BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
Nguyễn Thị Chi Thảo
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
Nguyễn Thị Chi Thảo
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.34.02.01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ MỘNG TUYẾT
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ở Việt
Nam” này là công trình nghiên cứu riêng của tôi, đồng thời có sự góp ý, hướng dẫn
của TS. Trần Thị Mộng Tuyết.
Các số liệu được sử dụng trong luận văn hoàn toàn trung thực, chính xác và
có nguồn gốc rõ ràng.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2013
Người viết
Nguyễn Thị Chi Thảo
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BOJ Ngân hàng Trung Ương Nhật Bản
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
CSTK Chính sách tài khóa
CSTT Chính sách tiền tệ
GDP Tăng trưởng kinh tế
LNH Liên ngân hàng
LSCB Lãi suất cơ bản
LSTCK Lãi suất tái chiết khấu
LSTCV Lãi suất tái cấp vốn
NH Ngân hàng
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng Thương mại
NHTW Ngân hàng Trung Ương
OMO Nghiệp vụ Thị truờng mở
TCTD Tổ chức tín dụng
VNBA Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam
VND Đồng Việt Nam
DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT Tên bảng biểu Trang
Bảng 2.1 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2008 35
Bảng 2.2 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2009 38
Bảng 2.3 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2010 40
Bảng 2.4 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2011 42
Bảng 2.5 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2012 44
Bảng 2.6 Tình hình biến động lãi suất điều hành 6 tháng đầu năm 2013 47
Cơ chế điều hành lãi suất thỏa thuận của NHNN từ năm 2008 Bảng 2.7 51 đến tháng 6/2013
Mục tiêu và thực hiện Tăng trưởng kinh tế và Lạm phát 2008 – Bảng 2.8 57 2013
DANH MỤC HÌNH VẼ
STT Tên hình vẽ, đồ thị Trang
Hình 1.1 Cung và cầu vốn vay 3
Hình 1.2 Sự dịch chuyển của cung – cầu vốn vay 7
Hình 1.3 Mô hình cơ chế điều hành lãi suất 13
Hình 2.1 Nguyên tắc điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam 31
DANH MỤC ĐỒ THỊ
STT Tên đồ thị Trang
Đồ thị 1.1 Cơ chế điều hành lãi suất của BOJ giai đoạn 2006 đến 2012 22
Đồ thị 2.1 Lạm phát và tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2000 – tháng 6/2013 27
Diễn biến các mức lãi suất điều hành của NHNN từ năm 2008 Đồ thị 2.2 48 đến tháng 6/ 2013
Diễn biến lãi suất OMO, LSHĐ bình quân và LSCV bình quân Đồ thị 2.3 50 từ năm 2008 đến tháng 6/ 2013
Diễn biến các mức lãi suất điều hành, LSHĐ bình quân và Đồ thị 2.4 53 LSCV bình quân từ năm 2008 đến tháng 6/2013
Diễn biến LSTCV, LSTCK, Lãi suất LNH và lãi suất OMO từ Đồ thị 2.5 55 năm 2008 đến tháng 6/ 2013
Diễn biến LSCB, LSHĐ bình quân và LSCV bình quân từ năm Đồ thị 2.6 56 2008 đến tháng 6/2013
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Danh mục hình vẽ
Danh mục đồ thị
Lời mở đầu
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LÃI SUẤT VÀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH
LÃI SUẤT
1.1. Lãi suất ------------------------------------------------------------------------------------- 1
1.1.1. Khái niệm về lãi suất --------------------------------------------------------------- 1
1.1.2. Cơ sở hình thành lãi suất ----------------------------------------------------------- 2
1.1.3. Phân loại lãi suất -------------------------------------------------------------------- 4
1.1.3.1 Nhóm “lãi suất thị trường” được hình thành từ quan hệ
cung – cầu vốn vay ----------------------------------------------------------- 4
1.1.3.2 Nhóm “lãi suất điều hành” do Ngân hàng Trung ương công bố
được sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ ------------------------- 5
1.1.4. Các nhân tố tác động đến lãi suất ------------------------------------------------- 6
1.1.5 Vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế ------------------------------------------- 9
1.2. Cơ chế điều hành lãi suất --------------------------------------------------------------- 11
1.2.1 Khái niệm về cơ chế ----------------------------------------------------------------- 11
1.2.2 Khái niệm và nội dung cơ chế điều hành lãi suất-------------------------------- 11
1.2.3 Phân loại cơ chế điều hành lãi suất ------------------------------------------------ 14
1.2.3.1 Cơ chế điều hành trực tiếp (cơ chế kiểm soát lãi suất) ----------------- 14
1.2.3.2 Cơ chế điều hành gián tiếp (cơ chế tự do hóa lãi suất) ----------------- 14
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế điều hành lãi suất của NHTW ----------- 16
1.2.5 Mục tiêu và vai trò của cơ chế điều hành lãi suất trong điều hành CSTT --- 18
1.3 Sự cần thiết phải hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất -------------------------- 20
1.4 Tìm hiểu về cơ chế điều hành lãi suất của NHTW Nhật Bản giai đoạn
2006 – 2012 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam------------------------------------- 21
1.4.1. Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW Nhật Bản giai đoạn 2006 – 2012 --- 21
1.4.2. Bài học kinh nghiệm từ cách điều hành lãi suất của BOJ ------------------- 23
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 -------------------------------------------------------------------------- 25
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
2.1 Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam từ năm 2008 đến tháng 6/2013 ----------------- 26
2.2 Tổng quan về NHNN Việt Nam và nguyên tắc điều hành lãi suất của
NHNN Việt Nam ------------------------------------------------------------------------------- 29
2.3 Sơ lƣợc về cơ chế điều hành lãi suất thời kỳ trƣớc năm 2008 ------------------- 31
2.4 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam
giai đoạn từ năm 2008 đến tháng 6/2013 ------------------------------------------------- 33
2.4.1 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2008 --------------------------------- 33
2.4.2 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2009 --------------------------------- 37
2.4.3 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2010 --------------------------------- 39
2.4.4 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2011 --------------------------------- 41
2.4.5 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2012 --------------------------------- 43
2.4.6 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất 6 tháng đầu năm 2013 ------------------ 46
2.5 Đánh giá thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam giai
đoạn 2008 đến tháng 6/2013 ----------------------------------------------------------------- 48
2.5.1 Những kết quả đạt được------------------------------------------------------------- 48
2.5.2 Những mặt hạn chế ------------------------------------------------------------------ 54
2.5.3 Nguyên nhân của những mặt hạn chế --------------------------------------------- 60
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ------------------------------------------------------------------- 67
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU
HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
3.1 Mục tiêu, định hướng điều hành chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất
hướng đến năm 2020 -------------------------------------------------------------------------- 68
3.1.1 Mục tiêu điều hành CSTT hướng đến năm 2020 ------------------------------- 68
3.1.2 Định hướng điều hành CSTT hướng đến năm 2020 --------------------------- 69
3.1.3 Định hướng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam hướng đến
năm 2020 ----------------------------------------------------------------------------- 72
3.2 Giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam ------------ 74
3.2.1 Nhóm giải pháp tăng cường mức độ độc lập của NHNN, từ đó hoàn
thiện những điều kiện cơ bản để hướng tới điều hành lãi suất theo cơ
chế lạm phát mục tiêu -------------------------------------------------------------- 74
3.2.2 Nhóm giải pháp cải thiện tính hành chính trong điều hành CSTT ----------- 75
3.2.3 Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản ----------------- 77
3.2.4 Nhóm giải pháp tiếp tục phát triển hoạt động thị trường LNH và thị
trường mở giúp NHNN thực hiện tốt vai trò người cho vay cuối cùng ------ 78
3.2.5 Nhóm giải pháp tăng cường vai trò công tác thống kê, dự báo --------------- 80
3.2.6 Nhóm giải pháp thực hiện cơ chế điều hành lãi suất theo hướng công
khai, minh bạch hóa thông tin ----------------------------------------------------- 81
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 -------------------------------------------------------------------- 82
Kết luận
Tài liệu tham khảo
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Lãi suất là một công cụ tiền tệ đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế
của một quốc gia. Lãi suất là một biến số được theo dõi rất chặt chẽ qua báo chí và các
phương tiện thông tin đại chúng vì nó không chỉ ảnh hưởng đến khuynh hướng tiêu
dùng, tiết kiệm của cá nhân mà còn ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các doanh
nghiệp và hộ gia đình. Trong công tác điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, lãi suất là
một công cụ rất quan trọng giúp Ngân hành Trung ương điều hành điều hành chính
sách tiền tệ đạt hiệu quả và truyền dẫn tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế
nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong từng thời kỳ nhất định. Cơ chế điều hành lãi suất
hiệu quả của một quốc gia sẽ có ý nghĩa to lớn góp phần ổn định và phát triển hệ thống
ngân hàng, thị trường tài chính hay sự ổn định và phát triển của nền kinh tế nói chung.
Một quốc gia cho dù đang ở trình độ phát triển như thế nào đi chăng nữa thì chính sách
lãi suất của Ngân hành Trung ương luôn có vai trò và sự tác động rất lớn đối với nền
kinh tế.
Ngày nay, khi Việt Nam đã hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới gắn
liền với nhiều cơ hội và thách thức thì vai trò của công cụ lãi suất trong điều hành
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của đất nước càng trở nên quan trọng và phức tạp hơn. Trước
những biến động liên tục không thể lường trước của nền kinh tế thế giới trong thời
gian qua, mà đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu diễn
ra vào năm 2008 đã ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế Việt Nam và khiến cho công tác
điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gặp phải rất nhiều khó khăn và
trở ngại. Vì thế việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế điều hành lãi
suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 2008 đến nay (tháng 6/2013), trên cơ
sở đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ở
Việt Nam trong thời gian tới, có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xây dựng và
điều hành một cách có hiệu quả chính sách lãi suất nói riêng và chính sách tiền tệ nói
chung của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Điều này cũng góp phần thực hiện mục
tiêu tăng trưởng bền vững và đảm bảo sự thắng lợi cho công cuộc công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước.
Trên cơ sở đó, tác giả chọn đề tài: “Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ở
Việt Nam” cho đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Về lý luận: Tìm hiểu, tập hợp và hệ thống các lý luận về công cụ lãi suất, cơ chế điều
hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương
- Về thực tiễn:
+ Phân tích và đánh giá thực trạng cơ chế điều hành lãi suất tại Việt trong giai
đoạn 2008 đến tháng 6 năm 2013.
+ Trên cơ sở trên, đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế
điều hành lãi suất ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các loại lãi suất
đồng nội tệ (VND) trên thị trường tiền tệ, được phân chia thành hai nhóm: nhóm “lãi
suất điều hành” do NHNN công bố dùng để điều hành CSTT và nhóm “lãi suất thị
trường” được hình thành do quan hệ cung cầu về vốn vay trên thị trường.
+ Phạm vi thời gian: giai đoạn từ năm 2008 đến tháng 6 năm 2013
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Luận văn chủ yếu dùng phương pháp phân tích định tính, trên cơ sở các dữ liệu thu
thập để đánh giá cơ chế điều hành lãi suất tại Việt Nam, đồng thời đề xuất những giải
pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trong thời gian tới.
- Luận văn sử dụng phương pháp quy nạp, diễn giải, đi từ khái quát chung đến vấn đề
cụ thể, gắn lý luận với thực tiễn. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng phương pháp
khoa học như thống kê, so sánh và tổng hợp và phân tích.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất
Chƣơng 2: Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam
Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam.
-1-
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LÃI SUẤT VÀ
CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT
1.1 Lãi suất
1.1.1 Khái niệm về lãi suất
Lịch sử các học thuyết kinh tế cho thấy có rất nhiều quan điểm khác nhau về
tiền tệ và lãi suất, trong đó có những quan điểm tiến bộ, cũng có những quan điểm còn
nhiều thiếu sót và hạn chế. Nhưng một thực tế cho thấy rằng, theo thời gian, các quan
điểm này ngày càng hoàn thiện hơn và đã khắc phục cũng như bổ sung được những
khiếm khuyết của các học thuyết trước đó. Sau đây là các khái niệm về lãi suất của
một số học thuyết kinh tế:
- Karl Marx (1818 – 1883) cho rằng “sau một thời gian nhất định tư bản cho
vay được hoàn lại người chủ sở hữu của nó kèm theo một giá trị tăng thêm đó là lợi tức
tín dụng”, như vậy theo ông lợi tức tín dụng là một bộ phận của giá trị thặng dư hay lợi
nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay tạo ra bằng việc sử dụng vốn vay và phải phân
phối lại cho nhà tư bản cho vay.
- J.M.Keynes (1884 – 1946) thì cho rằng: “lãi suất là phần trả công cho việc
không sử dụng tiền mặt trong một thời gian nào đó, là phần thưởng cho sự chia ly với
tiền tệ hay cho sở thích thanh khoản hay sự ưa chuộng thanh khoản (tức là biến tư bản
tiền tệ thành tư bản sinh lợi tức)”. Vì theo Keynes thì người có tiền không muốn xa rời
nó do của cải dưới hình thức tiền tệ là linh hoạt, thuận lợi và an toàn nhất. Khi người
có tiền quyết định cho vay thì họ phải chấp nhận sự mạo hiểm, do đó họ đòi hỏi phải
nhận được phần thưởng – đó chính là lãi suất.
- Ngoài ra, đại diện của Trường phái Cambridge (Anh) – Trường phái tân cổ
điển, Alfred Marshall (1842 – 1924) đã phát biểu: “Lãi suất là cái giá phải trả cho việc
sử dụng vốn trên một thị trường bất kỳ, lãi suất vươn tới một mức cân bằng sao cho
tổng cầu về vốn trên thị trường đó với lãi suất đó bằng tổng cung về vốn được cung
ứng trên thị trường đó với lãi suất đó”, và P.A.Samuelson, W.Nordhaus – đại biểu của
-2-
Trường phái chính hiện đại cũng cho rằng: “Lãi suất là giá cả của việc sử dụng một số
tiền vay trong một thời gian nhất định”.
Như vậy, có thể hiểu lãi suất là giá của quyền sử dụng vốn hay là chi phí mà
người đi vay phải trả cho việc sử dụng vốn của người cho vay trong một khoảng thời
gian nhất định.
Trong đó, lợi tức (interest) hay số tiền lãi phải trả là chi phí sử dụng vốn được
biểu hiện bằng số tuyệt đối, là phần giá trị tăng thêm ngoài vốn gốc mà người đi vay
phải trả cho người cho vay về việc chuyển giao quyền sử dụng vốn trong một thời gian
nhất định. Còn lãi suất (interest rate) hay tỷ suất lợi tức, là chi phí sử dụng vốn được
biểu hiện bằng số tương đối (tỷ lệ phần trăm – %), là tỷ số giữa tổng số lợi tức và tổng
số tiền cho vay trong cùng một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất tín dụng được
dùng làm cơ sở để tính lợi tức tín dụng và quyết định tổng số lợi tức tín dụng mà người
cho vay nhận được.
1.1.2 Cơ sở hình thành lãi suất
Ngày nay, hầu hết các quốc gia đều có nền kinh tế thị trường và chủ yếu theo
đuổi chính sách tự do hóa tài chính, do vậy, cơ chế hình thành lãi suất chủ yếu dựa trên
cơ chế thị trường. Cũng giống như tất cả các loại giá cả khác trên thị trường, lãi suất
cũng được quyết định bởi cung – cầu, và trong trường hợp này chính là cung cầu về
vốn vay. Sự thay đổi về cung – cầu của vốn vay sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành và
biến đổi của lãi suất trên thị trường.
Cung về vốn vay có nguồn gốc từ tiết kiệm của hộ gia đình. Người dân thường
có nhu cầu sử dụng phần tiết kiệm của mình để đầu tư sinh lời hoặc gửi vào ngân hàng
để nhận tiền lãi, sau đó chính các NH này lại sử dụng tiền đã huy động được để cho
vay đáp ứng nhu cầu của các đối tượng thiếu vốn trong nền kinh tế hoặc NH cũng đem
đi đầu tư để sinh lời. Như vậy chính phần tiết kiệm của hộ gia đình đã đóng vai trò như
một nguồn cung ứng vốn vay cho nền kinh tế. Khi lãi suất càng cao, thì các hộ gia đình
-3-
sẽ tiết kiệm càng nhiều để hưởng lãi suất. Do đó, đường cung vốn vay sẽ là một đường
dốc lên (kí hiệu là đường S trong hình 1.1).
Cầu về vốn vay bao gồm hai bộ phận: đó chính là tiêu dùng của hộ gia đình và
đầu tư của doanh nghiệp.
Khi các hộ gia đình có nhu cầu tiêu dùng, mặc dù có thu nhập cao nhưng lại
thiếu vốn trong hiện tại, thì họ sẽ sẵn sàng vay vốn và trả lãi (trong khả năng thu nhập
tương lai có thể thanh toán được) để không phải trì hoãn mong muốn tiêu dùng của
mình. Tuy nhiên, nếu lãi suất vốn vay ngày càng cao thì các hộ gia đình phải xem xét
lại lợi ích mà giảm bớt nhu cầu vay tiền của mình. Cho nên cầu về vốn vay của các hộ
gia đình là một hàm nghịch biến của lãi suất (kí hiệu là đường DH trong hình 1.1).
Hình 1.1: Cung và Cầu về vốn vay
R Lãi suất
S
R*
DT DH DF
Q* Số lượng vốn vay
Nguồn: Robert S.Pinkdyck, Daniel L.Rubinfeld (1999), Kinh tế học vi mô
Ngoài ra, bộ phận thứ hai của cầu về vốn vay chính là từ các doanh nghiệp
muốn có vốn để đầu tư vào các dự án có lợi nhuận từ hoạt động đầu tư trong tương lai
lớn hơn chi phí đã bỏ ra ban đầu (lãi suất vay vốn) để thu lợi. Như vậy nếu lãi suất tăng
thì chi phí đầu tư bỏ ra của doanh nghiệp càng lớn và lợi tức mà doanh nghiệp nhận về
sẽ càng nhỏ, do đó các hãng sẽ giảm đầu tư và nhu cầu về vốn vay cũng giảm theo.
-4-
Như vậy, cầu về vốn của vay các hãng là một đường dốc xuống (kí hiệu là đường DF).
Tổng cầu về vốn vay chính là tổng của cầu của các hộ gia đình và các doanh
nghiệp, trong hình 1.1 tổng cầu được minh hoạ bằng đường DT. Đường tổng cầu này kết hợp với đường cung sẽ quyết định mức lãi suất cân bằng - R* (hình 1.1).
1.1.3 Phân loại lãi suất
Như hình 1.1, sự kết hợp giữa đường cầu và đường cung đơn lẻ chỉ có một
mức “lãi suất thị trường”, nhưng trên thực tế là có rất nhiều mức “lãi suất thị trường” do
các hộ gia đình, các doanh nghiệp và chính phủ đều vay và cho vay theo nhiều điều kiện
và kỳ hạn khác nhau. Ngoài ra, trong nền kinh tế còn tồn tại các loại “lãi suất điều
hành” do Nhà Nước mà đại diện là NHTW quy định nhằm điều tiết “lãi suất thị
trường” từ đó thực hiện điều hành CSTT theo đúng định hướng và mục tiêu đã đề ra.
Trên thực tế, lãi suất có nhiều cách phân chia khác nhau như: phân loại theo nội tệ
và ngoại tệ, phân loại theo nghiệp vụ kinh doanh của các TCTD, phân loại theo chủ thể
trong quan hệ cho vay, phân loại theo giá trị thực của tiền lãi thu được, phân loại theo tính
linh hoạt của lãi suất, phân loại theo thời hạn cho vay, v.v... Trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài, lãi suất được phân loại thành 2 nhóm:
1.1.3.1 Nhóm “lãi suất thị trƣờng” đƣợc hình thành từ quan hệ
cung – cầu vốn vay
Lãi suất tiền gửi NH hay còn gọi Lãi suất huy động: là loại lãi suất mà
các NHTM trả cho các khoản tiền gửi vào NH. Lãi suất tiền gửi có nhiều mức khác
nhau tùy thuộc vào các loại tiền gửi: không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiết kiệm… Trật tự lãi
suất tiền gửi được hình thành theo nguyên tắc: Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn > Lãi suất
tiền gửi không kỳ hạn.
Lãi suất tín dụng NH hay còn gọi Lãi suất cho vay: là loại lãi suất mà
người vay vốn phải trả cho NH khi vay vốn từ NH. Lãi suất tín dụng NH có nhiều loại
tùy theo các loại hình vay: ngắn hạn, dài hạn; có tài sản đảm bảo, không có tài sản đảm
bảo… Về nguyên tắc: Lãi suất tín dụng NH > Lãi suất tiền gởi NH; Lãi suất cho vay
-5-
dài hạn > Lãi suất cho vay ngắn hạn; Lãi suất cho vay tiêu dùng > Lãi suất cho vay sản
xuất kinh doanh.
Lãi suất chiết khấu: Là lãi suất được các NHTM áp dụng khi cho khách
hàng vay nợ dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá khi chưa đến kỳ hạn thanh
toán. Lãi suất chiết khấu được tính theo tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có
giá và được khấu trừ ngay khi NH cho khách hàng vay. Như vậy, lãi suất chiết khấu là
loại lãi suất trả trước mà người đi vay trả cho NH trước khi sử dụng tiền vay.
Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất cho vay giữa các NHTM trên thị
trường liên ngân hàng. Lãi suất LNH được hình thành theo quan hệ cung cầu vốn vay
trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho các NHTM vay của
NHTW (LSTCV và LSTCK)
1.1.3.2 Nhóm “lãi suất điều hành” do Ngân hàng Trung ƣơng công bố
đƣợc sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ
Các loại lãi suất này không được xác định chủ yếu theo quan hệ cung – cầu về
vốn mà được NHTW xác định tùy thuộc vào mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của
NHTW, sự biến động của thị trường tài chính và nền kinh tế vĩ mô. Nhóm lãi suất này
bao gồm:
Lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu: áp dụng khi NHTW cho các NHTM
vay dưới hình thức chiết khấu hoặc chiết khấu lại các thương phiếu hoặc các giấy tờ có
giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này. Lãi suất chiết khấu,
LSTCK được tính theo tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và được khấu
trừ ngay khi NHTW cho các NHTM vay.
Lãi suất tái cấp vốn: là lãi suất được sử dụng trong trường hợp NHTW
tái cấp vốn cho các NHTM. Trong đó, tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW
đối với các NHTM được thực hiện dưới các hình thức như: cho vay lại theo hồ sơ tín
dụng(Relending); chiết khấu (Discounting), tái chiết khấu (Rediscounting) thương
phiếu và các chứng từ có giá ngắn hạn; cho vay có đảm bảo bằng cầm cố chứng từ có
-6-
giá (Mortgaged Lending).
Lãi suất cơ bản (Prime rate): là lãi suất do NHTW quy định được các
NHTM sử dụng làm cơ sở để xác định mức lãi suất kinh doanh của mình, hoặc chỉ
đóng vai trò là mức lãi suất tham chiếu và truyền tải thông tin về các quyết định điều
hành CSTT của NHTW. LSCB có sự khác nhau về tên gọi, cơ sở xác định, cơ chế điều
hành và vai trò đối với kinh tế tùy vào quy định của NHTW từng nước. Ở Nhật, LSCB
là lãi suất do NHTW Nhật bản quy định, là mức lãi suất cho vay qua đêm đối với
những khoản vay không thế chấp. Ở Anh, Úc, LSCB là lãi suất do các NHTM tự xác
định, thường là lãi suất áp dụng cho các khách hàng có mức rủi ro thấp nhất. Ở
Malaysia, LSCB là lãi suất của các NHTM đứng đầu trên thị trường, dựa vào lãi suất
này các NHTM khác cộng thêm % biên độ để xác định lãi suất kinh doanh của mình. Ở
Singapore, LSCB là lãi suất LNH... LSCB còn được gọi là lãi suất chính thức hay lãi
suất chuẩn, thường đóng vai trò chủ đạo trong cơ chế điều hành lãi suất của hầu hết các
NHTW trên thế giới.
Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở (OMO): là lãi suất được hình thành
thông qua hình thức đấu thầu lãi suất hay được quy định trong hình thức đấu thầu khối
lượng khi NHTW thực hiện mua, bán giấy tờ có giá ngắn hạn với các NHTM.
1.1.4 Các nhân tố tác động đến lãi suất
Tại mục “1.1.2 Cơ sở hình thành lãi suất” đã trình bày lãi suất được quyết định
bởi cung và cầu vốn vay. Do đó, khi có những nhân tố tác động làm thay đổi cung –
cầu vốn vay, làm đường cung và cầu vốn vay dịch chuyển thì do đó sẽ làm thay đổi
mức lãi suất cân bằng. Trên thị trường có rất nhiều tác nhân ảnh hưởng làm thay đổi
cung – cầu vốn vay, dưới đây ta chỉ phân tích những tác nhân có ảnh hưởng quan trọng
đến đường cung và cầu vốn vay, qua đó tác động đến lãi suất.
1.1.4.1 Lạm phát dự kiến
Khi lạm phát dự kiến tăng lên, giá cả trong tương lai sẽ tăng làm các TCTD
không muốn cho vay vì khoản cho vay ngày hôm nay sẽ bị giảm giá trị thực trong
-7-
tương lai, và chính tâm lý lo ngại tổn thất đó sẽ khiến công chúng chuyển phần tiết
M
kiệm của mình sang dự trữ hàng hóa hoặc các dạng thức tài sản phi tài chính khác như
S1
M
vàng, ngoại tệ mạnh, v.v… hơn là cho vay. Điều này làm cung về vốn vay sụt giảm, M) làm lãi suất cân qua đó đường cung về vốn vay dịch chuyển sang trái (S0
S2
bằng tăng lên (r0 r1). Ngược lại, ta cũng thấy được rằng nếu lạm phát có xu hướng M) thì sẽ làm cho lãi giảm làm đường cung vốn vay dịch chuyển sang phải (S0
suất giảm xuống (r0 r2) – Hình 1.2
Ngược lại với cầu tín dụng, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, khi lạm phát dự tính
tăng lên bao giờ cũng có tác dụng kích thích cầu tín dụng vì lý do giá trị hàng hoá
M
được tài trợ từ các khoản vay vẫn giữ nguyên giá trị của nó trong khi lạm phát đã làm
đến
giảm rất nhẹ gánh nặng nợ vay, cầu tín dụng từ đó tăng lên, dịch chuyển từ D0
M làm lãi suất tăng từ r0 đến r3) – Hình 1.2.
D1
Hình 1.2 Sự dịch chuyển của cung – cầu vốn vay
r
M
S1 M S0 M S2 M
r1 r3 r0 r2
D1 D0 M
Q 0 Q1
Nguồn: Robert S.Pinkdyck, Daniel L.Rubinfeld (1999), Kinh tế học vi mô Q2 Q0 Q3
Khi lạm phát dự kiến tăng thì thông qua tác động đến cung và cầu tín dụng sẽ
khiến lãi suất tăng. Mặt khác, lãi suất trong nền kinh tế bao gồm lãi suất thực và lãi
suất danh nghĩa, trong đó lãi suất danh nghĩa là lãi suất được công bố rộng rãi qua NH
và các phương tiện thông tin đại chúng (không kể đến yếu tố lạm phát), còn lãi suất
thực là lãi suất đã được điều chỉnh theo sự tăng giá của nền kinh tế (có xét đến yếu tố
-8-
lạm phát). Theo phương trình của Fisher thì lãi suất danh nghĩa bằng (=) lãi suất thực
cộng (+) với tỷ lệ lạm phát dự kiến, do đó một khi lạm phát dự tính tăng cao, lãi suất
danh nghĩa cũng tăng theo. Mọi diễn biến theo chiều ngược lại sẽ có tác dụng làm
giảm lãi suất, điều này xảy ra trong thời kỳ suy thoái, tình trạng thiểu phát xảy ra trong
nền kinh tế.
