kiến nghị đối với Chính phủ Lào ......................................................... 77

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................ 78

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81

PHỤ LỤC ................................................................................................................... 1

iv

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ viết tiếng Việt đầy đủ

ACIA Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN

ACFTA Khu vực mậu dịch tự do Asean- Trung Quốc

ADB Ngân hàng phát triển châu Á

AEC Cộng đồng kinh tế ASEAN

AFAS Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ

AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN

AKFTA Khu vực mậu dịch tự do Asean- Hàn Quốc

AIA Khu vực đầu tư ASEAN

BIDV Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

BOT Hợp đồng xây dựng, chuyển giao, kinh doanh

BT Hợp đồng xây dựng, chuyển giao

BTO Hợp đồng xây dựng, kinh doanh, chuyển giao

CSR Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

CHDCND Cộng hòa dân chủ nhân dân

CNH-HĐH Công nghiệp hóa- hiện đại hóa

FIA Cục đầu tư nước ngoài_ Bộ Kế hoạch và Đầu tư

GDP Tổng sản phẩm quốc nội

GI Đầu tư mới

GMS Hợp tác kinh tế tiểu vùng Mê Công mở rộng

HAGL Hoàng Anh Gia Lai

IDP Con đường phát triển của đầu tư

IFDI Đầu tư từ nước ngoài vào

JBIC Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản

JICA Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản

JETRO Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản

KFW Ngân hàng Tái thiết Đức

M&A Mua lại và sáp nhập

MNEs Công ty đa quốc gia

v

Chữ viết tắt Chữ viết tiếng Việt đầy đủ

NHNN Ngân hàng nhà nước

NEMs Các hình thức đầu tư phi tài sản

NSNN Ngân sách nhà nước

LDCs Các quốc gia kém phát triển

ODA Hỗ trợ phát triển chính thức

OFDI Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

OPIC Hiệp tác đầu tư tư nhân nước ngoài

STNCs Công ty xuyên quốc gia thuộc sở hữu nhà nước

TNCs Công ty đa quốc gia

TPP Hiệp định đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương

UNCTAD Tổ chức Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc

VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

VIETTEL Tập đoàn viễn thông quân đội

WB Ngân hàng Thế giới

WEF Diễn đàn Kinh tế Thế giới

WIR Báo cáo đầu tư thế giới

vi

DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH ẢNH

Bảng 2.1: GDP của Lào giai đoạn 2010 - 92020 ...................................................... 32

Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu kinh tế của Lào giai đoạn 2014-2017 .............................. 36

Bảng 2.3: Dự báo một số chỉ tiêu kinh tế chính của Lào .......................................... 37

Bảng 2.4: Đầu tư trực tiếp của Việt Nam vào Lào phân theo ngành ........................ 47

Bảng 2.5: Đầu tư của Việt Nam tại Lào phân theo hình thức đầu tư ........................ 53

Bảng 2.6: Đầu tư của Việt Nam sang Lào phân theo địa phương ............................ 55

Hình 2.1: Tổng vốn đầu tư theo phân ngành ............................................................. 49

vii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đối mặt với nhu cầu phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước đã ủng hộ

việc áp dụng các chính sách phát triển kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều

thành phần kinh tế. Trong đó việc mở rộng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vẫn đang

được nhà nước chú trọng phát triển trong đó có đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào.

Đến nay, Việt Nam đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 3 tại Lào với gần

430 dự án với tổng vốn đầu tư gần 5 tỷ USD. Đi cùng với kết quả trên vẫn tồn tại

song song những khó khăn và hạn chế như là cách thức hoạt động đầu tư của các

doanh nghiệp Việt Nam đang dần không phù hợp với định hướng phát triển của

quốc gia Lào, số lượng các dự án đầu tư vô Lào vẫn còn khá ít, lĩnh vực đầu tư cũng

chưa đa dạng và đặc biệt là tỷ lệ các dự án được thực hiện thành công vẫn còn thấp.

Nguyên nhân của những hạn chế này, được cho là xuất phát từ Chính phủ Lào,

Chính phủ Việt Nam và bản thân các nhà đầu tư tại Việt Nam. Qua đó, đã đưa ra

một số giải pháp cũng như kiến nghị để khắc phục các hạn chế đã nêu và góp phần

giúp hoạt động đầu tư nước ngoài tại Lào của Việt Nam phát triển và đạt được

những kết quả tốt hơn nữa.

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Giới thiệu luận văn

Luận văn “Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam vào CHDCND Lào

trong điều kiện hội nhập” kết cấu gồm 3 chương. Các kết quả chính luận văn đạt

được là:

Thứ nhất, bài viết đã sử dụng mô hình phát triển của một mô hình đầu tư để

đánh giá tác động của một số vĩ mô nhất định đối với các quỹ đầu tư OFDI vào các

dự án của Việt Nam tại thị trường Lào. Sau khi sử dụng mô hình hồi cứu, luận văn

đã chỉ ra rằng 1 triệu USD vốn FDI tại Việt Nam sẽ góp phần tăng 0,0115 triệu

USD dòng vốn đầu tư từ nhà đầu tư Việt Nam vào thị trường Lào. Đồng thời, việc

sử dụng khoa học và công nghệ tăng 1% sẽ góp phần tăng thêm 3.32 triệu đô la đầu

tư OFDI vào Lào. Trong khi đó, tác động của tăng trưởng GDP bình quân đầu

người lên lượng vốn đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào không rõ ràng.

Thứ hai, luận văn này đã cập nhật được xu hướng và những thay đổi về dòng

vốn đầu tư trực tiếp từ Việt Nam vào Lào. Sự gia nhập của OFDI vào Lào đã có dấu

hiệu trì hoãn trong hai năm qua, đặc biệt là số lượng dự án bị loại bỏ và việc đình

chỉ hoạt động đã tăng lên rất nhiều đến nỗi số lượng dự án mới được phê duyệt đã

giảm đáng kể.

Thứ ba, luận văn này đã chỉ ra rằng các đặc điểm của các dự án đầu tư trực

tiếp Việt Nam tại thị trường Lào hướng đến FDI chiều dọc và phần lớn là về hoạt

động xuất khẩu. Trong khi đó, chính phủ Lào đang thực hiện các bước để tăng

cường dòng vốn FDI theo chiều ngang, hướng tới tăng cường kiến thức khoa học và

công nghệ trong thương mại và phát triển bền vững.

2. Tính cấp thiết của đề tài

Trong xu hướng toàn cầu hóa, hiện đại hóa như ngày nay, đầu tư quốc tế giữ

vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế của các quốc gia cũng

như nền kinh tế toàn cầu. Trong tâm thế hội nhập như bây giờ, “sân chơi” đầu tư

trên thế giới đã được san bằng, cả các nước phát triển và các nước đang phát triển

đều có cơ hội thực hiện các bước tiến mạnh mẽ để thúc đẩy việc đầu tư trực tiếp ra

2

nước ngoài. Thông qua đó có thể mở rộng thị trường, nâng cao được hiệu quả việc

sử dụng vốn, vượt qua những rào cản trong thương mại và đóng góp cơ cấu lại nền

kinh tế của quốc gia,… Ở Việt Nam, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vẫn

còn khá mới mẻ. Từ năm 1989 đến 1999, các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

chưa được thực hiện với quy mô lớn, các dự án hầu như chỉ mang tính tự phát và

chủ yếu vào các nước láng giềng như Trung Quốc, Campuchia, Lào,... Ngay khi

Nghị định 22/1999/NĐ- CP quy định về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có

hiệu lực, từ năm 2000, các doanh nghiệp tại Việt Nam đã có những bước đi mạnh

mẽ trong việc đưa nguồn vốn ra ngoài thế giới. Nhìn chung, số lượng các dự án,

tổng vốn đầu tư và quy mô của các dự án của các doanh nghiệp Việt Nam đều có sự

tăng trưởng tích cực rõ rệt qua các năm.

Với thị trường tại Lào, đây là đất nước có mối quan hệ gắn bó mật thiết với

Việt Nam đặc biệt về chính trị và kinh tế. Lào cũng là quốc gia nhận nhiều vốn đầu

tư nhất từ các doanh nghiệp ở Việt Nam. Trong năm 2019, hợp tác đầu tư giữa hai

nước tiến triển hết sức tích cực. Việt Nam tiếp tục là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ

3 tại Lạo với gần 430 dự án với tổng vốn đầu tư gần 5 tỷ USD. Ngoài ra, một số dự

án kết nối giao thông đang được triển khai. Tuy nhiên, thực tế hoạt động đầu tư trực

tiếp của các nhà đầu tư Việt Nam vào quốc gia Lào trong các năm rồi cũng tồn tại

một số hạn chế. Rất nhiều vấn đề về việc thiếu thốn thông tin, nhân lực, sự hiểu biết

đúng đắn về luật pháp, phong tục của đất nước Lào, sự hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ

và các Bộ, ngành liên quan... đã và vẫn đang được đặt ra. Thực trạng này khiến khá

nhiều các nhà đầu tư Việt Nam gặp khó khăn khi đầu tư vào xứ người, gây giảm

hiệu quả sử dụng vốn và bỏ qua các cơ hội đầu tư có hiệu quả khác. Ngoài ra, một

số dự án đầu tư trực tiếp của Việt Nam tại Lào, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp

khai khoáng và chế biến phải dừng hoạt động trước thời hạn. Đây là một trong

những vấn đề cần có sự quan tâm nghiên cứu của các cơ quan và các nhà nghiên

cứu.

Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có thể nói là vẫn còn khá là mới mẻ

do vậy rất cần thiết những nghiên cứu mang tính hệ thống. Với thị trường ở Lào,

một trong những thị trường đầu tư trọng điểm của các nhà đầu tư Việt Nam, hoạt

3

động đầu tư tại đây đã và đang có những sự tăng trưởng rõ rệt trong thời gian qua

tuy nhiên vẫn chưa bền vững và chưa xứng đáng với tiềm năng cũng như mối quan

hệ chính trị, kinh tế đặc biệt giữa hai quốc gia Việt Nam và Lào. Thủ tướng chính

phủ Việt Nam đã thông qua đề án “Thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài”

vào năm 2009 trong đó xác định các lĩnh vực được ưu tiên thúc đẩy là năng lượng,

sản xuất điện, khai thác khoáng sản và trồng cây công nghiệp…Trên thực tế, đây

cũng chính là các lĩnh vực mà các doanh nghiệp Việt Nam đang tập trung xuất khẩu

vốn vào thị trường Lào. Đất nước này hiện có rất nhiều tiềm năng và các cơ hội đầu

tư tốt mà nhà đầu tư Việt Nam cần tích cực nắm bắt đó chính là nguồn tài nguyên

khoáng sản dồi dào, những tiềm năng lớn về thủy điện, cây công nghiệp.... Để đẩy

mạnh và nâng cao hiệu quả dòng vốn đầu tư của Việt Nam vào thị trường Lào, rất

cần có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan Bộ, ngành, sự hợp tác chặt chẽ từ phía

hai Chính phủ cũng như sự chủ động, tích cực tìm kiếm và nắm bắt cơ hội đầu tư từ

phía các doanh nghiệp Việt Nam. Để đạt được điều này, cần có nhiều giải pháp dưới

góc nhìn cả ở tầm vĩ mô và phía các nhà đầu tư. Từ thực tế ấy, tác giả đã lựa chọn

đề tài “Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam vào Cộng hòa Dân chủ

Nhân dân Lào” làm đề tài nghiên cứu.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài, phân

tích thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của các doanh nghiệp Việt

Nam vào thị trường Lào, luận văn sẽ chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của hạn

chế trong dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay. Trên cơ sở đó, luận văn đề

xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường dòng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài của Việt Nam vào Lào trong thời gian tới. Mục tiêu nghiên cứu được cụ thể

hóa bằng các câu hỏi nghiên cứu sau:

Những nhân tố nào ảnh hưởng tới dòng vốn đầu tư trực tiếp của các doanh

nghiệp Việt Nam vào thị trường Lào?

Ảnh hưởng của từng nhân tố đó tới dòng vốn đầu tư trực tiếp của các doanh

nghiệp Việt Nam vào Lào như thế nào (nghiên cứu định lượng)? Trong khuôn khổ

4

luận văn, sẽ tập trung đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô tới dòng vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam vào Lào.

Các doanh nghiệp Việt Nam nên tập trung đầu tư vào lĩnh vực nào, địa bàn

nào tại thị trường Lào?

4. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các dự án đầu tư trực tiếp của các doanh

nghiệp Việt Nam tại thị trường Lào. Bên cạnh đó, để đánh giá rõ hơn thực trạng của

các dự án cũng như cơ hội đầu tư vào Lào trong thời gian tới, luận văn sẽ nghiên

cứu về môi trường đầu tư tại Lào, các đối thủ cạnh tranh chính (Thái Lan và Trung

Quốc), các chính sách có liên quan tới hoạt động OFDI của Việt Nam và Lào, các

văn bản đã ký kết giữa các doanh nghiệp cũng như chính phủ hai nước.

5. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian là các dự án trong giai đoạn 1998 – 2018.

Về mặt không gian, phạm vi nghiên cứu là các dự án của doanh nghiệp Việt Nam

đầu tư trực tiếp tại thị trường Lào.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản là thống kê mô tả, so

sánh và điều tra khảo sát ở quy mô nhỏ…

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, luận văn được kết cấu gồm ba

chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

Chương 2: Thực trạng đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam vào

CHDCND Lào.

Chương 3: Một số khuyến nghị nhằm đẩy mạnh thu hút dòng vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài của Việt Nam vào thị trường Lào.

5

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ

TRỰC TIẾP RA NƢỚC NGOÀI CỦA DOANH NGHIỆP TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ

1.1 Tổng quan về đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài

1.1.1 Khái niệm

Trong xu hướng toàn cầu hóa, hiện đại hóa nền kinh tế hiện nay trên thế giới,

hoạt động đầu tư quốc tế giữ vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế

của các quốc gia cũng như sự phát triển của nền kinh tế trên cả thế giới. Có thể nói,

ta đang sống trong thời đại “quốc tế hóa về đầu tư”. Các nước phát triển cũng như

các nước đang phát triển đều đã và đang có những bước đi mạnh mẽ thúc đẩy việc

đầu tư nước ngoài, thông qua đó có thể mở rộng thị trường, nâng cao được hiệu quả

việc sử dụng vốn, vượt qua những rào cản trong thương mại và đóng góp cơ cấu lại

nền kinh tế của quốc gia,…

Căn cứ vào tính chất và cách thức sử dụng vốn, đầu tư quốc tế được chia thành

hai hình thức: Đầu tư gián tiếp nước ngoài và Đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Đầu tư gián tiếp (FII: Foreign Indirect Investment) là hình thức đầu tư quốc tế

trong đó chủ đầu tư nước ngoài góp một phần vốn mà không trực tiếp tham gia điều

hành đối tượng mà họ bỏ vốn. Hình thức này chủ yếu được thực hiện bằng việc mua

cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác trên thị trường chứng khoán

quốc tế [17, tr. 15].

Đầu tư trực tiếp (FDI: Foreign Direct Investment) là một hình thức đầu tư

quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người quản lý và điều hành

hoạt động sử dụng vốn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư dài hạn của

một cá nhân hay một doanh nghiệp nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ

sở sản xuất kinh doanh tại quốc gia được nhận đầu tư [12, tr. 16]. Đứng ở góc độ

quốc gia nhận vốn đầu tư, gọi là hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài, còn

đứng ở góc độ quốc gia đi đầu tư, gọi là hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ đề cập đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài - cụ thể là hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh

6

nghiệp Việt Nam vào quốc gia Lào.

Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Theo tổ chức Thương mại thế giới (WTO): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản

một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó.” [12, tr. 9].

Theo Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), FDI được hiểu theo nghĩa rộng hơn: “FDI

nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh

thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư

là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp”. [14, tr. 10].

Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD): “Đầu tư trực tiếp được

thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp đặc

biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý

doanh nghiệp nói trên bằng cách: (i) Thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp

hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư; (ii) Mua lại toàn bộ

doanh nghiệp đã có; (iii) Tham gia vào một doanh nghiệp mới; (iv) Cấp tín dụng

dài hạn (> 5 năm)”. [16, tr. 9].

Tại Việt Nam, theo Luật Đầu tư 2014 lại cho rằng: “Đầu tư là việc nhà đầu tư

bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức

kinh tế, đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo

hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư

do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”. [18, tr. 9]. Theo

nghị định 78/NĐ-CP ngày 09/08/2006 và dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 78

quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thì lại cho rằng “Đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện hoạt động

đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài [20, tr. 9].

Theo Luật khuyến khích đầu tư của CHDCND Lào (ban hành năm 1988, sửa

đổi bổ sung vào những năm 1994, 2004 và 2011) thì lại cho rằng “Đầu tư trực tiếp

nước ngoài có nghĩa là sự đưa vào CHDCND Lào vốn gồm có tài sản, công nghệ

và kinh nghiệm quản lý với mục đích để kinh doanh”. [22, tr. 9].

7

Chung quy lại, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một loại hình đầu tư quốc tế

trong đó chủ đầu tư bỏ vốn để xây dựng mới hoặc mua lại một phần hay toàn bộ cơ

sở sản xuất kinh doanh ở nước ngoài. Đồng thời, chủ đầu tư là người trực tiếp tham

gia quản lý, điều hành cũng như chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh

của đối tượng mà họ đã bỏ vốn đầu tư. Trên thực tế, những quan niệm về đầu tư

cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn liên tục được sửa đổi bổ sung để phù hợp

với những biến đổi và thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thế

giới.

1.1.2 Các hình thức của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

Hiện nay, các hoạt động OFDI ngày càng diễn ra sôi động dưới nhiều hình

thức khác nhau. Có rất nhiều cách thức để phân chia các hình thức OFDI. Cụ thể

như sau:

Theo cách thức xâm nhập, OFDI được chia thành hai dạng:

- Đầu tư mới: Các chủ đầu tư nước ngoài thực hiện góp vốn để xây dựng một

cơ sở sản xuất, kinh doanh mới tại quốc gia nhận đầu tư. Hình thức này phổ biến

trong trường hợp một nước phát triển đầu tư trực tiếp vào một đất nước đang ở trình

độ phát triển thấp hơn.

- Mua bán và sát nhập: Chủ đầu tư nước ngoài thực hiện việc mua lại hoặc sáp

nhập với một cơ sở sản xuất kinh doanh đã có sẵn ở quốc gia nhận đầu tư. Hình

thức M&A này giúp nhà đầu tư nước ngoài tận dụng được thị trường cũng như kinh

nghiệm và nguồn nhân lực sẵn có của doanh nghiệp bị sáp nhập hoặc mua lại. Hình

thức này phổ biến trong trường hợp các nước phát triển đầu tư vào nhau hoặc các

nước mới nổi đầu tư vào các nước phát triển.

Theo ngành nghề, lĩnh vực giữa chủ đầu tư và đối tượng tiếp nhận đầu tư

OFDI được chia thành hai dạng, đó là:

- OFDI theo chiều dọc (vertical FDI): Là hình thức đầu tư vào các lĩnh vực

nhằm mục đích cung ứng các yếu tố đầu vào cho sản xuất trong nước của doanh

nghiệp, hoặc đầu tư trực tiếp vào một ngành nào đó ở nước ngoài nhằm tiêu thụ các

sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp sản xuất trong nước. Nói cách khác, mỗi một

8

phần của quá trình sản xuất sẽ được thực hiện ở một nơi khác nhau trên thế giới.

Hình thức này thường được thực hiện để khai thác tài nguyên thiên nhiên hay lao

động giá rẻ của đất nước tiếp nhận vốn.

- OFDI theo chiều ngang (horizontal FDI): Là hình thức đầu tư mà trong đó

một công ty thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vào chính lĩnh vực mà họ đang

có lợi thế cạnh tranh. Nói cách khác, các chi nhánh tại các nước khác nhau thực

hiện quá trình sản xuất tương tự như chính công ty mẹ ở quốc gia đầu tư. Hình thức

này thường được thực hiện khi doanh nghiệp muốn giảm thiểu chi phí vận chuyển

và vượt qua những rào cản thương mại.

Theo định hướng của nước nhận đầu tư, OFDI được chia thành ba dạng:

- OFDI thay thế nhập khẩu: hoạt động OFDI được thực hiện nhằm sản xuất và

cung ứng cho thị trường tại đất nước nhận đầu tư các sản phẩm mà trước đây đất

nước này phải nhập khẩu. Hình thức này bị ảnh hưởng bởi dung lượng thị trường,

các rào cản thương mại của đất nước nhận đầu tư và các chi phí vận tải.

- OFDI tăng cường xuất khẩu: Thị trường mà chủ đầu tư nhắm tới không phải

hoặc không chỉ dừng lại ở quốc gia nhận đầu tư mà là các quốc gia có thị trường

rộng lớn hơn trên toàn thế giới và có thể có cả thị trường ở quốc gia của chủ đầu tư.

Hình thức này bị ảnh hưởng bởi khả năng cung ứng các yếu tố đầu vào với giá rẻ

của các nước nhận đầu tư như nguyên vật liệu, bán thành phẩm.

- OFDI theo các định hướng khác của Chính phủ: Chính phủ quốc gia nhận

đầu tư có thể áp dụng các biện pháp khuyến khích để điều chỉnh dòng vốn FDI chảy

vào quốc gia của mình theo đúng định hướng đưa ra. Ví dụ như tại Việt Nam, Chính

phủ có thể thực hiện các chính sách nhằm tăng cường thu hút FDI vào những lĩnh

vực mà thân thiện với môi trường và phát triển “kinh tế xanh” thay thế cho vốn

ODA sau này.

Mặt khác theo hình thức pháp lý, có các dạng OFDI phổ biến là:

- Doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài

- Doanh nghiệp liên doanh

- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng

9

- Một số hình thức khác: BOT (Xây dựng- kinh doanh- chuyển giao), BT, BTO...

Các dạng OFDI này có thể được đầu tư tại các khu vực đặc biệt có yếu tố nước

ngoài như khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất hoặc các đặc khu kinh tế... tùy

thuộc vào những điều kiện chính trị, kinh tế và độ mở của từng quốc gia.

Thứ nhất, doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở

hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại quốc gia sở

tại, nhà đầu tư nước ngoài tự thực hiện quản lý và tổ chức hoạt động sản xuất kinh

doanh theo pháp luật của nước nhà và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh

doanh của mình. Doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài có các đặc điểm như sau:

- Chủ đầu tư nước ngoài có toàn bộ quyền điều hành doanh nghiệp theo pháp

luật của nước chủ nhà. Cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài toàn quyền sở hữu doanh

nghiệp và thực hiện các hoạt động quản lý doanh nghiệp đồng thời tự chịu trách

nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.

- Doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài là một pháp nhân của quốc gia nhận

đầu tư.

Thứ hai, doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp mà trong đó bên nước

ngoài và quốc gia chủ nhà cùng thực hiện góp vốn kinh doanh, cùng hưởng lợi và

cùng chia sẻ với nhau rủi ro theo tỷ lệ vốn góp đầu tư. Doanh nghiệp này được

thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân và hoạt

động theo luật pháp của nước nhận đầu tư, tỷ lệ vốn góp do các bên theo thỏa thuận.

Doanh nghiệp liên doanh có các đặc điểm:

- Là một pháp nhân của quốc gia nhận đầu tư.

- Các bên liên doanh cùng tham gia điều hành quản lý doanh nghiệp, cùng chia

lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp của mỗi bên. Tùy theo từng đất nước

sẽ có những quy định không giống nhau về tỷ lệ vốn góp tối đa hoặc tối thiểu đối

với các nhà đầu tư nước ngoài vào vốn điều lệ của doanh nghiệp trong nước.

Thứ ba, Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng là hình thức đầu tư mà các

bên tham gia kí kết hợp đồng để cùng thực hiện sản xuất kinh doanh ở quốc gia

nhận đầu tư, trên cơ sở quy định rõ ràng đối tượng, lĩnh vực sản xuất kinh doanh,

10

nghĩa vụ và quyền lợi của các bên tham gia. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng sẽ

do các bên đàm phán, thỏa thuận với nhau và được cơ quan có thẩm quyền của nước

nhận đầu tư phê duyệt. Loại hình này có các đặc điểm sau:

- Không thành lập pháp nhân mới.

- Hoạt động dựa trên văn bản đã thỏa thuận giữa các bên. Khi hợp đồng hết

hiệu lực thì các bên không còn ràng buộc về mặt pháp lý với nhau.

- Loại hình này chủ yếu áp dụng trong dịch vụ bưu chính viễn thông, lĩnh vực

thăm dò và khai thác dầu khí…

Thứ tư, các loại hình khác như hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT), hợp

đồng xây dựng- chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - kinh doanh

- chuyển giao (BOT). Các loại hình nói trên chủ yếu áp dụng cho các dự án xây

dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật.

- BOT là thỏa thuận kí kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc gia

chủ nhà với nhà đầu tư nước ngoài để thực hiện xây dựng và kinh doanh các công

trình về kết cấu hạ tầng trong một khoảng thời gian nhất định. Khi hết thời gian này,

nhà đầu tư nước ngoài sẽ thực hiện chuyển giao không bồi hoàn hoặc bán lại với

một mức giá tượng trưng công trình này cho quốc gia chủ nhà.

- BTO là thỏa thuận kí kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc gia

chủ nhà với nhà đầu tư nước ngoài để thực hiện xây dựng các công trình về kết cấu

hạ tầng. Sau khi hoàn thành xây dựng, nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển giao cho

quốc gia chủ nhà. Chính phủ quốc gia chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài sẽ cùng

nhau khai thác công trình đó trong một khoảng thời gian nhất định đã thỏa thuận để

thu hồi vốn và đạt được lợi nhuận.

- BT là thỏa thuận kí kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc gia

chủ nhà với nhà đầu tư nước ngoài để thực hiện xây dựng các công trình về kết cấu

hạ tầng. Sau khi hoàn thành xây dựng, nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển giao cho

quốc gia chủ nhà. Chính phủ quốc gia chủ nhà sẽ tạo những điều kiện cho nhà đầu

tư nước ngoài thực hiện các dự án khác để thu hồi được vốn đầu tư và đảm bảo có

mức lãi hợp lý.

11

Phía trên là một số loại hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi thực hiện đầu

tư ra nước ngoài, việc lựa chọn loại hình đầu tư nào phụ thuộc vào năng lực và mục

đích của nhà đầu tư, lĩnh vực đầu tư... Việc lựa chọn loại hình đầu tư cần được xem

xét một cách nghiêm túc, kĩ lưỡng để có thể tận dụng được khả năng quản lý, năng

lực về vốn và khoa học công nghệ... của đối tác, bên cạnh đó cũng phát huy được

những thế mạnh của các nhà đầu tư.

1.1.3 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Đầu tư và rủi ro luôn luôn đi song song với nhau. Đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài là hoạt động đầu tư vốn vào xứ người nên luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn việc

đầu tư trong nước. Do vậy, các nhà đầu tư cần phải nắm rõ các đặc điểm cơ bản của

việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài để có thể giảm thiểu rủi ro và đạt được thành

công khi thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh tại một quốc gia khác.

Một là, tùy vào quy định trong Luật Đầu tư của từng nước mà các nhà đầu tư

nước ngoài phải góp đủ mức vốn nhất định vào vốn pháp định. Ở Việt Nam, theo

quy định của Luật Đầu tư, số vốn góp của bên nước ngoài phải đạt tối thiểu 30%

vốn pháp định đã đăng ký của doanh nghiệp. Tương tự như nước ta, tại Lào, Luật

Đầu tư trực tiếp nước ngoài khi liên doanh, tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài tối

thiểu là 30% vốn pháp định đã đăng ký của doanh nghiệp.

Hai là, mức độ góp vốn quyết định quyền quản lý doanh nghiệp. Đối với

doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài thì chủ đầu tư nước ngoài có toàn quyền

quản lý doanh nghiệp vì họ sở hữu toàn bộ doanh nghiệp. Còn với doanh nghiệp

liên doanh hay loại hình hợp đồng hợp tác kinh doanh thì quyền được quản lý doanh

nghiệp đầu tư và quản lý đối tượng hợp tác phụ thuộc vào tỷ lệ mức vốn góp của

mỗi bên khi tham gia.

Ba là, lợi nhuận từ kết quả hoạt động kinh doanh được phân chia theo tỷ lệ

góp vốn. Cụ thể, với hình thức DNLD và hợp đồng hợp tác kinh doanh, các bên

them gia chia sẻ lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp, còn đối với doanh nghiệp có 100%

vốn nước ngoài, lợi nhuận từ kết quả kinh doanh của doanh nghiệp thuộc toàn bộ sở

hữu của chủ đầu tư nước ngoài sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ tài chính.

12

1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là hoạt động mà nhà đầu tư mang vốn từ nước

mình sang một đất nước khác để tiến hành sản xuất kinh doanh với mục đích tối đa

lợi nhuận. Do vậy, hoạt động này chịu ảnh hưởng từ rất nhiều nhân tố khác nhau,

bao gồm những nhân tố vĩ mô và những nhân tố từ chính bản thân doanh nghiệp đi

đầu tư. Chúng ta có thể chia các nhân tố này thành những nhóm chính như sau:

1.1.4.1 Các nhân tố vĩ mô.

Đầu tiên, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài bị ảnh hưởng rất nhiều vào đường lối,

chính sách và các biện pháp hỗ trợ từ phía Chính phủ của cả quốc gia nhận đầu tư

và quốc gia thực hiện hoạt động đầu tư. Cụ thể như sau:

 Các nhân tố từ phía chính phủ của quốc gia đầu tư.

