ĐẠI HỌC QUỐC GIA HA NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA NGÔN NGỮ HỌC HOÀNG THỊ HÀ NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU PHÉP TỈNH LƯỢC HỒI CHỈ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC Hà Nội - 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HA NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA NGÔN NGỮ HỌC --- ---
HOÀNG THỊ HÀ NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU PHÉP TỈNH LƯỢC HỒI CHỈ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Khóa: 2005-2008
Hà Nội - 2008
Hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Hồng Cổn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. Trang
1. Lí do chọn đề tài.. ........................................ ..................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 3
3. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu .................................................................. 4
4. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn ............................................................................... 5
5. Bố cục của luận văn .......................................................................................... 6
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG .......................................................................................... 7
1.1 Chỉ xuất và hồi chỉ .......................................................................................... 7
1.1.1 Chỉ xuất và các biểu thức chỉ xuất ............................................................... 7
1.1.2. Hồi chỉ và các phương tiện hồi chỉ ............................................................. 9
1.1.2.1 Khái niệm hồi chỉ ...................................................................................... 9
1.1.2.2 Các phương tiện hồi chỉ (Anaphoric Devices) ........................................ 11
a. Đại từ nhân xưng (Pronouns) .......................................................................... 11
b. Chỉ định từ (Determiners) ............................................................................... 12
c. Liên hệ từ vựng ( Lexical Relationship) ......................................................... 13
d. Tỉnh lược (Ellipsis) ......................................................................................... 14
e. Thay thế (Substitution) .................................................................................... 15
f. Đồng vị ngữ (Apposition) ................................................................................ 16
1.2 Tỉnh lược và các chức năng của Tỉnh lược ................................................... 17
1.2.1 Khái niệm Tỉnh lược .................................................................................. 17
1.2.2 Các chức năng của tỉnh lược ..................................................................... 19
1.2.2.1 Tỉnh lược có chức năng rút gọn ............................................................. 20
1.2.2.2 Tỉnh lược có chức năng thay thế ............................................................. 22 1.2.2.3 Tỉnh lược có chức năng trực chỉ 24
1.2.2.4 Tỉnh lược có chức năng khứ chỉ .............................................................. 26
1.2.2.5 Tỉnh lược có chức năng hồi chỉ .............................................................. 27
1.3 Tỉnh lược hồi chỉ là gì? ................................................................................. 29
1.3.1 Quan điểm về tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh ....................................... 29
1.3.2 Quan điểm về tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Việt ....................................... 32
1.3.3 Quan điểm của luận văn về Tỉnh lược hồi chỉ ........................................... 37
CHƯƠNG 2:
TỈNH LƯỢC HỒI CHỈ CHỦ NGỮ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT ..40
2.1 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Anh ................................................... 41
2.1.1 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu đơn .................................................. 41
2.1.2 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép đẳng lập (co- ordinated
clauses) ................................................................................................................ 43
2.1.3 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong các câu ghép chính phụ (Subordinated
clauses) ................................................................................................................ 47
2.2 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Việt .................................................. 50
2.2.1 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu đơn ................................................... 50
2.2.2 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép đẳng lập .................................. 53
2.2.3 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép chính phụ ................................ 54
2.3 Đối chiếu và Chuyển dịch ............................................................................ 55
2.3.1 Đối chiếu .................................................................................................... 55
2.3.2 Chuyển dịch ............................................................................................... 59
2.3.2.1 Tương đồng ............................................................................................. 59
2.3.2.2 Khác biệt ................................................................................................. 60
2.4 Tiểu kết .......................................................................................................... 69
CHƯƠNG 3:
TỈNH LƯỢC HỒI CHỈ VỊ NGỮ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT ........ 71
3.1 Tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ trong tiếng Anh ..................................................... 72
3.1.1 Tỉnh lược hồi chỉ một phần của vị ngữ ...................................................... 72
3.1.1.1 Chỉ tỉnh lược hồi chỉ thành phần động từ chính của vị ngữ .................... 72
3.1.1.2 Tỉnh lược hồi chỉ động từ chính (hoặc động từ tobe) + bổ
ngữ………………………………………………………………………… ...... 74
3.1.1.3 Tỉnh lược hồi chỉ thành phần bổ ngữ trong vị ngữ ................................. 75
3.1.2 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ ........................................................... 78
3.1.2.1 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ trong câu đơn .................................. 79
3.1.2.2 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ trong câu ghép đẳng lập ................. 80
3.1.2.3 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ trong câu ghép chính phụ ............... 81
3.1.2.4 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ trong câu bị động ............................ 82
3.2 Tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ trong tiếng Việt ..................................................... 83
3.2.1 Tỉnh lược hồi chỉ một phần của vị ngữ ...................................................... 83
3.2.1.1 Tỉnh lược hồi chỉ động từ chính của vị ngữ ............................................ 83
3.2.1.2 Tỉnh lược hồi chỉ thành phần bổ ngữ trong vị ngữ ................................. 84
3.2.2 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ ............................................................ 85
3.3 Đối chiếu và Chuyển dịch ............................................................................. 87
3.3.1. Đối chiếu ................................................................................................... 87
3.3.2 Chuyển dịch ............................................................................................... 89
3.3.2.1 Tương đồng ............................................................................................. 89
3.3.1.2 Khác biệt ................................................................................................. 91
3.4 Tiểu kết .......................................................................................................... 95
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 101
CÁC QUY ƯỚC VIẾT TẮT
TLHC: Tỉnh lược hồi chỉ
TLHC CN: Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
TLHC VN: Tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ
: rêzô
TA: Tiếng Anh
TV: Tiếng Việt
NXB: Nhà xuất bản
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trước sự phát triển mạnh mẽ và xu thế hội nhập toàn cầu của đất nước,
ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng ngày càng chứng tỏ vị trí quan
trọng trong xã hội. Do vậy, việc nắm vững những đặc điểm tương đồng và dị
biệt giữa tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt và tiếng Anh là điều hết sức cần thiết để có
thể truyền tải đầy đủ và chính xác nội dung thông điệp khi thực hiện chuyển
dịch từ Anh sang Việt hay ngược lại. Chúng ta có thể nhận diện những đặc
điểm tương đồng hay dị biệt này giữa hai ngôn ngữ này qua nhiều khía cạnh
như ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng... Tuy nhiên, ít ai biết rằng có một hiện tượng
ngữ pháp xảy ra khá phổ biến có thể giúp ta nhận thấy rất rõ những đặc điểm
khác nhau và giống nhau giữa hai ngôn ngữ trong quá trình chuyển dịch, đó là
hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ.
Tỉnh lược hồi chỉ là một hiện tượng khá phức tạp. Như ta đã biết, tỉnh
lược là phương thức liên kết quan trọng trong hệ thống liên kết văn bản. Nó
đã vượt qua giới hạn của một phát ngôn để thể hiện sự duy trì liên kết ở mức
độ giữa các phát ngôn khác nhau trong văn bản. Hơn thế nữa, nó cũng góp
phần tạo cho văn bản tính hệ thống chặt chẽ và chính xác mà lại tiết kiệm
được ngôn từ. Tỉnh lược hồi chỉ là một dạng đặc biệt của phương thức tỉnh
lược. Nó không những đem lại những hiệu quả ngữ dụng cũng như tính mạch
lạc cao hơn cả các phương thức liên kết thông thường mà còn được đánh giá
là một trong những biện pháp rút gọn và liên kết tối ưu nhất. Bàn về vấn đề
này, tác giả Cao Xuân Hạo [5, 198] đã sử dụng thuật ngữ "hồi chỉ rê rô" và có
nhận xét trong cuốn Sơ thảo ngữ pháp chức năng (quyển 1) như sau: “Một
câu không có yếu tố hồi chỉ thì tính độc lập của nó cao hơn và do đó ít gắn bó
với văn cảnh hơn một câu có yếu tố hồi chỉ, trong đó có cả hồi chỉ (Tỉnh
Hoàng Thị Hà
1
lược)”.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Ta có thể thấy rằng vấn đề này đã được đề cập đến tương đối nhiều
trong nghiên cứu ngôn ngữ học với nhiều thuật ngữ khác nhau: hồi chỉ zê rô,
tỉnh lược hồi chỉ, thế bằng zê rô... Sở dĩ chưa có sự thống nhất về tên gọi là do
những khác biệt về quan điểm và góc độ nhìn nhận từ nhiều cách tiếp cận
khác nhau của các nhà nghiên cứu. Hơn thế nữa, phương thức tỉnh lược hồi
chỉ trong hai ngôn ngữ Anh và Việt có những đặc điểm khác biệt nhau về
hình thức cấu trúc và tần số xuất hiện trong quá trình dịch thuật. Do vậy, khi
chuyển dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt, các câu có chứa phương thức tỉnh
lược hồi chỉ không phải lúc nào cũng tương ứng hoàn toàn về cấu trúc cũng
như dạng thức liên kết. Sau đây là một ví dụ về hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ:
(1) The King was so charmed with his address that he ordered a little chair to
be made, in order that Tom might sit upon his table, and also a palace of
gold, a span high, with a door an inch wide, to live in.
(Đức vua rất vui thích vì sự khôn ngoan của chú. Ngài ra lệnh thuê làm một
chiếc ghế tựa nhỏ và đặt lên trên bàn của ngài cho Tôm ngồi. Ngài cũng sai
làm một chiếc lâu đài bằng vàng cao một gang tay, với một cái cửa ra vào
rộng một insơ để chú ở.)
(Truyện chú Tôm tí hon, Tr18, Truyện cổ tích Anh, NXB Giáo dục 2003)
Xét ví dụ trên, ta có thể thấy rằng câu nguyên bản tiếng Anh là một câu
ghép nhiều vế lại với nhau. Trong đó có một chuỗi quy chiếu hồi chỉ đến một
chủ thể làm chủ ngữ lần lượt là: “the King” (Đức vua) - “he” (ngài) - “”.
Trong câu này, chủ ngữ cuối cùng là , nghĩa là chủ thể đã được tỉnh lược
hồi chỉ, thay vì lặp lại từ "he". Tuy nhiên khi câu tiếng Anh này được chuyển
dịch sang tiếng Việt thì đã có sự khác biệt rõ ràng. Mặc dù khi chuyển dịch
sang tiếng Việt, ý nghĩa nội dung của câu không thay đổi nhưng rõ ràng đã có
sự khác biệt về cấu trúc và phương thức sử dụng để liên kết hồi chỉ. Lúc này
câu ghép tiếng Anh đã được chuyển dịch sang thành ba câu đơn riêng biệt và
Hoàng Thị Hà
2
có chuỗi quy chiếu hồi chỉ giữa các câu đơn là: “Đức vua” - “ngài” - “ngài”.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt Như vậy, trong câu tiếng Việt đã không còn sử dụng phương thức liên kết tỉnh
lược hồi chỉ như trong câu gốc tiếng Anh nữa mà thay thế bằng phương thức
liên kết lặp từ vựng “ngài”. Như vậy ta thấy có sự khác biệt rõ ràng về cấu
trúc ngữ pháp cũng như cách sử dụng phương thức liên kết khi chuyển dịch
bản tiếng Anh sang tiếng Việt nhưng nội dung thông báo thì vẫn không thay
đổi.
Mặc dù có một vai trò quan trọng trong liên kết văn bản nhưng trên
thực tế tỉnh lược hồi chỉ vẫn là một vấn đề hết sức phức tạp, gây ra nhiều ý
kiến tranh luận khác nhau. Đặc biệt, theo hiểu biết của chúng tôi, hiện nay
chưa có công trình khoa học nào đi nghiên cứu sâu về hiện tượng tỉnh lược
hồi chỉ, nhất là trên bình diện đối chiếu trên cứ liệu hai ngôn ngữ Anh - Việt.
Để góp phần tìm hiểu thêm phương thức tỉnh lược hồi chỉ cũng như để thấy
được những đặc điểm tương đồng và dị biệt giữa tiếng Anh và tiếng Việt
thông qua việc đối chiếu ngữ liệu Anh - Việt có hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ,
luận văn của chúng tôi nhằm đến hai mục đích cụ thể sau:
(1) Mô tả và tìm hiểu những đặc điểm tương đồng và dị biệt của
phương thức tỉnh lược hồi chỉ trong quá trình dịch thuật giữa hai ngôn ngữ
Anh và Việt.
(2) Khảo sát các cách chuyển dịch phương thức tỉnh lược hồi chỉ trong
tiếng Anh sang tiếng Việt.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng khảo sát của chúng tôi là các dạng thức biểu hiện của tỉnh
lược hồi chỉ các thành phần của nòng cốt câu là: Chủ ngữ, vị ngữ trong tiếng
Anh và dạng thức tương ứng trong tiếng Việt ở cấp độ câu và chuỗi câu.
Tuy nhiên, tỉnh lược hồi chỉ là một vấn đề rất rộng và phức tạp. Chúng
tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu hiện tượng này trong khuôn khổ đối chiếu
tiếng Anh và tiếng việt trên bình diện dịch thuật và tần số xuất hiện trên ngữ
Hoàng Thị Hà
3
liệu song ngữ Anh - Việt.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt 3. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu chung
là phương pháp quy nạp.
Ngoài ra chúng tôi còn áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu chuyên
ngành cụ thể như phương pháp miêu tả, phương pháp phân tích đối chiếu và
phương pháp thống kê.
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp miêu tả được sử dụng nhằm khảo
sát và mô tả các đặc điểm ngữ nghĩa của các dạng tỉnh lược hồi chỉ và phân
loại chúng trên tư liệu hai ngôn ngữ trước khi tiến hành phân tích đối chiếu.
- Phương pháp phân tích - đối chiếu: Luận văn sử dụng phương pháp
phân tích đối chiếu với quan điểm lấy tiếng Anh làm xuất phát điểm để đối
chiếu với tiếng Việt. Qua đó, chúng tôi xem xét tính tương ứng hay không
tương ứng, hay nói cách khác là những tương đồng hay dị biệt giữa tỉnh lược
hồi chỉ trong văn bản tiếng Anh và dạng thức tương ứng trong văn bản dịch
tiếng Việt. Để tiến hành phân tích, đối chiếu sự giống nhau và khác nhau của
hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ một cách thuận lợi và chính xác, chúng tôi sẽ
trích dẫn những tư liệu bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt.
- Phương pháp thống kê: Trong luận văn, chúng tôi sử dụng phương
pháp thống kê để thu thập tư liệu về tần số xuất hiện của phương thức liên kết
tỉnh lược hồi chỉ trong các văn bản song ngữ Anh - Việt.
Về tư liệu nghiên cứu, chúng tôi tiến hành nghiên cứu và thống kê tư
liệu trong những văn bản song ngữ Anh - Việt có độ tin cậy cao về mặt dịch
thuật. Chúng tôi đã thu thập được 204 phiếu (trong đó mỗi phiếu là phần trích
dẫn tiếng Anh và đi kèm theo là phần tiếng Việt đối dịch tương ứng), được
chọn lọc ra từ 1.484 câu của 6 văn bản song ngữ Anh – Việt. Các tác phẩm
được trích dẫn bao gồm:
(1) Cái chết trắng (White Death), Tim Vicary, Thôn Bạch Hạc
Hoàng Thị Hà
4
dịch, Nhà Xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1999.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
(2) Chú mèo đi hia (Puss in boots), Trần Bích Thoa dịch, truyện
cổ tích Anh, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003.
(3) Đích Uýtingtơn - Ngài thị trưởng thành phố Luân Đôn (Dick
Whittington), Trần Bích Thoa dịch, truyện cổ tích Anh, Nhà xuất bản Giáo
dục, 2003.
(4) Truyện chú Tôm tí hon (The history of Tom Thumb), Trần
Bích Thoa dịch, truyện cổ tích Anh, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003.
(5) Cô bé mặc áo choàng mũ đỏ (Red Riding Hood), Trần Bích
Thoa dịch, truyện cổ tích Anh, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003.
(6) Cậu Giắc và cây đậu (Jack and the Beanstalk), Trần Bích
Thoa dịch, truyện cổ tích Anh, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003.
4. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lí luận: Theo những tài liệu mà chúng tôi có được thì cho đến
nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu đối chiếu hiện tượng
tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt một cách có hệ thống và đầy
đủ. Do vậy chúng tôi mong muốn đưa ra những tìm hiểu ban đầu về tỉnh lược
hồi chỉ cũng như những nét tương đồng và dị biệt của hiện tượng này giữa hai
ngôn ngữ, góp phần vào việc nghiên cứu vấn đề này cùng với các nhà Anh
ngữ và Việt ngữ học.
- Ý nghĩa thực tiễn: Phương thức liên kết tỉnh lược hồi chỉ được đánh
giá là một trong các phương thức đem lại hiệu quả liên kết và ngữ dụng tối ưu
nhất. Do vậy, chúng tôi mong rằng kết quả nghiên cứu của luận văn này sẽ
đóng góp phần vào việc phát hiện những điểm giống nhau và khác nhau giữa
hai ngôn ngữ và kiến giải vấn đề để nâng cao hiệu năng trong sử dụng và
nghiên cứu, nhất là nâng cao chất lượng dịch thuật, giảng dạy tiếng Việt cho
người Việt và cho người nói tiếng Anh học tiếng Việt. Từ đó, giúp cho người
học có thể phân tích và tiếp thụ văn bản song ngữ Anh - Việt một cách hiệu
Hoàng Thị Hà
5
quả. Đặc biệt, khi hiện nay tiếng Anh ngày càng có vị thế quan trọng trong xã
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt hội chúng ta và tiếng Việt đã và đang trở thành một ngoại ngữ thực sự và có
phạm vi ứng dụng rộng rãi.
5. Bố cục của luận văn
Trong khuôn khổ luận văn này, ngoài phần mở đầu và phần kết luận,
chúng tôi sẽ trình bày phần nội dung gồm các chương sau đây:
- Chương 1: Cơ sở lí luận chung
- Chương 2: Đối chiếu hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng
Anh và tiếng Việt và khảo sát khả năng chuyển dịch.
- Chương 3: Đối chiếu hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ trong tiếng
Anh và tiếng Việt và khảo sát khả năng chuyển dịch.
Ngoài ra, luận văn còn có phần phụ lục bao gồm 204 phiếu tư liệu tiếng
Anh có chứa hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ, tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ và
phần đối dịch tiếng Việt được trích dẫn từ các văn bản song ngữ Anh - Việt
Hoàng Thị Hà
6
hiện đại.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Chỉ xuất và hồi chỉ
1.1.1 Chỉ xuất và các biểu thức chỉ xuất
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn Đại cương Ngôn ngữ học (Tập
II: Ngữ dụng học) thì chỉ xuất (dexis) là phương thức chiếu vật dựa trên hành
động chỉ trỏ. Quy tắc điều khiển chỉ trỏ là: sự vật được chỉ trỏ phải ở gần
(trong tầm với của người chỉ và trong tầm nhìn của cả người chỉ lẫn người
được chỉ) đối với một vị trí được lấy làm mốc. Điểm lấy làm mốc để chỉ trỏ
thường là cơ thể của người chỉ tính theo hướng nhìn thẳng của người này.
Quy tắc này sẽ giải thích sự chiếu vật bằng chỉ xuất trong ngôn ngữ. [2, 72]
Tất cả các ngôn ngữ đều có hệ thống từ chuyên chiếu vật theo phương
thức chỉ xuất. Trong đó có thể liệt kê ra ba phạm trù chỉ xuất trong các ngôn
ngữ là phạm trù ngôi (nhân xưng), phạm trù chỉ xuất không gian, phạm trù chỉ
xuất thời gian.
- Phạm trù ngôi (tức nhân xưng): Phạm trù ngôi hay phạm trừ xưng hô
bao gồm những phương tiện chiếu vật nhờ đó người nói tự quy chiếu, tức tự
đưa mình vào diễn ngôn (tự xưng) và đưa người giao tiếp với mình (đối xưng)
vào diễn ngôn. Như thế, phạm trù ngôi thuộc quan hệ vai giao tiếp ngay trong
cuộc giao tiếp đang diễn ra với điểm gốc là người nói. Khi vai trò người nói
luân chuyển thì ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai cũng thay đổi theo: ở lời nói của
Sp1 thì Sp1 là tôi (I), còn Sp2 là anh (you). Đến khi Sp2 nói thì Sp2 sẽ là tôi
(I) còn Sp1 sẽ là anh (you). [2, 72]
- Phạm trù chỉ xuất không gian: Là phương thức chiếu vật bằng cách
Hoàng Thị Hà
7
chỉ ra sự vật (sự kiện) theo vị trí tương đối của nó trong không gian theo một
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt điểm mốc để định vị không gian của sự vật, sự việc. Hoặc người ta lấy một
điểm không gian làm điểm mốc định vị sự vật, sự việc.
- Phạm trù chỉ xuất thời gian: Là phương thức chiếu vật bằng cách lấy
lấy thời điểm nói năng làm điểm gốc. Hiện tại, quá khứ, tương lai là so với
thời gian nói - điểm gốc đó. Đó là các từ như: now (bây giờ), then (bấy giờ),...
Trong chỉ xuất có sự phân biệt giữa nội chỉ (endophoric) và ngoại chỉ
(exophoric). Biểu thức chỉ xuất ngoại chỉ khi sự vật - nghĩa chiếu vật của nó
nằm ngoài diễn ngôn, trong thế giới thực tại. Biểu thức chiếu vật nội chỉ khi
sự vật - nghĩa chiếu vật cuả nó đã nằm trong diễn ngôn (tức nằm trong nhận
thức của người nói, người nghe). [2, 74]
Trong phạm vi khoá luận này, chúng tôi chỉ bàn về vấn đề nội chỉ,
nghĩa là vấn đề chỉ xuất trong diễn ngôn (chỉ xuất trong văn bản) và cụ thể là
phương thức tỉnh lược hồi chỉ trong văn bản. Nội chỉ là phương thức chỉ xuất
sự vật đang được nói đến trong một lời nói, một phát ngôn theo việc nó đã
được nói đến trong tiền văn hay nó sẽ được nói tới trong hậu văn hay không.
Biểu thức chiếu vật đang nói tới trong phát ngôn được dùng để thay thế cho
sự vật đã được nói trước trong tiền văn hoặc sẽ được nói tới trong hậu văn.
Xét ví dụ sau đây:
(2) "Lớp bàn về khuyết điểm của Quân trong học tập. Về điều ấy tôi có ý kiến
như thế này: Quân đã tỏ ra không tôn trọng tập thể”.
Trong ví dụ trên, biểu thức "điều ấy” thay thế cho biểu thức chiếu vật
“khuyết điểm của Quân trong học tập” đã được nói tới ở tiền văn; biểu thức
“như thế này” thay thế cho điều sẽ được nói tới ở sau: “Quân đã tỏ ra …”.
biểu thức chiếu vật trong diễn ngôn "điều ấy” có tính chất hồi chỉ (anaphoric)
Hoàng Thị Hà
8
còn biểu thức “như thế này” có tính chất khứ chỉ (cataphoric).
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt 1.1.2. Hồi chỉ và các phương tiện hồi chỉ
1.1.2.1 Khái niệm hồi chỉ
Trong văn bản cũng như trong quá trình giao tiếp, con người có thể lựa
chọn những yếu tố ngôn ngữ và cách diễn đạt phù hợp để tổ chức phát ngôn
nhằm phục vụ cho ý đồ thông báo riêng của mình. Thực tế, khi viết cũng như
khi nói, người ta có xu hướng lựa chọn cách diễn đạt tối ưu nhất, vừa tiết
kiệm ngôn từ mà vẫn đảm bảo tính hiệu quả trong khi diễn đạt ngữ nghĩa của
người nói theo các ý đồ thông báo khác nhau. Các nhà ngôn ngữ đã chỉ ra
rằng hồi chỉ là một trong những phương thức liên kết văn bản tối ưu góp phần
tạo nên tính mạch lạc trong văn bản và có phạm vi sử dụng khá phổ biến. Hầu
như trong ngôn ngữ nào cũng sử dụng hồi chỉ để liên kết. Do tầm quan trọng
như vậy, đã có không ít các công trình trong nước và ngoài nước xem xét vấn
đề này với phạm vi và mức độ khác nhau. Vậy hồi chỉ là gì?
Bàn về khái niệm hồi chỉ, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều thuật ngữ
khác nhau như: hồi chỉ, hồi chiếu, liên kết hồi quy… Có thể liệt kê các quan
điểm của các tác giả: Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Thiện Giáp, Diệp Quang
Ban, Cao Xuân Hạo và các tác giả nước ngoài như: Geogre Yule, Halliday,
David Nunan…Theo đó, ta thấy thuật ngữ “hồi chiếu” được sử dụng trong các
sách như “Dụng học” của George Yule; “Dẫn nhập phân tích diễn ngôn” của
David Nunan; Văn bản và liên kết trong tiếng Việt của Diệp Quang Ban.
Trong đó khái niệm “hồi chiếu ” mà Diệp Quang Ban đưa ra như sau:
"Hồi chiếu là trường hợp yếu tố giải thích xuất hiện trước, yếu tố được
giải thích xuất hiện sau. Vì vậy muốn hiểu yếu tố được giải thích thì phải quay
trở lại với yếu tố giải thích nằm trong phần lời đã nói trước đó, tức tham
khảo ở phần lời đã có trước yếu tố được giải thích." [1, 178].
Trong khi đó các tác giả Trần Ngọc Thêm, Võ Văn Chương, Nguyễn
Thị Việt Thanh… lại gọi đây là liên kết hồi quy. Tiêu biểu là ý kiến do Trần
Hoàng Thị Hà
9
Ngọc Thêm đưa ra trong cuốn “Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt ”.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
"Trong phần lớn các liên kết hiện diện, kết ngôn đứng sau chủ ngôn, nó
chỉ ra sự liên kết với phần văn bản đã qua. Loại liên kết này, ta sẽ gọi là liên
kết hồi quy. Các phát ngôn có liên kết hồi quy không bao giờ đứng đầu văn
bản". [15, 81] .
Tuy nhiên, phần đông các tác giả dùng thuật ngữ hồi chỉ (Anaphora)
như: Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thiện Giáp, Halliday, Đường Công Minh…
Tiêu biểu phải kể đến quan niệm mà tác giả Cao Xuân Hạo đã đưa ra trong
cuốn “Cơ sở ngữ pháp chức năng (q.1)” như sau:
"Các câu làm thành một tổ hợp câu hay một đoạn văn có thể gồm có
những sở chỉ chung. Trường hợp đó sở chỉ của những danh ngữ, động ngữ
trong một câu hay của cả câu đó có thể biểu thị bằng những yếu tố hồi chỉ
(anaphoric) trong các câu kế tiếp theo…" [7, 195].
Nhìn chung, “hồi chỉ” có nhiều cách gọi khác nhau nhưng hầu như các
nhà nghiên cứu đều có chung quan điểm là yếu tố hồi chỉ chỉ ra một đối tượng
bên ngoài nhờ vào mối quan hệ đồng sở chỉ với một yếu tố có mặt ở tiền biểu
thức (hoặc tiền từ). Muốn xác định được quy chiếu của yếu tố hồi chỉ phải
dựa vào các phát ngôn chứa tiền từ đứng ở phía trước. Trên cơ sở tiếp thu các
ý kiến cuả các nhà nghiên cứu đi trước, tác giả Võ Văn Chương đã đề ra ba
điều kiện để xác định một liên kết hồi quy trong bài báo “Liên kết hồi quy
trong ngôn ngữ học văn bản - Vài kiến nghị về cách xác định và phân loại”
(Ngôn ngữ số 7, 2004).
(1) Sự phụ thuộc vào ngôn cảnh của kết tố: tức là đòi hỏi sự giải nghĩa
của kết tố hồi quy phải dựa vào ngôn cảnh mà nó xuất hiện.
(2) Chủ tố phải hiện diện trong ngôn cảnh đặt trước kết tố và được xác
định một cách rõ ràng.
Hoàng Thị Hà
10
(3) Bắt buộc phải có sự lặp lại của chủ tố.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi thống nhất sử dụng thuật ngữ
“hồi chỉ” và lấy khái niệm mà tác giả Diệp Quang Ban đưa ra làm cơ sở
nghiên cứu của luận văn.