1.1.4.2 Chính sách của Nhà nƣớc
Để nền kinh tế phát triển thì Nhà nước cần phải đạt được các mục tiêu như:
tăng trưởng kinh tế thể hiện qua tăng trưởng tổng sản lượng…; tỷ lệ thất nghiệp thấp;
ổn định giá cả thể hiện qua chỉ tiêu lạm phát thấp và ổn định, v.v… bằng cách sử dụng
các chính sách của nhà nước (mà trọng tâm là chính sách tài tài khóa và CSTT) để điều
tiết nền kinh tế. Quá trình thực hiện các chính sách của Nhà nước sẽ tác động lãi suất
cân bằng trên thị trường.
Chính sách tiền tệ: với tư cách là NH của các NH, NHTW thực hiện vai trò
chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống NH của một quốc gia nhằm thực hiện mục tiêu điều
M dịch chuyển sang trái đến S1
M
tiết kinh tế vĩ mô. Khi NHTW áp dụng chính sách tiền tệ thu hẹp, cung tiền trong nền M, lãi suất sẽ tăng lên kinh tế giảm xuống làm đường S0
dịch chuyển sang phải đến S2
từ r0 đến r1 và ngược lại, khi NHTW áp dụng chính sách tiền tệ mở rộng, cung tiền tệ M thì lãi suất sẽ giảm từ r0 đến tăng lên sẽ làm đường S0
r2 (hình 1.2).
Chính sách tài khóa: bao gồm chi tiêu của chính phủ và thuế khóa. Khi nhà
nước thực hiện chính sách tài chính mở rộng (tăng chi tiêu của Chính phủ và giảm
thuế) sẽ ảnh hưởng đến thăng bằng của thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ, từ đó
ảnh hưởng đến lãi suất. Khi chi tiêu của chính phủ tăng trực tiếp làm tăng tổng cầu
(trên thị trường hàng hóa), đường tổng cầu dịch chuyển về bên phải. Khi chính phủ
giảm thuế, làm cho hộ gia đình có nhiều thu nhập hơn được sẵn sàng để tiêu dùng và
làm tăng tổng sản phẩm bằng cách tăng tiêu dùng, đường tổng cầu cũng dịch chuyển
về bên phải và làm lãi suất cân bằng trên thị trường tiền tệ tăng lên.
-9-
1.1.4.3 Sự ổn định của nền kinh tế
Ảnh hưởng đến cung vốn vay: khi nền kinh tế ổn định và phát triển, dân
chúng sẽ có thu nhập cao, tiết kiệm của hộ gia đình nhiều hơn, đồng thời thị trường tài
chính và các thị trường khác cũng phát triển sôi nổi và ít rủi ro hơn. Do đó dân chúng
sẽ không muốn giữ tiền nhiều mà thay vào đó sẽ đầu tư vào những tài sản hấp dẫn
khác như chứng khoán, bất động sản, v.v…để thu lợi tức, vì vậy cung vốn vay sẽ tăng
lên, đường cung vốn vay dịch chuyển về bên phải và lãi suất có xu hướng giảm.
Ảnh hưởng đến cầu vốn vay: tương tự như ảnh hưởng đến cung vốn vay, khi
nền kinh tế ổn định và phát triển, người dân được tiếp cận với nhiều loại hình hàng hóa
dịch vụ mới và hiện đại hơn, đồng thời doanh nghiệp cũng được tiếp cận với những cơ
hội đầu tư sinh lời nhiều và ít rủi ro hơn, do đó tiêu dùng của hộ gia đình và đầu tư của
các hãng sẽ tăng làm cho cầu vốn vay tăng lên, đường cầu vốn vay dịch chuyển về bên
phải và lãi suất có xu hướng tăng lên.
Thường thì khi nền kinh tế đang trong tình trạng ổn định và phát triển thì
đường cầu sẽ dịch chuyển về bên phải (tăng lên) nhiều hơn đường cung và lãi suất cân
bằng có xu hướng tăng lên, ngược lại, khi nền kinh tế đang trong tình trạng suy thoái
thì lãi suất cân bằng sẽ có xu hướng giảm xuống.
1.1.4.4 Những nhân tố tác động làm thay đổi tổng cầu
Ngoài hai nhân tố chi tiêu của chính phủ và tiêu dùng của hộ gia đình (do sự
thay đổi về thuế của Chính phủ) đã phân tích ở mục 1.1.4.2, khi các nhân tố còn lại
trong thành phần của tổng cầu (đầu tư và xuất khẩu ròng) tác động làm tổng cầu thay
đổi cũng sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi của lãi suất. Cụ thể một sự gia tăng trong xuất
khẩu ròng và đầu tư sẽ làm gia tăng tổng cầu, đường tổng cầu dịch chuyển sang phải
làm lãi suất tăng lên và ngược lại.
1.1.5 Vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế
Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô: Sự biến động của lãi suất có tác động đến
đầu tư đến tiêu dùng qua đó tác động đến tổng cầu giúp nhà nước điều tiết và thực hiện
-10-
các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô. Cụ thể, lãi suất thấp sẽ kích thích đầu tư, kích thích
tiêu dùng, làm tăng tổng cầu và sản lượng tăng, giá tăng, thất nghiệp giảm, nội tệ có xu
hướng giảm giá so với ngoại tệ. Lãi suất cao sẽ làm hạn chế đầu tư, hạn chế tiêu dùng,
làm giảm tổng cầu và sản lượng giảm, giảm giá, thất nghiệp tăng, nội tệ có xu hướng
tăng giá so với ngoại tệ.
Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng của nền kinh tế: Lãi suất là biến số
thường xuyên thay đổi trong nền kinh tế. Dựa vào sự biến động của lãi suất ta có thể
thấy được tình trạng sức khỏe của nền kinh tế, từ đó dự báo tình hình kinh tế trong
tương lai. Cụ thể, trong giai đoạn phát triển của nền kinh tế, lãi suất có xu hướng tăng
do cung cầu quỹ cho vay đều tăng trong đó tốc độ tăng của cầu quỹ cho vay lớn hơn
tốc độ tăng của cung quỹ cho vay. Ngược lại, trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế
lãi suất lại có xu hướng giảm xuống.
Lãi suất là công cụ khuyến khích cạnh tranh giữa các NHTM: Với cơ chế tự
do hóa lãi suất, để tăng khối lượng nguồn vốn huy động và mở rộng quan hệ tín dụng
với khách hàng, các NHTM có thể nâng mức lãi suất tiền gửi và hạ lãi suất cho vay.
Đây chính là hoạt động cạnh tranh giữa các NHTM. NHTM nào có mức lãi suất tiền
gửi cao hơn và mức lãi suất cho vay thấp hơn sẽ có ưu thế cạnh tranh so với các
NHTM khác, tạo điều kiện mở rộng phạm vi ảnh hưởng của NH ra thị trường. Để đảm
bảo cạnh tranh thắng lợi, các NHTM đều tìm mọi biện pháp giảm chi phí kinh doanh,
chi phí quản lý và tăng hiệu quả hoạt động của NH. Chính sự cạnh tranh lành mạnh
giữa các NHTM sẽ tạo ra lợi ích kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Lãi suất ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Do lãi suất
phải trả cho cho các khoản vay chính là chi phí của doanh nghiệp nên lãi suất thấp sẽ
khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Ngược
lại, lãi suất cho vay cao sẽ thu hẹp đầu tư và tác động không tốt đến hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp. Tương tự như đối với các NHTM, lãi suất là công cụ
buộc các doanh nghiệp phải sử dụng hiệu quả các nguồn lực của mình. Nếu Nhà nước
-11-
có những ưu đãi về lãi suất, hay tạo điều kiện cung cấp tín dụng thuận lợi cho doanh
nghiệp sẽ tác động tích cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các hãng từ đó góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế cho đất nước.
1.2 Cơ chế điều hành lãi suất
1.2.1 Khái niệm về cơ chế
Từ điển Le Petit Larousse (1999) giảng nghĩa "méchanisme" – "cơ chế" là
"cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau". Theo Từ điển
Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học biên soạn và xuất bản năm 2000 thì "cơ chế" là
"cách thức theo đó một quá trình thực hiện". Từ "cơ chế" được dùng rộng rãi trong lĩnh
vực quản lý từ khoảng cuối những năm 1970, khi các quốc gia bắt đầu chú ý nghiên
cứu về quản lý và cải tiến quản lý kinh tế, với nghĩa như là những qui định về quản lý,
dùng để chỉ quy luật vận hành của một hệ thống. Với cách hiểu này thì "cơ chế" là khái
niệm dùng để chỉ sự tương tác giữa các yếu tố kết thành hệ thống mà nhờ đó hệ thống
có thể hoạt động.
Như vậy, có thể hiểu “cơ chế là một thuật ngữ chỉ sự diễn biến nội tại của một
hệ thống, trong đó có sự tương tác giữa các yếu tố hợp thành hệ thống trong quá trình
vận động của mỗi yếu tố đó, nhờ đó hệ thống có thể vận hành, phát triển”.
1.2.2 Khái niệm và nội dung cơ chế điều hành lãi suất
“Cơ chế điều hành lãi suất” là tổng thể những chủ trương, chính sách và
giải pháp cụ thể của NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường, từ đó
góp phần thực hiện mục tiêu điều hành CSTT của NHTW trong từng thời kỳ nhất định.
Như vậy, có thể hiểu “Cơ chế điều hành lãi suất” của NHTW là cơ chế điều
hành CSTT của NHTW thông qua công cụ lãi suất. Cơ chế này được thực hiện bằng cơ
chế truyền tải ảnh hưởng của CSTT tới nền kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng
của CSTT thông qua phản ứng dây chuyền giữa các mức lãi suất với nhau và giữa các
mức lãi suất với các loại giá cả trên thị trường.
Nội dung cơ chế điều hành lãi suất bao gồm 3 khâu với các tác nhân tham gia
-12-
khác nhau:
Khâu thứ nhất – Cơ chế kiểm soát mức lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền
tệ: khâu này thể hiện sự tác động trực tiếp của NHTW tới các mức lãi suất ngắn hạn
được lựa chọn làm mục tiêu hoạt động. NHTW các nước có thể lựa chọn các loại lãi
suất ngắn hạn khác nhau làm mục tiêu hoạt động, tùy thuộc vào khả năng kiểm soát
của NHTW và mức độ ảnh hưởng của những lãi suất được chọn tới mặt bằng lãi suất
thị trường và nền kinh tế.
Các mức lãi suất ngắn hạn được chọn là các loại lãi suất điều hành được
NHTW công bố trên thị trường tiền tệ như: LSTCV, LSTCK, LSCB, LS OMO. Ngoài
ra NHTW cũng có thể chọn lãi suất LNH nội tệ được hình thành trên thị trường LNH
làm mục tiêu hoạt động bổ sung vì thị trường LNH với tư cách là thị trường bán buôn
vốn, nơi đây có khối lượng chuyển giao vốn chiếm tỷ trọng rất lớn, thời gian luân
chuyển vốn rất nhanh nên đây là thị trường trọng tâm của thị trường tiền tệ. Thị trường
tiền tệ khởi đầu chính là ở thị trường LNH, sau đó mới mở rộng ra các loại thị trường
khác.
Khâu thứ hai – Cơ chế ảnh hưởng của mức lãi suất ngắn hạn tới dài hạn: với
tác nhân tham gia là các TCTD, sẽ truyền tải ảnh hưởng của các mức lãi suất ngắn hạn
mà NHTW đã công bố đến việc hình thành các mức lãi suất của TCTD trên thị trường,
từ lãi suất thị trường ngắn hạn đến các mức lãi suất thị trường dài hạn (lãi suất thực).
Lưu ý mức lãi suất dài hạn ở đây phải là lãi suất thực vì hành vi tiêu dùng, đầu tư của
hộ gia đình và doanh nghiệp chỉ chịu tác động điều chỉnh bởi lãi suất thực (đã tính đến
yếu tố lạm phát) chứ không phải lãi suất danh nghĩa.
Khâu cuối cùng – Cơ chế truyền dẫn tác động của CSTT đến nền kinh tế: các
TCTD thông qua lãi suất thực dài hạn đã hình thành trên thị trường sẽ tác động tới hành
vi tiêu dùng và đầu tư của các chủ thể kinh tế khác như cá nhân, hộ gia đình, doanh
nghiệp, v.v... qua đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu, từ đó góp phần thực hiện mục tiêu
cuối cùng của CSTT như tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát và giảm thất nghiệp.
-13-
Như vậy trong cơ chế điều hành lãi suất, NHTW đóng vai trò chủ đạo – là tác
nhân đầu tiên trong cơ chế, chịu trách nhiệm điều tiết, giám sát và quản lý quá trình
thực hiện cơ chế điều hành lãi suất, các TCTD sẽ chịu sự tác động và giám sát từ phía
NHTW trong quá trình hình thành lãi suất thị trường từ ngắn hạn cho đến dài hạn, sau
đó chính các TCTD sẽ tác động đến các chủ thể kinh tế khác như hộ gia đình, doanh
nghiệp v.v... thông qua sự truyền tải tác động của lãi suất thị trường (dài hạn) đến hành
vi tiêu dùng, đầu tư v.v... mà ảnh hưởng đến tổng cầu và các biến số vĩ mô trong nền
kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế
Lạm phát
Lãi suất ngắn hạn
Tổng cầu
Lãi suất dài hạn (Lãi suất thực)
Lãi suất công bố (Lãi suất điều hành)
Thất nghiệp
Khâu thứ nhất
Khâu thứ hai
Khâu thứ ba
Hình 1.3 Mô hình cơ chế điều hành lãi suất
Nguồn: Tác giả tự vẽ
Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW được xem là hiệu quả khi ba khâu của cơ
chế điều hành lãi suất đều được thực hiện tốt, tức là: các mức lãi suất điều hành mà
NHTW công bố và sử dụng phải gắn kết chặt chẽ và kiểm soát được các mức lãi suất
ngắn hạn trên thị trường tiền tệ như Lãi suất LNH, LSHĐ ngắn hạn, LSCV ngắn hạn
(khâu thứ nhất), thông qua đó tác động và kiểm soát tốt các mức lãi suất (thực) dài hạn
(khâu thứ hai). Biểu hiện cho việc thực hiện tốt hai khâu này đó là lãi suất thị trường
thường xuyên ổn định, tăng giảm cùng chiều và biến động xoay quanh những điều
chỉnh lãi suất điều hành của NHTW. Trên cơ sở đó, những tín hiệu mà NHTW phát ra
đối với nền kinh tế (là CSTT thắt chặt hay mở rộng) phải được truyền dẫn tức thì và
-14-
hiệu quả đến tổng cầu thông qua kênh lãi suất, từ đó giúp NHTW thực hiện tốt các mục
tiêu đề ra như tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả hay thất nghiệp v.v...(khâu thứ ba).
Không có mô hình cơ chế điều hành lãi suất áp dụng chung cho tất cả NHTW
các nước vì NHTW ở mỗi một quốc gia khác nhau sẽ lựa chọn và sử dụng cơ chế điều
hành lãi suất khác nhau căn cứ vào mục tiêu của CSTT, điều kiện và bối cảnh phát
triển kinh tế - xã hội, thị trường tài chính - tiền tệ, cũng như luật định, địa vị pháp lý
của NHTW mỗi nước.
1.2.3 Phân loại cơ chế điều hành lãi suất
1.2.3.1 Cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp (cơ chế kiểm soát lãi suất)
Cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp có nghĩa là NHTW sẽ áp dụng các biện
pháp hành chính để quản lý lãi suất của các TCTD, từ đó tác động điều tiết nền kinh tế
theo các mục tiêu mà NHTW đã đề ra. Cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp bao gồm:
Cơ chế ấn định lãi suất: NHTW quản lý trực tiếp lãi suất bằng cách công
bố và ấn định tất cả các loại lãi suất áp dụng cho các TCTD. Các TCTD đều phải thực
hiện một cách tuyệt đối theo mức lãi suất mà NHTW đã ấn định.
Cơ chế khống chế khung lãi suất: NHTW không ấn định các mức lãi suất,
mà chỉ quy định các mức lãi suất tối đa (lãi suất trần) và mức lãi suất tối thiểu (lãi suất
sàn) tạo thành khung giới hạn để các TCTD xác định mức lãi suất kinh doanh phù hợp.
Cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp phát huy tác dụng đối với các nước đang
phát triển với thị trường tài chính còn yếu kém và không ổn định vì thực hiện quản lý
lãi suất thống nhất đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, cơ chế này còn mang tính áp đặt
hành chính, chưa mang tính thị trường nên làm cho các NHTM phần nào mất đi tính
linh hoạt và quyền tự chủ trong kinh doanh, từ đó làm hạn chế khả năng phát triển của
hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
1.2.3.2 Cơ chế điều hành lãi suất gián tiếp (cơ chế tự do hóa lãi suất)
Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: NHTW là NH của các NH, là
người cho vay cuối cùng đối với các TCTD. NHTW chỉ công bố các mức lãi suất điều
-15-
hành như: LSCB, lãi suất OMO, LSTCV và LSTCK. Thông qua hoạt động cho vay
(cuối cùng) đối với các TCTD (hoạt động tái cấp vốn hay tái chiết khấu) và hoạt động
trên thị trường mở, NHTW sẽ gián tiếp làm ảnh hưởng đến các mức lãi suất thị trường
(Lãi suất LNH, LSHĐ, LSCV) của các TCTD đối với nền kinh tế, mặc dù các mức lãi
suất thị trường này là do các TCTD tự ấn định, dựa trên cung cầu về vốn và sự cạnh
tranh trên thị trường. Các lãi suất được hình thành theo cơ chế thị trường này sau đó sẽ
truyền tải tác động đến các biến số vĩ mô khác trong nền kinh tế, qua đó tác động đến
tổng cầu và góp phần điều tiết nền kinh tế.
Cụ thể, cơ chế điều hành lãi suất gián tiếp của NHTW qua đó tác động điều
chỉnh lãi suất trên thị trường có thể được thực hiện bằng các hình thức như sau:
NHTW thực hiện chính sách lãi suất tái cấp vốn hay lãi suất tái chiết khấu:
Khi muốn phát tín hiệu CSTT thắt chặt (hoặc nới lỏng), NHTW sẽ điều chỉnh tăng
(hoặc giảm) các mức lãi suất công bố là LSTCV và LSTCK áp dụng khi NHTW tái cấp
vốn (bằng nhiều hình thức đã trình bày ở nội dung 1.1.3.2) và tái chiết khấu các giấy tờ
có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán cho các NHTM, qua đó NHTW sẽ làm giảm
(hoặc tăng) khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế do làm tăng (hoặc giảm) chi phí
vay vốn của các NHTM từ NHTW, từ đó gián tiếp ảnh hưởng làm tăng (hoặc giảm)
các mức lãi suất thị trường của NHTM và tác động đến các biến số vĩ mô của nền kinh
tế qua tác động đến tổng cầu.
NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường mở: bằng việc điều chỉnh tăng (hoặc
giảm) lãi suất OMO, NHTW sẽ tác động đến khả năng thanh khoản của các NHTM,
qua đó ảnh hưởng đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM, từ đó tác động làm
tăng (hoặc giảm) lãi suất trên thị trường tiền tệ và truyền tải tác động đến nền kinh tế.
Cụ thể khi thanh khoản của các NHTM đang yếu kém, NHTW sẽ điều chỉnh giảm lãi
suất OMO để hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM, qua đó tác động làm giảm nhiệt lãi
suất thị trường hỗ trợ cho hoạt động vay vốn tiến hành sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp cũng như đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của các NH từ đó góp phần phát triển
-16-
kinh tế. Ngược lại khi muốn điều chỉnh tăng lãi suất thị trường để hạn chế cung ứng
tiền, NHTW sẽ điều chỉnh tăng lãi suất OMO.
NHTW thực hiện chính sách “lãi suất cơ bản”:
Lãi suất cơ bản thường được NHTW xác định và công bố trên cơ sở xu hướng
biến động cung - cầu vốn trên thị trường, mục tiêu của chính sách tiền tệ và các nhân tố
tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài nước. Khi NHTW tăng
(hoặc giảm) LSCB, sẽ tác động trực tiếp làm tăng (hoặc giảm) các mức lãi suất kinh
doanh – lãi suất bán lẻ (LSCV và LSHĐ) của các NHTM hoặc tác động gián tiếp làm
tăng (hoặc giảm) lãi suất bán lẻ của các NHTM thông qua việc tác động làm tăng (hoặc
giảm) lãi suất bán buôn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ (Lãi suất LNH) trước đó.
Thông thường, ở các nước phát triển, NHTW sử dụng LSCB làm lãi suất mục tiêu để
định hướng lãi suất thị trường. Cụ thể, sau khi công bố LSCB, NHTW sẽ sử dụng các
công cụ CSTT (thông thường là nghiệp vụ thị trường mở) để điều tiết lãi suất LNH
hướng đến mức lãi suất mục tiêu, trên cơ sở đó, lãi suất LNH sẽ tác động đến các loại
lãi suất khác trên thị trường theo đúng định hướng điều hành lãi suất của NHTW.
Cơ chế điều hành lãi suất gián tiếp được áp dụng phổ biến đối với các nước
phát triển với thị trường tài chính phát triển và ổn định. Khi đó lãi suất thị trường được
hình thành theo đúng quy luật thị trường, do các TCTD tự quy định và điều chỉnh linh
hoạt theo tình hình cung cầu vốn, vai trò điều hành lãi suất của NHTW chỉ tác động
gián tiếp, mang tính định hướng cho lãi suất trên thị trường theo từng mục tiêu của
CSTT trong từng giai đoạn cụ thể.
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế điều hành lãi suất của NHTW
Việc xác định, thay đổi cơ chế điều hành lãi suất của NHTW được dựa trên cơ
sở xem xét và đánh giá toàn diện các yếu tố sau:
Sự phát triển của thị trường tiền tệ:
Thông qua cơ chế điều hành lãi suất, một sự thay đổi trong nhóm lãi suất điều
hành của NHTW sẽ có tác động trước tiên là đến các lãi suất ngắn hạn trên thị trường
-17-
tiền tệ, kế tiếp lãi suất ngắn hạn sẽ ảnh hưởng đến lãi suất dài hạn trên thị trường vốn
và qua đó truyền dẫn tác động của chính sách lãi suất hay CSTT đến tổng cầu góp phần
điều chỉnh các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp.
Như vậy, thị trường tiền tệ là cơ sở hạ tầng, là khâu quan trọng đầu tiên cho việc thực
hiện cơ chế truyền dẫn tác động của cơ chế điều hành lãi suất của NHTW, cơ chế điều
hành lãi suất sẽ chỉ có tác dụng khi khâu đầu tiên của quá trình truyền tải được vận
hành tốt, tức là thị trường tiền tệ phải đủ điều kiện để đáp ứng cho sự truyền tải này,
phải phát triển đa dạng về cả quy mô và cả những công cụ tài chính, chủ thể tham gia
trên thị trường tiền tệ. Chính những biến động và trình độ phát triển của thị trường tiền
tệ sẽ có tác động lớn đến quá trình vận hành cơ chế điều hành lãi suất của NHTW.
Quan hệ cung và cầu vốn vay trên thị trường tiền tệ
Ngoài sự phát triển của thị trường tiền tệ thì sự biến động trong quan hệ cung
và cầu vốn vay trên thị trường tiền tệ cũng làm ảnh hưởng đến cơ chế điều hành lãi suất
của NHTW. Khi thị trường tiền tệ có cung vốn vay lớn hơn cầu vốn vay hay tình trạng
vốn khả dụng và trạng thái thanh khoản của NHTM dồi dào, lúc này thị trường tiền tệ
mất cân bằng làm cho lãi suất thị trường giảm xuống, NHTW sẽ có xu hướng điều tiết
chính sách lãi suất của mình theo hướng tăng lên để hạn chế tình trạng dư thừa vốn sẽ
có tác động làm gia tăng lạm phát trong nền kinh tế. Và một động thái ngược lại là điều
chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành của NHTW, từ đó làm hạ nhiệt lãi suất thị
trường sẽ được thực hiện nếu có tình trạng cầu về vốn vay lớn hơn cung về vốn vay
trên thị trường hay vốn khả dụng của NHTM đang ở tình trạng thiếu thốn, khả năng
thanh khoản của hệ thống NHTM yếu kém.
Sự lựa chọn mục tiêu của chính sách tiền tệ
Tùy thuộc vào NHTW lựa chọn mục tiêu cuối cùng của CSTT là đơn mục tiêu
hay đa mục tiêu và các nhân tố mà NHTW lựa chọn trong mục tiêu trung gian, mục
tiêu hoạt động là gì để đảm bảo thực hiện mục tiêu cuối cùng, mà qua đó sẽ có ảnh
hưởng đến sự lựa chọn cách điều hành chính sách lãi suất tương ứng. Cụ thể, nếu
-18-
NHTW chọn mục tiêu trung gian là lãi suất thị trường (ngắn và dài hạn) và mục tiêu
hoạt động mà NHTW lựa chọn là giá cả tiền tệ hay lãi suất ngắn hạn trên thị trường
tiền tệ (NHTW sẽ chọn một trong các loại lãi suất điều hành, hoặc thường là lãi suất
liên ngân hàng nội tệ), lúc này NHTW sẽ thực hiện cơ chế điều hành lãi suất như sau:
NHTW sẽ sử dụng các công cụ lãi suất điều hành hoặc kết hợp với thị trường mở và
các công cụ khác để kiểm soát lãi suất ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng, từ đó
góp phần điều tiết lãi suất thị trường (LSHĐ và LSCV) sao cho không xa rời lãi suất
mục tiêu. Trên cơ sở đó, lãi suất thị trường (dài hạn) gắn với lãi suất mục tiêu này sẽ
truyền dẫn tác động của CSTT đến tổng cầu nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng (là đơn
hay đa mục tiêu như kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế và giảm thất nghiệp).
Biến số diễn biến kinh tế vĩ mô như lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế
Khi các biến số của nền kinh tế vĩ mô như tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng trưởng
kinh tế có sự biến động sẽ tác động đến sự điều chỉnh trong cơ chế điều hành lãi suất
của NHTW. Một sự sụt giảm đều đặn và ổn định trong chỉ số lạm phát sẽ khiến các nhà
điều hành an tâm hơn về mục tiêu kiềm chế lạm phát, và do đó việc cần làm tiếp theo
là phải kích thích tổng cầu từ đó gia tăng sản lượng nhằm cải thiện tình trạng trì trệ
trong tăng trưởng kinh tế do quá trình thực hiện CSTT thắt chặt để giảm lạm phát trước
đó gây ra. Lúc này, NHTW sẽ hồi phục và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách thực
hiện CSTT mở rộng, tăng thêm cung tiền mà thông qua đó cơ chế điều hành lãi suất sẽ
có sự điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành, từ đó truyền tải làm giảm lãi suất thị
trường, làm tổng cầu tăng và tăng sản lượng. Ngược lại khi tốc độ tăng trưởng kinh tế
tăng nhanh nhưng không ổn định, đi kèm với tỷ lệ lạm phát cao gây ảnh hưởng xấu đến
nền kinh tế thì chính sách lãi suất của NHTW sẽ được điều chỉnh tăng lên tương ứng
với CSTT thắt chặt.