Thứ nhất, các chính sách tài chính, tiền tệ, quản lý ngoại hối và xuất nhập

khẩu. Hiệu quả sử dụng vốn và khả năng luân chuyển vốn của các nhà đầu tư bị phụ

thuộc trực tiếp bởi quy định hoặc sự thay đổi của các chính sách này. Như hiện nay,

Luật Đầu tư năm 2014 đã có sự thay đổi so với Luật Đầu tư cũ năm 2005 về quy

định về việc chuyển tiền ra nước ngoài theo. Theo đó, các doanh nghiệp Việt Nam

khi thực hiện hoạt động OFDI sẽ được điều chuyển vốn ra nước ngoài từ trong giai

đoạn tìm kiếm và khảo sát các cơ hội đầu tư. Quy định này phù hợp với thực tiễn,

góp phần kiểm soát tốt hơn dòng vốn OFDI; khắc phục được tình trạng nhiều doanh

nghiệp chuyển tiền ra nước ngoài dưới hình thức khác như chuyển tiền không đúng

mục đích, thanh toán biên mậu,… Ngoài ra, chính sách tỷ giá cũng có tác động trực

tiếp tới lợi nhuận của các nhà đầu tư vì các doanh nghiệp trong nước sẽ tăng cường

xuất khẩu dòng vốn ra nước ngoài để tìm kiếm lợi nhuận khi đồng nội tệ được định

giá cao và việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ gặp khó khăn khi đồng tiền trong

nước mất giá.

Thứ hai, đóng một vai trò quan trọng không kém là các hoạt động hỗ trợ, thúc

đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của chính phủ. Việc kí kết các hiệp định song

phương, đa phương như Hiệp định đầu tư song phương BITs - Bilateral Investment

Treaties,... có ý nghĩa rất tích cực đối với hoạt động đầu tư. Các hiệp định này sau

13

khi được ký kết sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng tạo ra một môi trường đầu tư minh

bạch, bình đẳng cho tất cả các nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư trực tiếp. Các hiệp

định nói trên sẽ tạo ra cơ sở pháp lý để điều chỉnh và đảm bảo quyền lợi của các nhà

đầu tư trong quá trình thực hiện sản xuất kinh doanh ở quốc gia nhận đầu tư.

Thứ ba, chính phủ cũng có thể khuyến khích tăng cường đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài thông qua việc tạo ra cơ hội và hỗ trợ kinh nghiệm kinh doanh, cung cấp

thông tin về thị trường, thông tin về đối tác, hỗ trợ về vốn, thành lập các hiệp hội, các

trung tâm nhằm hỗ trợ và đẩy mạnh việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Hiện nay, các

hỗ trợ chỉ mang tính kỹ thuật như tổ chức các diễn đàn nhằm quảng bá, cung cấp

thông tin thị trường và thành lập một số cơ quan đại diện thương mại & đầu tư ở nước

ngoài,…đang ngày càng được đẩy mạnh. Bên cạnh đó, các hình thức hỗ trợ trực tiếp

như miễn giảm thuế, hỗ trợ về vốn, tung gói tín dụng ưu đãi đang có xu hướng giảm

dần.

Thứ tư, chính phủ cũng có thể hỗ trợ hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư thông

qua việc cho vay ưu đãi hay xây dựng trực tiếp để hình thành các cơ sở hạ tầng như

các tuyến đường giao thông quốc gia, hệ thống đường bộ, đường sắt, các cảng biển…

kết nối với các nước trong khu vực và thế giới. Trung Quốc đã áp dụng thành công

các biện pháp hỗ trợ nói trên trong thời gian gần đây như thành lập Quỹ Con đường

tơ lụa trị giá lên đến 40 tỷ USD, thành lập các ngân hàng Đầu tư vào cơ sở hạ tầng

AIIB để tạo đầu tư, kết nối và gây ảnh hưởng với các quốc gia trong khu vực và thế

giới.

 Các nhân tố từ phía quốc gia nhận đầu tư.

Thứ nhất, sự ổn định chính trị - kinh tế - xã hội: Các nước có nền chính trị ổn

định, an ninh quốc phòng được đảm bảo thường là địa chỉ đáng tin cậy đối với các

nhà đầu tư nước ngoài. Ngược lại, những nước có nhiều biến động về nền chính trị

như Philipin, Iraq... không thu hút được nguồn vốn FDI từ các nước trên thế giới.

Không những thế, nhiều nhà đầu tư tại các nước này còn rút vốn để đầu tư sang các

nước khác có nền kinh tế - chính trị ổn định hơn.

14

Thứ hai, các yếu tố về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên và điều kiện tự

nhiên. Các nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú; có nhiều loại

khoáng sản và vị trí địa lý thuận lợi cho sự phát triển… luôn luôn thu hút mạnh mẽ

các nhà đầu tư nước ngoài. Trong thực trạng hiện nay khi các nguồn tài nguyên

thiên nhiên trên thế giới đang ngày càng khan hiếm, những nhà đầu tư nước ngoài

bắt đầu quan tâm hơn đến việc thăm dò, khai thác các nguồn tài nguyên, đặc biệt là

các loại tài nguyên khoáng sản về lĩnh vực năng lượng như dầu mỏ, than đá, khí

đốt. Bên cạnh các yếu tố về tự nhiên, nguồn lao động cũng là một trong những yếu

tố được quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Những đất nước có

nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, đặc biệt đã qua đào tạo cơ bản là những đất nước rất

được các nhà đầu tư nước ngoài chú ý.

Thứ ba, các yếu tố về pháp lý, thủ tục hành chính và cơ chế chính sách. Chính

phủ các quốc gia nhận đầu tư có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thu hút nguồn

vốn FDI bởi vì Chính phủ là cơ quan cao nhất quản lý vĩ mô và đưa ra chủ trương

chính sách, quyết định về hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước

ngoài. Những quy định, chính sách ưu đãi về thuế, ưu đãi về tiền thuê đất... của

chính phủ quốc gia sẽ là một trong các nhân tố hết sức quan trọng để nhà đầu tư

quyết định nên hay không nên đưa vốn vào đất nước này hay đất nước khác. Không

những thế, thủ tục hành chính cũng ảnh hưởng một phần đến việc thu hút FDI. Nhìn

chung, đối với tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển nên

đơn giản hóa, tối ưu hóa các thủ tục về hành chính, pháp lý nhằm tạo điều kiện

thuận lợi để nhà đầu tư có thể dễ dàng thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, tận

dụng được cơ hội kinh doanh.

Thứ tư, các yếu tố về cơ sở hạ tầng bao gồm điện, đường, trường, trạm... Đây

cũng là một trong nhưng yếu tố quyết định đến chi phí sản xuất của một doanh

nghiệp. Với các nước có cơ sở hạ tầng tốt, nhà đầu tư có thể giảm được một số chi

phí sản xuất và nhanh chóng tận dụng được các cơ hội kinh doanh, qua đó nâng cao

khả năng tối đa hóa lợi nhuận. Trung Quốc là một đất nước đã rất thành công trong

việc hiện đại hóa cơ sở hạ tầng trong nước với mục tiêu “xây tổ đón phượng

hoàng”- khi nhà đầu tư đến thì cơ sở hạ tầng đều đã được chuẩn bị tốt, nhà đầu tư có

15

thể yên tâm tiến hành ngay việc sản xuất kinh doanh - Trung Quốc đã là quốc gia

thu hút vốn FDI hàng đầu thế giới trong khoảng 5 năm trở lại đây.

Thứ năm, vị thế của đất nước được nhận đầu tư. Thị trường của quốc gia được

nhận đầu tư đóng một vai trò quan trọng khi nhà đầu tư quyết định triển khai dự án

đầu tư. Vị thế của một đất nước thuận lợi cho việc cung ứng các nguyên liệu đầu

vào và tiêu thụ các sản phẩm đầu ra. Ngoài ra việc giao thương thuận tiện với các

thị trường mới khác chắc chắn sẽ là địa điểm được rất nhiều nhà đầu tư quan tâm

đến. Vị thế của đất nước nhận đầu tư còn được đánh giá ở mức độ mở cửa nền kinh

tế, sự tham gia của nước đó vào các tổ chức, khu vực và thế giới... Một đất nước có

uy tín trên trường quốc tế sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để thu hút nguồn vốn

FDI. Ngược lại, một quốc gia đóng cửa kinh tế, bị cấm vận sẽ không thu hút được

sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.

1.1.4.2. Các nhân tố từ phía doanh nghiệp tiến hành hoạt động đầu tư.

Ngoài các nhân tố vĩ mô, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn phải

chịu ảnh hưởng từ các nhân tố xuất phát từ chính bản thân doanh nghiệp thực hiện

đầu tư. Các nhân tố chủ yếu là: 9

Thứ nhất, năng lực tài chính. Đây là nhân tố quan trọng nhất vì hoạt động

OFDI là việc di chuyển vốn từ đất nước này sang đất nước khác, đòi hỏi lượng vốn

chuyển giao lớn, thời gian đầu tư lại dài. Hơn nữa, việc này còn phát sinh thêm

nhiều rủi ro như rủi ro chính trị, rủi ro tỷ giá. Do vậy, Việc đầu tư nước ngoài đòi

hỏi các doanh nghiệp phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh để có thể chịu được những

rủi ro có thể xảy ra qua đó có thể đảm bảo nguồn vốn đầu tư này là hiệu quả. Ngày

nay, trong tình thế hiện đại hóa đất nước và gia tăng đầu tư quốc tế, các doanh

nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phải đối mặt với những cạnh tranh từ các

doanh nghiệp tại đất nước sở tại và thêm áp lực cạnh tranh từ các nhà đầu tư nước

ngoài khác cũng muốn đầu tư vào đất nước này. Do đó, muốn tồn tại được trên thị

trường nước ngoài thì doanh nghiệp phải có một nguồn vốn dồi dào, năng lực tài

chính vững mạnh để nắm bắt nhanh chóng cơ hội đầu tư nhăm tối ưu hóa mục đích

về lợi nhuận. Tại Việt Nam, cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế, có nhiều

16

tổng công ty và các tập đoàn kinh tế lớn. Đây là các tập đoàn kinh tế trong hoặc

ngoài khu vực kinh tế Nhà nước như Trung Nguyên, Viettel, Hoàng Anh Gia Lai,

EVN... đây chính là những đầu tàu của nước ta hướng ra thị trường quốc tế.

Thứ hai, trình độ phát triển khoa học công nghệ. Cùng với xu thế hiện đại hóa,

KHCN càng ngày càng phát triển mạnh mẽ, KHCN xuất hiện trong tất cả các lĩnh

vực đặc biệt là lĩnh vực sản xuất. Một doanh nghiệp muốn thành công trong việc

thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đòi hỏi phải có đủ trình độ KHCN để có thể

cạnh tranh trên thị trường tại quốc gia nhận đầu tư. Mục đích cuối cùng của các

doanh nghiệp đều chỉ là lợi ích của chủ đầu tư và muốn đạt được mục đích đó,

ngoài các chiến lược PR, marketing... vấn đề cốt lõi là các doanh nghiệp phải tự tạo

ra sự khác biệt, độc đáo về sản phẩm và tạo thêm nhiều giá trị gia tăng. Doanh

nghiệp phải có đủ năng lực tài chính để đầu tư phát triển KHCN cho bộ máy và dây

chuyền sản xuất vào quá trình sản xuất sản phẩm. Đối với các nước đang phát triển,

trình độ KHCN còn thua kém rất nhiều so với các nước trên thế giới, chỉ có một vài

tổng công ty hay tập đoàn kinh tế có đủ khả năng áp dụng một số kỹ thuật KHCN

tiên tiến hiện đại áp dụng vào quy trình sản xuất kinh doanh. Với các doanh nghiệp

vừa và nhỏ khác còn gặp nhiều khó khăn vì không đủ năng lực tài chính để nghiên

cứu và phát triển cũng như ứng dụng KHCN hiện đại. Tuy nhiên, các doanh nghiệp

vừa và nhỏ vẫn có thể có các cơ hội để thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nếu

họ tìm được những “khoảng trống thị trường”, những thị trường “dễ tính”, có thể

đón nhận sản phẩm của chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, về lâu dài, các doanh

nghiệp này vẫn phải sẵn sàng đầu tư ứng dụng KHCN mới vào dây chuyền sản xuất

thì mới có thể thành công ở thị trường nước ngoài; hoặc bản thân doanh nghiệp phải

có những tính chất riêng biệt và độc đáo để thu hút được thị trường bên nước ngoài.

Khi đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoàn toàn có thể tiến hành đầu tư ra nước

ngoài thành công.

Thứ ba, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường

phát triển phải có yếu tố tất yếu là cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp thể hiện ở trên nhiều khía cạnh như hiệu quả, năng suất của hoạt động sản

xuất, khả năng sinh lời, thị phần của họ tại thị trường nước ngoài. Ngoài ra, năng

17

lực cạnh tranh còn được thể hiện qua cơ cấu tổ chức, môi trường làm việc năng

động, dây chuyền sản xuất áp dụng các công nghệ tiên tiến, ban lãnh đạo có kinh

nghiệm và khả năng quản lý và đội ngũ lao động được đào tạo chuyên nghiệp với

năng suất cao hay là khả năng tiếp cận các nguồn đầu tư từ bên ngoài. Bản thân

doanh nghiệp luôn phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình tuy nhiên không

phải qua cách làm cho doanh nghiệp trở nên lớn mạnh nhất hay sản phẩm của mình

là sản phẩm tốt nhất trên thị trường bởi điều này là không thực tế. Nâng cao năng

lực cạnh tranh chính là doanh nghiệp phải tìm được thị phần riêng cho sản phẩm

của mình, làm sản phẩm của mình càng độc đáo và khó bị thay thế. Để nâng cao

năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp cần phải áp dụng những phương pháp mới

nhắm tối ưu hóa bộ máy làm việc, tái cấu trúc quá trình kinh doanh để giảm chi phí.

Hơn thế nữa, các doanh nghiệp luôn phải cập nhật xu hướng và thay đổi sản phẩm

của mình để phù hợp với sự thay đổi của thị trường và nền kinh tế. Có thể nói rằng,

bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có năng lực cạnh tranh, chỉ khác nhau là khả năng

cạnh tranh mạnh hay yếu. Tất nhiên doanh nghiệp nào có khả năng cạnh tranh mạnh

sẽ là người thu về nhiều lợi nhuận hơn và thành công hơn. Đối với các doanh

nghiệp ở các quốc gia đang phát triển, khả năng cạnh tranh nhìn chung vẫn còn thấp

hơn so với các quốc gia phát triển. Một chiến lược nhằm nâng cao năng lực cạnh

tranh ở thị trường trong nước và nước ngoài sẽ dễ dàng đem lại sự thành công khi

thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Vì như vậy mới có thể tạo điều kiện cho

các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hoạt động một cách hiệu quả.

Thứ tư, nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ quản lý sản xuất kinh doanh. Ở bất cứ

ngành nghề kinh doanh nào, nhân lực đều là một trong những yếu tố quan trọng

nhất. Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, vấn đề lao động còn được ưu

tiên hơn hẳn. Chất lượng lao động là điều kiện quan trọng để xem xét đạt hiệu quả

và bền vững việc đầu tư trong dài hạn. Chất lượng lao động bao gồm các yếu tố như

trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, đạo đức nghề nghiệp và quan trọng nhất là giá.

Ngoài ra, đội ngũ cán bộ quản lý bắt buộc có trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng

và kinh nghiệm quản lý, Doanh nghiệp phải biết khai thác các nguồn lực để phục vụ

cho quá trình sản xuất kinh doanh và có khả năng tìm kiếm và mở rộng thị trường...

18

Bên cạnh đó, đội ngũ công nhân làm việc cho doanh nghiệp cũng phải được

đào tạo cơ bản để có trình độ kỹ thuật, tay nghề nhất định, tác phong làm việc công

nghiệp... Các nhân viên trong một doanh nghiệp phải có tính đoàn kết và cùng cố

gắng xây dựng một nền văn hóa doanh nghiệp văn minh qua đó làm tăng năng suất

lao động và kinh doanh hiệu quả. Sẽ có những sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa,

tập quán khi thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vì vậy sẽ không tránh khỏi sẽ

phát sinh nhiều vấn đề phức tạp do vậy cần có sự đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo có kỹ

năng xử lý tình huống và giải quyết vấn đề này thật tốt. Sauk hi nhận thấy được tầm

quan trọng của nguồn lao động, các doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị kỹ càng, đào

tạo và trang bị cho đội ngũ cán bộ các kỹ năng cần thiết như ngoại ngữ, sự khác biệt

về văn hóa, chuyên môn... đảm bảo nhân lực của doanh nghiệp có thể nhanh chóng

thích nghi với môi trường làm việc mới khi chuẩn bị tiến hành đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài. Không những thế, doanh nghiệp cũng phải tính toán các phương án về

thuê lao động tại quốc gia sở tại và tiến hành đào tạo lao động ngay tại nước nhận

vốn đầu tư. Doanh nghiệp càng có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nguồn lao động, họ càng

có cơ hội thành công khi tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

1.1.5 Tăng cường đầu tư trực tiếp ra nướcn goài của doanh nghiệp

Để đánh giá việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, có thể xem xét trên nhiều khía

cạnh như tăng cường quy mô (về lượng) và tăng cường hiệu quả (về chất). Chúng ta

có thể xem xét các chỉ tiêu cơ bản về doanh thu, lợi nhuận, chi phí, tỷ lệ tăng doanh

thu số thuế nộp ngân sách,… Tuy nhiên, phần lớn các dự án OFDI của các doanh

nghiệp Việt Nam thực hiện tại Lào hiện nay đều đang trong giai đoạn thực hiện đầu

tư chưa đi vào hoạt động kinh doanh ổn định nên chưa có doanh thu, lợi nhuận. Vì

vậy, trong khuôn khổ của luận văn, tác giả chỉ tập trung đánh giá tăng cường đầu tư

trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Lào về mặt quy mô trên các

tiêu chí như sau:

Thứ nhất, tính đa dạng của loại hình đầu tư. Các dự án OFDI có thể được thực

hiện đa dạng, dưới nhiều hình thức (doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có

100% vốn nước ngoài…). Thông thường, các loại hình OFDI càng đa dạng thì hoạt

động OFDI của quốc gia càng được mở rộng hơn.

19

Thứ hai, số lượng dự án OFDI cấp mới/ tăng vốn trong kỳ. Đây là yếu tố quan

trọng phản ánh hoạt động mở rộng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Thông thường, tỷ

trọng số dự án OFDI kỳ này/ số dự án OFDI kỳ trước có xu hướng tăng thì ta có thể

cho rằng hoạt động OFDI đang được mở rộng và có xu hướng phát triển.

Thứ ba, lượng vốn OFDI đăng ký/giải ngân trong kỳ. Lượng vốn OFDI đăng

ký trong kỳ phản ánh triển vọng mở rộng đầu tư nước ngoài trong tương lai. Trong

khi đó, lượng vốn OFDI giải ngân hàng kỳ phản ánh thực tế hoạt động đầu tư nước

ngoài đang có xu hướng mở rộng hay thu hẹp.

Thứ tư, số lượng dự án bị dừng hoạt động/ thu hồi giấy phép trong kỳ. Chỉ tiêu

này càng cao thì hoạt động đầu tư nước ngoài đang càng có xu hướng bị thu hẹp.

Tuy nhiên, nếu số dự án cấp mới vẫn tăng nhanh hơn số dự án bị dừng hoạt động thì

hoạt động OFDI vẫn có thể vẫn được mở rộng.

1.2 Đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài đối với các quốc gia đang phát triển trong

điều kiện hội nhập quốc tế

1.2.1 Nhận thức của các doanh nghiệp ở các quốc gia đang phát triển về vấn đề

hội nhập và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

Là người quản lý trực tiếp các hoạt động sản xuất và kinh doanh, người ta có

thể nói rằng các công ty ở các nước đang phát triển đã đạt được tiến bộ đáng kể về

mặt mở rộng thị trường toàn cầu không chỉ trong hoạt động xuất khẩu cũng như lĩnh

vực đầu tư.

Giờ đây, ngày càng có nhiều doanh nghiệp ở các nước phát triển đang kinh

doanh trực tiếp ở nước ngoài, trở thành tập đoàn đa quốc gia, tập đoàn kinh tế hùng

mạnh nhất thế giới. Theo Báo cáo đầu tư quốc tế năm 2018 của UNCTAD (WIR),

nguồn vốn OFDI từ dòng chảy của các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, đã

chứng kiến sự tăng trưởng rất lớn trong 10 năm qua, đã đạt 553 tỷ đồng. Năm 2017,

USD chiếm 3 % vốn OFDI toàn cầu (năm 2000, tỷ lệ này chỉ là 12%) [12, tr. ]. 6

trong số 20 quốc gia hàng đầu triển khai OFDI là các quốc gia đang phát triển và

đang chuyển động. Thực tế này chứng minh rằng các doanh nghiệp ở các nước phát

triển đã đóng một vai trò lớn hơn, ngày càng tham gia rõ ràng hơn vào sự phát triển

20

chung của nền kinh tế thế giới. Đối với Việt Nam, kể từ ngày 11 tháng 1 năm 2007,

đã chính thức tham gia 150 thành viên WTO, chính thức tham gia vào không gian

trò chơi có thể điều hành hầu hết các giao dịch quốc tế, chiếm 85% giao dịch vật

chất, % thương mại toàn cầu.

Cuối năm 2018, Việt Nam đã chính thức tham gia Hiệp định Đối tác xuyên

Thái Bình Dương (TPP) cùng với 10 quốc gia khác. Nhiều nhà đầu tư Việt Nam

cũng đã nhanh chóng nhận thấy thời cơ và bắt đầu tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài. Tiêu biểu như các dự án sau: Dự án thủy điện của EVN tại Lào, Dự án cung

cấp dịch vụ viễn thông của tập đoàn Viettel tại Campuchia, dự án về xây dựng và

canh tác trồng cây lấy gỗ của HAGL tại Lào,… Điều này là có thể được coi là

những doanh nghiệp sáng chói của nền kinh tế Việt Nam trong các quá trình hội

nhập kinh tế. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều doanh nghiệp ở các nước đang phát triển nói

chung và Việt Nam nói riêng chưa nhận thức đầy đủ về sự hội nhập giữa các nền

kinh tế. Bất chấp nhận thức về sự giúp đỡ và hỗ trợ từ Nhà nước, nhiều doanh

nghiệp vẫn ngại tham gia những thị trường mới, sợ phải vđối mặt với các tranh chấp

pháp lý; ngay cả việc theo dõi một doanh nghiệp nhỏ, thiếu kết nối, không phải là

yếu tố quyết định sự hội nhập.

Người ta có thể xác nhận rằng hợp tác kinh tế quốc tế là một vấn đề đối với tất

cả các quốc gia, đối với những quốc gia có mức độ phát triển cao từ Việt Nam hay

đối với bất kỳ quốc gia nào. Do đó, cạnh tranh trong thị trường nội địa nói chung

cũng sẽ phát triển mạnh. Để duy trì tính cạnh tranh và phát triển trong cạnh tranh,

vấn đề cơ bản là doanh nghiệp cần phải chủ động và nhanh chóng cải thiện khả

năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và sản phẩm. Các doanh nghiệp cần biết rằng

sự thống nhất không chỉ tạo ra cơ hội, mà còn tạo ra vấn đề cho tất cả các doanh

nghiệp và tất cả các thành phần kinh tế. Hội nhập thành công là một quá trình bền

vững cho các doanh nghiệp không có quyền rút tiền. Các doanh nghiệp ở các nước

phát triển, dù lớn hay nhỏ, cần nhận thức được các cơ hội và vấn đề do quá trình hội

nhập, do đó hiện đại hóa với công nghệ và nâng cao năng lực quản lý để tăng tính

cạnh tranh. Đồng thời, tất nhiên các doanh nghiệp ở thị trường nội địa sẽ có thể tự

21

đứng bằng hai chân của mình và sẽ có nhiều cơ hội để thành công khi tiếp cận thị

trường toàn cầu.

1.2.2 Tính tất yếu của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với các nước

đang phát triển

Cho đến nay, thu nhập của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các nước đã phát

triển một cách phong phú, đa dạng và vừa phải. Mặc dù thực tế là có những khoản

đầu tư đáng kể được thực hiện trong liên doanh giữa các nước phát triển và đầu tư

đầu tư từ các nước phát triển sang các nước phát triển mới, gần đây đầu tư vốn mới

đã xuất hiện với tốc độ cao. Đó là tiền đầu tư trong và ngoài nước phát triển.

Theo Báo cáo Đầu tư Toàn cầu (WIR 2018) của Tổ chức Thương mại và Phát

triển Liên Hợp Quốc (UNCTAD), đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn 2007 -

2009 bị ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng đã giảm dần kể từ năm

2010 và hơn thế nữa. Cụ thể, tỷ lệ tham nhũng của FDI vào năm 2017 đã tăng %,

đạt 1.450 tỷ USD [22, tr. 15]. WIR dự đoán rằng FDI toàn cầu sẽ tăng trưởng trong

ba năm tới và đạt 1800 tỷ đô la vào năm 2020 hoặc lâu hơn. Các nước phát triển vẫn

là một lực lượng hàng đầu trong đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các quốc gia có đầu tư

trực tiếp nhất là bên ngoài Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hà Lan, Vương quốc Anh và Pháp...

Đồng thời, các nước phát triển cũng liên tục phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Nếu vào đầu những năm 1980, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước phát triển

không tính đến sự suy giảm, cho đến năm 2017, vốn OFDI đã tăng lên từ các nước

đang phát triển và tái định cư 9.3% OFDI toàn cầu, đạt 553 tỷ USD.

Những con số trên cho thấy thực tế rằng đầu tư nước ngoài ở các nước phát

triển đang tăng lên hàng năm, do đó chiếm một phần lớn trong đầu tư công trên toàn

thế giới. Vì vậy, có thể lập luận rằng các nước phát triển cũng có thể đầu tư vào đầu

tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp hàng hải có thể được thực hiện bởi các

nước phát triển vì những lý do chính sau:

Đầu tiên, các nước phát triển cũng có quyền lực riêng, có thể được sử dụng

khi đầu tư trực tiếp ngoài đầu tư. Trong khi lợi ích đến rất lớn, rõ ràng các nước

phát triển ở nhiều khía cạnh sở hữu các tòa nhà của các nước phát triển. Tuy nhiên,

22

nguồn lực không giới hạn. Các quốc gia, ngay cả những nước tiên tiến nhất, chỉ có

thể tập trung vào ngành công nghiệp và các lĩnh vực mà họ có quyền lợi và rời khỏi

sân chơi của trò chơi. Vì vậy, trong nền kinh tế của tất cả các quốc gia, vẫn còn một

số lĩnh vực và ngành công nghiệp có rất nhiều lỗ hổng trên tường để các nhà đầu tư

nước ngoài hợp tác.

Thứ hai, trong những năm gần đây, các nước đang phát triển ở nhiều khía cạnh

như nguồn nhân lực, công nghệ, tư pháp, hệ thống tài chính đã phát triển mạnh mẽ

theo nhiều cách ... một khoản phí cho các doanh nghiệp ở các nước này đầu tư trực

tiếp nước ngoài. Rõ ràng, trong khi nền kinh tế vẫn còn nghèo nàn và lạc hậu, cần

phải chào đón sự tăng trưởng của nền kinh tế trong nước, thì vẫn còn rất nhanh,

tiềm năng của các doanh nghiệp còn hạn chế, rất khó để đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Cho đến nay, ở các nước phát triển, một doanh nghiệp và doanh nghiệp có tiềm

năng tài chính và công nghệ, đủ mạnh để có thể đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối với

các quốc gia có điểm xuất phát như Việt Nam cũng có sự tăng trưởng mạnh mẽ, xây

dựng các hiệp hội và tập đoàn lớn như EVN, Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai,

Viettel... Đây là những người tiên phong đang giúp Việt Nam dễ dàng chiếm lĩnh

thị trường như Lào và Campuchia và tham gia vào thị trường của các nước phát

triển trên thế giới. Ngoài ra, các quốc gia đang phát triển đang trong giai đoạn cuối

cùng, vì họ có thể vay và học hỏi từ kinh nghiệm của các quốc gia hàng đầu trong

các hoạt động đầu tư.

Thứ ba, xu hướng hiện nay trên thế giới là hợp tác và cạnh tranh. Sự phát triển

của đầu tư trực tiếp nước ngoài có lợi cho cả nước và nước sở tại. Trong môi trường

đầu tư, khi các rào cản thương mại và đầu tư bắt đầu, sẽ có ranh giới mềm mại giữa

các quốc gia, giữa các quốc gia, một xu hướng không có sự cân bằng kinh tế giữa

các biên giới. Quốc gia. Các lĩnh vực thương mại tự do như EVFTA là bằng chứng

rõ ràng cho điều đó. Khi lượng mưa giảm, đầu tư giữa các quốc gia cũng vậy. Các

quốc gia phát triển có tỷ lệ lớn dân số thế giới không có mối liên hệ quan trọng

trong nền kinh tế thế giới. Do đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các doanh nghiệp

của các nước phát triển là cần thiết và thực sự cần có các nước phát triển để có thể

23

thực hiện nền kinh tế toàn cầu càng sớm càng tốt. Nó nhằm mục đích phát triển một

nền kinh tế trong nước nhanh chóng và bền vững.

1.2.3 Vai trò của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với các quốc gia đang phát

triển trong điều kiện hội nhập

Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế của

các dân tộc nói chung và các nước đang phát triển nói riêng.