1.1.2.2 Các phương tiện hồi chỉ (Anaphoric Devices)
Theo tìm hiểu của chúng tôi, mặc dù hồi chỉ là vấn đề phổ quát, thế
nhưng các phương tiện hồi chỉ (Anaphoric Devices) vẫn còn là vấn đề khá
mới mẻ đối với các nhà ngôn ngữ, đặc biệt là trong giới Việt ngữ học. Qua
tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy rằng nhà ngôn ngữ học người Anh Richard
Hudson (hay còn gọi là Dick Hudson) là một trong số ít những nhà ngôn ngữ
xem xét đến vấn đề này trong cuốn “Coherence: Anaphora and Reference”
(Liên kết: Hồi chỉ và Quy chiếu). Theo quan điểm của Richard Hudson [30],
hồi chỉ là một dạng của liên kết vì nó kết nối bằng cách quy chiếu một từ
ngược trở lại với một từ khác đứng trước có cùng sở chỉ với nó. Theo nhà
ngôn ngữ học người Anh này thì có 5 phương tiện hồi chỉ như sau:
a. Đại từ nhân xưng (Pronouns)
Đại từ là lớp từ được sử dụng phổ biến nhất để tạo nên chuỗi quy chiếu
về người hoặc vật dù trong cùng một câu hoặc câu đi trước là sử dụng đại từ
nhân xưng và hình thức sở hữu (chẳng hạn “she- cô ấy”; “her - cuả cô ấy”, “it
- nó”, “they - họ”, “them- họ”, “their - cuả họ”…). Ta xét ví dụ sau:
(3) "Once upon a time there was an old woman who had a lazy son. She was
forever scolding him, but it made no difference - he spent all his time lying in
the sunshine, ignoring her. His main job was to look after her goats, but he
preferred to sleep in the sun".
(Ngày xưa có một bà già có một người con trai rất lười. Bà ta luôn luôn rầy
la hắn, nhưng điều đó chẳng có ảnh hưởng gì cả - hắn dành tất cả thời gian
để nằm sưởi nắng, phớt lờ bà mẹ. Công việc chủ yếu của hắn là trông coi đàn
Hoàng Thị Hà
11
dê của mẹ nhưng mà hắn lại thích nằm ngủ sưởi nắng hơn. )
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Hồi chỉ (anaphora) là cách gọi tên cho mối quan hệ giữa hai chuỗi quy
chiếu trong đoạn văn trên là:
An old woman (một bà già)- she (bà ta) - her (bà ta) - her (của bà)
An lazy son (một người con trai lười) - him (hắn ta)- he (hắn ) - his
(của hắn) - his (của hắn) - he (hắn)
Ta thấy trong ví dụ trên, các đại từ đã thực hiện chức năng hồi chỉ và
tạo nên mối liên kết, mạch lạc cho cả đoạn văn một cách rõ ràng, dễ hiểu.
Trong đoạn văn trên, nhờ có các đại từ nhân xưng và đại từ sở hữu được sử
dụng một cách thích hợp, ta biết được chính xác có hai nhân vật được đề cập
đến, một là “he”- đàn ông và hai là “she” - đàn bà, và cụ thể là hai nhân vật:
bà mẹ và người con trai.
b. Chỉ định từ (Determiners)
Các từ chỉ định (this- cái này, that - cái kia, these - những cái này, those
- những cái kia) cũng có chức năng hồi chỉ tương tự. Về nguồn gốc có lẽ
chúng giống với các hình thức ngôi thứ ba nhưng chúng giữ lại được những
đặc điểm chỉ trỏ mạnh mẽ hơn các yếu tố nhân xưng, và đã tiến hóa thành các
chức năng hồi chỉ khu biệt riêng của chúng.
Nét nghĩa cơ bản của “this/these” và “that / those” là nét nghĩa chỉ sự
kề cận. “this/ these ” chỉ một cái gì đó ở gần, “that/ those” chỉ một cái gì đó
không ở gần. Ta có các ví dụ minh họa sau:
(4) People are beginning to realize the true scale of the problem facing them.
Some of these are Germany’s alone, though with powerful European side -
effects (“these” = “these problems”).
(Người ta bắt đầu nhận ra mức độ đúng đắn cuả vấn đề họ gặp. Một vài vấn
đề ấy của riêng nước Đức, mặc dầu có tác động mạnh mẽ của châu Âu ).
(5) A century earlier, Messina had had a famous architechural seafront, lined
Hoàng Thị Hà
12
with elegant palaces. Only remmants of that remained.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (Thế kỷ trước, Messina đã có một công trình kiến trúc nổi tiếng hướng ra
biển, với nhiều toà lâu đài tao nhã. Chỉ có một số tàn dư của công trình đó là
còn tồn tại.)
Các yếu tố chỉ định chỉ địa điểm “here” và “there” cũng được sử dụng
làm phương thức hồi chỉ nơi chốn đã được đề cập hoặc hàm ẩn trong văn bản.
(6) The house stood near a quiet sandy beach facing across the vast distances
of the lake of Oulu; here she could wander and imagine herself on the edge of
a great sea.
(Ngôi nhà nằm cạnh bãi cát biển yên tĩnh đối mặt với khoảng không bao la
của hồ Oulu; ở đây cô ấy có thể bách bộ và hình dung mình đang bên bờ đại
dương)
(7) My father expects to land at Portsmouth within the portnight. It would
mean so much to me to be there on the dock, waiting for him.
(Bố tôi mong cập cảng Portsmouth trong vòng nửa tháng nữa. Được có mặt ở
đấy, tại bến tàu để đợi ông, đối với tôi rất có nhiều ý nghĩa)
Ngoài ra, do tiếng Anh là ngôn ngữ biến hình, nên còn có một phương tiện
hồi chỉ khác là mạo từ “the”. Mạo từ “the” thông thường được sử dụng để
chỉ ra một nhân vật hay đặc điểm đã được đề cập đến trước đó, hoặc ít nhất đã
được người đọc biết đến, để đối lập với mạo từ không xác định như “a”, “an”
hay “some”, là những từ thể hiện một nhân vật hay đặc điểm mới. Ví dụ:
(8) Once upon a time there was an old woman who had a lazy daughter. The
woman used to scold the daughter all day long.
(Ngày xưa có một người đàn bà già nua có một cô con gái lười biếng. Người
đàn bà thường mắng nhiếc cô con gái suốt ngày)
c. Liên hệ từ vựng ( Lexical Relationship)
Liên kết hồi chỉ có thể được thể hiện bằng cách thiết lập trong ngôn bản
Hoàng Thị Hà
13
mối liên hệ từ vựng. Đó là cách lựa chọn một từ ngữ có mối quan hệ nào đó
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt với từ ngữ khác trước đó về ngữ nghĩa. Liên kết từ vựng có thể được duy trì
qua các phát ngôn hoặc chuỗi phát ngôn dài bằng sự hiện diện của các đơn vị
ngôn ngữ mà ở một khía cạnh nào đó có liên hệ với các đơn vị đã xuất hiện ở
trước đó. Cách đơn giản nhất để hồi chỉ là lặp lại một đơn vị từ vựng. Ví dụ:
(9) Algy met a bear. The bear was bulgy.
(Algy đã gặp một con gấu. Con gấu là bulgy)
(10) Sports cars are beautiful. Small cars are very practical.
(Những xe ô tô thể thao đều rất đẹp. Những xe con thì rất thiết thực)
Trong một vài trường hợp nhất định thì việc lặp lại như vậy là có hiệu
quả, nhưng điều này nhanh chóng trở nên nhàm chán nếu như chuỗi câu được
mở rộng tiếp. Một sự lựa chọn đưa ra là thay thế một danh từ hoặc ngữ danh
từ trước đó bằng một từ đồng nghĩa mà nghĩa của từ này có thể rộng hơn hoặc
hẹp hơn so với từ được thay thế. Ví dụ:
(11) Once upon a time an old king was very ill. The old man sent for his
councillors. When they came before him, their ruler told them that he wanted
to divide his kingdom.
(Ngày xưa có một ông vua già rất ốm yếu. Người đàn ông già nua ấy cho gọi
triều thần của ông ta đến. Khi họ đến trước ông, người cai trị của họ nói với
họ rằng ông ta muốn chia vương quốc của ông.)
(12) Con chó run rẩy bước vào. Con vật đáng thương ấy ướt như chuột lột.
d. Tỉnh lược (Ellipsis)
Một hình thức liên kết hồi chỉ khác trong ngôn bản được thông qua là
tỉnh lược (ellipsis), nơi mà chúng ta tiền giả định một thành phần nào đó bằng
thành phần bị bỏ ngỏ. Đó là cách sử dụng phổ biến nhất nhằm tránh sự lặp lại
và có thể coi đây như là một dạng của phép thế. Ta có thể thấy rõ hơn qua các
ví dụ sau:
Hoàng Thị Hà
14
(13) She might sing, but I don't think she will ( = sing)
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (Cô ấy có thể hát, nhưng tôi không nghĩ là cô ấy sẽ hát)
Ở đây, động từ “sing” (hát) đã bị tỉnh lược đi để tránh sự lặp lại
(14) They didn't want to go into the water, and he didn't force them . ( =
to go into the water)
(Chúng không muốn đi xuống nước, và anh ta cũng không bắt buộc chúng)
Trong trường hợp trên, cụm từ “to go to the water” sau từ “force”
trong câu thứ hai đã được tỉnh lược để tránh lặp lại. Người đọc vẫn hiểu được
bằng cách tự khôi phục lại cụm từ đó dựa vào sự hiện diện của nó ở phía
trước.
e. Thay thế (Substitution)
Trong tiếng Anh có một số từ (ngoài đại từ) cũng có chức năng thay thế
cho những từ ngữ khác, ngữ hoặc mệnh đề. Ta có thể thấy ví dụ rõ ràng nhất
là trong câu hỏi “Yes” và “No” (có/không). Ví dụ:
(15) Do you love me? (Em có yêu anh không?)
- Yes (Có)
Rõ ràng là ý nghĩa của từ “Yes” (có) dựa vào liên kết hồi chỉ, theo ý
nghĩa này thì nó quy chiếu trở lại cụm từ phía trước trong văn bản và trong
trường hợp này đó chính là câu: “Do you love me?” (Em có yêu anh không).
Đây chính là trường hợp điển hình của hồi chỉ: một từ thể hiện nghĩa của cả
câu.
Sau đây chúng ta có thể liệt kê một số từ cơ bản có thể được sử dụng
trong việc thay thế như sau: Thay thế cho cả câu trước: Yes và No (có /
không); Thay thế cho các mệnh đề phía trước: So và Not; Thay thế sử dụng
“do”; Thay thế sử dụng trạng từ “so” và “nor”; Thay thế sử dụng đại từ
Hoàng Thị Hà
15
“one”; Thay thế sử dụng trạng từ “such” nghĩa là “như thế”.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt f. Đồng vị ngữ (Apposition)
Đồng vị ngữ là tên gọi cho chuỗi quy chiếu ngắn, trong đó hai danh từ
hoặc hai ngữ danh từ có cùng quy chiếu đặt cạnh nhau trong cùng một câu,
danh từ/ ngữ danh từ đứng sau có trách nhiệm giải thích từ/ngữ đứng trước rõ
ràng hơn, cụ thể hơn. Hay nói cách khác, đồng vị ngữ là một phương tiện của
phương thức hồi chỉ. Xét ví dụ sau:
(16) Benjamin, an elderlyfarmer who was afraid of flying.
(Benjamin, một người nông dân già, rất sợ đi máy bay)
Trong ví dụ trên, danh từ “Benjamin” và danh ngữ “một người nông
dân già” đều có cùng sở chỉ, nghĩa là cùng chỉ đến một người duy nhất. Hay
nói cách khác, “Benjamin” cũng chính là “người nông dân già”. Đây chính
là một trường hợp của đồng vị ngữ. Chúng ta cần chú ý rằng kiểu sử dụng
đồng vị ngữ để hồi chỉ này không giống các kiểu hồi chỉ khác, thành phần thứ
hai (giống như “một người nông dân già”) không cần phải xác định.
Một vài đồng vị ngữ cũng có thể được mở rộng bằng cách thêm vào
cách viết tắt. Ví dụ:
(17) The two brothers, i.e Benjamin and Lewis, like listening to music.
(Hai anh em, đó là Benjamin và Lewis, thích nghe nhạc)
Nếu như xem xét nghiêm khắc thì đồng vị ngữ không đóng góp nhiều vào liên
kết văn bản bởi vì nó chỉ được tìm thấy trong những câu đơn. Nghĩa là ta chỉ
có thể thiết lập mối liên kết hồi chỉ trong phạm vi một câu đơn mà thôi. Tuy
nhiên vấn đề này rất gần gũi với vấn đề chúng ta đang xem xét đến (tức là các
phương tiện hồi chỉ) nên không thể không bàn đến nó.
Tóm lại, hệ thống phương tiện để liên kết hồi chỉ trong văn bản rất
phong phú đa dạng và có phạm vi sử dụng rộng rãi, góp phần tạo cho văn bản
có tính chặt chẽ, mạch lạc. Trên đây chúng tôi chỉ nêu sơ lược về những
Hoàng Thị Hà
16
phương tiện hồi chỉ thông dụng nhất trong các ngôn ngữ, chủ yếu là ở tiếng
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt Việt và tiếng Anh. Có thể nói các phương tiện hồi chỉ không những có tác
dụng liên kết văn bản, tiết kiệm ngôn từ, tránh sự lặp lại nhàm chán đơn điệu
mà còn duy trì chủ đề của văn bản. Tuy nhiên có một dạng hồi chỉ đặc biệt,
thậm chí, còn đem lại hiệu quả liên kết cao hơn các phương tiện hồi chỉ thông
thường. Đó là phương thức hồi chỉ zê rô hay còn gọi là phương thức tỉnh lược
hồi chỉ mà luận văn này sẽ đi sâu nghiên cứu.
1.2 Tỉnh lược và các chức năng của tỉnh lược
1.2.1 Khái niệm tỉnh lược
Là một hiện tượng phổ quát ở nhiều ngôn ngữ, trong đó có tiếng Anh
và tiếng Việt, tính đến nay tỉnh lược đã được các nhà ngôn ngữ nghiên cứu và
xem xét khá kỹ dưới những góc độ khác nhau và mức độ khác nhau. Trong
tiếng Việt, tỉnh lược (ellipsis) còn được các nhà Việt học sử dụng với các
thuật ngữ khác nhau như: hiện tượng tỉnh lược, phép tỉnh lược, sự tỉnh lược...
Theo tác giả Cao Xuân Hạo, “Tỉnh lược là bỏ một ngữ đoạn mà sự có
mặt không cần thiết. Nói một cách khác, đó là một phép thay thế một ngữ
đoạn bằng đại từ hồi chỉ zê rô. Cũng như hồi chỉ, tỉnh lược không phải chỉ có
tác dụng tiết kiệm. Tác dụng chủ yếu của hai biện pháp này là thực hiện tính
mạch lạc trong câu và trong một tổ hợp câu. Tác dụng thứ hai của nó là tránh
sự lặp lại nặng nề của các ngữ đoạn cùng một sở chỉ, thường có hại cho tính
mạch lạc của văn bản: một câu không có yếu tố hồi chỉ thì tính độc lập của nó
cao hơn và do đó ít gắn bó với văn cảnh hơn một câu có yếu tố hồi chỉ, trong
đó có cả đại từ hồi chỉ (tỉnh lược). Sự lặp lại không có mục đích tạo nên
tính mạch lạc, mà thường dùng với mục đích tu từ riêng”. [7, 19]
Nhà ngôn ngữ học Halliday cũng đưa ra quan điểm về tỉnh lược trong
cuốn “Dẫn luận Ngữ pháp chức năng” như sau: “Một cú, hay một phần của
cú, hay một phần (thường bao gồm thành phần từ vựng) của một cụm động từ
hay một cụm danh từ có thể được tiền giả định ở một ví trí sau trong ngôn bản
Hoàng Thị Hà
17
bằng thủ thuật lược bỏ tích cực (possitive omission) – nghĩa là bằng cách
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt không nói gì cả ở nơi cần phải nói để tạo nghĩa, hoặc cấu trúc bị bỏ ngỏ như
trong “not I so”, hiện tượng này dược gọi là tỉnh lược chính danh của câu “I
will not wake him”; hoặc một thành phần chiếm chỗ (thay thế) được thêm vào
để thể hiện khoảng trống như “do” trong “for If I do”. Hiện tượng này được
gọi là “thay thế” (Substitution). [6, 493].
Phạm Văn Tình, một trong những nhà ngôn ngữ học đã đưa hiện tượng
tỉnh lược vào nghiên cứu một cách có hệ thống và bài bản trong tiếng Việt, đã
đưa ra khái niệm về tỉnh lược như sau: "Tỉnh lược là một hiện tượng lược bỏ
các ngữ đoạn ở cấp độ phát ngôn trong giao tiếp. Nó có thể xảy ra ngay trong
nội bộ bản thân mỗi phát ngôn hoặc giữa các phát ngôn với nhau". Từ đó,
trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu của mình, ông đã đưa ra định nghĩa về
phép tỉnh lược trong văn bản là: "Phép tỉnh lược trong văn bản là dạng tỉnh
lược xảy ra giữa các phát ngôn, là sự lược bỏ các yếu tố mà người đọc có thể
hiểu được nhờ mối liên hệ giữa các phát ngôn trong phạm vi một ngữ cảnh
xác định (ngữ cảnh cần và đủ)." [21, 31].
Từ đây, tác giả Phạm Văn Tình đã tìm ra những nhân tố điều kiện của
Tỉnh lược. Ông cho rằng, "ngoại trừ các yếu tố thuộc lĩnh vực văn hóa giao
tiếp (không thể tỉnh lược và phải nói đầy đủ, nếu không sẽ bị coi là xách mé,
thiếu lễ phép....), có thể chỉ ra một số điều kiện cho phép thực hiện phép tỉnh
lược trên văn bản như: 1. Ngữ cảnh giao tiếp; 2. Có mối liên hệ logic-ngữ
nghĩa (mạch lạc trong văn bản); 3. Ý đồ và chiến lược giao tiếp". Như vậy,
theo tác giả Phạm Văn Tình, để miêu tả và phân tích vai trò cũng như giá trị
biểu hiện của phép tỉnh lược, việc nghiên cứu hiện tượng tỉnh lược văn bản
phải kết hợp nghiên cứu đồng thời các nhân tố tham gia vào quá trình tạo lập
phát ngôn bằng phép tỉnh lược. Ví dụ:
(18) Bà ấy mệt quá. Không lê được một bước. Không kêu được một
Hoàng Thị Hà
18
tiếng. Cơ chừng tiếc của. Cơ chừng hết sức. Cơ chừng hết hơi.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
(Nguyễn Công Hoan)
Trong trường hợp này, phát ngôn đầu tiên giữ vai trò là chủ ngôn, làm
tiền đề cho sự xuất hiện của hàng loạt những câu bị tỉnh lược chủ thể. Các
phát ngôn phía sau chủ ngôn đều không có thành phần chủ ngữ "bà ấy". Sự
vắng mặt yếu tố chủ thể này nhằm tránh sự lặp đi lặp lại của chủ ngữ "bà ấy"
trong hàng loạt câu tiếp theo của câu chủ ngôn, đồng thời có mục đích là
hướng cho người đọc chú đến sự thay đổi trạng thái liên tục của nhân vật chủ
thể trong đoạn văn này.
Hiện tượng tỉnh lược trong tiếng Anh cũng tương tự như vậy. Ta có
thể hiểu được điều này qua ví dụ sau:
(19) - Can you speak Spanish? Bạn có thể nói được tiếng Tây Ban Nha
không?
+ Yes, I can Vâng, tôi có (nói được tiếng Tây Ban Nha)
Trong ví dụ này, câu trả lời ngắn ngọn "Yes, I can" chính là một dạng
của tỉnh lược, có thể phục hồi thành câu đầy đủ như sau: "Yes, I can speak
Spanish" (Tôi có thể nói được tiếng Tây Ban Nha). Trong trường hợp này,
thành phần "speak Spanish" đã xuất hiện trong câu hỏi trước đó và lược bỏ
trong câu trả lời nhằm tránh sự lặp lại không cần thiết. Thông tin này được cả
người hỏi và người trả lời hiểu ngầm.
Trong quá trình thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng định nghĩa
về phép tỉnh lược trong văn bản của tác giả Phạm Văn Tình làm cơ sở nghiên
cứu. Đó là: "Phép tỉnh lược trong văn bản là dạng tỉnh lược xảy ra giữa các
phát ngôn, là sự lược bỏ các yếu tố mà người đọc có thể hiểu được nhờ mối
liên hệ giữa các phát ngôn trong phạm vi một ngữ cảnh xác định (ngữ cảnh
cần và đủ)”. [21, 32]
1.2.2 Các chức năng của tỉnh lược
Như ta đã biết, tỉnh lược được coi là một trong những thủ pháp tạo
Hoàng Thị Hà
19
dựng phát ngôn. Chính vì vậy nó có phạm vi ứng dụng rất rộng rãi và có
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt nhiều chức năng khác nhau. Trên cơ sở tìm hiểu và tham khảo từ nhiều tác giả
nghiên cứu về hiện tượng tỉnh lược như: Phạm Văn Tình, Halliday, Cao Xuân
Hạo, Richard Hudson, Petra Hendriks&Jennifer Spenader, Randolph Quirk &
Sidney Greenbaum ....chúng tôi đã liệt kê ra một số chức năng chủ yếu của
tỉnh lược như sau:
1.2.2.1 Tỉnh lược có chức năng rút gọn
Có lẽ không ai có thể phủ nhận một điều rằng, chức năng dễ nhận thấy
nhất của tỉnh lược chính là tiết kiệm ngôn từ, hay nói cách khác là rút gọn câu
trong văn bản. Tỉnh lược chính là phương pháp rút gọn hữu hiệu nhất để làm
cho câu văn đỡ rườm rà, phức tạp bằng cách lược bỏ những từ, ngữ không cần
thiết trong câu hoặc trong một tổ hợp câu mà không làm ảnh hưởng đến nội
dung. Dĩ nhiên, điều này chỉ có thể thực hiện khi ngữ cảnh cho phép. Cuốn
“Phép tỉnh lược và ngữ trực thuộc tỉnh lược trong tiếng Việt” của tác giả
Phạm Văn Tình đã nêu rõ: “Xét ở bình diện tiết kiệm đơn thuần, tức là khả
năng giảm thiểu tối đa độ dài, thông báo để đạt hiệu quả cao trong việc tổ
chức thông báo và chuyển tải thông báo, một số nhà nghiên cứu đi trước đã
chỉ ra 4 phương thức cơ bản dùng cho việc rút gọn ngôn ngữ là: Thay thế
bằng đại từ, rút gọn, viết tắt và tỉnh lược. Bốn phương thức trên thực chất có
thể quy về 2 phương thức chính, đó là sự rút gọn (reduction) và sự tỉnh lược
hay còn gọi là phép tỉnh lược (ellipsis)” [21]. Xét ví dụ sau:
(20) A: Ai gõ cửa thế?
B: Tôi !
A: "Tôi" là ai?
B: Là người mà anh đang thiếu nợ đây!
Trong đoạn hội thoại trên, có hai câu xuất hiện hiện tượng tỉnh lược hai
thành phần khác nhau. Phát ngôn thứ nhất “Tôi!” có thành phần vị ngữ "gõ
cửa" đó được rút gọn. Người ta dễ dàng khôi phục thành phần này dựa vào
Hoàng Thị Hà
20
ngữ cảnh của nó, và phát ngôn đầy đủ sẽ là “Tôi gõ cửa.”. Phát ngôn thứ hai
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt “Là người mà anh thiếu nợ đây.” lại có thành phần chủ ngữ “Tôi” được rút
gọn. Thành phần chủ ngữ này cũng dễ dàng được khôi phục nhờ vào hoàn
cảnh giao tiếp.
Như vậy, qua ví dụ trên ta thấy phương thức tỉnh lược đã góp phần rút
gọn phát ngôn nhằm tránh sự lặp lại những yếu tố không cần thiết trong quá
trình giao tiếp. Thông thường những trường hợp rút gọn này chỉ áp dụng với
các nhân vật có mối quan hệ thân thiết và ngang bằng nhau về tuổi tác. Còn
khi phải đảm bảo tính lịch sự, nghiêm túc trong ngoại giao, công việc, hoặc
giao tiếp với người lớn hơn, cấp cao hơn, chúng ta thường nói cả câu đầy đủ.
Ví dụ:
(21) Chị kia cứ thong thả! Hãy ngồi đấy! Để người ta ăn xong cái đã!
Đừng quấy rầy.
(Ngô Tất Tố)
Đây cũng là một trường hợp của phép tỉnh lược có tác dụng rút gọn mà
không hề làm phương hại đến nội dung của phát ngôn. ở đây, chỉ một một
phát ngôn đầu tiên đóng vai trò là câu chủ ngôn, còn những câu sau đều là
lược ngôn. Những phát ngôn đằng sau chủ ngôn đều bị lược bỏ thành phần
chủ ngữ "Chị" và thành phần này được người nghe và người nói hiểu ngầm
với nhau.
Trong tiếng Anh cũng vậy, tỉnh lược được sử dụng khá phổ biến với
mục đích làm cho câu văn được gọn gàng, tránh sự lặp lại không cần thiết. Ví
dụ:
(22) New York is as distant from San Francisco as Boston is from London.
(a)
Music is as important to Cora as literature is to her brother. (b)
Trong ví dụ (a), khoảng cách từ San Francisco đến New York được so
Hoàng Thị Hà
21
sánh với khoảng cách từ London đến Boston. Trong ví dụ (b), sự quan trọng
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt của âm nhạc đối với Cora được so sánh với tầm quan trọng của văn học đối
với anh trai cô ấy. Hai câu này có cấu trúc ngữ pháp giống nhau và đều là
những trường hợp minh chứng cho chức năng rút gọn của hiện tượng tỉnh
lược. Hai câu trên đã được rút gọn, lược bỏ đi những từ không cần thiết phải
lặp lại mà không làm ảnh hưởng đến nội dung so sánh của câu. Cụ thể, trong
câu (a), thành phần được lược bỏ là “as distant” và trong câu (b) là “as
important”. Ta có thể dễ dàng phục hồi câu đầy đủ cho hai ví dụ trên như sau:
-New York is as distant from San Francisco as Boston is distant from London
-Music is as important to Cora as literature is important to her brother.
Tỉnh lược với mục đích rút gọn cũng thường được sử dụng trong những
cấu trúc so sánh khác như ví dụ sau:
(23) He is as tall as his brother
I am as good a swimmer as her sister .
Những câu trên hoàn toàn có thể được viết dưới dạng đầy đủ như sau:
- He is as tall as his mother is.
- I am as good a swimmer as her sister are.
1.2.2.2 Tỉnh lược có chức năng thay thế
Trong số các tác giả nghiên cứu về hiện tượng tỉnh lược, có khá nhiều ý
kiến cho rằng tỉnh lược chính là một dạng của phép thế, từ đó sử dụng tỉnh
lược như một phương thức liên kết có chức năng giống như phép thế. Điển
hình cho quan điểm này là tác giả Halliday&Hasan, Diệp Quang Ban, Cao
Xuân Hạo... Theo tác giả Cao Xuân Hạo: “Cũng như hồi chỉ, tỉnh lược không
phải chỉ có tác dụng tiết kiệm, và có lẽ không phải có mục đích tiết kiệm. Tác
dụng chủ yếu của hai biện pháp này là thực hiện tính mạch lạc trong câu và
trong một tổ hợp câu. Tác dụng thứ hai của nó là tránh sự lặp lại nặng nề của
các ngữ đoạn cùng một sở chỉ thường có hại cho tính mạch lạc của văn bản:
Hoàng Thị Hà
22
một câu không có yếu tố hồi chỉ thì tính độc lập của nó cao hơn...”. [7, 198]
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Ví dụ sau đây thể hiện rõ chức năng thay thế của hiện tượng tỉnh lược:
(24) I've lost my voice (Mình bị mất giọng)
Get a new one (Thế thì kiếm cái khác)
Đây là một trường hợp tỉnh lược có chức năng thay thế. Trong ví dụ
trên, yếu tố thay thế “one” được dùng như là một phương tiện chiếm chỗ, chỉ
ra một thành phần nào đó bị lược bỏ ở chỗ nào và chức năng ngữ pháp của nó
là gì? Tương tự như thế, ta có thể chỉ ra các trường hợp:
(25) She might sing, but I don't think she will do so.
(Cô ấy có thể hát, nhưng tôi không nghĩ là cô ấy sẽ làm như vậy)
Trong ví dụ trên, cụm từ “do so” thay thế cho động từ có chức năng vị
ngữ đã hiện diện trong câu trước “sing”. Ta cũng có thể thấy hiện tượng tỉnh
lược có chức năng thay thế trong tiếng Việt trong ví dụ sau:
(26) Số đông đảng viên, đoàn viên và cán bộ ta làm đúng như thế. Nhưng
cũng có một số không làm đúng.