1.2.5 Mục tiêu và vai trò của cơ chế điều hành lãi suất trong điều hành CSTT
Theo khái niệm về cơ chế điều hành lãi suất đã trình bày ở phần 1.2.2 thì mục
tiêu của cơ chế điều hành lãi suất chính làm nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu cuối
-19-
cùng của CSTT. Mặt khác, do lãi suất là một trong những công cụ của CSTT, nên mục
tiêu theo đuổi của cơ chế điều hành lãi suất cũng phải luôn gắn chặt, không thể tách rời
với mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ, hay nói cách khác mục tiêu của cơ chế điều
hành lãi suất trong từng thời kỳ nhất định cũng chính là mục tiêu cuối cùng mà CSTT
hướng đến tương ứng với thời kỳ đó, bao gồm các mục tiêu như: “kiểm soát lạm phát,
hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp và ổn định kinh tế vĩ mô”. Như vậy,
những sự thay đổi trong cơ chế điều hành lãi suất phải đảm bảo giúp kiểm soát ổn định
các mức lãi suất thị trường, đảm bảo truyền dẫn tốt tác động của lãi suất đến tổng cầu
làm thay đổi các biến số kinh tế vĩ mô sao cho phù hợp và cân bằng với các mục tiêu
kinh tế vĩ mô cuối cùng mà CSTT đã đề ra trong từng thời kỳ nhất định, tránh không
được gây ra những cú sốc làm thị trường bất ổn và không thể kiểm soát.
Chính vì mục đích của việc thực hiện cơ chế điều hành lãi suất luôn gắn liền với
mục tiêu điều hành CSTT của NHTW nên cơ chế điều hành lãi suất đóng vai trò rất
quan trọng trong công tác điều hành CSTT quốc gia và đối với nền kinh tế. Vai trò đó
chính là cơ chế điều hành lãi suất sẽ giúp truyền dẫn tác động của CSTT đến nền kinh
tế nhằm đạt được mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ, được thể hiện cụ thể như sau:
Thông qua cơ chế điều hành lãi suất, NHTW có thể đưa ra những tín hiệu của mình
trong điều hành CSTT (là thắt chặt hay thu hẹp) và truyền dẫn tác động đến lãi suất thị
trường (từ lãi suất ngắn hạn cho tới trung và dài hạn). Sau đó, sự can thiệp và điều
hành lãi suất trên thị trường của NHTW sẽ tác động tới hoạt động của nền kinh tế
thông qua việc nới lỏng hay thắt chặt lượng tiền cung ứng và mức tăng trưởng tín dụng
tương ứng với nhịp độ phát triển kinh tế, góp phần đạt được các mục tiêu cuối cùng
trong điều hành CSTT như, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, tỷ giá v.v… Như vậy, khi
nền kinh tế có lạm phát, để phát tín hiệu điều hành CSTT thắt chặt, NHTW sẽ điều
chỉnh tăng các mức lãi suất điều hành qua đó tác động làm tăng lãi suất thị trường, góp
phần truyền dẫn tác động đến nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là kiềm
chế lạm phát. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, NHTW sẽ điều chỉnh giảm các mức
-20-
lãi suất điều hành để phát tín hiệu thực hiện CSTT nới lỏng, tác động làm giảm lãi suất
thị trường để kích thích tiêu dùng và đầu tư, hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp thuận lợi, từ đó thực hiện mục tiêu phục hồi nền kinh tế.
1.3 Sự cần thiết phải hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất
Như chúng ta đã biết, CSTT là một trong những chính sách hết sức quan trọng
góp phần đảm bảo cho nền kinh tế của một quốc gia tăng trưởng bền vững. Thậm chí
theo M.Friedman – đại biểu của Trường phái kinh tế tự do mới còn cho rằng: “sự tăng
trưởng kinh tế ổn định của một quốc gia chỉ là kết quả của một chính sách tiền tệ ổn
định”, trong đó các chính sách khác đặc biệt là CSTK chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho CSTT
trong tiến trình đảm bảo phát triển kinh tế bền vững mà thôi. Để thực hiện CSTT ổn
định và đạt hiệu quả cao, có rất nhiều công cụ để NHTW các nước lựa chọn và kết hợp
sử dụng với nhau, nhưng theo thực tế cho thấy, công cụ lãi suất đóng vai trò hết sức
trọng yếu trong việc thực thi một CSTT hiệu quả.
Từ mục tiêu và vai trò của cơ chế điều hành lãi suất đối với CSTT cũng như đối
với nền kinh tế đã trình bày ở các nội dung trước, có thể thấy cơ chế điều hành lãi suất
là một bộ phận cực kỳ quan trọng trong guồng máy hoạt động của CSTT. Ngoài ra, lãi
suất còn là một nhân tố hết sức nhạy cảm, lãi suất không chỉ chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố vĩ mô mà còn có tác động trở lại đối với nền kinh tế trong nước: lãi suất làm
ảnh hưởng đến hành vi và hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh tế (doanh nghiệp,
ngân hàng, hộ dân cư v.v…); lãi suất là công cụ quan trọng để điều tiết kinh tế vĩ mô
và đo lường tình trạng của nền kinh tế. Việc thực hiện một cơ chế điều hành lãi suất có
phù hợp và hiệu quả hay không sẽ quyết định sự thành bại của CSTT và từ đó có ý
nghĩa quyết định đến trình độ kinh tế của một quốc gia. Nếu cơ chế điều hành lãi suất
được thực thi hiệu quả, thì CSTT cũng thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra, qua đó giúp
nền kinh tế phát triển ổn định, hệ thống NH, thị trường tài chính và các doanh nghiệp
hoạt động hiệu quả, lạm phát được kiểm soát tốt, giá cả ổn định và đời sống của người
dân được nâng cao, đảm bảo an sinh xã hội. Ngược lại, nếu cơ chế điều hành lãi suất
-21-
không phù hợp có thể sẽ làm cho nền kinh tế đi ngược lại với các mục tiêu mà Nhà
nước đã đề ra, gây nguy hại trước mắt đến thị trường tiền tệ, sau đó là thị trường vốn
và làm cho lợi ích của các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế bị xâm phạm, mà đặc biệt
là hệ thống NH sẽ gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay, khi hầu hết các quốc gia đều đang mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế
với thế giới thì xu hướng biến động khôn lường của nền kinh tế thế giới đã và đang
diễn ra sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến các nước. Mặt khác, cùng với việc hiện nay
hầu hết các quốc gia đều theo đuổi cơ chế tự do hóa tài chính thì quá trình thực thi cơ
chế điều hành lãi suất càng trở nên khó khăn và cấp thiết hơn. Với ý nghĩa đó, việc
phân tích tình hình và đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất
của NHTW, từ đó góp phần điều hành CSTT theo đúng mục tiêu đề ra và đảm bảo tăng
trưởng ổn định nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết và trọng yếu.
1.4. Tìm hiểu về cơ chế điều hành lãi suất của NHTW Nhật Bản (BOJ) giai đoạn
2006 – 2012 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1.4.1 Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW Nhật Bản giai đoạn 2006 – 2012
Về tính độc lập của NHTW Nhật Bản
BOJ có mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ (cụ thể là trực thuộc Bộ Tài
chính Nhật Bản). Hiện tại, hệ số độc lập của BOJ được đánh giá ở mức 2,5 thấp hơn
nhiều so với Thụy Sỹ, Đức (4) và Mỹ (3,5) – là những quốc gia có mô hình NHTW độc
lập so với Chính phủ, điều đó chứng tỏ BOJ không phải là một ngân hàng có được sự
độc lập tuyệt đối, nhưng so với các nước có NHTW thuộc mô hình này như Anh, Việt
Nam, Trung Quốc v.v… thì BOJ lại có mức độ độc lập so với Chính phủ nhiều hơn.
Do đó, điều này giúp BOJ có thuận lợi hơn so với các nước khác có cùng mô hình là có
khả năng kiểm soát tốt lạm phát, giảm thâm hụt ngân sách và thực thi CSTT hiệu quả
từ đó góp phần tăng trưởng kinh tế ổn định và đảm bảo an sinh xã hội. Sự độc lập
tương đối của BOJ ngày càng tăng lên theo thời gian thông qua các quá trình cải cách
mà đặc biệt là việc sửa đổi Luật BOJ năm 1997.
-22-
Cơ chế điều hành lãi suất của BOJ giai đoạn 2006 – 2012
Không khác nhiều với cách thức điều hành lãi suất của NHTW ở các nước phát
triển, từ 11/8/2006 BOJ sử dụng hai công cụ là lãi suất cơ bản và lãi suất chiết khấu để
điều hành và kiểm soát các loại lãi suất trên thị trường, qua đó truyền tải tác động của
CSTT đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế. Trong đó:
- Lãi suất cơ bản (Prime rate): là lãi suất mục tiêu hay lãi suất định hướng cho
hoạt động thị trường tiền tệ, đây là thông điệp mang tính định hướng để thị trường
tham khảo đồng thời cũng thể hiện ý chí trong điều hành CSTT của BOJ. Hiện tại, BOJ
lấy lãi suất cho vay qua đêm đối với những khoản vay không thế chấp làm LSCB.
- Lãi suất chiết khấu (Discount rate): là lãi suất mà BOJ chiết khấu các giấy tờ
có giá cho các NHTM. Các NHTM sẽ vay chiết khấu từ BOJ khi không tìm được
nguồn vay nào trên thị trường liên ngân hàng có chi phí thấp hơn chi phí vay từ BOJ,
do đó, LSCK mà BOJ công bố nghiễm nhiên trở thành giới hạn trần của LSCV qua
đêm (hay LSCB) dù BOJ không đưa ra rào cản hành chính nào cho LSCV qua đêm.
(Đồ thị 1.1)
0.8
0.6
Discount rate
0.4
Prime rate
0.2
Money Market rate
0.0
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Đồ thị 1.1 Cơ chế điều hành lãi suất của BOJ giai đoạn 2006 đến 2012
Nguồn: IMF (Đơn vị tính: %/năm)
Để điều hành lãi suất, BOJ sử dụng các công cụ CSTT của mình – thông
thường là nghiệp vụ thị trường mở để tác động vào các yếu tố hình thành nên lãi suất
cơ bản, chủ yếu là những yếu tố tác động đến cung và cầu về nguồn vốn trên thị trường
tiền tệ. Thông qua hoạt động trên thị trường mở, BOJ điều tiết lãi suất thị trường tiền
-23-
tệ (Money Market rate) hướng đến lãi suất mục tiêu (LSCB) và biến động trong giới
hạn cho phép của “trần” LSCK mà không hề dùng bất cứ biện pháp hành chính cụ thể
nào. Trên cơ sở tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ, BOJ sẽ gián tiếp tác động đến
các mức lãi suất khác trên thị trường tài chính và lãi suất mà các ngân hàng áp dụng đối
với các khoản vay cho các cá nhân và công ty, qua đó, sẽ ảnh hưởng đến đầu tư và tiêu
dùng của các tổ chức kinh tế, và ảnh hưởng của chính sách tiền tệ sẽ lan rộng trong
hoạt động kinh tế và giá cả.
Trong những chuyển biến nền kinh tế Nhật bản giai đoạn 2006 đến nay: giai
đoạn thoát khỏi suy thoái, cải tiến và phát triển kinh tế, BOJ nhận ra thách thức quan
trọng nhất của Nhật Bản là nền kinh tế đang phải đối mặt với nhiệm vụ khôi phục và
nâng cao năng suất, tốc độ tăng trưởng tiềm năng, vì vậy kể từ đầu tháng 1/2009, BOJ
đã thay đổi và duy trì mức LSCB ở mức rất thấp 0 – 0,1% cho đến nay. (Đồ thị 1.1)
Ngoài ra, theo Khoản 2, Điều 3 Luật NHTW Nhật Bản quy định “BOJ có trách
nhiệm làm rõ cho các công dân của Nhật Bản về nội dung của các quyết định cũng như
quá trình ra các quyết định liên quan đến tiền tệ và kiểm soát tiền tệ”. Từ quy định này
cũng như nhận thức được việc minh bạch hóa thông tin về các quyết định và quá trình
ra quyết định liên quan đến CSTT của NHTW sẽ tăng cường hiệu quả của CSTT, BOJ
đã cung cấp rất nhiều thông tin về quá trình điều hành lãi suất cũng như điều hành
CSTT cho công chúng.
Mặt khác, BOJ cũng cho rằng công tác thống kê số liệu cũng như việc tiến
hành các nghiên cứu và điều tra là rất quan trọng để thực hiện CSTT một cách phù hợp
thực tiễn. Để hiểu chính xác tình hình kinh tế và tài chính Nhật Bản, BOJ không chỉ
dựa trên các thống kê và nghiên cứu trong nước mà phải tiến hành cả ở nước ngoài và
trên toàn cầu bằng cách duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các NHTW và các tổ chức
quốc tế.
1.4.2 Bài học kinh nghiệm từ cách điều hành lãi suất của BOJ
Từ thực tế điều hành của BOJ trong giai đoạn vừa qua 2006 – 2012, chúng ta
-24-
có thể rút ra một số kinh nghiệm cho việc điều hành lãi suất của Việt Nam như sau:
Một là, cơ chế điều hành lãi suất của BOJ được thực hiện qua việc định hướng
lãi suất mục tiêu bằng nghiệp vụ thị trường mở đã tạo ra sự linh hoạt và nhịp nhàng
trong quá trình truyền dẫn tiền tệ từ cơ chế điều hành lãi suất của BOJ đến mặt bằng lãi
suất của thị trường với hiệu quả cao. Đây có thể xem là định hướng điều hành lãi suất
mà NHNN Việt Nam cần phải xem xét trong tương lai gần.
Hai là, NHNN Việt Nam cần nâng cao mức độ độc lập của NHNN đối với
Chính phủ. Thực tế cho thấy không chỉ ở Nhật mà ở các nước phát triển khác có hệ số
độc lập của NHTW càng cao thì lạm phát bình quân càng thấp, đồng thời chỉ số lạm
phát biến thiên càng ít và ngược lại. Hơn nữa tác động của tính độc lập của NHTW lên
tỷ lệ lạm phát là xuyên suốt theo thời gian. Điều này mang lại nhiều ý nghĩa cho nền
kinh tế Việt Nam hiện nay khi Luật NHNN năm 2010 trình bày rõ mục tiêu cuối cùng
của CSTT là ưu tiên cho kiềm chế lạm phát và tương lai lạm phát vẫn là một nguy cơ
lớn tiềm ẩn đối với nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, qua các bằng chứng thực nghiệm
cho thấy, một mô hình NHTW độc lập hơn còn giúp giảm thâm hụt ngân sách, giúp
NHTW thực hiện CSTT hiệu quả sẽ góp phần vào tăng trưởng kinh tế ổn định hơn.
Ba là, thể hiện sự ưu tiên cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn
hiện nay cũng như một số giai đoạn trong quá khứ, BOJ đã nhiều lần hạ mức lãi suất
cơ bản và lãi suất chiết khấu xuống mức thấp nhất chưa từng có trên thế giới (LSCB
của BOJ từ tháng 1/2009 đến nay là 0 – 0,1%), điều này đã góp phần tạo ra cách nghĩ
mới trong điều hành lãi suất là hoàn toàn không có chính sách lãi suất thấp nhất hay
cao nhất nào trong cơ chế điều hành lãi suất. Chính sách lãi suất thấp và ổn định là
phương tiện để BOJ vực dậy nền kinh tế trong quá khứ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
trong hiện tại. Việt Nam nên xem xét chính sách này để áp dụng cho chính sách điều
hành lãi suất của quốc gia khi hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu tăng
trưởng chậm và đã phần nào kiềm chế được lạm phát.
-25-
Bốn là, cần tăng cường công khai minh bạch hóa thông tin trong điều hành
CSTT để thực thi có hiệu lực và hiệu quả CSTT đồng thời tạo lập được niềm tin trong
dân chúng. Ngoài ra, đảm bảo chất lượng công tác thống kê số liệu cũng như việc tiến
hành các nghiên cứu và điều tra là rất quan trọng. Kinh nghiệm từ BOJ cho thấy, các
thống kê và nghiên cứu không chỉ được thực hiện trong nước mà phải tiến hành cả ở
nước ngoài và trên toàn cầu bằng cách duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các NHTW và
các tổ chức quốc tế.
Với những chia sẻ kinh nghiệm trong công tác điều hành lãi suất của BOJ trên
đây sẽ góp phần hoàn thiện hơn cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam trong
tương lai.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Chương 1 đã trình bày những nền tảng lý thuyết mang tính tổng quan về lãi suất
cũng như cơ chế điều hành lãi suất của NHTW. Qua đó cho thấy vai trò và tầm quan
trọng của nhân tố lãi suất cũng như cơ chế điều hành lãi suất đối với nền kinh tế.
Thông qua tìm hiểu cơ chế điều hành lãi suất của NHTW Nhật Bản giai đoạn 2006 –
2012, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam sẽ có thêm những bài học kinh
nghiệm để từ đó có những điều chỉnh hợp lý và hiệu quả góp phần thực hiện tốt mục
tiêu của CSTT trong từng giai đoạn cụ thể.
-26-
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT
Ở VIỆT NAM
2.1 Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam từ năm 2008 đến tháng 6/2013
Trong khuôn khổ mục tiêu và giới hạn của luận văn, tác giả chỉ tập trung vào hai
biến số vĩ mô quan trọng nhất của nền kinh tế đó là tăng trưởng kinh tế (% GDP) và tỷ
lệ lạm phát (% CPI) để phân tích bối cảnh nền kinh tế Việt Nam từ năm 2008 đến nay.
Trong giai đoạn trước năm 2008, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
châu Á năm 1997 đã tác động làm suy yếu nền kinh tế Việt Nam, nên từ năm 1999, với
mục tiêu là vực dậy nền kinh tế, Chính phủ đã triển khai chính sách kích cầu và kết quả
đạt được là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế năm sau luôn cao hơn năm trước. Tuy
nhiên, đất nước vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế bền vững với tốc độ
cao vì hệ lụy đi kèm là tốc độ tăng giá không ổn định và có xu hướng ngày càng tăng
cao mà đỉnh điểm lạm phát lên đến 2 con số vào năm 2007 (12,63%) mặc dù GDP năm
2007 vẫn trong đà tăng trưởng là 8,48% cao hơn năm 2006 đạt 8,23%). Kết quả kinh tế
vĩ mô bất ổn vào cuối năm 2007 khi phải đối mặt với lạm phát cao tới 2 con số (mức
cao nhất trong thời kỳ 2000 – 2007), cho thấy viễn cảnh đầy khó khăn của năm 2008.
Năm 2008, cộng thêm cú sốc là cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới bắt
nguồn từ Mỹ và nhanh chóng lây lan rất nhanh sang tất cả các khu vực khác của thế
giới, kéo theo suy thoái, thậm chí đại suy thoái kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam
do đó cũng chịu nhiều ảnh hưởng và việc điều hành lãi suất cũng như CSTT của
NHNN từ năm 2008 đến nay đã gặp rất nhiều trở ngại và thách thức:
Những tháng đầu năm 2008, giá xăng dầu trên thị trường thế giới tăng cao, kết
hợp với CSTT nới lỏng và CSTK mở rộng trong thời gian dài trước đó đã dẫn đến lạm
phát của nền kinh tế tăng cao không ngừng, hệ quả là CPI vào cuối năm 2008 lên đến
19,89% (cho dù giá dầu trên thị trường thế giới và giá cả trong nước đã giảm mạnh vào
các tháng cuối năm 2008 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu). Đứng
trước cú sốc này, CSTT thắt chặt và CSTK thu hẹp đã được triển khai. Lãi suất năm
-27-
2008 tăng rất cao gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán và
bất động sản cũng trở nên trầm lắng và đóng băng. Tốc độ tăng trưởng sụt giảm và tỷ
lệ thất nghiệp gia tăng.
Đồ thị 2.1 Lạm phát và tăng trƣởng kinh tế giai đoạn 2000 – tháng 6/2013
% GDP
% CPI
Linear (% GDP)
Linear (% CPI)
25
20
19.89
18.13
15
12.63
11.75
10
9.5
8.4
6.79 6.89 7.08 7.34 7.79 8.44 8.23 8.48
6.78
6.6
6.18
5.89
6.52 5.32
5
6.81 6.69 5.03 4.90
4
3
0.8
0
-0.6
-5
Đơn vị tính: %/năm
Nguồn : Tổng cục Thống kê
Chưa kịp hứng chịu hết tác động của chính sách kiềm chế lạm phát thì vào cuối
năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu tác động đến nền
kinh tế trong nước. Các phản ứng của chính sách bị đảo ngược chiều. Từ CSTK và tiền
tệ thu hẹp chuyển sang CSTK và tiền tệ mở rộng để ngăn chặn suy giảm kinh tế. Tuy
nhiên, ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng quá mạnh đã khiến tốc độ tăng trưởng GDP
cuối năm 2008 chỉ đạt 6,18% (giảm đi so với mức tăng 8,48% của năm 2007). Trước
tình hình đó, năm 2009 Chính phủ đã triển khai gói kích thích kinh tế quy mô lớn (1 tỷ
USD), nhưng do những yếu kém nội tại và ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế toàn cầu vẫn còn, tăng trưởng của nền kinh tế tiếp tục bị sụt giảm
-28-
và chỉ còn 5,32% vào cuối năm. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới có xu hướng
phục hồi cũng như hiệu quả của chính sách kinh tế mà nền kinh tế đã có dấu hiệu phục
hồi vào năm 2010.
Năm 2010, nền kinh tế Việt Nam đã được khôi phục, tăng trưởng kinh tế cuối
năm 2010 đạt 6,78%. Tuy nhiên, nền kinh tế thế giới phục hồi làm tăng nhu cầu xăng,
dầu, nguyên nhiên liệu cho hoạt động sản xuất. Giá nhiều loại đầu vào sản xuất tăng
lên, cộng với CSTT và CSTK mở rộng kích thích kinh tế trước đó đã đẩy lạm phát năm
2010 lên tới 11,75% và có những diễn biến phức tạp. Chính vì thế, Luật NHNN năm
2010 có hiệu lực từ năm 1/1/2011 thì CSTT của NHNN là tập trung ưu tiên vào mục
tiêu cuối cùng là ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, và được
NHNN thực thi bằng CSTT thắt chặt.
Trong bức tranh toàn cảnh của kinh tế thế giới năm 2011 với những nét cơ bản
gồm “tăng trưởng chậm, không cân bằng và luôn bất ổn”, nền kinh tế Việt Nam cũng
không tránh khỏi tình trạng tăng trưởng thấp đi kèm với lạm phát cao. Tăng trưởng
kinh tế Việt Nam năm 2011 sụt giảm so với năm 2010, chỉ đạt 5,89%, lạm phát thì tăng
cao trở lại (tính đến hết tháng 12, tốc độ tăng trưởng lạm phát trong cả năm 2011 là
18,13%) tiếp tục là thách thức đối với công tác điều hành chính sách tiền tệ của
NHNN, mà trong đó cơ chế điều hành lãi suất đóng vai trò quan trọng.
Trước bối cảnh lạm phát tăng cao trong năm 2011, mục tiêu kiềm chế lạm phát
được Quốc hội đề ra trong năm 2012 là thấp hơn 10%, cùng với CSTT thắt chặt và
CSTK thu hẹp, kiềm chế lạm phát năm 2012 đã đạt kết quả khả quan, cụ thể là tỷ lệ
lạm phát cuối năm 2012 giảm còn 6,81%. Tuy nhiên, vẫn còn mặt hạn chế đó là chưa
hỗ trợ cải thiện được thực trạng tổng cầu của nền kinh tế suy giảm (tăng trưởng kinh tế
năm 2012 chỉ đạt 5,03%), sản xuất kinh doanh khó khăn và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
Tình hình tế Việt Nam năm 2012 cho thấy kết quả kiểm soát lạm phát năm 2012
chỉ mang tính thời điểm không ổn định và chưa vững chắc, các yếu tố gây nên lạm phát
cao chưa giải quyết được tận gốc rễ. Ngoài ra, Đồ thị 2.1 cho thấy một thực trạng đáng
-29-
lưu ý là trong giai đoạn 2000 – tháng 6/2013, tỷ lệ lạm phát có xu hướng tăng lên mạnh
mẽ, trong khi đó tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm. Vì thế, thông điệp hành động
cho năm 2013 và những năm tiếp theo mà Chính phủ đưa ra vẫn là ưu tiên kiểm soát
lạm phát nhưng phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Đến tháng 6 năm
2013, ước tính tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 4,9% so với cùng kỳ và tỷ lệ lạm phát
(so với cùng kỳ) là 6,69%.
2.2 Tổng quan về Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam và nguyên tắc điều hành
lãi suất của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV – State Bank of Viet Nam) là NHTW của
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, được đổi tên từ Ngân hàng Quốc gia Việt
Nam (thành lập ngày 6/5/1951), là một cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ tại Việt
Nam, thuộc mô hình NHTW phụ thuộc Chính phủ. Hệ thống tổ chức của NHNN Việt
Nam được tổ chức thành hệ thống tập trung, thống nhất, bao gồm: Bộ máy điều hành
và hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở chính (trụ sở trung ương) có trụ sở trung ương đặt tại
thủ đô Hà Nội với bộ máy lãnh đạo tập trung, gồm: Thống đốc NHNN Việt Nam, các
Phó Thống đốc và bộ máy giúp việc cho Thống đốc và Phó Thống đốc; Các chi nhánh
tại địa phương; Các văn phòng đại diện; Các đơn vị trực thuộc.
NHNN Việt Nam là cơ quan chịu trách nhiệm về việc phát hành tiền tệ, quản lý
tiền tệ và tham mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính phủ như: phát hành
tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách về lãi suất, quản lý dự trữ ngoại tệ, soạn thảo các
dự thảo luật về kinh doanh NH và các TCTD, xem xét việc thành lập các NH và
TCTD, quản lý các NHTM nhà nước v.v… NHNN Việt Nam mang trách nhiệm vô
cùng quan trọng trong việc điều hành CSTT quốc gia đi theo mục tiêu: ổn định giá trị
đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, giảm tỷ lệ
thất nghiệp, đảm bảo an sinh xã hội v.v… Trong đó, lãi suất là một công cụ đắc lực để
NHNN thực thi CSTT góp phần to lớn cho việc đạt được các mục tiêu đã chọn.
Trong cơ chế điều hành lãi suất, NHNN Việt Nam đóng vai trò chủ đạo – là tác
-30-
nhân đầu tiên trong cơ chế, thông qua việc ban hành các quy định, quyết định và động
thái của mình về lãi suất, NHNN sẽ tác động điều chỉnh lãi suất trên thị trường của các
TCTD, từ đó góp phần điều tiết nền kinh tế theo đúng mục tiêu mà CSTT hướng đến.
Ngoài ra, NHNN Việt Nam còn là cơ quan thực hiện các hoạt động giám sát, điều hành
và quản lý quá trình thực hiện cơ chế điều hành lãi suất, các chủ thể tham gia (TCTD)
nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Cơ chế điều hành lãi suất đạt hiệu quả hay không sẽ
tùy thuộc vào động thái điều hành, giám sát và quản lý của NHNN Việt Nam. Đứng
trước vai trò và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của NHNN đối với việc thực hiện có hiệu
quả cơ chế điều hành lãi suất và điều hành CSTT, NHNN Việt Nam cần phải linh hoạt,
kịp thời và thận trọng trong quá trình điều hành của mình.
Nguyên tắc điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam
Theo thực tế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam hiện nay, các loại lãi suất
điều hành chủ yếu được NHNN sử dụng để can thiệp vào thị trường tiền tệ bao gồm:
LSCB; LSTCV; LSTCK; Lãi suất OMO;
NHNN LNH
g. Trong đó, LSCB là lãi suất chỉ áp dụng cho VND, do
NHNN công bố, làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh. LSCB ở Việt
Nam được NHNN xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường nội tệ LNH, lãi suất OMO
của NHNN, LSHĐ đầu vào của các TCTD và xu hướng biến động cung – cầu vốn.