Đầu tiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp các doanh nghiệp ở các nước phát

triển tiếp cận các nguồn lực mới, tiếp cận thị trường nguyên liệu đầu vào vô song

với giá thấp. Điều này trở nên rõ ràng khi các nước đang phát triển đầu tư vào các

nước tiên tiến hoặc các nước phát triển dưới hình thức FDI theo chiều dọc. Ví dụ,

tại Việt Nam, các dự án do các công ty Việt Nam tài trợ ở Lào có thể tận dụng

nguồn tài nguyên đất để cung cấp cho các trang trại công nghiệp, lao động giá rẻ và

lợi ích từ điều kiện tự nhiên để xây dựng nhà ở, thủy điện.

Thứ hai, tránh các rào cản bảo vệ. Nó có thể có nhiều phong cách khác nhau,

nhưng các quốc gia trên thế giới áp đặt ít hạn chế, quy tắc hoặc rào cản kỹ thuật hơn

để bảo vệ sản xuất trong nước. Ngoài phí và lệ phí, chi phí vận chuyển cũng được

coi là một thanh thương mại. Đối với các nước phát triển, các sản phẩm chính của

bán hàng không phải là nguyên liệu thô, các sản phẩm có hàm lượng nguyên liệu

xanh thấp và có sự phân phối lớn. Do đó, chi phí vận chuyển đóng một phần đáng

kể trong chi phí sản xuất. Điều này làm giảm cạnh tranh và lợi ích kinh doanh, có

thể là một rào cản đáng kể cho tăng trưởng xuất khẩu. Trong trường hợp này, các

nhà đầu tư có thể quay trở lại vốn FDI được thực thi - điều này vừa giảm chi phí

viện trợ và vận chuyển cũng như xóa bỏ rào cản thương mại cho các quốc gia để

giao dịch. Không chỉ vậy, cùng với một số quốc gia phát triển cần vốn để phát triển

kinh tế, họ cũng đang thực hiện nhiều ưu đãi đầu tư để mời các doanh nghiệp nước

ngoài đầu tư vốn.

Thứ ba, đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp mở rộng thị trường bán hàng. Rõ

ràng là đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ mang sản phẩm đến gần hơn với người mua,

giúp nhà cung cấp và đưa nhu cầu đến gần hơn. Loại hình xuất khẩu tại chỗ này

24

được coi là phổ biến, đặc biệt là tại các thị trường có sẵn đầu vào từ sản phẩm, với

nhu cầu cao đối với các sản phẩm thương mại. Hơn nữa, việc thoát khỏi trò chơi lớn

trên trò chơi trực tuyến, sẽ giúp các doanh nghiệp kết hợp nhiều kinh nghiệm quý

giá hơn và giúp họ có được sự tín nhiệm hơn. Tự tin là rất quan trọng để giúp các

doanh nghiệp phát triển mạnh ở các nước phát triển.

Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài hành động để thúc đẩy phát triển kinh tế

trong nước. Mục tiêu đầu tiên của bất kỳ dự án là lợi nhuận nhiều hơn. Điều tương

tự cũng đúng với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, nơi các doanh nghiệp đầu

tư ra nước ngoài khi họ nhìn thấy cơ hội tận dụng thị trường nước ngoài tại thị

trường trong nước. Tất nhiên, một khi dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài thành công,

lợi ích của dự án cuối cùng sẽ quay trở lại phục vụ phát triển kinh tế trong nước.

Ngoài ra, nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đóng một vai trò quan trọng,

bởi vì các sản phẩm của dự án là nguyên liệu đầu vào mà thị trường trong nước

đang có nhu cầu. Ví dụ, các dự án thủy điện của EVN Việt Nam tại Lào đã tạo ra

một nguồn năng lượng rất quan trọng để phát triển kinh tế cho Việt Nam, đặc biệt là

về nhu cầu năng lượng để phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa của đất nước cũng

cao như ngày nay.

1.3 Kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc thúc đẩy đầu tƣ trực tiếp ra

nƣớc ngoài

Là một quốc gia phát triển, chỉ hợp nhất với nền kinh tế toàn cầu, có thể nói

rằng Việt Nam là quốc gia đứng sau việc thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Đây là một hoạt động đặc biệt, tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn so với đầu tư vào thị trường

nội địa. Do đó, cần phải học hỏi từ kinh nghiệm của các quốc gia khác để phát triển

đầu tư trực tiếp nước ngoài.

1.3.1 Kinh nghiệm của Nhật Bản

Nguồn vốn OFDI của Nhật Bản có thể được chia thành bốn giai đoạn sau:

Giai đoạn một: Trước năm 1985, thời gian này Nhật Bản đang tập trung vào

tăng trưởng xuất khẩu. Do đó, Tokyo cung cấp hỗ trợ cho cái gọi là bảo vệ JPY để

khuyến khích xuất khẩu. Hoạt động của OFDI tại Nhật Bản vào thời điểm này mới

25

chỉ ở giai đoạn đầu với dòng vốn trung bình là 10.2 tỷ USD/năm trong giai đoạn từ

năm 1965-1985. [12, tr.9]

Giai đoạn thứ hai: Từ 1985 đến 1990 đó là sự bùng nổ. Mặc dù một số người

không muốn tăng giá sau Plaza Accord, Nhật Bản đã thu hẹp mô hình tăng trưởng

từ việc tập trung vào xuất khẩu doanh nghiệp và tập trung vào xuất khẩu vốn. OFDI

tăng nhanh trong giai đoạn này, từ 20 tỷ đô la năm 1985 lên 5 tỷ đô la năm 1998

[12, tr.9]. Trong thời gian này, Nhật Bản dần dần bắt đầu giành được và nhận được

sự ủng hộ của Hoa Kỳ. và Tây Âu, đã thành lập Nhật Bản kinh tế thứ hai Nhật Bản

tại các quốc gia này. Các hoạt động của OFDI Nhật Bản được coi là thành công

trong giai đoạn này, trong đó nêu bật hiện tượng di sản Nhật Bản vào đầu những

năm 1990.

Giai đoạn thứ ba: Từ năm 1991 đến 2004: OFII này của Nhật Bản đã trải qua

nhiều thăng trầm nhưng về cơ bản là màu trắng. Với sự sụp đổ của nền kinh tế,

OFDI đã giảm dần trong những năm 1990, 1991 và 1992 với tỷ lệ lần lượt là -15,7%, -

26,9% và -17,9%. . . OFDI có dấu hiệu cải thiện trong ba năm tới và mức độ cải

thiện cũng rất thấp, đặc biệt là vào năm 1995. Nhưng một năm sau, tỷ lệ OFDI đã

giảm 5.3%. Năm 1997, OFDI tăng tối đa 12.4% kể từ năm 1991. Tác động của cuộc

khủng hoảng tài chính châu Á, bắt đầu vào tháng 7 năm 1997, đã tác động đáng kể

đến nền kinh tế Nhật Bản nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng, OFDI

đã giảm vào năm 1 8.43 tỷ USD (giảm 24.5%). Nhưng OFDI đạt 66.6 4 tỷ đô la vào

năm 1999, gần như là mức cao nhất trong năm 1998 . Lý do cho điều này là sự cải

thiện của nền kinh tế Nhật Bản cũng như nền kinh tế địa phương đã làm tăng tốc độ

của quá trình hội nhập giữa các công ty nước ngoài với các công ty nội địa.

Giai đoạn thứ tư: Từ năm 2005 trở đi: Đây có thể được coi là giai đoạn thứ hai

của thời kỳ vốn OFDI được coi là từ Nhật Bản sang nước ngoài. Đầu tư trực tiếp

nước ngoài của Nhật Bản đã tăng đáng kể từ năm 2004 và đã đạt mức kỷ lục 130 tỷ

đô la kể từ năm 2008. Tuy nhiên, sau khi cú sốc của Lehman xảy ra trong nửa đầu

năm 2008, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản đã giảm mạnh. Trong hai năm tài khóa 2009 -

2010, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Nhật Bản tiếp tục giảm xuống dưới 60 tỷ

USD trong năm 2010, nhưng xu hướng tiếp tục tăng.

26

1.3.2 Kinh nghiệm của Trung Quốc

Sau khi mở cửa kinh tế vào năm 1997, Trung Quốc bắt đầu các hoạt động

OFDI vào đầu những năm 1980. Từ năm 1991 đến 2001, đầu tư vốn của TODI đã

tăng lên khoảng 2.5 tỷ đô la mỗi năm. Do đó, có thể khẳng định rằng trước khi gia

nhập WTO vào tháng 12 năm 2001, dòng vốn OFDI của Trung Quốc thực sự nhỏ

hơn và không phù hợp với quy mô kinh tế. Trên thực tế, trước WTO, chính phủ

Trung Quốc đã bảo vệ sự phát triển của một mô hình phát triển có liên quan nhiều

đến xuất khẩu. Chính phủ đang tập trung vào việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài

đầu tư vào nó. Các doanh nghiệp trong nước tập trung nhiều vào tiếp thị trong nước

và xuất khẩu nhà.

Sau khi gia nhập WTO, chính phủ Trung Quốc đã áp dụng chính sách của

Go Global vào năm 2002, điều này cho thấy sự thay đổi trong chính sách của OFDI

về lệnh cấm cấm và kiểm soát. Đồng thời, đó là một sự thay đổi trong động lực của

việc thực hiện OFDI từ kiến thức đến động cơ chính trị thay vì kiến thức với động

lực kinh tế. Từ năm 2002, Bộ Thương mại và Ủy ban Tái thiết và Phát triển Quốc

gia (MOFCOM và NDRC) đã làm việc cùng nhau trên ấn phẩm hàng năm của Danh

mục và Công nghiệp Quốc gia về FDI ở nước ngoài, cho thấy sự ủng hộ mạnh mẽ

trong điều kiện cơ bản chính phủ cho các hoạt động của OFDI.

Từ năm 2002-2005, sau khi ban hành chiến lược Go Global và một loạt các

biện pháp hỗ trợ vốn và tín dụng đi kèm cho doanh nghiệp, dòng vốn OFDI đổ vào

Trung Quốc đã tăng trưởng mạnh mẽ từ 2,5 tỷ USD năm 2002 lên tới 12,3 tỷ USD

năm 2005.

Từ năm 2006 trở đi, OFDI của Trung Quốc bước vào thời kỳ tăng trưởng vượt

bậc. Lợi nhuận vốn đăng ký của OFDI đạt 21.2 tỷ đô la trong năm 2006, đạt 107.8

tỷ đô la trong năm 2013. Đặc điểm chính trị ở giai đoạn này là chính phủ Trung

Quốc đã tiết kiệm quyền kiểm soát thị trường chứng khoán. Từ năm 2006 trở đi,

theo chương trình, các nhà đầu tư tổ chức trong nước được lựa chọn - Nhà đầu tư cá

nhân và chất lượng Hồi giáo (QĐII) 1 cho phép mọi người đầu tư ngoài đầu tư

nhưng luôn có thời gian. giới hạn đo lường (hạn ngạch). Năm 2006, Trung Quốc đã

27

ban hành nhiều hơn chín hướng dẫn để khuyến khích và tiêu chuẩn hóa đầu tư của

Trung Quốc ra nước ngoài. Quỹ đầu tư của chính phủ, Friday, Investment Group

(CIC), được thành lập năm 2007 với số vốn 200 tỷ USD, trong đó 1 tỷ USD được

sử dụng để mua vốn và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các khoản đầu tư đầu tiên được

thực hiện bởi quỹ, chẳng hạn như mua lại Blackstone (3 tỷ đô la) và Morgan

Stanley (5 tỷ đô la), nhờ vào việc thành lập nhanh chóng các tổ chức dễ dàng thực

hiện số tiền này sau khủng hoảng.

Do đó, người ta có thể nói rằng Trung Quốc đang dần đưa ra nhiều quyết định

về OFDI cho các doanh nghiệp và giấy phép không giới hạn cho chính quyền địa

phương. Tuy nhiên, có thể lập luận rằng biện pháp thực hiện OFDI của Trung Quốc

vẫn không phù hợp với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Năm 2012, Trung Quốc trở

thành nước tiêu thụ vốn lớn thứ ba trên thế giới, chiếm khoảng 88 tỷ đô la vốn FDI.

Tuy nhiên, khoảng cách giữa Trung Quốc và hai quốc gia trên là Nhật Bản và đặc

biệt là Hoa Kỳ vẫn còn rất lớn (Điều 1.3). Không chỉ vậy, cùng với các quốc gia tài

liệu BRICS, trữ lượng OFDI thấp nhất ở Trung Quốc (tính theo phần trăm GDP) và

chỉ 5% GDP của quốc gia này (Nga là 2%, Brazil là % và ở Ấn Độ là 6%). Tài

khoản OFDI chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong các hoạt động thu hút các nhà đầu tư

Trung Quốc ra nước ngoài (tỷ lệ này là 8% trong năm 2010). Tuy nhiên, nhiều khả

năng dòng vốn OFDI của China China sẽ tăng trưởng rất nhanh, trung bình 43.5%

trong giai đoạn 2003-2013. Sự phát triển của thị trường vốn OFDI là một dấu hiệu

cho thấy Trung Quốc đã thay đổi từ một quốc gia chỉ đồng ý với tàn dư Mỹ thành

một cường quốc kinh tế khác với sự kiểm soát của nước ngoài trong các lĩnh vực

chiến lược. [2, tr. 15]

Hiện tại, dòng vốn OFDI của Trung Quốc có một số đặc điểm sau:

Đầu tiên, OFDI của Trung Quốc trở thành đa ngành, phát triển nhanh chóng

nhưng trở nên không đáng tin cậy trong những năm qua (theo tiêu chuẩn đầu tư và

ngành). Cùng với các lĩnh vực truyền thống và năng lượng, các doanh nghiệp

Trung Quốc đang ngày càng quan tâm đến tài chính, tài chính và bất động sản.

Ngoài thay đổi công nghiệp, Trung Quốc cũng muốn đầu tư nhiều hơn vào Liên

28

minh châu Âu và Hoa Kỳ thông qua các cuộc đàm phán quy mô lớn và M&A để

thống trị công nghệ và các thương hiệu giá rẻ.

Thứ hai, về hình thức đầu tư, giao dịch M&A chiếm hơn 0% giá trị giao dịch

tại Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu. Đồng thời, lĩnh vực đầu tư mới vẫn đang thống

trị thị trường châu Phi và các nước đang phát triển.

Thứ ba, dòng vốn OFDI Trung Quốc vẫn chủ yếu được thúc đẩy bởi các

doanh nghiệp nhà nước. Với sự hỗ trợ của chính phủ và các khoản vay được lựa

chọn từ các ngân hàng (CNBC, CDB, China Eximbank), các công ty nhà nước

Trung Quốc đã nhanh chóng lùi lại và tăng đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên, khu

vực vốn phi chính phủ Tài chính từ thiện đã cho thấy các dấu hiệu thống nhất trên

thế giới và tăng trách nhiệm trong những năm gần đây, đặc biệt là giữa Hoa Kỳ và

Liên minh Châu Âu - một thị trường hỗ trợ lãi suất. Các khoản tài trợ và khái niệm

của Trung Quốc không được chấp thuận.

1.3.3 Bài học đối với Việt Nam

Từ kinh nghiệm của Trung Quốc và Nhật Bản, một số bài học có thể được rút

ra cho Việt Nam như sau:

- Trước hết, Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi hơn, tạo hành lang tư pháp

rõ ràng và minh bạch, theo cách đơn giản nhất để doanh nghiệp có thể nhanh chóng

thực hiện và hưởng lợi từ đầu tư trực tiếp nước ngoài.

- Thứ hai, Chính phủ, bằng cách ký kết các hiệp định thương mại và đầu tư với

các nước đối tác, cần tạo điều kiện tốt để đầu tư vốn. Đối với các thị trường trọng

điểm, Chính phủ có thể cung cấp các khoản tài trợ và cho vay khái niệm (ODA) để

cho phép các điều kiện tốt hơn cho các công ty trong nước đầu tư vốn.

- Thứ ba, Chính phủ phải hợp lý trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển

bán hàng hoặc phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính sách cần tiếp tục với tỷ

lệ hoàn vốn hợp lý, đảm bảo giá trị của đồng tiền trong khu vực cho phép doanh

nghiệp kiểm tra vốn. Đồng thời, Chính phủ nên từ từ liên hệ với trực tiếp và tạo

điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế phi chính phủ thực hiện các chức năng của

OFDI.

29

- Thứ tư, Chính phủ cần có các cơ chế để khuyến khích và tạo điều kiện cho

vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong việc thực hiện OFDI. Các tổ

chức phi nhà nước nên được trao cơ hội bình đẳng để được cung cấp giấy phép,

thực hiện dự án và các hoạt động liên quan khác như thực hiện các khoản nợ thuế,

được phát triển bởi các cơ quan nhà nước. ...

- Thứ năm, ngoài kinh doanh, cần chủ động độc quyền, chủ động tìm kiếm cơ

hội đầu tư, thực hiện các phương pháp quản lý tiên tiến, tăng cường nguồn lực nội

bộ trong mọi lĩnh vực: tài chính công nghệ, nguồn nhân lực... Các công ty chịu ảnh

hưởng trực tiếp từ các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, do đó, các công ty cần

tích cực tìm kiếm các cổ phiếu thị trường trên mạng và tìm hiểu về các cơ hội. cơ

chế, chính sách và văn hóa của các quốc gia mà doanh nghiệp đầu tư vốn. Ngoài ra,

doanh nghiệp cũng cần phải làm việc trên một doanh nghiệp dài hạn, để đạt được sự

kết hợp hài hòa giữa lợi ích kinh doanh và các quốc gia để tận dụng vốn đầu tư.

Bằng cách này, đầu tư trực tiếp nước ngoài của bất kỳ doanh nghiệp cũng như toàn

bộ nền kinh tế sẽ đạt được kết quả tích cực hơn.

- Cuối cùng, ngoài các nguyên tắc thống nhất của mỗi doanh nghiệp, cần phải

tăng vai trò của các hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp và doanh nhân ở nước ngoài.

Giao tiếp với bạn bè, bán đồ với các nhà máy, các doanh nghiệp Việt Nam làm

OFDI cần một phiếu bầu, hỗ trợ nhau cùng nhau tiến lên để tận dụng các cơ hội do

OFDI cung cấp và sử dụng chúng trong giải quyết xung đột làm cho nó dễ dàng hơn đã

xảy ra.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Chương 1 trình bày tổng quan về các vấn đề lý thuyết của đầu tư trực tiếp

nước ngoài về mặt hội nhập quốc tế. Đây là những vấn đề lý thuyết cơ bản, làm tiền

đề để nghiên cứu các chương tiếp theo. Chương 1 cũng chỉ ra sự cần thiết phải triển

khai OFDI tại các quốc gia đang phát triển và chuyển tiếp như Việt Nam. Dựa trên

kinh nghiệm nghiên cứu về việc triển khai OFDI của Nhật Bản và Trung Quốc, tác

giả đã chỉ ra những lợi thế và bất lợi của việc triển khai OFDI tại hai quốc gia này

và dựa trên đó, đã đưa ra Khuyến nghị cho Việt Nam.

30

31

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP CỦA CÁC DOANH

NGHIỆP VIỆT NAM VÀO CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

2.1 Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội và hệ thống pháp luật của

CHDCND Lào liên quan đến hoạt động thu hút FDI

2.1.1 Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội của CHDCND Lào

CHDCND Lào có diện tích 236,800 km2, với dân số 6.56 triệu người. Lào là

một quốc gia đa sắc tộc trong đó người Lào chiếm 55%. Chính phủ Lào đã bắt đầu

có những cải cách kinh tế, mở cửa thị trường từ năm 1986. Năm 1992, Lào khôi

phục quan hệ ngoại giao đầy đủ với Mỹ. Tháng 7 năm 1997, Lào chính thức trở

thành thành viên của ASEAN. Năm 2004, Lào bình thường hóa quan hệ thương mại

với Mỹ, mở đường cho thỏa thuận thương mại song phương giữa hai nước chính

thức có hiệu lực một năm sau đó. Tháng 2 năm 2013, Lào chính thức trở thành

thành viên thứ 158 của WTO. Sự kiện này đánh dấu một bước tiến quan trọng của

nền kinh tế Lào trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hiện nay, Lào vẫn

là một trong những nền kinh tế nhỏ bé nhất trong Asean, với GDP năm 2017 đạt

16,85 tỷ USD, GDP bình quân đầu người năm 2017 đạt hơn 1485 USD/năm. Hiện

Lào là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng GDP nhanh nhất khu vực châu

Á, với mức trung bình của giai đoạn 2014-2017 là 8.2%/năm.

Nền kinh tế của Lào là một nền kinh tế đang phát triển có thu nhập trung bình

thấp. Là một trong năm quốc gia xã hội chủ nghĩa còn lại, mô hình kinh tế Lào

giống với thị trường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc và/ hoặc nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng cách kết hợp mức độ cao của sở hữu

nhà nước với mở cửa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài và sở hữu tư nhân trong

khuôn khổ chủ yếu dựa trên thị trường

Sau khi giành được độc lập, Lào đã thành lập một nền kinh tế kế hoạch kiểu

Liên Xô. Là một phần của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đưa Lào vào thị trường

thế giới toàn cầu hóa, Lào đã tiến hành cải cách gọi là Cơ chế kinh tế mới năm 1 86

nhằm phân cấp kiểm soát của chính phủ và khuyến khích doanh nghiệp tư nhân bên

cạnh các doanh nghiệp nhà nước. Hiện tại, Lào được xếp hạng trong số các nền kinh

32

tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới, trung bình tăng trưởng GDP 8.2% mỗi năm.

Người ta cũng dự báo rằng Lào sẽ duy trì tăng trưởng ít nhất 7% cho đến năm 2023.

Các mục tiêu chính của chính phủ bao gồm theo đuổi giảm nghèo và giáo dục

cho tất cả trẻ em, cũng với sáng kiến trở thành một quốc gia "liên kết với đất". Điều

này được thể hiện thông qua việc xây dựng tuyến đường sắt cao tốc gần 6 tỷ đô la

từ Côn Minh, Trung Quốc đến Viêng Chăn, Lào. Nước này đã mở một sàn giao

dịch chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán Lào vào năm 2011 và đã trở thành

một công ty trong khu vực với vai trò là nhà cung cấp thủy điện cho các nước láng

giềng như Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh

tế của Lào chủ yếu dựa vào đầu tư trực tiếp nước ngoài để thu hút vốn từ nước

ngoài để hỗ trợ sự khắt khe về kinh tế liên tục. Mục tiêu dài hạn của nền kinh tế Lào

được ghi trong hiến pháp là phát triển kinh tế theo hướng chủ nghĩa xã hội bằng

cách tạo ra các điều kiện vật chất để tiến lên chủ nghĩa xã hội

Bảng 2.1: GDP của Lào giai đoạn 2010 - 2020

Nguồn: Worldbank, 2020.

Mặc dù có tốc độ tăng trưởng kinh tế khả quan, cơ sở vật chất hạ tầng của Lào

vẫn còn rất hạn chế, đặc biệt là khu vực nông thôn. Tính đến cuối năm 2015, Lào

vẫn là một quốc gia nông nghiệp kém phát triển với trên 70% lao động làm việc

trong khu vực nông thôn. Tuy nhiên, lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp đang ngày

càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Lào, chiếm tỷ trọng trong GDP giai

33

đoạn 2010-2017 tương ứng là 43% và 32%. Về quan hệ xuất nhập khẩu, có thể dễ

dàng nhận thấy Lào thường xuyên thâm hụt cán cân thương mại trong ba năm gần

đây. Các đối tác chủ yếu của Lào trong quan hệ thương mại cũng như đầu tư là Thái

Lan, Trung Quốc và Việt Nam. Ba quốc gia này chiếm tới gần 70% kim ngạch xuất

khẩu và trên 85% kim ngạch nhập khẩu của Lào. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu

của Lào là gỗ, cà phê, điện, khoáng sản… là những mặt hàng có giá trị gia tăng

thấp, chi phí vận chuyển chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành. Các mặt hàng nhập

khẩu chủ yếu của Lào là máy móc thiết bị, khí đốt, hàng tiêu dùng, xe máy… Qua

cơ cấu xuất nhập khẩu của Lào có thể thấy nền kinh tế Lào vẫn ở mức độ phát triển

thấp, chủ yếu xuất khẩu nguyên nhiên liệu là yếu tố đầu vào cho sản xuất và nhập

khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu, máy móc có hàm lượng khoa học công nghệ thấp.

Với việc gia nhập WTO vào đầu năm 2013, chính phủ Lào đang nỗ lực thu hút đầu

tư nước ngoài vào những lĩnh vực có giá trị gia tăng cao hơn như sản xuất hàng tiêu

dùng, công nghiệp chế biến, chế tạo và đặc biệt là phát triển du lịch [1, tr. 40]. Với

nhiều điểm du lịch độc đáo, Lào đã trở thành “địa điểm du lịch tốt nhất thế giới năm

2013” theo bình chọn của Hội Đồng Châu Âu về Du lịch và Thương Mại (ECTT).

Trong năm 2013, Lào đã đón khoảng 3.78 triệu lượt khách quốc tế (trong đó khoảng

hơn 2 triệu lượt khách đến từ Thái Lan). Bên cạnh việc khuyến khích phát triển du

lịch và các ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao, chính phủ Lào đang có những động

thái thắt chặt việc xuất khẩu khoáng sản, gỗ và nguyên nhiên vật liệu thô nhằm

hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

Mặc dù tăng trưởng nhanh chóng, Lào vẫn là một trong những quốc gia nghèo

nhất ở Đông Nam Á. Một đất nước không giáp biển, nó có cơ sở hạ tầng không đầy

đủ và lực lượng lao động không có nhiều kỹ năng. Tuy nhiên, Lào tiếp tục thu hút

đầu tư nước ngoài khi hội nhập với Cộng đồng kinh tế ASEAN lớn hơn, lực lượng

lao động trẻ, dồi dào và đối xử thuế thuận lợi.

Với sự lật đổ của chế độ quân chủ Lào năm 1975, chính phủ cộng sản của

Pathet Lào đã thiết lập một nền kinh tế kế hoạch của hệ thống kinh tế chỉ huy kiểu

Xô Viết, thay thế khu vực tư nhân bằng các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã;

34

tập trung đầu tư, sản xuất, thương mại và giá cả; và tạo ra rào cản đối với thương

mại nội bộ và nước ngoài.

Việc chiếm đoạt quyền lực của những người Cộng sản cũng dẫn đến việc rút

vốn chủ yếu là đầu tư từ bên ngoài của Mỹ, vào đó đất nước đã trở nên phụ thuộc

rất lớn do sự phá hủy vốn trong nước trong Chiến tranh Đông Dương.

Trong một vài năm, chính phủ Lào đã nhận ra các loại chính sách kinh tế này

đang ngăn chặn, thay vì kích thích, tăng trưởng và phát triển. Tuy nhiên, cho đến

năm 1986, chính phủ không công bố "cơ chế kinh tế mới". (NEM). Ban đầu rụt rè,

NEM được mở rộng để bao gồm một loạt các cải cách được thiết kế để tạo điều kiện

thuận lợi cho hoạt động của khu vực tư nhân.

Giá được thiết lập bởi các lực lượng thị trường thay thế giá do chính phủ xác

định. Nông dân được phép sở hữu đất đai và bán hoa màu trên thị trường mở. Các

công ty nhà nước đã được cấp thẩm quyền ra quyết định gia tăng và mất hầu hết các

khoản trợ cấp và lợi thế về giá cả. Chính phủ thiết lập tỷ giá hối đoái gần với mức

thị trường thực tế, dỡ bỏ các rào cản thương mại, thay thế các rào cản nhập khẩu

bằng thuế quan và cho các doanh nghiệp khu vực tư nhân tiếp cận trực tiếp với hàng

nhập khẩu và tín dụng.

Với tình trạng bất ổn đang gia tăng ở Đông Âu và Liên Xô, năm 1998, chính

phủ Lào đã đạt được thỏa thuận với Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế về

các cải cách bổ sung. Chính phủ đồng ý giới thiệu cải cách tài chính và tiền tệ, thúc

đẩy doanh nghiệp tư nhân và đầu tư nước ngoài, tư nhân hóa hoặc đóng cửa các

công ty nhà nước và tăng cường ngân hàng. Nó cũng đồng ý duy trì tỷ giá hối đoái

thị trường, giảm thuế và loại bỏ các quy định thương mại không cần thiết. Một mã

đầu tư nước ngoài tự do đã được ban hành và dường như đang dần tạo ra tác động

tích cực trên thị trường. Việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ được điều chỉnh bởi hai

Nghị định của Thủ tướng có từ năm 1995 và 2002.

Trong nỗ lực kích thích thương mại quốc tế hơn nữa, chính phủ Lào đã chấp

nhận viện trợ của Úc để xây dựng một cây cầu bắc qua sông Mê Kông đến Thái

Lan. "Cầu hữu nghị Thái-Lào", giữa tỉnh Viêng Chăn và tỉnh Nong Khai, Thái Lan,

35

đã được khánh thành vào tháng 4 năm 1994. Mặc dù cây cầu đã tạo ra thương mại

bổ sung, chính phủ Lào chưa cho phép lưu lượng giao thông hoàn toàn tự do trên toàn

cầu.

Những cải cách này đã dẫn đến tăng trưởng kinh tế và gia tăng hàng hóa. Tuy

nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, cùng với sự quản lý sai lầm

của chính phủ Lào đối với nền kinh tế, dẫn đến lạm phát tăng vọt và sự mất giá

mạnh của kip, làm mất 87% giá trị từ tháng 6 năm 1997 đến tháng 6 năm 1999.