(Bác Hồ nói về đạo đức cách mạng đối với đảng viên, đoàn viên)
Xét ví dụ trên, “một số”có chức năng thay thế cho cả cụm từ bị lược bỏ
“đảng viên, đoàn viên và cán bộ ta”, tránh sự lặp lại dài dòng, không cần
thiết.
Trong tiếng Anh, chúng ta có thể sử dụng hình thức tỉnh lược bằng
cách thay thế khi ta muốn chỉ ra rằng mình đồng ý với một điều gì đó đã được
nói tới ở trước đó hoặc điều đó cũng giống hệt với hoặc áp dụng với ai đó hay
điều gì khác. Các ví dụ sau sẽ minh hoạ cho điều này:
(27) He would not want the trouble. And nor would I.
(Anh ấy không muốn rắc rối. Và tôi cũng vậy)
(28) I can’t do anything about this problem and neither can you.
Hoàng Thị Hà
23
(Tôi không thể làm điều gì về vấn đề này và bạn cũng không thể)
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt 1.2.2.3 Tỉnh lược có chức năng trực chỉ
Bên cạnh đó, tỉnh lược còn có chức năng trực chỉ. Điều này được nhắc
đến trong chương 9 của cuốn sách “Adjuncts, disjuncts, conjuncts” của
Randolph Quirk & Sidney Greenbaum. Trong hoạt động giao tiếp, các yếu tố
trực chỉ tham gia vào việc chỉ ra các nhân vật, các chủ thể của hoạt động
tương tác liên nhân có thể bị lược bỏ đi khi mà ngữ cảnh giao tiếp đã trở nên
rõ ràng và góp phần hiện thực hoá ý nghĩa của các phát ngôn. Đó là một
trường hợp của tỉnh lược có chức năng trực chỉ, ta thấy hiện tượng này xảy ra
rất nhiều trong các đoạn hội thoại. Sau đây là một trường hợp tỉnh lược có
chức năng khứ chỉ:
(27) Vào hàng kia được không?
- Không, anh cho em ăn phở cho nhanh.
- Vậy lấy xe đi!
- Cần gì anh, chúng mình đi bộ được mà.
-Ừ thì đi.
- Cái túi đâu? Đưa em cất cho!
(Ngô Tất Tố)
Trên đây là một đoạn hội thoại có những bốn phát ngôn bị tỉnh lược
xen kẽ với các phát ngôn không bị tỉnh lược. Ta có thể xác định dễ dàng đoạn
hội thoại trên là của hai chủ thể đối thoại trực tiếp với nhau. Qua cách đối đáp
ta thấy việc tỉnh lược liên quan đến vị thế giữa hai người tham gia giao tiếp.
Người có vị thế thấp hơn so với người kia thường phải đối đáp đầy đủ theo
nghi thức tôn trọng người có vị thế cao hơn. Trong khi đó, người kia có thể
lược bỏ những yếu tố trực chỉ về ngôi (nhân xưng) khi đối thoại trực tiếp với
người đang nói chuyện với mình mà không gây ra hiểu nhầm. Ví dụ: “ Vào
Hoàng Thị Hà
24
hàng kia được không?”, “Vậy lấy xe đi”, “Ừ thì đi”... Ta dễ dàng khôi
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt phục những yếu tố trực chỉ đã được lược bỏ trong các phát ngôn trên như
"mình", "em", "Chúng mình"...
Chính những điều kiện phi ngôn ngữ cho phép người đọc có thể dễ
dàng hình dung ra các nhân vật tham gia giao tiếp và nội dung cuộc hội thoại
mà không cần đến những yếu tố trực chỉ về nhân xưng hay một phát ngôn tự
nghĩa làm câu đề. Tỉnh lược có chức năng trực chỉ xuất hiện nhiều trong các
đoạn hội thoại trực tiếp, đặc biệt trong giao tiếp thân mật. Bởi vì khi ngữ cảnh
giao tiếp trực tiếp có những điều kiện phi ngôn ngữ như: không gian, thời
gian, địa điểm, ...cho phép tỉnh lược những thông tin thừa, lặp không cần thiết
mà chỉ tập trung vào các thông tin mới, bổ sung...Bởi vì những điều kiện như
vậy đã được bản thân những người tham gia giao tiếp ngầm xác định như
những dữ kiện mặc nhiên được thừa nhận. Chúng ngầm định trong mỗi phát
ngôn và tạo nên logic của các phát ngôn trong hội thoại. Trong tiếng Anh ta
cũng thấy hiện tượng tỉnh lược có chức năng trực chỉ xuất hiện tương tự như
vậy, ví dụ:
(28) (I'm) Sorry I couldn't be there
(Tôi) Xin lỗi tôi đã không đến đấy được.
(29) (You) Had a good time?
(Mày) nghỉ thú vị chứ?
(30) (It's) Nice to meet you!
Rất vui khi gặp anh.
(31) (Are you ) looking anybody?
(Bạn) đang tìm ai à?
Như vậy ta thấy trong các ví dụ trên đều có hiện tượng tỉnh lược chủ
ngữ. Yếu tố bị tỉnh lược đều là trực chỉ ngôi thứ nhất và thứ hai: I (tôi) và you
(bạn, mày...).Ta có thể dễ dàng khôi phục các chủ ngữ trong các phát ngôn
Hoàng Thị Hà
25
như đã trình bày ở trên. Người nghe hiểu các phát ngôn trên là để là nói với
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt một hoặc nhiều người có mặt trực tiếp trong bối cảnh giao tiếp nên người hỏi
không cần dùng chủ ngữ mà người hỏi vẫn hiểu là hỏi mình. Hoặc hiện tượng
này có thể xuất hiện phổ biến trong các câu mệnh lệnh thức:
(32) Go straight!
(Đi thẳng!)
(33) Close the door!
(Đóng cửa lại!)
1.2.2.4 Tỉnh lược có chức năng khứ chỉ
Như ta đã biết, khứ chỉ là dùng các phương tiện ngôn từ liên kết các
yếu tố trong cùng một câu hoặc câu với văn cảnh tiếp theo sau. Tuy nhiên ta
cũng có thể sử dụng chỗ trống để liên kết với yếu tố ngôn ngữ phía sau nếu
như ngôn cảnh cho phép. Đó là hiện tượng tỉnh lược có chức năng khứ chỉ.
Ví dụ:
(34) George will (take the course), and Bob might, take the course.
(George sẽ, còn Bob thì có thể, tham gia khoá học này)
Trên đây là một câu ghép đẳng lập, vế đầu tiên của câu ghép bị lược
mất thành phần vị ngữ và người đọc có thể khôi phục thành phần này dựa vào
câu xuất hiện phía sau. Do đây là câu ghép đẳng lập, hai vế của nó có thành
phần chủ ngữ khác nhau nhưng thành phần vị ngữ thì lại đồng sở chỉ và đồng
chức năng. Cách sử dụng linh hoạt phương thức tỉnh lược như vậy cho ta biết
rằng hai chủ thể khác nhau “George” và “Bob” nhưng cùng liên quan đến
một hành động là “take the course” (tham gia khoá học). Tương tự như vậy,
ta có ví dụ sau:
(35) George was (angry), and Bob certainly seemed, angry
Hoàng Thị Hà
26
(George thì giận dữ còn Bob thì dứt khoát có vẻ tức giận )
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Như vậy ngôn cảnh của câu cho phép lược bỏ thành phần vị ngữ trong
vế đầu tiên mà không làm ảnh hưởng đến nội dung thông báo của phát ngôn.
Đồng thời cách sử dụng tỉnh lược để khứ chỉ như vậy vừa tiết kiệm ngôn từ
lại vừa tránh lặp lại những yếu tố đồng sở chỉ hoặc đồng chức năng dễ gây
nhàm chán. Tuy nhiên hiện tượng tỉnh lược như thế này,dù sao, vẫn ít xảy ra
hơn. Ta chỉ có thể thấy nó xuất hiện trong một số trường hợp nhất định, ví dụ:
(36) He is bored with (music), but Peter enjoys, music.
(Anh ta ghét nhưng Peter thì lại thích âm nhạc.)
Nhìn chung, ta có thể thấy rằng hiện tượng tỉnh lược khứ chỉ chỉ xảy ra
khi yếu tố bị tỉnh lược trong câu đầu tiên đồng sở chỉ và đồng chức năng ngữ
pháp với một yếu tố hiện diện trong câu tiếp theo. Trong các ví dụ trên đều là
hiện tượng tỉnh lược có chức năng khứ chỉ thành phần bổ ngữ. Sự lược bỏ
thành phần bổ ngữ trong câu thứ nhất vừa có ý nghĩa liên kết hai vế câu lại
vừa thông báo cho ta biết rõ ràng rằng “he” và “Peter” là hai đối tượng khác
nhau và hai nhân vật này có những phản ứng tình cảm trái ngược nhau
“bored” (chán, ghét) và “enjoy” (thích) đối với cùng một đối tượng là
“music” (nhạc). Ta có thể giả định trường hợp phát ngôn trên là đầy đủ thì có
khi lại không làm toát lên được sự đối lập về thái độ giữa hai chủ thể với cùng
một đối tượng như vậy. Đó là ưu thế của tỉnh lược khứ chỉ này.
1.2.2.5 Tỉnh lược có chức năng hồi chỉ
Đó là cách sử dụng chỗ trống của tỉnh lược để chỉ một yếu tố đã hiện
diện ở ngôn cảnh trước đó. Hay nói cách khác đây là phương thức lược bỏ
thành phần trong câu mà đã được tiền giả định trong ngôn cảnh trước đó
nhằm liên kết trong cùng một phát ngôn hay các phát ngôn với nhau mà vẫn
không cần phải lặp lại những yếu tố giống nhau. Ví dụ:
(37) Peter is playing football for his school and Paul (is playing football) for
Hoàng Thị Hà
27
his club.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (Peter đang chơi bóng đá cho trường của anh ta còn Paul thì cho câu lạc bộ
của anh ta)
Ta thấy phát ngôn trên đã bị lược đi một thành phần trong vế câu phía
sau và chúng ta phải thiết lập mối quan hệ đồng sở chỉ, đồng chức năng của
thành phần bị lược này trong câu trước thì mới có thể hiểu được nội dung
thông báo. Đó chính là cách sử dụng yếu tố hồi chỉ bằng zê rô để liên kết.
Ta có thể gặp một số trường hợp câu khá phức tạp, vừa tỉnh lược khứ
chỉ lại vừa tỉnh lược hồi chỉ trong cùng một câu ghép. Khi đó ta có hiện tượng
tỉnh lược phức (nghĩa là vừa tỉnh lược cả trong vế câu đầu tiên và cả trong vế
câu tiếp theo của một câu ghép, điển hình là trong câu ghép đẳng lập). Ta có
thể thấy rõ điều này trong các ví dụ sau đây:
(38) John could have been (watching television), but (John) wasn’t, watching
television.
(Đáng nhẽ là John đã có thể đang xem ti vi, nhưng thực chất lại không phải là
đang xem ti vi )
(39) They could (have saved more), and (they) should, have saved more.
(Đáng nhẽ là họ đã có thể và họ nên là đã tiết kiệm được nhiều hơn.)
(40) George opened (the door) and (George) closed the door.
(George đã mở và đóng cửa)
Các ví dụ nói trên là hàng loạt các câu có hiện tượng tỉnh lược phức,
vừa mang chức năng hồi chỉ vừa mang chức năng khứ chỉ, giúp liên kết câu
chặt chẽ hơn và tiết kiệm ngôn từ hơn mà vẫn không làm sai lệch nội dung
thông báo.
Trên đây chúng tôi đã trình bày sơ lược về chức năng của phương thức
tỉnh lược. Đó là những chức năng cơ bản nhất của tỉnh lược mà chúng tôi tìm
hiểu được trong quá trình nghiên cứu và chúng tôi cũng không dám chắc rằng
Hoàng Thị Hà
28
đó là tất cả chức năng mà tỉnh lược có thể đảm nhận. Bởi vì một điều không
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt thể phủ nhận được rằng tỉnh lược có thể xuất hiện ở nhiều vị trí khác nhau và
dưới nhiều dạng thức đa dạng. Đó là phương thức liên kết rất phổ biến, có
phạm vi hoạt động hết sức rộng rãi. Một trong những lí do cơ bản để giải
thích cho điều này đó là nó đem lại những hiệu quả ngữ dụng nhất định mà
hầu như không có một phương thức liên kết nào khác có thể thay thế hay đảm
nhiệm chức năng của nó.
Để có thể tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề tỉnh lược cũng như chức năng của
nó, thiết nghĩ cần có sự đầu tư nhiều thời gian và công sức trong một công
trình nghiên cứu quy mô hơn. Trong khuôn khổ chương 1 của luận văn này,
chúng tôi chỉ muốn chứng minh rằng, chức năng tiết kiệm ngôn từ hay rút gọn
câu không đủ để giải thích cho sự xuất hiện của tỉnh lược cũng như vai trò của
nó trong ngôn ngữ. Chúng ta có thể liệt kê ra nhiều tình huống có thể chứng
minh rằng tỉnh lược có thể có nhiều chức năng đa dạng khác hơn là chỉ đáp
ứng nhu cầu tiết kiệm ngôn từ của người nói, người viết.
1.3 Tỉnh lược hồi chỉ là gì?
1.3.1 Quan điểm về tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh
Do tầm quan trọng và phạm vi ứng dụng phổ biến, hiện tượng tỉnh lược
hồi chỉ thường được chú ý đến trong nhiều công trình nghiên cứu về ngữ pháp
với nhiều thuật ngữ khác nhau. Tuy nhiên, như đã trình bày ở phần trước,
chúng tôi nhận thấy rằng chưa có một tài liệu chuyên sâu nào xem xét kĩ
lưỡng về vấn đề tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh đặt trong mối quan hệ đối
chiếu với cách dịch thuật trong tiếng Việt. Phần lớn các tài liệu xem xét hiện
tượng này từ một hoặc một vài khía cạnh nhất định. Chúng ta có thể kể đến
một số tác giả tiêu biểu nghiên cứu về hiện tượng này trong giới nghiên cứu
Anh ngữ như sau:
- George Yule - tác giả cuốn “Dụng học”
- David Nunan - tác giả cuốn “Dẫn nhập phân tích diễn ngôn”
Hoàng Thị Hà
29
- M.A.K Halliday - tác giả cuốn “Dẫn nhập phân tích diễn ngôn”
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Trong cuốn Dụng học, tác giả George Yule có nhắc đến hiện tượng này
với thuật ngữ “hồi chỉ zê rô” (zero anaphora). Đặc biệt ông đã đồng nhất hai
hiện tượng hồi chỉ và tỉnh lược (ellipsis). Ông quan niệm rằng hồi chỉ zê rô
“là một trường hợp hiển nhiên nữa đối với việc cái được thông báo nhiều hơn
những gì được nói ra bằng lời”. Nó được sử dụng như một phương tiện để
duy trì sự quy chiếu và tạo ra một sự mong đợi là người nghe sẽ có khả năng
suy luận ra là ai hay cái gì đang được người nói đồng nhất. Ông đã đưa ra ví
dụ như sau:
(41) Peel and onion and slice it.
(Bóc củ hành và thái lát )
(42) Drop the slices into hot oil.
(Thả những lát thái sẵn đó vào trong dầu nóng)
(43) Cook for three minutes.
(Đun trong ba phút)
Theo quan điểm của George Yule thì trong ví dụ trên có câu “cook
for three minutes” đã xuất hiện hiện tượng hồi chỉ zê rô hay còn gọi là tỉnh
lược. Trong khi đó, Halliday nghiên cứu khá chi tiết về vấn đề này, có điều
khác biệt là ông sử dụng thuật ngữ là tỉnh lược (ellipsis). Ông xem xét hiện
tượng tỉnh lược dựa trên cơ sở đặt phát ngôn tỉnh lược trong bối cảnh giao
tiếp của nó, nghĩa là đặt trong cả chuỗi phát ngôn mà chúng đang có mặt.
Theo ông hiện tượng tỉnh lược có quan hệ mật thiết với hiện tượng thay thế
(substitutions). Do vậy, ông đã đưa ra khái niệm về tỉnh lược như sau:
"Một cú, hay một phần của cú, hay một phần (thường bao gồm thành
phần từ vựng) của một cụm động từ hay một cụm danh từ, có thể được tiền
giả định ở một vị trí sau trong ngôn bản bằng thủ thuật lược bỏ tích cực
(positive omission) - nghĩa là, bằng cách không nói gì cả ở nơi cần tạo nghĩa.
Hoàng Thị Hà
30
Hoặc cấu trúc bị bỏ ngỏ, như trong “not I so”, hiện tượng này được gọi là
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt tỉnh lược chính danh, của "I will not wake him" hoặc một thành phần chiếm
chỗ (thay thế) được chêm vào để thể hiện khoảng trống, như "do" trong "for if
I do". Hiện tượng này được gọi là thay thế (substitutions). [23, 493].
Tuy nhiên Halliday cũng có nhắc về hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ (hồi
chỉ zê rô) mà theo ông đó là “một hình thức liên kết hồi chỉ khác trong ngôn
bản được thực hiện thông qua tỉnh lược (ellipsis), nơi mà chúng ta tiền giả
định một thành phần nào đó bị bỏ ngỏ". [6, 565]
Với quan điểm trên, Halliday đã lấy tiêu chí từ loại của thành phần bị
tỉnh lược (lược ngữ) làm căn cứ chính để phân loại. Halliday cho rằng, mỗi
một từ loại có khả năng đảm nhiệm một chức năng cú pháp nhất định và việc
vắng mặt thành phần tỉnh lược ở câu trước cho phép tìm ra quan hệ liên kết
trong phát ngôn tỉnh lược. Ông phân chia các phát ngôn thành ba loại chính
là:
- Tỉnh lược danh từ
- Tỉnh lược động từ
- Tỉnh lược mệnh đề
Cũng có cách phân loại phát ngôn tỉnh lược thành ba loại giống hệt với
Halliday, tác giả David Nunan có chung quan điểm với Halliday khi giải
quyết hiện tượng tỉnh lược có mối quan hệ mật thiết với hiện tượng thay thế.
Ông đã đưa ra khái niệm về tỉnh lược trong cuốn “Dẫn nhập phân tích diễn
ngôn” như sau:
“Tỉnh lược xảy ra khi một thành tố cấu trúc chủ yếu nào đó bị bỏ ra
khỏi một câu hoặc mệnh đề và chỉ có thể được phục hồi bằng cách chiếu về
một thành tố trong văn bản đi trước". [12, 44]
Ông đã đưa ra ví dụ minh họa sau đây:
- Mary: Tôi thích cái màu xanh lá cây hơn.
Hoàng Thị Hà
31
Câu hỏi: Hãy chọn câu trả lời đúng: Mary thích cái ... màu xanh lá cây hơn.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt a) mũ
b) áo đầm c) đôi giày
Trong tình thế này câu hỏi không thể trả lời được. Tuy nhiên, nếu
chúng ta biết được cái gì đã được nói đến trước đó thì câu trả lời trở nên dễ
dàng.
- Sylvia: Tôi thích cái mũ màu thiên thanh
- Mary: Tôi thích cái mũ màu xanh lá cây hơn.
Trên đây chúng tôi đã điểm qua một cách sơ bộ về tình hình nghiên cứu
hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh. Ta có thể thấy rằng đã có khá
nhiều ý kiến liên quan đến hiện tượng này trong giới Anh ngữ. Tuy nhiên
chưa thấy công trình nào giải quyết triệt để và sâu sắc về tỉnh lược hồi chỉ mà
chỉ đề cập đến từ một hay một vài khía cạnh nhất định, chủ yếu chỉ bàn về
vấn đề này trong khi giải quyết các vấn đề liên quan đến tỉnh lược và thay thế.
1.3.2 Quan điểm về tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Việt
Như đã trình bày ở trên, tỉnh lược hồi chỉ là một trong những dạng
phương thức liên kết đem lại hiệu quả cao trong liên kết văn bản. Do tính chất
và chức năng liên kết đặc biệt của nó, phương thức tỉnh lược hồi chỉ đóng một
vai trò quan trọng trong việc diễn đạt ngữ nghĩa của người nói người viết theo
các ý đồ thông báo khác nhau. Ta có thể bắt gặp tỉnh lược hồi chỉ trong rất
nhiều ngôn ngữ, trong đó có cả tiếng Việt. Đây là một hiện tượng khá phức
tạp và do vậy cũng có nhiều ý kiến khác biệt nhau liên quan đến vấn đề này
trong giới Việt ngữ học. Trong tiếng Việt, hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ còn
được sử dụng với nhiều thuật ngữ khác nhau như: tỉnh lược, hồi chỉ zê rô, tỉnh
lược hồi quy, tỉnh lược thay thế... Chúng ta có thể thống kê một số nhà Việt
ngữ học đã đề cập đến vấn đề này như: Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban,
Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Thượng Hùng, Trần Ngọc Thêm, Phạm Văn
Tình, Phan Mậu Cảnh...Trong số đó, các nhà ngôn ngữ Cao Xuân Hạo,
Nguyễn Thiện Giáp ... đã nhất trí cho rằng hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chính
Hoàng Thị Hà
32
là “hồi chỉ zê rô”, nghĩa là đồng nhất hai hiện tượng này. Trong cuốn “Sơ
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt thảo Ngữ pháp chức năng (quyển 1) - Câu trong tiếng Việt” do Cao Xuân
Hạo chủ biên, đã đưa ra khái niệm về hiện tượng tỉnh lược như sau:
“Tỉnh lược là bỏ đi một thành phần chức năng trong câu. Nguyên tắc
của tỉnh lược là không được làm phương hại đến sự trọn vẹn của thông báo,
sự chính xác của sở chỉ. Tác dụng của tỉnh lược có thể là tiết kiệm lời, là
tránh lặp lại gây nặng nề, nhưng tác dụng chủ yếu của nó là thể hiện sự liên
kết tạo mạch lạc cho câu và tổ hợp câu. Khi đề, nhất là chủ đề của câu chưa
thay đổi trong các câu tiếp theo, nó rất dễ bị tỉnh lược. Khi tỉnh lược được
nghĩa là khi người nghe (đọc) tự phục hồi được các sở chỉ đã bị tỉnh lược. Vì
vậy, tỉnh lược cũng được xem là hồi chỉ- hồi chỉ zê rô ()". [7, 96]
Theo quan điểm của ngữ pháp chức năng, tác giả Cao Xuân Hạo coi
cấu trúc câu chính là cấu trúc thông báo với hai thành phần chính là Đề và
Thuyết. Theo quan điểm này, Thuyết là thành phần bắt buộc phải có mặt nên
không bao giờ xảy ra hiện tượng tỉnh lược Thuyết. Hiện tượng tỉnh lược xảy
ra ở phần Đề, nhất là chủ đề của câu chưa thay đổi trong các câu tiếp theo thì
rất dễ bị tỉnh lược.
Trong khi đó, Diệp Quang Ban coi tỉnh lược hồi chỉ chính là phép thế =
zê rô (). Hay nói cách khác ông cho rằng phép tỉnh lược có liên quan chặt
chẽ tới phép thế:
"Thế là đặt thay vào vị trí của danh từ hay động từ hay mệnh đề rõ
nghĩa những yếu tố không rõ nghĩa có tư cách tương đương với danh từ, động
từ, mệnh đề được thay thế đó. Nếu những vị trí nói trên không được thay thế
bằng các từ ngữ khác không rõ nghĩa, mà được bỏ trống thì sẽ là trường hợp
của tỉnh lược. Tỉnh lược được coi là thế bằng zê rô”. [1, 186]
Từ quan điểm trên, căn cứ vào từ loại của lược tố, Diệp Quang Ban đã
phân chia các trường hợp của tỉnh lược tương đương như các trường hợp của
phép thế như sau:
Hoàng Thị Hà
33
+ Tỉnh lược danh từ:
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (44) Quyên mò thắt lưng Ngạn lấy bi đông. Cô lắc nhẹ .
(Anh Đức)
+ Tỉnh lược động từ:
(45) Chị trò chuyện giảng giải, khuyên anh phản cung. Cuối cùng, anh bằng
lòng .
+ Tỉnh lược mệnh đề:
(46) Chị Dậu ngẩn ngơ ra bộ không hiểu như có ý ngờ người ta ăn hiếp nhà
mình.
Thưa ông, người chết đã gần năm tháng nay, sao lại còn phải đóng sưu?
- Lí trưởng quát:
Mày đi mà hỏi ông Tây, tao không biết .
(Tắt đèn, Ngô Tất Tố)
Một quan điểm nữa về hiện tượng này là của tác giả Phạm Văn Tình,
ông chỉ nhất trí dùng thuật ngữ “phép tỉnh lược” trong khi nghiên cứu. Là tác
giả đã đi nghiên cứu rất kĩ về hiện tượng này, ông quan niệm về tỉnh lược như
sau:
“Phép tỉnh lược văn bản là một dạng tỉnh lược xảy ra giữa các phát ngôn,
là sự lược bỏ các yếu tố mà người đọc có thể hiểu được nhờ mối liên hệ giữa
các phát ngô trong một phạm vi một ngữ cảnh xác định" (ngữ cảnh cần và
đủ). [18, 31]
Từ quan niệm về tỉnh lược và xem xét phép tỉnh lược trong cả chuỗi phát
ngôn như vậy, ông cho rằng có các nhân tố điều kiện của tỉnh lược như sau:
“Ngoại trừ các yếu tố thuộc lĩnh vực văn hoá giao tiếp (không thể tỉnh lược
hoặc phải nói đầy đủ, nếu không sẽ bị coi là xách mé, thiếu lễ phép..) thì có
Hoàng Thị Hà
34
thể chỉ ra một số điều kiện cho phép thực hiện phép tỉnh lược trên văn bản
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt như: 1. Ngữ cảnh giao tiếp; 2. Có mối quan hệ logic - ngữ nghĩa (mạch lạc
trong văn bản); 3. Ý đồ và chiến lược giao tiếp”.
Đồng thời, Phạm Văn Tình cũng đưa ra khái niệm về “ô trống cú pháp”.
Đó là hiện tượng các thành phần chính của cấu trúc cú pháp bị lược bỏ theo
các quy cách khác nhau. Nhiệm vụ của người nghe khi khôi phục các phát
ngôn tỉnh lược là lấp đầy các yếu tố lâm thời vắng mặt (tức các ô trống cú
pháp). Người ta phải thể hiện một phép quy chiếu tái xác lập lại cấu trúc phát
ngôn để suy luận ra ngữ nghĩa thông báo. Với quan điểm nhất quán là khi
nghiên cứu phép tỉnh lược phải dựa trên ngữ cảnh cần và đủ, Phạm Văn Tình
chủ yếu miêu tả các dạng của phép tỉnh lược mạnh được gọi là “ngữ trực
thuộc”. Trong khi Diệp Quang Ban phân loại tỉnh lược căn cứ vào từ loại của
lược tố, Cao Xuân Hạo dựa vào cấu trúc Đề - Thuyết thì ông đưa ra sự phân
loại căn cứ vào cấu trúc chủ - vị như sau:
+) Ngữ trực thuộc tỉnh lược chủ ngữ
+) Ngữ trực thuộc tỉnh lược vị ngữ
+) Ngữ trực thuộc tỉnh lược chủ ngữ và vị ngữ.