Kể từ năm 2003, trong điều kiện thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận theo quyết
định số 546/2002/QĐ-NHNN, để đảm bảo ổn định lãi suất thị trường, NHNN đã từng
bước thiết lập một hành lang lãi suất thị trường LNH với biên độ chênh lệch khoảng
2% để điều tiết lãi suất thị trường: (i) “Trần” là LSTCV, “sàn” là LSTCK. Lãi suất
LNH, LSCB và lãi suất OMO cũng biến động trong phạm vi hành lang này; (ii) Lãi
suất OMO đóng vai trò định hướng và thực hiện việc “bơm” tiền ra hoặc “hút” tiền về,
từ đó tác động đến cung - cầu vốn, lãi suất thị trường LNH và LSHĐ, LSCV của
NHTM.
-31-
Thông qua “nguyên tắc điều tiết lãi suất thị trường” trên của NHNN, các mức lãi
suất thị trường sau đó sẽ truyền dẫn CSTT (là thắt chặt hay mở rộng) đến nền kinh tế
thông qua tác động của lãi suất thị trường đến các chỉ tiêu như: lạm phát, tăng trưởng
kinh tế, tỷ giá v.v… nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra trong CSTT.
Hình 2.1 Nguyên tắc điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam
Lãi suất tái cấp vốn
Lãi suất liên ngân hàng
Lãi suất tái chiết khấu
Nguồn: tác giả tự vẽ
Với các loại lãi suất điều hành và cơ chế điều hành lãi suất như trên, NHNN đã
vận dụng một cách linh hoạt và thận trọng nhằm định hướng và truyền dẫn lãi suất trên
thị trường tiền tệ phù hợp với mục tiêu của CSTT trong từng thời kì nhất định. Trong
đó, mục tiêu trong điều hành CSTT nói chung và chính sách lãi suất nói riêng được quy
định cụ thể trong Luật NHNN năm 1997 (áp dụng từ năm 1998) và Luật NHNN năm
2010 (áp dụng từ 1/1/2011) như sau:
Giai đoạn 1997 – 2010, điều hành CSTT là đa mục tiêu. Theo Luật NHNN
1997, đã quy định rõ, đó là: „ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần
thúc đẩy kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống xã hội‟.
Giai đoạn 2011 – 2013, theo Luật NHNN năm 2010 thì điều hành CSTT là đơn
mục tiêu, đó là : „ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát‟.
2.3 Sơ lƣợc về cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam thời kỳ trƣớc năm 2008
Có thể tóm tắt theo 5 giai đoạn dưới đây:
Giai đoạn 1986 đến 5/1992: cơ chế điều hành lãi suất cố định: nhà nước ấn
định lãi suất cho các NH và giữ cố định trong một thời gian dài. Trong giai đoạn này,
-32-
do Việt Nam nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu, đặc biệt là xảy ra tình trạng lạm phát
rất nghiêm trọng nên lãi suất tiền gửi vào các NH là lãi suất âm và thấp hơn nhiều so
với lạm phát, gây ra rất nhiều khó khăn cho đời sống của người dân.
Giai đoạn 6/1992 đến 12/1995: cơ chế điều hành khung lãi suất hay còn gọi
là bước chuyển đổi từ cơ chế lãi suất âm sang lãi suất dương vì trong giai đoạn này
tình hình lạm phát đã được đẩy lùi và luôn ở mức thấp. NHNN điều hành cơ chế lãi
suất theo khung, trong đó quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần LSCV đối với nền
kinh tế. Căn cứ khung lãi suất này, các NHTM đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình.
Giai đoạn 1/1996 - 7/2000: cơ chế điều hành lãi suất trần. NHNN bãi bỏ
mức lãi suất sàn tiền gửi và chỉ quy định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn cho vay
và khống chế chênh lệch giữa LSCV với LSHĐ bình quân ở mức 0,35%/tháng (tương
đương 4,2%/năm). Cuối tháng 1-1998, quy định chênh lệch lãi suất được xóa bỏ, chỉ
giữ lại quy định trần LSCV, bước đầu thực hiện tự do hóa LSHĐ.
Giai đoạn 8/2000 đến 5/2002: cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ.
Đây là giai đoạn NHNN sử dụng LSCB để điều hành CSTT. Dựa vào mức LSCB và
biên độ dao động do NHNN công bố trong từng thời kỳ, các NHTM được phép ấn
định LSCV bằng VND phù hợp với quy định. Đối với hình thức cho vay bằng ngoại tệ
bắt đầu áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận từ tháng 5/2001.
Giai đoạn 6/2002 đến 2007: cơ chế lãi suất thỏa thuận. Thông qua quyết định
số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 của NHNN, quy định về việc thực hiện cơ
chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VND, NHNN điều
hành lãi suất theo cơ chế lãi suất thỏa thuận trên cơ sở giải quyết tốt mối quan hệ cung
cầu vốn vay giữa NH với khách hàng theo đúng quy luật thị trường, LSCB do NHNN
công bố trong giai đoạn này chỉ có tính chất tham khảo.
Như vậy, có thể thấy giai đoạn từ 1986 đến 5/2002 là giai đoạn Việt Nam áp
dụng cơ chế lãi suất theo khuôn khổ mệnh lệnh hành chính, từ 6/2002 cho đến nay, cơ
chế điều hành lãi suất ở Việt Nam là cơ chế lãi suất thỏa thuận, mang tính thị trường.
-33-
2.4 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam giai
đoạn từ năm 2008 đến tháng 6/ 2013
Có thể nói trong thời gian hơn 5 năm qua, trước những biến động khôn lường
của kinh tế thế giới và khu vực, cũng như diễn biến phức tạp của kinh tế vĩ mô trong
nước, NHNN đã có sự điều chỉnh linh hoạt trong cơ chế điều hành lãi suất hướng đến
những mục tiêu cụ thể mà CSTT đặt ra trong từng thời kỳ nhất định, cụ thể như sau:
2.4.1 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2008
Từ cuối năm 2007 khi lạm phát tăng cao đỉnh điểm lên tới 2 con số (12,63%),
Quốc hội đã đề ra chỉ tiêu cụ thể cho năm 2008 là: Tỷ lệ lạm phát < 10%, tốc độ tăng
trưởng GDP nằm trong khoảng 8,5 – 9%, cơ chế điều hành lãi suất trong năm 2008
nhằm đạt được những chỉ tiêu trên đã được NHNN thực hiện như sau:
Đầu năm 2008, trước tình hình lạm phát ngày tăng cao, khó kiểm soát do ảnh
hưởng từ CSTT và CSTK nới lỏng để kích cầu từ những năm trước và biến động giá
xăng dầu trên thị trường thế giới, ngày 1/2/2008 NHNN đồng loạt tăng các loại lãi suất
chủ chốt như LSCB tăng từ 8,25% lên 8,75%, LSTCK từ 4.5% tăng lên thành 6%,
LSTCV tăng từ 6,5% lên 7,5%, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử LNH
và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các NHTM từ
10,8%/năm tăng lên 15%/năm nhằm điều tiết tăng lãi suất thị trường, từ đó thực hiện
CSTT thắt chặt, kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, do hệ thống NHTM lúc này vẫn còn
nhiều yếu kém, đặc biệt là các NHTM cổ phần vừa và nhỏ nên tình hình thanh khoản
của các NHTM này đã rơi vào tình trạng khó khăn, bắt buộc phải tăng LSHĐ. LSHĐ
từ mức bình quân 7% – 8%/năm vào năm 2007 đã nhảy vọt lên mức bình quân
12%/năm vào tháng 2/2008 mở đầu cho cuộc đua LSHĐ. Trước tình hình đó, NHNN
đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện số 02/2008/CĐ-NHNN
ngày 26/02/2008, đồng thời nhằm hạn chế cuộc đua lãi suất này, Hiệp hội Ngân hàng
Việt nam (VNBA) thông qua cuộc họp vận động các NHTM chấp thuận LSHĐ cao
nhất là 11%/năm. Tuy nhiên những động thái này là một giải pháp mang nặng tính
-34-
hành chính và tỏ ra không hiệu quả khi đã khiến các NHTM vừa và nhỏ không huy
động được vốn từ thị trường 1 (thị trường các tổ chức kinh tế và dân cư) mà phải
chuyển qua vay vốn của các NHTM lớn trên thị trường 2 (thị trường LNH) với lãi suất
LNH bình quân lên đến 18 – 24%/năm, đặc biệt mức lãi suất cho vay qua đêm trên thị
trường LNH vào tháng 2 đã là 20% và thậm chí có thời điểm tăng lên đến 30%. Bên
cạnh đó, các NHTM nhỏ cũng không được vay tái cấp vốn từ NHNN, khả năng tiếp
cận vốn qua thị trường mở, qua hoạt động vay tái chiết khấu từ NHNN còn rất nhiều
hạn chế, tất cả những điều này đã làm cho thanh khoản của các NH ngày càng khó
khăn hơn, các NH bắt buộc phải nâng LSHĐ vượt trần 12% của NHNN, tạo ra cuộc
đua LSHĐ ngày càng trầm trọng hơn với LSHĐ bình quân lần lượt vào tháng 3 và
tháng 4 là 14 – 15%. Điều này cũng có nghĩa là giải pháp hành chính với công điện số
02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 của NHNN và sự đồng thuận LSHĐ cao nhất là 11%
của VNBA nhằm hạn chế cuộc đua lãi suất đã trở nên thất bại và vô hiệu. Nền kinh tế
lúc này lâm vào tình trạng hết sức khó khăn khi đi kèm với cuộc đua lãi suất là tốc độ
tăng CPI chỉ mới sau 4 tháng đầu năm đã lên đến 11,6%, xấp xỉ bằng với mức tăng giá
của cả năm 2007 (12,63%).
Trước tình hình đó, với ưu tiên cấp thiết là kiềm chế lạm phát nhằm ổn định
kinh tế vĩ mô, NHNN đã ban hành quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008
về cơ chế điều hành LSCB bằng VND, theo đó quy định việc các TCTD ấn định LSHĐ
và LSCV bằng VND đối với khách hàng không vượt quá 150% LSCB do NHNN công
bố. Đi cùng với quyết định này, từ ngày 19/05/2008 NHNN đã điều chỉnh 2 đợt tăng
tương ứng các mức lãi suất chủ chốt: LSCB tăng lần lượt từ 8,75 lên 12 – 14%/năm ;
LSTCK tăng từ 6 lên 11 – 13%/năm, LSTCV tăng từ 7,5 lên 13 – 15%/năm. Trên cơ sở
điều chỉnh tăng LSCB của NHNN, các NHTM đã công khai tăng LSHĐ lên mức 16 –
17% và thậm chí một số NH nhỏ đã tăng lên đến 18% vào tháng 5. Đỉnh điểm của cuộc
đua lãi suất 2008 là vào tháng 6, LSHĐ ở một vài NH vừa và nhỏ lên đến ngưỡng 19 –
20%, và các NH lớn do đó cũng tăng LSHĐ để thu hẹp khoảng cách đã làm cho LSHĐ
-35-
bình quân của các NH vào tháng 6 lên đến 18,5%. Mặc dù hệ lụy của từ CSTT „thắt
chặt‟ của NHNN đã làm cho cuộc đua LSHĐ của các NHTM ngày càng trầm trọng,
nhưng mục tiêu giảm lạm phát bước đầu đã phát huy tác dụng khi tốc độ tăng giá của
tháng 6 đã có xu hướng giảm (chỉ tăng 2,14% so với tháng trước – mức tăng thấp nhất
kể từ đầu năm), tuy nhiên vẫn còn rất cao so với những năm trước đây khi tốc độ tăng
CPI 6 tháng đầu năm 2008 so với cuối năm 2007 (12,63% – mức lạm phát cao nhất
trong giai đoạn 2000 – 2007, Đồ thị 2.1) đã chênh lệch tăng 581 điểm %, lên đến
18,44%.
Bảng 2.1 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2008
LSCB LSTCV LSTCK Văn bản quyết định Ngày áp dụng Lãi suất qua đêm
9,5% 8,5% 9,5% 7,5% 3159/QĐ-NHNN 19/12/2008 22-12-2008
11% 10% 11% 9% 2949/QĐ-NHNN 3/12/2008 05-12-2008
12% 11% 12% 10% 2810/QĐ-NHNN 21-11-2008
13% 12% 13% 11% 2561/QĐ-NHNN 3/11/2008 05-11-2008
14% 13% 14% 12% 2318/QĐ-NHNN 20/10/2008 21-10-2008
15% 14% 15% 13% 1316/QĐ-NHNN 10/6/2008 11-06-2008
15% 12% 13% 11% 1099/QĐ-NHNN 16/05/2008 19-05-2008
15% 8,75% 7,5% 6 % 306/QĐ-NHNN 30/1/2008 01-02-2008
Nguồn: NHNN
Từ tháng 7/2008, cơ chế điều hành lãi suất theo hướng thắt chặt nhằm kiềm
chế lạm phát của NHNN trước đây đã tỏ ra hiệu quả khi đã tác động làm CPI có xu
hướng tăng chậm và ổn định qua từng tháng (đã bắt đầu từ tháng 6), đến cuối tháng 9
CPI chỉ tăng 0,18%/năm so với tháng 8 (mức tăng thấp nhất kể từ đầu năm). Cuộc đua
lãi suất cũng có dấu hiệu chững lại khi LSHĐ và LSCV của các NH đã ngừng tăng và
bắt đầu giảm nhẹ. Tuy nhiên, hệ lụy từ lãi suất thị trường không ngừng tăng cao trong
6 tháng đầu năm đã gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động vay vốn
tiến hành sản xuất kinh doanh, làm gia tăng thất nghiệp và mức tăng trưởng kinh tế
-36-
chậm dần. Chưa dừng lại ở đó, vào những tháng cuối năm, cuộc khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế trên toàn cầu đã bắt đầu lây lan sang Việt Nam và gây ảnh hưởng
xấu đến nền kinh tế trong nước: thị trường chứng khoán và bất động sản trở nên ảm
đạm, hàng ngàn doanh nghiệp nhỏ và vừa đã cắt giảm sản xuất và đang đứng trước
nguy cơ phá sản, thất nghiệp tăng cao và tốc độ tăng trưởng sụt giảm. Tốc độ tăng
GDP 9 tháng đầu năm chỉ đạt 6,52%, mức tăng này thấp hơn hẳn so với cùng kỳ năm
ngoái (8,16%) cũng như kết quả của cả năm 2007 (8,48%). Do đó, CSTT từ thắt chặt
được chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng nhằm đẩy mạnh tăng trưởng tín
dụng từ đó góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp và ngăn
ngừa nguy cơ suy giảm kinh tế. Từ 21/10/2008, NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm LSCB
từ 14%/năm xuống còn 8,5%/năm; LSTCV từ 15%/năm xuống còn 9,5%/năm; LSTCK
từ 13%/năm xuống còn 7,5%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử
LNH và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các
NHTM từ 15%/năm xuống còn 9,5%/năm. Kết quả là lãi suất thị trường cũng đã giảm
liên tục cho đến cuối năm (LSHĐ bình quân cuối năm giảm mạnh chỉ còn khoảng 9 –
9,5% so với đỉnh điểm 19% – 20% vào tháng 6). Tuy nhiên hiệu quả truyền dẫn của
CSTT đến nền kinh tế không cao khi tốc độ tăng trưởng GDP cuối năm sụt giảm chỉ
còn 6,18% ( thấp hơn mục tiêu đề ra ban đầu là 8,5% – 9%), tốc độ tăng CPI tháng
12/2008 vẫn còn rất cao, lên tới 19,89% (vượt quá xa so với mục tiêu đặt ra là < 10%).
Tóm lại, năm 2008 mặc dù công tác điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam
chịu nhiều tác động xấu từ bên trong lẫn bên ngoài đất nước, mà đặc biệt là cuộc khủng
hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng cũng đã đạt được một số thành công nhất
định vào những tháng cuối năm, như đã ngăn chặn được cuộc đua lãi suất và kiểm soát
tốt lạm phát (từ 18,44% trong 6 tháng đầu năm chỉ tăng lên 19,89% vào cuối năm).
Thành công đó là nhờ vào việc ban hành cơ chế LSCB đối với VND và điều chỉnh linh
hoạt với tần suất cao các mức lãi suất điều hành (tổng cộng 8 lần). Tuy nhiên, do áp
dụng các biện pháp hành chính không cần thiết như ban hành Công điện 02/2008/CĐ-
-37-
NHNN quy định trần LSHĐ là 12% và kêu gọi các NHTM đồng thuận LSHĐ tối đa
11%, NHNN đã làm trầm trọng thêm cuộc đua lãi suất trong 6 tháng đầu năm.
2.4.2 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2009
Dưới tác động tiêu cực làm suy yếu kinh tế trong nước từ cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã diễn ra từ những tháng cuối năm 2008, mục tiêu
trọng tâm của CSTT cũng như điều hành lãi suất trong năm 2009 được Chính phủ đưa
ra là “phục hồi tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô”.
Các giải pháp điều hành lãi suất nhằm kích thích nền kinh tế tiếp tục được triển
khai như sau: (i) LSCB, LSTCV, LSTCK, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán
điện tử LNH và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN giảm
xuống mức lần lượt là 7%/năm, 8-7%/năm, 6-5%/năm và 8-7%/năm từ 1/2/2009 và giữ
ổn định đến cuối tháng 11/2009; (ii) ban hành cơ chế lãi suất thoả thuận của các
NHTM đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp
vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng theo thông tư số 01/2009TT-NHNN vào ngày
01/02/2009 (các lĩnh vực còn lại vẫn sẽ tiếp tục thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản theo
Quyết định 16/2008/QĐ-NHNN); (iii) triển khai đồng bộ các cơ chế hỗ trợ lãi suất đối
với các khoản vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng VND theo Quyết định số 131/QĐ-
TTg ngày 23/01/2009, Quyết định 443/QĐ-TTg ngày 4/4/2009, Quyết định số
579/QĐ-TTg ngày 6/5/2009 và Công văn số 670/TTg-KTTH ngày 5/5/2009 của Thủ
tướng Chính phủ với lãi suất hỗ trợ là 4%; đi đôi với tăng cường thanh tra, giám sát,
hoàn thiện cơ chế và tháo gỡ các khó khăn vướng mắc liên quan đến cơ chế hỗ trợ lãi
suất.
Đến hết tháng 11/2009, trước xu thế phục hồi của nền kinh tế đã rõ rệt hơn (ước
tính khả năng tăng trưởng kinh tế vào cuối năm có thể trên 5,2% - đạt mục tiêu đề ra
vào đầu năm là 5%), thì NHNN đã chuyển sang quan tâm đến mục tiêu ổn định giá cả
khi thị trường tiền tệ, tín dụng và giá cả thời gian gần đây có nhiều biến động, đặc biệt
là dư nợ tín dụng cần phải có những biện pháp xử lý kịp thời hơn. Tính đến hết tháng
-38-
11/2009, tổng dư nợ tín dụng đã tăng khá cao, tăng 36,08% so với ngày 31/12/2008
trong khi nguồn huy động không kịp đáp ứng dẫn đến việc một số NH nhỏ gặp khó
khăn về thanh khoản và lãi suất trên thị trường đã có xu hướng tăng từ những tháng
cuối năm. Trước tình hình đó, Chính phủ đã quyết định dừng hỗ trợ LSCV ngắn hạn
chỉ đến 31/12/2009 (so với thời gian thực hiện quy định ban đầu là đến hết Quý
1/2010) và bắt đầu thực hiện từ 1/12/2009. Ngoài ra, NHNN cũng điều chỉnh tăng các
mức lãi suất điều hành thêm 1% (trong đó lãi suất OMO cũng tăng từ 7 lên 8%/năm)
bắt đầu từ 1/12/2009 để tạo điều kiện cho các TCTD gia tăng nguồn vốn huy động từ
nền kinh tế và cải thiện thanh khoản. Động thái thắt chặt này của NHNN đã làm lãi
suất trên thị trường tăng mạnh hơn vào cuối năm, tạo xu hướng lãi suất tăng cao vào
đầu năm 2010.
Bảng 2.2 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2009
LSCB LSTCV LSTCK Văn bản áp dụng Lãi suất qua đêm Ngày áp dụng
8% 8% 8% 6% 01-12-2009 2664/QĐ-NHNN 25/11/2009
7% 7% 7% 5% 10-04-2009 837/QĐ-NHNN 10/4/2009
8% 7% 8% 6% 01-02-2009 173/QĐ-NHNN 23/1/2009
Nguồn: NHNN
Như vậy, điều hành lãi suất năm 2009 nhìn chung tương đối ổn định, phù hợp
với diễn biến của thị trường và mục tiêu của CSTT: tăng trưởng kinh tế năm 2009 đạt
5,32% (đạt mục tiêu đề ra là 5%); lạm phát được kiểm soát tốt (6,52%) đạt mục tiêu đề
ra < 15% và giảm đi rất nhiều so với năm 2008 (19,89%).
2.4.3 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2010
Mặc dù điều hành lãi suất hay CSTT của NHNN năm 2009 có kết quả khả
quan, tuy nhiên vẫn còn đó những tồn tại cần phải tiếp tục xử lý trong năm 2010 như:
-39-
tốc độ tăng trưởng kinh vẫn đang bị suy giảm nhiều so với những năm trước đó; lãi
suất thị trường đang có xu hướng tăng nhanh. Nên từ đầu năm đến tháng 10/2010,
trước tình hình kinh tế thế giới đang dần hồi phục, Chính phủ đã giao cho NHNN
nhiệm vụ là điều hành giảm dần mặt bằng lãi suất thị trường, góp phần tăng trưởng
kinh tế theo các Nghị quyết 18/NQ-CP ngày 6/4/2010, Nghị quyết 23/NQ-CP ngày
7/5/2010 và Nghị quyết 39/NQ-CP ngày 4/10/2010.
Để đạt được mục tiêu trên, NHNN đã thực hiện các biện pháp điều hành lãi
suất theo hướng CSTT nới lỏng, như sau: (i) duy trì các mức lãi suất điều hành như
LSCB, LSTCV, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử LNH và cho vay bù
đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN ở mức 8%/năm, LSTCK ở mức 7%
cho đến hết tháng 10/2010; lãi suất OMO được điều chỉnh giảm dần; (ii) thực hiện cơ
chế lãi suất cho vay thỏa thuận đối với VND theo Thông tư 07/2010/TT-NHNN ngày
26/02/2010 (không áp dụng đối với cho vay ngắn hạn phục vụ sản xuất kinh doanh), và
sau đó là Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/04/2010, được áp dụng đối với tất cả
các khoản vay.
Kết quả của chính sách “nới lỏng” trên đã có chiều hướng tốt khi từ tháng 5
đến tháng 10 lãi suất thị trường đã giảm dần, qua đó kích thích gia tăng tiêu dùng, đầu
tư và vay vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đẩy tốc độ tăng GDP 9 tháng đầu
năm đạt 6,52% so với cùng kỳ năm 2009 (cao hơn 120 điểm % so với kết quả đạt được
vào cuối năm 2009 là 5,32%). Tuy nhiên nền kinh tế vẫn còn nhiều bất ổn do ảnh
hưởng từ biến động kinh tế thế giới 2008 – 2009, kết hợp với tác động từ chính sách
nới lỏng trong điều hành CSTT của NHNN khiến lạm phát không ổn định, đang ngày
càng leo thang và có xu hướng tăng cao vào cuối năm. CPI sau khi đột ngột giảm trong
đầu quý 2 thì cuối quý 3 lại đột ngột tăng cao đã làm cho CPI 9 tháng đầu năm lên đến
6,46% so với tháng 12/2009 (gần bằng mức 6.52% của cả năm 2009).
Trước tình hình đó, từ tháng 11/2010 theo Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày
9/11/2010, nhiệm vụ trọng tâm của NHNN là điều hành CSTT theo tín hiệu thị trường
-40-
để kiểm soát lạm phát. Từ tháng 5/11/2010, NHNN đã điều chỉnh tăng 1% các mức lãi
suất chủ chốt, cụ thể: LSCB, LSTCV, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện
tử LNH và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN lên 9% và
LSTCK lên 7%; ngoài ra, NHNN cũng điều chỉnh tăng 1-2%/năm lãi suất OMO. Chịu
tác động từ động thái tăng lãi suất điều hành của NHNN, lãi suất trên thị trường tăng
cao trong tháng 11, và một kịch bản được lập lại như cuộc đua lãi suất ở giai đoạn đầu
năm 2008, các NHTM vừa và nhỏ với tiềm ẩn yếu kém trong thanh khoản, đã đẩy lãi
suất LNH tăng cao, lên đến 18-20%, và mở đầu cho cuộc đua LSHĐ ở cuối năm 2010.
Nhằm ngăn chặn LSHĐ tăng cao ảnh hưởng đến LSCV và sau đó là khả năng hồi phục
kinh tế, đầu tháng 12, với sự đồng thuận của VNBA, NHNN đã chỉ đạo các NHTM ấn
định LSHĐ bằng VND không quá 14%/năm, đã bao gồm các chương trình khuyến mãi
và cộng thưởng đi kèm. Với biện pháp hành chính được đưa ra như vậy, thì đối với một
hệ thống NH còn nhiều yếu kém, chủ yếu là các NHTM vừa và nhỏ lại ẩn chứa rủi ro
thanh khoản cao như nước ta, thì biện pháp này lại thất bại như năm 2008. Kết quả là
LSHĐ vẫn tiếp tục tăng và vượt trần làm LSCV cũng tăng cao gây khó khăn cho tình
hình thanh khoản và các hoạt động kinh tế. Mặt khác trước tình hình tỷ lệ lạm phát
tháng 11 đã cao hơn dự kiến, đáng lẽ NHNN phải có động thái điều chỉnh tăng các mức
lãi suất chủ chốt để khắc phục thì NHNN lại giữ nguyên các mức lãi suất này cho đến
hết năm. Kết quả là khiến lạm phát cuối năm 2010 lên đến 11,75% (cao hơn gần gấp
đôi so với 2009).
Bảng 2.3 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2010
Lãi suất qua đêm LSCB LSTCV LSTCK Ngày áp dụng
9% 9% 9% 7% Từ 05-11-2010
8% 8% 8% Từ 01-02-2010
6% Nguồn: NHNN
Mặc dù năm 2010 có kết quả thuận lợi là tăng trưởng kinh tế đã hồi phục (đạt
6,78%), điều hành lãi suất đã tự do hóa hơn thông qua việc ban hành cơ chế LSCV
-41-
thỏa thuận. Tuy nhiên điều hành lãi suất của NHNN vẫn còn mang nặng tính hành
chính và chứa đựng nhiều bất ổn khi đã khiến lạm phát tăng cao và không ngăn chặn
được cuộc đua lãi suất của các NH.
2.4.4 Thực trạng điều hành lãi suất năm 2011
Theo Luật NHNN năm 2010 có hiệu lực từ 1/1/2011 thì mục tiêu cao nhất,
mục tiêu cuối cùng của CSTT là: “Ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm
phát”. Như vậy, NHNN đã chuyển hướng từ CSTT đa mục tiêu ở thời kỳ 1998 – 2010
(theo Luật NHNN năm 1997 có hiệu lực từ 1998) sang CSTT đơn mục tiêu. Đây là sự
đổi mới, hoàn thiện đúng hướng của NHNN phù hợp với các chuẩn mực của quốc tế.