Chính sách tiền tệ chặt chẽ hơn đã mang lại sự ổn định kinh tế vĩ mô lớn hơn trong

năm 2000 và lạm phát hàng tháng, trung bình khoảng 10% trong nửa đầu năm 1999,

đã giảm xuống mức trung bình 1% so với cùng kỳ năm 2000.

Trong năm tài chính 1999, các khoản tài trợ và cho vay nước ngoài chiếm hơn

20% GDP và hơn 75% đầu tư công [3, tr. 12]

Nền kinh tế tiếp tục bị chi phối bởi một khu vực nông nghiệp không hiệu quả

hoạt động chủ yếu bên ngoài nền kinh tế tiền tệ và trong đó khu vực công tiếp tục

đóng một vai trò chi phối. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp tư nhân đã được thành

lập và một số khá thành công trong các ngành công nghiệp như thủ công mỹ nghệ,

bia, cà phê và du lịch. Với sự hỗ trợ của Liên Hợp Quốc, Nhật Bản và Đức, một

phòng thương mại trước đây do nhà nước kiểm soát nhằm thúc đẩy kinh doanh tư

nhân: Phòng Thương mại và Công nghiệp Quốc gia Lào và các phân khu tỉnh.

Vòng cải cách doanh nghiệp nhà nước mới nhất năm 2019 nhằm mục đích

thành lập các doanh nghiệp nhà nước như các dự án có lợi nhuận có thể trở thành

nguồn thu nhập hiệu quả và bền vững cho kho bạc quốc gia. Những biện pháp này

bao gồm đóng cửa các doanh nghiệp không hiệu quả, đảm bảo các doanh nghiệp mà

nhà nước đầu tư được cải tổ thành các dự án có lợi nhuận và giảm tham nhũng. Tính

đến năm 2019, Cục Bảo hiểm và Phát triển Doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước

của chính phủ Lào có 183 doanh nghiệp dưới sự giám sát của nó.

36

Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu kinh tế của Lào giai đoạn 2014-2017

Nguồn: VCCI, 2014.

Về triển vọng và thách thức đối với nền kinh tế Lào, mặc dầu có tốc độ tăng

GDP khá nhanh trong giai đoạn 2014-2018, tuy nhiên, nền kinh tế Lào hiện đang

đối mặt với nhiều khó khăn về chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nợ công gia tăng… Một

số dự báo về các chỉ tiêu cơ bản của Lào như thu chi ngân sách, cân bằng ngân sách

và FDI, nợ nước ngoài… được trình bày trong bảng dưới đây:

37

Bảng 2.3: Dự báo một số chỉ tiêu kinh tế chính của Lào

Nguồn: Tác giả Tổng hợp từ số liệu của IMF, WB

Qua bảng 2.3, tăng trưởng kinh tế Lào trong năm 2018 ước tính đạt 7.2%,

giảm 0.8% so với tốc độ tăng trưởng trung bình của bốn năm trước đó (2014-2017).

Điều này là do tăng trưởng chậm ở một số ngành sản xuất, đặc biệt là các ngành

khai khoáng, xây dựng và các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng trọng điểm bị chậm tiến

độ. Các động lực tăng trưởng kinh tế chủ yếu của Lào là các ngành dịch vụ (như

bán buôn, bán lẻ, giao thông vận tải, thông tin truyền thông…), chế biến thực phẩm,

bia rượu, xây dựng và các ngành liên quan đến xây dựng, nhu cầu tiêu dùng nội địa

tăng nhanh… Về tình hình thu chi ngân sách, tổng chi ngân sách của Lào ước tính

sẽ giảm nhẹ từ 24, % GDP năm 2014 xuống mức 23,6% GDP trong năm 2018. Chi

tiêu của chính phủ vẫn trong xu hướng tăng và ở mức cao, do Lào đã thực hiện tăng

lương cho cán bộ công chức tới 40%, mặc dù đã thực hiện cắt giảm một số phúc lợi

của công chức nhà nước. Tăng lương trong khu vực công đang là áp lực lớn đối với

38

vấn đề cân đối ngân sách của chính phủ Lào.Về thu ngân sách, tổng thu ngân sách

dự kiến sẽ tăng nhẹ từ mức 19,1% của năm 2017 lên mức 19.3% của năm 2018

(tính theo % GDP) [23, tr. 12]. Nguồn thu ngân sách của Lào hiện vẫn phụ thuộc

nặng nề vào xuất khẩu. Tuy nhiên, nguồn thu từ xuất khẩu tài nguyên hiện đang gặp

nhiều khó khăn do dự báo giá các khoáng sản chủ chốt đều có xu hướng giảm và

tổng lượng vàng khai thác cũng sẽ giảm. Nguồn thu từ thuế không đạt chỉ tiêu chủ

yếu do nhiều doanh nghiệp không có lợi nhuận. Để đáp ứng nhu cầu chi, chính phủ

Lào đang tăng cường vay nợ nước ngoài. Hiện nay, theo số liệu của WB và IMF, nợ

nước ngoài của chính phủ Lào đã ở mức rất cao, khoảng 10% GDP và vẫn có xu

hướng tăng nhanh trong các năm tiếp theo. Tuy nhiên, theo số liệu của Tổng cục

thống kê Lào, nợ nước ngoài (bao gồm cả nợ chính phủ và nợ của các doanh nghiệp

trong nước) chỉ chiếm khoảng 30% GDP [1, tr. 9]. Tuy có sự khác biệt lớn về số

liệu thống kê, nhưng nhìn chung có thể khẳng định vấn đề nợ nước ngoài và nợ

công tại Lào là khá nặng nề. Chính phủ Lào cần phải có những biện pháp quyết liệt

nhằm cân đối ngân sách và ngăn chặn nguy cơ khủng hoảng tài chính do mất cân

đối ngân sách.

Về vấn đề thu hút FDI, đây là một trong những trọng tâm ưu tiên của chính

phủ Lào nhằm duy trì mục tiêu tăng trưởng 8% trong giai đoạn 2015-2019. Theo

tính toán, để đạt được mục tiêu trên, Lào cần khoảng 15 tỷ USD [1, tr. 10] vốn đầu

tư hàng năm. Hiện nay, nguồn vốn đầu tư của nhà nước đang gặp nhiều khó khăn do

hạn chế về ngân sách. Trong năm tháng đầu năm 2018, 84 dự án đầu tư của nhà

nước đã dừng hoạt động, với tổng vốn đầu tư trị giá 5,153 tỷ kíp. Đầu tư nước ngoài

FDI được dự báo là đi ngang trong giai đoạn 2018-2020, với mức bình quân khoảng

2.5 tỷ USD/ năm [3, tr. 17]. Để tăng cường thu hút FDI, chính phủ Lào cần có chiến

lược thu hút đầu tư và những cam kết mạnh mẽ hơn về cải thiện môi trường đầu tư,

đặc biệt là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

2.1.2 Tổng quan hệ thống pháp luật của CHDCND Lào liên quan tới hoạt động

thu hút FDI

Hiện nay, hệ thống pháp luật của CHDCND Lào nhìn chung là còn thiếu và

chưa đồng bộ, hiệu lực thực thi chưa cao. Một số luật và các văn bản dưới luật của

39

Lào có liên quan trực tiếp tới hoạt động OFDI của các doanh nghiệp nước ngoài tại

Lào là:

Luật khuyến khích đầu tư ban hành năm 2010. Luật khuyến khích đầu tư ra

đời thay thế cho luật khuyến khích đầu tư trong nước và luật khuyến khích Đầu tư

trực tiếp nước ngoài sửa đổi năm 2004. Việc ban hành luật khuyến khích đầu tư

chung của Quốc hội Lào được đánh giá là phù hợp với xu thế hội nhập, trong bối

cảnh Lào hướng tới việcgia nhập WTO (thực tế đã gia nhập vào tháng 2 năm

2013). Tuy nhiên, luật khuyến khích Đầu tư của CHDCND Lào vẫn còn có một số

hạn chế. Về hình thức đầu tư, hiện nay quy định nhà đầu tư nước ngoài chỉ được

thực hiện FDI dưới hai hình thức là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh

nghiệp liên doanh. Các hình thức khác như công ty mẹ - công ty con, Hợp đồng

hợp tác kinh doanh, BOT, BTO, BT… vẫn chưa được luật hóa. Về thuế thu nhập

cá nhân của nhà đầu tư và người lao động nước ngoài, hiện nay quy định mức thuế

chung đại trà là 10% trên tổng thu nhập, chưa quy định mức tối thiểu phải nộp

thuế cũng như các trường hợp giảm trừ. Mặc dù đã gia nhập WTO, nhưng Lào vẫn

được xếp vào nhóm các quốc gia kém phát triển. Chính vì vậy, nhiều cam kết

trong WTO về thương mại, đầu tư và mở cửa thị trường của Lào vẫn còn ở mức

thấp hơn so với các quốc gia thành viên khác.

Chỉ thị số 13 được thủ tướng chính phủ Lào ban hành ngày 11 tháng 06 năm

2012 về việc dừng xem xét và cấp phép dự án đầu tư mới vào lĩnh vực tìm kiếm và

khảo sát khoáng sản, dự án trồng cao su và bạch đàn trong toàn quốc để nhằm kiểm

tra, đánh giá lại việc tổ chức thực hiện và thúc đẩy các dự án đã được Chính phủ cấp

phép, nghiêm chỉnh tiến hành các bước theo quy định của pháp luật và hợp đồng.

Chỉ thị này có thể nói là một trong những bước đi đầu tiên của chính phủ Lào trong

việc nâng cao hiệu quả của các dự án OFDI tại Lào. Tuy nhiên, với việc gia nhập

WTO, những biện pháp mang tính hành chính như chỉ thị 13 được đánh giá là mang

tính tạm thời. Trên thực tế, chỉ thị 13 sẽ hết hiệu lực vào cuối năm 2015 và chính

phủ Lào cần có những biện pháp hiệu quả hơn để quản lý các dự án OFDI trong lĩnh

vực thâm dụng lao động và tài nguyên như khai khoáng và trồng cây công nghiệp…

40

Lào hiện nay vẫn thiếu nhiều luật liên quan đến hoạt động FDI. Cụ thể, hiện

nay Lào chưa có luật chống bán phá giá, luật cạnh tranh, luật chứng khoán, luật sở

hữu trí tuệ, luật chống độc quyền… Bên cạnh đó, Lào cũng chưa có những quy định

về hoạt động OFDI. Do đó, những doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Lào muốn

mở rộng đầu tư sang quốc gia khác sẽ gặp khó khăn do thiếu hành lang pháp lý cần

thiết.

2.2 Hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt

Nam

Từ cuối những năm 1980, Việt Nam đã bắt đầu có những dự án đầu tư trực

tiếp ra nước ngoài. Tuy nhiên, các dự án này đều nhỏ lẻ, mang tính chất tự phát.

Chủ yếu là hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp tư nhân

vào các quốc gia láng giềng như Lào, Campuchia... Từ năm 1998 đến 1999, Việt

Nam chỉ có 18 dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, quy mô vốn bình quân đạt 0,76

triệu USD/dự án. Năm 1999, trước nhu cầu ngày càng tăng về đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài của các doanh nghiệp trong nước, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị

định 22/19/NĐ- CP ngày 14/04/1999 quy định về việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

của các doanh nghiệp Việt Nam. Nghị định này ra đời đã có vai trò lịch sử quan

trọng, góp phần tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của

các doanh nghiệp Việt Nam. Tiếp theo Nghị định 22, các văn bản pháp lý khác đã ra

đời góp phần bổ sung khuôn khổ pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Đó là:

- Thông tư số 01/2001/TT-NHNN ngày 19/01/2001 của NHNN Việt Nam về

hướng dẫn quản lý ngoại hối đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh

nghiệp Việt Nam.

- Thông tư số 05/2001/TT-BKH ngày 30/08/2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư

hướng dẫn hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt

Nam.

- Quyết định số 116/2001/ QĐ-TTg ngày 02/08/2001 của Thủ tướng Chính

phủ về một số quy định đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong lĩnh vực dầu

khí.

41

- Thông tư 7/2002/ TT-BTC ngày 24/10/2002 của Bộ Tài chính về việc hướng

dẫn thi hành nghĩa vụ thuế đối với doanh nghiệp Việt Nam khi tiến hành đầu tư trực

tiếp ra nước ngoài.

Các văn bản pháp lý này đã góp phần quan trọng định hướng và thúc đẩy hoạt

động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, đây

là hoạt động mới mẻ, thực tế hoạt động của các doanh nghiệp đã cho thấy những

quy định này còn nhiều bất cập. Do đó, đòi hỏi phải có những điều chỉnh phù hợp.

Năm 2005, đáp ứng nhu cầu trên, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư (có hiệu

lực từ ngày 01/07/2006). Trong đó, chương VIII của Luật này quy định về hoạt

động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam.

Năm 2006, Chính Phủ tiếp tục ban hành Nghị định 78/2006/ NĐ-CP quy định

về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Nghị

định 78 đã đáp ứng được những yêu cầu bức thiết của các doanh nghiệp, góp phần

làm gia tăng mạnh mẽ dòng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh

nghiệp Việt Nam. Theo Nghị định 78, các doanh nghiệp có vốn FDI cũng có thể

tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, thời gian kể từ khi doanh nghiệp cung cấp

bộ hồ sơ hợp lệ đến khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư tối đa là 15 ngày làm việc.

Đây là những nét mới của Nghị định 78/2006 so với Nghị định 22/19, đã góp phần

quan trọng thúc đẩy dòng vốn đầu tư ra của các doanh nghiệp Việt Nam.

Năm 2007, hệ thống luật pháp của Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

tiếp tục được hoàn thiện với việc Chính phủ ban hành Nghị định 121/2007/NĐ- CP

ngày 25/07/2007 quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí

- một lĩnh vực đặc thù mà các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều lợi thế khi tiến hành

đầu tư ra nước ngoài.

Năm 2009, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt đề án “Thúc đẩy đầu tư của

Việt Nam ra nước ngoài”, trong đó xác định các lĩnh vực ưu tiên, các địa bàn trọng

điểm, cũng như các giải pháp hỗ trợ nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh của dòng

vốn OFDI. Đến tháng 4/2010, Thủ tướng chính phủ ban hành quyết định 482/ QĐ-

TTg ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế đối ngoại vùng

42

biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia. Nghị định 482 đã đưa ra nhiều

ưu đãi mạnh tay nhằm thúc đẩy việc phát triển kinh tế của các vùng biên giới Việt

Nam - Lào và Việt Nam - Campuchia. Trong đó có nhiều ưu đãi ở mức tối đa về

vay vốn và bảo lãnh giành cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư tại các

tỉnh biên giới của Việt Nam.

Năm 2014, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Đầu tư mới (chính thức có

hiệu lực từ 01/07/2015) thay thế cho luật đầu tư năm 2005. Trong đó, chương năm

của luật này quy định về hoạt động đầu tư ra nước ngoài. So với các văn bản trước

đây, luật Đầu tư 2014 đã có nhiều thay đổi theo hướng thông thoáng, tạo điều kiện

thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện OFDI. Đáng chú ý là quy định về chuyển tiền

ra nước ngoài của các doanh nghiệp thực hiện OFDI đã có thay đổi đáng kể. Cụ thể,

các doanh nghiệp được phép chuyển tiền, hàng hóa, máy móc, thiết bị ra nước ngoài

để phục vụ cho hoạt động khảo sát, nghiên cứu, thăm dò thị trường và thực hiện

hoạt động chuẩn bị đầu tư khác theo quy định của chính phủ. Như vậy, luật Đầu tư

đã “cởi trói” cho các doanh nghiệp trong thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài để thực

hiện OFDI, tuy nhiên, các nghị định cụ thể để hướng dẫn việc đầu tư ra nước ngoài

thay thế Nghị định 78/2006/NĐ-CP vẫn chưa được ban hành. Đây đang là điểm

nghẽn về mặt chính sách đối với hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam.

Như vậy, kể từ khi bắt đầu tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vào cuối

những năm 1980 cho đến nay, hệ thống pháp luật của Việt Nam đã từng bước được

hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam.

2.3 Thực trạng đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào của các doanh nghiệp Việt

Nam

2.3.1 Đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào theo giời gian

Trong giai đoạn 1994-2002, trước khi ban hành Nghị định số 22/19/NĐ-CP

ngày 14/4/1999 của Chính phủ quy định về hoạt động OFDI của các doanh nghiệp

Việt Nam, chỉ có vỏn vẹn 3 dự án đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị

trường Lào. Năm 1998 có hai dự án là dự án của Tổng công ty xây dựng Thành An

43

trong lĩnh vực xây dựng và dự án sản xuất kinh doanh thuốc dược liệu của Xí

nghiệp dược phẩm tỉnh Bình Định. Trong 3 năm liên tiếp 1999 - 2001, Việt Nam

không có dự án nào đầu tư trực tiếp vào Lào. Thực tế trong giai đoạn này, các

doanh nghiệp Việt Nam cũng không có bất cứ một dự án đầu tư trực tiếp nào ra

nước ngoài vì nhiều lý do, trong đó cơ bản nhất là thiếu hành lang pháp lý điều

chỉnh hoạt động OFDI. Sang năm 2002, hoạt động đầu tư của Việt Nam vào Lào

được tiếp tục với một dự án đăng ký mới của Công ty hợp tác kinh tế Quân Khu 4,

Bộ Quốc Phòng, với số vốn đăng ký là 1.500.000 USD, đầu tư vào lĩnh vực xây

dựng. Tuy nhiên, hai trong số ba dự án trên đã bị rút giấy phép trong năm 2013, chỉ

còn một dự án có hiệu lực là dự án của Xí nghiệp Dược phẩm Bình Định với số vốn

đăng ký là hơn 0,3 triệu USD. Như vậy, có thể thấy trong giai đoạn 1998 - 2002,

hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam vào Lào vẫn còn mang tính thăm

dò, thí điểm, các dự án đều có quy mô nhỏ, với mức vốn trung bình của nhà đầu tư

Việt Nam đạt 0,65 triệu USD/ dự án. Các dự án đều được thực hiện bởi các doanh

nghiệp nhà nước, chưa có sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân vào việc thực

hiện OFDI vào Lào.

Trong thời kỳ 2003-2009 sau khi ban hành Nghị định số 22/19/NĐ-CP, hoạt

động OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào Lào đã có nhiều chuyển biến tích

cực. Nếu chỉ tính những dự án còn hiệu lực, trong giai đoạn này có 36 dự án OFDI

với tổng vốn đăng ký đạt trên 466 triệu USD, quy mô vốn đầu tư bình quân đạt

12,94 triệu USD/dự án. Đáng chú ý trong giai đoạn này là khu vực kinh tế ngoài

quốc doanh của Việt Nam đã bắt đầu tìm kiếm những cơ hội đầu tư tại Lào, với

tổng cộng 14 dự án và 13,3 triệu USD vốn đăng ký, quy mô vốn trung bình là 0,95

triệu USD/dự án. Trong đó đáng chú ý là công ty TNHH Long Vân với hai dự án là

dự án đầu tư chế biến gỗ vào năm 2004 và dự án xây dựng nhà máy sản xuất giấy

và bột giấy vào năm 2007, tổng vốn đầu tư của cả hai dự án này là 1,1 triệu USD.

Ngoài ra còn có một số doanh nghiệp khác cũng thực hiện đầu tư vào Lào là Công

ty TNHH Trung Đông với dự án chế biến gỗ, doanh nghiệp tư nhân Hưng Thịnh với

dự án sản xuất lưới B40, kinh doanh vật liệu xây dựng… Tuy mới chỉ là bước đầu

với các dự án quy mô nhỏ, nhưng sự tham gia của khu vực kinh tế ngoài quốc

44

doanh đã chứng tỏ cơ hội hợp tác về đầu tư giữa Việt Nam và Lào là rất lớn. Trong

giai đoạn này, các dự án lớn vẫn tập trung chủ yếu vào lĩnh vực trồng cây công

nghiệp, chế biến gỗ, khai thác khoáng sản. Tiêu biểu là các dự án trồng cao su của

Công ty cao su Đắc Lắc và Công ty cổ phần Cao su Việt Lào với số vốn đầu tư lần

lượt là 32,3 triệu USD và 25,5 triệu USD. Giai đoạn 2003 - 2010 cũng là giai đoạn

đánh dấu bước tiến của các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực xây dựng nhà

máy thuỷ điện với dự án Xekaman 3 có tổng vốn đầu tư điều chỉnh lên đến 273 triệu

USD. Đây là dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có quy mô vốn lớn nhất của Việt

Nam tính đến năm 2009. Nhà máy thuỷ điện Xekaman 3 đã chính thức đi vào vận

hành tháng 6 năm 2013, với doanh thu hằng năm khoảng 40 triệu USD, công suất

dự tính khoảng 1 tỷ kWh điện/năm, trong đó, 0% sản lượng điện của nhà máy đã

được Tập đoàn Điện lực Việt Nam ký hợp đồng mua điện.

Trong giai đoạn 2010-2014, hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam

vào thị trường Lào đã có sự bùng nổ cả về quy mô vốn và số lượng dự án. Chỉ trong

5 năm, Việt Nam đã có 124 dự án đầu tư vào Lào, với tổng số vốn đăng ký là 2,51

tỷ USD, quy mô vốn trung bình là 20,31 triệu USD/ dự án. Như vậy tổng vốn đầu tư

trong hơn 5 năm 2010-2014 gấp 5.4 lần tổng vốn đầu tư của 7 năm trước đó. Số

lượng dự án cũng gấp hơn 3.4 lần giai đoạn 2003 - 2009. Hàng loạt dự án lớn đã

được cấp phép trong giai đoạn này như dự án thủy điện Sekaman 1 với lượng vốn

đăng ký là 441,6 triệu USD, dự án đặc khu kinh tế Long Thành - Viên Chăn với

tổng vốn đầu tư đăng ký lên tới 1 tỷ USD. Đây có thể coi là thành công đáng kể của

các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế trong nước nói chung và

sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế,

quy mô hoạt động và tiềm lực về vốn vẫn còn nhỏ bé so với doanh nghiệp nhiều

quốc gia khác.

Trong giai đoạn 2015-2018, hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam

vào thị trường Lào đang có dấu hiệu chững lại. Trong giai đoạn này chỉ có 56 dự án

được đăng ký mới với tổng vốn đầu tư của phía Việt Nam là 81,3 triệu USD, quy

mô vốn trung bình đạt 17,5 triệu USD. Đáng chú ý là số lượng dự án có quy mô vốn

lớn đã sụt giảm nhanh. Năm 2015 chỉ có năm dự án có quy mô vốn trên 20 triệu

45

USD được cấp phép. Đó là hai dự án của tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai, một dự án

thủy điện của Tập đoàn Sông Đà và hai dự án trong lĩnh vực tài chính ngân hàng

của Vietinbank và Sacombank. Sang năm 2012, chỉ còn duy nhất một dự án lớn có

quy mô vốn trên 20 triệu USD là dự án tăng vốn của BIDV góp vào ngân hàng Lào

Việt với tổng vốn đầu tư đăng ký là 70 triệu USD. Năm 2013, tình hình vẫn tiếp tục

trầm lắng khi cả năm chỉ có 15 dự án đầu tư đăng ký mới, trong đó cũng chỉ có một

dự án có quy mô vốn lớn trên 20 triệu USD là dự án của CTCP Việt Ren đầu tư vào

lĩnh vực khai khoáng với mức vốn đăng ký là 84,56 triệu USD. Năm 2018, cũng chỉ

có một dự án trong lĩnh vực dịch vụ có quy mô vốn đăng ký trên 20 triệu USD (dự

án tổ hợp khách sạn Mường Thanh- Viên Chăn). Đáng chú ý trong giai đoạn này là

hàng loạt dự án đầu tư đã bị rút giấy phép hoặc phải ngừng hoạt động trước hạn

(riêng năm 2017 là 38 dự án). Các dự án này chủ yếu tập trung vào lĩnh vực khai

khoáng (20 dự án) và công nghiệp chế biến, chế tạo (8 dự án).

Như vậy, có thể khẳng định sau gần 20 năm thực hiện đầu tư trực tiếp vào thị

trường Lào, bức tranh chung về dòng vốn OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam

vào Lào đã có sự gia tăng cả về số lượng dự án cũng như số vốn đăng ký. Trong đó,

với việc chính phủ đã dần hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài, đặc biệt là việc ban hành Nghị định 78 năm 2006 quy định về đầu tư

trực tiếp ra nước ngoài đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng đột biến của

dòng vốn này trong giai đoạn 2006-2010. Các doanh nghiệp Việt Nam đã bước đầu

thành công trong chiến lược “đầu tư giữ chỗ” tại thị trường Lào với nhiều dự án lớn

đã được ký kết trong lĩnh vực thủy điện, nông nghiệp… Tuy nhiên, từ năm 2015

đến nay, dòng vốn OFDI của Việt Nam vào Lào có dấu hiệu chững lại và đặc biệt là

có nhiều dự án trong lĩnh vực công nghiệp (khai khoáng, chế biến chế tạo) phải

ngừng hoạt động.

2.3.2 Đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào phân theo ngành.

Qua bảng 2.5, ta có thể thấy các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư trực tiếp

vào Lào trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.

Trong đó, lĩnh vực công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về tổng vốn đầu tư đăng

ký và số dự án.

46

47

Bảng 2.4: Đầu tƣ trực tiếp của Việt Nam vào Lào phân theo ngành (Chỉ tính các dự án còn hiệu lực cập nhật đến ngày 31/12/2018)

Đơn vị tính: USD

Vốn đầu tƣ đăng Ngành Lĩnh vực đầu tƣ Số dự án ký của Việt Nam

Khai khoáng 324,670,575 45

Công nghiệp 1,266,964,850 5

Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí

Công nghiệp chế biến, chế tạo 101,054,147 55

Xây dựng 58,013,772 8

113 1,750,707,344

Tổng công nghiệp Nông nghiệp Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy 691,708,424 46

Dịch vụ 26,277,943 17

9,371,204 3 sản Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải

668,000 2 Dịch vụ khác

48,210,28 4 Dịch vụ lƣu trú và ăn uống

1,346,700 2 Giáo dục và đào tạo

2,990,000 4 Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ

300,000 1 Hoạt động hành chính

108, 73,430 192, 00,000 5 10 Hoạt động kinh doanh BĐS Hoạt động TCNH và bảo hiểm

1,004,500,000 2 Nghệ thuật, vui chơi và giải trí

86,464,998 4 Thông tin và truyền thông

1,071,050 3 Vận tải kho bãi

30,000 2 Hoạt động Y tế, trợ giúp xã hội

1,484,003,614 5 Tổng dịch vụ:

3,926,418,382 218 TỔNG

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch đầu tư 2019.

48

- Về lĩnh vực công nghiệp

Tính đến cuối tháng 12 năm 2018, công nghiệp là lĩnh vực các doanh nghiệp

Việt Nam đầu tư vào Lào chiếm tỷ trọng lớn nhất. Lĩnh vực công nghiệp chiếm tới

44.5% vốn đầu tư và 51.8% về số dự án OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam. Các

dự án lớn tập trung chủ yếu vào lĩnh vực xây dựng nhà máy thuỷ điện và công

nghiệp khai khoáng.

Cụ thể, trong lĩnh vực xây dựng nhà máy thuỷ điện, hiện Việt Nam đang triển

khai 5 dự án thuỷ điện tại Lào với tổng số vốn lên tới con số 1267 triệu USD, chiếm

72.4% tổng lượng vốn đăng ký trong lĩnh vực công nghiệp và 32.3% tổng lượng

vốn OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào Lào. Những con số này đã chứng tỏ

lĩnh vực xây dựng nhà máy thuỷ điện có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược

đầu tư vào Lào của các doanh nghiệp Việt Nam. Năm 2009, Việt Nam có dự án

thuỷ điện đầu tiên tại Lào của công ty cổ phần điện Việt Lào. Đó là dự án thuỷ điện

Xekaman 3 với tổng vốn đầu tư là 273 triệu USD. Thuỷ điện Xekaman3 được xây

dựng trên dòng Nậm Pa Nu nhánh chính của sông Xekaman, cách biên giới Việt

Lào khoảng 10km đường chim bay. Thời gian xây dựng nhà máy là hơn 7 năm, đến

tháng 6/2017 đã tiến hành hòa lưới điện tổ máy đầu tiên của thủy điện Xekaman 3.

Công suất dự kiến của nhà máy là 1 tỷ KWh, với 0% sản lượng điện sẽ được bán lại

cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Năm 2011, Công ty cổ phần điện Việt Lào tiếp

tục được cấp giấy phép triển khai dự án thuỷ điện thứ hai tại Lào, đó là thuỷ điện

Xekaman1 với tổng vốn đầu tư 441,6 triệu USD. Thuỷ điện Xekaman 1 có tổng

công suất thiết kế là 322MW, thời gian xây dựng dự kiến là 5 năm. Dự án được

triển khai tại tỉnh Atapư, cách biên giới Việt Lào khoảng 100km. Từ tháng 9/2016,

dự án Xekaman 1 đã phải tạm dừng thi công vì thiếu vốn. Nguyên nhân thiếu vốn là

do các cổ đông lớn của dự án gồm Tập đoàn Công nghiệp Cao su, TCT Điện lực

Dầu khí, Ngân hàng TCMP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, TCT Bảo hiểm PVI đều

không tiếp tục đóng góp phần vốn còn lại do những khó khăn của tình hình kinh tế

trong nước. Hiện chính phủ Việt Nam đang tích cực bố trí nguồn vốn từ những

nguồn khác để tài trợ cho dự án này. Năm 2012, Việt Nam tiếp tục có dự án thuỷ

điện thứ ba tại đất nước Triệu Voi, đó là dự án thuỷ điện Nậm Mô của Tổng công ty

49

hợp tác kinh tế Việt Lào với tổng vốn đầu tư đăng ký là 142,1 triệu USD. Năm

2015, có hai dự án thủy điện của Việt Nam đầu tư tại Lào được đăng ký mới. Đó là

dự án Thủy điện Nậm Công của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai xây dựng tại tỉnh

Atapư với số vốn đầu tư đăng ký gần 135 triệu USD và dự án thủy điện sông Sê

Kông 3 của Tập đoàn Sông Đà với tổng vốn đầu tư đăng ký là hơn 275 triệu USD.