Trong mỗi loại ngữ trực thuộc trên, ông lại đưa ra các tiểu loại tương
ứng dựa vào các dạng thức thể hiện khác nhau của ngữ trực thuộc. Về vấn đề
này, tác giả Trần Ngọc Thêm lại có ý kiến khác và được Trần Công Minh
Hùng đồng ý và bổ sung. Trong giới nghiên cứu Việt ngữ học, Trần Ngọc
Thêm được đánh giá là một trong những người nghiên cứu chuyên sâu về vấn
đề tỉnh lược. Trước hết, ông dùng thuật ngữ “tỉnh lược liên kết” và cho rằng
nó có chức năng cơ bản nhất là liên kết: “Tỉnh lược chính là một trong những
biện pháp tránh lặp từ vựng, đồng thời nó cũng có thể thay cho thế đồng
nghĩa và thế đại từ..." [15, 161]. Tuy nhiên Trần Ngọc Thêm lại không tán
thành với quan điểm của Cao Xuân Hạo khi cho rằng tỉnh lược là một hiện
tượng thay thế bằng zê rô. Theo ông, "đó là cách gọi ít nhiều mang tính hình
Hoàng Thị Hà
35
tượng. Không nên từ đó mà suy ra rằng tỉnh lược là một dạng của phép thế,
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt bởi lẽ thay thế và tỉnh lược là những phương thức mang những đặc điểm hoàn
toàn khác nhau” [15, 162]. Ông cũng chủ trương chia phép tỉnh lược, căn cứ
vào nòng cốt câu, thành hai cấp độ: tỉnh lược yếu và tỉnh lược mạnh, từ đó các
phát ngôn tỉnh lược được ông chia thành ba loại như sau :
+) Tỉnh lược chủ ngữ
+) Tỉnh lược vị ngữ
+) Tỉnh lược phức (tỉnh lược nhiều thành phần )
Những luận điểm trên cho ta thấy, vấn đề về tỉnh lược hồi chỉ là một
vấn đề khá thú vị, thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu ngữ pháp
không chỉ của tiếng Anh mà còn của tiếng Việt. Trong giới nghiên cứu Việt
ngữ học, vấn đề này cũng được các tác giả đề cập đến khá nhiều, tuy nhiên
chưa có công trình nào nghiên cứu kỹ càng và sâu sắc về vấn đề này. Đặc
biệt, việc nghiên cứu hiện tượng này trong mối quan hệ đối chiếu giữa hai
ngôn ngữ Anh - Việt hầu như còn bỏ trống, chưa được các nhà nghiên cứu
Việt ngữ học đề cập đến. Phần lớn các nhà ngôn ngữ học bàn nhiều về vấn đề
tỉnh lược hoặc hồi chỉ một cách tách biệt, cá biệt có nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Thượng Hùng về vấn đề đối chiếu hiện tượng tỉnh lược chủ đề trong
tiếng Anh và tiếng Việt, chứ không đi sâu nghiên cứu về mối quan hệ mật
thiết giữa tỉnh lược và hồi chỉ và đối chiếu hiện tượng này trong hai ngôn ngữ.
Như vậy, chúng tôi đã điểm qua sơ bộ về tình hình nghiên cứu liên
quan đến hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Việt. Tiếp thu những quan
điểm và những kết quả nghiên cứu cụ thể của các tác giả đi trước, chúng tôi sẽ
rút ra những kinh nghiệm và cơ sở lí luận cơ bản giúp ích cho việc định
hướng nghiên cứu của luận văn này. Nhận thấy tầm quan trọng và phạm vi
ứng dụng rộng rãi của tỉnh lược hồi chỉ trong cả tiếng Anh và tiếng Việt,
chúng tôi cho rằng việc đi sâu nghiên cứu, đối chiếu để xác định những đặc
điểm tương đồng và khác biệt của hiện tượng này giữa hai ngôn ngữ là việc
Hoàng Thị Hà
36
làm cần thiết. Tuy nhiên, để có thể tìm hiểu kỹ và sâu sắc về hiện tượng tỉnh
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt cũng như nghiên cứu
những đặc điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng, sẽ cần rất nhiều thời
gian và công sức. Trong khuôn khổ thời gian và khả năng có hạn, chúng tôi sẽ
đi sâu nghiên cứu, đối chiếu hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ của 2 thành phần
nòng cốt trong câu, đó là: chủ ngữ, vị ngữ trên ngữ liệu tiếng Anh và tiếng
Việt.
1.3.3 Quan điểm của luận văn về tỉnh lược hồi chỉ
Thực chất, trong giới nghiên cứu ngôn ngữ học chưa có ai đưa ra một
quan điểm thống nhất và chính xác nào về “tỉnh lược hồi chỉ” (zero
anaphora). Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, các nhà nghiên cứu đã có
những nghiên cứu ban đầu đến vấn đề này dưới nhiều thuật ngữ khác nhau.
Theo quan điểm của chúng tôi, ta có thể hiểu nôm na rằng "tỉnh lược
hồi chỉ" chính là sự thay thế thành phần câu đã xuất hiện trước đó bằng một
chỗ trống (hay chính là "rê zô"), nhưng không hề làm phương hại đến nội
dung thông báo của câu văn.
Để hiểu rõ hơn về hiệu quả liên kết đặc biệt mà tỉnh lược hồi chỉ đem
lại, chúng ta hãy cùng xem xét các ví dụ sau:
(47) Linda ate a doughnut and Linda drank a coffee
(Linda ăn một cái bánh rán và Linda uống một cốc cà phê)
(48) Linda ate a doughnut and she drank a coffee.
(Linda ăn một cái bánh rán và cô ấy uống một cốc cà phê)
(49) Linda ate a doughnut and drank a coffee
(Linda ăn một cái bánh rán và uống một cốc cà phê)
Chúng ta có thể thấy trong ví dụ trên là các câu ghép đẳng lập. Chúng
cùng thông báo một nội dung nhưng mỗi câu lại sử dụng một cách liên kết
khác nhau. Ví dụ (a) có sử dụng phương thức liên kết lặp từ vựng “Linda”, ví
Hoàng Thị Hà
37
dụ (b) dùng cách liên kết hồi chỉ bằng cách thay thế đại từ và trong ví dụ (c)
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt là phương thức hồi chỉ zê rô. Ta thấy rằng các cách liên kết trên đều giúp cho
người đọc hiểu được nội dung thông báo, nhưng chúng lại đem lại hiệu quả
rất khác nhau. Sự liên kết bằng cách lặp lại nguyên dạng chủ ngữ “Linda”
như trong ví dụ (a) sẽ tạo cho ta cảm giác đơn điệu dài dòng không cần thiết.
Nhưng nếu ta khắc phục sự đơn điệu này bằng cách sử dụng hình thức liên kết
hồi chỉ bằng đại từ “she” như ví dụ (b) thì rất dễ làm cho người đọc hiểu
nhầm rằng “Linda” trong vế đầu và “she” trong vế câu thứ hai không phải là
một người. Cuối cùng hiệu quả liên kết hợp lí nhất lại là cách liên kết hồi chỉ
bằng zê rô như trong ví dụ (c). Cách liên kết này vừa giúp người đọc không
nhầm lẫn đối tượng, hiểu được nội dung thông báo một cách trọn vẹn, chính
xác mà lại vừa làm cho câu văn ngắn gọn, súc tích.
Tuy nhiên, do hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ rất gần gũi với hiện tượng
thế và tỉnh lược khứ chỉ trong văn bản nên nếu không có tiêu chí rõ ràng,
chúng ra rất dễ nhầm lẫn giữa các hiện tượng này. Qua khảo sát tư liệu, chúng
tôi có thể đưa ra tiêu chí của hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ, đó là: Đối với hiện
tượng tỉnh lược hồi chỉ, thành phần được lược bỏ (hay nói cách khác là được
thay thế bằng chỗ trống) phải được quy chiếu đến một yếu tố có cùng sở chỉ
đứng trước trong văn cảnh và nó có thể được khôi phục trong trường hợp cần
thiết. Đây chính là tiêu chí quy định sự khác biệt giữa tỉnh lược hồi chỉ so với
các hiện tượng tỉnh lược khác.
Hiện tượng tỉnh lược khứ chỉ khác với tỉnh lược hồi chỉ ở chỗ: trong
tỉnh lược khứ chỉ, thành phần được lược bỏ có thể được khôi phục nhờ một
yếu tố có cùng sở chỉ đứng đằng sau thành phần đó trong văn cảnh, còn với
tỉnh lược hồi chỉ thì yếu tố có cùng sở chỉ đứng đằng trước thành phần đó
trong văn bản. Trong khi đó, nếu là hiện tượng thế thì sẽ không thể có bất kỳ
yếu tố nào được khôi phục nhờ văn cảnh, vì thành phần được lược bỏ đã được
thay thế bằng một yếu tố khác như đại từ, chỉ định từ...
Tóm lại, trên cơ sở tìm hiểu các ý kiến, quan điểm của các tác giả liên
Hoàng Thị Hà
38
quan đến “tỉnh lược hồi chỉ”, chúng ta có thể đưa ra một vài nét cơ bản về
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt hiện tượng này như sau: Tỉnh lược hồi chỉ cũng là một dạng của phương thức
liên kết tỉnh lược trong hệ thống liên kết văn bản nói chung. Đó là cách sử
dụng chỗ trống để liên kết, trong một câu hay một chuỗi câu nhất định. Chỗ
trống này đồng sở chỉ với một thành phần câu nào đó đã xuất hiện trong câu
hoặc phát ngôn trước đó.
Nói cách khác, tỉnh lược hồi chỉ được miêu tả như việc sử dụng chỗ
trống để quy chiếu ngược trở lại một biểu thức, cái mà cung cấp thông tin cần
thiết cho việc hiểu và dịch thuật ý nghĩa chỗ trống đó. Do tính chất và chức
năng của một phép tỉnh lược là duy trì sự liên kết, tránh sự lặp lại một cách
nhàm chán, thì phương thức tỉnh lược hồi chỉ với cách sử dụng chỗ trống để
quy chiếu ngược lại như vậy, thậm chí còn có khả năng làm tăng thêm tính
liên kết và tính mạch lạc trong một phát ngôn hoặc một chuỗi phát ngôn. Như
vậy, tỉnh lược hồi chỉ đóng một vai trò khá quan trọng trong việc diễn đạt ngữ
Hoàng Thị Hà
39
nghĩa của người nói theo ý đồ thông báo khác nhau.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt Chương 2
TỈNH LƯỢC HỒI CHỈ CHỦ NGỮ
TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
Tỉnh lược hồi chỉ thường được sử dụng rất phổ biến trong tiếng Anh
nhằm tránh sự lặp lại không cần thiết, tương đương với việc thay thế bằng “zê
rô”. Đặc biệt, trong tiếng Anh, người nói cũng như người viết thường có xu
hướng lược bỏ bớt thành phần trong phát ngôn hơn là lặp lại chúng. Nguyên
tắc hoạt động của tỉnh lược hồi chỉ là rút gọn và liên kết song phải đảm bảo
không được làm phương hại đến sự trọn vẹn của nội dung thông báo của phát
ngôn, sự chính xác của sở chỉ. Hiệu quả mà nó đem lại có thể là tiết kiệm lời,
liên kết chặt chẽ trong một phát ngôn hoặc trong các phát ngôn với nhau.
Tuy nhiên, như đã nói đến trong phần trước, ưu điểm vượt trội của
phương thức liên kết tỉnh lược hồi chỉ so với các loại khác là nó có thể duy trì
liên kết, tạo tính mạch lạc cao nhất cho phát ngôn hoặc chuỗi phát ngôn mà
không cần lặp lại những thành phần không cần thiết. Do có tầm quan trọng
như vậy nên trong tiếng Anh, tỉnh lược hồi chỉ hành chiếu như các đơn vị ngữ
pháp thông dụng ở cả cấp độ câu và chuỗi câu, trong các đoạn hội thoại ...
Qua khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy rằng, nếu lấy tiêu chí là chức vụ cú
pháp của yếu tố được tỉnh lược hồi chỉ để phân loại, chúng ta sẽ thấy có các
dạng thức biểu hiện của tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh như sau: Tỉnh lược
hồi chỉ chủ ngữ, tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ, tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ và vị ngữ,
tỉnh lược hồi chỉ mệnh đề, tỉnh lược hồi chỉ bổ ngữ, tỉnh lược hồi chỉ trạng
ngữ, tỉnh lược hồi chỉ định ngữ. Như đã khẳng định trước đó, luận văn này
chúng tôi sẽ khảo sát và nghiên cứu đối chiếu hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ của
2 thành phần nòng cốt câu là: chủ ngữ, vị ngữ. Trong khuôn khổ chương 2
này, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích và đối chiếu hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ
Hoàng Thị Hà
40
chủ ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Chủ ngữ là một trong hai thành phần chủ chốt của nòng cốt câu, có vai
trò xác nhận tính hoàn chỉnh của một cấu trúc thông báo. Trong giới ngôn ngữ
học đã có rất nhiều nhà ngôn ngữ học bàn về chủ ngữ như: Nguyễn Minh
Thuyết, Diệp Quang Ban, Nguyễn Kim Thản.... Trong khuôn khổ luận văn
này, chúng tôi sẽ xem xét chủ ngữ theo quan điểm của GS.TS Nguyễn Minh
Thuyết. Ông quan niệm rằng: “Chủ ngữ là bộ phận của nòng cốt câu biểu thị
chủ thể ngữ pháp của vị ngữ, tạo ra cùng vị ngữ một kết cấu có khả năng
nguyên nhân hóa.”. Theo tác giả Nguyễn Minh Thuyết, chủ ngữ có hai đặc
điểm xét về mặt hình thức, đó là:
- Là thành tố bắt buộc, không thể bị lược bỏ mà không ảnh hưởng đến tính
trọn vẹn của câu. Nhờ đặc điểm này, ta có thể phân biệt chủ ngữ với những
thành tố nằm ngoài nòng cốt câu như trạng ngữ, khởi ngữ trong trường hợp
các thành tố ấy đứng đầu câu.
- Cùng vị ngữ tạo ra một kết cấu có khả năng nguyên nhân hóa. Nhờ đặc điểm
này, ta có thể phân biệt chủ ngữ với bổ ngữ, một thành tố khác của nòng cốt
câu, trong trường hợp thành tố ấy là thể từ.
Mặc dù là một trong hai thành phần nòng cốt câu, nhưng trong hoạt
động ngôn từ, chủ ngữ lại là thành phần dễ bị lược bỏ đi nhất. Do đó, thật dễ
hiểu khi mà hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ xảy ra rất phổ biến, có thể
coi là nhiều nhất ở cả tiếng Anh và tiếng Việt.
2.1 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Anh
Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ có nghĩa là thành phần chủ ngữ trong câu sẽ
bị lược bỏ nếu như nó đồng quy chiếu với thành phần chủ ngữ trong mệnh đề
trước đó và thay thế bằng zê rô ().
2.1.1 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu đơn
Hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu đơn xảy ra phổ biến ở
các cuộc hội thoại hơn là trong văn bản. Thông thường chủ ngữ bị lược bỏ khi
Hoàng Thị Hà
41
người đối thoại đáp lại câu hỏi của người kia. Bởi vì lúc đấy thông tin về chủ
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt ngữ thường đã được xác định trong câu nói của người đối thoại trước đó và
người đáp tránh không lặp lại chủ ngữ nữa mà chỉ tập trung vào thông báo
mới mà thôi. Ví dụ:
(50) A: What have you got in your basket?.
(Cô bé có gì trong giỏ đấy?)
B: Cake and wine. We baked yesterday, so I’m taking a cake to
grandmother. (Bánh ngọt với rượu vang. Chúng tôi nướng bánh hôm qua. Tôi
đang mang đến cho bà một cái bánh ngọt.)
(Red Riding Hood, Page 70)
Trong cuộc hội thoại trên, câu đầu tiên là một câu hỏi của một thành
viên tham gia giao tiếp nhằm yêu cầu được cung cấp thông tin. Câu trả lời của
người đáp đã tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ bằng cách không lặp lại chủ thể đã
được nhắc đến trong câu hỏi mà chỉ tập trung vào thông tin mới hơn mà người
nghe chờ đợi, đó là “Cake and wine.” (Bánh mỳ và rượu vang). Dễ dàng nhận
thấy rằng, ở ví dụ này, cả thành phần vị ngữ “have got” cũng đã được tỉnh
lược hồi chỉ, tuy nhiên hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ cả chủ ngữ và vị ngữ sẽ
được chúng tôi xem xét trong một công trình khác. Trong trường hợp này,
chúng tôi sẽ chỉ tập trung vào hiện tượng tỉnh lược chủ ngữ của câu. Nhờ vào
câu hỏi trước đó, chúng ta có thể khôi phục được thành phần vắng mặt trong
câu trả lời là chủ ngữ - chính là chủ thể được nhắc đến trong câu What have
you got in your basket ?). Chủ thể và cũng là người được hỏi trong trường
hợp này là “You” (Cô bé). Như vậy, theo lẽ thường, người đáp lại sẽ phải
xưng là “I” (tôi), đồng quy chiếu với chủ thể “You” đã được nhắc đến trước
đó.
Chủ ngữ vắng mặt trong trường hợp trên có thể được khôi phục như
sau: “I have got cake and wine”. Tuy nhiên sự khôi phục thành phần chủ ngữ
này là không cần thiết, vì ngữ cảnh của đoạn hội thoại trên cho phép tỉnh lược
Hoàng Thị Hà
42
hồi chỉ chủ ngữ trong câu trả lời mà không làm người nghe khó hiểu.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Trong các đoạn hội thoại như trên, người nói thường có xu hướng bỏ
qua những thông tin thừa, lặp, nhất là thành phần chủ ngữ và chỉ tập trung vào
những thông tin mới bổ sung. Cách liên kết bằng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
giữa các câu đối thoại như vậy, một mặt vừa tiết kiệm ngôn từ, mặt khác lại
giúp cho người nghe tập trung chú ý đến những thông tin mới đưa ra mà vẫn
đảm bảo cho người nghe không bị nhầm lẫn chủ thể đang được đề cập đến.
Chúng ta xét ví dụ sau:
(51) What is a synthesis reaction?
(Phản ứng tổng hợp là gì?)
+ Câu đáp đầy đủ:
- A synthesis reaction is a reaction that combines two or more reactants to
form a more complex product.
(Một phản ứng tổng hợp là một phản ứng bao gồm hai hoặc hơn hai chất hoá
học để tạo nên một sản phẩm phức tạp hơn)
+ Câu đáp có chứa tỉnh lược hồi chỉ zê rô chủ ngữ:
- A reaction that combines two or more reactants to form a more complex
product.
(Một phản ứng bao gồm hai hoặc hơn hai chất hoá học để tạo nên một sản
phẩm phức tạp hơn)
Như vậy trong ví dụ trên ta ta thấy câu trả lời không cần thiết phải lặp
lại cả cụm từ làm chủ ngữ là “a synthesis reaction” bởi vì trong câu hỏi đã
chứa thông tin đó và cả người hỏi và người trả lời đều dễ dàng hiểu được điều
này. Do vậy, việc áp dụng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong các trường hợp trên
là rất hữu dụng, vừa tiết kiệm ngôn từ, lại vừa đảm bảo duy trì sự mạch lạc
trong giao tiếp.
2.1.2 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép đẳng lập (Co- ordinated clauses)
Hoàng Thị Hà
43
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Ta biết rằng, trong câu ghép đẳng lập thì các vế trong câu có vai trò
tương đương và bình đẳng với nhau. Do đó, nếu như chủ thể của các vế tiếp
theo giống với chủ thể của vế thứ nhất thì chúng ta có thể tỉnh lược hồi chỉ
chủ ngữ để tránh sự lặp lại như trong ví dụ sau đây:
(52) Then he put on her nightdress and nightcap, got into bed and drew the
curtains.
(Red Riding Hood, Page 72)
(Thế rồi, nó mặc áo ngủ và đội mũ ngủ của bà, lên giường nằm và kéo rèm
xuống)
(Cô bé mặc áo choàng mũ đỏ, Tr73)
Trong tình huống trên, ba vế của câu ghép đẳng lập tiếng Anh có cấu
trúc tương đương nhau và đều có chung một chủ thể là "he" (nó): he put on
her nightdress and nightcap; (he) got into bed and (he) drew the curtains.
Tuy nhiên, sự lặp lại của từ “he” trong hai vế sau là không cần thiết vì, chủ
ngữ "he" (nó) trong vế thứ nhất đã làm tiền đề cho phép người nói đã dùng
biện pháp tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong hai vế tiếp theo nhằm tránh sự lặp
lại dài dòng. Mặc dù chủ ngữ của hai vế sau của câu ghép đẳng lập đã được
lược bỏ, nhưng không hề ảnh hưởng đến nội dung mà người nói muốn truyền
đạt đến người nghe.
Mặt khác, việc áp dụng phép tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong các câu
ghép đẳng lập như vậy không những sẽ rút gọn câu văn mà còn làm cho các
vế câu liên kết với nhau chặt chẽ hơn nhiều. Nếu như chúng ta liên kết các vế
bằng cách lặp lại chủ thể là:
- Then he put on her nightdress and nightcap, he got into bed and he drew
the curtains
Có thể thấy rằng sự lặp lại cùng một chủ thể như vậy rất dài dòng,
Hoàng Thị Hà
44
không cần thiết và thậm chí có thể gây ra hiểu sai về ý nghĩa nội dung thông
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt báo là chủ ngữ “he” trong các vế không cùng quy chiếu đến một người.
Trong các câu ghép đẳng lập, hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ xảy
ra rất phổ biến. Bởi vì các mệnh đề của nó thường có chung thành phần chủ
ngữ và chúng được nối kết với nhau bằng các liên từ bình đẳng như: and (và),
or (hoặc/hay), then (rồi), but (nhưng)... Do vậy, ta có thể dễ dàng lược bỏ
thành phần chủ ngữ trong các vế sau của câu ghép đẳng lập (chủ ngữ này phải
đồng sở chỉ với chủ ngữ của mệnh đề đầu tiên). Điều đáng lưu ý là vế đầu tiên
trong câu ghép đẳng lập bao giờ cũng có đầy đủ thành phần chủ ngữ vì nó
đóng vai trò là câu tiền đề cho phép các vế đứng sau vắng mặt chủ ngữ. Ta sẽ
thấy rõ ràng hơn khi xem xét các ví dụ dưới đây:
(53) She took there in the hot road in front of the prison door, and waited.
(White Death, Page.11)
(54) She walked slowly to the door, and then stood by the door and
looked at her daughter again.
(White Death, Page 17)
(55) And immediately the cat saw the orge no longer, but a little mouse
running along on the floor.
(Puss in boots, Page.84)
Ngoài ra, các mệnh đề đẳng lập còn có thể được nối kết với nhau bằng
các từ như: “yet”, “so”, trong đó ta cũng có thể lược bỏ các đồng chủ ngữ
trong các mệnh đề tiếp theo. Ví dụ:
(56) There was a connection that I did not understand, yet felt.
(57) I tried for the prison service and was turn down, so went to the
jobcenter.
Về hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong các câu ghép đẳng lập
tiếng Anh, có một vấn đề mà chúng ta cần chú ý là: Khi chủ ngữ của mệnh đề
Hoàng Thị Hà
45
thứ hai trở đi đồng sở chỉ với chủ ngữ của mệnh đề đầu và đồng thời trợ động
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt từ của hai chủ ngữ ấy cũng giống nhau thì sẽ xảy ra hiện tượng tỉnh lược hồi
chỉ cả thành phần chủ ngữ và trợ động từ tương ứng của nó. Ví dụ:
(58) Mary has washed the dishes, dried them, and put them in the
cupboard.
(Mary đã rửa đĩa, lau khô, và xếp chúng vào giá đỡ)
Trong trường hợp trên, thành phần trợ động từ “ has” đã được tỉnh
lược hồi chỉ cùng với chủ ngữ “Mary” trong hai vế của câu ghép đẳng lập
đứng sau.
Ta cũng có thể thấy hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu
ghép đẳng lập có thể xuất hiện dưới dạng câu hỏi, ví dụ:
(59) Did Peter tell lie and hurt his friends?
(Peter đã nói dối và làm bạn bè anh ấy tổn thương phải không?)
(60) Do you go to bed or stay up late now?
(Bây giờ bạn đi ngủ hay thức khuya)
Các ví dụ trên cho ta thấy rằng cách liên kết bằng tỉnh lược hồi chỉ
trong các mệnh đề đẳng lập không chỉ rút gọn câu văn mà còn đem lại hiệu
quả ngữ dụng rất cao. Cách sử dụng tỉnh lược hồi chỉ như vậy không chỉ
nhằm mục đích tránh lặp lại chủ ngữ đồng sở chỉ mà còn nhằm tăng tính liên
kết và tính mạch lạc về nội dung giữa các mệnh đề. Hơn thế nữa cách liên kết
này còn có tác dụng chỉ ra rằng giữa các mệnh đề đẳng lập có một quá trình
gắn kết với nhau chứ không phải là các giai đoạn riêng rẽ. Để chứng minh
điều này, chúng ta hãy xem xét ví dụ:
(61) Did Peter tell lie and hurt his friends?
(Peter đã nói dối và làm bạn bè anh ấy tổn thương phải không?)
Ta có thể nhận thấy trong ví dụ trên có một ý nghĩa ngầm ẩn, một mối
Hoàng Thị Hà
46
quan hệ tương hỗ, nhân quả là: vì “Peter” đã nói dối (Peter tell lie), nên kết
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt quả của hành động ấy là anh ta đã làm bạn bè của anh ta bị tổn thương (hurt
his friends). Đây là một câu hỏi và ta có thể trả lời là “Yes” (đúng) hoặc
“No” (sai). Nghĩa là ở đây, sự vắng mặt của chủ ngữ hay nói cách khác là
hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong vế thứ 2 của câu ghép đẳng lập
trên đã thể hiện được mối quan hệ ràng buộc, qua lại lẫn nhau giữa nội dung
của hai vế.
Tuy nhiên, mối quan hệ ràng buộc này sẽ biến mất khi không có hiện
tượng tỉnh lược hồi chỉ trong câu hỏi trên, nghĩa là:
- Did Peter tell lie and did he hurt his friends?
(Peter đã nói dối và làm bạn bè anh ấy tổn thương phải không?)
Trường hợp này không còn hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ nữa và
ý nghĩa của câu hỏi trên cũng đã thay đổi, không còn sự liên kết, ràng buộc về
ý nghĩa nội dung hai vế của câu ghép đẳng lập. Sự xuất hiện của cụm từ “did
he” khiến chúng ta hiểu rằng: hành động Peter nói dối (Peter tell lie) và việc
anh ta làm tổn thương bạn bè (he hurt his friends) dường như là hai quá trình,
hai hành động tách biệt nhau hoàn toàn và có thể tương ứng với hai câu hỏi
hoàn toàn khác nhau.
Như vậy có thể thấy rằng hiệu quả mà tỉnh lược hồi chỉ đem lại rất
phong phú và khó có một phương tiện nào khác có thể thay thế nhiệm vụ của
nó được. Đây là một trong những lí do mà hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ xảy ra
phổ biến nhất là ở các câu ghép đẳng lập.
2.1.3 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong các câu ghép chính phụ (Subordinated
clauses)
Mặc dù hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong các câu ghép chính
phụ không phổ biến bằng trong các câu ghép đẳng lập, tuy nhiên có thể nói,
tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ đóng một vai trò quan trọng trong các câu ghép
chính phụ, ở đó nó góp phần tích cực vào việc rút gọn câu, tránh lặp lại chủ
Hoàng Thị Hà
47
ngữ đồng sở chỉ. Trong câu ghép chính phụ, thông thường chủ ngữ trong vế
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt đứng sau bị lược bỏ với điều kiện chủ ngữ này phải đồng sở chỉ với chủ ngữ
trong vế câu đứng trước nó. Ví dụ:
(62) He asked them why they were so mechancholy, and learned that they
were miserable because had no children.
(The history of Tom Thumb, Page 10)
Ví dụ trên có 2 trường hợp tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ, tuy nhiên, chỉ có
một là hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ trong câu ghép chính phụ. Đó là “they
were miserable because had no children”. Đây là câu ghép chính phụ thể
hiện mối quan hệ nguyên nhân - hệ quả và hiện tượng tỉnh lược chủ ngữ nằm
ở vế phụ của câu, nêu nguyên nhân của sự việc. Chủ ngữ được tỉnh lược này
dễ dàng được khôi phục vì nó đồng sở chỉ với chủ ngữ “they” nằm ở vế
chính, chỉ hệ quả của sự việc. Ví dụ:
(64) When you get there, don’t forget to say “Goodmorning” prettily,
without staring about you.
(Red Riding Hood, Page 68)
Trên đây cũng là một trường hợp tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu
ghép chính phụ, trong đó chủ ngữ “you” (con) trong mệnh đề đầu tiên là cơ
sở để mệnh đề thứ hai được phép vắng mặt thành phần chủ ngữ vì đều quy
chiếu đến một người là nhân vật “you” (con).
Tuy nhiên, có một số trường hợp câu ghép chính phụ không thể sử
dụng phương thức tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ để rút gọn câu cho dù chủ ngữ
của hai mệnh đề chính và phụ đều quy chiếu đến một người hay một sự vật.
Ví dụ:
- (65a) Jack was looking well although slept little. ( = he had)
- (65b) Jack was looking well although had slept little. ( = he)
Cả hai câu ghép trên đều sai ngữ pháp nếu áp dụng tỉnh lược hồi chỉ
Hoàng Thị Hà
48
chủ ngữ như vậy. Trong trường hợp này chúng ta không được phép lược bỏ
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt chủ ngữ hoặc chủ ngữ với trợ động từ của nó trong mệnh đề phụ mặc dù chủ
ngữ ở đây là đồng sở chỉ với chủ ngữ của mệnh đề chính phía trước. Bởi vì ta
biết rằng cấu trúc của mệnh đề phụ thuộc có “although” bắt buộc là:
“although + S + V”. Do vậy chúng ta không thể thực hiện tỉnh lược hồi chỉ
chủ ngữ trong những trường hợp như vậy.