Ngay từ đầu năm 2011, theo chỉ đạo của Chính phủ (Nghị quyết số 11/NĐ-CP
ban hành ngày 24/02/2011), NHNN đã tiếp tục thực hiện CSTT thắt chặt để ưu tiên
kiềm chế lạm phát. Theo đó, NHNN đã điều chỉnh tăng 5 lần LSTCV và lãi suất cho
vay qua đêm trong thanh toán điện tử LNH và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh
toán bù trừ của NHNN, điều chỉnh tăng 3 lần LSTCK bắt đầu từ 17/02/2011 đến
10/10/2011. Ngoài ra, trước tình hình cuộc đua lãi suất đã bắt đầu từ cuối năm 2010
vẫn đang diễn ra và có xu hướng tăng cao, ngày 03/03/2011 NHNN đã ban hành Thông
tư 02/2011/TT-NHNN quy định về mức trần LSHĐ là 14% cho các NHTM nhằm kiểm
soát chặt chẽ mức LSHĐ đầu vào của các NH từ đó hướng đến mục tiêu giảm LSCV
cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, Thông tư này của NHNN lại không quy định rõ là áp
dụng cho kỳ hạn nào nên đã khiến cho một số NHTM “lách luật” bằng cách áp dụng
mức lãi suất 14%/năm đối với cả các khoản tiền gửi kỳ hạn ngắn như ngày, tuần, khiến
cho lãi suất thực tế lên cao hơn 14%/năm. Mặt khác, với thực trạng muôn thuở chưa
được giải quyết đó là khả năng thanh khoản yếu kém và cạnh tranh không lành mạnh
của các NHTM, mà đặc biệt là các NHTM vừa và nhỏ mà biện pháp hành chính năm
2011 lại một lần nữa tiếp nối thất bại như những tháng đầu năm 2008 và cuối năm
2010. LSHĐ của các NHTM vẫn tiếp tục vượt trần và ngày càng tăng cao, lên đến đỉnh
điểm khoảng 18% vào những tháng giữa năm và kéo dài cho đến hết tháng 9.
-42-
Bảng 2.4 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2011
LSTCV LSTCK Văn bản quyết định Ngày áp dụng Lãi suất qua đêm
16% 15% 13% 10-10-2011 2210/QĐ-NHNN 06/10/2011
14% 14% 13% 01-05-2011 929/QĐ-NHNN 29/4/2011
13% 13% 12% 01-04-2011 692/QĐ-NHNN 31/3/2011
12% 12% 12% 08-03-2011 379/QĐ-NHNN 8/3/2011
11% 11% 7% 17-02-2011 271/QĐNHNN 17/02/2011
Nguồn: NHNN
Nhằm giải quyết tình trạng vượt trần LSHĐ của các NHTM, ngày 28/9/2011
NHNN đã phải bổ sung Thông tư số 30/2011-TT-NHNN về quy định lãi suất tiền gửi
tối đa bằng VND của tổ chức, cá nhân tại các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
trong đó có quy định rõ: lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ
hạn dưới 1 tháng là 6%/năm. Lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1
tháng trở lên là 14%/năm thì cuộc đua lãi suất mới có dấu hiệu thuyên giảm và không
vượt trần lãi suất như những tháng trước đó.
Mặt khác, với cơ chế LSCV thỏa thuận đang được áp dụng, thì việc LSHĐ của
các NH tăng cao, vượt xa so với mức trần của NHNN trong 9 tháng đầu năm đã làm
mặt bằng LSCV trong thời gian này bị đẩy lên theo đã gây ra nhiều khó khăn cho các
doanh nghiệp trong việc trả nợ cũng như tiếp cận vốn vay mới, hệ quả tất yếu là các
doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và ảnh hưởng xấu đến tổng cầu. Mặc dù
LSCV đã bắt đầu giảm vào 3 tháng cuối năm nhưng sự sụt giảm này là không đáng kể.
Tốc độ tăng GDP cuối năm 2011 do đó đã sụt giảm so với năm 2010, chỉ còn 5,89%.
Vấn đề đáng nói trong điều hành lãi suất và CSTT trong năm 2011 không phải
-43-
chỉ là ở sụt giảm trong GDP, vì mục tiêu quan tâm hàng đầu, mục tiêu duy nhất trong
năm 2011 được Chính phủ và NHNN đặt ra là kiểm soát lạm phát chứ không phải là
mục tiêu tăng trưởng. Lạm phát trong năm 2011 đã liên tục tăng cao và khó kiểm soát
từ những tháng đầu năm. Lạm phát vào tháng 5/2011 so với tháng 12/2010 đã là
12,07%, vượt mức lạm phát 11,75% của năm 2010. Đến cuối năm 2011, CPI đã lên
đến 18,13%, cao gần bằng với mức 19,89% của năm lạm phát cao đỉnh điểm 2008.
2.4.5 Thực trạng điều hành lãi suất năm 2012
Theo những mục tiêu mà Quốc hội đề ra từ 3/12/2011 theo Nghị quyết số
11/2011/QH13 là kiềm chế lạm phát trong năm 2012 < 10% và tốc độ tăng trưởng kinh
tế ở mức 6 – 6,5%, đầu năm 2012 NHNN đã chủ trương tiếp tục điều hành CSTT theo
hướng thắt chặt nhưng thận trọng và linh hoạt, tránh gây ra cú sốc làm tăng cao lãi suất
thị trường như những tháng đầu năm 2011. Các mức lãi suất chủ chốt do đó vẫn được
thận trọng giữ nguyên trong 2 tháng đầu năm mặc dù tốc độ tăng giá đã giảm mạnh.
Trước xu hướng giảm của lạm phát và trạng thái thanh khoản ở một số NH lớn đã dần
được cải thiện trong khi các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động
sản xuất kinh doanh vì khó tiếp cận được vốn vay từ phía các NHTM do mặt bằng lãi
suất quá cao, NHNN đã ban hành Chỉ thị 01/CT-NHNN vào ngày 13/02/2012, trong đó
xác định rõ nhiệm vụ quan trọng cần phải thực hiện trong năm 2012 là: “giảm lãi suất
thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tiếp cận vốn kinh
doanh”. Đầu tháng 3/2012 NHNN đã mạnh dạn giảm đồng loạt 1% các mức lãi suất
điều hành (trừ LSCB) để hạ nhiệt lãi suất thị trường và giảm bớt căng thẳng thanh
khoản của các NHTM vừa và nhỏ đã tồn tại từ cuối năm 2011 và tiếp tục kéo dài sang
đầu năm 2012. Kết quả khích lệ khi lãi suất thị trường đã bắt đầu hạ nhiệt, thanh khoản
của một số NH đã dần được cải thiện trong khi lạm phát cũng sụt giảm từ mức 18,14%
cuối năm 2011 xuống còn 14,15% trong tháng 3/2012.
Trước tình hình khả quan trong quý 1/2012, ngày 11/4 NHNN đã linh hoạt khi
tiếp tục giảm 1% các mức lãi suất điều hành để theo kịp diễn biến kinh tế vĩ mô (lạm
-44-
phát đang có xu hướng giảm ổn định) và thực hiện mục tiêu giảm lãi suất thị trường, hỗ
trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngoài ra, để hỗ trợ cải thiện
thanh khoản cho các TCTD, từ đó góp phần thực hiện nhiệm vụ giảm lãi suất, ổn định
thị trường, từ đầu tháng 4 NHNN cũng đã điều chỉnh giảm trần LSHĐ.
Tổng cộng trong năm 2012 NHNN đã 6 lần điều chỉnh giảm các mức lãi suất
điều hành và 5 lần điều chỉnh giảm trần LSHĐ. Trong đó, LSTCK giảm từ 13-12-11-
10-9-8-7%/năm, LSTCV giảm từ 15-14-13-12-11-10-9%/năm, lãi suất cho vay qua
đêm trong thanh toán điện tử LNH và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ
của NHNN giảm từ 16-15-14-13-12-11-10%/năm, trần LSHĐ giảm từ 14-13-12-11-9-
8%/năm (mức 9% và 8% được áp dụng đối với tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng). Ngoài
ra, từ 8/6/2012 NHNN đã cho phép các NHTM tự quyết định LSHĐ từ 12 tháng trở lên
(theo thông tư 19/2012/TT-NHNN). Điều này đã hỗ trợ các NHTM rất nhiều trong việc
gia tăng nguồn vốn huy động và cải thiện thanh khoản, từ đó giảm LSHĐ tạo điều kiện
giảm LSCV hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, mặc dù LSCV đã sụt
giảm so với năm 2011, nhưng đa số các doanh nghiệp vẫn chưa tiếp cận được vốn vay
do LSCV vẫn còn rất cao và bản thân tình trạng của các doanh nghiệp vẫn còn rất
nhiều khó khăn và yếu kém nên không thể đáp ứng được điều kiện cho vay vốn từ phía
NH. Điều này đã làm ảnh hưởng đến khả năng phục hồi của nền kinh tế khi GDP 6
tháng đầu năm 2012 ở mức thấp so với kỳ vọng, chỉ đạt 4,38% do nhiều ngành và lĩnh
vực gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm.
Bảng 2.5 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2012
LSTCV LSTCK Văn bản quyết định Ngày áp dụng Lãi suất qua đêm
10% 9% 7% 2646/QĐ-NHNN 24-12-2012
11% 10% 8% 01-07-2012 1289/QĐ-NHNN 29/6/2012
12% 11% 9% 11-06-2012 1196/QĐ-NHNN 8/6/2012
-45-
13% 12% 10% 28-05-2012 1081/QĐ-NHNN 25/5/2012
14% 13% 11% 11-04-2012 693/QĐ-NHNN 10/4/2012
15% 14% 12% 13-03-2012 407/QĐ-NHNN 12/3/2012
Nguồn: NHNN
Trước tình hình đó, nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh
doanh hiệu quả và khơi thông dòng vốn, NHNN cũng đã có công văn đề nghị các NH
rà soát các khoản vay cũ và điều chỉnh giảm lãi suất các khoản vay cũ xuống còn
15%/năm từ ngày 15/07/2012. Ngoài ra, từ ngày 4/5/2012 NHNN đã ban hành Thông
tư số 14/2012/TT-NHNN quy định mức trần LSCV áp dụng đối với 4 lĩnh vực ưu tiên
gồm: các khoản cho vay nhằm đáp ứng các nhu cầu vốn phục vụ lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn; thực hiện phương án, dự án sản xuất - kinh doanh hàng xuất khẩu; phục vụ
sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; phát triển ngành công nghiệp hỗ
trợ. Theo đó, LSCV ngắn hạn bằng VND đối với 4 lĩnh vực ưu tiên tối đa bằng (=) lãi
suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND có kỳ hạn từ 1 tháng trở lên do NHNN quy định
cộng (+) 3%/năm). Mức trần LSCV ngắn hạn theo biên độ này được điều chỉnh giảm
dần kể từ mốc 15%/năm ngày 4/5/2012 xuống 14%/năm vào ngày 28/05/2012. Ngày
11/06/2012, căn cứ theo Thông tư 20/2012/TT-NHNN ban hành ngày 8/6/2012,
NHNN đã chuyển sang áp dụng trần LSCV ngắn hạn cố định là 13%/năm đối với 4
lĩnh vực ưu tiên, đến 24/12/2012 giảm còn 12%/năm (Thông tư 33/2012/TT-NHNN)
Như vậy, năm 2012, với việc chuyển hướng điều hành CSTT với mục tiêu
trung gian là lãi suất (giảm lãi suất thị trường) chứ không phải kiểm soát khối lượng
hay tín dụng như những năm trước đây, NHNN đã thành công khi điều hành lãi suất
linh hoạt theo kịp diễn biến kinh tế vĩ mô, lãi suất thị trường biến động ổn định theo xu
hướng giảm dần và LSHĐ, LSCV của các TCTD năm 2012 đã giảm hơn nhiều so với
năm 2011, lạm phát năm 2012 cũng được kiểm soát tốt ở mức 6.81%/năm đã tạo một
-46-
tín hiệu khả quan cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, sự ra đời cơ chế lãi suất thỏa thuận đối
với LSHĐ vốn trên 12 tháng và LSCV trung dài hạn là bước đi phù hợp, tạo điều kiện
cho các NHTM hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thương mại và thị trường. Tuy
nhiên, do sức cầu yếu kém, khả năng hấp thụ vốn thấp mà tốc độ tăng trưởng kinh tế
năm 2012 lại tiếp tục sụt giảm, chỉ còn 5,03% (thấp hơn so với mục tiêu đề ra 6-6,5%).
2.4.6 Thực trạng điều hành lãi suất 6 tháng đầu năm 2013
Bước sang năm 2013, nhờ vào việc thực hiện giảm LSHĐ và cho vay VND
trong năm 2012 đã tạo ra những tác động tích cực cho điều hành lãi suất năm 2013.
Theo định hướng, NHNN sẽ điều hành các mức lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế
vĩ mô, tiền tệ, đặc biệt là diễn biến của lạm phát. Tiếp tục áp dụng trần LSHĐ bằng
VND để ổn định mặt bằng lãi suất thị trường, sẽ xem xét bỏ trần LSHĐ khi thị trường
tiền tệ ổn định và thanh khoản của hệ thống TCTD cải thiện vững chắc. Nếu lạm phát
của năm 2013 được kiểm soát ở mức thấp hơn năm 2012, NHNN sẽ tiếp tục điều hành
theo hướng giảm mặt bằng lãi suất phù hợp với diễn biến lạm phát.
Thực tế cho thấy, diễn biến lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế qua 6 tháng
đầu năm ở mức hợp lý so với mục tiêu đề ra. Cụ thể: GDP 6 tháng đầu năm tăng 4,9%
so với cùng kỳ (mục tiêu cả năm là 5,5%), CPI 6 tháng đầu năm tăng 6,69% so với
cùng kỳ (mục cả năm là 8%). Vì vậy các biện pháp điều hành lãi suất trong 6 tháng đầu
năm đã thể hiện được tính chủ động hướng tới những mục tiêu đã định và được điều
chỉnh linh hoạt sát với các diễn biến kinh tế vĩ mô, thể hiện ở những mặt sau:
Lãi suất trên thị trường tiếp tục xu hướng giảm, ổn định phù hợp với định
hướng điều hành CSTT của NHNN. Trong 6 tháng đầu năm 2013, NHNN đã 2 lần điều
chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành như LSTCV, LSTCK, lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử LNH và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ
của NHNN đối với các NH, lãi suất OMO cũng được điều chỉnh giảm liên tục. Diễn
biến lãi suất trên thị trường LNH theo sát với lãi suất chỉ đạo của NHNN và giảm
-47-
mạnh. Qua đó cho thấy, tính thanh khoản của các TCTD ngày càng ổn định, vai trò của
NHNN trong dẫn dắt thị trường ngày càng thể hiện rõ rệt.
Bảng 2.6 Tình hình biến động lãi suất điều hành 6 tháng đầu năm 2013
LSTCV LSTCK Văn bản quyết định Ngày áp dụng Lãi suất qua đêm
8% 7% 5% 1073/QĐ-NHNN 13-05-2013
9% 8% 6% 26-03-2013 643/QĐ-NHNN 25/3/2013
Nguồn: NHNN
Đối với các mức lãi suất trên thị trường cũng theo sát sự điều hành của NHNN.
Ngay từ quý I/2013, NHNN đã ban hành Thông tư số 08/2013/TT-NHNN giảm 0,5%
trần lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng (8%/năm xuống
7,5%/năm), lãi suất tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên sẽ do các TCTD tự ấn định trên
cơ sở cung cầu vốn trên thị trường. Tiếp đó, NHNN ban hành Thông tư số 15/2013/TT
– NHNN vào ngày 27/6/2013 tiếp tục giảm 0,5% trần lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn từ 1
tháng đến dưới 6 tháng (7,5%/năm xuống 7%/năm), lãi suất tiền gửi kỳ hạn từ 6 tháng
trở lên sẽ do các TCTD tự ấn định trên cơ sở cung cầu vốn trên thị trường.Bên cạnh
việc giảm trần LSHĐ, trong 6 tháng đầu năm 2013, NHNN đã 3 lần điều chỉnh giảm
LSCV ngắn hạn tối đa với một số lĩnh vực ưu tiên từ 11%/năm xuống còn 9%/năm
thông qua việc ban hành các Thông tư số 09/2013/ TT-NHNN ngày 25/3/2013, Thông
tư số 10/2013/ TT-NHNN ngày 10/5/2013 và Thông tư số 16/2013/ TT-NHNN ngày
27/6/2013.
Qua tình hình 6 tháng đầu năm 2013 cho thấy dấu hiệu khả quan trong điều
hành lãi suất của NHTW, mặc dù trần LSHĐ chưa được gỡ bỏ như định hướng nhưng
tình hình thanh khoản ngày càng ổn định và việc giảm bớt trần lãi suất tiền gửi và trần
LSCV đối với một số lĩnh vực ưu tiên là có cơ sở để tin tưởng vào một cơ chế điều
hành lãi suất ổn định cho thời gian còn lại của năm.
-48-
2.5 Đánh giá thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam
giai đoạn 2008 đến tháng 6/2013
Qua những phân tích về thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt
Nam giai đoạn 2008 – tháng 6/2013. Tác giả có một số nhận định và đánh giá như sau:
2.5.1 Những kết quả đạt đƣợc
Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN trong giai đoạn 2008 – tháng 6/2013 đã
phát huy được những mặt tích cực sau đây:
Thứ nhất, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN ngày càng linh hoạt trước
những biến động của nền kinh tế thế giới cũng như diễn biến kinh tế vĩ mô trong nước.
Trong suốt thời gian qua, trước những biến động không ngừng của kinh tế thế
giới cũng diễn biến kinh tế vĩ mô trong nước (dấu hiệu của lạm phát và khả năng hồi
phục tăng trưởng kinh tế), NHNN đã có những điều chỉnh rất linh hoạt và thận trọng
các mức lãi suất điều hành sao cho phù hợp với diễn biến của nền kinh tế.
Đồ thị 2.2 Diễn biến các mức lãi suất điều hành của NHNN từ năm 2008
LSTCK
LSTCV
LSCB
Lãi suất qua đêm
Lãi suất OMO
18% 16% 14% 12% 10% 8% 6% 4% 2% 0%
3 1 0 2 / 5 T
8 0 0 2 / 1 T
8 0 0 2 / 3 T
8 0 0 2 / 5 T
8 0 0 2 / 7 T
8 0 0 2 / 9 T
9 0 0 2 / 1 T
9 0 0 2 / 3 T
9 0 0 2 / 5 T
9 0 0 2 / 7 T
9 0 0 2 / 9 T
0 1 0 2 / 1 T
0 1 0 2 / 3 T
0 1 0 2 / 5 T
0 1 0 2 / 7 T
0 1 0 2 / 9 T
1 1 0 2 / 1 T
1 1 0 2 / 3 T
1 1 0 2 / 5 T
1 1 0 2 / 7 T
1 1 0 2 / 9 T
2 1 0 2 / 1 T
2 1 0 2 / 3 T
2 1 0 2 / 5 T
2 1 0 2 / 7 T
2 1 0 2 / 9 T
3 1 0 2 / 1 T
3 1 0 2 / 3 T
2 1 0 2 / 1 1 T
8 0 0 2 / 1 1 T
9 0 0 2 / 1 1 T
0 1 0 2 / 1 1 T
1 1 0 2 / 1 1 T
đến tháng 6/2013
Nguồn : Tổng hợp từ website của NHNN
Theo dõi Đồ thị 2.2 có thể thấy vào năm 2008, khi lạm phát có xu hướng tăng
-49-
cao và khó kiểm soát vào những tháng đầu năm, NHNN đã điều chỉnh tăng 3 lần các
mức lãi suất chủ chốt (gồm LSCB, LSTCV, LSTCK, lãi suất cho vay qua đêm trong
thanh toán điện tử LNH) để phát tín hiệu thắt chặt tiền tệ, kiểm soát lạm phát, và khi
tốc độ tăng giá đã có biểu hiện sụt giảm từ tháng 6 cho đến tháng 10, trước viễn cảnh
nền kinh tế đang chịu ảnh hưởng nặng từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế toàn cầu làm tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm, NHNN đã lập tức điều chỉnh giảm
các mức lãi suất chủ chốt (5 lần) để ngăn chặn nguy cơ suy thoái kinh tế. Kết quả là
năm 2008 với tần suất 8 lần điều chỉnh tăng giảm các mức lãi suất chủ chốt, không
những lạm phát được kiểm soát tốt từ tháng 6 cho đến cuối năm (từ mức 18,44% trong
6 tháng đầu năm chỉ tăng lên 19,89% vào cuối năm), mà nước ta cũng không bị suy
giảm kinh tế nặng nề như các nước khác trên thế giới. Năm 2012 đến 6 tháng đầu năm
2013, cũng là một minh chứng cho sự điều hành linh hoạt lãi suất của NHNN. Đặc biệt,
năm 2012, khi mặc dù kết quả lạm phát năm trước (2011) ở mức rất cao (11,83%),
nhưng sau 2 tháng đầu năm, đứng trước diễn biến lạm phát sẽ có xu hướng giảm tiếp
tục trong thời gian tới, NHNN đã mạnh dạn điều chỉnh giảm thận trọng các mức lãi
suất chủ chốt – trừ LSCB (6 lần điều chỉnh, mỗi lần điều chỉnh giảm 1%) để giảm lạm
phát mà vẫn đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, tránh gây cú sốc cho thị trường
và kết quả đạt được trong điều hành lãi suất ở năm 2012 là một thành tựu lớn của
NHNN.
Mặt khác, việc điều chỉnh linh hoạt công cụ lãi suất OMO hay nghiệp vụ OMO
với tần suất ngày càng nhiều hơn và tăng, giảm theo đúng xu thế biến động của các
mức lãi suất chủ chốt trong quá trình điều hành lãi suất là một quyết sách đúng đắn của
NHNN, phù hợp theo mô hình điều hành lãi suất mà NHTW ở hầu hết các quốc gia
phát triển đang áp dụng và đạt hiệu quả cao. Vì thị trường mở với đặc điểm giống như
thị trường LNH đều là nơi hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM, nên việc điều chỉnh linh
hoạt công cụ lãi suất OMO theo diễn biến thị trường sẽ có tác dụng ổn định thanh
khoản từ đó hỗ trợ điều tiết lãi suất thị trường (lãi suất LNH, LSHĐ, LSCV) theo đúng
-50-
tín hiệu điều hành lãi suất mà NHNN đưa ra. Bên cạnh đó, tác dụng ưu việt khác của
nghiệp vụ OMO đó là giúp các NHNN kiểm soát tốt lạm phát nếu NHNN biết cách tiết
chế cân đối việc “bơm” và “hút” tiền từ thị trường mở trong quá trình hỗ trợ thanh
khoản hay điều tiết lãi suất thị trường. Vì hai nhiệm vụ quan trọng là hỗ trợ thanh
khoản và dẫn dắt lãi suất thị trường biến động theo đúng tín hiệu điều hành của NHNN
mà công cụ lãi suất OMO thậm chí được điều tiết linh hoạt với tần suất nhiều hơn các
mức lãi suất điều hành khác. Điển hình là năm 2008, lãi suất OMO được điều chỉnh
(tăng giảm theo sự biến động của các lãi suất chủ chốt) đến 11 lần, năm 2012 là 6 lần
và chỉ trong 6 tháng đầu năm 2013, lãi suất OMO đã được điều chỉnh đến 6 lần để điều
tiết lãi suất thị trường theo chủ trương của NHNN.
Đồ thị 2.3 Diễn biến lãi suất OMO, LSHĐ bình quân và LSCV bình quân
Lãi suất LNH (1 tháng)
Lãi suất OMO
LSCV
LSHĐ
25.00%
20.00%
15.00%
10.00%
5.00%
0.00%
01/01/2008
01/01/2009
01/01/2010
01/01/2011
01/01/2012
01/01/2013
từ năm 2008 đến tháng 6/2013
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên đăng trên website của NHNN
Như vậy, với việc điều hành linh hoạt chính sách lãi suất của NHNN, lãi suất đã
ngày càng phát huy tốt vai trò là công cụ quan trọng của CSTT, góp phần điều hành
CSTT và nền kinh tế vĩ mô theo sát mục tiêu đã đề ra trong từng thời kỳ.
Thứ hai, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN đang ngày càng tiến dần đến “tự
do hóa lãi suất”.
-51-
Như chúng ta đã biết lợi ích của cơ chế tự do hóa lãi suất mà hiện nay các quốc
gia phát triển đang thực hiện đó là sẽ tạo sự bình đẳng về quyền lợi trong quan hệ giữa
NH và khách hàng, từ đó góp phần tạo ra một thị trường tiền tệ hiệu quả và ổn định
hơn, giúp quá truyền tải các tín hiệu chính sách lãi suất và tác động đến nền kinh tế
theo một cơ chế tự động và nhanh chóng hơn. Thực tế cho thấy trong suốt thời gian
qua, NHNN đã giảm dần các rào cản lãi suất, giúp lãi suất ngày càng mang tính thị
trường, hình thành theo đúng quy luật cung – cầu và hội nhập với thông lệ quốc tế:
Bảng 2.7 Cơ chế điều hành lãi suất thỏa thuận của NHNN
từ năm 2008 đến tháng 6/2013
Văn bản pháp luật
Cơ chế lãi suất thỏa thuận
Ngày
Số hiệu
Lãi suất huy động
Lãi suất cho vay
QĐ 546/2002/
30/5/02
Được thỏa thuận
Được thỏa thuận
QĐ-NHNN
26/02/08
02/CĐ-NHNN Quy định trần LSHĐ là 12%
Được thỏa thuận
QĐ 16/2008/
Được thỏa thuận nhưng khống chế
Được thỏa thuận nhưng khống chế
16/5/08
QĐ-NHNN
không vượt quá 150% LSCB
không vượt quá 150% LSCB.
Được thỏa thuận nhưng khống chế
không vượt quá 150% LSCB. Riêng
TT
Được thỏa thuận nhưng khống chế
23/1/09
01/2009/TT-
đối với cho vay phục vụ đời sống và
không vượt quá 150% lãi suất cơ bản
cho vay thông qua phát hành thẻ tín
NHNN
dụng thì được thỏa thuận lãi suất
Được thỏa thuận nhưng đối với cho
TT
Được thỏa thuận nhưng khống chế
vay ngắn hạn phục vụ sản xuất kinh
26/2/10
07/2010/TT-
không vượt quá 150% LSCB
doanh thì vẫn bị khống chế không vượt
NHNN
quá 150% LSCB
TT
Được thỏa thuận nhưng khống chế
Được thỏa thuận đối với tất cả các
14/4/10
12/2010/TT-
không vượt quá 150% LSCB
khoản vay.
NHNN
Được thỏa thuận nhưng tối đa không
TT
03/3/11
Được thỏa thuận đối với tất cả các
02/2011/TT-
được vượt quá 14%/năm. Trần LSHĐ
khoản vay
NHNN
có xu hướng giảm dần.
Được thỏa thuận đối với tất cả các
khoản vay ngoài LSCV ngắn hạn đối
TT
Được thỏa thuận nhưng tối đa không
với 4 lĩnh vực ưu tiên. Trong đó, áp
4/5/2012
14/2012/TT-
được vượt quá 12%/năm. Trần LSHĐ
dụng trần LSCV ngắn hạn theo biên độ
NHNN
theo xu hướng giảm dần
(LSCV = LSHĐ + 3%/năm) đối với 4
lĩnh vực ưu tiên.
Được thỏa thuận đối với tất cả các
Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở
khoản vay ngoài LSCV ngắn hạn đối
TT
lên do TCTD ấn định trên cơ sở cung
với 4 lĩnh vực ưu tiên.
19/2012/TT-
cầu vốn thị trường.
Áp dụng trần LSCV ngắn hạn cố định
8/6/2012
NHNN và TT
Áp dụng trần LSHĐ 9%/năm cho kỳ
13%/năm đối với 4 lĩnh vực ưu tiên
20/2012/TT-
kỳ hạn dưới 12 tháng (TT 19/2012/TT-
(TT 20/2012/TT-NHNN). Có xu hướng
NHNN
NHNN). Có xu hướng giảm dần
giảm dần
Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 6 tháng trở
Được thỏa thuận đối với tất cả các
TT
lên do TCTD ấn định trên cơ sở cung
khoản vay ngoài LSCV ngắn hạn đối
15/2013/TT-
cầu vốn thị trường.
với 4 lĩnh vực ưu tiên.