Ngoài năm dự án đã được cấp giấy phép đầu tư, trong tương lai các doanh nghiệp

Việt Nam sẽ tiếp tục triển khai thêm nhiều dự án thuỷ điện tại Lào như thuỷ điện

Xekaman4 đang trong quá trình lập báo cáo khả thi, nghiên cứu địa chất... Ngoài ra,

Việt Nam còn có 22 dự án thuỷ điện đã ký biên bản ghi nhớ (MOU) với tổng công

suất 3742MW, trong đó riêng thuỷ điện Luong Phrabang là 1414MW... Việt Nam

và Lào cũng đã thống nhất sẽ đề xuất Ngân hàng phát triển châu Á hỗ trợ kỹ thuật

và vốn để đầu tư xây dựng hệ thống đường dây tải điện 500KV Lào - Việt nhằm

góp phần nâng cao hiệu quả mua bán điện giữa hai nước. Trong điều kiện các quốc

gia đều đặc biệt quan tâm đến an ninh năng lượng như hiện nay, việc đẩy mạnh các

dự án xây dựng nhà máy thuỷ điện của các doanh nghiệp Việt Nam ở Lào là một tín

37.80%

44.50%

17.20%

Dịch vụ

Nông nghiệp

Công nghiệp

hiệu rất lạc quan.

Hình 2.1: Tổng vốn đầu tƣ theo phân ngành

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch đầu tư, 2019.

Bên cạnh trọng tâm là xây dựng nhà máy thuỷ điện, công nghiệp khai khoáng

cũng có tới 45 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký là 324.67 triệu USD,

chiếm tới 3 .8% về số dự án và 18.55% tổng vốn đăng ký trong lĩnh vực công

nghiệp. Trong lĩnh vực khai khoáng, các dự án của Việt Nam đầu tư sang Lào chủ

50

yếu tập trung vào khai thác vàng, đồng nhôm, chì, kẽm, Bôxit... Trong đó đáng chú

ý là một số dự án lớn như dự án Công ty Khai thác mỏ Long Thành với tổng vốn

đầu tư 100 triệu USD hoạt động trong lĩnh vực thăm dò, khai thác vàng tại tỉnh

Atapư của Lào; dự án Công ty CP khoáng sản Đông Bắc Lào với tổng vốn đầu tư

đăng ký là 30 triệu USD; dự án Công ty liên doanh chế biến đồng và khai thác

khoáng sản Việt Lào trị giá 31 triệu USD tại thủ đô Viên Chăn... Bên cạnh các dự

án lớn do các Tổng công ty, tập đoàn nhà nước làm chủ đầu tư, khu vực kinh tế

ngoài quốc doanh cũng rất quan tâm tới các cơ hội đầu tư trong lĩnh vực khai

khoáng ở Lào với nhiều dự án có quy mô nhỏ và vừa. Có thể khẳng định, việc hợp

tác Việt Lào trong lĩnh vực địa chất khoáng sản đã có truyền thống từ đầu những

năm 1960, với nhiều kết quả đáng chú ý như công trình bản đồ địa chất Lào - Việt

Nam và dự án điều tra khoáng sản, lập bản đồ địa chất vùng Bắc Lào. Việc hợp tác

chặt chẽ giữa hai bên Việt Lào đã góp phần điều tra, thu thập được nhiều tài liệu

quý về địa chất vùng Sầm nưa và vùng Khang Khay - Xiêng Khoảng, địa chất và

khoáng sản vùng Viên chăn, cùng các dự án tìm kiếm than ở các tỉnh Bắc và Trung

Lào, thăm dò mỏ sắt Phu Nhuôn tỉnh Xiêng Khoảng, mỏ muối Kali - magnesi khu

Thà Ngòn, Viên chăn, tìm kiếm khai thác mỏ Bôxit vùng Nam Lào... Tuy là lĩnh

vực hợp tác truyền thống, nhưng hiện nay các dự án của doanh nghiệp Việt Nam tại

Lào phần lớn vẫn chỉ dừng ở mức khai thác nguyên liệu thô, sơ chế và sau đó xuất

khẩu về Việt Nam hoặc sang các quốc gia lân cận, chủ yếu là Trung quốc. Thêm

nữa, nhiều dự án khai khoáng, đặc biệt là các dự án quy mô nhỏ và vừa đã phải

ngừng hoạt động trong thời gian qua.

Ngoài những dự án lớn tập trung vào thuỷ điện và công nghiệp khai khoáng,

các doanh nghiệp Việt Nam cũng có nhiều dự án đầu tư vào công nghiệp nhẹ, công

nghiệp chế biến, chế tạo và công nghiệp xây dựng... Tuy nhiên, lượng vốn đầu tư

vào các lĩnh vực này vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng và cơ

hội hợp tác giữa hai nước.

- Về lĩnh vực nông nghiệp

Nông nghiệp là một trong những lĩnh vực thế mạnh của Việt Nam. Chính vì

vậy, hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào lĩnh vực nông nghiệp

51

Lào đã ngày càng mở rộng về quy mô vốn và số dự án qua các năm. Tính lũy kế

đến cuối tháng 12/2018, tổng vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp đạt 691,708 triệu

USD, với 46 dự án. Quy mô vốn trung bình mỗi dự án đạt khoảng 15.1 triệu

USD/dự án. Lượng vốn đầu tư vào nông nghiệp Lào của các doanh nghiệp Việt

Nam mới chỉ tập trung vào lĩnh vực nông - lâm nghiệp, chưa có dự án nào đầu tư

vào lĩnh vực ngư nghiệp. Đây cũng là thực trạng chung của dòng vốn OFDI của

Việt Nam. Sự tăng trưởng nhanh chóng trong nông- lâm nghiệp là do các doanh

nghiệp Việt Nam đã đẩy mạnh các dự án trồng, chế biến và khai thác cao su, cà phê,

cây công nghiệp, chủ yếu là sang Nam Lào và Trung Lào. Trong đó có hàng loạt

các dự án có quy mô vốn tương đối lớn như dự án Công ty TNHH kinh doanh phát

triển nông nghiệp Atapư của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai với tổng vốn đầu tư trên

77 triệu USD hoạt động trong lĩnh vực trồng và chế biến mủ cao su; dự án đầu tư

trồng mới 10000 ha cao su thiên nhiên trị giá 44,52 triệu USD của Công ty cổ phần

tập đoàn Thái Hoà năm 2008, dự án trồng cây gỗ công nghiệp giấy, cây cao su và

cây công nghiệp khác của Công ty cổ phần quốc tế C&T với tổng vốn đầu tư đăng

ký là 36,75 triệu USD, dự án sản xuất và chế biến cao su với sản lượng bình quân

18,000 tấn cao su/năm của công ty cổ phần cao su Việt Lào với tổng vốn đầu tư là

25,5 triệu USD... Như vậy, có thể thấy các dự án lớn đầu tư vào nông nghiệp đều

tập trung vào trồng cao su. Theo thoả thuận giữa Chính phủ hai nước, Lào sẽ cấp

cho Việt Nam 10 vạn héc ta trồng cao su. Tính đến tháng 12.2016, Việt Nam đã

trồng được khoảng 8 vạn héc ta, trong đó một vạn héc ta đã bắt đầu cho thu hoạch

vào đầu năm 2013. Ngoài trồng cao su, các doanh nghiệp Việt Nam còn hướng đến

các cây trồng khác như cà phê, mía, bắp và phát triển chăn nuôi bò công nghệ cao...

Như dự án của công ty CP Bảo vệ thực vật Sài Gòn trồng bắp tại Lào với diện

tích 1000 ha, vốn đầu tư 1.1 triệu USD; dự án trồng cà phê trên diện tích 254 ha với

vốn đầu tư đăng ký là 70.000 USD... Có thể bước đầu khẳng định, tiềm năng hợp

tác trong lĩnh vực nông nghiệp giữa hai nước Việt Nam và Lào còn rất rộng mở với

nhiều cơ hội đầu tư cần được đẩy mạnh tển khai trong thời gian tới.

- Về lĩnh vực dịch vụ

52

Đây là lĩnh vực có sự tăng trưởng đột biến trong thời gian qua. Mặc dù thị

trường Lào tương đối nhỏ bé, chỉ với khoảng hơn 6.56 triệu dân, quy mô chỉ bằng

một thành phố của Việt Nam. Tuy nhiên, lĩnh vực dịch vụ ở Lào vẫn còn nhiều

“khoảng trống thị trường” là cơ hội để các nhà đầu tư Việt Nam có thể bỏ vốn. Tính

luỹ kế đến cuối năm 2018, Việt Nam đã có 5 dự án đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ ở

Lào, với tổng vốn đầu tư là 1484 triệu USD. Quy mô vốn trung bình đạt 25.15 triệu

USD/ dự án. Như vậy, quy mô vốn trung bình của các dự án trong lĩnh vực dịch vụ

cao hơn quy mô vốn trung bình chung của các dự án OFDI của Việt Nam vào Lào

(ở mức là 18,01 triệu USD/dự án). Mặc dù quy mô vốn trung bình khá cao, nhưng

nguyên nhân chủ yếu là do có “siêu dự án” trị giá 1 tỷ USD của công ty Cổ phần

đầu tư và kinh doanh Golf Long Thành đã được cấp phép triển khai từ năm 2013.

“Siêu dự án” này bao gồm một tổ hợp nhiều hạng mục công trình, trong đó có một

khách sạn 5 sao, một sân Golf tiêu chuẩn quốc tế 36 lỗ, khu nghỉ dưỡng và biệt thự,

trung tâm thương mại, bệnh viện, trường học trên diện tích 554.7 ha. Dự án được

thực hiện tại ngoại ô thủ đô Viên Chăn, dự kiến thời gian đầu tư xây dựng trong 12

năm, chia làm 4 giai đoạn và sẽ chính thức hoàn thành vào năm 2020. Đến tháng

12/2016, dự án đã khánh thành giai đoạn một với tổng mức vốn đầu tư 100 triệu

USD, đồng thời dự án này cũng chính thức được nâng cấp lên thành Dự án Đặc khu

kinh tế Long Thành - Viên Chăn. Đây là dự án đầu tư lớn nhất của Việt Nam ra

nước ngoài từ trước đến nay, và cũng là dự án đầu tư nước ngoài lớn nhất vào Lào.

Dự kiến khi dự án hoàn thành sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của

thủ đô Viên Chăn nói riêng và của nền kinh tế Lào nói chung. Ngoài dự án “bom

tấn” của Công ty Long Thành, các dự án khác trong lĩnh vực dịch vụ nhìn chung

đều có quy mô vốn nhỏ, với mức trung bình chỉ đạt 8,34 triệu USD/ dự án. Trong

đó, đáng chú ý là các dự án đầu tư vào lĩnh vực tài chính ngân hàng. Tính đến cuối

năm 2009, chỉ có 3 dự án đã được cấp phép là dự án thành lập công ty liên doanh

bảo hiểm Lào - Việt với tổng vốn đầu tư là 3 triệu USD của BIDV, dự án công ty

đầu tư Mê Kông với tổng vốn đăng ký là 500 nghìn USD và dự án thành lập chi

nhánh của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí với vốn đầu tư đăng ký là 00

nghìn USD. Trong ba dự án này, có thể thấy quy mô vốn của các dự án cón rất nhỏ,

53

đối tượng phục vụ còn hạn chế. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2014-2016, lĩnh vực tài

chính ngân hàng đã thực sự thu hút sự quan tâm lớn của các nhà đầu tư Việt Nam.

Trong giai đoạn này, có 8 dự án đăng ký mới vốn tổng vốn đầu tư đạt 158.6 triệu

USD, quy mô vốn trung bình lên tới 19.8 triệu USD. Dự án lớn nhất trong lĩnh vực

này là dự án Ngân hàng liên doanh Lào Việt do BIDV và Ngân hàng Ngoại thương

Lào góp vốn với tổng vốn đầu tư lên tới 70 triệu USD (BIDV góp 45,5 triệu USD).

Đáng chú ý là Ngân hàng Sacombank cũng đang đẩy mạnh đầu tư vào thị trường

Lào với 3 dự án được đăng ký mới trong giai đoạn 2014-2016 là dự án Công ty

chứng khoán Lanexang, dự án Công ty TNHH đầu tư SBS Lào và dự án NHTMCP

Sacombank chi nhánh Lào với tổng mức vốn đầu tư lên tới trên 66,5 triệu USD.

Trong năm 2017 và 2018, không có dự án mới nào được đăng ký trong lĩnh vực tài

chính ngân hàng. Nhìn chung, lĩnh vực dịch vụ đã có sự tăng trưởng không đều qua

các năm, các dự án vẫn còn mang tính lẻ tẻ, quy mô vốn trung bình của các dự án

còn nhỏ… Trong bối cảnh Việt Nam và Lào đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào

khu vực Asean, cùng tham gia cộng đồng kinh tế Asean AEC, các khu vực mậu

dịch tự do AFTA, ACFTA, AKFTA… khả năng đẩy mạnh đầu tư trực tiếp vào Lào

của các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ này là rất khả quan

2.3.3 Đầu tư trực tiếp vào Lào phân theo hình thức đầu tư

Bảng 2.5: Đầu tƣ của Việt Nam tại Lào phân theo hình thức đầu tƣ

Loại hình đầu tƣ Số lƣợng doanh nghiệp Tỷ trọng (%)

DN liên doanh 55 25.2%

DN 100% vốn nước ngoài 163 74,8%

Tổng cộng 218 100%

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Tính đến cuối tháng 12/2018, các doanh nghiệp Việt Nam đã có 218 dự án đầu

tư trực tiếp vào thị trường Lào. Trong đó, chiếm tỷ trọng lớn nhất là các dự án

100% vốn Việt Nam với 163 dự án, chiếm tỷ trọng 74.8%. Số dự án đầu tư dưới

hình thức doanh nghiệp liên doanh có 55 dự án, chiếm tỷ trọng 25.2%. Như vậy, các

doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư vào Lào chủ yếu lựa chọn hình thức doanh

54

nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đây cũng là điều dễ hiểu vì Lào là quốc gia chậm

phát triển, rất thiếu vốn để phát triển kinh tế, chính vì thế nên các dự án dưới hình

thức doanh nghiệp liên doanh vẫn còn rất ít. Các hình thức khác như hợp đồng, hợp

tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng thậm chí còn chưa có dự án nào bởi vì Lào

không có lợi thế so sánh về lao động, chưa phù hợp để các doanh nghiệp Việt Nam

“outsourcing” một phần công việc sang Lào dưới hình thức hợp đồng, hợp tác kinh

doanh. Hơn thế nữa, Luật khuyến khích đầu tư của Lào cũng quy định doanh nghiệp

nước ngoài thực hiện đầu tư trực tiếp tại Lào dưới hai hình thức là doanh nghiệp

100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh. Chính vì vậy, những hình thức

đầu tư khác vẫn chưa được các doanh nghiệp Việt Nam triển khai tại thị trường Lào.

2.3.4 Đầu tư trực tiếp vào Lào phân theo địa phương của Việt Nam

Tính đến cuối năm 2018, Việt Nam đã có 32 tỉnh thành có các dự án đầu tư

vào 16/17 tỉnh của Lào Trong đó, nhiều nhất là Hà Nội với 2 dự án, Thành phố Hồ Chí

Minh với 43 dự án, Nghệ An với 17 dự án và Gia Lai với 11 dự án... Ngoài bốn địa

phương này, các tỉnh thành khác thực hiện đầu tư sang Lào mới chỉ dừng lại ở quy

mô từ 1 đến 7 dự án. Chủ yếu tập trung vào các dự án trồng cây công nghiệp, khai

thác khoáng sản quy mô nhỏ và trung bình... Tính đến hết năm 2018, Hà Nội là địa

phương dẫn đầu cả nước về số vốn đầu tư sang Lào với tổng vốn đăng ký lên đến

1,23 tỷ USD. Tiếp theo đó là Đồng Nai, Gia Lai, Thành phố Hồ Chí Minh, Nghệ

An... Có thể thấy ngoài các địa phương lớn kể trên, các dự án còn lại phần lớn được

thực hiện bởi các tỉnh thành có đường biên giới với Lào, với quy mô vốn nhỏ hoặc

trung bình... Để đẩy mạnh dòng vốn vào thị trường Lào, rõ ràng Việt Nam và Lào

cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa, có các cơ chế ưu đãi thích hợp để đẩy mạnh hoạt

động kinh tế, đầu tư vùng biên...

55

Bảng 2.6: Đầu tƣ của Việt Nam sang Lào phân theo địa phƣơng (Chỉ tính các dự án còn hiệu lực, lũy kế đến 31/12/2018)

Đvt: USD

STT Địa phƣơng Số dự án Tổng vốn đầu tƣ

Hà Nội 1 1,230,579,339 2

Đồng Nai 2 1,122,386,724 6

Gia Lai 3 450,735,203 11

TP Hồ Chí Minh 4 3 4,044,277 43

Nghệ An 5 203,578,690 17

Bình Dương 6 86,206,574 5

Đắc Lắc 7 32,923,958 3

Đà Nẵng 8 24,462,087 7

Kon Tum 22,291,331 7

Bình Định 10 20,792,449 3

11 Địa phương khác 338,418,750 24

Tổng số 3,926,419,384 218

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

2.4 Đánh giá hoạt động đầu tƣ trực tiếp vào thị trƣờng Lào của các doanh

nghiệp Việt Nam

2.4.1 Nhứng kết quả đạt được

Có thể nói rằng đầu tư trực tiếp vào Lào đã tăng lên trong những năm qua, đặc

biệt là trong giai đoạn 2010-2014. Việt Nam đã có nhiều dự án lớn và hiệu quả như

dự án mạng di động của Tập đoàn quân sự viễn thông, các dự án trồng, khai thác và

chế biến hàng ngàn ha cao su ở Nam và Trung Lào... Góp phần quan trọng vào sự

phát triển kinh tế của Lào nói chung và khu vực dự án nói riêng. Các nhà đầu tư

Việt Nam đã có mặt tại 16/17 tỉnh của Lào với nhiều lĩnh vực đầu tư từ công

nghiệp, nông lâm nghiệp, dịch vụ du lịch, khách sạn đến ngân hàng và tài chính...

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam tại

56

CNDNND Lào đã đạt được kết quả vượt trội cả về vĩ mô cấp và ở cấp doanh

nghiệp.

2.4.1.1 Những kết quả ở tầm vĩ mô

Thứ nhất, đã có những đóng góp quan trọng để thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc

tế và khu vực của Việt Nam; tạo điều kiện để nâng cao vị thế của nước ta trong khu

vực và thế giới. Việt Nam hiện là nhà đầu tư lớn thứ ba tại Lào, với 218 dự án.

Nhiều dự án đầu tư đã đạt được thành công, khẳng định sự tiến bộ của Việt Nam về

khoa học công nghệ và tiềm năng tài chính... Đặc biệt, chúng ta đã thực hiện nhiều

dự án có tầm quan trọng đặc biệt, với các quy mô vốn lớn. Chúng bao gồm dự án

Đặc khu kinh tế Long Thành - chăn 1 tỷ USD của Tập đoàn Long Thành; Dự án

dịch vụ viễn thông của Viettel tại Lào với mạng di động Unitel. Đến nay, sau hơn 5

năm có mặt tại Lào, Unitel đã trở thành mạng viễn thông lớn nhất tại Lào về khách

hàng, vùng phủ sóng và doanh thu. Số lượng thuê bao của Unitel cũng tăng trưởng

nhanh và đầy ấn tượng, từ 266.000 thuê bao (năm 2009) đến tháng 7 năm 2012 với

1,7 triệu thuê bao và đến tháng 10 năm 2014 đã có 2,3 triệu thuê bao và chiếm 53%

thị phần của Lào. Năm 2013, Unitel là một trong ba doanh nghiệp nộp thuế nhiều

nhất cho ngân sách của Lào, được chính phủ Lào đánh giá cao.... Những dự án này

đã góp phần đưa mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào lên một tầm cao mới cao,

góp phần nâng cao ảnh hưởng của Việt Nam trong khu vực và thế giới.

Thứ hai, đầu tư vào Lào đã giúp thúc đẩy hiệu quả lợi thế so sánh của nước ta,

giúp nền kinh tế trong nước phát triển một cách nhịp nhàng và bền vững. Rõ ràng,

với nhiều dự án đầu tư trực tiếp được thực hiện thành công ở Lào, Việt Nam đã phát

huy thế mạnh của mình trong các lĩnh vực như chăn nuôi, thủy điện, trồng cây công

nghiệp... Quan trọng hơn Nhiều dự án này cũng góp phần cung cấp đầu vào quan

trọng cho phát triển kinh tế trong nước. Trên thực tế, một phần lớn điện và sản

phẩm cao su từ các dự án sẽ được bán lại cho Việt Nam hoặc xuất khẩu sang nước

thứ ba với giá cả hợp lý để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước. Dễ nhận thấy trong bối cảnh hiện tại, nhu cầu năng lượng cho sự phát triển

kinh tế của đất nước là rất cấp bách. Việt Nam sẽ không có trữ lượng thủy điện

đáng kể sau khi hoàn thành thủy điện Lai Châu. Dự tính đến năm 2020, nhu cầu tiêu

57

thụ điện của Việt Nam sẽ là 380 tỷ KWh, gấp 4 lần so với năm 2010. Vì thế, việc chủ

động cung cấp năng lượng sẽ góp phần quan trọng giúp Việt Nam phát triển một cách

bền vững. Hơn nữa, có thể khẳng định rằng một quốc gia muốn có một bước đầu cải

thiện vị thế kinh tế của mình trong khu vực và thế giới, điều không thể thiếu đối với

các doanh nghiệp của quốc gia đó không thể chỉ bó mình trong nền kinh tế trong

nước. Đầu tư và xuất khẩu là hai kênh quan trọng giúp doanh nghiệp phát triển và

bước ra thế giới. Tuy nhiên, việc đầu tư ra nước ngoài luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do

đó, chúng ta cần phải kết hợp nền kinh tế thế giới với cả hai "trụ cột" xuất khẩu và

đầu tư (bao gồm cả đầu tư trực tiếp ra nước ngoài) để phát triển nhanh chóng và bền

vững, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu có nhiều biến động nhanh và sâu

sắc như hiện nay.

Thứ ba, những dự án đầu tư trực tiếp vào Lào đã góp phần làm tăng thu ngân

sách nhà nước. Rõ ràng, khi các công ty Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

nói chung và tại thị trường Lào nói riêng, họ đã góp phần tạo ra một sản phẩm khác

cho nền kinh tế Việt Nam. Theo nhiều cách, doanh thu của các doanh nghiệp đầu tư

vào Lào quay trở lại phục vụ đất nước phát triển kinh tế. Theo quy định của Đạo

luật Đầu tư năm 2005 (và Đạo luật Đầu tư mới 2014, ngày 1 tháng 7 năm 2015), các

công ty đầu tư nước ngoài cũng phải nộp thuế nhà nước cho nhà nước. Sau khi các

dự án được nhận với kết quả tốt, doanh nhân sẽ làm việc một cách đáng tin cậy, lợi

nhuận sẽ tăng lên. Trong khi đó, các doanh nghiệp cũng đang tham gia nhiều hơn

vào ngân sách nhà nước. Khi các dự án được thực hiện với kết quả tốt, các doanh

nghiệp làm việc hiệu quả sẽ tăng lợi nhuận. Bằng cách này, các doanh nghiệp cũng

có thể đóng góp nhiều hơn cho ngân sách nhà nước. Ngoài ra, thu nhập của người

lao động Việt Nam làm việc cho các dự án đầu tư tại Lào cũng sẽ được hoàn trả

thông qua thuế. thu nhập hoặc cách kiếm tiền... Khi các hoạt động đầu tư trực tiếp

được phát triển ở quốc gia Lào và được chú ý, theo thời gian, nó sẽ tạo ra doanh thu

cho ngân sách Nhà nước, trong đó nhà đầu tư có thể phát triển kinh doanh đất nước.

Cho đến nay, hầu hết các dự án lớn của nước ta đã được đầu tư vào Lào đang trong

giai đoạn phát triển hoặc mới bắt đầu hoạt động. Tuy nhiên, một số dự án đã bước

vào giai đoạn thu hoạch trên đất liền, đạt được kết quả đáng kể. Điển hình là dự án

58

mạng viễn thông Unitel Viettel. Dự án đã được hưởng lợi đều đặn kể từ khi thành

lập trong 3 năm và đến năm 2016, đã được trả 43 triệu đô la tiền thuế.

Thứ tư, các hoạt động đầu tư nước ngoài của các công ty Việt Nam tại Lào đã

đóng góp một cách tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội địa phương và giải pháp

lực lượng lao động địa phương khá lớn ở Lào. Đó là dự án trồng cao su của Tập

đoàn Hoàng Anh Gia Lai tại tỉnh Atapu nằm ở Nam Lào. Trước các dự án của

HAGL, Atapu là một trong những tỉnh nghèo nhất ở Lào, với GDP bình quân đầu

người chỉ 300-400 USD / năm. Qua 6 năm có mặt của HAGL tại Atapu, tỉnh này đã

hoàn toàn thay đổi. Dân số còn lại trung bình tăng 30% / năm, đạt 1300 USD / năm

trong năm 2013, hơn 15.000 lao động có việc làm trong các dự án của HAGL trong

khu vực, với mức thu nhập khoảng 300 USD/người/tháng. Nhiều người dân Lào và

chính phủ gọi cho HAGL (Hoàng Anh) để giúp đỡ Lào, điều này chứng tỏ sự thành

công lớn của HAGL không chỉ về tài chính mà còn về an ninh xã hội và phát triển

bền vững. sự ổn định của các lĩnh vực nơi đầu tư được thực hiện. Ngoài các hoạt

động đầu tư, cộng đồng công ty Việt Nam còn tích cực tham gia nhiều hoạt động an

sinh xã hội, góp phần ổn định và cải thiện cuộc sống của người dân Lào, được Lào

công nhận, cảm ơn bạn. Đặc biệt, trong 2 năm từ 2011 đến 2012, số tiền mà các nhà

đầu tư Việt Nam nhận được nhờ trợ cấp xã hội ở Lào là gần 40 triệu USD; nhìn

chung: Công ty hóa chất Việt Nam (5,6 triệu USD), VIP (6,1 triệu USD); Công ty

Golf Long Thành (hơn 5 triệu USD); HAGL (11 triệu USD); Tập đoàn Hòa Phát

(5,6 triệu USD). Cuối năm 2018, số tiền tài trợ cho công tác an sinh xã hội cho các

công ty Việt Nam tại Lào khoảng 45 triệu đô la, đặc biệt là trong lĩnh vực truyền

hình, y tế, xây dựng trường học, giáo dục, bệnh viện, máy tính cho trường học và

giúp đỡ người dân trong thiên tai, lũ lụt.

2.4.1.2 Những kết quả ở tầm vi mô

Ở mức độ doanh nghiệp, đầu tư vào Lào mang lại lợi ích cho nhiều doanh

nghiệp và cả người lao động. Hơn 20 năm sau khi giới thiệu xuất khẩu vốn đầu tư

trực tiếp tại thị trường Lào, kết quả đạt được của các công ty Việt Nam rất ấn tượng.

59

Thứ nhất, Sự gia tăng đầu tư vào Lào đã khiến nhiều doanh nghiệp sử dụng

vốn một cách mạnh mẽ hơn và kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Các doanh nghiệp

luôn đầu tư mạnh vào đầu tư thị trường Lào có thể nói là rất hấp dẫn với chi phí sản

xuất ấn tượng, nguồn lực đáng kể và kỳ vọng về tương lai lớn... Lào được biết đến

như một công chúa ngủ say với những khoản đầu tư. Nhiều khoản đầu tư lớn đã

được thực hiện cho các công ty Việt Nam, nhất là trong các ngành như phát triển

công nghệ nông nghiệp, sử dụng khoáng sản và thủy điện. Nông nghiệp là ngành

phát triển để Lào thu hút đầu tư và thu hút nhiều nhà đầu tư lớn của nước ta như

Hoàng Anh Gia Lai với các dự án về cao su, đường, khí đốt tự nhiên... trong hiệp

hội về chế biến và phát triển sản phẩm. Về thủy điện, theo thống kê của Lào, có 78

điểm cho việc xây dựng một nhà máy thủy điện. Nước ta hiện đã thực hiện 5 dự án

thủy điện tại Lào và đã ký 22 biên bản ghi nhớ về xây dựng thủy điện với tổng công

suất 3742MW, trong đó Lương Phrabang chỉ có 1414MW, tương đương 8,5% tổng

công suất của văn phòng Mê Kông. Về nghiên cứu khoáng sản, Lào chỉ nghiên cứu

60% tổng diện tích đất tự nhiên và có 500 mỏ tiềm năng chứa 232 điểm quặng bao

gồm than, lồng, thiếc, vàng, bạc, đồng, chì, kẽm và muối, mỏ, thạch cao, đá quý...

Từ đó, ta thấy rằng cơ hội đầu tư vào Lào vẫn còn rất lớn trong nhiều lĩnh vực. Tuy

nhiên, các lĩnh vực nông nghiệp và công nghệ tiên tiến là các ngành mang lại nhiều

giá trị trên thị trường, có thể hứa hẹn các khoản đầu tư mới. HAGL có thể là một ví

dụ bình thường cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển mạnh ở thị trường Lào.