Do đó, câu đúng phải là:
- (65c) Jack was looking well although he had slept little.
(Jack hiện trông vẫn rất khoẻ mặc dù anh ta đã ngủ ít)
Tuy nhiên, trong các câu ghép chính phụ, hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ
chủ ngữ lại được chấp nhận khi chủ ngữ trong mệnh đề phụ phía sau đồng sở
chỉ với chủ ngữ của mệnh đề chính phía trước và có một dạng thức động từ
“to be” tương ứng (chứ không phải trợ động từ) cũng được lược bỏ theo chủ
ngữ đó. Sau đây là các trường hợp như vậy:
+ Trong mệnh đề bị động:
(66) He kept on working although told to stop. ( = he was)
(Anh ta tiếp tục làm việc mặc dù đã được bảo dừng lại)
+ Trong mệnh đề khuyết động từ:
(67) He was active in the dramatic society while at Oxford. ( = he was)
(Anh ta rất năng động trong một hội kịch khi ở Oxford)
Trong các trường hợp này, ngoài việc hai mệnh đề có chủ ngữ đồng sở
chỉ thì mệnh đề chính nhất thiết phải đứng trước và mệnh đề phụ đứng phía
sau chứa yếu tố tỉnh lược hồi chỉ và phải có kết tố phụ thuộc đi kèm.
Ta cũng phải chú ý một trường hợp nữa trong câu ghép chính phụ là:
Nếu như mệnh đề phụ được liên kết với mệnh đề chính bằng một kết tố đẳng
lập thì tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ không được chấp nhận, như trong trường hợp
Hoàng Thị Hà
49
sau:
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (68) She didn't tell him the bad news because he was tired and because
looked unwell.
(Cô ấy đã không nói với anh ta những tin xấu bởi vì anh ta mệt và vì nhìn
trông không được khoẻ )
Nhưng nếu kết tố phụ thuộc thứ hai trong câu trên bị lược bỏ đi thì hiện
tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ lại trở nên bình thường và có tác dụng liên
kết các mệnh đề với nhau. Do đó, câu đúng của trường hợp này phải là:
- She didn't tell him the bad news because he was tired and looked unwell.
(Cô ấy đã không nói với anh ta những tin xấu bởi vì anh ta mệt và nhìn trông
không được khoẻ).
2.2 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, thành phần chủ ngữ cũng là một thành phần thường
được tỉnh lược hồi chỉ. Cũng giống như hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
trong tiếng Anh, chủ ngữ được tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Việt phải đảm
bảo đồng sở chỉ với chủ ngữ đã hiện diện trong tiền ngôn. Giá trị tỉnh lược hồi
chỉ chủ ngữ chỉ có thể được thừa nhận khi ngôn cảnh cho phép người đọc xác
lập được thành phần chủ ngữ đã được thay thế bằng zê rô.
2.2.1 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu đơn
+ Trong văn bản:
Nếu như trong tiếng Anh, hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ thường
xảy ra trong các câu ghép đẳng lập thì ở tiếng Việt, tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
xảy ra phổ biến hơn trong chuỗi câu, chủ yếu là câu đơn. Thông thường có
một câu hoàn chỉnh làm cơ sở, xác lập ngữ cảnh cho các câu sau có thể tỉnh
lược hồi chỉ chủ ngữ mà không ảnh hưởng đến việc hiểu nội dung thông báo.
Ví dụ:
(69) Vậy thì bà cứ ăn đi. Ăn đến kỳ no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn.
Hoàng Thị Hà
50
Đằng nào cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói?
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
(Một bữa no, Nam Cao)
Trong đoạn văn trên, ta thấy xuất hiện nhiều trường hợp tỉnh lược hồi
chỉ chủ ngữ (đánh dấu bằng ). Đoạn văn trên có 4 câu đơn liên tiếp nhau,
trong đó chỉ có câu đơn đầu tiên có đầy đủ chủ ngữ và vị ngữ “Vậy thì bà cứ
ăn đi”. Chính câu đơn này đã xác lập tiền đề cho phép những câu đơn đứng
sau vắng mặt thành phần chủ ngữ “ Ăn đến kỳ no. Đã ăn rình thì ăn ít
cũng là ăn. Đằng nào cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói”. Những
câu đơn này chỉ còn lại thành phần vị ngữ là các ngữ động từ: “Ăn đén kỳ
no.”; “Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn”; “ cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà
chịu đói”. Sự vắng mặt của thành phần chủ ngữ “bà” trong các câu tiếp theo
đã góp phần làm cho các câu đơn ngắn gọn, súc tích hơn, tránh sự lặp lại
không cần thiết. Hơn thế nữa, điều này còn giúp cho tác giả thực hiện ý đồ
của mình: sự vắng mặt của thành phần chủ ngữ đã khiến cho người đọc có
cảm giác như chính nhân vật đang nói lên suy nghĩ của mình như vậy.
Nếu như những trường hợp trên, các câu đơn có chứa chủ ngữ được
tỉnh lược hồi chỉ và phần còn lại là các ngữ động từ, thì những ví dụ dưới đây
là những câu đơn có tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ, nhưng thành phần vị ngữ còn
lại là các tính từ/ngữ tính từ. Ví dụ:
(70) Hùng tự thưởng cho mình bằng việc tạt vào hiệu và mua một cuốn sách.
Một cuốn khá dày. Mới tinh. Thơm mùi mực và thơm mùi nước hoa cô
hàng xinh đẹp.
Trong ngữ pháp tiếng Việt, câu đơn có vị ngữ là một danh từ hay danh
ngữ thường phải đi kèm với hệ từ “là”. Vậy khi hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ
chủ ngữ xuất hiện trong những kiểu câu này, nghĩa là khi chủ ngữ được lược
bỏ, thành phần vị ngữ còn lại thường gồm: hệ từ "là" + danh từ /danh ngữ. Ví
dụ sau là một trường hợp như vậy:
(71)Hắn đang ở giai đoạn sung sức. Đó là kết quả những ngày đi xuống xí
Hoàng Thị Hà
51
nghiệp lăn lộn với anh em thợ như một người bạn. Là những đêm miệt mài,
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt không biết trời sáng từ bao giờ. Là những hình ảnh cố nắm bắt. Là
những gì mong manh ẩn hiện mà hắn cố giữ lại, đóng đinh trên trang giấy.
Là tình yêu của hắn đối với Đảng....
(Chuyện kể năm 2000, Bùi Ngọc Tấn)
Ví dụ trên là một trường hợp khá đặc biệt của tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
trong câu đơn tiếng Việt. Trong đó, thành phần chủ ngữ vắng mặt trong các
câu đơn mà chúng tôi có đánh dấu () có thể được khôi phục dễ dàng chính
là từ “Đó” – chủ ngữ đã xuất hiện ngay trong câu đầy đủ đứng trước: “Đó là
kết quả những ngày đi xuống xí nghiệp lăn lộn với anh em thợ như một người
bạn”. Tuy nhiên, chủ ngữ thật sự được xác định trong đoạn văn trên chính là
câu đơn đầu tiên: “Hắn đang ở giai đoạn sung sức”, hay nói cách khác, đại từ
“Đó” chính là đại từ thay thế cho cả câu đơn làm tiền đề đứng trước.
+ Trong hội thoại:
(72) Da bà xấu quá! Sao bà gầy thế?
- Chỉ đói đấy thôi, cháu ạ. Chẳng sao hết!
- Lớp này bà ở cho nhà ai?
- Chẳng ở với nhà ai
- Thế lại đi buôn à?
- Vốn đâu mà đi buôn? Với lại có vốn cũng không đi được. Người
nhọc lắm.
(Một bữa no, Nam Cao)
Người đọc dễ dàng nhận ra mối quan hệ giữa hai người đối đáp trong
đoạn đối thoại trên thông qua các câu hỏi và trả lời. Đây là đoạn đối thoại
giữa người bà và người cháu, giữa một người ở vai trên với một người ở vai
thấp hơn. Chính mối quan hệ thân thiết đó khiến cho đoạn đối thoại này trở
Hoàng Thị Hà
52
nên ngắn gọn, súc tích. Người hỏi là người cháu, ở vai dưới nên câu hỏi
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt thường gẫy gọn, có đầu có đũa, thể hiện sự lễ phép của người hỏi đối với
người trả lời. Ngược lại, người trả lời ở đây là nhân vật ‘bà’, ở vai trên nên
câu trả lời thường ngắn gọn, bỏ qua chủ ngữ mà chỉ tập trung nêu ra những
thông tin cần thiết mà người hỏi đang trông đợi. Mặc dù tất cả các câu trả lời
của người bà đều thiếu thành phần chủ ngữ, nhưng người đọc dễ dàng hiểu
được rằng cả hai người đang nói về tình hình của nhân vật ‘bà’ – chính là
người tham gia giao tiếp. Ở đây, tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ không đơn thuần
làm cho câu văn ngắn gọn, súc tích mà còn giúp thể hiện mối quan hệ thân
thiết của những người tham gia đối thoại.
2.2.2 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép đẳng lập
Trong quá trình nghiên cứu và khảo sát, chúng tôi nhận thấy hiện tượng
tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ xuất hiện phổ biến nhất trong các câu ghép đẳng
lập. Lý do của tình trạng này có thể hiểu là vì thông thường các vế của câu
ghép đẳng lập có cùng một thành phần chủ ngữ. Do vậy, việc lược bỏ thành
phần chủ ngữ trong các vế của câu ghép đẳng lập được coi là giải pháp tối ưu,
vừa tránh được sự lặp lại một cách nhàm chán của chủ ngữ, lại vừa giúp
người viết (người nói) có thể diễn tả được nhiều hành động diễn ra liên tiếp
nhau. Ví dụ:
(73) Những ngày nghỉ, vợ chồng ông chủ về Hà Nội, thằng Tê con bác bếp
vẫn đậy nắp bể cho thật kín, rồi trèo lên mặt bể, co một chân lên bắt
chước Lã Bố đi bài tẩu mã hoặc nhảy huỳnh huỵch để bắt chước Võ Tòng
sát tẩu.
(Mò sâm banh, Nam Cao)
Trong ví dụ trên, các vế liên tiếp của câu ghép đẳng lập có cùng chung
một chủ ngữ là "thằng Tê", nên chủ ngữ này chỉ xuất hiện trong vế đầu tiên
"thằng Tê con bác bếp vẫn đậy nắp bể cho thật kín", và được lược bỏ trong
các vế tiếp theo. Trong các vế có chủ ngữ được tỉnh lược hồi chỉ, dạng thể
Hoàng Thị Hà
53
hiện còn lại của vế đó là các động ngữ liên tiếp như: "trèo lên mặt bể", "co
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt một chân lên bắt chước Lã Bố đi bài tẩu mã", "nhảy huỳnh huỵch để bắt
chước Võ Tòng sát tẩu". Tương tự như vậy, ta có các trường hợp tương tự
như:
(74) Thường thường hắn đã ngủ một nửa ngày từ khi còn ở dọc đường và
vừa về đến nhà, chưa kịp thay quần áo, tháo giày, đã đổ như một
khúc gỗ xuống bất cứ cái giường nào, ngủ say như chết..
(Đời thừa, Nam Cao)
(75) Từ phải chờ khi con ngủ mệt, rón rén lừa con, dậy tháo giày, cởi
quần tây cho hắn, luồn một cái gối xuống gáy hắn, và nhấc chân,
nhấc tay, đặt cho hắn nằm ngay ngắn lại...
(Đời thừa, Nam Cao)
Trong tiếng Việt, tính từ là loại từ có khả năng đảm nhiệm chức năng vị
ngữ trong câu. Do vậy, hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ mà phần vị ngữ
còn lại là tính từ /tính ngữ cũng khá phổ biến trong câu ghép đẳng lập. Đây là
một trường hợp như vậy:
(76) Lòng hắn không còn sôi nổi nữa, nhưng rũ buồn...
(Đời thừa, Nam Cao)
2.2.3 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép chính phụ
Trong tiếng Việt, nếu như tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ xuất hiện khá phổ
biến ở câu ghép đẳng lập thì ở câu ghép chính phụ, chúng ta sẽ thấy hiện
tượng này rất ít khi xảy ra. Thông thường, câu ghép chính phụ trong tiếng
Việt biểu hiện các mối quan hệ như nguyên nhân – hệ quả… và chủ ngữ trong
vế chính và vế phụ thường không đồng sở chỉ với nhau, do vậy chúng ta có xu
hướng diễn đạt đầy đủ chủ ngữ trong câu ghép chính phụ.
Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép chính phụ chỉ xảy ra trong một vài
trường hợp nhất định, trong đó chủ ngữ được lược bỏ thường là chủ ngữ của
Hoàng Thị Hà
54
vế đứng sau và bắt buộc phải đồng sở chỉ với chủ ngữ của vế trước. Ví dụ:
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (77) Bé mặc vừa xinh và bé rất thích nên chẳng bao giờ chịu mặc chiếc áo
nào khác.
(Cô bé quàng khăn đỏ, Tr69)
Ví dụ trên là một câu ghép chính phụ chỉ nguyên nhân – hệ quả có chứa
hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ ở vế chính là ‘nên chẳng bao giờ chịu
mặc chiếc áo nào khác’ . Ta hoàn toàn có thể phục hồi đầy đủ thành phần của
câu ghép trên như sau:
- (Vì) bé mặc vừa xinh và bé rất thích nên bé chẳng bao giờ chịu mặc chiếc
áo nào khác.
Tuy nhiên, nếu phục hồi thành phần chủ ngữ trong câu ghép trên thì ta
sẽ thấy từ ‘bé’ được lặp lại 3 lần, làm cho câu văn thêm rườm rà một cách
không cần thiết. Sự vắng mặt của chủ ngữ ‘bé’ trong vế chính không những
không hề làm cho người đọc khó hiểu, mà còn làm cho câu văn ngắn gọn hơn.
Đó là lý do mà tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ được áp dụng trong hoàn cảnh này.
Tương tự, ta có ví dụ sau:
(78) Nhưng lão yêu tinh, mặc dù rất thích thưởng thức thịt con trai quay,
vẫn chưa thỏa mãn. ( = lão yêu tinh)
(Cậu Giắc và Cây Đậu, Tr63)
2.3 Đối chiếu và Chuyển dịch
2.3.1 Đối chiếu
Sau khi tiến hành khảo sát và đối chiếu hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ
ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy rằng hiện tượng này
giữa hai ngôn ngữ có những điểm chung và những điểm khác biệt nhất định.
Về điểm chung, ở cả tiếng Anh và tiếng Việt, tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
đều có những dấu hiệu nhận biết như sau: Hiện tượng này chỉ xảy ra ở cấp độ
Hoàng Thị Hà
55
câu trở lên, trong đó một thành phần chủ ngữ trong câu được lược bỏ nếu như
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt nó đồng quy chiếu với thành phần chủ ngữ đứng trong câu hoặc mệnh đề
trước nó, hay nói cách khác là chủ ngữ này được thay thế bằng zê rô (). Dĩ
nhiên, chủ ngữ được lược bỏ này phải là thành phần có thể được khôi phục lại
được nhờ ngữ cảnh, cụ thể là câu phía trước.
Chúng tôi đã chia ra thành các tiểu loại của hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ
chủ ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt. Theo đó, trong tiếng Anh có 3 tiểu loại
là: Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu đơn; Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong
câu ghép đẳng lập; Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép chính phụ.
Tương tự, tiếng Việt cũng có 3 tiểu loại là: Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong
câu đơn; Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép đẳng lập; Tỉnh lược hồi
chỉ chủ ngữ trong câu ghép chính phụ.
Bên cạnh những điểm tương đồng như vậy, hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ
chủ ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt cũng có một số điểm khác biệt. Qua
phân tích tư liệu, chúng tôi thấy rằng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng
Anh có phạm vi sử dụng hẹp hơn so với tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng
Việt. Như đã nói về các tiểu loại ở trên, hiện tượng này có xuất hiện trong câu
đơn ở cả tiếng Anh và tiếng Việt. Tuy nhiên, xét ở cấp độ nhỏ hơn thì thấy
rằng, tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ tiếng Việt xuất hiện phổ biến ở cả câu đơn
trong văn bản cũng như trong hội thoại, còn tiếng Anh thì chỉ thấy xuất hiện
trong câu đơn ở các đoạn hội thoại mà thôi. Hay nói cách khác, trong tiếng
Anh không có hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ ở cấp độ câu đơn trong
văn bản. Trong tất cả các văn bản mà chúng tôi khảo sát, tác giả đều có xu
hướng sử dụng chủ ngữ hoặc duy trì chủ ngữ theo cách này hoặc cách khác
trong các câu đơn liên tiếp nhau. Điều này khác hẳn so với tiếng Việt vì hiện
tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong các câu đơn liên tiếp nhau có cùng một
chủ thể là rất phổ biến.
Một điểm khác biệt nữa nhận thấy khá rõ khi đối chiếu hiện tượng này
trong các văn bản gốc tiếng Anh và bản đối dịch tiếng Việt, đó là sự khác
Hoàng Thị Hà
56
nhau về tần số xuất hiện của tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ. Để minh chứng cho
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt điều này, chúng tôi đã khảo sát tần số xuất hiện của tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
trong 6 văn bản song ngữ Anh – Việt của NXB Giáo dục. Bảng thống kê dưới
đây sẽ giúp chúng ta nhận thấy rõ hơn điều này:
Loại TLHC CN Tổng số
CĐ CGĐL CGCP Truyện TLHC CN
13 1 15 TA 1 Cô bé quàng khăn đỏ
13 2 16 TV 1
31 1 33 TA 1 Cậu Giắc và Cây đậu
62 1 63 TV 0
30 0 31 TA 1 Cái chết trắng
34 0 35 TV 1
31 0 31 TA 0 Chú mèo đi hia
27 1 28 TV 0
Đích – Ngài thị trưởng 62 4 66 TA 0
thành phố Luân Đôn 40 4 44 TV 0
32 3 35 TA 0 Truyện chú Tôm tí hon
32 5 37 TV 0
Chú thích:
- TLHC CN: Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ CGĐL: Câu ghép đẳng lập
- CĐ: Câu đơn CGCP: Câu ghép chính phụ
- TA: Tiếng Anh TV: Tiếng Việt
Bảng thống kê trên cho thấy rằng, ngoài 2 văn bản không có sự khác
Hoàng Thị Hà
57
biệt đáng kể về tần số xuất hiện của hiện tượng tỉnh lược giữa bản gốc tiếng
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt Anh và bản đối dịch tiếng Việt (Cô bé quàng khăn đỏ với 15/16 và Truyện
chú Tôm tí hon là 35/37), thì cả 4 văn bản còn lại đều có sự chênh lệch về tần
số xuất hiện. Ta có tỉ lệ trường hợp TLHC CN TA/TLHC CN TV như sau:
- Cậu Giắc và Cây đậu: 33/63
- Cái chết trắng: 31/35
- Chú mèo đi hia: 31/28
- Đích – Ngài thị trưởng thành phố Luân Đôn: 66/44
Qua việc phân tích và xử lý tư liệu, chúng tôi thấy rằng sở dĩ có sự
chênh lệch về tần số xuất hiện của hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong
quá trình chuyển dịch văn bản Anh – Việt là do có sự khác biệt về đặc thù
ngữ pháp nói chung và phạm vi sử dụng tỉnh lược hồi chỉ để liên kết nói riêng
giữa hai ngôn ngữ. Trong quá trình chuyển dịch Anh – Việt, một trường hợp
tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ có thể vẫn được giữ nguyên, nhưng cũng có thể
được chuyển sang thành một dạng liên kết khác hoặc được khôi phục thành
phần chủ ngữ nhằm đảm bảo mục đích chuyển tải chính xác nội dung so với
bản gốc tiếng Anh, đồng thời phù hợp với ngữ pháp tiếng Việt và văn hóa
người Việt. Như đã nói ở trên, tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Anh có
phạm vi sử dụng hẹp hơn so với tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Việt
(trong tiếng Anh không có hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ ở cấp độ câu
đơn trong văn bản). Điều này lý giải tại sao tổng số trường hợp TLHC CN
trong tiếng Việt (trong 6 văn bản trên) cao hơn so với trong tiếng Anh với tỉ lệ
223/211 (tiếng Việt/tiếng Anh).
Tuy nhiên, xét về tần số xuất hiện thì tiếng Anh và tiếng Việt đều có
đặc điểm chung là trường hợp tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép đẳng
lập chiếm ưu thế vượt trội so với trong câu đơn và câu ghép chính phụ. Điều
này thể hiện qua tỉ lệ TLHC CN trong CGĐL/tổng số TLHC CN qua bảng
Hoàng Thị Hà
58
thống kê dưới đây:
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Tỉ lệ TLHC CN Tỉ lệ TLHC CN
trong CGĐL trong CGĐL Truyện
(Tiếng Anh) (Tiếng Việt)
Cô bé quàng khăn đỏ 13/15 (87%) 13/16 (81%)
Cậu Giắc và Cây đậu 31/33 (94%) 62/63 (98%)
Cái chết trắng 30/31 (97%) 34/35 (97%)
Chú mèo đi hia 31/31 (100%) 27/28 (96%)
Đích – Ngài thị trưởng 62/66 (94%) 40/44 (91%) thành phố Luân Đôn
Truyện chú Tôm tí hon 32/35 (91%) 32/37 (86%)
2.3.2 Chuyển dịch
2.3.2.1 Tương đồng
Điểm tương đồng ở đây là trong quá trình chuyển dịch từ Anh sang
Việt, hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ vẫn được giữ nguyên vẹn mà
không làm phương hại đến nội dung, ý nghĩa của câu văn. Ta có thể nhận thấy
điều đó trong các ví dụ sau:
+ Trong câu ghép đẳng lập:
(79a) The police stopped us, and looked in our bags. (Câu gốc)
(White Death, Page 13)
(79b) Cảnh sát giữ chúng con lại, và lục soát những túi xách của chúng
con. (Câu đối dịch)
Hoàng Thị Hà
59
(Cái chết trắng, Tr12)
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (80a) Sarah sat quietly at the table in the room, and looked at her hands.
(Câu gốc)
(White Death, Page 17)
(80b) Trong phòng, Sarah ngồi lặng yên bên bàn và nhìn vào đôi bàn tay
mình. (Câu đối dịch)
(Cái chết trắng, Tr16)
Có thể nói, câu ghép đẳng lập là điều kiện cú pháp lý tưởng để áp dụng
phương thức tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ vì những câu này thường có chủ ngữ
đồng sở chỉ. Do vậy, trong cả tiếng Anh và tiếng Việt, hiện tượng tỉnh lược
hồi chỉ chủ ngữ vẫn xảy ra phổ biến nhất ở câu ghép đẳng lập.
+ Trong câu ghép chính phụ:
(81a) He, asked them why they were so mechancholy, and learned that they
were miserable because had no children. (Câu gốc)
(The history of Tom Thumb, Page 10)
(81b) Thầy hỏi họ vì sao sầu muộn như thế, và thầy biết được rằng họ đau
khổ vì không có con. (Câu đối dịch)
(Chuyện chú Tôm tí hon, Tr11)
2.3.2.2 Khác biệt
Tuy nhiên, trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng vẫn có
một số điểm khác biệt khi chuyển dịch câu văn có chứa hiện tượng tỉnh lược
hồi chỉ chủ ngữ trong bản gốc tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt.
a. Thay thế “chủ ngữ zê rô” bằng đại từ trong bản dịch tiếng Việt
(82a) For this reason he did not come into the parlour with the rest, but Miss
Alice guessed what was the matter, and ordered him to be called in. (Câu
gốc)
Hoàng Thị Hà
60
(Dick Whittington, Page 30)
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (82b) Vì lí do này cậu không đến phòng khách với những người kia. Nhưng cô
Alis thì đoán ra đó là vì chuyện gì, cô ra lệnh cho người đi gọi cậu đến. (Câu
đối dịch)
(Đích Uýtingson – Ngài Thị trưởng Thành phố Luân Đôn, Tr31)
Trong ví dụ trên, câu ghép đẳng lập trong tiếng Anh có sử dụng biện
pháp tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ (thay thế bằng chủ ngữ ) trong vế cuối cùng
để tránh lặp lại thành phần chủ ngữ “Miss Alice” một lần nữa, đồng thời vừa
có thể rút gọn được câu văn mà không làm thay đổi nội dung của câu. Khi
chuyển dịch sang tiếng Việt, ngoài việc tách câu ghép gồm 3 vế đẳng lập trên
thành 2 câu riêng biệt, người dịch đã thay chủ ngữ bằng một đại từ thay thế
“cô”. Theo đó, đại từ “cô” thay thế cho từ “cô Alis”. Sử dụng đại từ thay thế
như vậy cũng là một biện pháp nhằm tránh sự lặp lại một cách nhàm chán của
chủ ngữ.
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một trong những cách chuyển dịch mà
người dịch đã lựa chọn. Đối với trường hợp này, người ta hoàn toàn có thể
chuyển dịch theo cách giữ nguyên chủ ngữ hay nói cách khác là giữ
nguyên biện pháp tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu như sau:
(82c) Vì lí do này cậu không đến phòng khách với những người kia. Nhưng cô
Alis thì đoán ra đó là vì chuyện gì nên đã ra lệnh cho người đi gọi cậu đến.
(82a) The people then came in great number to see the sailors who were of
different colour from themselves, and treated them very civilly, and, when
they became better acquainted, were very eager to buy the fine things that
the ship was loaded with. (Câu gốc)
(Dick Whittington, Page 32)
(82b) Thấy chiếc tàu lạ, những người dân ở đây đến rất đông để xem những
Hoàng Thị Hà
61
người thủy thủ có màu da khác với màu da của họ. Họ đối xử với các thủy thủ
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt rất lễ độ lịch sự, và khi quen biết nhau hơn, họ rất háo hức muốn mua các thứ
hàng đẹp mà chiếc tàu chở đầy. (Câu đối dịch)
(Đích Uýtingson – Ngài Thị trưởng Thành phố Luân Đôn, Tr33)
Thay vì để chủ ngữ zêrô () như văn bản gốc hay lặp lại cả cụm danh
ngữ làm chủ ngữ như trong câu trước, ở đây người dịch đã sử dụng đại từ
“họ” để thay thế cho cụm “những người dân ở đây” làm chủ ngữ cho các vế
tiếp theo. Ví dụ:
(83a) The cat, delighted at the success of his scheme, went away as fast as
he could, and ran so swiftly that he kept along way ahead of the royal
carriage. (Câu gốc)
(Puss in boots, Page 80)
(83b) Con mèo rất sung sướng thấy ý đồ của mình được thực hiện. Nó chạy đi
hết sức nhanh, nhanh đến mức mà nó chạy rất xa ở trước chiếc xe ngựa của
hoàng gia. (Câu đối dịch)
(Chú mèo đi hia, Tr81)
Khi chuyển dịch Anh Việt câu trên, người dịch đã không sử dụng tỉnh
lược hồi chỉ chủ ngữ nữa mà đã tách câu ghép đẳng lập trên thành 2 câu và
dùng đại từ “Nó” (thay thế cho danh từ “con mèo”) để làm chủ ngữ trong câu
thứ hai. Cách tách câu và sử dụng đại từ làm chủ ngữ thay thế cho trong
bản dịch tiếng Việt như thế này vừa làm cho câu văn ngắn gọn dễ hiểu mà vẫn
đảm bảo duy trì quy chiếu của nhân vật. Dường như đây là phương pháp
chuyển dịch đơn giản và hiệu quả hơn cả khi thực hiện chuyển dịch hiện
tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ từ Anh sang Việt.
b. Chủ ngữ “zê rô” được khôi phục trong bản dịch tiếng Việt
(84a) “Who is there?”
- Red Riding Hood bringing you a cake and some wine, open the door!
Hoàng Thị Hà
62
(Câu gốc) (Red Riding Hood, Page 70)
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (84b) “Ai đó?”
- “Bé áo choàng Mũ đỏ mang bánh ngọt và rượu vang cho bà đây ạ. Bà hãy
mở cửa ra!” (Câu đối dịch)
(Cô bé quàng khăn đỏ, Tr71)
Như ta đã biết, “open the door!” có thể được coi là câu mệnh lệnh thức
trong tiếng Anh. Với dạng câu như thế này, người ta thường lược bỏ thành
phần chủ ngữ là chủ thể trong câu đi, hoặc đưa chủ thể này xuống cuối câu.