27/6/13
NHNN và TT
Áp dụng trần LSHĐ 7%/năm cho kỳ
Áp dụng trần LSCV ngắn hạn cố định
16/2013/TT-
kỳ hạn dưới 6 tháng (TT 15/2013/TT-
9%/năm đối với 4 lĩnh vực ưu tiên (TT
NHNN
NHNN).
16/2013/TT-NHNN).
Nguồn : Tổng hợp từ website của NHNN
-52-
Qua Bảng 2.7 cho thấy trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến tháng 6/2013,
tiến trình tự do hóa lãi suất đã được NHNN thận trọng thực hiện nới lỏng từng bước, từ
giữa tháng 5/2008 khi lãi suất kinh doanh của NH (LSHĐ và LSCV) ở tất cả các đối
tượng và kỳ hạn đều bị giới hạn “trần” là 150% LSCB do NHNN công bố (theo Quyết
định số 16/2008/QĐ-NHNN), thì sau hơn 5 năm nới lỏng và bãi bỏ dần các mức “trần”
lãi suất kinh doanh, hiện nay (đến cuối tháng 6/2013), cơ chế thỏa thuận lãi suất đã
được thực hiện ở hầu hết các đối tượng và kỳ hạn, chỉ còn áp mức “trần” LSHĐ là
7%/năm cho kỳ hạn dưới 6 tháng (theo Thông tư 15/2013/TT-NHNN) và mức “trần”
LSCV là 9%/năm đối với 4 lĩnh vực ưu tiên mà thôi (theo Thông tư 16/2013/TT-
NHNN). Việc giảm trần lãi suất một cách thận trọng chứ không thực hiện cơ chế tự do
hóa lãi suất hoàn toàn được xem là một quyết sách đúng đắn của NHNN vì thực tế ở
-53-
nước ta thị trường tiền tệ chưa ổn định, hệ thống NH còn nhiều bất ổn, cơ cấu chủ yếu
là các NHTM vừa và nhỏ có năng lực tài chính yếu kém, thường xuyên gặp rủi ro
thanh khoản, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh làm lãi suất thị trường có nhiều thời
điểm biến động không theo đúng với mục tiêu điều hành của NHNN. Vì vậy nếu thực
hiện cơ chế tự do hóa lãi suất hoàn toàn sẽ rất khó rà soát và phát hiện những NH yếu
kém, dễ xảy ra rối loạn cho thị trường tiền tệ từ đó làm giảm hiệu quả truyền dẫn của
chính sách lãi suất đến nền kinh tế.
Thứ ba, dưới tác động của cơ chế điều hành lãi suất hiệu quả trong thời gian
gần đây (cuối năm 2011 đến tháng 6/2013), lãi suất thị trường đang có xu hướng giảm
dần và ổn định, tạo điều kiện đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý nhưng vẫn
kiểm soát được lạm phát.
Đồ thị 2.4 Diễn biến các mức lãi suất điều hành, LSHĐ bình quân
25.00%
LSHĐ
LSTCV
LSCV
LSTCK
Lãi suất qua đêm
Lãi suất OMO
20.00%
15.00%
10.00%
5.00%
0.00%
và LSCV bình quân từ năm 2008 đến tháng 6/2013
Nguồn NHNN
Có thể nói giai đoạn từ cuối năm 2011 đến tháng 6/2013, sau khi đã tích lũy
được những kinh nghiệm của giai đoạn trước, thì cơ chế điều hành lãi suất đã tỏ ra hiệu
quả hơn khi những động thái điều hành lãi suất của NHNN đã tác động rõ nét và gắn
-54-
chặt với lãi suất thị trường, từ đó góp phần truyền dẫn tốt hơn đến các biến số vĩ mô
của nền kinh tế. Biểu hiện là lãi suất thị trường trong giai đoạn 2012 – tháng 6/2013
như lãi suất LNH, LSHĐ và LSCV đã biến động xoay quanh và tăng giảm theo sự thay
đổi của các mức lãi suất điều hành của NHNN (Đồ thị 2.3 và Đồ thị 2.4), phù hợp với
chủ trương của NHNN là giảm lãi suất thị trường với xu hướng ổn định nhằm hỗ trợ
cho hoạt động kinh doanh của NH cũng như các doanh nghiệp từ đó góp phần thực
hiện tốt mục tiêu của CSTT là kiểm soát tốt lạm phát nhưng vẫn đảm bảo tăng trưởng
kinh tế ở mức hợp lý.
2.5.2 Những mặt hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN trong
thời gian qua cũng còn tồn tại nhiều mặt hạn chế, cụ thể như sau:
Thứ nhất, dưới tác động của cơ chế điều hành lãi suất trong thời gian qua, lãi
suất thị trường có nhiều diễn biến bất thường và không ổn định hay hiệu quả truyền
dẫn tác động của các mức lãi suất công bố đến lãi suất thị trường còn yếu, chưa gắn
kết chặt chẽ với nhau.
Theo cơ chế điều hành lãi suất gián tiếp hay tự do hóa lãi suất mà hiện nay các
quốc gia đã và đang thực hiện, và ở đây là NHNN, thì việc điều hành lãi suất theo cơ
chế này phải đảm bảo theo nguyên tắc các loại lãi suất mà NHNN công bố (lãi suất
điều hành) phải có tác động hiệu ứng và có mối quan hệ chặt chẽ đối với lãi suất thị
trường. Có nghĩa là, bất kỳ hành động tăng hoặc giảm các mức lãi suất điều hành của
NHNN sẽ là tín hiệu muốn thực thi CSTT thắt chặt hay mở rộng mà NHNN muốn phát
đi và tác động làm lãi suất trên thị trường biến động theo nhằm đạt được mục tiêu cụ
thể. Nhưng với cơ chế điều hành lãi suất mà NHNN thực thi trong suốt thời gian qua,
đặc biệt là khoảng thời gian từ cuối năm 2011 trở về trước, các mức lãi suất điều hành
của NHNN chưa thực sự là tín hiệu thị trường tác động hiệu quả đến mặt bằng lãi suất
thị trường gồm lãi suất LNH, LSHĐ và LSCV.
Theo nguyên tắc điều hành lãi suất mà NHNN đang áp dụng hiện nay thì lãi
-55-
suất LNH phải được điều tiết nằm trong giới hạn của “trần” là LSTCV, “sàn” là
LSTCK và được điều tiết qua công cụ lãi suất nghiệp vụ thị trường mở. Nhưng quan
sát biến động lãi suất LNH đặt trong mối quan hệ với “khung lãi suất” của nó cho thấy,
có nhiều thời điểm lãi suất LNH vượt “trần” LSTCV – đó là thời điểm các NHTM
đang thiếu hụt thanh khoản trầm trọng phải thi nhau “chạy đua lãi suất” để cải thiện
thanh khoản (năm 2008, năm 2010, năm 2011), nhưng cũng có những thời điểm lãi
suất LNH lại phá đáy “sàn” LSTCK khi thanh khoản của các NHTM ở trạng thái dư
thừa. (Đồ thị 2.5) Như vậy, việc thực tế diễn ra không theo đúng nguyên tắc điều tiết
lãi suất LNH theo “khung lãi suất” đề ra ban đầu đã chứng tỏ sự kém hiệu quả trong
khâu truyền tải động thái điều hành của NHNN đến lãi suất thị trường.
Đồ thị 2.5 Diễn biến LSTCV, LSTCK, Lãi suất LNH và lãi suất OMO
Lãi suất LNH (1 tháng)
LSTCV
LSTCK
Lãi suất OMO
25.00%
20.00%
15.00%
10.00%
5.00%
0.00%
01/01/2008
01/01/2009
01/01/2010
01/01/2011
01/01/2012
01/01/2013
từ năm 2008 đến tháng 6/2013
Nguồn: Tổng hợp từ website của NHNN
Ngoài ra, mối quan hệ giữa lãi suất OMO đối với lãi suất LNH và trong vai trò
ổn định thanh khoản và điều tiết lãi suất LNH biến động theo tín hiệu điều hành của
NHNN cũng còn nhiều hạn chế khi lãi suất LNH thường xuyên biến động với độ chênh
lệch rất lớn đối với lãi suất OMO, không xoay quanh lãi suất OMO (đã được NHNN
-56-
điều chỉnh theo sự biến động của các mức lãi suất điều hành khác hay theo tín hiệu
điều hành mà NHNN muốn truyền tải). Đặc biệt có những giai đoạn mà lãi suất LNH
chênh lệch cao hơn nhiều so với lãi suất OMO đã tạo ra “vùng bù rủi ro thanh khoản”
rất lớn, những giai đoạn đó chính là lúc thanh khoản của các NHTM đang yếu kém
trầm trọng, từ đó hình thành những “cuộc chạy đua” đẩy lãi suất thị trường lên rất cao
gây nhiều khó khăn cho công tác điều hành lãi suất cũng như nền kinh tế. (Đồ thị 2.5)
Cũng giống như mối quan hệ đối với lãi suất LNH, vai trò điều tiết LSHĐ và
LSCV của các mức lãi suất điều hành cũng trở nên kém hiệu quả khi LSHĐ và LSCV
thường không ổn định, các NHTM liên tục tạo ra những cuộc chạy đua lãi suất lặp đi
lặp lại (2008, 2010 và 2011). Từ Đồ thị 2.3 và 2.4 có thể thấy hầu như trong suốt thời
gian qua, LSHĐ và LSCV luôn biến động với độ chênh lệch rất xa so với các mức lãi
suất điều hành, điều đó chứng tỏ sự gắn kết yếu kém của các mức lãi suất điều hành đối
với lãi suất thị trường. Từ đó làm giảm hiệu quả tác động của cơ chế điều hành lãi suất
đối với doanh nghiệp, dân cư và nền kinh tế.
Đồ thị 2.6 Diễn biến LSCB, LSHĐ bình quân và LSCV bình quân
25.00%
LSHĐ bình quân
LSCV bình quân
LSCB
20.00%
15.00%
10.00%
5.00%
0.00%
từ năm 2008 đến tháng 6/2013
Nguồn NHNN
-57-
Ngoài ra cơ chế điều hành LSCB trong thời gian qua cũng trở nên mờ nhạt, “hữu
danh vô thực” khi đứng yên ở mức 9% trong suốt từ năm 2010 đến nay và đã thoát ly
mối liên hệ với các mức lãi suất thị trường (đặc biệt là LSCV có những thời điểm vượt
trần 150% LSCB rất xa – Đồ thị 2.6) cũng như các mức lãi suất điều hành khác (Đồ thị
2.2), trong khi các mức LSTCV, LSTCK, Lãi suất cho vay qua đêm và Lãi suất OMO
đã được NHNN điều chỉnh tăng giảm liên tục từ năm 2010 đến nay.
Thứ hai, sự truyền dẫn tác động của cơ chế điều hành lãi suất hay CSTT đến
tổng cầu và các biến số kinh tế vĩ mô còn yếu kém, làm kết quả điều hành lãi suất hay
CSTT thường không đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Như nội dung chương 1 đã trình bày, mục tiêu mà cơ chế điều hành lãi suất
hướng đến chính là mục tiêu điều hành CSTT. Tức là việc thực thi chính sách lãi suất
phải đảm thực hiện được mục tiêu cuối cùng về mức độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát,
thất nghiệp v.v… trong từng thời kỳ cụ thể.
Bảng 2.8 Mục tiêu và thực hiện Tăng trƣởng kinh tế và Lạm phát 2008 – 2013
Đơn vị: %/năm
Chỉ tiêu Tăng trưởng kinh tế Lạm phát
Năm Mục tiêu Thực hiện Mục tiêu Thực hiện
2008 8,5 – 9 6,18 < 10 19,89
2009 5 5,32 < 15 6,52
2010 6,5 6,78 7 – 8 11,75
2011 7 – 7,5 5,89 7 18,13
2012 6 – 6,5 5,03 < 10 6,81
2013 5,5 5,3* 8 7*
Nguồn: Tổng cục Thống kê. *: Ước tính
Bảng 2.8 cho thấy mối tương quan giữa 2 nội dung “mục tiêu” đề ra và kết quả
“thực hiện” hai nhiệm vụ quan trọng của việc điều hành CSTT cũng như điều hành
chính sách lãi suất trong giai đoạn từ 2008 đến tháng 6/2013. Thực tế cho thấy kết quả
-58-
thực hiện trong giai đoạn này thường xuyên nằm ngoài các chỉ tiêu đã được đề ra ban
đầu và với biên độ chênh lệch ngày càng lớn. Điều đó cho thấy hiệu quả truyền dẫn của
chính sách lãi suất hay CSTT đến nền kinh tế vĩ mô trong thời gian qua còn rất yếu.
Thứ ba, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN thường chậm so với các diễn biến
của nền kinh tế.
Thực tế thời gian qua cho thấy cách điều hành lãi suất của NHNN thường chậm
so với diễn biến của nền kinh tế khi phải chứng kiến liên tục những biến động trái
chiều trong lãi suất và thanh khoản của hệ thống NH. Chúng ta phải thừa nhận một
thực tế rằng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN thực hiện trong giai đoạn gần đây
phần lớn chưa thực sự đi trước và dẫn dắt thị trường tiền tệ. Sự thay đổi trong chính
sách điều hành chỉ được đưa ra khi có quá nhiều phàn nàn từ thực tế, hoặc khi tình hình
đã xảy ra những hậu quả nghiêm trọng. Chẳng hạn như năm 2008, sau nhiều tháng NH
lâm vào tình trạng thiếu thanh khoản nặng nề, NHNN mới chấp nhận nâng LSCB lên
14% trong khi cơ chế điều hành lãi suất lúc này là căn cứ vào LSCB. Hay như chính
sách hỗ trợ lãi suất năm 2009 nên được rút lại sớm hơn khi tình hình cho thấy chiều
hướng phục hồi đã xuất hiện, thậm chí sự phục hồi còn khá chắc chắn. Tuy nhiên
Chính phủ vẫn tiếp tục triển khai cho đến cuối năm vì cho rằng sự phục hồi là chưa
chắc chắn và có quá nhiều doanh nghiệp phàn nàn là vẫn chưa tiếp cận được nguồn vốn
ưu đãi. Hậu quả là tăng trưởng tín dụng quá mức trong khi nguồn vốn huy động của
các NH lại không tương xứng đã làm xảy ra tình trạng thiếu vốn cho vay và hậu quả là
lãi suất bị đẩy lên cao tạo ra những cuộc đua lãi suất trong năm 2010 và 2011 gây ra
không ít khó khăn đến hoạt động kinh doanh của các NH cũng như đối với doanh
nghiệp và nền kinh tế.
Thứ tư, việc xây dựng cơ chế điều hành lãi suất trong thời gian qua chưa được
NHNN xác định rõ, còn đang trong giai đoạn tìm tòi thử nghiệm khi NHNN công bố
quá nhiều lãi suất điều hành, trong đó chưa xác định được đâu là lãi suất chính thức
hay chủ đạo để vận hành cơ chế.
-59-
Hiện nay, NHNN sử dụng đến 5 loại lãi suất điều hành như: LSCB, LSTCK,
LSTCV, lãi suất cho vay LNH
NHNN NH, lãi suất
OMO. Mặc dù chức năng của mỗi loại lãi suất là khác nhau và được NHNN quy định ở
những mức khác nhau nhưng vai trò của chúng còn nhiều chồng chéo và phức tạp.
Việc lựa chọn, sử dụng, xác định cách tính và chức năng cơ bản của từng loại lãi suất
chưa được quy định rõ ràng. Cụ thể như LSTCV và LSTCK tuy được quy định ở
những mức khác nhau và đóng vai trò khác nhau trong cơ chế điều hành lãi suất
(LSTCV với vai trò là “lãi suất trần” của khung định hướng lãi suất thị trường LNH
thường được quy định cao hơn biên độ là 2% so với LSTCK – đóng vai trò là “lãi suất
sàn”) nhưng công cụ sử dụng để cho vay cầm cố và tái chiết khấu cũng như cơ chế tiếp
cận hai hình thức tái cấp vốn và tái chiết khấu này vẫn còn nhiều điểm giống nhau. Do
vậy, hai loại lãi suất này chưa thực sự phát huy được vai trò tạo khung dao động của lãi
suất trên thị trường LNH. Ngoài ra, các loại lãi suất điều hành này chưa thực sự phát
huy được vai trò định hướng dẫn dắt thị trường khi mà có nhiều thời điểm lãi suất thị
trường đã vượt xa các mức lãi suất định hướng của NHNN.
Thứ năm, NHNN còn sử dụng quá nhiều biện pháp hành chính trong quá trình
điều hành lãi suất nhưng lại không có những biện pháp chế tài thích hợp đã dẫn đến
tình trạng biến tướng lách luật, cạnh tranh không lành mạnh gây mất ổn định trong hệ
thống NH. Điển hình cho việc áp dụng những biện pháp hành chính không hiệu quả và
gây ảnh hưởng xấu cho thị trường tiền tệ và hệ thống NH là những tháng đầu năm
2008, cuối năm 2010 và đầu năm 2011 nhằm ngăn chặn cuộc đua lãi suất tăng cao của
các NHTM. Cụ thể, Đầu năm 2008, NHNN đã ban hành công điện số 02/2008/CĐ-
NHNN quy định lãi suất huy động tối đa là 12%/năm và thông qua VNBA vận động
các NHTM chấp thuận lãi suất huy động là 11%/năm. Điều này cũng được thực hiện
tương tự ở cuối năm 2010 vẫn với cái gọi là đồng thuận LSHĐ tối đa 14%/năm của
Hiệp hội Ngân hàng và trong năm 2011 là quy định mức trần LSHĐ 14%/năm theo
-60-
thông tư 02/2011/TT-NHNN. Tất cả những giải pháp hành chính kể trên đều mang lại
kết quả thất bại trong công tác điều hành lãi suất của NHNN khi không ngăn chặn được
cuộc đua lãi suất của các NH mà còn làm cuộc đua lãi suất ngày càng trầm trọng hơn
như đã phân tích ở mục 2.4.1, 2.4.3 và 2.4.4. Ngoài ra, chính những biện pháp hành
chính này còn tạo ra những biến tướng, lách luật, cạnh tranh không lành mạnh gây mất
ổn định trong hệ thống NH khi nhiều NHTM, đặc biệt là các NHTM vừa và nhỏ với
năng lực tài chính yếu kém đã lách “trần” lãi suất bằng nhiều cách khác nhau như
khuyến mãi, dự thưởng, quà biếu, quà tặng v.v... và tạo ra cuộc đua lãi suất “ngầm”
trong hệ thống.
2.5.3 Nguyên nhân của những mặt hạn chế
Từ những phân tích về các mặt hạn chế của cơ chế điều hành lãi suất trong thời
gian qua, theo tác giả những mặt hạn chế trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu
sau:
Thứ nhất, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam trong suốt thời gian
qua phải chịu đựng những “cú sốc từ bên ngoài” lẫn những “cứ sốc chính sách” được
xuất phát từ bên trong nền kinh tế.
“Cú sốc từ bên ngoài” chính là những biến động khôn lường của nền kinh tế thế
giới trong suốt thời gian qua như: hiện tượng giá cả các loại nguyên vật liệu đầu vào,
giá xăng dầu trên thế giới không ngừng tăng cao đã góp phần gây ra tình trạng lạm phát
tăng cao đột biến vào đầu năm 2008, hay đặc biệt nhất là ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu vào cuối năm 2008 đã gây rất nhiều khó
khăn cho công tác điều hành lãi suất, kiểm soát lạm phát cũng như làm suy giảm tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2008 – 2009, và những ảnh hưởng này vẫn còn
“tiềm ẩn” trong những năm tiếp theo. Ngoài ra cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
vào năm 2011 cũng tác động không nhỏ đến Việt Nam. Có thể nói do bị ảnh hưởng
những cú sốc từ bên ngoài không mong muốn đó, mà công tác điều hành lãi suất cũng
như CSTT của NHNN Việt Nam thời gian qua đã gặp rất nhiều khó khăn và đạt kết
-61-
quả không như ý.
Ngoài ra, những “cú sốc chính sách” từ bên trong nền kinh tế cũng là một trong
những nguyên nhân làm cho công tác điều hành lãi suất không thuận lợi. “Cú sốc chính
sách” chính là những chính sách được các nhà điều hành đưa ra nhằm giúp quốc gia
thoát khỏi tình trạng khó khăn đang gặp phải, nhưng những chính sách này lại được áp
dụng quá mức nên chính bản thân nó lại gây ra một cú sốc khác đối với nền kinh tế.
Điển hình là chính sách kích cầu được triển khai quá lâu từ năm 1999 (đến 2007) để
vực dậy nền kinh tế, nhưng khi nền kinh tế đã trở lại quỹ đạo tăng trưởng tiềm năng,
đến lúc phải ngưng lại thì Chính phủ đã không thực hiện dẫn đến tình trạng lạm phát
không ngừng gia tăng và rơi vào tình trạng tăng cao không thể kiểm soát vào những
tháng đầu năm 2008. Hay như chính sách nới lỏng tiền tệ vào năm 2009 đáng lẽ phải
được dừng lại sớm hơn khi nền kinh tế đã có xu hướng hồi phục gần như là chắc chắn,
thì có thể lạm phát sẽ không tăng quá cao vào năm 2010 và 2011.
Thứ hai, do cơ chế điều hành lãi suất hay CSTT của NHNN vẫn còn theo đuổi
nhiều mục tiêu, trong đó không lựa chọn được mục tiêu nào là ưu tiên cấp thiết đã gây
rất nhiều khó khăn cho công tác điều hành lãi suất.
Trong suốt thời gian qua, với CSTT hay chính sách lãi suất đa mục tiêu, NHNN
đã bị chi phối rất nhiều trong việc ra quyết định điều hành của mình. Thực tế qua các
năm kết quả điều hành thường không thành công do mục tiêu của CSTT cũng như điều
hành lãi suất cứ giằng co giữa hai mục tiêu có phần mâu thuẫn nhau và rất khó thực
hiện là kiểm soát lạm phát nhưng vẫn đảm bảo tăng trưởng kinh tế. Thực hiện được
điều này quả là rất khó vì lý thuyết và thực tế đã chứng minh là khi muốn giảm lạm
phát thì phải đánh đổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế và ngược lại, không thể thực hiện
đồng thời cả hai mục tiêu. Trong thời gian qua, NHNN đã nhiều lần thực hiện chính
sách nới lỏng để cải thiện tốc độ tăng trưởng kinh tế, rồi chuyển sang chính sách thắt
chặt để kiềm chế lạm phát (và ngược lại). Sự chuyển đổi liên tục và có phần đột ngột
này đôi khi không phù hợp với tình trạng và khả năng thích ứng của thị trường lại tạo
-62-
ra cú sốc làm cho tình hình càng trở nên khó khăn hơn. Do đó việc xác định mục tiêu
cuối cùng nào ưu tiên nhất là rất quan trọng nếu muốn tất cả những chính sách đề ra
nhằm phục vụ cho mục tiêu đơn nhất đó tác động hiệu quả đến thị trường và nền kinh
tế. Theo Luật NHNN năm 2010 đang áp dụng từ 1/1/2011 cho đến nay, mặc dù đã xác
định được mục tiêu ưu tiên của CSTT và điều hành lãi suất là “ổn định giá cả biểu hiện
qua chỉ tiêu lạm phát, nhưng đối lúc trong quá trình điều hành NHNN vẫn còn bị chi
phối bởi mục tiêu đảm bảo tăng trưởng kinh tế nên hiệu quả đạt được vẫn chưa cao.
Thứ ba, NHNN chưa thực sự chủ động và độc lập trong điều hành, NHNN còn
phụ thuộc nhiều vào Chính phủ.
Từ khi thành lập cho đến nay, NHNN Việt Nam luôn là một cơ quan thuộc
Chính phủ, là một đơn vị ngang Bộ. Thống đốc NHNN là thành viên của Chính phủ, có
hàm tương đương với Bộ trưởng, được Chính phủ bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước
Chính phủ và Quốc hội. Chính vì vậy, hoạt động của NHNN chịu sự điều chỉnh rất lớn
của Chính phủ. NHNN chỉ là cơ quan xây dựng dự án CSTT quốc gia để Chính phủ
trình Quốc hội quyết định, trên cơ sở đó, NHNN tổ chức thực hiện và có trách nhiệm
điều hành trong phạm vi đã được Quốc hội và Chính phủ duyệt. Tương tự, NHNN Việt
Nam không được độc lập thiết lập mục tiêu hay xây dựng chỉ tiêu hoạt động.
Xét trong bốn cấp độ độc lập của IMF (2004) thì NHNN Việt Nam nằm ở cấp
độ độc lập thứ tư “độc lập tự chủ hạn chế”. Đây là cấp độ độc lập thấp nhất của NHTƯ
đối với Chính phủ. Điều đó phần nào làm giảm tính linh hoạt trong việc điều hành thực
hiện CSTT quốc gia, thậm chí đôi khi gây ra sự chậm trễ trong phản ứng chính sách
trước các diễn biến khó lường trên thị trường tài chính - tiền tệ ảnh hưởng đến sự ổn
định của đồng tiền. Gần như mọi hoạt động của NHNN đều phải được sự cho phép của
Chính phủ (phát hành tiền, thực hiện CSTT quốc gia, cho vay ngân sách trung ương,
bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài, cho vay các tổ chức tín dụng trong
trường hợp đặc biệt). Ở đây, NHNN Việt Nam chỉ được coi như là cơ quan quản lý
hành chính nhà nước, giống như các Bộ khác, chứ không phải là một thiết chế đặc biệt
-63-
dù tổ chức, hoạt động của NHNN ảnh hưởng rất lớn đến tính an toàn của hệ thống ngân
hàng, sự ổn định của giá trị đồng tiền, an ninh tiền tệ của một quốc gia.
Bên cạnh đó, do là cơ quan của Chính phủ nên có trường hợp NHNN phải thực
hiện những nhiệm vụ không phù hợp với mục tiêu của CSTT, chẳng hạn như tái cấp
vốn cho các NHTM để khoanh, xoá nợ các khoản vay của các tập đoàn nhà nước và
doanh nghiệp nhà nước. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu
quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng
tiền.
Thứ tư, điều hành lãi suất dựa quá nhiều vào diễn biến CPI trong quá khứ
Với nguyên tắc của Fisher (Lãi suất danh nghĩa bằng (=) Lãi suất thực cộng (+)
lạm phát kỳ vọng), nếu muốn đảm bảo lãi suất thực dương (có lợi cho người cho vay
hay người gửi tiền) thì lãi suất danh nghĩa phải được điều chỉnh sao cho cao hơn lạm
phát kỳ vọng (LSCV > LSHĐ > Lạm phát kỳ vọng). Vậy điểm đáng lưu ý ở đây chính
là lãi suất (danh nghĩa) phải được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát kỳ vọng hay xu hướng
lạm phát được dự đoán trong tương lai chứ không phải là tỷ lệ lạm phát đã xảy ra trong
hiện tại hay quá khứ. Thực tế cho thấy trong suốt thời gian qua, nhằm tuân theo nguyên
tắc “lãi suất thực dương”, NHNN đã thực hiện công tác điều hành lãi suất của mình
thông qua sự sự biến động của chỉ số CPI hàng tháng (hoặc hành quý) được Tổng cục
Thống kê tính toán và công bố, trong khi chỉ số CPI này lại được tính bằng cách so
sánh tốc độ tăng giá so với tháng trước (hoặc năm trước). Dùng chỉ số CPI (được so
sánh với quá khứ) để điều chỉnh lãi suất (danh nghĩa) lại biểu hiện mức lợi tức mà
người cho vay (hay gửi tiền, đầu tư) sẽ nhận được trong tương lai là mâu thuẫn và
không hợp lý. Chính sự mâu thuẫn này dẫn đến tình trạng nhiều thời điểm lãi suất NH
lại thấp hơn cả tỷ lệ lạm phát hay lãi suất tiền gửi của người dân là lãi suất thực âm do
những quy định về mức trần lãi suất của NHNN không theo kịp với xu hướng của diễn
biến lạm phát, cụ thể là như mức trần LSHĐ 14%/năm được áp dụng trong cả năm
2011 trong khi lạm phát đã lên đến hai con số và ngày càng tăng cao vượt ngưỡng mức
-64-
trần LSHĐ (đến cuối năm lên đến 18,13%), nên để giữ chân khách hàng, hàng loạt các
NH phải tìm cách lách “trần” LSHĐ bằng nhiều hình thức khác nhau dẫn đến cuộc đua
lãi suất “ngầm” vào năm 2011 gây rất nhiều khó khăn cho nền kinh tế.