Tập đoàn đầu tư vào Lào trong ba lĩnh vực chính: nông nghiệp (than, dầu cọ,

đường, than, chăn nuôi bò), thủy điện và khai thác mỏ.

Thứ hai, việc mở rộng đầu tư vào CHDCND Lào cũng có nghĩa là mở rộng thị

trường, giúp các doanh nghiệp đến gần hơn với khách hàng. Lào là một đất nước

gần gũi với những mối quan hệ đặc biệt và rất nhiều sự hòa hợp về văn hóa với Việt

Nam. Chính phủ Lào khuyến khích các công ty Việt Nam đầu tư mạnh vào Lào

trong nhiều lĩnh vực. Do đó, việc triển khai các hoạt động đầu tư nước ngoài tại Lào

tốt hơn là đầu tư vào các quốc gia khác, tạo ra một loại cà phê thứ hai cho các doanh

nghiệp. Bằng cách này, cả hai sản phẩm có thể được mở rộng, cũng như mở rộng thị

trường và có thể làm giảm rủi ro từ việc mở rộng thị trường đầu tư. Ngoài ra, đầu tư

60

trực tiếp vào Lào không những giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận quốc gia

Lào mà còn giúp các doanh nghiệp Việt Nam tìm thấy chính mình ở các thị trường

khác của Asean, Trung Quốc, Ấn Độ... Đặc biệt, vì Lào là đất nước phát triển nhất,

các công ty Việt Nam đầu tư vào Lào sẽ có thêm can đảm để đầu tư vào các quốc

gia khác thuộc trách nhiệm của AFTA, ACFTA...

Thứ ba, tăng đầu tư trực tiếp vào Lào cũng giúp các nhà đầu tư cải thiện khả

năng cạnh tranh của họ. Rõ ràng, khi tấn công sang thị trường Lào sẽ khiến các

công ty Việt Nam đa dạng hơn về hoạt động quản lý, về lao động, về dòng vốn và

giải pháp văn hóa ... Đây sẽ là những điều đáng quý cho các doanh nghiệp đầu tư

rộng rãi vào Lào và qua đó có thể làm tốt hơn khi đầu tư vào các thị trường khác

như Campuchia, Châu Phi... Ngoài ra, dàn nhân viên kinh doanh cũng có cơ hội

nâng cao năng lực chuyên môn và kỹ năng của họ trong môi trường quốc tế, nâng

cao kỹ năng ngoại ngữ... Việc sử dụng đầu tư trực tiếp vào Lào cũng giúp cho các

nhà đầu tư xác định điểm yếu trong nội bộ, tổ chức, mô hình quản lý của một doanh

nghiệp mà nếu chỉ đầu tư trong nước được thực hiện, sẽ khó khăn đối với các công

ty. Bằng cách này, với đầu tư trực tiếp vào Lào, các nhà đầu tư có thể thiết lập lại hệ

thống quản lý, cải thiện mô hình tổ chức, cải thiện văn hóa kinh doanh, nâng cao kỹ

năng chuyên nghiệp của nhân viên... Tất nhiên, nếu hoạt động đầu tư tại Lào được

thực hiện thành công, nhà đầu tư sẽ nhận được một khoản lãi thường lớn hơn đầu tư

vào thị trường nội địa. Qua đó, năng lực tài chính của công ty sẽ được cải thiện, thu

nhập của các lao động sẽ tăng lên. Việc triển khai đầu tư nước ngoài nói chung và

đầu tư trực tiếp vào Lào nói riêng cũng có nghĩa là thị trường đang được mở rộng ra

và tạo thêm việc làm cho người lao động, mở rộng không gian sản xuất và kinh

doanh. Tất cả những điều này được cải thiện trong cạnh tranh kinh doanh.

2.4.2 Những hạn chế

Mặc dù đã đạt được một số thành công nhất định nhưng hoạt động OFDI của

các nhà đầu tư Việt Nam vào Lào vẫn còn ở giai đoạn mới bắt đầu và cũng còn tồn

tại những hạn chế cụ thể như sau:

61

Thứ nhất, OFDI của các nhà đầu tư Việt Nam vào quốc gia Lào hiện nay chủ

yếu được thực hiện dưới hình thức FDI theo chiều dọc. Trong giai đoạn 2010-2014,

khoảng 60% các dự án đầu tư (với lượng vốn đăng ký khoảng 70%) vào quốc gia

Lào là các dự án FDI theo chiều dọc. Các dự án này tập trung chủ yếu vào hai lĩnh

vực chính là khai khoáng, trồng cây công nghiệp… Với mục tiêu chính là sản xuất

sản phẩm thô và cung ứng nguyên - nhiên vật liệu cho thị trường nước ta hoặc tiến

hành xuất khẩu sang nước thứ ba. Trong giai đoạn 2015-2018, số lượng dự án OFDI

theo chiều dọc có xu hướng giảm nhẹ, chiếm khoảng 55% số dự án OFDI và 65%

lượng vốn đăng ký… Trong điều kiện hiện nay, chính phủ Lào đang nỗ lực thu hút

những dự án FDI theo chiều ngang, nhằm mục đích nâng cao giá trị gia tăng cho sản

phẩm sản xuất tại Lào. Chính vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm hơn

tới hình thức FDI theo chiều ngang để phù hợp với định hướng của chính phủ Lào

trong thời gian tới.

Thứ hai, số lượng dự án còn khá ít. Sau hơn 20 năm, nước ta đã có 230 dự án

đầu tư trực tiếp vào Lào. Theo đó, trung bình chỉ có 10 dự án mới được đăng ký

mỗi năm. Con số này chỉ là một phần nhỏ trong số hơn 650.000 công ty thuộc tất cả

các lĩnh vực của nền kinh tế tại nước ta. So với hai đối thủ chính của Việt Nam tại

Lào, Thái Lan và Trung Quốc, số lượng dự án của Việt Nam chỉ chiếm 30%. Từ

ngày 1 tháng 1 năm 2004 đến ngày 31 tháng 1 năm 2015, các công ty Trung Quốc và

Thái Lan đã thực hiện 737 và 521 dự án đầu tư vào Lào, theo Bộ Kế hoạch và Đầu

tư Lào. Điều này cho thấy các công ty Việt Nam vẫn không chỉ can đảm và tiến bộ

trong việc thống nhất, mà đặc biệt là trong việc tìm kiếm cơ hội đầu tư tại thị trường

Lào. Năm 1998, hai dự án đã được đăng ký để thực hiện kế hoạch. Từ năm 1 đến

2001 không có dự án nào được cấp phép. Từ năm 2003 và 2009, các dự án đầu tư

mới đã được đưa ra, nhưng con số đáng kinh ngạc vẫn rất mềm mại và linh hoạt

trong những năm qua. Trong giai đoạn từ 2010 đến 2014, số lượng dự án tăng lên

đáng kể, nhưng đây chỉ là một khoản đầu tư dự trữ đầu tư trực tiếp, vốn thực sự của

ngân hàng chỉ là 20%. Trong giai đoạn 2015-2018, đây là giai đoạn dỡ bỏ điều

chỉnh hoạt động rửa vốn của OFDI tại Lào, số lượng dự án và đầu tư trung bình

trong nước của các khoản đầu tư đã đăng ký giảm so với giai đoạn 2010 - 2014.

62

Thứ ba, lĩnh vực đầu tư một lần nữa vẫn không đa dạng và có nhiều lực lượng

không mang lại lợi ích gì. Với một vài dự án, tất nhiên, khu vực đầu tư không thể

được xác định. Mặc dù các công ty Việt Nam đầu tư vào Lào trong cả ba ngành

chính là công nghiệp, nông nghiệp và việc làm tuy nhiên chi phí trong mỗi lĩnh vực

vẫn còn thấp. Các lĩnh vực công nghiệp mới thường tập trung vào các dự án tìm

kiếm, công việc, nhà máy thủy điện. Lĩnh vực nông nghiệp thường tập trung vào

trồng cỏ, không có dự án thủy sản. Chỉ có Hoàng Anh thực hiện thành công việc thử

nghiệm thịt, dầu cọ và bổ sung trứng. Với lĩnh vực việc làm, với các dự án rộng lớn,

với kinh doanh khách sạn, nhà hàng, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, ngân hàng và tài

chính ... thì khác, nhưng đây chưa phải là cách khác với tiềm năng hợp tác giữa hai

quốc gia. Nhiều lĩnh vực khác có thể được coi là sản phẩm công nghệ thực phẩm

tiên tiến, phát triển du lịch theo chuỗi... vẫn chưa được các nhà đầu tư ở Lào quan

tâm.

Thứ tư, Tỷ lệ thực hiện thấp, tác động của nhiều dự án vẫn còn thấp. Theo Cơ

quan Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tỷ lệ vốn đầu tư trong khả năng

đầu tư đăng ký của các dự án đầu tư FDI tại nước ta là 49,37% (giai đoạn 2004-

2018). Đồng thời, tỷ lệ các dự án OFDI của các công ty nước ta tại quốc gia Lào chỉ

là 38,2%. Vào cuối năm 2018, vốn ngân hàng của ta tại thị trường Lào chỉ khoảng

1.500 triệu đô la với số vốn đăng ký là 3,93 tỷ đô la. Mặt khác, do tỷ lệ thực hiện

vốn thấp nên kết quả kinh doanh của các công ty Việt Nam tại Lào cũng ít hơn. Các

dự án quy mô lớn của các công ty Việt Nam đầu tư vào Lào vẫn đang trong giai

đoạn đầu tư, hoặc mới bước vào giai đoạn vận hành và sử dụng nền kinh tế, nên

việc ra đi vẫn còn rất nhiều. Theo báo cáo của AVIL 2018, nhiều dự án tương tự

như dự án ở nước ta dường như đang trong tình trạng hư hỏng, có thể là nguyên

nhân của môi trường. Trong số 45 dự án hợp lệ, chỉ có 7 dự án đang hoạt động, 11

dự án đang trong giai đoạn tìm kiếm, 1 dự án đang trong giai đoạn tìm kiếm và 8 dự

án đang trong quá trình thăm dò không gian (TOUR, 2015). Chỉ có một nhà máy

trong lĩnh vực thủy lực, Xekaman 3, đã được đưa vào vận hành, và các dự án khác

đang trong quá trình thăm dò không gian hoặc đàm phán hợp đồng. Đặc biệt, nhà

máy thủy điện Xekaman 1 bị thiếu vốn và buộc phải tạm dừng thi công từ tháng

63

9/2016. Hơn nữa, nhiều dự án nhỏ đã cho thấy một tình huống xấu, bị phân mảnh,

thậm chí không nhìn thấy được xin phép các dự án, sau đó chậm để thiết lập, hoặc

không hoạt động, nhưng chuyển sang các đối tác khác. Những dự án này đã tạo ra

một hình ảnh xấu của các nhà đầu tư Việt Nam, nhiều cơ quan quản lý đầu tư của

nước bạn chỉ ra.

2.4.3 Nguyên nhân của những hạn chế

2.4.3.1 Từ phía nước bạn Lào

Thứ nhất, Nguồn lao động ở Lào vẫn còn rất hạn chế, cả về lao động lành

nghề và về lao động chưa qua đào tạo. Đây là một trong những thách thức lớn nhất

đối với các nhà đầu tư Việt Nam khi đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào. Hiệu quả

nguồn lao động là một yếu tố quan trọng có thể được áp dụng cho các dự án, tuy

nhiên, lực lượng lao động địa phương của Lào không đáp ứng được nhu cầu của các

công ty Việt Nam về số lượng và chất lượng. Điều này thực sự mở đường cho nhu

cầu việc từ Việt Nam, hoặc ngăn chặn việc làm quá mức cho lao động địa phương,

tất cả đều làm chậm phát triển và làm tăng chi phí thực hiện dự án. Mặt khác, việc

đưa người lao động Việt Nam qua Lào làm không hề đơn giản. Chính phủ Lào đã

tuyên bố rằng việc đưa lao động từ nước ngoài về Lào không yêu cầu quá 10% lao

động thất nghiệp và 20% lao động kỹ thuật. Quy định này làm khó khăn hơn cho

các công ty nước ngoài, bao gồm cả nước ta, do việc vận chuyển lao động từ Việt

Nam qua bị hạn chế, trong khi lao động địa phương không đáp ứng được yêu cầu.

Thứ hai, các chính sách kinh tế nói chung và các dòng đầu tư nói riêng ở Lào

vẫn còn phức tạp, khiến các công ty Việt Nam gặp khó khăn trong việc xin giấy

phép đầu tư. Hệ thống tư pháp của Lào thường có những thay đổi và đang trong quá

trình hoàn thiện gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Theo đánh giá của WEF năm

2015 tại thị trường Lào, ba trong số mười vấn đề hàng đầu khi kinh doanh tại Lào là

thuế suất, thuế suất và các chính sách bền vững. Cho đến nay, các nhà đầu tư vào

Lào buộc phải trả 34 loại thuế và phí khác nhau và thường phải mất 672 giờ để

thành lập doanh nghiệp. Luật Phát triển Đầu tư Lào năm 2010 đã cung cấp ưu tiên

cho các nhà đầu tư nước ngoài như lĩnh vực sản xuất các sản phẩm bán lẻ, lâm

64

nghiệp, phát triển du lịch, công nghiệp sản xuất, v.v. Trong danh mục đầu tư

khuyến khích, cổ phiếu sẽ được khấu trừ vào thuế lãi trong một khoảng thời gian

xác định (1-2 năm kể từ ngày doanh nghiệp bắt đầu hoạt động) tiền lãi cho khoản

đầu tư vào thuế hàng năm được loại trừ khỏi thuế thu nhập; để sản xuất quyền và sử

dụng nguyên liệu thô và bán thành phẩm để sản xuất hàng hóa chịu thuế để sử

dụng thiết bị, máy móc thiết bị... Mặc dù Chính phủ Lào đã có chính sách của

Salafi - thuế thu nhập đối với các dự án khuyến khích đầu tư, nhưng luật pháp ràng

buộc theo quy định ở nông thôn, nhiều người dân địa phương vẫn phải thu thuế thu

nhập cao. Nhiều quy định liên quan đến quản lý đất đai vẫn cho thấy tính không

thực tế trong thực tiễn.

Thứ ba, cơ sở hạ tầng của CHDCND Lào vẫn còn rất hạn chế, khiến các doanh

nghiệp Việt Nam khó đầu tư vốn. Theo đánh giá của WEF về môi trường kinh

doanh của Lào năm 2015, việc thiếu cơ sở hạ tầng là một trong ba thách thức lớn

nhất khi đầu tư vào thị trường Lào (bất chấp nguồn nhân lực; khả năng tiếp cận

vốn). Hơn nữa, hệ thống công tác kỹ thuật hỗ trợ dự án chưa được phát triển, hệ

thống các công ty tư vấn tư pháp, hệ thống cung cấp điện, vận chuyển, bốc xếp...

của Lào vẫn còn rất hạn chế. Cho đến nay, dòng vốn từ nước ta vào thị trường Lào

vẫn chủ yếu tập trung ở miền Nam Lào và Trung Lào. Cơ hội đầu tư vào thị trường

phía bắc Lào đang mở ra cho các nhà đầu tư Việt Nam. Tất nhiên, Bắc Lào cũng là

một khu vực có tiềm năng lớn và tài nguyên vô dụng, nhưng các nhà đầu tư Việt

Nam vẫn không quan tâm đến lĩnh vực này vì điều kiện cơ sở hạ tầng ở Bắc Lào

vẫn còn rất hạn chế, giao thông không đáng tin cậy, điện và điện trên đường...

không biết chữ, không thể đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư.

2.4.3.2. Từ phía nhà nước Việt Nam

Thứ nhất, Những quy định của Pháp luật Việt Nam về hoạt động đầu tư trực

tiếp ra nước ngoài vẫn còn tồn tại những hạn chế. Một trong những vấn đề lớn nhất

đối với các công ty Việt Nam khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vẫn là quy trình

hành chính. Quá trình phê duyệt và cấp phép của các dự án đầu tư nước ngoài vẫn

còn chậm và chưa rõ ràng. Một số dự án phải tuân theo giấy phép đầu tư nhưng

trong quá trình cấp phép, chúng phải được đệ trình bởi bộ và các ngành tư vấn. Mặc

65

dù Nghị định 78 tuyên bố rằng thời gian cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài không

quá 30 ngày, nhưng thực tiễn, vẫn có những dự án không chờ giấy phép cho đến

cuối năm và điều này có thể làm cho doanh nghiệp mất cơ hội đầu tư. Quyết định

78 quy định rằng các dự án có tổng vốn đầu tư nước ngoài trên 15 tỷ đồng, phải

được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá và để thông qua đánh giá này, phải quy định

thời gian không dưới 6 tháng. Những khó khăn ở nước ta và những khó khăn trong

việc xin giấy phép tại quốc gia Lào, kéo dài quá trình thực hiện. Cho đến nay, Nghị

định số 78 vẫn chưa được phê duyệt theo Điều 2014 của Luật Đầu tư.

Thứ hai, không có hỗ trợ của nhà nước cho các nhà đầu tư Việt Nam. Nhìn

chung, hệ thống tư pháp nước ta vẫn nằm trong tầm kiểm soát, hành chính dễ dàng

hơn nhiều, kiểm soát trước còn hơn kiểm soát sau. Mặt khác, mối quan hệ của các

cơ quan ngoại giao và các công ty Việt Nam ở nước ngoài với doanh nghiệp vẫn

còn rất nhiều mất mát. Những người ở quốc gia sở tại không nhận được sự hỗ trợ

cần thiết từ các cơ quan chức năng Việt Nam có liên quan. Người ta có thể lập luận

rằng sự hỗ trợ của nhà nước cho các hoạt động của đầu tư nước ngoài là một thiếu

sót từ các hướng dẫn chính sách đến các bước cụ thể. Tại thị trường Lào, mặc dù

Chính phủ của cả hai quốc gia đã ghi nhận ưu đãi đầu tư cho các nhà đầu tư Việt

Nam khi đầu tư vào Lào, với nhiều ưu đãi về thuế, mua đất... cho các doanh nghiệp

làm việc trong thủy điện, sản xuất nông nghiệp các sản phẩm công nghiệp, khai

thác, động cơ cho các hoạt động kinh tế - đầu tư vào khu vực kinh tế biên giới giữa

hai nước. Nhưng trên thực tế, việc truy cập vào các tài nguyên này là rất khó khăn,

đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm trong khu vực kinh tế phi

chính phủ.

Thứ ba, sự phối hợp giữa các quan chức Chính phủ bị hạn chế trong việc quản

lý các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đó là mối quan hệ đối tác không cân bằng

giữa các tổ chức liên quan mà các nhà đầu tư nước ngoài đã phải đối mặt và tiếp tục

gặp nhiều khó khăn từ thời điểm xin giấy phép. Một số nhà đầu tư nghĩ rằng bên

ngoài đầu tư buộc phải trải qua 11 loại giao dịch khác nhau để có được giấy phép

đầu tư ra nước ngoài. Quá trình phức tạp, trong đó có nhiều bộ và các bộ này tham

gia, trong khi chờ đợi ý kiến của nhau, trong khi mở rộng đơn xin cấp phép, đã

66

khiến nhiều doanh nghiệp mất cơ hội đầu tư và nhiều nhà đầu tư mới. Sau khi dự án

hoàn thành, công ty cần báo cáo về việc thực hiện các dự án nộp cho cơ quan chủ

quản một cách kịp thời, cũng như trách nhiệm tài chính của mình với Nhà nước.

Nếu không có sự phối hợp hợp lý giữa các bộ phận liên quan, sẽ có rất nhiều khó

khăn trong việc thực hiện các nhiệm vụ này.

Thứ tư, đại diện các tổ chức chuyên nghiệp không trực tiếp hỗ trợ đầu tư trực

tiếp nước ngoài nói chung và đầu tư vào thị trường Lào nói riêng. Cho đến nay, việc

quản lý các cơ sở FDI tại Việt Nam, cũng như các lần xuất cảnh OFDI tiếp theo của

các công ty Việt Nam, đã được thực hiện bởi Cơ quan Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch

và Đầu tư, không sở hữu một cơ quan chuyên môn. Cục Đầu tư nước ngoài chủ yếu

thống kê, quản lý, tổ chức hội nghị, hội thảo để thúc đẩy đầu tư cho đến nay vẫn

chưa đặt vai trò hàng đầu, hàng đầu và hàng đầu đối với các nhà đầu tư Việt Nam

đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do không có tổ chức chuyên nghiệp, chúng tôi không

có kế hoạch tổng thể để thiết lập chiến lược đầu tư bên ngoài cho các công ty

Việt Nam và các khoản đầu tư này thường dựa trên mối quan hệ giữa các chính

phủ hoặc các khu vực.

2.4.3.3. Từ phía các doanh nghiệp Việt Nam

Thứ nhất, tiềm năng tài chính của người tiêu dùng. Đến cuối năm 2013, Việt

Nam có khoảng 650.000 công ty thuộc mọi thành phần kinh tế, hầu hết là vừa và nhỏ.

Với nguồn vốn hạn chế, với quy mô nhỏ, các công ty này gặp khó khăn khi đầu tư

trực tiếp ra nước ngoài, đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh hiện tại. Mặc dù các

quy định về hoạt động của OFDI rất nghiêm ngặt, các doanh nghiệp vừa và nhỏ

muốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận các

khoản vay từ ngân hàng. Để họ có thể thực hiện các hoạt động OFDI, rõ ràng nhu

cầu tín dụng phải rất cao. Tuy nhiên, thị trường tài chính nước ta chưa thực sự phát

triển, nên sự kiên nhẫn của nguồn vốn vẫn còn hạn chế từ việc phân phối cổ phiếu

và hợp đồng kinh doanh. Tuy nhiên, các hành động của OFDI thường không có khả

năng sử dụng người ngoài hành tinh nước ngoài, các nhà đầu tư rõ ràng phải đối

mặt với rủi ro tỷ giá, điều này càng khiến các nhà đầu tư sợ hãi khi đầu tư ra bên

ngoài. Do đó, các hoạt động của OFDI tại quốc gia Lào vẫn chủ yếu được thúc đẩy

67

bởi một số công ty và tập đoàn lớn, không thu hút được sự chú ý của cộng đồng

doanh nghiệp Việt Nam.

Thứ hai, trình độ khoa học và công nghệ vẫn còn chậm. Trong tình hình phát

hiển hội nhập, vấn đề đổi mới công nghệ chưa được các công ty Việt Nam quan tâm

đúng mức. Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF, 2014), việc đổi mới

công nghệ chậm vẫn là một trong những phát triển lớn nhất trong nền kinh tế Việt

Nam. Đặc biệt, mặc dù cuộc thi quốc gia Việt Nam đã tăng gấp đôi năm 2013,

nhưng lại xếp hạng 68/144 trong các nền kinh tế khảo sát. Tuy nhiên, nghiên cứu về

công nghệ giảm từ 4 lĩnh vực, thay thế cho nền kinh tế được nghiên cứu là 102/144.

Người ta có thể xác nhận rằng cập nhật và nâng cao trình độ khoa học và công nghệ

là một trong những nhiệm vụ cơ bản giúp tăng cường cạnh tranh quốc gia và cũng

dựa trên việc thực hiện thành công các dự án OFDI tại Việt Nam.

Thứ ba, thiếu kỹ năng quản lý, kinh nghiệm thị trường, không thực sự chủ

động tìm kiếm cơ hội đầu tư tốt. Người ta có thể chắc chắn rằng mỗi thị trường đầu

tư đều có những đặc điểm riêng, do đó, kinh nghiệm đầu tư rất quan trọng để người

ta có thể thực hiện thành công dự án. Hầu hết các nhà đầu tư không có sáng kiến để

hiểu và hiểu các quy tắc của pháp luật, hải quan, thực tiễn và cách lao động ở nước

sở tại làm việc. Ở Lào, thị trường này có vẻ tốt cho các nhà đầu tư Việt Nam, nhưng

nhiều doanh nghiệp vẫn bị sốc vì thiếu phong cách chuyên nghiệp của công nhân

địa phương. Ở nhiều công ty tại Lào, công nhân đi làm cứ sau ba giờ vào buổi trưa.

Ngoài ra, ở nhiều nơi có nhu cầu trả lương từng ngày, mỗi chiều, những người lao

động đi kiếm tiền, vô tình, rất khó để các doanh nghiệp ở lại lâu. Quan hệ cộng

đồng cũng là điều mà các công ty thiên đường thực sự khám phá. Với việc Chính

phủ Lào tạo điều kiện thuận lợi, nhiều dự án xin giấy phép đầu tư không khó, không

khó trả đất, nhưng khi trở về khu vực, làng yêu nước gật đầu vì người dân trong

làng sẽ hạ cánh. Chấp nhận cho các nhà đầu tư. Nếu một người yêu nước ở nông

thôn không thích nó, các nhà đầu tư sẽ trả tiền cho nó. Rõ ràng, sự thiếu hiểu biết về

các tính năng cụ thể của lĩnh vực đầu tư sẽ tạo ra nhiều thiếu sót cho các nhà đầu tư

Việt Nam trong quá trình quản lý OFDI. Trong tình hình hiện nay, trong khi sự hỗ

trợ của nhà nước cho công việc OFDI, vẫn còn rất thấp, nhiều công ty đã không

68

thực tế, đã quan tâm đến việc xuất khẩu vốn, đã quên đi nhiều cơ hội đầu tư tốt.

Trong khi các công ty từ các quốc gia khác trong khu vực như Thái Lan và Trung

Quốc luôn tích cực đầu tư vào vốn nghiên cứu và chấp nhận chi phí để tìm kiếm thị

trường đầu tư tốt, thì hầu hết các công ty Việt Nam vẫn không chủ động đầu tư vì

Dự án. Nếu các công ty Việt Nam không tích cực tham gia vào thông tin và nghiên

cứu thị trường thì đây sẽ là cơ hội đầu tư tốt cho các doanh nghiệp ở các nước khác.

Thứ tư, Hiệp hội cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường Lào không

như mong đợi. Mặc dù Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam tại Lào (AVIL) đã chính

thức được thành lập từ năm 2011, nhưng vai trò và hoạt động của hiệp hội này lại

không đáp ứng được những nhu cầu của các nhà đầu tư. Trên trang web Association

Association, thông tin hiện chỉ được cập nhật cho đến tháng 4 năm 2012. Việc

thành lập AVIL đương nhiên là rất quan trọng, nhưng việc tăng cường hoạt động

của AVIL vẫn quan trọng hơn cả. Hiệp hội thực sự cần phải trở thành cầu nối giữa

các doanh nghiệp Việt Nam và các tổ chức liên quan của cả Việt Nam và Lào. Việc

này là để giúp cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, tránh xa sự cạnh tranh không

lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành, để rút ngắn, đánh giá và theo

dõi hành động của giám đốc điều hành OFDI Việt Nam tại Lào.

Nhìn chung, hoạt động OFDI của các công ty Việt Nam tại thị trường Lào đã

phát triển mạnh mẽ trong quá khứ, đạt được tốc độ lớn cả về vốn đăng ký và số

lượng dự án đầu tư mới. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thiếu sót cần được giải quyết, cả

từ góc độ quản lý vĩ mô của chính phủ và cho việc triển khai thực tế các dự án của

các công ty. Thực tiễn gần đây đã chỉ ra rằng các công ty Việt Nam hoàn toàn có

thể đầu tư vào thị trường Lào. Để tăng dòng vốn OFDI, tại Lào, góp phần tăng

trưởng kinh tế trong nước và củng cố hình ảnh và hình ảnh Việt Nam trên phạm vi

quốc tế, Chính phủ cần có giải pháp toàn diện cho các doanh nghiệp, cũng như phối

hợp giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Chương 2 nói về việc đổi mới tình hình kinh tế xã hội của Lào. Có thể thấy

rằng bức tranh tổng thể của nền kinh tế tại quốc gia Lào đang phát triển nhanh

69

chóng nhưng vẫn bị tụt lại phía sau, mức độ tăng trưởng kinh tế không cao lắm. Các

đối tác chính cho thương mại và đầu tư là Việt Nam, Thái Lan và Ấn Độ. Chương 2

cũng cập nhật các chính sách của nước ta và Lào liên quan đến các hoạt động của

OFDI, một bức tranh chung về tài sản OFDI của Việt Nam tại Lào theo thời gian,

theo ngành, bằng hình thức đầu tư và nội địa hóa. Đặc biệt, theo tác giả, lý do chính

là nhiều công ty Việt Nam không thực sự nghiêm túc, không có chiến lược rõ ràng

và nghiên cứu thị trường đúng đắn, nhưng vẫn đầu tư và bỏ qua rủi ro. Đây là

những vấn đề cần được giải quyết nhanh chóng để duy trì bền vững và tăng sự phát

triển tài sản của OFDI tại Việt Nam tại Lào trong tương lai gần.