Ví dụ như:“Open the door, Jenny!”. Đối với câu mệnh lệnh kiểu như thế này,
khi chuyển dịch sang tiếng Việt, người dịch có thể phục hồi lại chủ ngữ hoặc
vẫn lược bỏ chủ ngữ giống như trong câu tiếng Anh tùy theo từng ngữ cảnh,
từng trường hợp cụ thể: (Jenny) mở cửa ra nào!
Trong ví dụ trên cũng vậy, chủ thể mà người nói muốn hướng đến đã được
ẩn đi, nhưng nhờ có sự xuất hiện của từ “you” (bà) trong câu trước đó của
người nói, người ta có thể hiểu được rằng, nhân vật mà người nói hướng đến
trong câu mệnh lệnh thức đó, chính là “you” (bà). Như vậy ta có thể coi đây
là một trường hợp của hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ.
Do sự khác nhau về đặc thù văn hóa giao tiếp cũng như ngôn ngữ, khi
đoạn hội thoại trên được chuyển dịch sang tiếng Việt, người dịch đã khôi
phục đầy đủ thành phần chủ ngữ trong câu cầu khiến nói trên là: “Bé áo
choàng Mũ đỏ mang bánh ngọt và rượu vang cho bà đây ạ. Bà hãy mở cửa
ra!”). Trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam, người bậc dưới luôn luôn
phải ăn nói lễ phép, đầy đủ ngôi thứ khi nói chuyện với người lớn tuổi. Do đó,
thành phần chủ ngữ “bà” trong trường hợp này không thể vắng mặt như trong
tiếng Anh. Đó là lý do mà chủ ngữ đã được khôi phục lại khi chuyển dịch từ
tiếng Anh sang tiếng Việt, nghĩa là không còn hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ
chủ ngữ trong bản dịch tiếng Việt nữa.
Trong nhiều trường hợp, khi chuyển dịch hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ
Hoàng Thị Hà
63
chủ ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt, thành phần chủ ngữ đã được khôi phục
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt bằng phương thức lặp từ vựng, nghĩa là lặp lại chính danh từ làm chủ ngữ
đứng trước. Sau đây là một ví dụ của trường hợp này:
(85a) By this time the King had arrived opposite the castle, and was seized
with a strong desire to enter it. (Câu gốc)
(Puss in boots, Page 84)
(85b) Lúc này Đức vua đã tới trước lâu đài, Đức vua đột nhiên mong muốn đi
vào thăm lâu đài. (Câu đối dịch)
(Chú mèo đi hia, tr.85)
Trong ví dụ này, khi thực hiện chuyển dịch, người dịch đã lặp lại danh
từ “Đức vua” để khôi phục chủ ngữ cho câu để tạo sự trang trọng khi nói về
nhân vật là vua của một nước. Tuy nhiên, trường hợp này vẫn có thể khôi
phục chủ ngữ theo một cách khác mà vẫn đảm bảo tính trang trọng, đó là thay
thế danh từ “Đức vua” bằng từ “Ngài” như dưới đây: “Lúc này Đức vua đã
tới trước lâu đài, ngài đột nhiên mong muốn đi vào thăm lâu đài”.
c. Thay đổi vị trí tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ khi chuyển dịch
(86a) So one fine, moonlight, midsummer night he refused his supper, and
before he went to bed, stole out to the garden with a big watering-can and
watered the ground under his window. (Câu gốc)
(Jack and beanstalks, Page 60)
(86b) Vì vậy, vào một đêm trăng đẹp giữa mùa hè, cậu từ chối không ăn cơm
tối và trước khi đi ngủ, cậu lấy một chiếc bình tưới to, lẻn ra vườn,
tưới mảnh đất ở bên dưới của sổ phòng cậu. (Câu đối dịch)
(Cậu Giắc và Cây đậu, Tr61)
So sánh giữa câu gốc tiếng Anh và câu chuyển dịch tiếng Việt, người ta
sẽ nhận thấy rằng có sự khác nhau giữa vị trí của tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ.
Hoàng Thị Hà
64
Trong câu gốc tiếng Anh, tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ “he” (cậu) chỉ được áp
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt dụng 2 lần ở trước vị ngữ “stole out to the garden” (lẻn ra vườn) và “
watered the ground under his window” (tưới mảnh đất ở bên dưới của sổ
phòng cậu). Tuy nhiên, ở câu chuyển dịch xuất hiện 3 lần, và hơn nữa, thành
phần chủ ngữ “he” trong “before he went to bed” đã được tỉnh lược hồi chỉ
khi chuyển dịch sang tiếng Việt. Thay vào đó, nó lại xuất hiện trong vế tiếp
theo trong câu chuyển dịch “cậu lấy một chiếc bình tưới to, lẻn ra vườn”.
Do đây là một câu ghép đẳng lập với nhiều vế câu có cùng một chủ ngữ, nên
sự thay đổi vị trí của tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong quá trình chuyển dịch
không làm ảnh hưởng đến nội dung của câu. Hơn thế nữa, sự thay đổi vị trí
này chỉ nhằm diễn đạt mạch lạc nội dung mà người dịch muốn chuyển tới
người đọc. Ví dụ:
(87a) When they became better acquainted, were very eager to buy the fine
things that the ship was loads with. (Câu gốc)
(Dick Whittington, Page 32)
(87b) Khi quen biết nhau hơn, họ rất háo hức muốn mua các thứ hàng đẹp
mà chiếc tàu chở đầy. (Câu đối dịch)
(Đích Uýtingson – Ngài Thị trưởng Thành phố Luân Đôn, tr33)
Xét câu gốc tiếng Anh và câu đối dịch tiếng Việt ta thấy, ví dụ này là
một sự hoán đổi vị trí của chủ ngữ “they” thành rê zô và chủ ngữ rê zô thì lại
được khôi phục. Hay nói cách khác, trong trường hợp này hiện tượng tỉnh
lược hồi chỉ chủ ngữ đã được chuyển thành tỉnh lược khứ chỉ chủ ngữ vì vị trí
của chủ ngữ “they” đứng trước trong câu gốc tiếng Anh đã được thay bằng rê
zô () trong tiếng Việt. Trong khi đó, chủ ngữ được tỉnh lược hồi chỉ đứng
phía sau lại được khôi phục bằng đại từ “họ”.
Bên cạnh những trường hợp khác biệt tiêu biểu nói trên, chúng tôi có
nhận thấy một điểm khác biệt khá phổ biến trong quá trình chuyển dịch Anh -
Việt có liên quan đến hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ, đó là hiện tượng
Hoàng Thị Hà
65
chuyển dịch từ dạng thức “V-ing” sang thành cấu trúc ( S + V). Sau đây,
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt chúng tôi xin trình bày một vài phân tích về hiện tượng chuyển dịch dạng
phân từ hiện tại “V-ing” từ tiếng Anh sang tiếng Việt.
Do tiếng Anh là một ngôn ngữ biến hình, cho nên chúng ta rất hay gặp
cấu trúc “preposition + V-ing” trong các văn bản tiếng Anh. Điều đáng nói là
khi chuyển dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt thì cấu trúc này chắc chắn sẽ
không còn vì tiếng Việt là ngôn ngữ không biến đổi hình thái. Để thay thế
cách diễn đạt đó, người dịch thường dùng cấu trúc S+V, nghĩa là chủ ngữ
bằng zê rô () và động từ. Ta có thể nhận thấy hiện tượng này trong ví dụ
sau:
(88a) He went straight in and up to the bed without saying a word and ate
up the poor old woman. (Câu gốc)
(Red Riding Hood, Page 72)
(88b) Nó đi thẳng vào đến bên giường, không nói một lời, nuốt chửng
luôn bà cụ già khốn khổ. (Câu đối dịch)
(Cô bé quàng khăn đỏ, Tr73)
Trong ví dụ trên, cụm “without saying a word” chính là cấu trúc
“preposition + V-ing”, khi chuyển dịch sang tiếng Việt, nó đã được thay thế
bằng dạng cấu trúc “ S + V” ( + “không nói một lời”). Sở dĩ người dịch
được phép chuyển dịch như vậy là vì chủ ngữ này đã được ngầm hiểu ở vế
trước: “Nó đi thẳng vào đến bên giường, không nói một lời…” và động từ
“(không) nói” ở đây chính là thể hiện hành động của chủ thể “Nó”. Đây
chính là một hiện tượng “V-ing” trong tiếng Anh được chuyển dịch thành tỉnh
lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Việt.
Như vậy, ta có thể nhận thấy rằng, trong một số trường hợp thì chính
việc tác giả dùng cấu trúc “preposition + V-ing” trong tiếng Anh cũng là một
phương pháp diễn đạt để tỉnh lược chủ ngữ. Và do đặc thù loại hình ngôn
Hoàng Thị Hà
66
ngữ, tiếng Việt không thể biến đổi hình thái như tiếng Anh nên trong câu
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt chuyển dịch tiếng Việt đã hiện thực hóa cấu trúc “preposition + V-ing” thành
dạng cấu trúc có chứa chủ ngữ được tỉnh lược hồi chỉ. Ví dụ:
(89a)“ Have a care”, shouted the orge, clinging on as hard as he could.
(Câu gốc)
(89b)“Hãy cẩn thận coi chừng”, lão yêu tinh vừa thét lên, vừa bám hết sức
chặt vào thân cây đậu. (Câu đối dịch)
(Jack and beanstalk, Page 66)
Trên đây là một ví dụ khác của hiện tượng chuyển dịch từ dạng phân từ
hiện tại V-ing sang cấu trúc S + V. Ta có thể thấy rằng V-ing (clinging –
bám hết sức) trong trường hợp này là nhằm thể hiện hành động xảy ra đồng
thời với hành động đã được nhắc đến trước đó là shouted” (thét lên) của cùng
một chủ thể là (the orge – lão yêu tinh). Cũng tương tự như ví dụ trên, khi
chuyển dịch sang tiếng Việt, cấu trúc trên được thay thế bằng tỉnh lược hồi
chỉ chủ ngữ.
Dưới đây là một trường hợp khác, kết hợp của cả hai trường hợp đã nêu ở
trên :
(90a) So, putting on the boldest face he could assume, Puss marched up to the
castle with his boots on, and asked to see the owner of it, saying that he
was on his travels, but did not wish to pass so near the castle of such a
noble gentle man without paying his respects to him. (Câu gốc)
(Puss in boots, Pgae 82)
(90b) Vì vậy, cố gắng lấy vẻ mặt dũng cảm nhất, Miu ta đi hia, tiến thẳng
tới lâu đài, xin được vào yết kiến chủ nhân, nói rằng nó đang đi du hành,
nhưng không muốn đi qua rất gần lâu đài của một vị quý tộc cao thượng như
thế mà lại không vào chào . (Câu đối dịch)
Hoàng Thị Hà
67
(Chú mèo đi hia, Tr83)
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Trong ví dụ này, cả hai trường hợp V-ing trong tiếng Anh là “saying”
và “without paying” đều được thay thế bằng dạng ( S+V) khi chuyển dịch
sang tiếng Việt.
Bên cạnh đó, trong số tư liệu mà chúng tôi khảo sát được, có một vài
trường hợp trong câu gốc tiếng Anh không có hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ,
nhưng khi chuyển dịch sang tiếng Việt, thì lại xuất hiện hiện tượng tỉnh lược
hồi chỉ chủ ngữ, ví dụ:
(91a) The King wwould give half his treasure to be freed of them, for they not
only destroy his dinner, as you see, but they assault him in his chamber, and
even in bed, so that he is obliged to be watched while he sleeping for fear of
them. (Câu gốc)
(Dick Whittington, Page 34)
(91b) Đức vua nước chúng tôi sẽ vui lòng cho hẳn một nửa kho tàng của ngài
cho người nào có thể giải thoát ngài khỏi những con vật ấy. Chúng không
những phá hủy bữa tiệc của ngài, như ông thấy, mà còn tấn công ngài
ngay trong giường ngủ và thậm chí ở ngay trên giường nữa. Ngài buộc phải
cho canh gác khi ngài ngủ vì sợ bọn chúng kéo đến. (Câu đối dịch)
(Đích Uýtingtơn – Ngài thị trưởng thành phố Luân Đôn, Tr 35)
Xét ví dụ trên, ta thấy trong câu gốc tiếng Anh không có hiện tượng tỉnh
lược hồi chỉ, nhưng khi chuyển dịch sang tiếng Việt đã có tỉnh lược hồi chỉ
chủ ngữ. Trong câu tiếng Anh, tác giả đã sử dụng phương pháp liên kết lặp
đại từ “they”: “they not only destroy his dinner, as you see, but they assault
him in his chamber”, thế nhưng khi chuyển dịch sang tiếng Việt, người dùng
đã liên kết câu ghép trên bằng phương thức tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ, nghĩa là
thay đại từ “they” trong vế thứ 2 bằng zê rô (). Ví dụ này là trường hợp tiêu
biểu cho sự không tương đồng về hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ khi chuyển
dịch Anh – Việt.
Hoàng Thị Hà
68
Dưới đây cũng là một trường hợp tương tự:
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (92a) Once she gave her a little red welvet cloak. It was so becoming and she
liked it so much that she would never wear anything else, and so she got the
name of Red Riding Hood. (Câu gốc)
( Red Riding Hood, Page 68)
(92b) Bé mặc vừa xinh và bé rất thích nên chẳng bao giờ chịu mặc chiếc
áo khác. Vì vậy người ta gọi tên bé là cô bé mặc Áo choàng Mũ đỏ. (Câu đối
dịch)
(Cô bé mặc áo choàng mũ đỏ, Tr69)
2.4 Tiểu kết
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ là hiện
tượng một thành phần chủ ngữ trong câu được lược bỏ nếu như nó đồng quy
chiếu với thành phần chủ ngữ trong câu hoặc mệnh đề trước đó. Hay nói cách
khác là chủ ngữ này được thay thế bằng zê rô () và có thể được khôi phục
nhờ ngữ cảnh đã xuất hiện ở tiền ngôn. Hiện tượng này xảy ra phổ biến ở cả
tiếng Anh và tiếng Việt.
Dựa trên cơ sở phạm vi sử dụng của hiện tượng này, chúng tôi đã chia
tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Anh ra thành 3 tiểu loại sau: Tỉnh lược
hồi chỉ chủ ngữ trong câu đơn; Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép đẳng
lập; Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép chính phụ. Tương tự, hiện
tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Việt cũng có 3 tiểu loại như sau:
Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu đơn; Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu
ghép đẳng lập; Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép chính phụ.
Trong quá trình chuyển dịch Anh – Việt, hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ
có thể được giữ lại nguyên vẹn giống như văn bản gốc, nhưng cũng có nhiều
trường hợp được phục hồi chủ ngữ, hay thay đổi bằng phương thức liên kết
khác hoặc được diễn đạt theo một cách khác. Như vậy, hiện tượng tỉnh lược
hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Anh và trong bản dịch tiếng Việt bao giờ cũng có
Hoàng Thị Hà
69
những trường hợp mang các đặc điểm tương đồng hoặc khác biệt nhất định.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Qua phân tích tư liệu, chúng tôi thấy rằng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
trong tiếng Anh có phạm vi sử dụng hẹp hơn so với tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
trong tiếng Việt. Như trên đã trình bày, tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ thường xảy
ra ở ba kiểu câu là câu đơn, câu ghép đẳng lập và câu ghép chính phụ. Tuy
nhiên, xét trong phạm vi hoạt động ở câu đơn thì tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
tiếng Việt xuất hiện phổ biến ở cả câu đơn trong văn bản cũng như trong hội
thoại, trong khi đó hiện tượng này trong tiếng Anh thì chỉ thấy xuất hiện trong
câu đơn ở các đoạn hội thoại mà thôi.
Một điểm khác biệt nữa nhận thấy khá rõ là sự khác nhau về tần số xuất
hiện của tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt. Theo khảo
sát của chúng tôi trong 6 văn bản song ngữ của NXB Giáo dục, tần số xuất
hiện trường hợp tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Việt cao hơn so với
trong tiếng Anh với tỉ lệ 223/211 (tiếng Việt/tiếng Anh). Tuy nhiên, có một
đặc điểm chung giữa hai ngôn ngữ là trường hợp tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
trong câu ghép đẳng lập chiếm ưu thế vượt trội hơn nhiều so với trong câu
Hoàng Thị Hà
70
đơn và câu ghép chính phụ.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Chương 3
TỈNH LƯỢC HỒI CHỈ VỊ NGỮ
TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
Cũng giống như chủ ngữ, vị ngữ (predicate) cũng là một thành phần
quan trọng trong cấu trúc nòng cốt của câu. Chủ ngữ và vị ngữ cũng là hai
thành phần gắn bó hữu cơ, có tác động chi phối mối quan hệ qua lại với nhau,
làm nên một chủ thể thông báo.
Thông thường, người ta thường hiểu vị ngữ là thành phần đứng sau chủ
ngữ. Tuy nhiên, thực tế thành phần câu đứng sau chủ ngữ có thể chia thành 3
trường hợp như sau: vị ngữ là động từ (verb); vị ngữ gồm động từ và bổ ngữ
(verb + object) và cuối cùng là vị ngữ gồm động từ và bổ ngữ trực tiếp, bổ
ngữ gián tiếp (verb + object 1 + object 2). Trong quá trình nghiên cứu đề tài
này, chúng tôi xem xét vị ngữ ở trường hợp thứ ba, tức là vị ngữ hiểu theo
nghĩa rộng, bao gồm động từ + bổ ngữ trực tiếp + bổ ngữ gián tiếp.
Trong giới Việt ngữ học đã có nhiều nhà nghiên cứu bàn về tầm quan
trọng của vị ngữ trong việc xây dựng câu như Diệp Quang Ban (Ngữ pháp
tiếng Việt), Nguyễn Kim Thản (Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt), Hoàng
Trọng Phiến (Ngữ pháp tiếng Việt, câu), Nguyễn Chí Hòa (Ngữ pháp tiếng
Việt, những vấn đề lí luận)... Là một trong những tác giả đi sâu nghiên cứu về
thành phần câu, Hoàng Trọng Phiến trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt, câu”
cho rằng: “Vị ngữ là một thành phần chính của câu. Vì vậy vị ngữ là thành
phần có liên đới đến nhiều thành phần khác một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Nó là trung tâm tổ chức của câu, và do vậy, vị ngữ có nhiều vấn đề phức tạp
Hoàng Thị Hà
71
hơn chủ ngữ. Là trung tâm của tổ chức câu nên rất hiếm câu có vị ngữ bị lược
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt bỏ” [13, 115] . Ở đây, chúng tôi chủ trương xem xét hiện tượng tỉnh lược hồi
chỉ vị ngữ dựa trên quan điểm về vị ngữ của tác giả Hoàng Trọng Phiến.
Một câu có chứa tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ có nghĩa là một câu có thành
phần vị ngữ bị lược bỏ và thay thế bằng zê rô. Một nguyên tắc không thể thay
đổi là thành phần vị ngữ vắng mặt này đòi hỏi phải đồng sở chỉ với vị ngữ đã
xuất hiện ở tiền ngôn. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chủ trương
theo quan điểm hiểu vị ngữ theo nghĩa rộng, tức là vị ngữ bao gồm cả động từ
và bổ ngữ làm cơ sở nghiên cứu.
Thực tế, do đặc thù về chức năng cú pháp của vị ngữ, hiện tượng tỉnh
lược hồi chỉ thành phần vị ngữ rất ít gặp. Trong quá trình thu thập tư liệu,
chúng tôi thấy rõ rằng phiếu tư liệu về kiểu tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ chiếm số
lượng không nhiều, ít hơn hẳn so với hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
trong cả tiếng Anh và tiếng Việt.
3.1 Tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ trong tiếng Anh
3.1.1 Tỉnh lược hồi chỉ một phần của vị ngữ
Tỉnh lược hồi chỉ một phần của vị ngữ nghĩa là sự vắng mặt của một bộ
phận nào đó của vị ngữ trong câu, thành phần này đã được xuất hiện trước đó.
Một phần của vị ngữ đó có thể là phần đầu, phần cuối hoặc thậm chí là toàn
bộ phần ngữ động từ làm thành phần chính của vị ngữ. Sau khi xem xét tư
liệu, chúng tôi đã chia hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ một phần của vị ngữ ra các
trường hợp sau:
3.1.1.1 Chỉ tỉnh lược hồi chỉ thành phần động từ vị ngữ
Hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ một phần của vị ngữ xuất hiện khá phổ
biến trong các câu ghép đẳng lập. Trong đó, phần động từ chính (hoặc có thể
là to be + động từ) trong vế thứ 2 được lược bỏ với điều kiện thành phần này
phải trùng với phần tương đương của vị ngữ của vế thứ nhất. Trong trường
hợp này, phần còn lại của vị ngữ thường là thành phần bổ ngữ. Ta có thể thấy
Hoàng Thị Hà
72
rõ hiện tượng này hơn qua ví dụ sau:
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (93) The eldest son took the mill, the second the ass, while the third was
obliged to content himself with the cat, at which he grumbled very much.
(Puss in Boots, Page 76)
(94) Người con trai cả được cái cối xay, người con thứ hai được con lừa,
trong khi đó, người con thứ ba buộc phải bằng lòng nhận con mèo. Anh ta
cằn nhằn rất nhiều về việc này.
(Chú mèo đi hia, Tr 77)
Xét ví dụ trên, ta thấy thành phần động từ chính của vị ngữ trong vế thứ
hai của câu tiếng Anh đã không xuất hiện mà được bỏ trống. Thành phần còn
lại của vị ngữ ở đây là danh từ làm bổ ngữ “the ass” (con lừa). Thông qua
ngữ cảnh, chúng ta có thể hiểu được rằng, động từ làm vị ngữ được lược bỏ ở
đây chính là động từ “took” đã xuất hiện trong vế trước. Tuy nhiên, sự vắng
mặt một phần của vị ngữ này không hề ảnh hưởng đến nội dung của cả câu
văn. Hơn thế nữa, sự lược bỏ thành phần động từ làm vị ngữ như vậy thường
là chủ ý của người nói, người viết khi muốn nhấn mạnh vào thông tin còn lại
của câu. Trong trường hợp này thông tin cần nhấn mạnh chính là thành phần
bổ ngữ “the ass” (con lừa). Tương tự như vậy, trong tiếng Anh chúng ta còn
bắt gặp nhiều câu tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ như trên. Dưới đây là một ví dụ
tương tự:
(95) I work in a factory, and my father (works) on a farm.
(Tôi thì làm việc ở một nhà máy, còn bố tôi thì ở một trang trại)
Trong văn bản, khi các vế của câu ghép đẳng lập có động từ vị ngữ
đồng sở chỉ với nhau, thì động từ vị ngữ đó chỉ cần xuất hiện một lần ở vế đầu
tiên để làm cơ sở cho sự vắng mặt của nó trong vế tiếp theo. Đôi khi sự vắng
mặt đó chỉ cần thay thế bằng dấu phẩy thể hiện sự liệt kê để người đọc chú ý
Hoàng Thị Hà
73
đến những thông tin khác như ví dụ dưới đây:
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (96a) Animals and plants proviveded their food; leaves, their clothes, and
caves, their shelter.
(Động vật và thực vật cung cấp cho chúng ta thức ăn, lá cây cho chúng ta
quần áo, và hang động cho chúng ta chỗ ở)
Ở đây, thành phần động từ “provided” (cung cấp) chỉ xuất hiện một
lần trong câu đầu tiên, thế nhưng người đọc vẫn có thể hiểu được trọn vẹn nội
dung thông báo của câu trên. Có thể nói, phương thức tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ
đã giúp cho câu trên ngắn gọn, súc tích hơn nhiều so với cách lặp lại thành
phần động từ như câu dưới đây:
(96b) Animals and plants provided their food, leaves provided their clothes,
and caves provided their shelter.
(Động vật và thực vật cung cấp cho chúng ta thức ăn, lá cây cung cấp cho
chúng ta quần áo, và hang động cung cấp cho chúng ta chỗ ở)
Trong tiếng Anh, với các trường hợp tỉnh lược hồi chỉ động từ chính
của vị ngữ như thế này, nếu như chủ ngữ của câu cũng đồng sở chỉ với chủ
ngữ trong vế trước đó thì cũng có thể được tỉnh lược hồi chỉ luôn để làm cho
câu văn thêm ngắn gọn như ví dụ dưới đây:
(97) She will work today, and (she) may (work) tomorrow.
(Hôm nay cô ấy sẽ làm việc, và có thể nghỉ vào ngày mai )
3.1.1.2 Tỉnh lược hồi chỉ động từ chính (hoặc động từ to be) + bổ ngữ
Thậm chí, trong nhiều trường hợp, ta có thể bắt gặp hiện tượng tỉnh
lược hồi chỉ toàn bộ phần ngữ động từ của vị ngữ trong câu. Thông thường,
ngữ động từ này gồm một động từ chính (hoặc động từ to be) và một bổ ngữ.
Thành phần còn lại của vị ngữ thường là trạng ngữ hoặc bổ ngữ gián tiếp. Sau
đây là một trường hợp như vậy:
(98) His friends already belong to the club and he will soon. (=belong to
Hoàng Thị Hà
74
the club )
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (Các bạn của anh ta đã gia nhập câu bộ rồi còn anh ta thì sẽ chẳng bao lâu
nữa)
Trong câu ghép đẳng lập trên, ngữ động từ “belong to the club” làm vị
ngữ trong vế thứ 2 đã được lược bỏ, tránh sự lặp lại dài dòng cho câu văn. Ở
đây, “belong to” là động từ chính, còn “the club” (câu lạc bộ) chính là thành
phần bổ ngữ trực tiếp.
Ta có thể bắt gặp hàng loạt các trường hợp tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ
(lược bỏ động từ/to be+bổ ngữ) như vậy trong tiếng Anh. Các ví dụ dưới đây
là hiện tượng tương tự:
(99) John was the winner in 1971, and Bob in 1972.
(John là người chiến thắng năm 1971, và Bob năm 1972)
(100) Peter is playing football for his school and Paul for his club.
( Peter đang chơi bóng đá cho trường học của anh ta còn Paul thì cho câu lạc
bộ của anh ta)
(101) Joan will cook the meals today and Barbara may tomorrow.
(Joan sẽ nấu bữa ăn hôm nay và Barbara thì có thể ngày mai)
(102) John will meet my family tonight and will again tomorrow.
(Tối nay, John sẽ gặp gia đình tôi và sẽ gặp lần nữa vào ngày mai)
(103) Bob will interview some candidates this morning and Peter this
afternoon.
(Bob thì sẽ phỏng vấn một vài ứng cử viên vào sáng nay còn Peter thì chiều
nay)
3.1.1.3 Tỉnh lược hồi chỉ thành phần bổ ngữ trong vị ngữ
Ở đây, chúng tôi chỉ xét thành phần bổ ngữ của động từ làm vị ngữ
trong câu. Đó có thể là thành phần bổ ngữ trực tiếp hoặc gián tiếp của động
Hoàng Thị Hà
75
từ.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt - Tỉnh lược hồi chỉ thành phần bổ ngữ trực tiếp của động từ vị ngữ
(104a) He opened the car door and got out ( = the car )
(White Death, Page 40)
(104b) Anh ta mở cửa xe và bước xuống
(Cái chết trắng, Tr41)
Ta thấy, ví dụ trên là trường hợp tỉnh lược hồi chỉ phức, tức là lược bỏ
cùng một lúc hai thành phần trong một câu: chủ ngữ và bổ ngữ của vị ngữ.
Đây là trường hợp hai mệnh đề đẳng lập miêu tả một chủ thể “he” (anh ta) có
hai hành động diễn ra liên tiếp là “opened the car door” (mở cửa xe) và “got
out ”(bước xuống). Do hai mệnh đề này có thành phần chủ ngữ và bổ ngữ
đồng sở chỉ nên được phép lược bỏ cả hai thành phần trong vế thứ hai. Và khi
dịch câu này sang tiếng Việt, người ta cũng có thể dịch hoặc không dịch từ
“the car” trong trường hợp này. Nghĩa là, câu trên có thể dịch thành hai cách
như sau:
(104c) He opened the car door and got out ( = the car )
(104d) Anh ta mở cửa xe và bước xuống
(104đ) Anh ta mở cửa xe và bước xuống xe
Tuy nhiên, bất cứ ai cũng có thể thấy rằng, cách dịch như (b) rất ít khi
được lựa chọn vì nó dài dòng hơn so với (a).