Ngoài ra, một nguyên nhân khác góp phần làm cho việc điều hành lãi suất dựa
vào chỉ tiêu CPI của NHNN chưa hiệu quả đó là CPI hiện nay NHNN đang sử dụng
vẫn còn chứa đựng những yếu tố dễ bị thay đổi giá nhưng chỉ có tác động tạm thời đến
chỉ số giá tiêu dùng như giá lương thực và năng lượng (xăng, dầu) hay những cú sốc từ
phía cầu (như ảnh hưởng tâm lý) nên đôi khi chưa phản ảnh được sự tăng giá thực sự
hay phản ánh được xu hướng thực sự của lạm phát. Lạm phát ở đây phải thể hiện được
dấu hiệu giá cả hàng hóa dịch vụ nhìn chung đang gia tăng một cách có hệ thống và
mang tính chất lâu dài (Lạm phát cơ bản – Core Inflation) chứ không phải chỉ một
phận hàng hóa dịch vụ nào đó tạm thời biến động.
Thứ năm, NHNN chưa làm tốt vai trò người cho vay cuối cùng đối với các
NHTM trên thị trường LNH và thị trường mở
Như chúng ta đã biết, vai trò người cho vay cuối cùng của NHNN được thể hiện
khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh khoản không thể vay mượn hoặc huy động
vốn từ nơi nào khác nữa thì sẽ tìm đến NHNN với vai trò người cứu cánh, người cuối
cùng sẽ tiếp vốn hỗ trợ cho các NHTM và các TCTD bằng nhiều hình thức như chiết
khấu, tái chiết khấu, tái cấp vốn, cho vay bắt buộc trong thanh toán bù trừ, bơm vốn
qua nghiệp vụ thị trường mở v.v... Thông qua vai trò người cho vay cuối cùng, NHNN
sẽ điều tiết cung tiền và truyền dẫn đến nền kinh tế theo đúng định hướng của CSTT.
Như vậy về nguyên tắc NHNN là người cho vay cuối cùng trên thị trường LNH
và thị trường mở thì trong những thời điểm NHTM khát vốn, cánh cửa cuối cùng mà
các NHTM tìm đến chính là cửa sổ tái cấp vốn, tái chiết khấu hoặc hoạt động bơm tiền
qua OMO thông qua mua vào các giấy tờ có giá mà các NHTM đang nắm giữ. Nhưng
thực tế trong suốt thời gian qua, trên thị trường có nhiều thời điểm hoạt động của các
NH lại không diễn ra theo nguyên tắc này, đó là có hiện tượng các NHTM lớn sau khi
-65-
vay được vốn từ NHNN, đã cho các NH vừa và nhỏ đang gặp khó khăn trong thanh
khoản vay lại với lãi suất cao hơn để hưởng chênh lệch, do đó đã đẩy lãi suất LNH lên
rất cao và khó kiểm soát. Về phía các NHTM vừa và nhỏ do không đủ điều kiện đáp
ứng hoạt động vay tái cấp vốn, hoặc nắm giữ quá ít giấy tờ có giá nên không thể tham
gia vào các hoạt động tái chiết khấu, nghiệp vụ bơm vốn từ OMO của NHNN, để cải
thiện khó khăn thanh khoản của mình, đành phải tìm đến các NHTM lớn hơn để vay
lại với lãi suất cao. Chính nguyên nhân này đã góp phần gây ra những cuộc đua LSHĐ
lặp đi lặp lại của các NHTM. Qua đó đẩy lãi suất thị trường đi chệnh hướng lãi suất
định hướng của NHNN làm ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả công tác điều hành lãi
suất cũng như điều hành CSTT của NHNN. Như vậy trong thời gian qua, rõ ràng là
NHNN đã chưa hoàn thành tốt vai trò người cho vay cuối cùng trên thị trường LNH và
thị trường mở.
Thứ sáu, hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, công tác thống kê, dự báo còn nhiều
hạn chế
Thực tế cho thấy thời gian qua hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tại Việt Nam
chưa đầy đủ, độ tin cậy chưa cao, chất lượng chưa đồng nhất. Đối với các chỉ tiêu kinh
tế vĩ mô như số liệu về đầu tư, CPI có sự khác biệt giữa các nguồn khác nhau, số liệu
GDP chỉ có số liệu theo quý kể từ năm 1999. Đối với các số liệu về lãi suất như lãi suất
thị trường (LSHĐ, LSCV ngắn hạn; dài hạn), lãi suất thị trường mở không được hệ
thống đầy đủ nên cũng rất khó thống kê và thu thập, số liệu lãi suất bình quân LNH
mặc dù được NHNN công bố cụ thể trên website nhưng việc tập hợp dữ liệu rất khó
khăn khi phải làm công tác thủ công (theo từng ngày) và chỉ có ở mốc thời gian 3 năm
trở lại, ngoài ra số liệu về lãi suất giao dịch LNH giữa các TCTD thì hầu như không thể
thu thập được, chỉ có thể lấy từ cơ sở dữ liệu của nước ngoài. Hiện nay chỉ mới có một
số cơ quan, bộ ngành thực hiện việc thống kê và niêm yết số liệu, nhưng hệ thống
thông tin số liệu được tập hợp vẫn chưa đầy đủ, chất lượng và độ tin cậy vẫn chưa cao
do có nhiều sai khác giữa các nguồn. Chính từ thực trạng công tác thống kê, hệ thống
-66-
thông tin, cơ sở dữ liệu còn hạn chế đã làm cho việc phân tích, so sánh dựa trên các số
liệu lịch sử còn chưa thực sự chính xác và đáng tin cậy.
Bên cạnh đó, do hệ thống thông tin về diễn biến thị trường phục vụ cho việc
hoạch định chính sách còn yếu, chưa kịp thời và đầy đủ, đã làm cho khả năng dự báo
của NHNN còn nhiều sai lệch. Công tác dự báo còn hạn chế và chưa nắm bắt đầy đủ xu
hướng thị trường đã nhiều lần làm Chính phủ hay NHNN đề ra chỉ tiêu quá cao khiến
công tác điều hành được tiến hành nóng vội vượt quá khả năng thích ứng của thị
trường và hệ thống NH, nên đã gây “sốc” làm giảm tác dụng của chính sách và kết quả
cuối cùng là chỉ tiêu kế hoạch và thực tế thực hiện thường có sự chênh lệch khá lớn.
Ngoài ra, sự phối hợp thông tin giữa các bộ ngành và NHNN để dự báo về tiền tệ, về
kinh tế vĩ mô vẫn chưa đồng bộ và còn nhiều hạn chế, do đó có ảnh hưởng nhất định
đến tính nhất quán giữa CSTT và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, làm giảm hiệu quả
điều hành CSTT cũng như công tác điều hành lãi suất của NHNN. Đặc biệt là đối với
yếu tố “lãi suất” khi nó phản ánh lợi tức mà người cho vay hay nhà đầu tư sẽ nhận
được trong tương lai, nên nếu những hạn chế trong khả năng dự báo dẫn đến dự báo sai
lệnh so với diễn biến lãi suất thị trường, sẽ rất dễ xảy ra những “rủi ro lãi suất” gây bất
lợi cho hoạt động đầu tư, tín dụng và từ đó ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
Thứ bảy, tính công khai, minh bạch hóa thông tin còn nhiều hạn chế.
Thị trường thực tế hiện nay vẫn còn thiếu rất nhiều những thông tin cần thiết
cần phải công khai và minh bạch để phục vụ cho các đối tượng quan tâm cũng như
phục vụ cho công tác điều hành lãi suất đạt hiệu quả. Ví dụ như các số liệu báo cáo tài
chính, tình trạng nợ xấu v.v… của các NHTM đối với NHNN và thị trường vẫn chưa
minh bạch và đúng với thực tế điều tra từ NHNN; việc công bố thông tin về quá trình
điều hành và ra các quyết định điều hành lãi suất cũng như CSTT của NHNN trong
thời gian qua vẫn chưa thực hiện tốt, mức độ cam kết và nhất quán trong định hướng
điều hành lãi suất cũng như CSTT của NHNN vẫn còn nhiều hạn chế và đôi khi đi
ngược lại với kỳ vọng thị trường và những công bố ban đầu. Những yếu kém trong
-67-
công tác công khai và minh bạch hóa thông tin xuất phát từ phía NHNN lẫn các NHTM
đã làm thị trường thiếu hụt về thông tin, thông tin bất cân xứng dẫn đến khả năng dự
báo yếu kém, các nhà đầu tư và người dân do nắm bắt thông tin không đầy đủ nên
không chắc chắn về diễn biến của lãi suất, lạm phát v.v… trong tương lai, chủ yếu chạy
theo “tâm lý bầy đàn” làm ảnh hưởng không tốt đến quyết định đầu tư và ảnh hưởng
xấu đến nền kinh tế.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam giai đoạn 2008 –
tháng 6/2013 cho thấy hiệu quả mang lại của chính sách lãi suất đối với thị trường tiền
tệ cũng như đối với nền kinh tế vẫn chưa cao. Bên cạnh một số ít những thành công
vẫn còn tồn tại rất nhiều mặt hạn chế cần phải giải quyết triệt để trong thời gian tới.
Trên cơ sở tìm ra những nguyên nhân gây ra các mặt hạn chế trong công tác điều hành
lãi suất giai đoạn 2008 – tháng 6/2013, trong Chương 3 tác giả sẽ trình bày những định
hướng cũng như một số giải pháp cụ thể để hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất của
NHNN Việt Nam trong thời gian tới.
-68-
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN
CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
3.1 Mục tiêu, định hướng điều hành chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất hướng
đến năm 2020
Trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính thế giới, nền kinh
tế các nước nói chung phải đối mặt với suy thoái và từng bước phục hồi cùng những
diễn biến phức tạp. Mặc dù Việt Nam không bị tác động trực tiếp, song khủng hoảng
tài chính thế giới đã phần nào ảnh hưởng đến kinh tế và thị trường tiền tệ trong nước
trong khi nền kinh tế nội địa cũng bộc lộ những hạn chế nội tại. NHNN Việt Nam cần
có những mục tiêu cụ thể cũng như những định hướng trong điều hành chính sách tiền
tệ và chính sách sách lãi suất hướng đến năm 2020.
3.1.1 Mục tiêu điều hành CSTT hƣớng đến năm 2020
Nhìn chung, đối với các NHTW, CSTT bao gồm các mục tiêu sau: Lạm phát thấp
và ổn định, tăng trưởng kinh tế ổn định, tạo công ăn việc làm, ổn định hệ thống tài
chính…Các NHTW có thể lựa chọn điều hành CSTT đa mục tiêu hoặc điều hành
CSTT đơn mục tiêu.
Có thể nói, điều hành CSTT đa mục tiêu là điều hành CSTT theo lối truyền thống.
Và hiện nay, các nước có xu hướng điều hành CSTT theo hướng đơn mục tiêu. Thật
vậy, với CSTT đơn mục tiêu, chỉ đeo đuổi một mục tiêu duy nhất và cũng là mục tiêu
cuối cùng, một số ưu điểm của việc điều hành CSTT đơn mục tiêu thể hiện như sau:
- Mục tiêu đơn nhất nên NHTW sẽ lựa chọn được những công cụ quyết định
nhất để tác động và đạt được mục tiêu đó.
- Mục tiêu đơn nhất nên thước đo hiệu quả và điều hành CSTT của NHTW sẽ
rõ ràng và cụ thể.
- Mục tiêu đơn nhất tạo điều kiện cho bộ máy chuyên môn của NHTW tập
trung nghiên cứu để đạt được kỳ vọng.
-69-
Tại Việt Nam, mục tiêu cuối cùng và duy nhất của CSTT, thể hiện trong Luật
NHNN 2010 có hiệu lực từ 1/1/2011, là “ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ
tiêu lạm phát”. So với quan điểm chính sách tiền tệ đa mục tiêu trong giai đoạn 1997-
2010: “ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội,
đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống xã hội”(Luật NHNN 1997) thì theo
quan điểm của tác giả, chính sách tiền tệ đơn mục tiêu của Luật NHNN 2010 vẫn tiếp
tục là định hướng phù hợp trong thời gian tới.
Luật NHNN 2010 đã quy định mục tiêu duy nhất của CSTT là ổn định giá trị
đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, nhưng trong các văn bản chỉ đạo, điều hành
CSTT thể hiện phải đồng thời thực hiện nhiều mục tiêu có mức ưu tiên như nhau như:
mức cung tiền M2, tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an toàn
hệ thống các TCTD. Do đó các giải pháp và công cụ điều hành CSTT nhiều khi phải
cùng một lúc giải quyết các mục tiêu, nên kết quả chưa đảm bảo được tính bền vững và
hiệu quả.
Vì vậy, theo tác giả trong giai đoạn hướng đến năm 2020, hoạch định mục tiêu
CSTT cần nhất quán và kiên định quan điểm ưu tiên kiểm soát lạm phát vì đây là vấn
đề cơ bản để từ đó ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng.
3.1.2 Định hƣớng điều hành CSTT hƣớng đến năm 2020
Trên cơ sở nhất quán và kiên định theo định hướng về mục tiêu điều hành CSTT
là ưu tiên kiểm soát lạm phát, theo tác giả định hướng điều hành CSTT trong thời gian
tới NHNN cần phải thực hiện đồng bộ một số định hướng quan trọng sau đây:
Phối hợp chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa
NHNN cần tiếp tục điều hành CSTT chặt chẽ, thận trọng và linh hoạt, phối hợp
hài hòa với CSTK. CSTT và CSTK là hai bộ phận trọng yếu trong điều tiết vĩ mô nền
kinh tế và đặc biệt trong kiểm soát lạm phát. Hai chính sách này trên thực tế được
hoạch định và thực thi khá riêng biệt bởi hai cơ quan khác nhau của Chính phủ. Chúng
vừa có tính độc lập, nhưng vừa có tính tương tác, hỗ trợ nhau trong việc điều tiết vĩ mô
-70-
nền kinh tế. Do vậy, để tăng cường hiệu quả của hai chính sách này cần phải có sự kết
hợp nhịp nhàng và đồng bộ. Chẳng hạn như không thể theo đuổi đồng thời nhiều mục
tiêu trái chiều, do vậy, Nhà nước cần xác định và công bố mục tiêu trọng tâm trong
từng thời kỳ để thực hiện nhất quán nhằm định hướng hoạt động cho từng chính sách.
Trên cơ sở đó, các hoạt động của từng chính sách sẽ có sự phối hợp nhằm đạt được
mục tiêu trong từng thời kỳ mà vẫn đảm bảo mục tiêu dài hạn.
Nâng cao vị thế độc lập của Ngân hàng Nhà nước
NHNN cần chủ động hoàn toàn trong việc sử dụng các công cụ của CSTT. Cụ
thể, về điều hành, NHNN phải được quyền xác định, quyết định và điều tiết lượng tiền
cung ứng hàng năm và trong từng thời điểm, đồng thời được sử dụng công cụ lãi suất
và các công cụ tiền tệ khác để tác động vào mục tiêu lạm phát. Từng bước xây dựng
Ngân hàng nhà nước tương đối độc lập với Chính phủ cả về điều hành CSTT và về
hoạt động tài chính. Và vấn đề còn lại là năng lực hoạt động của Ngân hàng Nhà nước
để nhận và tự chịu trách nhiệm.
Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất
Việc sử dụng công cụ lãi suất trong công tác điều hành CSTT trong thời gian tới
cần được tiếp tục thực hiện theo chủ trương ổn định mặt bằng lãi suất thị trường theo
hướng giảm dần, qua đó góp phần giảm LSCV hỗ trợ cho hoạt động tín dụng của hệ
thống NH, qua đó hỗ trợ cung ứng vốn cho các ngành, các lĩnh vực phục vụ cho mục
tiêu phát triển kinh tế của đất nước, tuy nhiên cần phải cân đối với việc kiểm soát lạm
phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Ngoài ra, để cải thiện tình trạng thanh khoản của các
NHTM cũng như tạo tính linh hoạt, cạnh tranh lành mạnh cho thị trường, NHNN cần
nới lỏng dần các giới hạn “trần lãi suất” nhưng trên cơ sở thận trọng từng bước và có
kiểm soát.
Kiểm soát tổng phương tiện thanh toán và tín dụng
Nhằm giúp nền kinh tế có điều kiện phục hồi, trong những năm tiếp theo cần điều
hành tổng phương tiện thanh toán và tín dụng theo hướng nới rộng tín dụng và tổng
-71-
phương tiện thanh toán ở mức hợp lý; hỗ trợ kích cầu bằng lãi suất thấp một số lĩnh
vực tiêu dùng thiết yếu và các ngành hàng sản xuất không đủ sản lượng đang phải nhập
khẩu trong các lĩnh vực nông sản, thực phẩm, nguyên liệu. Điều này giúp bản thân NH
giảm được tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ; hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế.
Xử lý nợ xấu, và bảo đảm an toàn hệ thống TCTD
Xử lý nợ xấu, tái cơ cấu và bảo đảm an toàn hệ thống TCTD là một trong những
vấn đề quyết định để giải thoát khó khăn cho nền kinh tế.
- Tất cả các NHTM và TCTD đều phải xây dựng đề án giải quyết và lộ trình
giải quyết nợ xấu trình NHNN thẩm định và phê duyệt.
- Hoàn thiện các quy định quản lý, bảo đảm an toàn hoạt động tổ chức tín
dụng, ngăn ngừa các nguy cơ thực tế dẫn đến khủng hoảng hệ thống ngân hàng và
các tổ chức tín dụng theo hướng: sửa đổi hoặc điều chỉnh các tỷ lệ bảo đảm an
toàn hoạt động phù hợp với thực tế môi trường hoạt động kinh doanh ngân hàng
Việt Nam. Đồng thời, tiếp cận với tiêu chuẩn quốc tế và tăng cường kỷ cương,
hiệu lực trong thực thi quy định của các TCTD, bảo đảm an toàn hệ thống.
Phối hợp đồng bộ và linh hoạt các công cụ CSTT trong quá trình điều hành CSTT
Trong thời gian tới, NHNN cần nâng cao năng lực điều hành, phối hợp tốt và
đồng bộ các công cụ CSTT trong quá trình điều hành CSTT như: công cụ lãi suất, tỷ
giá, nghiệp thị trường mở, hoạt động tái cấp vốn, tái chiết khấu, công cụ dự trữ bắt
buộc, kiểm soát tín dụng v.v… Qua thực tế điều hành CSTT ở các nước khác cho thấy
việc phối hợp tốt và linh hoạt các công cụ trong quá trình điều hành CSTT sẽ tạo ra
những tác động mạnh hơn đến tổng cầu góp phần giúp truyền tải hiệu quả CSTT đến
các mục tiêu cuối cùng như kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hay giảm
thất nghiệp.
Xây dựng và phát triển hệ thống ngân hàng an toàn vững mạnh
Nhằm xây dựng và phát triển hệ thống ngân hàng an toàn, vững mạnh, NHNN
cần thực hiện đồng bộ việc tái cấu trúc, cơ cấu lại hệ thống NH theo hướng an toàn,
-72-
lành mạnh và hiệu quả; tăng cường các công tác thanh tra, giám sát các TCTD để phát
hiện và xử lý nghiêm các TCTD yếu kém, có rủi ro thanh khoản cao, nợ xấu nhiều,
cạnh tranh không lành mạnh, không chấp hành tốt các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động;
NHNN cần theo dõi sát tình hình tăng trưởng tín dụng của các NH sao cho đảm bảo
mức tăng trưởng tín dụng phải hợp lý và đi đôi với an toàn hệ thống; ngoài ra, NHNN
cần tiến hành phân loại NH và có biện pháp giám sát phù hợp đối với từng nhóm NH.
Thông tin minh bạch và rõ ràng
Để chính sách tiền tệ trở nên rõ ràng và minh bạch thì Ngân hàng nhà nước cần
phải thiết lập được cơ chế truyền tải cụ thể về tính minh bạch và giải trình thông tin
trước công chúng. Chẳng hạn, về nội dung truyền tải cần bao gồm: quan điểm của
Ngân hàng Nhà nước về việc thực hiện mục tiêu lạm phát với tư cách là mục tiêu cuối
cùng; tổng quan và diễn biến tình hình lạm phát trong thời gian qua; những giải pháp
của Ngân hàng Nhà nước để tiếp tục thực hiện mục tiêu lạm phát và các giải trình
khác… Về cách thức truyền tải có thể thông qua các ấn phẩm như báo cáo thường niên,
định kỳ, hoặc giải trình định kỳ của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trên phương tiện
truyền thông.
Nâng cao chất lượng công tác thống kê, dự báo
Nâng cao chất lượng công tác thống kê, gồm thống kê giá và thống kê tiền tệ.
Hoàn thiện bộ máy thống kê từ trung ương đến địa phương, nhằm cung cấp số liệu,
thông tin đáng tin cậy và nhanh chóng. Với hệ thống thông tin được cập nhật kịp thời
những thay đổi trên thị trường tài chính và tình hình kinh tế để có cơ sở phân tích và dự
báo chính xác phục vụ cho hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ.
3.1.3 Định hƣớng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam hƣớng đến
năm 2020
Do mục tiêu của cơ chế điều hành lãi suất cũng chính là mục tiêu mà công tác
điều hành CSTT hướng đến nên định hướng mục tiêu điều hành chính sách lãi suất của
NHNN hướng đến năm 2020 cũng không nằm ngoài định hướng đơn mục tiêu trong
-73-
điều hành CSTT, đó là: „NHNN điều hành lãi suất sao cho góp phần thực hiện tốt mục
tiêu ưu tiên cấp thiết là ổn định giá cả hay kiểm soát tốt lạm phát‟.
Để đạt được định hướng mục tiêu là kiểm soát lạm phát, cơ chế điều hành lãi suất
trong thời gian tới cần phải chú trọng thực hiện theo định hướng: “Tự do hóa lãi suất –
có kiểm soát”. Việc điều hành lãi suất theo hướng ngày càng tự do hóa đến mức tự do
hóa hoàn toàn là một việc cần thiết để thiết lập một thị trường năng động, trong đó các
NHTM hoạt động cạnh tranh lành mạnh theo đúng quy luật thị trường và hội nhập với
thông lệ quốc tế. Tuy nhiên do điều kiện thị trường tài chính Việt Nam còn nhiều yếu
kém, các công cụ tài chính vẫn chưa đa dạng và phát triển, hoạt động của hệ thống NH
vẫn chưa lành mạnh và kỷ luật chưa nghiêm, thanh khoản của đa số các NHTM vẫn
còn chứa đựng nhiều rủi ro nên trước mắt chưa thể thực hiện „gỡ bỏ‟ trần lãi suất hoàn
toàn để tránh gây ra rối loạn thị trường không thể kiểm soát được, thay vào đó là việc
giảm dần mức trần LSCV và LSHĐ phải được thực hiện thận trọng theo đúng diễn
biến của thị trường và diễn biến của nền kinh tế vĩ mô. Như vậy xu hướng tự do hóa lãi
suất là cần thiết nhưng phải được NHNN thực hiện từng bước theo đúng lộ trình giảm
trần lãi suất và gắn chặt với sự thận trọng, kiểm soát, điều chỉnh linh hoạt lãi suất theo
sát diễn biến thị trường.
Ngoài ra, tiếp nối thành công trong công tác điều hành lãi suất năm 2012 và 6
tháng đầu năm 2013, trong thời gian tới, NHNN nên tiếp tục điều hành CSTT với mục
tiêu trung gian là lãi suất thị trường chứ không chỉ là khối lượng cung ứng tiền hay
khối lượng tín dụng như những năm trước đây. Cụ thể là NHNN vẫn tiếp tục điều hành
lãi suất theo định hướng ổn định và giảm dần lãi suất thị trường về mức lãi suất mục
tiêu đã đề ra từ ban đầu. Thông qua mức lãi suất mục tiêu đã đề ra, NHNN sẽ thực hiện
công tác điều hành lãi suất (chủ yếu qua nghiệp vụ thị trường mở) sao cho điều tiết lãi
suất LNH giảm về sát với mức lãi suất mục tiêu hoặc biến động xung quanh mức lãi
suất mục tiêu, qua đó góp phần điều tiết các mức lãi suất thị trường như LSHĐ và
LSCV cũng giảm về hoặc biến động xung quanh mức lãi suất mục tiêu mong muốn.
-74-
3.2 Giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam
Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm và các nguyên nhân tồn tại của những mặt
hạn chế trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN giai đoạn 2008 đến tháng 6/2013,
tác giả xin nêu lên một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất của
NHNN Việt Nam hướng đến những định hướng điều hành lãi suất từ 6 tháng cuối năm
2013 đến năm 2020 như sau:
3.2.1 Nhóm giải pháp tăng cƣờng mức độ độc lập của NHNN, từ đó hoàn
thiện những điều kiện cơ bản để hƣớng tới điều hành lãi suất theo cơ
chế lạm phát mục tiêu
Qua thực tế các nước cho thấy, một mô hình NHTW độc lập ngoài việc giúp quốc
gia kiểm soát lạm phát tốt hơn, còn giúp giảm thâm hụt ngân sách, giúp NHTW thực
hiện CSTT hiệu quả sẽ góp phần vào tăng trưởng kinh tế ổn định hơn. Ngoài ra, với xu
hướng hiện nay khi đa số các quốc gia đã và đang hướng đến áp dụng cơ chế điều hành
CSTT lạm phát mục tiêu – với rất nhiều ưu điểm giúp các nước điều hành một CSTT
hiệu lực và hiệu quả cao thì điều kiện cơ bản trước tiên để có thể áp dụng chính sách
này đó là NHTW phải có được sự độc lập tương đối so với Chính phủ trong việc hoạch
định và thực thi CSTT. Chính vì vậy, nâng cao tính độc lập của NHNN đối với Chính
phủ là một trong những điều kiện tiên quyết giúp NHNN Việt Nam điều hành có hiệu
quả CSTT nói chung và chính sách lãi suất nói riêng, nhằm đạt được những mục tiêu
kinh tế vĩ mô, trong đó ưu tiên trước hết trong thời gian tới đó là „kiểm soát lạm phát‟.
Hiện tại, theo thể chế chính trị và kinh tế hiện hành, NHNN Việt Nam hiện nay
đang phụ thuộc rất nhiều vào Chính phủ mà về mặt kinh tế thì gần như là phụ thuộc
tuyệt đối về tài chính; ngoài ra nghĩa vụ và trách nhiệm về hiệu quả điều hành CSTT
của NHNN cũng chưa được xác lập rõ ràng, vị thế của NHNN còn rất mơ hồ; theo Luật
NHNN thì hầu hết các nội dung lớn trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến CSTT đều do
Chính phủ quyết định. Do đó khó có thể đổi mới NHNN theo hướng là một NHTW có
mức độ độc lập cao trong điều hành CSTT so với Chính phủ trong thời gian trung hạn
-75-
vì phải sửa đổi rất nhiều về thể chế pháp luật như từ Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam cho đến các bộ luật cơ bản như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật
NHNN, Luật các TCTD v.v…Chính vì lý do đó, trong thời gian trung hạn, chỉ cần đổi
mới NHNN Việt Nam trở thành một NHTW độc lập tương đối với Chính phủ, cụ thể là
chỉ độc lập với Chính phủ về việc thực thi CSTT.