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƢỜNG DÒNG VỐN OFDI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀO THỊ TRƢỜNG LÀO

3.1 Dự báo xu hƣớng đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở Lào nói chung và từ các

doanh nghiệp Việt Nam nói riêng

3.1.1 Dự báo về tình hình đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào nói chung

Theo báo cáo mới nhất của mình, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Lào đã thực hiện

một danh sách các ưu đãi đầu tư phi thuế quan nhằm thu hút các nhà đầu tư nước

ngoài. Những ưu đãi đáng chú ý bao gồm việc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài

đưa công dân của nước họ vào Lào để thực hiện các nghiên cứu đánh giá tính khả

thi của dự án mà họ muốn đầu tư; cho phép các công ty nước ngoài được đưa nhân

viên kỹ thuật, chuyên gia và quản lý người nước ngoài vào Lào nếu người Lào

không đủ năng lực để làm việc trong các dự án đầu tư đó; cho phép các nhà đầu tư

nước ngoài được thuê đất của tư nhân trong vòng 20 năm và thuê của nhà nước

trong vòng 50 năm. Chính phủ Lào cũng cho phép các nhà đầu tư nước ngoài sở

hữu tất cả những gì họ đã cải tạo, sửa sang, cũng như các cấu trúc trên mảnh đất mà

họ thuê; cho phép sang nhượng hợp đồng thuê đất cho các thực thể khác; bán hoặc

dỡ bỏ các công trình hoặc những gì họ đã cải tạo. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho

việc xuất và nhập cảnh vào Lào, Chính phủ nước này cũng sẽ cấp visa và giấy phép

làm việc cho các công nhân người nước ngoài để giúp các nhà đầu tư nước ngoài

70

cảm thấy tự tin và đảm bảo hơn về đầu tư của họ tại Lào. Chính phủ Lào cũng đưa

ra các cam kết không quốc hữu hóa, sung công hoặc trưng dụng mà không có bồi

thường. Trong giai đoạn từ năm 1986-2019, Lào đã thu hút được vốn FDI trị giá 18

tỷ USD. Trung Quốc hiện là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Lào, tiếp đó là Thái

Lan và đứng thứ ba là Việt Nam. Các lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài thích

đầu tư nhất tại Lào gồm mỏ, thủy điện và nông nghiệp. Hiện nay Chính phủ Lào

đang cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực

không sử dụng tài nguyên nhiên để đảm bảo sự tăng trưởng bền vững cho nền kinh

tế của nước này.

3.1.2 Dự báo về tình hình đầu tư trực tiếp vào thị trường Lào của các doanh

nghiệp Việt Nam trong thời gian tới

Mặc dù bối cảnh chung của thế giới và nền kinh tế khu vực vẫn đang gặp

nhiều khó khăn và thường xuyên biến động. Tuy nhiên, dòng vốn OFDI của nước ta

vào nước láng giềng Lào vẫn được coi là có đủ điều kiện để tăng tốc. Theo dự báo,

dòng vốn của các nhà đầu tư Việt Nam vào quốc gia Lào trong những năm tới sẽ có

sự tăng trưởng mạnh mẽ vì những lý do sau:

- Thứ nhất, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực, đặc biệt là các cơ

chế và chính sách để khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Luật Đầu tư 2014

do Quốc hội Việt Nam thông qua đã tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích các

nhà đầu tư Việt Nam thực hiện OFDI. Sau một thời gian đầu tư "thăm dò", các nhà

đầu tư Việt Nam ban đầu đã tích lũy được kinh nghiệm quý báu trong việc triển

khai OFDI. Đầu tư ra nước ngoài giờ đã trở thành một mảng kinh doanh quan trọng,

quyết định tương lai và chiến lược phát triển của nhiều công ty, thậm chí của nhiều

thành phần kinh tế. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam, như HoàngAnh, hiện coi Lào là

thị trường đầu tư chủ chốt, cung cấp cho tập đoàn một nguồn thu nhập chính chứ

không phải thị trường nội địa.

- Thứ hai, Chính phủ Việt Nam và Lào, cộng đồng doanh nghiệp hai nước,

đang ngày càng tăng cường mối quan hệ chặt chẽ về nhiều mặt. Các hoạt động xúc

tiến đầu tư, các cuộc họp ở cấp chính phủ và địa phương là thường xuyên và ngày

càng trở nên thực chất. Nhiều bản ghi nhớ đầu tư về sự hiểu biết ở cả cấp độ doanh

71

nghiệp và chính phủ đã được ký kết và sẽ được thực hiện trong tương lai gần. Nhiều

công ty Việt Nam hoạt động tại Lào nhận được sự hỗ trợ cao từ chính phủ Lào cũng

như người dân địa phương.

- Thứ ba, theo sự phát triển kinh tế nhanh chóng, ngày càng nhiều công ty Việt

Nam có đủ nguồn lực tài chính và công nghệ để thực hiện đầu tư nước ngoài. Hiệp

hội doanh nghiệp hợp tác và đầu tư Việt Nam tại Lào đã được thành lập, là cầu nối

giữa cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tại Lào và các cơ quan liên quan của hai

nước. Khi hoạt động của Hiệp hội trở nên thực chất hơn, chắc chắn sẽ tạo điều kiện

thuận lợi để cải thiện hoạt động OFDI của các nhà đầu tư Việt Nam tại quốc gia

Lào.

Với tất cả các lý do trên, có thể nói rằng các hoạt động của OFDI tại thị trường

Lào sẽ có sự tăng trưởng cả về chiều rộng và chiều sâu trong tương lai gần.

3.2 Các kiến nghị tăng cƣờng đầu tƣ trực tiếp vào thị trƣờng Lào của các

doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới

Doanh nghiệp là đơn vị trực tiếp thực hiện các hoạt động OFDI. Do đó, các

doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định sự thành công hay

thất bại của dự án. Để thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của dòng vốn OFDI vào thị

trường Lào, các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện đồng bộ một số vấn đề cơ bản

như sau:

Thứ nhất, doanh nghiệp cần chủ động và thường xuyên cập nhật hệ thống

pháp luật, chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam và các chính sách

liên quan của Lào. "Gia nhập thông thường", để thành công trong việc đầu tư vốn

vào Lào, các doanh nghiệp cũng cần tìm hiểu kỹ về môi trường kinh tế, văn hóa, xã

hội và phong tục của Lào. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta luôn có cơ hội đầu tư

tốt, vấn đề là các công ty cần phải chủ động và tích cực hơn để giành được cơ hội và

triển khai thành công các dự án đầu tư. Lào được coi là một thị trường tiềm năng

với nhiều cơ hội đầu tư tốt cho các nhà đầu tư Việt Nam. Tuy nhiên, nếu không tích

cực hội nhập, các công ty chắc chắn sẽ ngày càng không giành được những cơ hội

đầu tư tốt vì khi đó những cơ hội này đã bị chi phối bởi các tổ chức nước khác.

72

Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh tranh. Trước hết,

điều quan trọng là phải hiểu rằng cải thiện khả năng cạnh tranh không phải là cố

gắng làm cho doanh nghiệp trở thành sản phẩm mạnh nhất, tốt nhất trên thị trường.

Bởi vì trên thực tế, điều này gần như là không thể. Cải thiện khả năng cạnh tranh là

tìm một phân khúc thị trường cụ thể cho sản phẩm, tạo ra một sản phẩm độc đáo và

duy nhất. Đối với thị trường Lào, đây là thị trường mà các nhà đầu tư Việt Nam có

nhiều lợi thế do sự gần gũi về vị trí địa lý, sự tương đồng về kinh tế và văn hóa,

quan hệ chính trị giữa hai nước. Lào là một thị trường tương đối dễ dàng, như "công

chúa ngủ", vì vậy các công ty Việt Nam, bao gồm các công ty vừa và nhỏ, có thể

thành công trong các hoạt động của OFDI sang Lào. Để làm được điều này, doanh

nghiệp cần xác định đúng chiến lược đầu tư và thị trường. Ngoài ra, doanh nghiệp

cũng cần đặc biệt chú ý xây dựng văn hóa tổ chức, tạo sự gắn kết và liên kết chặt

chẽ giữa tooe chức và người lao động. Các dự án trồng cao su và khai thác tại Việt

Nam hầu hết ở các cấp độ giáo dục dân cư thưa thớt, phân tán và lạc hậu... Do đó,

các nhà đầu tư cần chú ý đến việc ổn định cuộc sống của người lao động địa

phương, từ đó giúp nhân viên cảm thấy an tâm trong công việc và cống hiến lâu dài

cho tổ chức. Các nhà đầu tư cũng cần hướng tới các mục tiêu dài hạn, đảm bảo sự

kết hợp hài hòa lợi ích của cả doanh nghiệp và đối tác, tránh "gian lận", theo lợi

nhuận trước mắt (như một số doanh nghiệp tuyên bố khai thác khoáng sản ở Lào...).

Nếu những điều này được thực hiện tốt, nó sẽ nâng cao uy tín của các doanh nghiệp

Việt Nam tại Lào, từ đó góp phần nâng cao hình ảnh và vị thế của các doanh nghiệp

Việt Nam khi tiến hành các hoạt động đầu tư nước ngoài.

Thứ ba, doanh nghiệp nên tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến đầu tư để

tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Lào, tìm khoảng trống thị trường. Trong bối cảnh hiện

nay, thông tin đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự thành công hay thất

bại của các doanh nghiệp. Hiện nay, nhu cầu cập nhật thông tin đầy đủ, chính xác

và thường xuyên của các doanh nghiệp là rất lớn. Trên thực tế, hầu hết các công ty

tại Việt Nam vẫn còn thiếu và không có quyền truy cập vào thông tin cần thiết. Chủ

yếu là vì Chính phủ không có chính sách và cơ chế hợp lý và hiệu quả để mang lại

thông tin cho nhà đầu tư. Các cơ quan chịu trách nhiệm cung cấp thông tin chưa

73

thực sự cung cấp thông tin mà nhà đầu tư cần; Các thông tin rải rác, quá khái quát,

chưa chi tiết và thường lỗi thời. Tình hình thông tin "ngầm" vẫn còn phổ biến, dẫn

đến cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Ngoài ra, khả năng truy

cập và xử lý thông tin của hầu hết các doanh nghiệp còn hạn chế. Để cải thiện khả

năng cập nhật và phân tích thông tin về cơ hội đầu tư của nhà đầu tư, bên cạnh việc

thúc đẩy hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư, doanh nghiệp nên chuyên môn

hóa hoạt động này bằng cách thành lập Ban dự án đầu tư nước ngoài thậm chí có

thể thành lập Công ty cổ phần đầu tư quốc tế. Đây là cách Viettel, một doanh

nghiệp viễn thông Việt Nam, đã làm được và gặt hái được nhiều thành công. (Năm

2009, Công ty Cổ phần Đầu tư Toàn cầu Viettel (Viettel Global) đã ra mắt hai mạng

di động tại Lào và Campuchia là mạng Metfone và Unitel. Sau hơn 5 năm hoạt

động, đến nay, cả hai mạng đều là số một về mạng. cơ sở hạ tầng và số lượng thuê

bao ...). Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với các cơ

quan ngoại giao và đại sứ quán Việt Nam tại Lào để thu thập thông tin nhanh

chóng, chính xác và đầy đủ..

Tóm lại, giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty Việt

Nam vào thị trường Lào muốn thực hiện hiệu quả đòi hỏi phải có sự hợp tác chặt

chẽ, thường xuyên giữa Chính phủ và các bộ, công nghiệp với các doanh nghiệp.

Làm như vậy, hoạt động OFDI của doanh nghiệp sẽ được phát huy và phát huy vai

trò to lớn của họ, không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp mà còn góp

phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

3.3. Một số kiến nghị đối với Chính phủ Việt Nam

Các hoạt động của OFDI là các hoạt động cụ thể, được điều chỉnh bởi luật

pháp của nhiều quốc gia (quốc gia đầu tư và quốc gia đầu tư). Do đó, để tăng dòng

vốn OFDI của các nhà đầu tư Việt Nam vào Lào, cần có cơ chế khuyến khích và

chính sách công khai và minh bạch từ Chính phủ nước ta. Đồng thời, các chính sách

ưu đãi và ưu đãi của phía Việt Nam phải được chính phủ Lào hỗ trợ và tạo điều kiện

thông qua các hiệp định song phương giữa các chính phủ về thúc đẩy đầu tư lẫn

nhau; Hợp tác trao đổi thông tin thường xuyên, có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan

74

quản lý đầu tư của các nước... Trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ Việt Nam cần

thực hiện tốt các giải pháp sau:

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Hệ

thống pháp luật của nước ta nói chung và hệ thống các văn bản pháp lý điều hành

các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng còn thiếu xót và lỗi thời. Gia

nhập WTO đòi hỏi các quốc gia phải có một hệ thống pháp lý rõ ràng, minh bạch và

nhất quán theo các nguyên tắc hoạt động của WTO. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật

của Việt Nam vẫn còn lạc hậu, với nhiều bất cập, cả cứng nhắc và không đầy đủ.

Nhiều vấn đề phát sinh trong thực tế nhưng không được quy định trong luật. Điều

này một mặt gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi thực hiện dự án, một mặt có

thể dẫn đến hiện tượng "lách luật", ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Do đó, xây dựng

và hoàn thiện hệ thống pháp luật để tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế được coi là

nhiệm vụ cần thiết.

Đối với hoạt động OFDI của các nhà đầu tư Việt Nam, có thể nói đây là một

trong những lĩnh vực "ưu tiên" trong việc hoàn thiện các cơ chế và chính sách của

Chính phủ. Trong những năm gần đây, nhiều văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động

của OFDI đã được ban hành: Luật đầu tư (2006), Nghị định 78 (2006), Nghị định

121 (2007)... Năm 2009, chấm dứt quá trình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, Chính

phủ ban hành Nghị định số 17/2009 về sửa đổi, bổ sung một số điều trong Nghị

định 121/2007 của Chính phủ quy định về hoạt động đầu tư nước ngoài trong ngành

xăng dầu. Cuối tháng 2 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt dự án "Thúc

đẩy đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài", trong đó xác định các lĩnh vực ưu tiên

cũng như các biện pháp hỗ trợ để thúc đẩy sự tăng trưởng của dòng chảy vốn OFDI.

Năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 26/CT-TOT ngày 23/12/2013

về tổ chức lại hoạt động đầu tư sang Lào và Campuchia. Năm 2014, Quốc hội đã

chính thức thông qua Luật Đầu tư mới (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2015),

tuy nhiên, các nghị định hướng dẫn chưa được ban hành... Để các hoạt động của

OFDI thực sự được thúc đẩy mạnh mẽ và hiệu quả, cần nhiều hơn nữa nữa các

giải pháp hỗ trợ về chính sách.

75

Thứ hai, Chính phủ cần có sự hỗ trợ cần thiết để khuyến khích đầu tư của các

doanh nghiệp tại Lào: hỗ trợ vốn, hỗ trợ thuế, đào tạo lao động... Cụ thể, Chính phủ

cần tăng dòng vốn ODA. Việt Nam hàng năm sang Lào đóng góp xây dựng cơ sở

hạ tầng, đào tạo lao động bản địa... cho các địa phương nơi nhà đầu tư Việt Nam dự

định đầu tư vốn. Hiện tại, cơ sở hạ tầng, điện, đường bộ của Lào nói chung rất hạn

chế, trình độ và tính chuyên nghiệp của công nhân rất thấp. Do đó, Việt Nam cần

dành ngân sách ưu tiên để xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo nghề và đào tạo chuyên

nghiệp cho lao động Lào. Với các dự án có ý nghĩa lớn, tác động tích cực đến sự

phát triển kinh tế trong nước như sản xuất điện nhập khẩu vào Việt Nam, khai thác

một số khoáng sản để chế biến trong nước và sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp

công nghệ cao... cần chính sách ưu đãi về vốn cho các dự án này. Cụ thể, Chính phủ

có thể đứng ra bảo lãnh cho các khoản vay cho doanh nghiệp. Các ngân hàng

thương mại trong nước được phép cho vay vượt quá 15% vốn điều lệ cho các dự án

đầu tư quan trọng tại thị trường Lào. Ngoài ra, để khuyến khích các nhà đầu tư

ngoài quốc doanh chú ý hơn đến các hoạt động của OFDI, cần có các ưu đãi như

miễn thuế thu nhập cho các nhà đầu tư ngoài quốc doanh trong 3 - 5 năm đầu khi

thực hiện OFDI, giảm thuế. Chuyển lợi nhuận cho đất nước... Hiện nay, khu vực

kinh tế ngoài quốc doanh là ngành kinh tế rất năng động, khuyến khích khu vực

kinh tế ngoài quốc doanh đầu tư vào Lào sẽ giúp Việt Nam tận dụng nhiều cơ hội

đầu tư tốt ở Lào.

Thứ ba, tăng cường ngoại giao, bao gồm ở cấp chính phủ và địa phương. Cần

tăng cường sự phối hợp giữa chính phủ hai quốc gia để giải quyết vấn đề lao động

theo cả hai hướng: tăng cường đào tạo lao động địa phương và tăng số lượng lao

động Việt Nam được phép làm việc tại Lào. Hai quốc gia cũng cần phối hợp chặt

chẽ trong công tác quy hoạch, góp phần phát triển đồng bộ hệ thống giao thông, hệ

thống điện, quy hoạch tổng thể các khu vực kinh tế cửa khẩu... của cả hai nước,

tránh "vỗ tay một tay" như đã xảy ra ở một số nước khu kinh tế cửa khẩu trước cửa

khẩu. Cấp tỉnh cũng cần tăng cường hợp tác để phát huy thế mạnh của từng địa

phương tại Lào và Việt Nam. Lào và Việt Nam là hai quốc gia có quan hệ đặc biệt, vì

vậy các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào Lào không chỉ vì mục đích kiếm lợi

76

nhuận mà còn liên kết đầu tư với phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện đời sống của

người dân Lào. Để làm tốt điều này, cần phối hợp chặt chẽ với chính phủ hai nước

cũng như các địa phương

Thứ tư, tăng cường hỗ trợ, tư vấn và cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư

Việt Nam đầu tư vốn vào Lào. Tổ chức biên soạn và dịch tài liệu về luật pháp, chính

sách, môi trường và cơ hội đầu tư tại thị trường Lào để cung cấp cho các doanh

nghiệp và cơ quan quản lý thông qua các ấn phẩm cũng như thông qua Internet. Có

thể nói, việc cung cấp thông tin của nhà chức trách Việt Nam nói chung là chậm và

không phù hợp với dữ liệu. Trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, người nào

có thông tin chính xác và chính xác nhất sẽ chiến thắng trong cuộc thi. Do đó, theo

nghiên cứu sinh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần phối hợp với các cơ quan liên quan để

tăng cường hơn nữa công tác thông tin cho các nhà đầu tư ở Việt Nam và cả nhà

đầu tư tại Lào.

Ngoài việc cung cấp thông tin kịp thời và chính xác cho các doanh nghiệp, Bộ

Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan ngoại giao Việt Nam cần có biện pháp hỗ trợ

doanh nghiệp, đặc biệt là trong các vấn đề tư vấn về thủ tục pháp lý và hỗ trợ giải

quyết tranh chấp. Trên thực tế, các hoạt động của OFDI đã tạo ra nhiều tranh chấp

giữa các nhà đầu tư Việt Nam với các tổ chức và doanh nghiệp địa phương, ngay cả

với người dân địa phương. Nhiều công ty Việt Nam cũng đã gửi tài liệu tới các bộ,

ngành để tháo gỡ khó khăn. Nhưng nhiều công ty không nhận được bất kỳ hỗ trợ

nào. Thực tế này rất khó chấp nhận. Theo tác giả, để khắc phục tình trạng này, cần

phải thành lập một đơn vị hỗ trợ pháp lý chuyên ngành cho các dự án OFDI thuộc

Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Trước mắt, các cơ quan liên quan cần sát cánh cùng nhà

đầu tư, hỗ trợ họ giải quyết tranh chấp. Điều này giúp doanh nghiệp khắc phục rắc

rối và cải thiện hình ảnh và uy tín của các nhà đầu tư Việt Nam.

Thứ năm, nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư tại Lào. Hiện nay, xúc tiến đầu tư

được đánh giá là nhiều tuy nhiên không hiệu quả. Trước một số thiếu sót và hạn chế

của các hoạt động OFDI tại Lào, trong 3 năm qua, việc xúc tiến đầu tư cần phải

được chuyển hướng: bên cạnh mục tiêu truyền thống là kết nối và tìm kiếm cơ hội

đầu tư. Tại quốc gia Lào, cần phải tăng cường các mục tiêu hỗ trợ, thúc đẩy triển

77

khai hiệu quả các dự án hiện có, hướng các dự án đầu tư mới vào các lĩnh vực, lĩnh

vực và lĩnh vực thuận lợi có lợi ích liên quan. Việc xúc tiến đầu tư ra nước ngoài

cần được chú trọng, tập trung, để tránh lây lan, không hiệu quả thường xuyên, để

tránh các hoạt động phô trương không cần thiết, với các mục tiêu cụ thể. Nó có thể

được liên kết với định hướng quản lý đầu tư ra bên ngoài trong từng thời kỳ. Tiếp

tục đa dạng hóa các hình thức xúc tiến đầu tư, nguồn lực xúc tiến đầu tư (mở rộng

xúc tiến đầu tư tại chỗ thông qua hợp tác với các cơ quan, tổ chức nước ngoài để tổ

chức các chương trình tại Việt Nam nhằm tiết kiệm chi phí, tăng cơ hội tiếp cận

thông tin của các doanh nghiệp muốn đầu tư). Có sự liên kết và phối hợp giữa các

hoạt động xúc tiến đầu tư của các ngành, địa phương và tổ chức có liên quan để tạo

ra sức mạnh tổng hợp, tăng hiệu quả, giảm chi phí hoạt động; Thiết lập và củng cố

cơ chế thông tin và phối hợp về xúc tiến đầu tư ra nước ngoài giữa cấp trung ương

và địa phương, và giữa cơ quan đầu mối phụ trách đầu tư ra nước ngoài là Bộ Kế

hoạch và Đầu tư và các bộ, ngành liên quan. Cơ quan quản lý nhà nước tăng cường

hoạt động xúc tiến đầu tư hợp tác với cơ quan quản lý Lào. Các địa phương tích hợp

xúc tiến đầu tư hợp tác với các tỉnh, thành phố của Lào để phát huy thế mạnh của

các doanh nghiệp trong tỉnh, đặc biệt là các doanh nghiệp giáp biên giới

3.4 Một số kiến nghị đối với Chính phủ Lào

Thứ nhất, các biện pháp quyết liệt là cần thiết để đáp ứng nhu cầu lao động

cho các dự án FDI. Hiện tại, Chính phủ Lào quy định rằng việc đưa lao động nước

ngoài sang Lào làm việc không được vượt quá 10% lao động kỹ thuật không có kỹ

năng và 20%. Quy định này đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp nước ngoài, kể

cả những người Việt Nam, bởi vì việc chuyển công nhân từ Việt Nam bị hạn chế,

trong khi lao động địa phương không đáp ứng được yêu cầu. Để khắc phục hạn chế

này, Chính phủ Lào cần nới lỏng các quy định về số lượng lao động nước ngoài,

đồng thời tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho cả lao động phổ thông và quản lý,

tạo điều kiện thuận lợi, tạo điều kiện cho dòng vốn FDI của các nhà đầu tư tại Việt

Nam và các nước khác. Trong bối cảnh cộng đồng kinh tế Asean cũng đưa ra các

cam kết mạnh mẽ về mở cửa thị trường hàng hóa cũng như thị trường lao động, việc

nới lỏng chính sách hạn chế lao động nước ngoài của chính phủ Lào là cần triển

78

khai sớm. Để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực từ các nhà đầu tư Việt Nam, cần

nhanh chóng triển khai Khoa tiếng Việt tại Đại học Quốc gia Lào, đồng thời thúc

đẩy đào tạo cán bộ và đào tạo nghề cho người lao động. Các tỉnh có biên giới với

Việt Nam, nơi tập trung nhiều dự án khai thác và trồng cây công nghiệp, đòi hỏi

một số lượng lớn lao động.

Thứ hai, mở rộng các hình thức đầu tư được cấp phép. Theo Luật Xúc tiến đầu

tư mới của Lào (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 5 năm 2011), các hình thức đầu tư

được cấp phép tại Lào bao gồm các hợp đồng hợp tác kinh doanh; liên doanh và

100% vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, các hình thức mua bán và sáp nhập (M&A),

BOT, BTO... chưa được hợp pháp hóa. Điều này sẽ là "khó khăn" đối với nhiều nhà

đầu tư nước ngoài muốn nhanh chóng thâm nhập vào thị trường Lào thông qua việc

mua lại, sáp nhập với các doanh nghiệp địa phương của Lào. Đồng thời, việc mở

rộng các hình thức đầu tư được cấp phép cũng phù hợp với xu hướng mở và hội

nhập ngày nay.

Thứ ba, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo sự thống nhất từ cấp trung ương

đến địa phương trong thủ tục đăng ký và cấp phép. Theo luật xúc tiến đầu tư năm

2011 của Lào, đã có những cải cách đáng kể trong việc cấp thủ tục đăng ký kinh

doanh cho các doanh nghiệp. Trước đây, các doanh nghiệp phải trải qua 5 giai đoạn

đăng ký với các bộ tương ứng để đăng ký kinh doanh, đăng ký giấy chứng nhận đầu

tư, đăng ký thuế, đăng ký con dấu và đăng ký thích hợp. Đồng thời, các thủ tục này

cần được đơn giản hóa trong một bộ tài liệu và gửi trực tiếp đến một cơ quan duy

nhất, Bộ Công Thương, để được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên, khi

thực hiện dự án trên thực tế, nhiều địa phương vẫn còn nhiều thủ tục rắc rối, thu

thêm thuế thu nhập đối với các dự án ưu đãi đầu tư đã được chính phủ đầu tư Lào miễn

thuế.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Chương 3 đã đánh giá những lợi thế, khó khăn và triển vọng của dòng vốn

OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào Lào trong tương lai gần. Mặc dù vẫn còn

nhiều khó khăn nhưng có thể khẳng định rằng sự tiện lợi là yếu tố cơ bản. Trong bối

79

cảnh hai quốc gia Việt Nam và Lào đang ngày càng hội nhập sâu vào khu vực

ASEAN và thế giới, việc thúc đẩy OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị

trường Lào sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai nước . Chương 3 cũng đề xuất

các giải pháp ở cả cấp chính phủ và doanh nghiệp để thúc đẩy dòng chảy OFDI của

các nhà đầu tư Việt Nam vào Lào trong tương lai gần. Trong đó, một trong những

giải pháp quan trọng là đổi mới thể chế, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế ngoài

quốc doanh thực hiện OFDI và nhanh chóng ban hành chiến lược đầu tư của các

nhà đầu tư Việt Nam sang Lào năm 2020. Chương 3 cũng đã đề xuất các khuyến

nghị cho chính phủ Lào, tập trung vào sửa đổi luật để khuyến khích đầu tư, nới lỏng

các quy định lao động và thống nhất quản lý và lập kế hoạch từ cấp trung ương đến

địa phương…, đặc biệt là về vấn đề đất đai.

80

KẾT LUẬN

Trong điều kiện Việt Nam và Lào đang ngày càng hội nhập toàn diện vào nền

kinh tế khu vực và thế giới, dòng vốn OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào

Lào có nhiều điều kiện thuận lợi để gia tăng. Trong những năm qua, dòng vốn

OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào Lào có thể nói là tăng trưởng nhanh

nhưng không ổn định, chưa có tính định hướng và hiệu quả mang lại chưa cao. Trên

cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết và tổng quan nghiên cứu về OFDI, tác

giả đã cố gắng trình bày một cách rõ nét nhất thực trạng dòng vốn OFDI của các

doanh nghiệp Việt Nam vào Lào giai đoạn 1994-2013. Trên cơ sở đó, chỉ ra những

thành công, hạn chế và nguyên nhân. Luận văn cũng đã tiến hành nghiên cứu định

lượng ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô (GDP bình quân đầu người, chi ngân sách

cho khoa học công nghệ, lượng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam) tới dòng vốn

OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Lào. Sau khi chạy các mô

hình hồi quy, luận văn đã chỉ ra với 1 triệu USD FDI vào Việt Nam sẽ góp phần

làm tăng 0,0115 triệu USD dòng vốn OFDI từ Việt Nam vào Lào (tác động tràn của

FDI). Đồng thời, khi tăng 1% chi ngân sách cho KHCN sẽ góp phần làm tăng 3,32

triệu USD lượng vốn OFDI của Việt Nam vào Lào. Trong khi đó, tác động của tăng

trưởng GDP bình quân đầu người lên lượng vốn OFDI vào Lào là không rõ ràng

(biến PGDP trong mô hình không có ý nghĩa thống kê). Trên cơ sở các nghiên cứu

định tính và định lượng, tác giả đã đề xuất các giải pháp với chính phủ và doanh

nghiệp Việt Nam cũng như các kiến nghị với chính phủ Lào để đẩy mạnh dòng vốn

OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam vào Lào trong thời gian tới.

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. BIDV (2014), Trung tâm nghiên cứu, Báo cáo tình hình chính trị - kinh tế - xã

hội tại Lào năm 2013.

2. BIDV (2013), Công ty đầu tư phát triển quốc tế, Nghiên cứu hoạt động đầu tư

ra nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn 2009 đến nay và các giải pháp

thúc đẩy thời gian tới.

3. BIDV (2014), Trung tâm nghiên cứu, Báo cáo tình hình quan hệ hợp tác Việt

Nam - Lào và một số đề xuất, kiến nghị.

4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), Kỷ yếu 20 năm đầu tư nước ngoài tại Việt

Nam.

5. Bùi Huy Nhượng (2011), Quan điểm và một số giải pháp tăng cường đầu tư

trực tiếp sang thị trường Lào của các doanh nghiệp Việt Nam, Kỷ yếu Hội

thảo quốc tế, Đại học Kinh tế quốc dân.

6. Chính phủ (1999), Nghị định số 22/1999/NĐ-CP quy định về đầu tư ra nước

ngoài của doanh nghiệp Việt Nam.

7. Chính phủ (2006), Nghị định số 78/2006/NĐ-CP quy định về đầu tư trực tiếp

ra nước ngoài.

8. Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Tổng hợp số liệu đầu

tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, Hà nội.

9. Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Tổng hợp số liệu đầu

tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, Hà nội.

10. Đào Thị Phương Liên (2011), Đẩy mạnh đầu tư trực tiếp của các doanh

nghiệp Việt Nam sang CHDCND Lào, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Đại học Kinh tế

quốc dân.

11. Đặng Hương (2011), Kiểm soát đầu tư ra nước ngoài, cần soi kỹ cơ cấu đầu

tư, Thời Báo kinh tế Việt Nam, số 106

12. Đinh Trọng Thịnh (2006), Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp

ra nước ngoài, NXB Tài chính.

13. Hoàng Hà (2012), Hiện trạng đầu tư của Việt Nam vào khu vực tam giác phát

triển Campuchia, Lào, Việt Nam, Tạp chí Đầu tư nước ngoài,29.

14. Nguyễn Văn An (2011), Nghiên cứu phát triển đầu tư trực tiếp của các doanh

82

nghiệp Việt Nam vào lĩnh vực công nghiệp tại CHDCND Lào, Luận án tiến sỹ,

Đại học Kinh tế quốc dân, 2012.

15. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2014), FDI và phát triển kinh tế: Nghiên cứu tại Cộng

hòa dân chủ nhân dân Lào giai đoạn 1990-2012, Tạp chí Kinh tế và phát triển

16. Nguyễn Đình Hiền (2013), Thúc đẩy hoạt động đầu tư từ các tỉnh Duyên hải

miền Trung vào khu vực tam giác phát triển Campuchia, Lào, Việt Nam: Định

hướng và giải pháp, Tạp chí kinh tế và phát triển, 1

17. Phùng Xuân Nhạ (2001), Đầu tư quốc tế, NXB Đại học Quốc gia.

18. Quốc Hội Lào (2011), Luật khuyến khích đầu tư.

19. Quốc hội (2014), Luật đầu tư.

20. http://cafef.vn/tai-chinh-quoc-te/the-gioi-can-thoa-uoc-plaza-

20150130125933494.chn

21. Tổng Cục Thống Kê (2013), Niên giám thống kê, NXB Thống kê, Hà nội.

22. Tri Phương (2013), “Nhật: Viện trợ, đầu tư ra nước ngoài vẫn tăng mạnh”,

http://www.vietnamplus.vn/nhat-vien-tro-dau-tu-ra-nuoc-ngoai-van-tang-

manh/209145.vnp

23. VCCI (2013), Hồ sơ thị trường Lào.

24. VCCI (2014), Hồ sơ thị trường Lào.

25. VEPR, Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam, 2015.

26. WEF, Báo cáo xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu, 2015.

27. World Bank, Báo cáo phát triển Việt Nam, 2016,

28. World Bank, Báo cáo phát triển Việt Nam, 2017.

29. World Bank, Báo cáo phát triển Việt Nam, 2018.

30. World Bank, Báo cáo phát triển Lào, 2017

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: DANH MỤC CÁC DỰ ÁN OFDI CỦA VIỆT NAM VÀO LÀO GIAI ĐOẠN 1998-2018

STT

Tên nhà đầu tƣ VN

Mục tiêu DA

Lĩnh vực ĐT

1

Công ty Hợp tác Kinh tế - Quân khu 4

2

Công ty TNHH Long Vân

3

Công ty TNHH MTV Dược phẩm

Trồng trọt, cao su, chăn nuôi, xây nhà máy chế biến Chế biến gỗ và sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ SX, KD các loại dược phẩm, mỹ phẩm,trthbị y tế

4

TCông ty lâm nghiệp Việt Cbiến gỗ & SX gỗ

5

SX hàng dệt kim

6

7

8

KD tân dược, dcụ y tế, hoá chất Xây dựng xưởng chế biến gỗ để xuất khẩu SX-KD XNK thuốc chữa bệnh và dược liệu

9

SX mì ăn liền

10

XD nhà máy gạch

11

Chế biến gỗ

12

Công ty TNHH Nhà nước MTV dệt Công ty TNHH dược phẩm Đông Công ty Hợp tác Kinh tế - Quân khu 4, Công ty Dược và trang thiết bị y tế Công ty XNK Tạp phẩm,Công ty Công ty Vật liệu XD Cầu Đuống Công ty TNHH Trung Đông Công ty TNHH MTV Lưới thép gai

Nông nghiệp, lâm nghiệp và Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

13

Công ty TNHH Long Vân

Công nghiệp chế biến, chế tạo

SX-KD XNK thuốc chữa bệnh và dược liệu Xây dựng nhà máy sản xuất bột giấy và giấy súp bâu

14

Sửa chữa ô tô

15

16

Công ty Cơ khí, ô tô, xe máy Thanh Công ty KD XNK tổng hợp Việt Nhật CTCP Kinh doanh Tổng hợp Kon Tum

Chế biến lâm sản, đồ gỗ, trang trí nội thất... Gia công chế biến các loại gỗ xẻ

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa Công nghiệp chế biến, chế tạo Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa

17

Công ty TNHH thương mại, đầu tư

SX-Cbiến gỗ thương phẩm & bán thphẩm pvụ tiêu

Công nghiệp chế biến, chế tạo

18

Tổng Công ty Khoáng sản & Thương

19

Công ty Nhựa Sài Gòn

Khai thác chế biến thạch cao Xây dựng nhà máy sản xuat nhựa gia dụng

Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

20

Khai khoáng

21

22

23

Khai thác, sản xuất thạch cao tiêu thụ ở Lào và xuất Trồng, chăm sóc, khai thác, chế biến cao su, điều, ca Khai thác và chế biến gỗ; sản xuất ván sàn, đồ gỗ gia Sx, kinh doanh phân bón SHHC Komic, khai thác

Nông nghiệp, lâm nghiệp và Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

24

Thăm dò muối mỏ tại Bản Khai khoáng

25

Công nghiệp chế biến, chế tạo

26

Khai khoáng

27

28

Công ty Hợp tác Kinh tế - Quân khu 4, Công ty TNHH MTV Cao su Đắc Lắc Công ty TNHH Hoàng Thành Long CTCP Sản xuất & Thương mại Thiên Tập đoàn Hóa chất Việt Nam Công ty TNHH Đầu tư xây dựng Sản CTCP khai khoáng Miền núi Công ty TNHH Thương mại và Dịch CTCP Cơ điện lạnh Lâm Sơn (trước là

Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

29

Công ty TNHH Huỳnh Phước

Công nghiệp chế biến, chế tạo

30

CTCP Điện Việt - Lào

Sản xuất và phân phối điện,

31

32

Công ty Xuat nhập khẩu Hà Tĩnh CTCP kinh doanh công, nông nghiệp

Công nghiệp chế biến, chế tạo Nông nghiệp, lâm nghiệp và

33

Công ty Dược Trang thiết bị y tế Bình

Nông nghiệp, lâm nghiệp và

Sản xuất, chế biến gỗ, sản phẩm gỗ và lâm sản xuất Khai thác khoáng sản, sản xuất thiếc, xuất nhập khẩu Xây dựng nhà máy dệt nhuộm tại Lào Sản xuất nước đá viên, mua bán thuỷ sản, lương thực, Xây dựng nhà máy chế biến tinh bột sắn, trồng sắn, cao XD nhà máy thủy điện Xekaman 3 công suất 250 MW Sản xuất và chế biến bột berberin từ cây vàng đắng Trồng cây công, nông nghiệp tại Lào Trồng cây cao su, cây lấy gỗ và xây dựng nhà máy chế

34

Sản xuất hàng may mặc

Công ty Scavi Việt Nam Sarl

Công nghiệp chế biến, chế tạo

35

CTCP Cao su Việt Lào

Nông nghiệp, lâm nghiệp và

36

Công nghiệp chế biến, chế tạo

37

Khai khoáng

Sản xuất và chế biến bình quân 18.000 tấn cao su/năm Chế biến lâm sản; sản xuất ván ép công nghiệp Khảo sát, thăm dò, khai thác, khoáng sản, chế biến

38

gịăt là công nghiệp

Công nghiệp chế biến, chế tạ

39

Khai khoáng

40

41

CTCP Đầu tư Quốc tế An Thành CTCP Đầu tư Phát triển Khoáng sản Công ty TNHH Hoá Chat và xây dựng CTCP xây dựng và khai thác mỏ Việt CTCP kỹ nghệ Trưong Thành CTCP Tập đoàn Khoáng sản Thương

Thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản CBiến gỗ, trồng rừng, XD, NK-KD hàng tiêu dùng SX nhà máy và tổ chức SX-KD luyện thiếc thỏi

Công nghiệp chế biến, chế tạ Công nghiệp chế biến, chế tạ

42

Trồng trọt chăn nuôi

CTCP bảo vệ thực vật Sài Gòn

Nông nghiệp, lâm nghiệp và

43

Công ty TNHH Thiên Phú

Vận tải kho bãi

44

CTCP Lương thực và Công nghiệp

Nông nghiệp, lâm nghiệp và

45

Khai khoáng

46

KD vận tải hành khách bằng xe taxi (xe hơi, bus), dv Trồng sắn nguyên liệu, trồng keo lai và kinh doanh gỗ Khai thác khoáng sản ăngtymon Sx, tiếp thị tiêu thụ các loại dây cáp, ccap dv hậu mui

47

Chế biến gỗ xuất khẩu

Công nghiệp chế biến, chế tạ Công nghiệp chế biến, chế tạ

48

Khai khoáng

49

Khai khoáng

50

Công nghiệp chế biến, chế tạ

51

Khai khoáng

52

53

CTCP Phát triển kinh tế Hà Nội Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt CTCP Xuất nhập khẩu Tổng hợp và Công ty TNHH Thái Dương CTCP Địa ốc Xây dựng và Thương Công ty TNHH Công nghiệp Quang Công ty Khoáng sản và Thương mại Công ty TNHH MTV Mai Động Công ty TNHH MTV Hữu nghị Nam

Công nghiệp chế biến, chế tạ Nông nghiệp, lâm nghiệp và

54

CTCP Quasa - Geruco

Nông nghiệp, lâm nghiệp và

Khảo sát, thăm dò, khai thác khoáng sản Khai thác khoáng sản đồng, nhôm, chì Xd nhà máy sx thép hình, các sp thép xd để phân phối thăm dò và khai thác mỏ chì kẽm và thiếc Sx, kd cơ khí, xnk máy móc, tbị, xây dựng lắp rắp Trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông lâm sản, sx vật Trồng mới, chăm sóc cây cao su, cây nguyên liệu, chế

55

Khai khoáng

Khảo sát, thăm dò, khai thác, chế biến, sx

56

Khai khoáng

Thăm dò, khai thác mỏ kim loại, trồng cây thầu dầu và

57

Trồng và kinh doanh cao su

58

Tập đoàn công nghiệp than – khoáng sản Việt Nam Công ty TNHH phát triển Hùng Vương Công ty TNHH Tân Thịnh Lợi CTCP Giấy Antexco Nghệ An

Nông nghiệp, lâm nghiệp và Nông nghiệp, lâm nghiệp và

59

CTCP Việt - Lào

Khai khoáng

60

Nông nghiệp, lâm nghiệp và

61

Khai khoáng

CTCP Cao su Dầu Tiếng Việt - Lào CTCP Than Núi Béo - TKV và CTCP

62

CTCP Cà phê Việt - Lào

xd nhà máy sơ chế dăm gỗ, trồng rừng nguyên liệu và Tìm kiếm, thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản Trồng, chăm sóc, khai thác 20.000 ha cao su thiên Ksát, thăm dò, KThác, CB- KD khoáng sản,XD c/trình Đầu tư trồng mới và thâm canh 100ha cà phê catimor

Nông nghiệp, lâm nghiệp và

63

Công ty TNHH Công

Chế biến lâm sản nội thất

Công nghiệp chế biến,

thương Lan Anh

xuất khẩu

chế tạ

64

CTCP Hợp tác kinh tế và Xuất nhập

Công nghiệp chế biến, chế tạ

65

Khai khoáng

66

CTCP Khai thác và Chế biến Lâm Công ty Hợp tác Quốc tế 705

Nông nghiệp, lâm nghiệp và

67

CTCP Cao su Hoàng Anh - Quang

Nông nghiệp, lâm nghiệp và

68

CTCP Mai Linh, Mr H? Huy, Mr Phan

Thông tin và truyền thông

69

CTCP Thiên Quý

Khai khoáng

70

Khai khoáng

CTCP Tập đoàn Thái Dương, bà

71

CTCP vật tư thiết bị Kim Dương

Công nghiệp chế biến, chế tạ

72

CTCP Điện Việt - Lào

Sản xuất và phân phối điện,

73

74

Công nghiệp chế biến, chế tạ Thông tin và truyền thông

75

Khai khoáng

76

CTCP đầu tư và xây dưng quốc tế Việt CTCP tập đoàn Mai Linh Nam Trung Công ty Khoáng sản và Thương mại CTCP Phát triển thương mại và xuất

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa

77

Công ty Hợp tác Kinh tế - Quân khu 4,

Dịch vụ lưu trú và ăn uống

78

79

Sản xuất và phân phối điện, Thông tin và truyền thông

80

Khai khoáng

81

Khai khoáng

Tổng Công ty Hợp tác kinh tế Việt - CTCP Đầu tư quốc tế Viettel CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP Công ty TNHH M.K, ông Tống Văn

82

Công ty Đại Thắng

Khai khoáng

83

Khai khoáng

CTCP Tập đoàn Thái Dương

84

Tổng Công ty Khoáng sản

Khai khoáng

Chế biến gỗ xẻ, sấy khô, ván bóc, ván ép, ván sàn, đồ Thăm dò, khai thác vàng sa khoáng Khai thác, sx và kd vật liệu XD, kthác khoáng sản, chế Trồng14.720ha cao su,100ha keo lai,KS 100phòng,CB Đầu tư xây dựng và kd vận chuyển hành khách và Khai thác, chế biến khoáng sản, mua bán kinh doanh Tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến và kinh doanh Xây dựng nhà máy chế biến gỗ xuất khẩu Xd nhà máy thuỷ điện Xekaman 1 theo ht BOT để bán Chế biến và kd quặng Barit và đá xây dựng Vận tải đưong bộ, liên vận qtế, kd nhà hàng, ksạn, đào Tư vấn, tkế, tìm kiếm, thăm dò khoáng sản, xd ctrình Xây dựng nhà máy chế biến gỗ và nông sản Xây dựng khách sạn tiêu chuẩn 2 sao tại Xiêng Khoảng Xây dựng nhà máy thuỷ điện Nậm Mô theo HĐHT Xd, vận hành, pt mạng viễn thông, mạng truyền dẫn, Thăm dò, khai thác và chế biến vàng Trồng, chế biến, KD sp cây công nghiệp, lâm nghiệp, Tìm kiếm, khảo sát mỏ thiếc, chì, kẽm Dịch vụ tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến, tiêu Khảo sát, thăm dò, đánh giá trữ lượng, tổ chức khai

85

Sx phân hữu cơ vi sinh

CTCP cơ khí Vina Nha Trang, CTCP

Công nghiệp chế biến, chế tạ

86

CTCP Cao su Hoàng Anh Gia Lai

Nông nghiệp, lâm nghiệp và

87

CTCP Đầu tư và phát triển thương mại

88

CTCP Đồng Xanh

89

CTCP Khoáng sản Hòa Phát

90

CTCP Mai Linh Đông Đô

Nông nghiệp, lâm nghiệp và Nông nghiệp, lâm nghiệp và Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

91

Khai khoáng

CTCP đầu tư thương mại Bắc Hà

92

Khai khoáng

CTCP khai thác và chế biến Lâm KS

93

Công ty TNHH du lịch và thương mại á đông

Nghệ thuật, vui chơi và giải

94

CTCP Điện Việt - Lào

95

TCTCP Đầu tư và XNK Foodinco, ông

96

CTCP Việt Tín

Khai thác khoáng sản và trồng cây cao su (10.000ha), Trồng cao su, cây trầm hương, chăn nuôi Trồng, chế biến sắn và các loại cây công nghiệp Xây dựng và vận hành nhà máy chế biến tinh quặng Sản xuất, chế biến, xuat khẩu gỗ và lâm sản khác Khảo sát, thăm dò, khai thác và chế biến đá thạch anh Thăm dò và khai thác mỏ đồng tại tỉnh Luông Nậm Xây dựng và kinh doanh khu du lịch sinh thái tại Lào XD và KD khách sạn và văn phòng cho thuê sx, kd gạch tunnel và vật liệu xây dựng Trồng ngô, thu mua nông sản

97

Kinh doanh bảo hiểm

Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư

Hoạt động kinh doanh bất động sản Công nghiệp chế biến, chế tạ Nông nghiệp, lâm nghiệp Hoạt động tài chính, ngân

98

CTCP Tập đoàn Thái Hòa

Nông nghiệp, lâm nghiệp và

99

Khai hoang đất rừng và trồng mới 10.000 ha cây cao su Kd dịch vụ bảo hiểm tại Lào

100

Tư vấn đầu tư tài chính

101

102

Hoạt động tài chính, ngân Hoạt động chuyên môn, Cung cấp nước, hoạt động Nông nghiệp, lâm nghiệp

103

Khai khoáng

CTCP bảo hiểm dầu khí Việt Nam Bùi Văn Tuynh và 1 số cá nhân khác CTCP môi trường xanh Hồng Việt Công ty TNHH MTV TCông ty Tín Nghĩa CTCP Đầu tư khoáng sản - than Đông

104 CTCP quốc tế C&T

Nông nghiệp, lâm nghiệp

105

CTCP Kinh doanh khoáng sản Việt Nam

Xử lý nước thải thủ đô Viên chăn Trồng khai thác 10.000 cao su và 400 ha cà phê Khảo sát, thăm dò, khai thác kinh doanh khoáng sản Trồng rừng nguyên liệu giay, cao su và cây CN khác Xây dựng, vận hành nhà máy chế biến quặng thiếc

Công nghiệp chế biến, chế tạo

106 CTCP Quốc tế Bình Hoà Dịch vụ tư vấn, phân tích

Hoạt động chuyên

Tiết

mẫu, chế biến, XNK quặng môn, khoa

107

Trồng cao su

108

109

Chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ Tư vấn, khảo sát, xây dựng và chế biến khoáng sản

110

Sản xuất hàng may mặc

111

Công ty Hợp tác Kinh tế 385 Doanh nghiệp tư nhân Quang Tú CTCP Xây dựng quốc tế - Tập đoàn CTCP Venture International Việt Nam Công ty TNHH Mani Hà Nội

Gia công, sản xuat,kinh doanh dụng cụ y tế

Nông nghiệp, lâm nghiệp Công nghiệp chế biến, chế tạo Hoạt động chuyên môn, khoa Công nghiệp chế biến, chế tạo Công nghiệp chế biến, chế tạo

112

Công nghiệp chế biến, chế tạo

CTCP Thương mại Tuấn Minh (CÔNG

Chế biến thành phẩm và sản xuất đồ nội ngoại that

113

Công ty TNHH Sản xuất Thương mại

114 Công ty TNHH Y tế NTC

Xây dựng nhà máy sản xuất sp inox, nhựa Khai thác thiết bị Ytế tại Bệnh viện Vientiane - Lào

115

Trồng 20.000ha cao su

116

Trồng và chế biến mủ cao su

117

Dịch vụ nổ mìn dân sự

CTCP Đầu tư Sài Gòn - Tây Nguyên CTCP Công nghiệp Cao su COECCO Công ty Vật tư Công nghiệp quốc phòng

118 Công ty TNHH Minh Đạt

119

Công nghiệp chế biến, chế tạo Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp chế biến, chế tạo Nông nghiệp, lâm nghiệp Nông nghiệp, lâm nghiệp

120

Khai khoáng

121

CTCP Hoàng Anh Gia Lai CTCP Đầu tư và Kinh doanh Golf CTCP Nhựa Thiếu niên Tiền Phong

Công nghiệp chế biến, chế tạo

122

CTCP Đầu tư và Kinh doanh Golf

Nghệ thuật, vui chơi và giải trí

123 CTCP SARA

Giáo dục và đào tạo

124

125

CTCP Đầu tư Quốc tế Cửu Long Doanh nghiệp tư nhân Tường Thành

Nông nghiệp, lâm nghiệp Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa

126

CTCP Cao su Thành phố Hồ Chí Minh

Nông nghiệp, lâm nghiệp

127 CTCP Đầu tư Cao su SGS

Trồng, chăm sóc 3000 ha cây cao su và khai thác Xây dựng khách sạn và phòng trọ và trồng rừng Tìm kiếm thăm dò, khai thác, chế biến vàng Sản xuất kinh doanh sản phẩm ống nhựa Xây dựng sân Golf 36 lỗ, khu biệt thự, căn hộ cao cấp Cung cấp dịch vụ giáo dục trình độ cao đẳng cho học Trồng, khai thác, kinh doanh SP cây cao su Kinh doanh về mặt hàng giấy Khai hoang, trồng mới, chăm sóc,khai thác, chế biến Khai hoang, trồng mới và chăm sóc 6500 ha cao su

Nông nghiệp, lâm nghiệp

128

129

Công nghiệp chế biến, chế tạo Cung cấp nước, hoạt động

130

Khai khoáng

Nhà máy say ngô,thu mua chế biến lương thực,nông Sd nhà máy sản xuất nước sạch cho vùng CN, Khai thác chế biến vàng và khoáng sản

131

Kinh doanh du lịch

CTCP Lương thực Hồng Hà Công ty TNHH MTV Mai Động CTCP Xây dựng công trình và Đầu tư CTCP Du lịch Thiên Minh

Hoạt động hành chính và dịch vụ

132 CTCP Sovico

Xây dựng

133

Công nghiệp chế biến, chế tạ

134

Khai khoáng

135

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa

136

Xây dựng

137

138

139

140

Dịch vụ lưu trú và ăn uống Dịch vụ lưu trú và ăn uống Thông tin và truyền thông Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa

141

Xây dựng

CTCP Kinh doanh Tổng hợp Việt Lào Công ty TNHH Cavico Việt Nam Công ty Xây lắp và Vật liệu Xây dựng Công ty TNHH Vật tư du lịch sinh thái Minh Đức CTCP Du lịch Thiên Minh Hoà Bình Công ty TNHH MTV Công ty Tín Nghĩa CTCP VTC Truyền thông trực tuyến CTCP Cơ khí Vina Nha Trang Tập đoàn Đầu tư Sài Gòn (CTCP Đầu tư Sài Gòn

142 Ông Hoàng Đức Dục

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa

143

Nông nghiệp, lâm nghiệp và

144

Khai khoáng

HTX Dịch vụ và Sản xuất Nông nghiệp CTCP Phát triển Đông Dương Xanh

145

Tổng công ty dầu Việt Nam

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa

146

Khai khoáng

147

Hoạt động tài chính

148

CTCP Khoáng sản Hòa Phát CTCP Bảo hiểm Bưu Điện CTCP Xây dựng Cao su Đồng Nai

Công nghiệp chế biến, chế tạ

149

CTCP Hoàng Anh Gia Lai

Hoạt động kinh doanh bất động sản

Đầu tư xây dựng mới biệt thự và khu nhà liền kề Sơ chế quặng đồng, luyện quặng đồng Tìm kiếm, thăm dò đồng và quặng khác Xây dựng và kinh doanh khu thương mại tại Lào Đầu tư, xây dựng các công trình kè sông Mê Kông Dịch vụ phòng ngủ và ẩm thực Kinh doanh khách sạn, resort và du lịch Sx, kd chương trình phần mềm,máy tính,sp điện tử, Mua bán mặt hàng cơ khí, điện tử, hoá chất, phân bón, Xây dựng khách sạn SGI Lao Hùng NK hàng tiêu dùng, thu mua sp nông nghiệp và sx sp Trồng trọt, chăn nuôi, chế biến và xuất khẩu các sản Khảo sát, tìm kiếm và thăm dò khoáng sản đồng Kinh doanh xăng dầu và các sản phẩm dầu mỏ tại Lào Tìm kiếm, khảo sát, thăm dò mỏ quặng đồng đỏ Kinh doanh BH phi nhân thọ Làm dịch vụ và tổ chức thi công, xây dựng giao thông xây dựng Trung tâm thương mại và căn hộ cho thuê

150 Tập đoàn CN than -

Khai khoáng than và

Khai khoáng

khoáng sản Việt Nam

khoáng sản khác các sp hóa

151

Khai khoáng

Tập đoàn CN than - khoáng sản Việt

152 CTCP Cơ khí Cao su

Công nghiệp chế biến, chế tạo

153

Xây dựng

CTCP Đầu tư khoáng sản và năng lượng An Phú

154

CTCP Cavico khoáng sản và công nghiệp

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa

155

Nông nghiệp, lâm nghiệp

156

Xây dựng

157

CTCP CN DV Cao su Chưpah CTCP Xây dựng thương mại và phát triển nông thôn CTCP Tập đoàn Hà Đô (Hada Group)

Hoạt động kinh doanh bất động sản

158

CTCP Nhựa Tân Phú và DNTN Thành Lợi

Cung cấp nước, hoạt động

159

CTCP Đại lý liên hiệp vận chuyển;

Hoạt động kinh doanh bất

160

Hoạt động tài chính

Ngân hàng TMCP Quân đội (MB)

161 Ông Nguyễn Tất Lạc;

Khai khoáng

162

CTCP Chứng khoán Ngân hàng SCB

163 CTCP Bảo Việt Xanh

164

Hoạt động tài chính, ngân Nông nghiệp, lâm nghiệp Sản xuất và phân phối điện,

165

Khai khoáng

CTCP Thủy điện Hoàng Anh Gia Lai CTCP Khoáng sản Hoàng Anh Gia Lai

166 Tập đoàn Sông Đà

Sản xuất và phân phối điện,

167

Vận tải kho bãi

168

CTCP Giao nhận và vận chuyển In Do CTCP Chứng khoán Ngân hàng SBS

Hoạt động tài chính, ngân

169

CTCP Sản xuất và Thương mại Khánh An

Nông nghiệp, lâm nghiệp

Thăm dò, khai thác, kd khoáng sản muối và các loại lắp ráp máy móc thiết bị cơ khí điện; 1. đầu tư, xây dựng công trình dân dụng, công nghiệp, Kinh doanh thương mại dầu mỡ nhờn, sản phẩm của Castrol Trồng, chăm sóc, và thu hoạch 1000ha cây cà phê Xây dựng nhà ở, công trình dân dụng và trang trí nội thất Đầu tư phát triển khu đô thị mới tại Lào Thu gom phế liệu; nhập khẩu nguyên liệu nhựa, phliệu Xây dựng TTTM, dịch vụ cho thuê văn phòng, căn hộ, Thành lập chi nhánh ngân hàng Khai thác quặng đồng và các quặng khác tại mỏ Ca Xỉ; Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, tư vấn Chăn nuôi bò và chế biến sữa Xây dựng 2 nhà máy thủy điện Nậm Công 2 Khai thác, chế biến quặng sắt với công suất: khai thác: phát điện, (cung cấp nhu cầu trong nước) Dịch vụ vận tải quốc tế, đại lý hãng hàng không, dịch Mua cổ phần của các doanh nghiệp hoạt động trong Trồng ngô, khoai, sắn và chăn nuôi (450 ha), xây dựng

170

CTCP XNK và Đầu tư Kon Tum

Nông nghiệp, lâm nghiệp

171

172

173

174

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa Nông nghiệp, lâm nghiệp Nông nghiệp, lâm nghiệp Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa

175

Hoạt động tài chính,

176

177

TCông ty Xăng dầu Việt Nam CTCP Nông sản thực phẩm Quảng ngãi CTCP Đầu tư và Thương mại Đông Dương Xanh Công ty TNHH Sufat Việt Nam Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam Công ty TNHH MTV Đầu tư phát triển CTCP Mía đường Hoàng Anh Gia Lai

Hoạt động chuyên môn, khoa Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản

178

CTCP Đầu tư và kinh doanh vàng Việt Nam

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa

179 CTCP Đầu tư khoáng sản

Xây dựng

180

Hoạt động tài chính

181

Hoạt động kinh doanh bất động sản

182

Khai khoáng

183

184

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa Nông nghiệp, lâm nghiệp

185

Khai khoáng

186

Hoạt động tài chính

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam CTCP Bê tông tươi Việt Nga CTCP TĐ đầu tư Việt Phương (VPG) Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Công ty TNHH MTV Cao su Hà Tĩnh CTCP Chế biến khoáng sản Nam toàn cầu Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội

Sản xuất và khai thác chế biến nông lâm sản, trồng cây Mua lại 100% cổ phần của Công ty Chevron Lào Phát triển cây công nghiệp ngắn ngày tại địa phương Trồng và phát triển vùng nguyên liệu sắn (4000ha), Kinh doanh xuất nhập khẩu xe máy và phụ tùng xe Huy động vốn, cho vay, tài trợ thương mại, Kinh doanh tín chỉ carbon từ rừng Trồng mía 12.000ha), sản xuất đường (7.000) Xuất nhập khẩu vàng thỏi và vàng miếng; đại lý phân phối Đầu tư, xây dựng công trình dân dụng, công nghiệp, Hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng Kinh doanh bđs (70%), sản xuất mua bán vật liệu xây Thăm dò khoáng sản bauxit nhằm đánh giá tiềm năng, Bán lẻ nước hoa, mỹ phẩm và sản phẩm chăm sóc da Trồng, chăm sóc cao su (700ha) Khảo sát, tìm kiếm vàng và khoáng sản trên diện tích Kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng

187 CTCP VI LÊ NTM

Bán buôn, bán lẻ

188

CTCP Đầu tư Phát triển Sản xuất

Khuyến khích sản xuất nông nghiệp làm hàng hóa

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa Nông nghiệp, lâm nghiệp và