Tương tự như vậy, ta có thể thấy hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ thành
phần bổ ngữ trực tiếp của vị ngữ trong các trường hợp sau:
(105) John walked into the room and the woman went in after him. ( =
the room)
(John bước vào phòng và người đàn bà bước vào theo sau)
Hoàng Thị Hà
76
(White Death-Cái chết trắng)
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Còn trong ví dụ (2), hai vế của câu ghép đẳng lập có phần bổ ngữ là
đồng sở chỉ, nên thành phần này được tỉnh lược hồi chỉ trong vế thứ hai sau
ngữ động từ “went in” (bước vào). Người đọc dễ dàng tự phục hồi lại được
thành phần bổ ngữ “the room” (căn phòng) khi liên hệ với vế đầu tiên. Ví dụ
sau đây là trường hợp tương tự.
(106) She went through the door and the man went out after her. ( = the
door)
(White Death, Page 16)
(Bà ta bước qua cửa và người đàn ông bước ra theo sau)
(Cái chết trắng, Tr17)
Trong một số trường hợp thành phần bổ ngữ gắn bó chặt chẽ với động
từ vị ngữ, bổ sung ý nghĩa trực tiếp cho vị ngữ nên không thể vắng mặt dù có
thể chúng đã hiện hiện trước đó. Ví dụ:
(107) He spang upon the mouse and gobbled it up in a trice.
(Puss in Boots, Page 84)
- Nó nhảy phắt đến, vồ gọn con chuột nhắt và ăn ngấu nghiến trong nháy mắt
(Chú mèo đi hia, Tr85)
Như ta đã thấy, thành phần bổ ngữ trong mệnh đề thứ hai là “it” (nó),
thay thế cho bổ ngữ đã xuất hiện trong mệnh đề đầu tiên là “the mouse” (con
chuột). Thành phần vị ngữ trong mệnh đề thứ hai là một ngữ động từ đòi hỏi
phải có thành phần bổ ngữ đi kèm, vì cấu trúc của nó là “gobble something up
”(nhai ngấu nghiến cái gì đó). Do vậy ta không thể bỏ đi yếu tố đại từ “it” có
vai trò là thay thế bổ ngữ trong trường hợp này.
- Tỉnh lược hồi chỉ thành phần bổ ngữ gián tiếp của động từ vị ngữ
Ở trường hợp này, nếu đã từng xuất hiện ở vế hoặc câu trước, thành
phần bổ ngữ gián tiếp thường đi kèm với giới từ ở vế sau hoặc câu sau sẽ
Hoàng Thị Hà
77
được phép vắng mặt để tránh trùng lặp. Ví dụ:
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (108) “But who made that telephone call? It’s important and I want to know”,
he said “I’m going to ask the police now. Would you like to come with me,
Mrs. Harland?”
“Yes, of course”, Anna said: “Stephen, are you coming ?”
(White Death, Page 61)
(109a)“Nhưng ai đã thực hiện cú gọi điện thoại đó? Đó là điều quan trọng
mà tôi muốn biết. Bây giờ tôi sẽ hỏi cảnh sát. Bà có muốn đi với tôi không, bà
Harland?”
“Vâng tất nhiên”, bà Anna đáp, “Stephen, cậu sẽ đi cùng chứ”.
(Cái chết trắng, Tr60)
Ta thấy rằng trong ví dụ trên thành phần bổ ngữ gián tiếp của động từ vị
ngữ “coming” trong câu trên đã được lược bỏ vì nó được ngầm hiểu qua
thành phần bổ ngữ hiện diện trước đó là: Would you like to come with me,
Mrs. Harland?” (“Bà có muốn đi với tôi không, bà Harland?”). Ở đây, “me”
chính là bổ ngữ gián tiếp của động từ “come” thông qua giới từ “with”. Dựa
vào văn cảnh của đoạn hội thoại, ta hoàn toàn có thể khôi phục thành phần bổ
ngữ gián tiếp đã bị lược bỏ trong câu trên như sau:
“Stephen, are you coming with me (or with us)?”
(“Stephen, cậu sẽ đi cùng tôi (hoặc chúng tôi) chứ”).
Tuy nhiên, trong đoạn đối thoại, người nói đã không lặp lại cụm từ “with
me” và người nghe vẫn có thể hiểu được dụng ý của người nói. Sự bỏ trống
trong những trường hợp như vậy chính là hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ thành
phần bổ ngữ gián tiếp của vị ngữ. Nhìn chung tỉnh lược hồi chỉ bổ ngữ gián
tiếp trong tiếng Anh rất ít khi xảy ra.
3.1.2 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ
Toàn phần vị ngữ ở đây chính là bao gồm tất cả thành phần chính và
Hoàng Thị Hà
78
thành phần phụ của vị ngữ. Khi xảy ra hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ toàn phần
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt vị ngữ, thì thành phần còn lại của câu thường là chủ ngữ (trong tiếng Anh thì
có thể có thêm thành phần trợ động từ hoặc động từ tình thái tương ứng với
chủ ngữ).
Trong hai câu đơn liên tiếp hoặc hai vế của một câu ghép đẳng lập, khi
toàn phần vị ngữ của vế sau (hoặc câu sau) đồng sở chỉ hoàn toàn với thành
phần tương đương ở vế đầu (hoặc câu đầu) thì ta có thể lược bỏ hoàn toàn
phần vị ngữ đó mà không làm ảnh hưởng đến nội dung ý nghĩa của câu văn.
Đó chính là hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ.
3.1.2.1 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ trong câu đơn
(110) The next day he saw a girl with a cat, and asked her if she would let him
have it for a penny. The girl said she would and at the same time told him
the cat was an excellent mouser.
(Puss in Boots, Page 28)
(Ngày hôm sau, Đích gặp một cô gái có một con mèo. Cậu hỏi cô gái liệu cô
có vui lòng bán nó cho cậu với giá một xu không. Cô gái nói cô vui lòng và
đồng thời bảo với cậu rằng con mèo đó rất chăm bắt chuột.)
(Chú mèo đi hia, Tr29)
Ví dụ trên bao gồm hai câu đơn, trong đó câu đơn thứ 2 có chứa tỉnh
lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ. Ta thấy rằng, thành phần vị ngữ được lược bỏ
trong câu đơn thứ 2 đã xuất hiện trong câu trước đó “let him have it for a
penny” (bán nó cho cậu với giá một xu). Như vậy, sự vắng mặt của vị ngữ
trong câu đơn nói trên đã được “giải thích” bằng thành phần vị ngữ đã xuất
hiện trước đó, do vậy chỗ trống đó không hề làm ảnh hưởng đến việc hiểu nội
dung của người đọc. Ví dụ:
(111) “So you will! So you will!”, checkled the queer, little, old man. “You
look the sort of chapforit. I let you know how many beans make five?”
Hoàng Thị Hà
79
- “Two in each hand and one in my mouth ”, answered Jack readily.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
(Jack and the Beanstalk, Page 46)
Đây là trường hợp tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ của câu đơn nằm
trong đoạn hội thoại. Hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ nằm trong câu đáp
của người trả lời. Ở đây, người đáp lại không nhắc lại thành phần vị ngữ
“make five” đã xuất hiện trong câu hỏi của người đối thoại, mà chỉ tập trung
vào thông tin mới do mình đưa ra trong câu trả lời “Two in each hand and one
in my mouth ”. Hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ trong các trường hợp hội
thoại như thế này xảy ra khá phổ biến vì sự vắng mặt của thành phần vị ngữ là
hoàn toàn có thể chấp nhận được mà không làm ảnh hưởng đến việc hiểu nội
dung câu trả lời của người nghe.
3.1.2.2 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ trong câu ghép đẳng lập
Trong câu ghép đẳng lập, khi thành phần động từ vị ngữ được tỉnh lược
hồi chỉ mà thành phần trợ động từ của hai vế khác nhau thì hai trợ động từ đó
sẽ là thành phần còn lại giúp người đọc khôi phục được thành phần vắng mặt
và hiểu nội dung của câu. Ví dụ:
(112) George will take the course and Bob might (=take the course )
(George sẽ tham gia khoá học ấy còn Bob thì chưa chắc chắn)
Trong ví dụ (1), vị ngữ là “take the course” (bao gồm động từ “take”
và bổ ngữ “the course”) lẽ ra đã xuất hiện 2 lần trong 2 vế của câu ghép đẳng
lập trên để diễn tả hai chủ thể với cùng một hành động giống nhau. Tuy nhiên,
để tránh lặp lại không cần thiết, toàn bộ thành phần vị ngữ trong vế 2 đã được
lược bỏ, thành phần còn lại là chủ thể thứ hai“Bob” và thành phần động từ
tình thái tương ứng “might”. Sự vắng mặt của vị ngữ trong câu thứ 2 này
không những không làm ảnh hưởng đến nội dung của nó mà còn giúp cho câu
văn ngắn gọn, giúp cho người nghe tập trung vào sự khác nhau của hai chủ
thể, thể hiện ở hai từ “will” (sẽ - biểu hiện khả năng chắc chắn) và “might”
(có thể - biểu lộ sự chưa chắc chắn). Trường hợp sau đây cũng là một ví dụ
Hoàng Thị Hà
80
tương tự:
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (113) Everyone will able to pay the full fee, but he probably won’t (pay the
full fee)
(Tất cả mọi người có thể sẽ trả đầy đủ học phí nhưng anh ta thì có thể sẽ
không)
3.1.2.3 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ trong câu ghép chính phụ
Nếu như hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ một phần của vị ngữ xảy ra khá
phổ biến trong câu ghép đẳng lập hoặc câu so sánh ngang bằng, thì hiện tượng
hồi chỉ toàn phần vị ngữ thường xuất hiện trong các câu ghép chính phụ và
câu so sánh hơn kém. Trong câu ghép chính phụ, nếu như chúng ta chỉ miêu
tả một hành động hoặc một đặc điểm và muốn đưa ra một chủ thể mới, ta có
thể lược bỏ vị ngữ ở mệnh đề đứng sau trong trường hợp thành phần ấy đồng
sở chỉ với vị ngữ trong mệnh đề chính đứng trước. Ta có thể thấy hiện tượng
này trong các ví dụ sau:
(114) Dick next asked his mistress, and then Miss Alice, to accept a part of his
good fortune; but they would not
(Dick Whittington, Page 38)
(Tiếp đó Đích đề nghị bà chủ của cậu và rồi đề nghị cô Alis nhận cho một
phần số của cải khá nhiều của cậu, nhưng họ không chịu nhận .)
(Đích Uýtingtơn – Ngài thị trưởng thành phố Luân Đôn, Tr 37)
Câu ghép chính phụ trên được nối bằng từ “but” (nhưng) chỉ mối quan
hệ đối lập kiểu như “Tuy...nhưng” hay “Dù...nhưng”. Ở đây, câu có chứa
tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ nằm ở mệnh đề chính của câu ghép chính phụ. Thành
phần vị ngữ được tỉnh lược hồi chỉ trong câu chính là phần được gạch chân.
Dựa vào ngữ cảnh của câu trên, người đọc có thể nhận ra thành phần vị ngữ
vắng mặt được thay thế bằng chỗ trống () quy chiếu đến ngữ động từ đứng
trước là “to accept a part of his good fortune” (nhận một phần số của cải khá
Hoàng Thị Hà
81
nhiều của cậu). Ta có thể khôi phục lại toàn bộ thành phần vị ngữ của ví dụ
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt trên như dưới đây, nhưng điều đó có thể gây nên sự dài dòng, rườm rà cho
câu văn:
- Dick next asked his mistress, and then Miss Alice, to accept a part of his
good fortune; but they would not accept a part of his good fortune.
3.1.2.4 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ trong câu bị động
Tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ cũng có thể xuất hiện trong câu bị động nếu
như vị ngữ của chúng vẫn đảm bảo điều kiện là đồng sở chỉ với vị ngữ của
câu đứng trước. Trong các trường hợp này, thành phần còn lại của câu bị
động thường là trợ động từ hoặc động từ tình thái tương ứng với chủ ngữ. Các
ví dụ sau đây sẽ minh hoạ cho điều này:
(115) He argue that If tissues could be marketed, then anything could be .
(Anh ta tranh luận rằng nếu khăn giấy có thể được đem bán ở thị trường, rồi
thì cái gì cũng có thể )
Trong ví dụ trên, được sử dụng để thay thế cho động từ vị ngữ
“marketed”. Tương tự, ta có các trường hợp sau:
(116) I’m sure it was repeated in the media. It must have been . (
=repeated in the media)
(Tôi chắc chắn rằng điều này đã được lặp lại trên các phương tiện thông tin.
Nó chắc chắn đã được lặp lại)
Tương tự, vị ngữ của câu bị động đầu tiên đã làm cơ sở giúp cho câu bị
động thứ hai có thể tỉnh lược hồi chỉ thành phần vị ngữ “repeated in the
media” mà không ảnh hưởng đến nội dung của câu.
Trên đây là một số trường hợp về hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ
trong tiếng Anh. Ta có thể rút ra một điều rằng do đặc thù về chức năng cú
pháp nên tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ thường xảy ra ít hơn so với các hiện tượng
tỉnh lược hồi chỉ các thành phần khác trong câu. Trong câu, ở bất kì ngôn ngữ
Hoàng Thị Hà
82
nào, thành phần vị ngữ thường được đánh giá là trọng tâm của cấu trúc thông
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt báo. Thậm chí có nhiều ý kiến cho rằng trong hai thành phần nòng cốt, vị ngữ
có vai trò quan trọng hơn cả chủ ngữ. Do vậy việc chúng ta ít gặp hiện tượng
tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ hơn so với các thành phần khác cũng là điều dễ hiểu.
3.2 Tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ trong tiếng Việt
Như ta đã biết, trong tiếng Việt, vị ngữ cũng là thành phần nòng cốt của
câu và có thể coi là thành phần chủ yếu nhất. Do tầm quan trọng của thành
phần vị ngữ trong câu nên hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ trong tiếng Việt
thường rất ít gặp.
Trong trường hợp tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ thì một phần hoặc toàn bộ vị
ngữ sẽ vắng mặt và ngầm quy chiếu đến thành phần vị ngữ có cùng sở chỉ
trong tiền ngôn. Thành phần còn lại thường là chủ ngữ, hoặc có thể có những
thành phần phụ khác của câu.
3.2.1 Tỉnh lược hồi chỉ một phần của vị ngữ
Tỉnh lược hồi chỉ một phần của vị ngữ tức là sự vắng mặt một thành
phần trong vị ngữ. Thành phần này đồng sở chỉ với vị ngữ trong vế câu hoặc
câu đứng trước đó. Phần vị ngữ còn lại sẽ giúp ta nhận diện ra và phục hồi
phần vị ngữ đã được ẩn đi một cách thuận lợi hơn.
3.2.1.1 Tỉnh lược hồi chỉ động từ chính của vị ngữ
(117a) Khang nghĩ đến Hà Nội, ánh sáng của Nhà hát Lớn, sân khấu,
người xem. Tôi, đến vợ con.
(Đôi mắt, Nam Cao)
Trong trường hợp trên, thành phần vị ngữ chính trong câu là ngữ động
từ “nghĩ đến Hà Nội”, diễn tả tâm trạng của chủ thể “Khang”. Động từ làm
vị ngữ chính trong câu này là “nghĩ đến” đã làm tiền đề cho sự hiện diện của
những thành phần phụ được liệt kê tiếp theo sau như: “Ánh sáng của Nhà hát
Lớn”, “ sân khấu”, “người xem”. Nghĩa là, ở trong câu trên đã có hiện tượng
Hoàng Thị Hà
83
tỉnh lược hồi chỉ động từ chính “nghĩ đến” trong các ngữ động từ làm vị ngữ
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt liên tiếp đứng cạnh nhau, thành phần còn lại là những bổ ngữ trực tiếp của
động từ. Nếu có sự xuất hiện đầy đủ của động từ vị ngữ, ta sẽ có câu như sau:
(117b) Khang nghĩ đến Hà Nội, nghĩ đến ánh sáng của Nhà hát Lớn, nghĩ đến
sân khấu, nghĩ đến người xem. Tôi, nghĩ đến vợ con.
So sánh sự khác biệt giữa câu trên với văn bản gốc ta thấy rõ sự vắng
mặt của động từ chính “nghĩ đến” trong các vế tiếp theo của văn bản gốc đã
đem lại sự ngắn gọn cho câu văn, đồng thời khiến cho người đọc tập trung
hơn vào những thông tin mới hơn được liệt kê liên tiếp như “ánh sáng của
nhà hát lớn”, “sân khấu”, “người xem”. Đặc biệt, trường hợp này cũng được
áp dụng tương tự với câu đơn tiếp theo: “Tôi, đến vợ con”. Tuy nhiên, trong
câu này chỉ có một từ “nghĩ” được lược bỏ, sự vắng mặt có chủ ý của động từ
này đã khiến tác giả có thể nhấn mạnh vào sự khác biệt giữa hai chủ thể: Một
người thì nghĩ đến “Hà Nội, ánh sáng của nhà hát lớn, sân khấu, người xem”;
một người thì “nghĩ đến vợ con”.
Sau đây là một trường hợp tương tự của hiện tượng Tỉnh lược hồi chỉ
động từ chính của vị ngữ:
(118) Nhưng những buổi tối có trăng thì dù chẳng có ai, Điền cũng khiêng đủ
bốn cái ghế ra sân. Rồi Điền gọi vợ con ra. Vợ bế con nhỏ ngồi một chiếc.
Con lớn một chiếc.
(Nam Cao)
Xét ví dụ trên ta thấy trong câu đơn “Con lớn một chiếc” đã tỉnh lược
hồi chỉ động từ “ngồi”, chỉ còn lại thành phần bổ ngữ của vị ngữ. Dựa vào
văn cảnh, người đọc vẫn có thể hiểu được ý đồ của tác giả mà không cần có
sự hiện diện đầy đủ của vị ngữ trong câu này.
3.2.1.2 Tỉnh lược hồi chỉ thành phần bổ ngữ trong vị ngữ
Trong trường hợp này thì thành phần vắng mặt trong câu có chứa tỉnh
lược hồi chỉ là bổ ngữ gián tiếp hoặc bổ ngữ trực tiếp của động từ vị ngữ. Ta
Hoàng Thị Hà
84
có thể chia thành các tiểu loại nhỏ hơn như sau:
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt - Tỉnh lược hồi chỉ bổ ngữ trực tiếp:
(119) Quyên mò thắt lưng Ngạn lấy bi-đông. Cô lắc nhẹ .
(Anh Đức)
(120) Chị thích nhất là khoai lang luộc. Ngày nào má cũng mua về cho chị.
- Tỉnh lược hồi chỉ bổ ngữ gián tiếp:
(121)“Từ nay chị đừng nói gì với nó cả”. Nhưng chị vẫn nói . ( = với nó)
(Nguyễn Văn Bổng)
- Tỉnh lược hồi chỉ cả bổ ngữ trực tiếp và gián tiếp trong vị ngữ:
(122) Bố viết thư ngay cho mẹ để mẹ biết tin. Rồi con sẽ viết 1 2 sau. (1
= thư; 2=cho mẹ)
(Bùi Hiển)
3.2.2 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ
Tỉnh lược toàn phần vị ngữ nghĩa là toàn bộ vị ngữ của câu được tỉnh
lược nhờ ngữ cảnh cho phép. Toàn phần vị ngữ này thường là động từ vị ngữ
và bổ ngữ, hay nói cách khác là ngữ động từ đóng vai trò làm vị ngữ của câu.
Ví dụ:
(123) Hai người qua đường đuổi theo nó. Rồi ba bốn người , sáu bảy người .
(Nguyễn Công Hoan)
Dĩ nhiên sự vắng mặt của toàn bộ vị ngữ chỉ được chấp nhận với điều
kiện vị ngữ vắng mặt đó đồng sở chỉ với toàn phần vị ngữ của câu đứng trước
như trong ví dụ trên. Toàn bộ phần vị ngữ “đuổi theo nó” của câu đơn đầu
tiên là tiền đề cho sự vắng mặt của hai thành phần vị ngữ trong hai câu đơn
nối tiếp đằng sau. Sự có mặt của quan hệ từ “Rồi” có vai trò quan trọng, giúp
liên kết ý nghĩa của câu đơn đầu tiên với câu tiếp theo mà không cần lặp lại
thành phần vị ngữ. Do vậy, tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ trong trường
Hoàng Thị Hà
85
hợp này không hề ảnh hưởng đến nội dung của câu văn. Ví dụ:
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (124a) Hắn lại quen kham khổ. Ngọc cũng vậy. Cả lũ trẻ nữa.
(Nam Cao)
Đây là chuỗi liên tiếp tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ trong câu đơn.
Ta thấy rằng, chỉ có câu đơn đầu tiên có đầy đủ thành phần chủ ngữ và vị ngữ
và đây cũng là cơ sở cho phép hai câu đơn tiếp theo tỉnh lược toàn bộ vị ngữ
mà không làm cho nội dung câu văn trở nên khó hiểu. Ba câu đơn này nói đến
ba chủ thể khác nhau là “Hắn”, “Ngọc” và “Lũ trẻ”. Tuy nhiên, cả ba chủ
thể này lại có chung một đặc điểm là “quen kham khổ”. Nếu lặp lại vị ngữ
này ba lần thì sẽ gây ra sự dài dòng và nhàm chán, cho nên tỉnh lược hồi chỉ
toàn bộ vị ngữ là phương pháp tối ưu nhất. Ta có thể khôi phục lại thành phần
vị ngữ cho các câu trên theo cách như sau:
(124b) Hắn lại quen kham khổ. Ngọc cũng quen kham khổ vậy. Cả lũ trẻ nữa,
(cũng đã) quen kham khổ.
Hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ xảy ra phổ biến hơn
trong các đoạn hội thoại có câu hỏi và câu trả lời giống như hai ví dụ dưới
đây:
(125) Ông già bé nhỏ kỳ quặc cười khoái trá: “Cậu trông có vẻ thuộc loại
anh chàng sẽ được món hời đấy. Ta cuộc rằng cậu biết bao nhiêu hạt đậu thì
làm thành năm hạt chứ?”
- “Hai hạt trong mỗi bàn tay và một hạt trong mồm cháu ”, Giắc trả lời lưu
loát ngay tức khắc .
(Cậu Giắc và Cây đậu, Tr 47)
Có thể nói các đoạn hội thoại có câu hỏi và câu trả lời là điều kiện tốt
nhất để thực hiện tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ. Bởi vì khi đó, mọi thông
tin thường đã xuất hiện trong câu hỏi, và người đáp lại thường chỉ cần nêu câu
trả lời có chứa thông tin mới hơn, mà không cần thiết phải lặp lại phần nội
Hoàng Thị Hà
86
dung đã được người hỏi nhắc đến nữa. Trường hợp như trên là một ví dụ điển
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt hình. Do câu hỏi chính của “ông già bé nhỏ” là “bao nhiêu hạt đậu thì làm
thành năm hạt?, cho nên nhân vật Giắc chỉ cần trả lời “Hai hạt trong mỗi bàn
tay và một hạt trong mồm cháu ”. Câu trả lời này đã chứa đầy đủ thông tin
cần thiết mà không cần lặp lại vị ngữ “làm thành năm hạt”, hơn thế nữa còn
thể hiện sự lém lỉnh, nhanh nhẹn của nhân vật được nói đến ở đây là “cậu
Giắc”.
3.3 Đối chiếu và Chuyển dịch
3.3.1. Đối chiếu
Ở cả tiếng Anh và tiếng Việt, tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ đều chỉ xảy ra ở
cấp độ câu trở lên. Trong đó một thành phần hoặc toàn bộ vị ngữ trong câu
được lược bỏ nếu như nó đồng quy chiếu với thành phần tương ứng của câu
hoặc mệnh đề đứng trước nó, hay nói cách khác là một thành phần hoặc toàn
bộ vị ngữ được thay thế bằng zê rô (). Tương tự với tỉnh lược hồi chỉ chủ
ngữ, vị ngữ được tỉnh lược hồi chỉ phải là thành phần có thể được khôi phục
lại được nhờ ngữ cảnh, cụ thể là câu phía trước.
Chúng tôi đã chia ra hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ trong tiếng
Anh và tiếng Việt thành hai tiểu loại chính là: Tỉnh lược hồi chỉ một phần của
vị ngữ và Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ. Theo đó, tỉnh lược một phần vị
ngữ là sự vắng mặt của một thành phần nằm trong vị ngữ và thành phần này
đồng quy chiếu với một thành phần tương ứng của vị ngữ trong tiền ngôn.
Một phần của vị ngữ đó có thể là phần đầu, phần cuối hoặc thậm chí là toàn
bộ phần ngữ động từ làm thành phần chính của vị ngữ.
Còn hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ thường xuất hiện
trong hai câu đơn liên tiếp hoặc hai vế của một câu ghép đẳng lập. Khi toàn
phần vị ngữ của câu này đồng sở chỉ hoàn toàn với thành phần tương đương ở
câu đứng trước nó thì ta có thể lược bỏ hoàn toàn phần vị ngữ đó mà không
làm ảnh hưởng đến nội dung ý nghĩa của câu văn. Đó chính là hiện tượng tỉnh
Hoàng Thị Hà
87
lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Trong tiếng Anh, nếu như hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ một phần của vị
ngữ xảy ra khá phổ biến trong câu ghép đẳng lập thì hiện tượng hồi chỉ toàn
phần vị ngữ thường xuất hiện trong các câu ghép chính phụ. Với tiếng Việt,
hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ lại thường xảy ra trong các đoạn
hội thoại có câu hỏi và câu trả lời.
Do đặc thù về chức năng cú pháp nên tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ thường
xảy ra ít hơn so với tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ ở trong cả tiếng Anh lẫn tiếng
Việt. Trong văn bản, thành phần vị ngữ thường được đánh giá là trọng tâm
của cấu trúc thông báo. Thậm chí có nhiều ý kiến cho rằng trong hai thành
phần nòng cốt, vị ngữ có vai trò quan trọng hơn cả chủ ngữ. Do vậy hiện
tượng tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ xảy ra rất ít trong cả tiếng Anh và tiếng Việt.
Về tần số xuất hiện, chúng tôi cũng đã khảo sát và lập ra bảng thống kê
tần số xuất hiện của tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ trong 6 văn bản song ngữ như
sau:
Số phiếu TLHC VN Toàn phần Bộ phận Loại Truyện
Cô bé quàng khăn đỏ 17
Cậu Giắc và Cây đậu 45
Cái chết trắng 34
Chú mèo đi hia 24
54 Đích – Ngài thị trưởng thành phố Luân Đôn
Truyện chú Tôm tí hon 27 TA TV TA TV TA TV TA TV TA TV TA TV 0 0 5 1 0 0 2 0 4 1 0 0 0 0 1 0 7 7 1 2 2 2 0 0
Hoàng Thị Hà
88
Chú thích: - TLHC VN: Tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ - TA: Tiếng Anh - TV: Tiếng Việt
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Nhìn bảng thống kê trên, ta dễ dàng nhận thấy rằng tỉnh lược hồi chỉ vị
ngữ xảy ra rất ít trong các văn bản song ngữ Anh – Việt. Thậm chí, ở một số
văn bản song ngữ, chúng tôi hoàn toàn không thấy xuất hiện hiện tượng này.
Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy rõ sự khác biệt về tần số xuất hiện của tỉnh
lược hồi chỉ vị ngữ khi đối chiếu văn bản gốc tiếng Anh và bản dịch tiếng
Việt. Thống kê cho thấy, tổng số trường hợp TLHC VN trong tiếng Anh
(trong 6 văn bản trên) lại cao hơn so với trong tiếng Việt với tỉ lệ 22/13 (tiếng
Anh/tiếng Việt).
Hơn thế nữa, bảng thống kê trên cũng cho thấy có sự chênh lệch về tần
số xuất hiện giữa các tiểu loại của tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ khi chuyển dịch từ
Anh sang Việt. Sở dĩ có tình trạng này là vì có trường hợp trong tiếng Anh
xảy ra tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ, nhưng khi chuyển dịch sang tiếng Việt, vị ngữ
lại được phục hồi. Hoặc từ hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ
trong tiếng Anh được chuyển thành hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ một phần vị
ngữ trong tiếng Việt.
3.3.2 Chuyển dịch
3.3.2.1 Tương đồng
Sau đây, chúng tôi xin chỉ ra những trường hợp tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ
trong tiếng Anh được chuyển dịch tương đương sang tiếng Việt. Đó cũng
chính là những đặc điểm tương đồng giữa hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ
trong tiếng Anh trong mối quan hệ đối chiếu với dạng thức chuyển dịch tương
đương trong tiếng Việt. Tương đương ở đây có nghĩa là hiện tượng tỉnh lược
hồi chỉ được giữ lại nguyên vẹn khi chuyển dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt.
Ví dụ:
(126a) The eldest son took the mill, the second the ass while the third was
obliged to content himself with the cat, at which he grumbled very much. (Câu
gốc)
Hoàng Thị Hà
89
(Puss in boots, Page 76)
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (126b) Người anh cả được cái cối xay, người con thứ hai con lừa, trong khi
đó, người con thứ ba buộc phải nhận con mèo. Anh ta cằn nhằn rất nhiều về
việc này. ( Câu đối dịch)
(Chú mèo đi hia, Tr77)
Xét ví dụ trên ta thấy rằng, câu gốc tiếng Anh có hiện tượng tỉnh lược
hồi chỉ vị ngữ “took” (nghĩa trong văn cảnh là “được”). Đáng nhẽ câu đầy đủ
phải là: “The eldest son took the mill, the second took the ass while the third
was obliged to content himself with the cat, at which he grumbled very
much.”.
Như vậy, trong ví dụ tiếng Anh trên, vị ngữ “took” trong vế thứ 2 của
câu ghép đẳng lập trên đã được lược bỏ. Ta thấy rằng khi chuyển dịch sang
tiếng Việt, người dịch vẫn giữ nguyên hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ,
chứ không khôi phục lại thành phần này. Mặc dù, người dịch hoàn toàn có
quyền khôi phục lại thành phần đã được tỉnh lược như sau:
(126c) “Người anh cả được cái cối xay, người con thứ hai được con lừa,
trong khi đó, người con thứ ba buộc phải nhận con mèo. Anh ta cằn nhằn rất
nhiều về việc này.”
(127a) So you will! So you will! Chuckled the queer, little, old man. You look
the sort of chap for it. I let you know how many beans make five?
- “Two in each hand and one in my mouth ”, answered Jack readily.(Câu gốc)
(Jack and Beanstalk, Page 46)
(127b) “Cậu sẽ được như vậy! Cậu sẽ được như vậy!”, ông già bé nhỏ kỳ
quặc cười khoái trá, “cậu trông có vẻ thuộc loại anh chàng sẽ được món hời
đấy. Ta cuộc rằng cậu biết bao nhiêu hạt đậu thì làm thành 5 hạt chứ?”.
- “Hai hạt trong mỗi bàn tay và một hạt trong mồm cháu ”, Giắc trả lời lưu
loát ngay trong tức khắc. (Câu đối dịch)
Hoàng Thị Hà
90
(Cậu Giắc và Cây đậu, Tr 47)
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Đây cũng là một trường hợp tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ được
giữ nguyên khi chuyển dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Trong câu gốc tiếng
Anh, ta có thể thấy hiện tượng tỉnh lược nằm trong câu “Two in each hand
and one in my mouth ”. Thành phần vị ngữ trong câu này được ngầm hiểu là
“make five” – thành phần đã xuất hiện trong câu hỏi trước đó. Có nghĩa là,
nếu được khôi phục thành phần vị ngữ, câu trên sẽ có dạng đầy đủ như sau:
“Two in each hand and one in my mouth make five” (Nghĩa là: hai hạt trong
mỗi bàn tay và một hạt trong mồm cháu sẽ làm thành 5 hạt). Tuy nhiên, rõ
ràng ta thấy rằng sự vắng mặt của vị ngữ trong trường hợp này không những
không làm ảnh hưởng đến nội dung mà tác giả muốn nói đến, mà còn có sức
nhấn mạnh hơn đối với thông tin mới được đưa ra.
3.3.1.2 Khác biệt
Như đã nói từ trước, tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ (hay còn gọi là hồi chỉ rê
rô vị ngữ) là một hiện tượng không phổ biến trong cả tiếng Anh và tiếng Việt.
Chính vì vậy, trong quá trình khảo sát tư liệu, chúng tôi thống kê được rất ít
trường hợp tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ. Tuy nhiên, có thể nói rằng phần lớn
những trường hợp tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ mà chúng tôi tìm thấy đều có sự
khác biệt khi chuyển dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Sau đây là một vài
trường hợp:
a. Khôi phục toàn phần vị ngữ:
(128a) She wanted to cry, but she didn’t . At last she said: “Oh, Sarah!
What’s going to happen to this baby?”.
- Sarah looked at her hands: “Nothing , mother. I asked Mr. Cheng about
that...”. (Câu gốc)
(White Death, Page 67)
(128b) Bà muốn khóc nhưng bà đã không khóc. Sau cùng bà nói: “Ồ, Sarah!
Hoàng Thị Hà
91
Điều gì sẽ xảy đến với đứa trẻ này? Sarah nhìn vào đôi bàn tay mình:
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt “Không có chuyện gì đâu thưa mẹ, con đã hỏi ông Cheng về điều đó...”
(Câu đối dịch)
(Cái chết trắng, Tr66)
Trong ví dụ trên có 2 lần xảy ra hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ, đó
là trong câu “She wanted to cry, but she didn’t ” (Bà muốn khóc nhưng bà
đã không khóc) và “Sarah looked at her hands: “Nothing , mother” (Sarah
nhìn vào đôi bàn tay mình: “Không có chuyện gì đâu thưa mẹ”. Tuy nhiên,
sự khác nhau giữa hai trường hợp này là ở chỗ: khi chuyển dịch sang tiếng
Việt, một trường hợp đã được khôi phục thành phần vị ngữ, còn trường hợp
kia thì tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ vẫn được giữ nguyên. Ta thấy, trong trường
hợp đầu tiên, việc khôi phục thành phần vị ngữ là điều cần thiết khi chuyển
dịch từ Anh sang Việt. Trong tiếng Anh, trợ động từ “didn’t” có thể thay mặt
cho cả cụm từ “didn’t cry”, nghĩa là sự vắng mặt của động từ vị ngữ “cry”
không ảnh hưởng gì đến nội dung của cả câu và người đọc/người nghe vẫn có
thể hiểu được. Tuy nhiên, khi chuyển dịch sang tiếng Việt, sự vắng mặt của
động từ vị ngữ chính sẽ khiến người đọc/người nghe khó hiểu, tạo cảm giác
hụt hẫng: “Bà muốn khóc nhưng bà đã không ”. Như vậy, trong trường hợp
này, khi chuyển dịch sang tiếng Việt thì nhất thiết phải khôi phục thành phần
vị ngữ như trong văn bản dịch trên để câu văn có thể truyền tải ý nghĩa trọn
vẹn. Ví dụ:
(129a) If she does the dishes, I won't have to . (Câu gốc)
(129b) Nếu cô ấy rửa bát thì tôi sẽ không phải rửa bát nữa. (Câu đối dịch)
Trong trường hợp này, thành phần vị ngữ “does the dishes” trong ví dụ
tiếng Anh đã được tỉnh lược hồi chỉ. Nhưng khi chuyển dịch sang tiếng Việt,
người ta bắt buộc phải khôi phục thành phần vị ngữ. Ta không thể lược bỏ vị
ngữ giống như trong câu tiếng Anh, vì như thế ta sẽ chỉ được một câu dịch rất
vô nghĩa là: “Nếu cô ấy rửa bát thì tôi sẽ không phải ” (?). Do vậy, trong
Hoàng Thị Hà
92
những trường hợp như trên, khi chuyển dịch sang tiếng Việt, chúng ta bắt
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt buộc phải khôi phục thành phần vị ngữ cho vế sau của câu ghép chính phụ, có
thể bằng cách lặp lại hoàn toàn vị ngữ của vế trước theo cách trên “Nếu cô ấy
rửa bát thì tôi sẽ không phải rửa bát nữa”. Hoặc, chúng ta có thể thay thế
bằng một ví dụ khác ngắn gọn hơn như: “Nếu cô ấy rửa bát thì tôi sẽ không
phải làm nữa.”
(130a) But the ogre, though he enjoyed roast boy very much, wasn’t satisfied,
and every now and then he would burst out with “Fee-fi-fo-fum”, and get up
and search the cupboards, keeping Jack in a fever of fear lest he could think
of the copper. But he didn’t . (Câu gốc)
(Jack and the beanstalk, Page 62)
(130b) Nhưng lão yêu tinh, mặc dù rất thích thưởng thức thịt con trai quay,
vẫn chưa thỏa mãn. Thỉnh thoảng hắn lại bật ra kêu “Phi-i, phi, pho, phanh
rồi đứng dậy lục soát trong các tủ đựng thức ăn khiến cho Giắc phát sốt lên vì
sợ rằng hắn có thể nghĩ đến việc lục soát các nồi đồng. Nhưng hắn đã không
nghĩ đến việc lục soát cái nồi đồng. (Câu đối dịch)
(Cậu Giắc và Cây đậu, Tr63)
(131a) She says wherever have you been? See! It’s been raining gold!”
- “No, It hasn’t ” began Jack. (Câu gốc)
(Jack and the beanstalk, Page 54)
(131b) Bà nói: “Con đã đi những nơi nào về thế? Trông kìa! Trời đã đang
mưa vàng xuống đấy!”.
- “Không. Trời đã không mưa vàng đâu!” – Jack nói. (Câu đối dịch)
(Cậu Giắc và cây đậu, Tr55)
b. Khôi phục một phần của vị ngữ:
(132a) Dick next asked his mistress, and then Miss Alice, to accept a
part of his good fortune; but they would not . (Câu gốc)
Hoàng Thị Hà
93
(Dick Whittington, Page 38)
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt (132b) Tiếp đó Đích đề nghị bà chủ của cậu và rồi cô Alis nhận cho một phần
số của cải khá nhiều của cậu, nhưng họ không chịu nhận. (Câu đối dịch)
(Đích Uýtingtơn – Ngài thị trưởng thành phố Luân Đôn, Tr 39)
Trường hợp trên là tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ. Bằng việc phân tích ngữ
cảnh, ta có thể nhận thấy ngay thành phần vị ngữ được thay thế bằng trong
trường hợp này chính là “to accept a part of his good fortune” (nhận cho một
phần số của cải khá nhiều của cậu). Tuy nhiên, khi chuyển dịch sang tiếng
Việt, người dịch đã không khôi phục toàn bộ thành phần vị ngữ đã được tỉnh
lược hồi chỉ, mà chỉ khôi phục thành phần động từ chính trong vị ngữ “không
chịu nhận” để đảm bảo sự ngắn gọn, súc tích mà người đọc vẫn có thể hiểu
được trọn vẹn nội dung.
(133a) When Whittington’s face was washed, his hair curled, his hat
cocked, and he was dressed in a nice suited of clothes, he was handsome and
gentle as any young man who visited at Mr.Fitzwarren’s. (Câu gốc)
(Dick Whittington, Page 40)
(133b) Sau khi Uýtingtơn rửa mặt mũi sạch sẽ, mái tóc cậu được uốn quăn
lên, chiếc mũ cậu đội lệch hơi vểnh mép lên, cậu mặc bộ quần áo vải tốt may
đẹp, lịch sự, trông cậu cũng đẹp trai, quý phái như bất kì chàng trai nào đến
thăm hỏi nhà ông Phítxoarơn. (Câu đối dịch)
(Đích Uýtingtơn – Ngài thị trưởng thành phố Luân Đôn, Tr 41)
Như ta đã biết, tiếng Anh là ngôn ngữ biến hình nên động từ “to be”
cũng là một thành phần hết sức quan trọng trong vị ngữ. Đối với trường hợp
này, thành phần động từ to be “was” trong vị ngữ của câu ghép trên đã 2 lần
được tỉnh lược hồi chỉ tại các vị trí mà chúng tôi đã đánh dấu (). Lẽ ra, câu
ghép tiếng Anh trên có dạng đầy đủ là: “When Whittington’s face was
washed, his hair was curled, his hat was cocked, and he was dressed in a nice
Hoàng Thị Hà
94
suited of clothes...”.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Tuy nhiên, do trong tiếng Việt không có thành phần câu nào được gọi
là động từ “to be” nên khi chuyển dịch từ Anh sang Việt, người dịch đã tìm
những từ loại thích hợp với ngữ cảnh để thay thế động từ “to be”. Do vậy,
trong trường hợp này, người dịch đã thay thế động từ to be “was” vắng mặt
trong vị ngữ tiếng Anh bằng từ “được”, thể hiện đúng tính chất bị động như
trong câu gốc tiếng Anh như sau: “Sau khi Uýtingtơn rửa mặt mũi sạch sẽ,
mái tóc cậu được uốn quăn lên, chiếc mũ cậu đội lệch hơi vểnh mép lên...”.
3.4 Tiểu kết
Ta có thể hiểu đơn giản về tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ như sau: đó là hiện
tượng một thành phần vị ngữ được phép vắng mặt với điều kiện nó đồng quy
chiếu với thành phần vị ngữ đã xuất hiện ở tiền ngôn, hay nói cách khác là vị
ngữ này được thay thế bằng zê rô (). Tuy nhiên, không phổ biến như trường
hợp của chủ ngữ, tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ xảy ra khá hiếm hoi ở cả tiếng Anh
và tiếng Việt.
Sau khi khảo sát tư liệu, chúng tôi đã chia hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ
vị ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt ra thành các loại: Tỉnh lược hồi chỉ một
phần của vị ngữ và Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần của vị ngữ. Trong mỗi loại lại
có những tiểu loại khác nhau đối với từng ngôn ngữ.
Cũng giống như trường hợp tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ, quá trình chuyển
dịch Anh – Việt có thể tạo ra những đặc điểm tương đồng và khác biệt đối với
hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ. Hiện tượng này có thể được giữ lại
nguyên vẹn giống như văn bản gốc, nhưng cũng có nhiều trường hợp được
phục hồi vị ngữ, hay thay đổi bằng phương thức liên kết khác hoặc được diễn
đạt theo một cách khác.
Thống kê dữ liệu đã trình bày phần trên cho thấy rằng hiện tượng tỉnh
lược hồi chỉ vị ngữ xảy ra rất ít trong các văn bản song ngữ Anh – Việt. Thậm
chí, ở một số văn bản song ngữ, chúng tôi hoàn toàn không thấy xuất hiện
Hoàng Thị Hà
95
hiện tượng này. Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy rõ sự khác biệt về tần số xuất
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt hiện của tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ khi đối chiếu văn bản gốc tiếng Anh và bản
dịch tiếng Việt. Theo khảo sát của chúng tôi trong 6 văn bản song ngữ thì tần
số xuất hiện của hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ trong tiếng Anh cao hơn
so với trong tiếng Việt với tỉ lệ 22/13 (tiếng Anh/tiếng Việt).
Trên đây chúng tôi chỉ đưa ra phân tích những trường hợp tiêu biểu để
minh chứng cho những đặc điểm tương đồng hay dị biệt khi chuyển dịch hiện
tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ và tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ từ tiếng Anh sang
tiếng Việt. Tuy nhiên có một số trường hợp khác biệt khi dịch thuật từ tiếng
Anh sang tiếng Việt nhưng lại xảy ra quá lẻ tẻ, không thành quy luật. Do vậy
chúng tôi cũng chủ trương không xem xét đến những trường hợp quá lẻ tẻ
như vậy mà chỉ bàn đến các hiện tượng chuyển dịch gây ra khác biệt tiêu
biểu. Qua các trường hợp được dẫn ra ở trên ta thấy rằng hiện tượng tỉnh lược
hồi chỉ khi được chuyển dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt có sự tương đồng
về dạng thức tỉnh lược hồi chỉ nhưng cũng có sự khác biệt nhất định về cấu
Hoàng Thị Hà
96
trúc câu, tần số xuất hiện cũng như sự chuyển đổi phương thức liên kết.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
KẾT LUẬN
Tỉnh lược hồi chỉ là một vấn đề rất thú vị và phức tạp. Đó là một
phương thức liên kết và rút gọn hữu hiệu góp phần tạo nên tính mạch lạc và
tính hệ thống cho câu và chuỗi câu trong văn bản. Tỉnh lược hồi chỉ có thể coi
là một dạng đặc biệt của phương thức liên kết tỉnh lược trong hệ thống liên
kết văn bản. Đó là cách sử dụng chỗ trống để liên kết trong một câu hay một
chuỗi câu. Nó thường được miêu tả như một sự quy chiếu ngược trở lại một
biểu thức, cái mà cung cấp thông tin cần thiết cho việc hiểu và dịch thuật ý
nghĩa chỗ trống đó.
Nhìn chung ta có thể thấy phương thức tỉnh lược hồi chỉ trong liên kết
văn bản có hai chức năng chính: thứ nhất nó có thể giúp cho người đọc hiểu
nội dung một cách dễ dàng, có hệ thống nếu như người đọc có đủ kiến thức
nền để suy luận ra những thành phần được tỉnh lược hồi chỉ. Thứ hai, bằng
cách sử dụng hình thức “zêrô” để hồi chỉ các thành phần câu đã hiện diện
trước đó, nó làm cho câu văn hay câu nói có tính logic, súc tích, tránh sự lặp
lại không cần thiết mà vẫn đảm bảo giúp cho người nghe, người đọc hiểu
được chính xác mục đích thông báo ngầm ẩn của người nói, người viết. Tuy
nhiên ưu điểm vượt trội của phương thức liên kết tỉnh lược hồi chỉ so với các
phương thức khác là nó có thể duy trì liên kết, tạo tính mạch lạc, tính hệ thống
cao nhất cho phát ngôn hoặc chuỗi phát ngôn. Do những hiệu quả đặc biệt mà
nó đem lại như vậy nên tỉnh lược hồi chỉ được sử dụng phổ biến trong cả
tiếng Anh và tiếng Việt.
Trong cả tiếng Anh và tiếng Việt, người ta đều có xu hướng sử dụng
tỉnh lược hồi chỉ rất phổ biến ngay cả khi nói hay khi viết để nhằm tiết kiệm
ngôn từ cũng như diễn đạt chính xác nội dung thông điệp mà mình định
truyền tải. Do khuôn khổ luận văn có hạn, chúng tôi chủ trương chỉ đi sâu
Hoàng Thị Hà
97
phân tích và nghiên cứu về hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ 2 thành phần nòng cốt
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt của câu là: Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ và tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ (vị ngữ được
hiểu theo nghĩa rộng gồm động từ và bổ ngữ).
Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ là hiện tượng thành phần chủ ngữ trong câu
được lược bỏ nếu như nó đồng quy chiếu với thành phần chủ ngữ đã xuất hiện
trong mệnh đề hoặc câu trước đó, và thành phần này có thể được khôi phục
nhờ ngữ cảnh đã xuất hiện ở tiền ngôn. Hiện tượng này xảy ra phổ biến ở cả
tiếng Anh và tiếng Việt.
Dựa trên phạm vi hoạt động của hiện tượng này, chúng tôi đã chia hiện
tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt ra thành các
tiểu loại sau: Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu đơn; tỉnh lược hồi chỉ chủ
ngữ trong câu ghép đẳng lập; tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép chính
phụ.
Trong quá trình chuyển dịch Anh – Việt, hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ
chủ ngữ có thể được giữ lại nguyên vẹn giống như văn bản gốc, nhưng cũng
có nhiều trường hợp được phục hồi chủ ngữ, hay được thay đổi bằng phương
thức liên kết khác hoặc được diễn đạt theo một cách khác. Như vậy, hiện
tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Anh và trong bản dịch tiếng Việt
bao giờ cũng có những trường hợp mang các đặc điểm tương đồng hoặc khác
biệt nhất định.
Đối chiếu hai ngôn ngữ, chúng tôi thấy rằng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
trong tiếng Anh có phạm vi sử dụng hẹp hơn so với tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
trong tiếng Việt. Như trên đã trình bày, tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ thường xảy
ra ở ba kiểu câu là câu đơn, câu ghép đẳng lập và câu ghép chính phụ. Tuy
nhiên, xét trong phạm vi hoạt động ở câu đơn thì tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
tiếng Việt xuất hiện phổ biến ở cả câu đơn trong văn bản cũng như trong hội
thoại, trong khi đó hiện tượng này trong tiếng Anh thì chỉ thấy xuất hiện trong
Hoàng Thị Hà
98
câu đơn ở các đoạn hội thoại mà thôi.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Một điểm khác biệt nữa nhận thấy khá rõ là sự khác nhau về tần số xuất
hiện của tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt. Theo khảo
sát của chúng tôi trong 6 văn bản song ngữ, tần số xuất hiện trường hợp tỉnh
lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Việt cao hơn so với trong tiếng Anh. Tuy
nhiên, có một đặc điểm chung giữa hai ngôn ngữ là tần số xuất hiện của tỉnh
lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép đẳng lập chiếm ưu thế vượt trội hơn
nhiều so với trong câu đơn và câu ghép chính phụ.
Tương tự, tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ là hiện tượng một thành phần vị ngữ
được phép vắng mặt với điều kiện nó đồng quy chiếu với thành phần vị ngữ
đã xuất hiện ở tiền ngôn. Hay nói cách khác là vị ngữ này được thay thế bằng
“zê rô” (). Hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ xảy ra khá hiếm hoi ở cả
tiếng Anh và tiếng Việt.
Sau khi khảo sát tư liệu, chúng tôi đã chia hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ
vị ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt ra thành các loại: Tỉnh lược hồi chỉ một
phần của vị ngữ và tỉnh lược hồi chỉ toàn phần của vị ngữ. Trong mỗi loại,
chúng tôi lại chia ra thành những tiểu loại khác nhau đối với từng ngôn ngữ.
Thống kê dữ liệu đã trình bày phần trên cho thấy rằng hiện tượng tỉnh
lược hồi chỉ vị ngữ xảy ra rất ít trong các văn bản song ngữ Anh – Việt. Thậm
chí, ở một số văn bản song ngữ, chúng tôi hoàn toàn không thấy xuất hiện
hiện tượng này. Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy rõ sự khác biệt về tần số xuất
hiện của tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ khi đối chiếu văn bản gốc tiếng Anh và bản
dịch tiếng Việt. Theo khảo sát của chúng tôi trong 6 văn bản song ngữ thì tần
số xuất hiện của hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ trong tiếng Anh cao hơn
so với trong tiếng Việt.
Nhìn chung, đối với cả tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ và tỉnh lược hồi chỉ vị
ngữ thì bao giờ cũng có những đặc điểm tương đồng và khác biệt giữa tiếng
Anh và tiếng Việt, đặc biệt là trong quá trình chuyển dịch. Khi chuyển dịch
Hoàng Thị Hà
99
Anh – Việt, câu văn có chứa hai hiện tượng nói trên có thể được bảo toàn cấu
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt trúc và phương thức liên kết nhưng cũng có thể được thay đổi cấu trúc và
phương thức liên kết khác hoặc có thể được khôi phục thành phần đã bị lược
bỏ. Điều này dẫn đến việc luôn có sự chênh lệch về tần số xuất hiện của hai
hiện tượng này trong văn bản gốc tiếng Anh và bản đối dịch tiếng Việt.
Những đặc điểm tương đồng và dị biệt khi chuyển dịch hiện tượng tỉnh lược
hồi chỉ chủ ngữ và tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt
chúng tôi đã trình bày cụ thể ở phần trên.
Trên đây chúng tôi chỉ đưa ra phân tích những trường hợp tiêu biểu để
minh chứng cho những đặc điểm tương đồng hay dị biệt khi chuyển dịch hiện
tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ và tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ từ tiếng Anh sang
tiếng Việt. Tuy nhiên có một số trường hợp khác biệt khi dịch thuật từ tiếng
Anh sang tiếng Việt nhưng lại xảy ra quá lẻ tẻ, không thành quy luật. Do vậy
chúng tôi cũng chủ trương không xem xét đến những trường hợp quá lẻ tẻ
như vậy mà chỉ bàn đến các hiện tượng chuyển dịch gây ra khác biệt tiêu
biểu.
Như vậy luận văn của chúng tôi đã tiến hành mô tả, phân loại, thống kê
các hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ và tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ trong
tiếng Anh và tiếng Việt và đồng thời đối chiếu, khảo sát sự chuyển dịch các
hiện tượng này từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Công việc khảo sát, đối chiếu
này chỉ là những bước đầu tìm hiểu và đưa ra những nhận định sơ lược về
hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ. Có thể nói rằng hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ là
một vấn đề khá thú vị nhưng cũng rất phức tạp cần có sự say mê nghiên cứu
và sự đầu tư thời gian nghiên cứu lâu dài. Do thời gian có hạn, chúng tôi chỉ
thống kê, khảo sát được 204 phiếu tư liệu chọn lọc từ 1.484 câu trong 6 truyện
song ngữ Anh - Việt nên có thể mức độ chính xác của những nhận định chưa
phải là tuyệt đối. Luận văn này vì thế không tránh khỏi những thiếu sót nhất
định. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến góp ý của các nhà nghiên
cứu, các thầy cô giáo và các bạn để có thể tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này
Hoàng Thị Hà
100
trong các nghiên cứu tương lai.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
[1] Diệp Quang Ban (1998), Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà nội. [2] Đỗ Hữu Châu (2003), Đại Cương ngôn ngữ học, tập 2, Ngữ dụng học, NXB Giáo dục. [3] Võ Văn Chương (2004), Liên kết hồi quy trong ngôn ngữ học văn bản và kiến nghị về cách xác định và phân loại, Ngôn ngữ (7), tr20-tr29. [4] Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt ngữ, NXB ĐHQG Hà Nội. [5] Hoàng Thị Hà, Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt, Ngữ học trẻ 2008, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội. [6] Halliday M.A.K (2001), Dẫn nhập ngữ pháp chức năng, NXBĐHQG Hà Nội. [7] Cao Xuân Hạo (1991), Sơ Thảo ngữ pháp chức năng (q.1), NXB KHXH, Hà Nội. [8] Cao Xuân Hạo (chủ biên), Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng, Bùi Tất Tươm (1992), Câu trong tiếng Việt (Cấu trúc – nghĩa- Công dụng), NXB Giáo dục, Hà Nội. [9] Nguyễn Chí Hoà (1996), Một vài suy nghĩ xung quanh khái niệm “tỉnh lược”, Ngữ học trẻ 96, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, tr52- tr54. [10] Nguyễn Thượng Hùng (1992), Tỉnh lược chủ ngữ trong câu tiếng Việt và tiếng Anh, Ngôn ngữ (9), tr52-tr56. [11] Nguyễn Thượng Hùng (1997), Đối chiếu sự tỉnh lược chủ đề trong câu tiếng Anh và câu tiếng Việt, Ngữ học trẻ 97, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội. [12] Nunan D. (1997), Dẫn nhập phân tích diễn ngôn, NXB Giáo dục, Hà Nội. [13] Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt (Câu), NXB Đại học và THCN, Hà Nội. [14] Nguyễn thị Việt Thanh (1999), Hệ thống liên kết lời nói, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Hoàng Thị Hà
101
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt [15] Trần Ngọc Thêm (1999), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội. [16] Lê Quang Thiêm (2004), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, NXB ĐHHQG Hà Nội. [17] Phạm Văn Tình (1997), Ngữ trực thuộc tỉnh lược trong tiếng Việt, Ngữ học trẻ 97, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, tr69-tr75. [18] Phạm Văn Tình (1999), Về khái niệm tỉnh lược, Ngôn ngữ (9), tr56-tr68. [19] Phạm Văn Tình (2000), Tỉnh lược yếu tố trong cấu trúc, một thủ pháp trong các truyện cười, Ngôn ngữ & đời sống (4), tr2 – tr4. [20] Phạm Văn Tình (2000), Mối quan hệ đối ứng giữa chủ ngôn và lược ngôn, tiền tố và lược tố trong phép tỉnh lược, Ngữ học trẻ 2000, tr100-tr103. [21] Phạm Văn Tình (2002), Phép tỉnh lược và ngữ trực thuộc tỉnh lược trong tiếng Việt, NXBKHXH, Hà Nội. [22] Viện Ngôn ngữ học (2008), Ngữ pháp tiếng Việt – Những vấn đề lí luận, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội [23] Yule G. (2003), Dụng học ( Hồng Nhâm – Trúc Thanh - Ái Nguyên biên dịch), NXB ĐHQG Hà Nội.
Tiếng Anh
[24] Collins Cobuild (1990), English Grammar, Harper Collins Publishers. [25] Murphy. R, English Grammar in use, Second Edition, Cambridge University press, 1995. [26] Randolph Quirk, Sidney Greenbaum (2003), A University Grammar of English, (Minh Thu giới thiệu), NXB Hải Phòng. [27] Randolph Quirk & Sidney Greenbaum (1973), A Concise Grammar of Contemporary English, Philadelphia: HBJ. [28] Randolph Quirk & Sidney Greenbaum, Adjuncts, disjuncts, conjuncts [29] Petra Hendriks&Jennifer Spenader, Some function of ellipsis in natural language, University Stockholm University, of Gronigingen, http://www.ai.rug.nl/~spenader/ [30] Richard Hudson, Coherence: Anaphora and Reference,
http://www.phon.ucl.ac.uk/home
Hoàng Thị Hà
102