Trong thời gian trung hạn, cần cải cách mức độ độc lập của NHNN theo hướng
NHNN được độc lập trong việc xác định khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế và
chủ động sử dụng các công cụ điều hành CSTT một cách có hiệu quả. Ngoài ra, để hạn
chế sức ép từ phía Chính phủ, hoạt động điều hành CSTT của NHNN phải thông qua
Hội đồng Chính sách Tiền tệ Quốc gia do Quốc hội quyết định. Trong đó Hội đồng
CSTT Quốc gia bao gồm người đứng đầu là Chủ tịch – Thống đốc NHNN; Ban điều
hành gồm Thống đốc và Phó Thống đốc; giúp việc cho Hội đồng có Ban Thư ký – gồm
một số chuyên gia của NHTW. Hội đồng CSTT Quốc gia là cơ quan tối cao có quyền
và chịu trách nhiệm (theo luật định) chủ yếu về hoạch định, giám sát thực thi CSTT
Quốc gia và Chiến lược phát triển hệ thống các TCTD đã được các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phê chuẩn hoặc quyết định các vấn đề lớn khác có liên quan đến CSTT
Quốc gia và vấn đề điều tiết giám sát hệ thống NH. Như vậy, điều này cho phép Hội
đồng CSTT Quốc gia độc lập với Chính phủ nên các quyết định về tiền tệ sẽ chủ động
hơn và phù hợp hơn với mục tiêu của Hội đồng. Để đổi mới NHNN theo hướng độc lập
tương đối với Chính phủ (chỉ độc lập trong điều hành CSTT), Chính phủ cần thực hiện:
(i) đề nghị Quốc hội thông qua Hội đồng CSTT Quốc gia và Quốc hội quyết định Chủ
tịch Hội đồng CSTT Quốc gia; (ii) Chính phủ bàn giao dần quyền lực điều hành CSTT
sang Hội đồng CSTT Quốc gia trong thời gian trung hạn.
3.2.2 Nhóm giải pháp cải thiện tính hành chính trong điều hành CSTT
Thực trạng điều hành lãi suất nói riêng và CSTT nói chung trong thời gian qua
cho thấy việc áp dụng quá nhiều các biện pháp hành chính nhưng lại không có những
biện pháp chế tài cần thiết, NHNN thiếu hiệu quả trong công tác thanh tra giám sát hệ
-76-
thống NH, kỷ luật thị trường chưa nghiêm minh đã khiến thị trường thường xảy ra hiện
tượng các NH cạnh tranh không lành mạnh, phải chạy đua lãi suất ngầm hoặc thực hiện
những biện pháp biến tướng, lách luật dưới nhiều hình thức để lách luật – những biện
pháp hành chính chưa hoàn thiện và hiệu quả mà NHNN ban hành.
Mặc dù trong thời gian tới việc thực hiện tự do hóa lãi suất, loại bỏ dần những
biện pháp hành chính là cần thiết để vận hành hoạt động NH theo đúng cơ chế thị
trường và để các NH tự do cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy thị trường tài chính và nền
kinh tế phát triển. Tuy nhiên xét trong điều kiện hiện nay thực lực của hệ thống NHTM
Việt Nam còn nhiều yếu kém, nhất là trong năng lực thanh khoản, khả năng quản trị rủi
ro v.v..., thị trường tài chính thì chưa phát triển nên việc tự do hóa hoàn toàn (bãi bỏ
hoàn toàn các biện pháp hành chính) sẽ rất dễ xảy ra rối loạn thị trường khó kiểm soát,
từ đó ảnh hưởng xấu đến hoạt động của hệ thống NH và gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Do
đó, trong thời gian tới việc tiếp tục áp dụng (hạn chế) và ngày càng nới lỏng các biện
pháp hành chính là cần thiết để từng bước thực hiện tốt định hướng „tự do hóa lãi suất
– có kiểm soát‟ theo lộ trình đã đề ra. Các biện pháp hành chính này (trần lãi suất) khi
được áp dụng để đạt được hiệu quả cao nhất và hỗ trợ mục tiêu ổn định lãi suất thị
trường phải có sự xem xét và tính toán một cách hợp lý khoa học dựa vào điều kiện thị
trường, diễn biến kinh tế vĩ mô cũng như năng lực tài chính của các NH.
Trước mắt, cần phải điều chỉnh linh hoạt (theo hướng giảm dần) các mức trần
LSHĐ và trần LSCV đối với 4 lĩnh vực ưu tiên nhằm hỗ trợ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, nhưng việc điều
chỉnh linh hoạt trần lãi suất phải trên cơ sở thận trọng theo sát diễn biến của thị trường
và nền kinh tế như diễn biến lạm phát, khả năng thanh khoản của các NH, khả năng
hấp thụ vốn của nền kinh tế v.v... Ngoài ra để cải thiện và nâng cao hiệu quả của các
biện pháp hành chính đã ban hành, NHNN cần quy định các hình thức xử lý nghiêm
minh trường hợp các TCTD vi phạm, cạnh tranh không lành mạnh gây rối loạn thị
trường, từ đó nâng cao tính kỷ luật thị trường, nhưng trước đó, để tìm ra các TCTD vi
-77-
phạm NHNN cũng cần phải cải thiện và thực hiện tốt hơn công tác thanh tra, giám sát
các TCTD để dễ dàng rà soát tìm ra những NH yếu kém, tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể
dẫn đến việc lách luật, cạnh tranh không lành mạnh. Trong điều kiện nếu thị trường tài
chính tiền tệ và năng lực hệ thống NH ngày càng ổn định vững chắc, lạm phát được
kiểm soát tốt và ổn định, NHNN có thể xem xét theo lộ trình, từng bước thực hiện một
cơ chế điều hành lãi suất tự do hóa hoàn toàn, không cần phải quy định một biện pháp
hành chính nào nữa.
3.2.3 Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản
Theo kinh nghiệm điều hành cơ chế lãi suất của nhiều nước trên thế giới cho thấy,
công cụ LSCB của NHTW là một công cụ quan trọng không thể thiếu trong việc định
hướng hoạt động tín dụng của các NHTM, từ đó góp phần ổn định tài chính và ổn định
giá cả trong nước. Tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế của từng quốc gia mà việc sử dụng
công cụ LSCB trong việc điều hành CSTT cần được linh hoạt triển khai theo những
cách thức khác nhau, phù hợp với điều kiện của nền kinh tế quốc gia theo từng giai
đoạn nhằm phát huy tối đa chức năng của các công cụ và đảm bảo cho sự ổn định, phát
triển của thị trường tài chính. Cụ thể, NHNN cần tạo điều kiện để lãi suất cơ bản thể
hiện đúng vai trò định hướng thị trường tiền tệ của mình theo những hướng đi như sau:
- Trước mắt là phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản trở thành lãi suất chuẩn
mực, định hướng được lãi suất thị trường, trên cơ sở đó NHNN sử dụng LSCB dưới
danh nghĩa là mức lãi suất mục tiêu. Khi NHNN công bố LSCB ra thị trường, điều này
sẽ đồng nghĩa với việc NHNN đang phát đi tín hiệu là điều hành hay định hướng lãi
suất thị trường về mức lãi suất mục tiêu là LSCB. Theo kinh nghiệm của một số nước
trên thế giới, để có thể phát huy được tốt vai trò định hướng của LSCB thì bản thân
NHTW của quốc gia đó phải xác định được những mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở
định lượng cụ thể về lạm phát, tăng trưởng, hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh
tế đạt trạng thái cân bằng. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản -
-78-
làm cơ sở định hướng chuẩn mực cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền
tệ là một việc cần thiết phải thực hiện trong thời gian này.
- Trên cơ sở mức LSCB hay mức lãi suất mục tiêu đã xác định, NHNN hình
thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo khác như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết
khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử LNH và cho vay bù đắp thiếu
hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các NH. Thông qua nghiệp vụ thị
trường mở (công bố và điều tiết lãi suất nghiệp vụ thị trường mở hoặc thực hiện mua,
bán giấy tờ có giá ngắn hạn), NHNN sẽ chủ động điều tiết lãi suất thị trường (bao gồm
lãi suất LNH rồi đến LSHĐ, LSCV ngắn hạn rồi dài hạn) biến động về xung quanh
mức LSCB hay mức lãi suất mục tiêu, qua đó sẽ tác động đến các hành vi cho vay, đi
vay của các thành viên trên thị trường tài chính – tiền tệ, lượng tiền cung ứng cũng sẽ
được điều tiết hợp lý để đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu này, từ đó góp phần thực
hiện tốt mục tiêu mà CSTT hay chính sách điều hành lãi suất hướng đến.
3.2.4 Nhóm giải pháp tiếp tục phát triển hoạt động thị trƣờng liên ngân
hàng và thị trƣờng mở giúp NHNN thực hiện tốt vai trò ngƣời cho vay cuối cùng
Qua phân tích thực trạng và tìm ra nguyên nhân gây ra các mặt hạn chế cho thấy
trong thời gian qua NHNN chưa thực hiện tốt vai trò người cho vay cuối cùng của
mình trên thị trường LNH và thị trường mở - là hai thị trường với chức năng cơ bản là
hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống NHTM, giúp nâng cao hiệu quả truyền tải cơ chế điều
hành lãi suất của NHNN đến lãi suất thị trường và nền kinh tế, mặt hạn chế này đã thể
hiện rõ khi lãi suất thị trường có những thời điểm biến động không theo đúng định
hướng mà NHNN đã đề ra ban đầu. Và một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến
NHNN chưa thực hiện tốt vai trò của mình và hiệu quả truyền dẫn đến lãi suất thị
trường chưa cao đó là do hoạt động trên thị trường LNH chưa được tổ chức tốt, hoạt
động trên thị trường mở thì chưa đa dạng và phát triển. Như vậy để NHNN thực hiện
tốt vai trò người cho vay cuối cùng đối với các TCTD hay thực hiện tốt công tác điều
tiết lãi suất thị trường theo đúng định hướng đã đề ra, NHNN cần phải thực hiện một số
-79-
giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động trên thị trường LNH và thị trường
mở như sau:
Đối với thị trường liên ngân hàng: (i) NHNN nên thực hiện các biện pháp và
xây dựng hệ thống các chỉ tiêu kiểm soát hữu hiệu thị trường LNH nhằm theo dõi kịp
thời diễn biến lãi suất trên thị trường LNH, làm cơ sở để nghiên cứu và ban hành các
loại lãi suất chỉ đạo khác; (ii) NHNN cần thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động thị trường LNH, đảm bảo lãi suất thị trường LNH là cơ sở để NHNN
tính toán và xác định các mức lãi suất điều hành khác qua các hoạt động thiết thực như:
NHNN cần đưa ra những quy định cụ thể về quyền lợi và trách nhiệm của các NHTM
tham gia; thành lập tổ chức xếp hạng các NH trực thuộc NHNN để đánh giá các chỉ
tiêu cơ bản của NH, từ đó chọn được những NH thực sự lớn mạnh và tâm huyết tham
gia thị trường LNH; (iii) NHNN cần hoàn thiện hệ thống thanh toán quốc gia
(CITAD) tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển vốn qua lại giữa các NHTM; (iv)
Tiếp tục hoàn thiện các cơ sở pháp lý nhằm hướng dẫn và giải quyết các vấn đề phát
sinh trong quá trình các NHTM tham gia trên thị trường LNH.
Đối với hoạt động thị trường mở: (i) NHNN cần từng bước tiến hành nghiên
cứu, hoàn chỉnh và đẩy mạnh cơ chế thực hiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở như:
đa dạng hóa các loại giấy tờ có giá giao dịch trên thị trường, hoàn thiện quy trình, tăng
số phiên giao dịch, mở rộng kết nạp thành viên mới tạo điều kiện cho các NHTM vừa
và nhỏ có thể tham gia thị trường mở và tiếp cận được với hình thức tái cấp vốn của
NHNN; (ii) NHNN cần xác định tín phiếu kho bạc là loại giấy tờ có giá chủ chốt được
sử dụng để mua bán trong công cụ nghiệp vụ thị trường mở để kiểm soát cung ứng tiền
và lãi suất thị trường vì đây là loại giấy tờ có giá có rủi ro thấp, tính lỏng cao mà đặc
biệt hơn hết là sự trung lập về lợi ích kinh tế là cao nhất so với các loại giấy tờ có giá
khác trong nền kinh tế; (iii) NHNN cần thực hiện các giải pháp góp phần làm tăng tính
lỏng của các loại giấy tờ có giá nhằm mở rộng quy mô và phạm vi của nghiệp vụ thị
trường mở, chẳng hạn như đề ra các giải pháp khuyến khích người dân nắm giữ các
-80-
loại giấy tờ có giá thay vì thói quen nắm giữ tiền mặt.
3.2.5 Nhóm giải pháp tăng cƣờng vai trò công tác thống kê, dự báo
NHNN cần tăng cường vai trò công tác thống kê tổng hợp thông tin bằng cách
xây dựng một hệ thống thông tin có thể cập nhật kịp thời những thay đổi trên thị trường
tài chính và diễn biến của nền kinh tế vĩ mô. Để thực hiện được điều đó NHNN cần
thực hiện một số biện pháp như: (i) cần có chính sách đầu tư hợp lý về cơ sở vật chất,
trang thiết bị và con người phục vụ cho công tác phân tích, tính toán, cập nhật thông tin
về lãi suất trên thị trường; (ii) cần phối hợp với các Bộ, ban ngành khác và thậm chí là
các tổ chức tài chính ở nước ngoài để thu thập được nhiều thông tin đáng tin cậy hơn;
(iii) đối với hoạt động trên thị trường LNH, NHNN cần phải thu thập được đầy đủ các
thông tin về chào vốn của các NH được lựa chọn hằng ngày về các giao dịch được lựa
chọn trong ngày, doanh số, thời hạn, lãi suất... Việc thu thập thông tin này cần phải
được thực hiện thông qua mạng vi tính trực tuyến giữa NHNN với các NHTM khác
một cách nhanh chóng; (iv) hoàn thiện và phát triển hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu về
quy mô, lẫn chất lượng, trên cơ sở tin học hóa hiện đại phục vụ cho công tác thu thập,
thống kê, phân tích và dự báo, chẳng hạn như bổ sung thêm các mốc thời gian dài hơn,
một số chỉ tiêu cần được trình bày chi tiết hơn về kỳ hạn (chẳng hạn GDP hiện nay chỉ
có số liệu theo quý), đặc biệt cần bổ sung thêm hệ thống các số liệu về lãi suất rất khó
thu thập được hiện nay như lãi suất OMO, lãi suất giao dịch LNH của các NHTM (hiện
nay chỉ được thu thập thủ công qua từng ngày và chỉ có mốc thời gian trong vòng 3
năm trở lại), lãi suất thị trường (chưa có một hệ thống cơ sở dữ liệu tổng hợp đầy đủ).
Trên cơ sở thực hiện tốt công tác thu thập thông tin, thống kê số liệu, NHNN cần
thực hiện một số biện pháp sau để tăng cường hiệu quả công tác dự báo trong tương lai
(mà đặc biệt quan trọng trong thời gian tới là công tác dự báo về lạm phát) như sau: (i)
tăng cường hiệu quả phân tích và dự báo bằng cách áp dụng các mô hình kinh tế lượng;
(ii) đào tạo đội ngũ chuyên môn và cung cấp cơ sở vật chất phù hợp để thiết lập các mô
hình phân tích và dự báo có kết quả sát thực; (iii) thực hiện nhiều hơn các cuộc điều tra
-81-
về những kỳ vọng lạm phát hoặc kỳ vọng lãi suất thị trường được thực hiện bởi NHNN
hoặc các khu vực tư nhân; (iv) tăng cường phối hợp trao đổi thông tin với các Bộ,
ngành, cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước để phân tích và dự báo được diễn biến của
xu hướng lạm phát và lãi suất cũng như một số chỉ tiêu quan trọng khác.
3.2.6 Nhóm giải pháp thực hiện cơ chế điều hành lãi suất theo hƣớng công
khai, minh bạch hóa thông tin
Việc tăng cường tính công khai và minh bạch hóa thông tin có quan hệ mật thiết
đến việc thực thi có hiệu quả chính sách lãi suất nói riêng và CSTT nói chung thể hiện
ở những mặt sau: tính minh bạch làm tăng hiểu biết tốt hơn của công chúng về thị
trường và CSTT, trên cơ sở đó người dân sẽ tin tưởng và ủng hộ cho công tác điều
hành CSTT của NHNN giúp cho việc điều hành CSTT đạt kết quả tốt hơn; Khi công
khai minh bạch hóa thông tin giúp các chủ thể trên thị trường tài chính hiểu biết và dự
đoán được những động thái điều hành của NHTW, thì công tác truyền tải CSTT đến
các hoạt động của nền kinh tế sẽ được thực hiện trôi chảy hơn. Đo đó, để công tác tăng
cường công khai minh bạch hóa thông tin được thực hiện tốt góp phần đạt hiệu quả cao
trong công tác điều hành CSTT hay chính sách lãi suất thì NHNN cần phải thiết lập
được cơ chế cụ thể về tính minh bạch và cách công bố thông tin, giải trình trước công
chúng của NHNN, cụ thể như sau:
- Nội dung cần công khai và minh bạch trong điều hành CSTT và chính sách lãi
suất bao gồm: (i) mục tiêu điều hành (trong thời gian tới phải trình bày giải thích rõ
mục tiêu là ưu tiên kiểm soát lạm phát); (ii) dự báo về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, tài
chính tiền tệ và khả năng đạt được mục tiêu; (iii) biên bản cuộc họp và quyết định
chính sách; (iv) kết quả bỏ phiếu ra quyết định chính sách; (v) tổng quan tình hình thực
hiện chính sách; (vi) giải thích về việc thay đổi chính sách (nếu có)
- Cách thức công khai và minh bạch thông tin có thể áp dụng các kênh thường
xuyên, định kỳ và không định kỳ. Kênh thường xuyên, định kỳ (tháng, quý) thông qua
các ấn phẩm như báo cáo thường niên, báo cáo định kỳ về lạm phát; thông qua giải
-82-
trình định kỳ của Thống đốc NHNN trên truyền hình hoặc các phương tiện truyền
thông. Kênh đột xuất thông qua tổ chức họp báo, trả lời báo chí và công chúng.
- Các cam kết về nội dung truyền tải qua các ấn phẩm – báo cáo, trả lời báo chí
của NHNN cần được xác thực bởi Thống đốc NHNN qua thư hoặc văn bản cam kết với
Quốc hội, hoặc Thủ tướng Chính phủ, hoặc Chủ tịch nước.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Qua những định hướng trong điều hành CSTT và những định hướng trong cơ
chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam trong thời gian tới, có thể thấy xu hướng
tự do hóa lãi suất có kiểm soát đang là định hướng chủ đạo mà NHNN hướng đến.
Ngoài ra, để công tác điều hành lãi suất đạt kết quả tốt hơn thì trong điều hành CSTT,
NHNN cũng cần phải dần chuyển sang thực hiện mục tiêu trung gian là lãi suất chứ
không chỉ là kiểm soát khối lượng như trước đây. Để đảm bảo thực hiện tốt theo định
hướng này, NHNN Việt Nam cần phải thực hiện đồng bộ một số biện pháp như: tăng
cường mức độ độc lập của NHNN với Chính phủ; cải thiện tính hành chính trong công
tác điều hành lãi suất; hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản; tăng cường công tác
thống kê, dự báo; thực hiện công khai, minh bạch hóa thông tin v.v…
KẾT LUẬN
Hoàn thiện hơn cơ chế điều hành lãi suất là việc làm rất cần thiết hiện nay khi
Việt Nam đang hội nhập sâu rộng và chịu ảnh hưởng rất lớn từ những biến động kinh
tế trên thế giới. Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất không chỉ có ý nghĩa quan trọng
trong công tác điều hành lãi suất, điều hành chính sách tiền tệ mà còn có vai trò quan
trọng đối với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Hiện nay Việt Nam đang ngày
càng tự do hóa hơn về lãi suất để đảm bảo điều hành lãi suất có hiệu quả bằng những
công cụ gián tiếp, tuy nhiên sự hội nhập về lãi suất này cần phải hết sức thận trọng
cũng như phải được tiến hành theo lộ trình đã tính toán lỹ lưỡng để không gây ra
những cú sốc ảnh hưởng không tốt với thị trường tiền tệ Việt Nam đang còn nhiều yếu
kém và non nớt. Ngoài ra, để đảm bảo công tác điều hành lãi suất đạt được kết quả tốt
hơn đòi hỏi NHNN phải có được sự chủ động nhiều hơn trong điều hành CSTT cũng
như điều hành lãi suất, hạn chế sự phụ thuộc quá nhiều vào Chính phủ. Đây cũng
chính là một trong những điều kiện tiên quyết trong những điều kiện cơ bản để có thể
áp dụng cơ chế “lạm phát mục tiêu” mà NHNN Việt Nam nên xem xét và hướng đến.
Với mục tiêu giúp “Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam” bằng những
tổng quan lý thuyết về lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất, những phân tích và đánh
giá về thực trạng điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam trong giai đoạn 2008 – tháng
6/2013, đưa ra những thành công, mặt hạn chế, nguyên nhân gây ra những mặt hạn
chế, từ đó đề ra một số giải pháp nhằm “Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất” hướng
đến năm 2020, hy vọng đề tài sẽ là một tài liệu hữu ích để NHNN tham khảo, từ đó
góp phần hỗ trợ NHNN đưa ra những giải pháp điều hành lãi suất “hoàn thiện” hơn
trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Châu Đình Phương (2009), “Suy nghĩ về cơ chế điều hành lãi suất hiện nay”, Tạp
chí ngân hàng, (Số 6), tr. 69.
2. Đỗ Thị Ngọc Anh (2011), “Trao đổi về cơ chế áp dụng lãi suất trong huy động vốn
của NHNN hiện nay”, Tạp chí ngân hàng, (Số 15), tr. 27-28.
3. Frederic S.Mishkin (1999), Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường tài chính, Nhà xuất
bản Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội.
4. Hà Quang Đào (2011), “Nhìn lại cơ chế điều hành lãi suất trong thời gian qua – giải
pháp thời gian tới”, Nghiên cứu kinh tế, (Số 310), tr. 17-22.
5. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Giáo trình lịch sử các học thuyết
kinh tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Lâm Hồng Anh (2007), Giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành lãi suất của Chính
Phủ đối với Ngân hàng phát triển Việt Nam trong điều kiện hội nhập, Luận văn
Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí
Minh.
7. Lê Phan Thanh Hòa (2011), “Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở Việt
Nam”, Công nghệ ngân hàng, (Số 67), tr. 39-43.
8. Lê Văn Tư (2006), Tiền tệ, Ngân hàng, Thị trường tài chính, Nhà xuất bản Tài
chính, TP.HCM.
9. Minh Khuê (2012), “Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở Việt Nam”,
Tạp chí ngân hàng, (Số 3), tr. 23-27.
10. N. Gregory Mankiw (1997), Kinh tế học vĩ mô, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội.
11. Nguyễn Anh Vũ (2011), “Bàn về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam”,
Công nghệ ngân hàng, (Số 28), tr. 43-45.
12. Nguyễn Đắc Hưng (2011), “Một số ý kiến góp phần hoàn thiện cơ chế điều hành lãi
suất và phát triển thị trường tiền tệ”, Tạp chí ngân hàng, (Số 10), tr. 16-18.
13. Nguyễn Đại Lai (2011), “Giảm lãi suất trong bối cảnh chống lạm phát”, Chứng
khoán Việt Nam, (Số 154), tr. 33-36.
14. Nguyễn Đăng Dờn - Chủ biên (2011), Nghiệp vụ Ngân hàng Trung Ương, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia TPHCM, TP.HCM
15. Nguyễn Đình Luận (2013), “Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam và đề xuất các chính sách”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, (Số 21),
tr.16-20
16. Nguyễn Đình Tự (2011), “Một số ý kiến về điều hành lãi suất ngân hàng ở nước ta
hiện nay”, Tạp chí ngân hàng, (Số 20), tr. 26-29.
17. Nguyễn Minh Phong (2010), “Điều hành lãi suất ngân hàng theo hướng giảm dần –
Kết quả bước đầu và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí ngân hàng, (Số 9), tr. 2-9.
18. Nguyễn Ngọc Bảo (2011), “Lãi suất cơ bản trong điều hành chính sách lãi suất từ
sau khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận”, Tạp chí ngân hàng, (Số 11), tr. 13-15.
19. Nguyễn Thị Kim Thanh (2010), “Chính sách lãi suất – Cơ sở lý luận và thực tiễn”,
Tạp chí ngân hàng, (Số 8), tr. 5-24.
20. Nguyễn Thị Kim Thanh (2013), “Hướng tới bình ổn thị trường tiền tệ những tháng
cuối năm 2013”, Tạp chí tài chính, (Số 585), tr. 18-20.
21. Nguyễn Thị Thu Hiếu (2013), “Đôi điều suy ngẫm về cơ chế điều hành lãi suất Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, (Số 12), tr.13-18
22. Nguyễn Thị Trà My (2011), Tác động cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng
Nhà nước đến thanh khoản các Ngân hàng Thương mại Việt Nam, Luận văn Thạc
sỹ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
23. Nguyễn Xuân Hưng (2009), “Lạm bàn về cơ chế lãi suất trong cơ chế thị trường
của Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (Số 7), tr. 34-42.
24. Nguyễn Xuân Hưng (2010), “Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW các nước và
liên hệ với Việt Nam”, Thị trường tài chính tiền tệ, (Số 16), tr. 21-23.
25. Robert S.Pinkdyck, Daniel L.Rubinfeld (1999), Kinh tế học vi mô, Nhà xuất bản
Thống Kê, Hà Nội.
26. Tô Thị Ánh Dương - Chủ biên (2010), Lạm phát mục tiêu và hàm ý đối với khuôn
khổ chính sách tiền tệ ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội.
27. Trương Thị Mỹ Chi (2011), Thực trạng lãi suất thị trường tiền tệ Việt Nam giai
đoạn 2007-2010, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
28. Sử Đình Thành –Vũ Thị Minh Hằng (2008), Nhập môn Tài chính – Tiền tệ, Nhà
xuất bản Lao động Xã hội, TP.HCM
29. Văn Tạo (2009), “Cơ chế điều hành lãi suất mới đã phát huy tác dụng góp phần
kiềm chế lạm phát và chống suy giảm kinh tế”, Thị trường Tài chính Tiền tệ, (Số
274-275), tr. 40-43.
30. Vũ Hoài Chang (2011), “Cơ chế điều hành lãi suất thị trường tiền tệ của ngân hàng
trung ương”, Khoa học và đào tạo ngân hàng, (Số 4), tr. 15.
Website tham khảo
31. http://finance.tvsi.com.vn/News/2012810/213909/dieu-hanh-chinh-sach-tien-te-
hoc-duoc-gi-tu-ngan-hang-trung-uong-nhat-ban.aspx
32. Bách khoa toàn thư mở: http://vi.wikipedia.org
33. Thư viện dữ liệu điện tử của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF: http://elibrary-data.imf.org
34. Website Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam http://chinhphu.vn
35. Website Tổng Cục thống kê: www.gso.gov.vn
36. Website Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn