BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM

Nguyễn Thị Chi Thảo

HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM

Nguyễn Thị Chi Thảo

HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 60.34.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRẦN THỊ MỘNG TUYẾT

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài “Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ở Việt

Nam” này là công trình nghiên cứu riêng của tôi, đồng thời có sự góp ý, hướng dẫn

của TS. Trần Thị Mộng Tuyết.

Các số liệu được sử dụng trong luận văn hoàn toàn trung thực, chính xác và

có nguồn gốc rõ ràng.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2013

Người viết

Nguyễn Thị Chi Thảo

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BOJ Ngân hàng Trung Ương Nhật Bản

CPI Chỉ số giá tiêu dùng

CSTK Chính sách tài khóa

CSTT Chính sách tiền tệ

GDP Tăng trưởng kinh tế

LNH Liên ngân hàng

LSCB Lãi suất cơ bản

LSTCK Lãi suất tái chiết khấu

LSTCV Lãi suất tái cấp vốn

NH Ngân hàng

NHNN Ngân hàng Nhà nước

NHTM Ngân hàng Thương mại

NHTW Ngân hàng Trung Ương

OMO Nghiệp vụ Thị truờng mở

TCTD Tổ chức tín dụng

VNBA Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam

VND Đồng Việt Nam

DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT Tên bảng biểu Trang

Bảng 2.1 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2008 35

Bảng 2.2 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2009 38

Bảng 2.3 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2010 40

Bảng 2.4 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2011 42

Bảng 2.5 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2012 44

Bảng 2.6 Tình hình biến động lãi suất điều hành 6 tháng đầu năm 2013 47

Cơ chế điều hành lãi suất thỏa thuận của NHNN từ năm 2008 Bảng 2.7 51 đến tháng 6/2013

Mục tiêu và thực hiện Tăng trưởng kinh tế và Lạm phát 2008 – Bảng 2.8 57 2013

DANH MỤC HÌNH VẼ

STT Tên hình vẽ, đồ thị Trang

Hình 1.1 Cung và cầu vốn vay 3

Hình 1.2 Sự dịch chuyển của cung – cầu vốn vay 7

Hình 1.3 Mô hình cơ chế điều hành lãi suất 13

Hình 2.1 Nguyên tắc điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam 31

DANH MỤC ĐỒ THỊ

STT Tên đồ thị Trang

Đồ thị 1.1 Cơ chế điều hành lãi suất của BOJ giai đoạn 2006 đến 2012 22

Đồ thị 2.1 Lạm phát và tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2000 – tháng 6/2013 27

Diễn biến các mức lãi suất điều hành của NHNN từ năm 2008 Đồ thị 2.2 48 đến tháng 6/ 2013

Diễn biến lãi suất OMO, LSHĐ bình quân và LSCV bình quân Đồ thị 2.3 50 từ năm 2008 đến tháng 6/ 2013

Diễn biến các mức lãi suất điều hành, LSHĐ bình quân và Đồ thị 2.4 53 LSCV bình quân từ năm 2008 đến tháng 6/2013

Diễn biến LSTCV, LSTCK, Lãi suất LNH và lãi suất OMO từ Đồ thị 2.5 55 năm 2008 đến tháng 6/ 2013

Diễn biến LSCB, LSHĐ bình quân và LSCV bình quân từ năm Đồ thị 2.6 56 2008 đến tháng 6/2013

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục từ viết tắt

Danh mục bảng biểu

Danh mục hình vẽ

Danh mục đồ thị

Lời mở đầu

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LÃI SUẤT VÀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH

LÃI SUẤT

1.1. Lãi suất ------------------------------------------------------------------------------------- 1

1.1.1. Khái niệm về lãi suất --------------------------------------------------------------- 1

1.1.2. Cơ sở hình thành lãi suất ----------------------------------------------------------- 2

1.1.3. Phân loại lãi suất -------------------------------------------------------------------- 4

1.1.3.1 Nhóm “lãi suất thị trường” được hình thành từ quan hệ

cung – cầu vốn vay ----------------------------------------------------------- 4

1.1.3.2 Nhóm “lãi suất điều hành” do Ngân hàng Trung ương công bố

được sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ ------------------------- 5

1.1.4. Các nhân tố tác động đến lãi suất ------------------------------------------------- 6

1.1.5 Vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế ------------------------------------------- 9

1.2. Cơ chế điều hành lãi suất --------------------------------------------------------------- 11

1.2.1 Khái niệm về cơ chế ----------------------------------------------------------------- 11

1.2.2 Khái niệm và nội dung cơ chế điều hành lãi suất-------------------------------- 11

1.2.3 Phân loại cơ chế điều hành lãi suất ------------------------------------------------ 14

1.2.3.1 Cơ chế điều hành trực tiếp (cơ chế kiểm soát lãi suất) ----------------- 14

1.2.3.2 Cơ chế điều hành gián tiếp (cơ chế tự do hóa lãi suất) ----------------- 14

1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế điều hành lãi suất của NHTW ----------- 16

1.2.5 Mục tiêu và vai trò của cơ chế điều hành lãi suất trong điều hành CSTT --- 18

1.3 Sự cần thiết phải hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất -------------------------- 20

1.4 Tìm hiểu về cơ chế điều hành lãi suất của NHTW Nhật Bản giai đoạn

2006 – 2012 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam------------------------------------- 21

1.4.1. Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW Nhật Bản giai đoạn 2006 – 2012 --- 21

1.4.2. Bài học kinh nghiệm từ cách điều hành lãi suất của BOJ ------------------- 23

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 -------------------------------------------------------------------------- 25

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM

2.1 Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam từ năm 2008 đến tháng 6/2013 ----------------- 26

2.2 Tổng quan về NHNN Việt Nam và nguyên tắc điều hành lãi suất của

NHNN Việt Nam ------------------------------------------------------------------------------- 29

2.3 Sơ lƣợc về cơ chế điều hành lãi suất thời kỳ trƣớc năm 2008 ------------------- 31

2.4 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam

giai đoạn từ năm 2008 đến tháng 6/2013 ------------------------------------------------- 33

2.4.1 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2008 --------------------------------- 33

2.4.2 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2009 --------------------------------- 37

2.4.3 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2010 --------------------------------- 39

2.4.4 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2011 --------------------------------- 41

2.4.5 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2012 --------------------------------- 43

2.4.6 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất 6 tháng đầu năm 2013 ------------------ 46

2.5 Đánh giá thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam giai

đoạn 2008 đến tháng 6/2013 ----------------------------------------------------------------- 48

2.5.1 Những kết quả đạt được------------------------------------------------------------- 48

2.5.2 Những mặt hạn chế ------------------------------------------------------------------ 54

2.5.3 Nguyên nhân của những mặt hạn chế --------------------------------------------- 60

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ------------------------------------------------------------------- 67

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU

HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM

3.1 Mục tiêu, định hướng điều hành chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất

hướng đến năm 2020 -------------------------------------------------------------------------- 68

3.1.1 Mục tiêu điều hành CSTT hướng đến năm 2020 ------------------------------- 68

3.1.2 Định hướng điều hành CSTT hướng đến năm 2020 --------------------------- 69

3.1.3 Định hướng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam hướng đến

năm 2020 ----------------------------------------------------------------------------- 72

3.2 Giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam ------------ 74

3.2.1 Nhóm giải pháp tăng cường mức độ độc lập của NHNN, từ đó hoàn

thiện những điều kiện cơ bản để hướng tới điều hành lãi suất theo cơ

chế lạm phát mục tiêu -------------------------------------------------------------- 74

3.2.2 Nhóm giải pháp cải thiện tính hành chính trong điều hành CSTT ----------- 75

3.2.3 Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản ----------------- 77

3.2.4 Nhóm giải pháp tiếp tục phát triển hoạt động thị trường LNH và thị

trường mở giúp NHNN thực hiện tốt vai trò người cho vay cuối cùng ------ 78

3.2.5 Nhóm giải pháp tăng cường vai trò công tác thống kê, dự báo --------------- 80

3.2.6 Nhóm giải pháp thực hiện cơ chế điều hành lãi suất theo hướng công

khai, minh bạch hóa thông tin ----------------------------------------------------- 81

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 -------------------------------------------------------------------- 82

Kết luận

Tài liệu tham khảo

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Lãi suất là một công cụ tiền tệ đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế

của một quốc gia. Lãi suất là một biến số được theo dõi rất chặt chẽ qua báo chí và các

phương tiện thông tin đại chúng vì nó không chỉ ảnh hưởng đến khuynh hướng tiêu

dùng, tiết kiệm của cá nhân mà còn ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các doanh

nghiệp và hộ gia đình. Trong công tác điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, lãi suất là

một công cụ rất quan trọng giúp Ngân hành Trung ương điều hành điều hành chính

sách tiền tệ đạt hiệu quả và truyền dẫn tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế

nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong từng thời kỳ nhất định. Cơ chế điều hành lãi suất

hiệu quả của một quốc gia sẽ có ý nghĩa to lớn góp phần ổn định và phát triển hệ thống

ngân hàng, thị trường tài chính hay sự ổn định và phát triển của nền kinh tế nói chung.

Một quốc gia cho dù đang ở trình độ phát triển như thế nào đi chăng nữa thì chính sách

lãi suất của Ngân hành Trung ương luôn có vai trò và sự tác động rất lớn đối với nền

kinh tế.

Ngày nay, khi Việt Nam đã hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới gắn

liền với nhiều cơ hội và thách thức thì vai trò của công cụ lãi suất trong điều hành

chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu phát

triển kinh tế xã hội của đất nước càng trở nên quan trọng và phức tạp hơn. Trước

những biến động liên tục không thể lường trước của nền kinh tế thế giới trong thời

gian qua, mà đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu diễn

ra vào năm 2008 đã ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế Việt Nam và khiến cho công tác

điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gặp phải rất nhiều khó khăn và

trở ngại. Vì thế việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế điều hành lãi

suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 2008 đến nay (tháng 6/2013), trên cơ

sở đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ở

Việt Nam trong thời gian tới, có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xây dựng và

điều hành một cách có hiệu quả chính sách lãi suất nói riêng và chính sách tiền tệ nói

chung của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Điều này cũng góp phần thực hiện mục

tiêu tăng trưởng bền vững và đảm bảo sự thắng lợi cho công cuộc công nghiệp hóa và

hiện đại hóa đất nước.

Trên cơ sở đó, tác giả chọn đề tài: “Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ở

Việt Nam” cho đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu:

- Về lý luận: Tìm hiểu, tập hợp và hệ thống các lý luận về công cụ lãi suất, cơ chế điều

hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương

- Về thực tiễn:

+ Phân tích và đánh giá thực trạng cơ chế điều hành lãi suất tại Việt trong giai

đoạn 2008 đến tháng 6 năm 2013.

+ Trên cơ sở trên, đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế

điều hành lãi suất ở Việt Nam trong thời gian tới.

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu:

- Đối tượng nghiên cứu: Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Phạm vi không gian: Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các loại lãi suất

đồng nội tệ (VND) trên thị trường tiền tệ, được phân chia thành hai nhóm: nhóm “lãi

suất điều hành” do NHNN công bố dùng để điều hành CSTT và nhóm “lãi suất thị

trường” được hình thành do quan hệ cung cầu về vốn vay trên thị trường.

+ Phạm vi thời gian: giai đoạn từ năm 2008 đến tháng 6 năm 2013

4. Phƣơng pháp nghiên cứu:

- Luận văn chủ yếu dùng phương pháp phân tích định tính, trên cơ sở các dữ liệu thu

thập để đánh giá cơ chế điều hành lãi suất tại Việt Nam, đồng thời đề xuất những giải

pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trong thời gian tới.

- Luận văn sử dụng phương pháp quy nạp, diễn giải, đi từ khái quát chung đến vấn đề

cụ thể, gắn lý luận với thực tiễn. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng phương pháp

khoa học như thống kê, so sánh và tổng hợp và phân tích.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm 3 chương:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất

Chƣơng 2: Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam

Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam.

-1-

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LÃI SUẤT VÀ

CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT

1.1 Lãi suất

1.1.1 Khái niệm về lãi suất

Lịch sử các học thuyết kinh tế cho thấy có rất nhiều quan điểm khác nhau về

tiền tệ và lãi suất, trong đó có những quan điểm tiến bộ, cũng có những quan điểm còn

nhiều thiếu sót và hạn chế. Nhưng một thực tế cho thấy rằng, theo thời gian, các quan

điểm này ngày càng hoàn thiện hơn và đã khắc phục cũng như bổ sung được những

khiếm khuyết của các học thuyết trước đó. Sau đây là các khái niệm về lãi suất của

một số học thuyết kinh tế:

- Karl Marx (1818 – 1883) cho rằng “sau một thời gian nhất định tư bản cho

vay được hoàn lại người chủ sở hữu của nó kèm theo một giá trị tăng thêm đó là lợi tức

tín dụng”, như vậy theo ông lợi tức tín dụng là một bộ phận của giá trị thặng dư hay lợi

nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay tạo ra bằng việc sử dụng vốn vay và phải phân

phối lại cho nhà tư bản cho vay.

- J.M.Keynes (1884 – 1946) thì cho rằng: “lãi suất là phần trả công cho việc

không sử dụng tiền mặt trong một thời gian nào đó, là phần thưởng cho sự chia ly với

tiền tệ hay cho sở thích thanh khoản hay sự ưa chuộng thanh khoản (tức là biến tư bản

tiền tệ thành tư bản sinh lợi tức)”. Vì theo Keynes thì người có tiền không muốn xa rời

nó do của cải dưới hình thức tiền tệ là linh hoạt, thuận lợi và an toàn nhất. Khi người

có tiền quyết định cho vay thì họ phải chấp nhận sự mạo hiểm, do đó họ đòi hỏi phải

nhận được phần thưởng – đó chính là lãi suất.

- Ngoài ra, đại diện của Trường phái Cambridge (Anh) – Trường phái tân cổ

điển, Alfred Marshall (1842 – 1924) đã phát biểu: “Lãi suất là cái giá phải trả cho việc

sử dụng vốn trên một thị trường bất kỳ, lãi suất vươn tới một mức cân bằng sao cho

tổng cầu về vốn trên thị trường đó với lãi suất đó bằng tổng cung về vốn được cung

ứng trên thị trường đó với lãi suất đó”, và P.A.Samuelson, W.Nordhaus – đại biểu của

-2-

Trường phái chính hiện đại cũng cho rằng: “Lãi suất là giá cả của việc sử dụng một số

tiền vay trong một thời gian nhất định”.

Như vậy, có thể hiểu lãi suất là giá của quyền sử dụng vốn hay là chi phí mà

người đi vay phải trả cho việc sử dụng vốn của người cho vay trong một khoảng thời

gian nhất định.

Trong đó, lợi tức (interest) hay số tiền lãi phải trả là chi phí sử dụng vốn được

biểu hiện bằng số tuyệt đối, là phần giá trị tăng thêm ngoài vốn gốc mà người đi vay

phải trả cho người cho vay về việc chuyển giao quyền sử dụng vốn trong một thời gian

nhất định. Còn lãi suất (interest rate) hay tỷ suất lợi tức, là chi phí sử dụng vốn được

biểu hiện bằng số tương đối (tỷ lệ phần trăm – %), là tỷ số giữa tổng số lợi tức và tổng

số tiền cho vay trong cùng một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất tín dụng được

dùng làm cơ sở để tính lợi tức tín dụng và quyết định tổng số lợi tức tín dụng mà người

cho vay nhận được.

1.1.2 Cơ sở hình thành lãi suất

Ngày nay, hầu hết các quốc gia đều có nền kinh tế thị trường và chủ yếu theo

đuổi chính sách tự do hóa tài chính, do vậy, cơ chế hình thành lãi suất chủ yếu dựa trên

cơ chế thị trường. Cũng giống như tất cả các loại giá cả khác trên thị trường, lãi suất

cũng được quyết định bởi cung – cầu, và trong trường hợp này chính là cung cầu về

vốn vay. Sự thay đổi về cung – cầu của vốn vay sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành và

biến đổi của lãi suất trên thị trường.

Cung về vốn vay có nguồn gốc từ tiết kiệm của hộ gia đình. Người dân thường

có nhu cầu sử dụng phần tiết kiệm của mình để đầu tư sinh lời hoặc gửi vào ngân hàng

để nhận tiền lãi, sau đó chính các NH này lại sử dụng tiền đã huy động được để cho

vay đáp ứng nhu cầu của các đối tượng thiếu vốn trong nền kinh tế hoặc NH cũng đem

đi đầu tư để sinh lời. Như vậy chính phần tiết kiệm của hộ gia đình đã đóng vai trò như

một nguồn cung ứng vốn vay cho nền kinh tế. Khi lãi suất càng cao, thì các hộ gia đình

-3-

sẽ tiết kiệm càng nhiều để hưởng lãi suất. Do đó, đường cung vốn vay sẽ là một đường

dốc lên (kí hiệu là đường S trong hình 1.1).

Cầu về vốn vay bao gồm hai bộ phận: đó chính là tiêu dùng của hộ gia đình và

đầu tư của doanh nghiệp.

Khi các hộ gia đình có nhu cầu tiêu dùng, mặc dù có thu nhập cao nhưng lại

thiếu vốn trong hiện tại, thì họ sẽ sẵn sàng vay vốn và trả lãi (trong khả năng thu nhập

tương lai có thể thanh toán được) để không phải trì hoãn mong muốn tiêu dùng của

mình. Tuy nhiên, nếu lãi suất vốn vay ngày càng cao thì các hộ gia đình phải xem xét

lại lợi ích mà giảm bớt nhu cầu vay tiền của mình. Cho nên cầu về vốn vay của các hộ

gia đình là một hàm nghịch biến của lãi suất (kí hiệu là đường DH trong hình 1.1).

Hình 1.1: Cung và Cầu về vốn vay

R Lãi suất

S

R*

DT DH DF

Q* Số lượng vốn vay

Nguồn: Robert S.Pinkdyck, Daniel L.Rubinfeld (1999), Kinh tế học vi mô

Ngoài ra, bộ phận thứ hai của cầu về vốn vay chính là từ các doanh nghiệp

muốn có vốn để đầu tư vào các dự án có lợi nhuận từ hoạt động đầu tư trong tương lai

lớn hơn chi phí đã bỏ ra ban đầu (lãi suất vay vốn) để thu lợi. Như vậy nếu lãi suất tăng

thì chi phí đầu tư bỏ ra của doanh nghiệp càng lớn và lợi tức mà doanh nghiệp nhận về

sẽ càng nhỏ, do đó các hãng sẽ giảm đầu tư và nhu cầu về vốn vay cũng giảm theo.

-4-

Như vậy, cầu về vốn của vay các hãng là một đường dốc xuống (kí hiệu là đường DF).

Tổng cầu về vốn vay chính là tổng của cầu của các hộ gia đình và các doanh

nghiệp, trong hình 1.1 tổng cầu được minh hoạ bằng đường DT. Đường tổng cầu này kết hợp với đường cung sẽ quyết định mức lãi suất cân bằng - R* (hình 1.1).

1.1.3 Phân loại lãi suất

Như hình 1.1, sự kết hợp giữa đường cầu và đường cung đơn lẻ chỉ có một

mức “lãi suất thị trường”, nhưng trên thực tế là có rất nhiều mức “lãi suất thị trường” do

các hộ gia đình, các doanh nghiệp và chính phủ đều vay và cho vay theo nhiều điều kiện

và kỳ hạn khác nhau. Ngoài ra, trong nền kinh tế còn tồn tại các loại “lãi suất điều

hành” do Nhà Nước mà đại diện là NHTW quy định nhằm điều tiết “lãi suất thị

trường” từ đó thực hiện điều hành CSTT theo đúng định hướng và mục tiêu đã đề ra.

Trên thực tế, lãi suất có nhiều cách phân chia khác nhau như: phân loại theo nội tệ

và ngoại tệ, phân loại theo nghiệp vụ kinh doanh của các TCTD, phân loại theo chủ thể

trong quan hệ cho vay, phân loại theo giá trị thực của tiền lãi thu được, phân loại theo tính

linh hoạt của lãi suất, phân loại theo thời hạn cho vay, v.v... Trong phạm vi nghiên cứu

của đề tài, lãi suất được phân loại thành 2 nhóm:

1.1.3.1 Nhóm “lãi suất thị trƣờng” đƣợc hình thành từ quan hệ

cung – cầu vốn vay

 Lãi suất tiền gửi NH hay còn gọi Lãi suất huy động: là loại lãi suất mà

các NHTM trả cho các khoản tiền gửi vào NH. Lãi suất tiền gửi có nhiều mức khác

nhau tùy thuộc vào các loại tiền gửi: không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiết kiệm… Trật tự lãi

suất tiền gửi được hình thành theo nguyên tắc: Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn > Lãi suất

tiền gửi không kỳ hạn.

 Lãi suất tín dụng NH hay còn gọi Lãi suất cho vay: là loại lãi suất mà

người vay vốn phải trả cho NH khi vay vốn từ NH. Lãi suất tín dụng NH có nhiều loại

tùy theo các loại hình vay: ngắn hạn, dài hạn; có tài sản đảm bảo, không có tài sản đảm

bảo… Về nguyên tắc: Lãi suất tín dụng NH > Lãi suất tiền gởi NH; Lãi suất cho vay

-5-

dài hạn > Lãi suất cho vay ngắn hạn; Lãi suất cho vay tiêu dùng > Lãi suất cho vay sản

xuất kinh doanh.

 Lãi suất chiết khấu: Là lãi suất được các NHTM áp dụng khi cho khách

hàng vay nợ dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá khi chưa đến kỳ hạn thanh

toán. Lãi suất chiết khấu được tính theo tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có

giá và được khấu trừ ngay khi NH cho khách hàng vay. Như vậy, lãi suất chiết khấu là

loại lãi suất trả trước mà người đi vay trả cho NH trước khi sử dụng tiền vay.

 Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất cho vay giữa các NHTM trên thị

trường liên ngân hàng. Lãi suất LNH được hình thành theo quan hệ cung cầu vốn vay

trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho các NHTM vay của

NHTW (LSTCV và LSTCK)

1.1.3.2 Nhóm “lãi suất điều hành” do Ngân hàng Trung ƣơng công bố

đƣợc sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ

Các loại lãi suất này không được xác định chủ yếu theo quan hệ cung – cầu về

vốn mà được NHTW xác định tùy thuộc vào mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của

NHTW, sự biến động của thị trường tài chính và nền kinh tế vĩ mô. Nhóm lãi suất này

bao gồm:

 Lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu: áp dụng khi NHTW cho các NHTM

vay dưới hình thức chiết khấu hoặc chiết khấu lại các thương phiếu hoặc các giấy tờ có

giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này. Lãi suất chiết khấu,

LSTCK được tính theo tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và được khấu

trừ ngay khi NHTW cho các NHTM vay.

 Lãi suất tái cấp vốn: là lãi suất được sử dụng trong trường hợp NHTW

tái cấp vốn cho các NHTM. Trong đó, tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW

đối với các NHTM được thực hiện dưới các hình thức như: cho vay lại theo hồ sơ tín

dụng(Relending); chiết khấu (Discounting), tái chiết khấu (Rediscounting) thương

phiếu và các chứng từ có giá ngắn hạn; cho vay có đảm bảo bằng cầm cố chứng từ có

-6-

giá (Mortgaged Lending).

 Lãi suất cơ bản (Prime rate): là lãi suất do NHTW quy định được các

NHTM sử dụng làm cơ sở để xác định mức lãi suất kinh doanh của mình, hoặc chỉ

đóng vai trò là mức lãi suất tham chiếu và truyền tải thông tin về các quyết định điều

hành CSTT của NHTW. LSCB có sự khác nhau về tên gọi, cơ sở xác định, cơ chế điều

hành và vai trò đối với kinh tế tùy vào quy định của NHTW từng nước. Ở Nhật, LSCB

là lãi suất do NHTW Nhật bản quy định, là mức lãi suất cho vay qua đêm đối với

những khoản vay không thế chấp. Ở Anh, Úc, LSCB là lãi suất do các NHTM tự xác

định, thường là lãi suất áp dụng cho các khách hàng có mức rủi ro thấp nhất. Ở

Malaysia, LSCB là lãi suất của các NHTM đứng đầu trên thị trường, dựa vào lãi suất

này các NHTM khác cộng thêm % biên độ để xác định lãi suất kinh doanh của mình. Ở

Singapore, LSCB là lãi suất LNH... LSCB còn được gọi là lãi suất chính thức hay lãi

suất chuẩn, thường đóng vai trò chủ đạo trong cơ chế điều hành lãi suất của hầu hết các

NHTW trên thế giới.

 Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở (OMO): là lãi suất được hình thành

thông qua hình thức đấu thầu lãi suất hay được quy định trong hình thức đấu thầu khối

lượng khi NHTW thực hiện mua, bán giấy tờ có giá ngắn hạn với các NHTM.

1.1.4 Các nhân tố tác động đến lãi suất

Tại mục “1.1.2 Cơ sở hình thành lãi suất” đã trình bày lãi suất được quyết định

bởi cung và cầu vốn vay. Do đó, khi có những nhân tố tác động làm thay đổi cung –

cầu vốn vay, làm đường cung và cầu vốn vay dịch chuyển thì do đó sẽ làm thay đổi

mức lãi suất cân bằng. Trên thị trường có rất nhiều tác nhân ảnh hưởng làm thay đổi

cung – cầu vốn vay, dưới đây ta chỉ phân tích những tác nhân có ảnh hưởng quan trọng

đến đường cung và cầu vốn vay, qua đó tác động đến lãi suất.

1.1.4.1 Lạm phát dự kiến

Khi lạm phát dự kiến tăng lên, giá cả trong tương lai sẽ tăng làm các TCTD

không muốn cho vay vì khoản cho vay ngày hôm nay sẽ bị giảm giá trị thực trong

-7-

tương lai, và chính tâm lý lo ngại tổn thất đó sẽ khiến công chúng chuyển phần tiết

M

kiệm của mình sang dự trữ hàng hóa hoặc các dạng thức tài sản phi tài chính khác như

 S1

M

vàng, ngoại tệ mạnh, v.v… hơn là cho vay. Điều này làm cung về vốn vay sụt giảm, M) làm lãi suất cân qua đó đường cung về vốn vay dịch chuyển sang trái (S0

 S2

bằng tăng lên (r0  r1). Ngược lại, ta cũng thấy được rằng nếu lạm phát có xu hướng M) thì sẽ làm cho lãi giảm làm đường cung vốn vay dịch chuyển sang phải (S0

suất giảm xuống (r0  r2) – Hình 1.2

Ngược lại với cầu tín dụng, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, khi lạm phát dự tính

tăng lên bao giờ cũng có tác dụng kích thích cầu tín dụng vì lý do giá trị hàng hoá

M

được tài trợ từ các khoản vay vẫn giữ nguyên giá trị của nó trong khi lạm phát đã làm

đến

giảm rất nhẹ gánh nặng nợ vay, cầu tín dụng từ đó tăng lên, dịch chuyển từ D0

M làm lãi suất tăng từ r0 đến r3) – Hình 1.2.

D1

Hình 1.2 Sự dịch chuyển của cung – cầu vốn vay

r

M

S1 M S0 M S2 M

r1 r3 r0 r2

D1 D0 M

Q 0 Q1

Nguồn: Robert S.Pinkdyck, Daniel L.Rubinfeld (1999), Kinh tế học vi mô Q2 Q0 Q3

Khi lạm phát dự kiến tăng thì thông qua tác động đến cung và cầu tín dụng sẽ

khiến lãi suất tăng. Mặt khác, lãi suất trong nền kinh tế bao gồm lãi suất thực và lãi

suất danh nghĩa, trong đó lãi suất danh nghĩa là lãi suất được công bố rộng rãi qua NH

và các phương tiện thông tin đại chúng (không kể đến yếu tố lạm phát), còn lãi suất

thực là lãi suất đã được điều chỉnh theo sự tăng giá của nền kinh tế (có xét đến yếu tố

-8-

lạm phát). Theo phương trình của Fisher thì lãi suất danh nghĩa bằng (=) lãi suất thực

cộng (+) với tỷ lệ lạm phát dự kiến, do đó một khi lạm phát dự tính tăng cao, lãi suất

danh nghĩa cũng tăng theo. Mọi diễn biến theo chiều ngược lại sẽ có tác dụng làm

giảm lãi suất, điều này xảy ra trong thời kỳ suy thoái, tình trạng thiểu phát xảy ra trong

nền kinh tế.

1.1.4.2 Chính sách của Nhà nƣớc

Để nền kinh tế phát triển thì Nhà nước cần phải đạt được các mục tiêu như:

tăng trưởng kinh tế thể hiện qua tăng trưởng tổng sản lượng…; tỷ lệ thất nghiệp thấp;

ổn định giá cả thể hiện qua chỉ tiêu lạm phát thấp và ổn định, v.v… bằng cách sử dụng

các chính sách của nhà nước (mà trọng tâm là chính sách tài tài khóa và CSTT) để điều

tiết nền kinh tế. Quá trình thực hiện các chính sách của Nhà nước sẽ tác động lãi suất

cân bằng trên thị trường.

 Chính sách tiền tệ: với tư cách là NH của các NH, NHTW thực hiện vai trò

chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống NH của một quốc gia nhằm thực hiện mục tiêu điều

M dịch chuyển sang trái đến S1

M

tiết kinh tế vĩ mô. Khi NHTW áp dụng chính sách tiền tệ thu hẹp, cung tiền trong nền M, lãi suất sẽ tăng lên kinh tế giảm xuống làm đường S0

dịch chuyển sang phải đến S2

từ r0 đến r1 và ngược lại, khi NHTW áp dụng chính sách tiền tệ mở rộng, cung tiền tệ M thì lãi suất sẽ giảm từ r0 đến tăng lên sẽ làm đường S0

r2 (hình 1.2).

 Chính sách tài khóa: bao gồm chi tiêu của chính phủ và thuế khóa. Khi nhà

nước thực hiện chính sách tài chính mở rộng (tăng chi tiêu của Chính phủ và giảm

thuế) sẽ ảnh hưởng đến thăng bằng của thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ, từ đó

ảnh hưởng đến lãi suất. Khi chi tiêu của chính phủ tăng trực tiếp làm tăng tổng cầu

(trên thị trường hàng hóa), đường tổng cầu dịch chuyển về bên phải. Khi chính phủ

giảm thuế, làm cho hộ gia đình có nhiều thu nhập hơn được sẵn sàng để tiêu dùng và

làm tăng tổng sản phẩm bằng cách tăng tiêu dùng, đường tổng cầu cũng dịch chuyển

về bên phải và làm lãi suất cân bằng trên thị trường tiền tệ tăng lên.

-9-

1.1.4.3 Sự ổn định của nền kinh tế

 Ảnh hưởng đến cung vốn vay: khi nền kinh tế ổn định và phát triển, dân

chúng sẽ có thu nhập cao, tiết kiệm của hộ gia đình nhiều hơn, đồng thời thị trường tài

chính và các thị trường khác cũng phát triển sôi nổi và ít rủi ro hơn. Do đó dân chúng

sẽ không muốn giữ tiền nhiều mà thay vào đó sẽ đầu tư vào những tài sản hấp dẫn

khác như chứng khoán, bất động sản, v.v…để thu lợi tức, vì vậy cung vốn vay sẽ tăng

lên, đường cung vốn vay dịch chuyển về bên phải và lãi suất có xu hướng giảm.

 Ảnh hưởng đến cầu vốn vay: tương tự như ảnh hưởng đến cung vốn vay, khi

nền kinh tế ổn định và phát triển, người dân được tiếp cận với nhiều loại hình hàng hóa

dịch vụ mới và hiện đại hơn, đồng thời doanh nghiệp cũng được tiếp cận với những cơ

hội đầu tư sinh lời nhiều và ít rủi ro hơn, do đó tiêu dùng của hộ gia đình và đầu tư của

các hãng sẽ tăng làm cho cầu vốn vay tăng lên, đường cầu vốn vay dịch chuyển về bên

phải và lãi suất có xu hướng tăng lên.

Thường thì khi nền kinh tế đang trong tình trạng ổn định và phát triển thì

đường cầu sẽ dịch chuyển về bên phải (tăng lên) nhiều hơn đường cung và lãi suất cân

bằng có xu hướng tăng lên, ngược lại, khi nền kinh tế đang trong tình trạng suy thoái

thì lãi suất cân bằng sẽ có xu hướng giảm xuống.

1.1.4.4 Những nhân tố tác động làm thay đổi tổng cầu

Ngoài hai nhân tố chi tiêu của chính phủ và tiêu dùng của hộ gia đình (do sự

thay đổi về thuế của Chính phủ) đã phân tích ở mục 1.1.4.2, khi các nhân tố còn lại

trong thành phần của tổng cầu (đầu tư và xuất khẩu ròng) tác động làm tổng cầu thay

đổi cũng sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi của lãi suất. Cụ thể một sự gia tăng trong xuất

khẩu ròng và đầu tư sẽ làm gia tăng tổng cầu, đường tổng cầu dịch chuyển sang phải

làm lãi suất tăng lên và ngược lại.

1.1.5 Vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế

 Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô: Sự biến động của lãi suất có tác động đến

đầu tư đến tiêu dùng qua đó tác động đến tổng cầu giúp nhà nước điều tiết và thực hiện

-10-

các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô. Cụ thể, lãi suất thấp sẽ kích thích đầu tư, kích thích

tiêu dùng, làm tăng tổng cầu và sản lượng tăng, giá tăng, thất nghiệp giảm, nội tệ có xu

hướng giảm giá so với ngoại tệ. Lãi suất cao sẽ làm hạn chế đầu tư, hạn chế tiêu dùng,

làm giảm tổng cầu và sản lượng giảm, giảm giá, thất nghiệp tăng, nội tệ có xu hướng

tăng giá so với ngoại tệ.

 Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng của nền kinh tế: Lãi suất là biến số

thường xuyên thay đổi trong nền kinh tế. Dựa vào sự biến động của lãi suất ta có thể

thấy được tình trạng sức khỏe của nền kinh tế, từ đó dự báo tình hình kinh tế trong

tương lai. Cụ thể, trong giai đoạn phát triển của nền kinh tế, lãi suất có xu hướng tăng

do cung cầu quỹ cho vay đều tăng trong đó tốc độ tăng của cầu quỹ cho vay lớn hơn

tốc độ tăng của cung quỹ cho vay. Ngược lại, trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế

lãi suất lại có xu hướng giảm xuống.

 Lãi suất là công cụ khuyến khích cạnh tranh giữa các NHTM: Với cơ chế tự

do hóa lãi suất, để tăng khối lượng nguồn vốn huy động và mở rộng quan hệ tín dụng

với khách hàng, các NHTM có thể nâng mức lãi suất tiền gửi và hạ lãi suất cho vay.

Đây chính là hoạt động cạnh tranh giữa các NHTM. NHTM nào có mức lãi suất tiền

gửi cao hơn và mức lãi suất cho vay thấp hơn sẽ có ưu thế cạnh tranh so với các

NHTM khác, tạo điều kiện mở rộng phạm vi ảnh hưởng của NH ra thị trường. Để đảm

bảo cạnh tranh thắng lợi, các NHTM đều tìm mọi biện pháp giảm chi phí kinh doanh,

chi phí quản lý và tăng hiệu quả hoạt động của NH. Chính sự cạnh tranh lành mạnh

giữa các NHTM sẽ tạo ra lợi ích kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

 Lãi suất ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Do lãi suất

phải trả cho cho các khoản vay chính là chi phí của doanh nghiệp nên lãi suất thấp sẽ

khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Ngược

lại, lãi suất cho vay cao sẽ thu hẹp đầu tư và tác động không tốt đến hoạt động kinh

doanh của các doanh nghiệp. Tương tự như đối với các NHTM, lãi suất là công cụ

buộc các doanh nghiệp phải sử dụng hiệu quả các nguồn lực của mình. Nếu Nhà nước

-11-

có những ưu đãi về lãi suất, hay tạo điều kiện cung cấp tín dụng thuận lợi cho doanh

nghiệp sẽ tác động tích cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các hãng từ đó góp

phần thúc đẩy phát triển kinh tế cho đất nước.

1.2 Cơ chế điều hành lãi suất

1.2.1 Khái niệm về cơ chế

Từ điển Le Petit Larousse (1999) giảng nghĩa "méchanisme" – "cơ chế" là

"cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau". Theo Từ điển

Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học biên soạn và xuất bản năm 2000 thì "cơ chế" là

"cách thức theo đó một quá trình thực hiện". Từ "cơ chế" được dùng rộng rãi trong lĩnh

vực quản lý từ khoảng cuối những năm 1970, khi các quốc gia bắt đầu chú ý nghiên

cứu về quản lý và cải tiến quản lý kinh tế, với nghĩa như là những qui định về quản lý,

dùng để chỉ quy luật vận hành của một hệ thống. Với cách hiểu này thì "cơ chế" là khái

niệm dùng để chỉ sự tương tác giữa các yếu tố kết thành hệ thống mà nhờ đó hệ thống

có thể hoạt động.

Như vậy, có thể hiểu “cơ chế là một thuật ngữ chỉ sự diễn biến nội tại của một

hệ thống, trong đó có sự tương tác giữa các yếu tố hợp thành hệ thống trong quá trình

vận động của mỗi yếu tố đó, nhờ đó hệ thống có thể vận hành, phát triển”.

1.2.2 Khái niệm và nội dung cơ chế điều hành lãi suất

“Cơ chế điều hành lãi suất” là tổng thể những chủ trương, chính sách và

giải pháp cụ thể của NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường, từ đó

góp phần thực hiện mục tiêu điều hành CSTT của NHTW trong từng thời kỳ nhất định.

Như vậy, có thể hiểu “Cơ chế điều hành lãi suất” của NHTW là cơ chế điều

hành CSTT của NHTW thông qua công cụ lãi suất. Cơ chế này được thực hiện bằng cơ

chế truyền tải ảnh hưởng của CSTT tới nền kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng

của CSTT thông qua phản ứng dây chuyền giữa các mức lãi suất với nhau và giữa các

mức lãi suất với các loại giá cả trên thị trường.

Nội dung cơ chế điều hành lãi suất bao gồm 3 khâu với các tác nhân tham gia

-12-

khác nhau:

 Khâu thứ nhất – Cơ chế kiểm soát mức lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền

tệ: khâu này thể hiện sự tác động trực tiếp của NHTW tới các mức lãi suất ngắn hạn

được lựa chọn làm mục tiêu hoạt động. NHTW các nước có thể lựa chọn các loại lãi

suất ngắn hạn khác nhau làm mục tiêu hoạt động, tùy thuộc vào khả năng kiểm soát

của NHTW và mức độ ảnh hưởng của những lãi suất được chọn tới mặt bằng lãi suất

thị trường và nền kinh tế.

Các mức lãi suất ngắn hạn được chọn là các loại lãi suất điều hành được

NHTW công bố trên thị trường tiền tệ như: LSTCV, LSTCK, LSCB, LS OMO. Ngoài

ra NHTW cũng có thể chọn lãi suất LNH nội tệ được hình thành trên thị trường LNH

làm mục tiêu hoạt động bổ sung vì thị trường LNH với tư cách là thị trường bán buôn

vốn, nơi đây có khối lượng chuyển giao vốn chiếm tỷ trọng rất lớn, thời gian luân

chuyển vốn rất nhanh nên đây là thị trường trọng tâm của thị trường tiền tệ. Thị trường

tiền tệ khởi đầu chính là ở thị trường LNH, sau đó mới mở rộng ra các loại thị trường

khác.

 Khâu thứ hai – Cơ chế ảnh hưởng của mức lãi suất ngắn hạn tới dài hạn: với

tác nhân tham gia là các TCTD, sẽ truyền tải ảnh hưởng của các mức lãi suất ngắn hạn

mà NHTW đã công bố đến việc hình thành các mức lãi suất của TCTD trên thị trường,

từ lãi suất thị trường ngắn hạn đến các mức lãi suất thị trường dài hạn (lãi suất thực).

Lưu ý mức lãi suất dài hạn ở đây phải là lãi suất thực vì hành vi tiêu dùng, đầu tư của

hộ gia đình và doanh nghiệp chỉ chịu tác động điều chỉnh bởi lãi suất thực (đã tính đến

yếu tố lạm phát) chứ không phải lãi suất danh nghĩa.

 Khâu cuối cùng – Cơ chế truyền dẫn tác động của CSTT đến nền kinh tế: các

TCTD thông qua lãi suất thực dài hạn đã hình thành trên thị trường sẽ tác động tới hành

vi tiêu dùng và đầu tư của các chủ thể kinh tế khác như cá nhân, hộ gia đình, doanh

nghiệp, v.v... qua đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu, từ đó góp phần thực hiện mục tiêu

cuối cùng của CSTT như tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát và giảm thất nghiệp.

-13-

Như vậy trong cơ chế điều hành lãi suất, NHTW đóng vai trò chủ đạo – là tác

nhân đầu tiên trong cơ chế, chịu trách nhiệm điều tiết, giám sát và quản lý quá trình

thực hiện cơ chế điều hành lãi suất, các TCTD sẽ chịu sự tác động và giám sát từ phía

NHTW trong quá trình hình thành lãi suất thị trường từ ngắn hạn cho đến dài hạn, sau

đó chính các TCTD sẽ tác động đến các chủ thể kinh tế khác như hộ gia đình, doanh

nghiệp v.v... thông qua sự truyền tải tác động của lãi suất thị trường (dài hạn) đến hành

vi tiêu dùng, đầu tư v.v... mà ảnh hưởng đến tổng cầu và các biến số vĩ mô trong nền

kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế

Lạm phát

Lãi suất ngắn hạn

Tổng cầu

Lãi suất dài hạn (Lãi suất thực)

Lãi suất công bố (Lãi suất điều hành)

Thất nghiệp

Khâu thứ nhất

Khâu thứ hai

Khâu thứ ba

Hình 1.3 Mô hình cơ chế điều hành lãi suất

Nguồn: Tác giả tự vẽ

Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW được xem là hiệu quả khi ba khâu của cơ

chế điều hành lãi suất đều được thực hiện tốt, tức là: các mức lãi suất điều hành mà

NHTW công bố và sử dụng phải gắn kết chặt chẽ và kiểm soát được các mức lãi suất

ngắn hạn trên thị trường tiền tệ như Lãi suất LNH, LSHĐ ngắn hạn, LSCV ngắn hạn

(khâu thứ nhất), thông qua đó tác động và kiểm soát tốt các mức lãi suất (thực) dài hạn

(khâu thứ hai). Biểu hiện cho việc thực hiện tốt hai khâu này đó là lãi suất thị trường

thường xuyên ổn định, tăng giảm cùng chiều và biến động xoay quanh những điều

chỉnh lãi suất điều hành của NHTW. Trên cơ sở đó, những tín hiệu mà NHTW phát ra

đối với nền kinh tế (là CSTT thắt chặt hay mở rộng) phải được truyền dẫn tức thì và

-14-

hiệu quả đến tổng cầu thông qua kênh lãi suất, từ đó giúp NHTW thực hiện tốt các mục

tiêu đề ra như tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả hay thất nghiệp v.v...(khâu thứ ba).

Không có mô hình cơ chế điều hành lãi suất áp dụng chung cho tất cả NHTW

các nước vì NHTW ở mỗi một quốc gia khác nhau sẽ lựa chọn và sử dụng cơ chế điều

hành lãi suất khác nhau căn cứ vào mục tiêu của CSTT, điều kiện và bối cảnh phát

triển kinh tế - xã hội, thị trường tài chính - tiền tệ, cũng như luật định, địa vị pháp lý

của NHTW mỗi nước.

1.2.3 Phân loại cơ chế điều hành lãi suất

1.2.3.1 Cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp (cơ chế kiểm soát lãi suất)

Cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp có nghĩa là NHTW sẽ áp dụng các biện

pháp hành chính để quản lý lãi suất của các TCTD, từ đó tác động điều tiết nền kinh tế

theo các mục tiêu mà NHTW đã đề ra. Cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp bao gồm:

 Cơ chế ấn định lãi suất: NHTW quản lý trực tiếp lãi suất bằng cách công

bố và ấn định tất cả các loại lãi suất áp dụng cho các TCTD. Các TCTD đều phải thực

hiện một cách tuyệt đối theo mức lãi suất mà NHTW đã ấn định.

 Cơ chế khống chế khung lãi suất: NHTW không ấn định các mức lãi suất,

mà chỉ quy định các mức lãi suất tối đa (lãi suất trần) và mức lãi suất tối thiểu (lãi suất

sàn) tạo thành khung giới hạn để các TCTD xác định mức lãi suất kinh doanh phù hợp.

Cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp phát huy tác dụng đối với các nước đang

phát triển với thị trường tài chính còn yếu kém và không ổn định vì thực hiện quản lý

lãi suất thống nhất đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, cơ chế này còn mang tính áp đặt

hành chính, chưa mang tính thị trường nên làm cho các NHTM phần nào mất đi tính

linh hoạt và quyền tự chủ trong kinh doanh, từ đó làm hạn chế khả năng phát triển của

hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.

1.2.3.2 Cơ chế điều hành lãi suất gián tiếp (cơ chế tự do hóa lãi suất)

Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: NHTW là NH của các NH, là

người cho vay cuối cùng đối với các TCTD. NHTW chỉ công bố các mức lãi suất điều

-15-

hành như: LSCB, lãi suất OMO, LSTCV và LSTCK. Thông qua hoạt động cho vay

(cuối cùng) đối với các TCTD (hoạt động tái cấp vốn hay tái chiết khấu) và hoạt động

trên thị trường mở, NHTW sẽ gián tiếp làm ảnh hưởng đến các mức lãi suất thị trường

(Lãi suất LNH, LSHĐ, LSCV) của các TCTD đối với nền kinh tế, mặc dù các mức lãi

suất thị trường này là do các TCTD tự ấn định, dựa trên cung cầu về vốn và sự cạnh

tranh trên thị trường. Các lãi suất được hình thành theo cơ chế thị trường này sau đó sẽ

truyền tải tác động đến các biến số vĩ mô khác trong nền kinh tế, qua đó tác động đến

tổng cầu và góp phần điều tiết nền kinh tế.

Cụ thể, cơ chế điều hành lãi suất gián tiếp của NHTW qua đó tác động điều

chỉnh lãi suất trên thị trường có thể được thực hiện bằng các hình thức như sau:

 NHTW thực hiện chính sách lãi suất tái cấp vốn hay lãi suất tái chiết khấu:

Khi muốn phát tín hiệu CSTT thắt chặt (hoặc nới lỏng), NHTW sẽ điều chỉnh tăng

(hoặc giảm) các mức lãi suất công bố là LSTCV và LSTCK áp dụng khi NHTW tái cấp

vốn (bằng nhiều hình thức đã trình bày ở nội dung 1.1.3.2) và tái chiết khấu các giấy tờ

có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán cho các NHTM, qua đó NHTW sẽ làm giảm

(hoặc tăng) khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế do làm tăng (hoặc giảm) chi phí

vay vốn của các NHTM từ NHTW, từ đó gián tiếp ảnh hưởng làm tăng (hoặc giảm)

các mức lãi suất thị trường của NHTM và tác động đến các biến số vĩ mô của nền kinh

tế qua tác động đến tổng cầu.

 NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường mở: bằng việc điều chỉnh tăng (hoặc

giảm) lãi suất OMO, NHTW sẽ tác động đến khả năng thanh khoản của các NHTM,

qua đó ảnh hưởng đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM, từ đó tác động làm

tăng (hoặc giảm) lãi suất trên thị trường tiền tệ và truyền tải tác động đến nền kinh tế.

Cụ thể khi thanh khoản của các NHTM đang yếu kém, NHTW sẽ điều chỉnh giảm lãi

suất OMO để hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM, qua đó tác động làm giảm nhiệt lãi

suất thị trường hỗ trợ cho hoạt động vay vốn tiến hành sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp cũng như đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của các NH từ đó góp phần phát triển

-16-

kinh tế. Ngược lại khi muốn điều chỉnh tăng lãi suất thị trường để hạn chế cung ứng

tiền, NHTW sẽ điều chỉnh tăng lãi suất OMO.

 NHTW thực hiện chính sách “lãi suất cơ bản”:

Lãi suất cơ bản thường được NHTW xác định và công bố trên cơ sở xu hướng

biến động cung - cầu vốn trên thị trường, mục tiêu của chính sách tiền tệ và các nhân tố

tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài nước. Khi NHTW tăng

(hoặc giảm) LSCB, sẽ tác động trực tiếp làm tăng (hoặc giảm) các mức lãi suất kinh

doanh – lãi suất bán lẻ (LSCV và LSHĐ) của các NHTM hoặc tác động gián tiếp làm

tăng (hoặc giảm) lãi suất bán lẻ của các NHTM thông qua việc tác động làm tăng (hoặc

giảm) lãi suất bán buôn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ (Lãi suất LNH) trước đó.

Thông thường, ở các nước phát triển, NHTW sử dụng LSCB làm lãi suất mục tiêu để

định hướng lãi suất thị trường. Cụ thể, sau khi công bố LSCB, NHTW sẽ sử dụng các

công cụ CSTT (thông thường là nghiệp vụ thị trường mở) để điều tiết lãi suất LNH

hướng đến mức lãi suất mục tiêu, trên cơ sở đó, lãi suất LNH sẽ tác động đến các loại

lãi suất khác trên thị trường theo đúng định hướng điều hành lãi suất của NHTW.

Cơ chế điều hành lãi suất gián tiếp được áp dụng phổ biến đối với các nước

phát triển với thị trường tài chính phát triển và ổn định. Khi đó lãi suất thị trường được

hình thành theo đúng quy luật thị trường, do các TCTD tự quy định và điều chỉnh linh

hoạt theo tình hình cung cầu vốn, vai trò điều hành lãi suất của NHTW chỉ tác động

gián tiếp, mang tính định hướng cho lãi suất trên thị trường theo từng mục tiêu của

CSTT trong từng giai đoạn cụ thể.

1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế điều hành lãi suất của NHTW

Việc xác định, thay đổi cơ chế điều hành lãi suất của NHTW được dựa trên cơ

sở xem xét và đánh giá toàn diện các yếu tố sau:

 Sự phát triển của thị trường tiền tệ:

Thông qua cơ chế điều hành lãi suất, một sự thay đổi trong nhóm lãi suất điều

hành của NHTW sẽ có tác động trước tiên là đến các lãi suất ngắn hạn trên thị trường

-17-

tiền tệ, kế tiếp lãi suất ngắn hạn sẽ ảnh hưởng đến lãi suất dài hạn trên thị trường vốn

và qua đó truyền dẫn tác động của chính sách lãi suất hay CSTT đến tổng cầu góp phần

điều chỉnh các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp.

Như vậy, thị trường tiền tệ là cơ sở hạ tầng, là khâu quan trọng đầu tiên cho việc thực

hiện cơ chế truyền dẫn tác động của cơ chế điều hành lãi suất của NHTW, cơ chế điều

hành lãi suất sẽ chỉ có tác dụng khi khâu đầu tiên của quá trình truyền tải được vận

hành tốt, tức là thị trường tiền tệ phải đủ điều kiện để đáp ứng cho sự truyền tải này,

phải phát triển đa dạng về cả quy mô và cả những công cụ tài chính, chủ thể tham gia

trên thị trường tiền tệ. Chính những biến động và trình độ phát triển của thị trường tiền

tệ sẽ có tác động lớn đến quá trình vận hành cơ chế điều hành lãi suất của NHTW.

 Quan hệ cung và cầu vốn vay trên thị trường tiền tệ

Ngoài sự phát triển của thị trường tiền tệ thì sự biến động trong quan hệ cung

và cầu vốn vay trên thị trường tiền tệ cũng làm ảnh hưởng đến cơ chế điều hành lãi suất

của NHTW. Khi thị trường tiền tệ có cung vốn vay lớn hơn cầu vốn vay hay tình trạng

vốn khả dụng và trạng thái thanh khoản của NHTM dồi dào, lúc này thị trường tiền tệ

mất cân bằng làm cho lãi suất thị trường giảm xuống, NHTW sẽ có xu hướng điều tiết

chính sách lãi suất của mình theo hướng tăng lên để hạn chế tình trạng dư thừa vốn sẽ

có tác động làm gia tăng lạm phát trong nền kinh tế. Và một động thái ngược lại là điều

chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành của NHTW, từ đó làm hạ nhiệt lãi suất thị

trường sẽ được thực hiện nếu có tình trạng cầu về vốn vay lớn hơn cung về vốn vay

trên thị trường hay vốn khả dụng của NHTM đang ở tình trạng thiếu thốn, khả năng

thanh khoản của hệ thống NHTM yếu kém.

 Sự lựa chọn mục tiêu của chính sách tiền tệ

Tùy thuộc vào NHTW lựa chọn mục tiêu cuối cùng của CSTT là đơn mục tiêu

hay đa mục tiêu và các nhân tố mà NHTW lựa chọn trong mục tiêu trung gian, mục

tiêu hoạt động là gì để đảm bảo thực hiện mục tiêu cuối cùng, mà qua đó sẽ có ảnh

hưởng đến sự lựa chọn cách điều hành chính sách lãi suất tương ứng. Cụ thể, nếu

-18-

NHTW chọn mục tiêu trung gian là lãi suất thị trường (ngắn và dài hạn) và mục tiêu

hoạt động mà NHTW lựa chọn là giá cả tiền tệ hay lãi suất ngắn hạn trên thị trường

tiền tệ (NHTW sẽ chọn một trong các loại lãi suất điều hành, hoặc thường là lãi suất

liên ngân hàng nội tệ), lúc này NHTW sẽ thực hiện cơ chế điều hành lãi suất như sau:

NHTW sẽ sử dụng các công cụ lãi suất điều hành hoặc kết hợp với thị trường mở và

các công cụ khác để kiểm soát lãi suất ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng, từ đó

góp phần điều tiết lãi suất thị trường (LSHĐ và LSCV) sao cho không xa rời lãi suất

mục tiêu. Trên cơ sở đó, lãi suất thị trường (dài hạn) gắn với lãi suất mục tiêu này sẽ

truyền dẫn tác động của CSTT đến tổng cầu nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng (là đơn

hay đa mục tiêu như kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế và giảm thất nghiệp).

 Biến số diễn biến kinh tế vĩ mô như lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế

Khi các biến số của nền kinh tế vĩ mô như tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng trưởng

kinh tế có sự biến động sẽ tác động đến sự điều chỉnh trong cơ chế điều hành lãi suất

của NHTW. Một sự sụt giảm đều đặn và ổn định trong chỉ số lạm phát sẽ khiến các nhà

điều hành an tâm hơn về mục tiêu kiềm chế lạm phát, và do đó việc cần làm tiếp theo

là phải kích thích tổng cầu từ đó gia tăng sản lượng nhằm cải thiện tình trạng trì trệ

trong tăng trưởng kinh tế do quá trình thực hiện CSTT thắt chặt để giảm lạm phát trước

đó gây ra. Lúc này, NHTW sẽ hồi phục và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách thực

hiện CSTT mở rộng, tăng thêm cung tiền mà thông qua đó cơ chế điều hành lãi suất sẽ

có sự điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành, từ đó truyền tải làm giảm lãi suất thị

trường, làm tổng cầu tăng và tăng sản lượng. Ngược lại khi tốc độ tăng trưởng kinh tế

tăng nhanh nhưng không ổn định, đi kèm với tỷ lệ lạm phát cao gây ảnh hưởng xấu đến

nền kinh tế thì chính sách lãi suất của NHTW sẽ được điều chỉnh tăng lên tương ứng

với CSTT thắt chặt.

1.2.5 Mục tiêu và vai trò của cơ chế điều hành lãi suất trong điều hành CSTT

Theo khái niệm về cơ chế điều hành lãi suất đã trình bày ở phần 1.2.2 thì mục

tiêu của cơ chế điều hành lãi suất chính làm nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu cuối

-19-

cùng của CSTT. Mặt khác, do lãi suất là một trong những công cụ của CSTT, nên mục

tiêu theo đuổi của cơ chế điều hành lãi suất cũng phải luôn gắn chặt, không thể tách rời

với mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ, hay nói cách khác mục tiêu của cơ chế điều

hành lãi suất trong từng thời kỳ nhất định cũng chính là mục tiêu cuối cùng mà CSTT

hướng đến tương ứng với thời kỳ đó, bao gồm các mục tiêu như: “kiểm soát lạm phát,

hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp và ổn định kinh tế vĩ mô”. Như vậy,

những sự thay đổi trong cơ chế điều hành lãi suất phải đảm bảo giúp kiểm soát ổn định

các mức lãi suất thị trường, đảm bảo truyền dẫn tốt tác động của lãi suất đến tổng cầu

làm thay đổi các biến số kinh tế vĩ mô sao cho phù hợp và cân bằng với các mục tiêu

kinh tế vĩ mô cuối cùng mà CSTT đã đề ra trong từng thời kỳ nhất định, tránh không

được gây ra những cú sốc làm thị trường bất ổn và không thể kiểm soát.

Chính vì mục đích của việc thực hiện cơ chế điều hành lãi suất luôn gắn liền với

mục tiêu điều hành CSTT của NHTW nên cơ chế điều hành lãi suất đóng vai trò rất

quan trọng trong công tác điều hành CSTT quốc gia và đối với nền kinh tế. Vai trò đó

chính là cơ chế điều hành lãi suất sẽ giúp truyền dẫn tác động của CSTT đến nền kinh

tế nhằm đạt được mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ, được thể hiện cụ thể như sau:

Thông qua cơ chế điều hành lãi suất, NHTW có thể đưa ra những tín hiệu của mình

trong điều hành CSTT (là thắt chặt hay thu hẹp) và truyền dẫn tác động đến lãi suất thị

trường (từ lãi suất ngắn hạn cho tới trung và dài hạn). Sau đó, sự can thiệp và điều

hành lãi suất trên thị trường của NHTW sẽ tác động tới hoạt động của nền kinh tế

thông qua việc nới lỏng hay thắt chặt lượng tiền cung ứng và mức tăng trưởng tín dụng

tương ứng với nhịp độ phát triển kinh tế, góp phần đạt được các mục tiêu cuối cùng

trong điều hành CSTT như, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, tỷ giá v.v… Như vậy, khi

nền kinh tế có lạm phát, để phát tín hiệu điều hành CSTT thắt chặt, NHTW sẽ điều

chỉnh tăng các mức lãi suất điều hành qua đó tác động làm tăng lãi suất thị trường, góp

phần truyền dẫn tác động đến nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là kiềm

chế lạm phát. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, NHTW sẽ điều chỉnh giảm các mức

-20-

lãi suất điều hành để phát tín hiệu thực hiện CSTT nới lỏng, tác động làm giảm lãi suất

thị trường để kích thích tiêu dùng và đầu tư, hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp thuận lợi, từ đó thực hiện mục tiêu phục hồi nền kinh tế.

1.3 Sự cần thiết phải hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất

Như chúng ta đã biết, CSTT là một trong những chính sách hết sức quan trọng

góp phần đảm bảo cho nền kinh tế của một quốc gia tăng trưởng bền vững. Thậm chí

theo M.Friedman – đại biểu của Trường phái kinh tế tự do mới còn cho rằng: “sự tăng

trưởng kinh tế ổn định của một quốc gia chỉ là kết quả của một chính sách tiền tệ ổn

định”, trong đó các chính sách khác đặc biệt là CSTK chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho CSTT

trong tiến trình đảm bảo phát triển kinh tế bền vững mà thôi. Để thực hiện CSTT ổn

định và đạt hiệu quả cao, có rất nhiều công cụ để NHTW các nước lựa chọn và kết hợp

sử dụng với nhau, nhưng theo thực tế cho thấy, công cụ lãi suất đóng vai trò hết sức

trọng yếu trong việc thực thi một CSTT hiệu quả.

Từ mục tiêu và vai trò của cơ chế điều hành lãi suất đối với CSTT cũng như đối

với nền kinh tế đã trình bày ở các nội dung trước, có thể thấy cơ chế điều hành lãi suất

là một bộ phận cực kỳ quan trọng trong guồng máy hoạt động của CSTT. Ngoài ra, lãi

suất còn là một nhân tố hết sức nhạy cảm, lãi suất không chỉ chịu ảnh hưởng của nhiều

nhân tố vĩ mô mà còn có tác động trở lại đối với nền kinh tế trong nước: lãi suất làm

ảnh hưởng đến hành vi và hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh tế (doanh nghiệp,

ngân hàng, hộ dân cư v.v…); lãi suất là công cụ quan trọng để điều tiết kinh tế vĩ mô

và đo lường tình trạng của nền kinh tế. Việc thực hiện một cơ chế điều hành lãi suất có

phù hợp và hiệu quả hay không sẽ quyết định sự thành bại của CSTT và từ đó có ý

nghĩa quyết định đến trình độ kinh tế của một quốc gia. Nếu cơ chế điều hành lãi suất

được thực thi hiệu quả, thì CSTT cũng thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra, qua đó giúp

nền kinh tế phát triển ổn định, hệ thống NH, thị trường tài chính và các doanh nghiệp

hoạt động hiệu quả, lạm phát được kiểm soát tốt, giá cả ổn định và đời sống của người

dân được nâng cao, đảm bảo an sinh xã hội. Ngược lại, nếu cơ chế điều hành lãi suất

-21-

không phù hợp có thể sẽ làm cho nền kinh tế đi ngược lại với các mục tiêu mà Nhà

nước đã đề ra, gây nguy hại trước mắt đến thị trường tiền tệ, sau đó là thị trường vốn

và làm cho lợi ích của các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế bị xâm phạm, mà đặc biệt

là hệ thống NH sẽ gặp nhiều khó khăn.

Hiện nay, khi hầu hết các quốc gia đều đang mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế

với thế giới thì xu hướng biến động khôn lường của nền kinh tế thế giới đã và đang

diễn ra sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến các nước. Mặt khác, cùng với việc hiện nay

hầu hết các quốc gia đều theo đuổi cơ chế tự do hóa tài chính thì quá trình thực thi cơ

chế điều hành lãi suất càng trở nên khó khăn và cấp thiết hơn. Với ý nghĩa đó, việc

phân tích tình hình và đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất

của NHTW, từ đó góp phần điều hành CSTT theo đúng mục tiêu đề ra và đảm bảo tăng

trưởng ổn định nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết và trọng yếu.

1.4. Tìm hiểu về cơ chế điều hành lãi suất của NHTW Nhật Bản (BOJ) giai đoạn

2006 – 2012 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

1.4.1 Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW Nhật Bản giai đoạn 2006 – 2012

 Về tính độc lập của NHTW Nhật Bản

BOJ có mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ (cụ thể là trực thuộc Bộ Tài

chính Nhật Bản). Hiện tại, hệ số độc lập của BOJ được đánh giá ở mức 2,5 thấp hơn

nhiều so với Thụy Sỹ, Đức (4) và Mỹ (3,5) – là những quốc gia có mô hình NHTW độc

lập so với Chính phủ, điều đó chứng tỏ BOJ không phải là một ngân hàng có được sự

độc lập tuyệt đối, nhưng so với các nước có NHTW thuộc mô hình này như Anh, Việt

Nam, Trung Quốc v.v… thì BOJ lại có mức độ độc lập so với Chính phủ nhiều hơn.

Do đó, điều này giúp BOJ có thuận lợi hơn so với các nước khác có cùng mô hình là có

khả năng kiểm soát tốt lạm phát, giảm thâm hụt ngân sách và thực thi CSTT hiệu quả

từ đó góp phần tăng trưởng kinh tế ổn định và đảm bảo an sinh xã hội. Sự độc lập

tương đối của BOJ ngày càng tăng lên theo thời gian thông qua các quá trình cải cách

mà đặc biệt là việc sửa đổi Luật BOJ năm 1997.

-22-

 Cơ chế điều hành lãi suất của BOJ giai đoạn 2006 – 2012

Không khác nhiều với cách thức điều hành lãi suất của NHTW ở các nước phát

triển, từ 11/8/2006 BOJ sử dụng hai công cụ là lãi suất cơ bản và lãi suất chiết khấu để

điều hành và kiểm soát các loại lãi suất trên thị trường, qua đó truyền tải tác động của

CSTT đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế. Trong đó:

- Lãi suất cơ bản (Prime rate): là lãi suất mục tiêu hay lãi suất định hướng cho

hoạt động thị trường tiền tệ, đây là thông điệp mang tính định hướng để thị trường

tham khảo đồng thời cũng thể hiện ý chí trong điều hành CSTT của BOJ. Hiện tại, BOJ

lấy lãi suất cho vay qua đêm đối với những khoản vay không thế chấp làm LSCB.

- Lãi suất chiết khấu (Discount rate): là lãi suất mà BOJ chiết khấu các giấy tờ

có giá cho các NHTM. Các NHTM sẽ vay chiết khấu từ BOJ khi không tìm được

nguồn vay nào trên thị trường liên ngân hàng có chi phí thấp hơn chi phí vay từ BOJ,

do đó, LSCK mà BOJ công bố nghiễm nhiên trở thành giới hạn trần của LSCV qua

đêm (hay LSCB) dù BOJ không đưa ra rào cản hành chính nào cho LSCV qua đêm.

(Đồ thị 1.1)

0.8

0.6

Discount rate

0.4

Prime rate

0.2

Money Market rate

0.0

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

Đồ thị 1.1 Cơ chế điều hành lãi suất của BOJ giai đoạn 2006 đến 2012

Nguồn: IMF (Đơn vị tính: %/năm)

Để điều hành lãi suất, BOJ sử dụng các công cụ CSTT của mình – thông

thường là nghiệp vụ thị trường mở để tác động vào các yếu tố hình thành nên lãi suất

cơ bản, chủ yếu là những yếu tố tác động đến cung và cầu về nguồn vốn trên thị trường

tiền tệ. Thông qua hoạt động trên thị trường mở, BOJ điều tiết lãi suất thị trường tiền

-23-

tệ (Money Market rate) hướng đến lãi suất mục tiêu (LSCB) và biến động trong giới

hạn cho phép của “trần” LSCK mà không hề dùng bất cứ biện pháp hành chính cụ thể

nào. Trên cơ sở tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ, BOJ sẽ gián tiếp tác động đến

các mức lãi suất khác trên thị trường tài chính và lãi suất mà các ngân hàng áp dụng đối

với các khoản vay cho các cá nhân và công ty, qua đó, sẽ ảnh hưởng đến đầu tư và tiêu

dùng của các tổ chức kinh tế, và ảnh hưởng của chính sách tiền tệ sẽ lan rộng trong

hoạt động kinh tế và giá cả.

Trong những chuyển biến nền kinh tế Nhật bản giai đoạn 2006 đến nay: giai

đoạn thoát khỏi suy thoái, cải tiến và phát triển kinh tế, BOJ nhận ra thách thức quan

trọng nhất của Nhật Bản là nền kinh tế đang phải đối mặt với nhiệm vụ khôi phục và

nâng cao năng suất, tốc độ tăng trưởng tiềm năng, vì vậy kể từ đầu tháng 1/2009, BOJ

đã thay đổi và duy trì mức LSCB ở mức rất thấp 0 – 0,1% cho đến nay. (Đồ thị 1.1)

Ngoài ra, theo Khoản 2, Điều 3 Luật NHTW Nhật Bản quy định “BOJ có trách

nhiệm làm rõ cho các công dân của Nhật Bản về nội dung của các quyết định cũng như

quá trình ra các quyết định liên quan đến tiền tệ và kiểm soát tiền tệ”. Từ quy định này

cũng như nhận thức được việc minh bạch hóa thông tin về các quyết định và quá trình

ra quyết định liên quan đến CSTT của NHTW sẽ tăng cường hiệu quả của CSTT, BOJ

đã cung cấp rất nhiều thông tin về quá trình điều hành lãi suất cũng như điều hành

CSTT cho công chúng.

Mặt khác, BOJ cũng cho rằng công tác thống kê số liệu cũng như việc tiến

hành các nghiên cứu và điều tra là rất quan trọng để thực hiện CSTT một cách phù hợp

thực tiễn. Để hiểu chính xác tình hình kinh tế và tài chính Nhật Bản, BOJ không chỉ

dựa trên các thống kê và nghiên cứu trong nước mà phải tiến hành cả ở nước ngoài và

trên toàn cầu bằng cách duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các NHTW và các tổ chức

quốc tế.

1.4.2 Bài học kinh nghiệm từ cách điều hành lãi suất của BOJ

Từ thực tế điều hành của BOJ trong giai đoạn vừa qua 2006 – 2012, chúng ta

-24-

có thể rút ra một số kinh nghiệm cho việc điều hành lãi suất của Việt Nam như sau:

Một là, cơ chế điều hành lãi suất của BOJ được thực hiện qua việc định hướng

lãi suất mục tiêu bằng nghiệp vụ thị trường mở đã tạo ra sự linh hoạt và nhịp nhàng

trong quá trình truyền dẫn tiền tệ từ cơ chế điều hành lãi suất của BOJ đến mặt bằng lãi

suất của thị trường với hiệu quả cao. Đây có thể xem là định hướng điều hành lãi suất

mà NHNN Việt Nam cần phải xem xét trong tương lai gần.

Hai là, NHNN Việt Nam cần nâng cao mức độ độc lập của NHNN đối với

Chính phủ. Thực tế cho thấy không chỉ ở Nhật mà ở các nước phát triển khác có hệ số

độc lập của NHTW càng cao thì lạm phát bình quân càng thấp, đồng thời chỉ số lạm

phát biến thiên càng ít và ngược lại. Hơn nữa tác động của tính độc lập của NHTW lên

tỷ lệ lạm phát là xuyên suốt theo thời gian. Điều này mang lại nhiều ý nghĩa cho nền

kinh tế Việt Nam hiện nay khi Luật NHNN năm 2010 trình bày rõ mục tiêu cuối cùng

của CSTT là ưu tiên cho kiềm chế lạm phát và tương lai lạm phát vẫn là một nguy cơ

lớn tiềm ẩn đối với nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, qua các bằng chứng thực nghiệm

cho thấy, một mô hình NHTW độc lập hơn còn giúp giảm thâm hụt ngân sách, giúp

NHTW thực hiện CSTT hiệu quả sẽ góp phần vào tăng trưởng kinh tế ổn định hơn.

Ba là, thể hiện sự ưu tiên cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn

hiện nay cũng như một số giai đoạn trong quá khứ, BOJ đã nhiều lần hạ mức lãi suất

cơ bản và lãi suất chiết khấu xuống mức thấp nhất chưa từng có trên thế giới (LSCB

của BOJ từ tháng 1/2009 đến nay là 0 – 0,1%), điều này đã góp phần tạo ra cách nghĩ

mới trong điều hành lãi suất là hoàn toàn không có chính sách lãi suất thấp nhất hay

cao nhất nào trong cơ chế điều hành lãi suất. Chính sách lãi suất thấp và ổn định là

phương tiện để BOJ vực dậy nền kinh tế trong quá khứ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

trong hiện tại. Việt Nam nên xem xét chính sách này để áp dụng cho chính sách điều

hành lãi suất của quốc gia khi hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu tăng

trưởng chậm và đã phần nào kiềm chế được lạm phát.

-25-

Bốn là, cần tăng cường công khai minh bạch hóa thông tin trong điều hành

CSTT để thực thi có hiệu lực và hiệu quả CSTT đồng thời tạo lập được niềm tin trong

dân chúng. Ngoài ra, đảm bảo chất lượng công tác thống kê số liệu cũng như việc tiến

hành các nghiên cứu và điều tra là rất quan trọng. Kinh nghiệm từ BOJ cho thấy, các

thống kê và nghiên cứu không chỉ được thực hiện trong nước mà phải tiến hành cả ở

nước ngoài và trên toàn cầu bằng cách duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các NHTW và

các tổ chức quốc tế.

Với những chia sẻ kinh nghiệm trong công tác điều hành lãi suất của BOJ trên

đây sẽ góp phần hoàn thiện hơn cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam trong

tương lai.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Chương 1 đã trình bày những nền tảng lý thuyết mang tính tổng quan về lãi suất

cũng như cơ chế điều hành lãi suất của NHTW. Qua đó cho thấy vai trò và tầm quan

trọng của nhân tố lãi suất cũng như cơ chế điều hành lãi suất đối với nền kinh tế.

Thông qua tìm hiểu cơ chế điều hành lãi suất của NHTW Nhật Bản giai đoạn 2006 –

2012, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam sẽ có thêm những bài học kinh

nghiệm để từ đó có những điều chỉnh hợp lý và hiệu quả góp phần thực hiện tốt mục

tiêu của CSTT trong từng giai đoạn cụ thể.

-26-

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT

Ở VIỆT NAM

2.1 Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam từ năm 2008 đến tháng 6/2013

Trong khuôn khổ mục tiêu và giới hạn của luận văn, tác giả chỉ tập trung vào hai

biến số vĩ mô quan trọng nhất của nền kinh tế đó là tăng trưởng kinh tế (% GDP) và tỷ

lệ lạm phát (% CPI) để phân tích bối cảnh nền kinh tế Việt Nam từ năm 2008 đến nay.

Trong giai đoạn trước năm 2008, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính

châu Á năm 1997 đã tác động làm suy yếu nền kinh tế Việt Nam, nên từ năm 1999, với

mục tiêu là vực dậy nền kinh tế, Chính phủ đã triển khai chính sách kích cầu và kết quả

đạt được là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế năm sau luôn cao hơn năm trước. Tuy

nhiên, đất nước vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế bền vững với tốc độ

cao vì hệ lụy đi kèm là tốc độ tăng giá không ổn định và có xu hướng ngày càng tăng

cao mà đỉnh điểm lạm phát lên đến 2 con số vào năm 2007 (12,63%) mặc dù GDP năm

2007 vẫn trong đà tăng trưởng là 8,48% cao hơn năm 2006 đạt 8,23%). Kết quả kinh tế

vĩ mô bất ổn vào cuối năm 2007 khi phải đối mặt với lạm phát cao tới 2 con số (mức

cao nhất trong thời kỳ 2000 – 2007), cho thấy viễn cảnh đầy khó khăn của năm 2008.

Năm 2008, cộng thêm cú sốc là cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới bắt

nguồn từ Mỹ và nhanh chóng lây lan rất nhanh sang tất cả các khu vực khác của thế

giới, kéo theo suy thoái, thậm chí đại suy thoái kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam

do đó cũng chịu nhiều ảnh hưởng và việc điều hành lãi suất cũng như CSTT của

NHNN từ năm 2008 đến nay đã gặp rất nhiều trở ngại và thách thức:

Những tháng đầu năm 2008, giá xăng dầu trên thị trường thế giới tăng cao, kết

hợp với CSTT nới lỏng và CSTK mở rộng trong thời gian dài trước đó đã dẫn đến lạm

phát của nền kinh tế tăng cao không ngừng, hệ quả là CPI vào cuối năm 2008 lên đến

19,89% (cho dù giá dầu trên thị trường thế giới và giá cả trong nước đã giảm mạnh vào

các tháng cuối năm 2008 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu). Đứng

trước cú sốc này, CSTT thắt chặt và CSTK thu hẹp đã được triển khai. Lãi suất năm

-27-

2008 tăng rất cao gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán và

bất động sản cũng trở nên trầm lắng và đóng băng. Tốc độ tăng trưởng sụt giảm và tỷ

lệ thất nghiệp gia tăng.

Đồ thị 2.1 Lạm phát và tăng trƣởng kinh tế giai đoạn 2000 – tháng 6/2013

% GDP

% CPI

Linear (% GDP)

Linear (% CPI)

25

20

19.89

18.13

15

12.63

11.75

10

9.5

8.4

6.79 6.89 7.08 7.34 7.79 8.44 8.23 8.48

6.78

6.6

6.18

5.89

6.52 5.32

5

6.81 6.69 5.03 4.90

4

3

0.8

0

-0.6

-5

Đơn vị tính: %/năm

Nguồn : Tổng cục Thống kê

Chưa kịp hứng chịu hết tác động của chính sách kiềm chế lạm phát thì vào cuối

năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu tác động đến nền

kinh tế trong nước. Các phản ứng của chính sách bị đảo ngược chiều. Từ CSTK và tiền

tệ thu hẹp chuyển sang CSTK và tiền tệ mở rộng để ngăn chặn suy giảm kinh tế. Tuy

nhiên, ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng quá mạnh đã khiến tốc độ tăng trưởng GDP

cuối năm 2008 chỉ đạt 6,18% (giảm đi so với mức tăng 8,48% của năm 2007). Trước

tình hình đó, năm 2009 Chính phủ đã triển khai gói kích thích kinh tế quy mô lớn (1 tỷ

USD), nhưng do những yếu kém nội tại và ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính

và suy thoái kinh tế toàn cầu vẫn còn, tăng trưởng của nền kinh tế tiếp tục bị sụt giảm

-28-

và chỉ còn 5,32% vào cuối năm. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới có xu hướng

phục hồi cũng như hiệu quả của chính sách kinh tế mà nền kinh tế đã có dấu hiệu phục

hồi vào năm 2010.

Năm 2010, nền kinh tế Việt Nam đã được khôi phục, tăng trưởng kinh tế cuối

năm 2010 đạt 6,78%. Tuy nhiên, nền kinh tế thế giới phục hồi làm tăng nhu cầu xăng,

dầu, nguyên nhiên liệu cho hoạt động sản xuất. Giá nhiều loại đầu vào sản xuất tăng

lên, cộng với CSTT và CSTK mở rộng kích thích kinh tế trước đó đã đẩy lạm phát năm

2010 lên tới 11,75% và có những diễn biến phức tạp. Chính vì thế, Luật NHNN năm

2010 có hiệu lực từ năm 1/1/2011 thì CSTT của NHNN là tập trung ưu tiên vào mục

tiêu cuối cùng là ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, và được

NHNN thực thi bằng CSTT thắt chặt.

Trong bức tranh toàn cảnh của kinh tế thế giới năm 2011 với những nét cơ bản

gồm “tăng trưởng chậm, không cân bằng và luôn bất ổn”, nền kinh tế Việt Nam cũng

không tránh khỏi tình trạng tăng trưởng thấp đi kèm với lạm phát cao. Tăng trưởng

kinh tế Việt Nam năm 2011 sụt giảm so với năm 2010, chỉ đạt 5,89%, lạm phát thì tăng

cao trở lại (tính đến hết tháng 12, tốc độ tăng trưởng lạm phát trong cả năm 2011 là

18,13%) tiếp tục là thách thức đối với công tác điều hành chính sách tiền tệ của

NHNN, mà trong đó cơ chế điều hành lãi suất đóng vai trò quan trọng.

Trước bối cảnh lạm phát tăng cao trong năm 2011, mục tiêu kiềm chế lạm phát

được Quốc hội đề ra trong năm 2012 là thấp hơn 10%, cùng với CSTT thắt chặt và

CSTK thu hẹp, kiềm chế lạm phát năm 2012 đã đạt kết quả khả quan, cụ thể là tỷ lệ

lạm phát cuối năm 2012 giảm còn 6,81%. Tuy nhiên, vẫn còn mặt hạn chế đó là chưa

hỗ trợ cải thiện được thực trạng tổng cầu của nền kinh tế suy giảm (tăng trưởng kinh tế

năm 2012 chỉ đạt 5,03%), sản xuất kinh doanh khó khăn và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.

Tình hình tế Việt Nam năm 2012 cho thấy kết quả kiểm soát lạm phát năm 2012

chỉ mang tính thời điểm không ổn định và chưa vững chắc, các yếu tố gây nên lạm phát

cao chưa giải quyết được tận gốc rễ. Ngoài ra, Đồ thị 2.1 cho thấy một thực trạng đáng

-29-

lưu ý là trong giai đoạn 2000 – tháng 6/2013, tỷ lệ lạm phát có xu hướng tăng lên mạnh

mẽ, trong khi đó tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm. Vì thế, thông điệp hành động

cho năm 2013 và những năm tiếp theo mà Chính phủ đưa ra vẫn là ưu tiên kiểm soát

lạm phát nhưng phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Đến tháng 6 năm

2013, ước tính tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 4,9% so với cùng kỳ và tỷ lệ lạm phát

(so với cùng kỳ) là 6,69%.

2.2 Tổng quan về Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam và nguyên tắc điều hành

lãi suất của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV – State Bank of Viet Nam) là NHTW của

nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, được đổi tên từ Ngân hàng Quốc gia Việt

Nam (thành lập ngày 6/5/1951), là một cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ tại Việt

Nam, thuộc mô hình NHTW phụ thuộc Chính phủ. Hệ thống tổ chức của NHNN Việt

Nam được tổ chức thành hệ thống tập trung, thống nhất, bao gồm: Bộ máy điều hành

và hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở chính (trụ sở trung ương) có trụ sở trung ương đặt tại

thủ đô Hà Nội với bộ máy lãnh đạo tập trung, gồm: Thống đốc NHNN Việt Nam, các

Phó Thống đốc và bộ máy giúp việc cho Thống đốc và Phó Thống đốc; Các chi nhánh

tại địa phương; Các văn phòng đại diện; Các đơn vị trực thuộc.

NHNN Việt Nam là cơ quan chịu trách nhiệm về việc phát hành tiền tệ, quản lý

tiền tệ và tham mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính phủ như: phát hành

tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách về lãi suất, quản lý dự trữ ngoại tệ, soạn thảo các

dự thảo luật về kinh doanh NH và các TCTD, xem xét việc thành lập các NH và

TCTD, quản lý các NHTM nhà nước v.v… NHNN Việt Nam mang trách nhiệm vô

cùng quan trọng trong việc điều hành CSTT quốc gia đi theo mục tiêu: ổn định giá trị

đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, giảm tỷ lệ

thất nghiệp, đảm bảo an sinh xã hội v.v… Trong đó, lãi suất là một công cụ đắc lực để

NHNN thực thi CSTT góp phần to lớn cho việc đạt được các mục tiêu đã chọn.

Trong cơ chế điều hành lãi suất, NHNN Việt Nam đóng vai trò chủ đạo – là tác

-30-

nhân đầu tiên trong cơ chế, thông qua việc ban hành các quy định, quyết định và động

thái của mình về lãi suất, NHNN sẽ tác động điều chỉnh lãi suất trên thị trường của các

TCTD, từ đó góp phần điều tiết nền kinh tế theo đúng mục tiêu mà CSTT hướng đến.

Ngoài ra, NHNN Việt Nam còn là cơ quan thực hiện các hoạt động giám sát, điều hành

và quản lý quá trình thực hiện cơ chế điều hành lãi suất, các chủ thể tham gia (TCTD)

nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Cơ chế điều hành lãi suất đạt hiệu quả hay không sẽ

tùy thuộc vào động thái điều hành, giám sát và quản lý của NHNN Việt Nam. Đứng

trước vai trò và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của NHNN đối với việc thực hiện có hiệu

quả cơ chế điều hành lãi suất và điều hành CSTT, NHNN Việt Nam cần phải linh hoạt,

kịp thời và thận trọng trong quá trình điều hành của mình.

Nguyên tắc điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

Theo thực tế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam hiện nay, các loại lãi suất

điều hành chủ yếu được NHNN sử dụng để can thiệp vào thị trường tiền tệ bao gồm:

LSCB; LSTCV; LSTCK; Lãi suất OMO;

NHNN LNH

g. Trong đó, LSCB là lãi suất chỉ áp dụng cho VND, do

NHNN công bố, làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh. LSCB ở Việt

Nam được NHNN xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường nội tệ LNH, lãi suất OMO

của NHNN, LSHĐ đầu vào của các TCTD và xu hướng biến động cung – cầu vốn.

Kể từ năm 2003, trong điều kiện thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận theo quyết

định số 546/2002/QĐ-NHNN, để đảm bảo ổn định lãi suất thị trường, NHNN đã từng

bước thiết lập một hành lang lãi suất thị trường LNH với biên độ chênh lệch khoảng

2% để điều tiết lãi suất thị trường: (i) “Trần” là LSTCV, “sàn” là LSTCK. Lãi suất

LNH, LSCB và lãi suất OMO cũng biến động trong phạm vi hành lang này; (ii) Lãi

suất OMO đóng vai trò định hướng và thực hiện việc “bơm” tiền ra hoặc “hút” tiền về,

từ đó tác động đến cung - cầu vốn, lãi suất thị trường LNH và LSHĐ, LSCV của

NHTM.

-31-

Thông qua “nguyên tắc điều tiết lãi suất thị trường” trên của NHNN, các mức lãi

suất thị trường sau đó sẽ truyền dẫn CSTT (là thắt chặt hay mở rộng) đến nền kinh tế

thông qua tác động của lãi suất thị trường đến các chỉ tiêu như: lạm phát, tăng trưởng

kinh tế, tỷ giá v.v… nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra trong CSTT.

Hình 2.1 Nguyên tắc điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

Lãi suất tái cấp vốn

Lãi suất liên ngân hàng

Lãi suất tái chiết khấu

Nguồn: tác giả tự vẽ

Với các loại lãi suất điều hành và cơ chế điều hành lãi suất như trên, NHNN đã

vận dụng một cách linh hoạt và thận trọng nhằm định hướng và truyền dẫn lãi suất trên

thị trường tiền tệ phù hợp với mục tiêu của CSTT trong từng thời kì nhất định. Trong

đó, mục tiêu trong điều hành CSTT nói chung và chính sách lãi suất nói riêng được quy

định cụ thể trong Luật NHNN năm 1997 (áp dụng từ năm 1998) và Luật NHNN năm

2010 (áp dụng từ 1/1/2011) như sau:

Giai đoạn 1997 – 2010, điều hành CSTT là đa mục tiêu. Theo Luật NHNN

1997, đã quy định rõ, đó là: „ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần

thúc đẩy kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống xã hội‟.

Giai đoạn 2011 – 2013, theo Luật NHNN năm 2010 thì điều hành CSTT là đơn

mục tiêu, đó là : „ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát‟.

2.3 Sơ lƣợc về cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam thời kỳ trƣớc năm 2008

Có thể tóm tắt theo 5 giai đoạn dưới đây:

 Giai đoạn 1986 đến 5/1992: cơ chế điều hành lãi suất cố định: nhà nước ấn

định lãi suất cho các NH và giữ cố định trong một thời gian dài. Trong giai đoạn này,

-32-

do Việt Nam nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu, đặc biệt là xảy ra tình trạng lạm phát

rất nghiêm trọng nên lãi suất tiền gửi vào các NH là lãi suất âm và thấp hơn nhiều so

với lạm phát, gây ra rất nhiều khó khăn cho đời sống của người dân.

 Giai đoạn 6/1992 đến 12/1995: cơ chế điều hành khung lãi suất hay còn gọi

là bước chuyển đổi từ cơ chế lãi suất âm sang lãi suất dương vì trong giai đoạn này

tình hình lạm phát đã được đẩy lùi và luôn ở mức thấp. NHNN điều hành cơ chế lãi

suất theo khung, trong đó quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần LSCV đối với nền

kinh tế. Căn cứ khung lãi suất này, các NHTM đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình.

 Giai đoạn 1/1996 - 7/2000: cơ chế điều hành lãi suất trần. NHNN bãi bỏ

mức lãi suất sàn tiền gửi và chỉ quy định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn cho vay

và khống chế chênh lệch giữa LSCV với LSHĐ bình quân ở mức 0,35%/tháng (tương

đương 4,2%/năm). Cuối tháng 1-1998, quy định chênh lệch lãi suất được xóa bỏ, chỉ

giữ lại quy định trần LSCV, bước đầu thực hiện tự do hóa LSHĐ.

 Giai đoạn 8/2000 đến 5/2002: cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ.

Đây là giai đoạn NHNN sử dụng LSCB để điều hành CSTT. Dựa vào mức LSCB và

biên độ dao động do NHNN công bố trong từng thời kỳ, các NHTM được phép ấn

định LSCV bằng VND phù hợp với quy định. Đối với hình thức cho vay bằng ngoại tệ

bắt đầu áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận từ tháng 5/2001.

 Giai đoạn 6/2002 đến 2007: cơ chế lãi suất thỏa thuận. Thông qua quyết định

số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 của NHNN, quy định về việc thực hiện cơ

chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VND, NHNN điều

hành lãi suất theo cơ chế lãi suất thỏa thuận trên cơ sở giải quyết tốt mối quan hệ cung

cầu vốn vay giữa NH với khách hàng theo đúng quy luật thị trường, LSCB do NHNN

công bố trong giai đoạn này chỉ có tính chất tham khảo.

Như vậy, có thể thấy giai đoạn từ 1986 đến 5/2002 là giai đoạn Việt Nam áp

dụng cơ chế lãi suất theo khuôn khổ mệnh lệnh hành chính, từ 6/2002 cho đến nay, cơ

chế điều hành lãi suất ở Việt Nam là cơ chế lãi suất thỏa thuận, mang tính thị trường.

-33-

2.4 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam giai

đoạn từ năm 2008 đến tháng 6/ 2013

Có thể nói trong thời gian hơn 5 năm qua, trước những biến động khôn lường

của kinh tế thế giới và khu vực, cũng như diễn biến phức tạp của kinh tế vĩ mô trong

nước, NHNN đã có sự điều chỉnh linh hoạt trong cơ chế điều hành lãi suất hướng đến

những mục tiêu cụ thể mà CSTT đặt ra trong từng thời kỳ nhất định, cụ thể như sau:

2.4.1 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2008

Từ cuối năm 2007 khi lạm phát tăng cao đỉnh điểm lên tới 2 con số (12,63%),

Quốc hội đã đề ra chỉ tiêu cụ thể cho năm 2008 là: Tỷ lệ lạm phát < 10%, tốc độ tăng

trưởng GDP nằm trong khoảng 8,5 – 9%, cơ chế điều hành lãi suất trong năm 2008

nhằm đạt được những chỉ tiêu trên đã được NHNN thực hiện như sau:

Đầu năm 2008, trước tình hình lạm phát ngày tăng cao, khó kiểm soát do ảnh

hưởng từ CSTT và CSTK nới lỏng để kích cầu từ những năm trước và biến động giá

xăng dầu trên thị trường thế giới, ngày 1/2/2008 NHNN đồng loạt tăng các loại lãi suất

chủ chốt như LSCB tăng từ 8,25% lên 8,75%, LSTCK từ 4.5% tăng lên thành 6%,

LSTCV tăng từ 6,5% lên 7,5%, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử LNH

và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các NHTM từ

10,8%/năm tăng lên 15%/năm nhằm điều tiết tăng lãi suất thị trường, từ đó thực hiện

CSTT thắt chặt, kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, do hệ thống NHTM lúc này vẫn còn

nhiều yếu kém, đặc biệt là các NHTM cổ phần vừa và nhỏ nên tình hình thanh khoản

của các NHTM này đã rơi vào tình trạng khó khăn, bắt buộc phải tăng LSHĐ. LSHĐ

từ mức bình quân 7% – 8%/năm vào năm 2007 đã nhảy vọt lên mức bình quân

12%/năm vào tháng 2/2008 mở đầu cho cuộc đua LSHĐ. Trước tình hình đó, NHNN

đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện số 02/2008/CĐ-NHNN

ngày 26/02/2008, đồng thời nhằm hạn chế cuộc đua lãi suất này, Hiệp hội Ngân hàng

Việt nam (VNBA) thông qua cuộc họp vận động các NHTM chấp thuận LSHĐ cao

nhất là 11%/năm. Tuy nhiên những động thái này là một giải pháp mang nặng tính

-34-

hành chính và tỏ ra không hiệu quả khi đã khiến các NHTM vừa và nhỏ không huy

động được vốn từ thị trường 1 (thị trường các tổ chức kinh tế và dân cư) mà phải

chuyển qua vay vốn của các NHTM lớn trên thị trường 2 (thị trường LNH) với lãi suất

LNH bình quân lên đến 18 – 24%/năm, đặc biệt mức lãi suất cho vay qua đêm trên thị

trường LNH vào tháng 2 đã là 20% và thậm chí có thời điểm tăng lên đến 30%. Bên

cạnh đó, các NHTM nhỏ cũng không được vay tái cấp vốn từ NHNN, khả năng tiếp

cận vốn qua thị trường mở, qua hoạt động vay tái chiết khấu từ NHNN còn rất nhiều

hạn chế, tất cả những điều này đã làm cho thanh khoản của các NH ngày càng khó

khăn hơn, các NH bắt buộc phải nâng LSHĐ vượt trần 12% của NHNN, tạo ra cuộc

đua LSHĐ ngày càng trầm trọng hơn với LSHĐ bình quân lần lượt vào tháng 3 và

tháng 4 là 14 – 15%. Điều này cũng có nghĩa là giải pháp hành chính với công điện số

02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 của NHNN và sự đồng thuận LSHĐ cao nhất là 11%

của VNBA nhằm hạn chế cuộc đua lãi suất đã trở nên thất bại và vô hiệu. Nền kinh tế

lúc này lâm vào tình trạng hết sức khó khăn khi đi kèm với cuộc đua lãi suất là tốc độ

tăng CPI chỉ mới sau 4 tháng đầu năm đã lên đến 11,6%, xấp xỉ bằng với mức tăng giá

của cả năm 2007 (12,63%).

Trước tình hình đó, với ưu tiên cấp thiết là kiềm chế lạm phát nhằm ổn định

kinh tế vĩ mô, NHNN đã ban hành quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008

về cơ chế điều hành LSCB bằng VND, theo đó quy định việc các TCTD ấn định LSHĐ

và LSCV bằng VND đối với khách hàng không vượt quá 150% LSCB do NHNN công

bố. Đi cùng với quyết định này, từ ngày 19/05/2008 NHNN đã điều chỉnh 2 đợt tăng

tương ứng các mức lãi suất chủ chốt: LSCB tăng lần lượt từ 8,75 lên 12 – 14%/năm ;

LSTCK tăng từ 6 lên 11 – 13%/năm, LSTCV tăng từ 7,5 lên 13 – 15%/năm. Trên cơ sở

điều chỉnh tăng LSCB của NHNN, các NHTM đã công khai tăng LSHĐ lên mức 16 –

17% và thậm chí một số NH nhỏ đã tăng lên đến 18% vào tháng 5. Đỉnh điểm của cuộc

đua lãi suất 2008 là vào tháng 6, LSHĐ ở một vài NH vừa và nhỏ lên đến ngưỡng 19 –

20%, và các NH lớn do đó cũng tăng LSHĐ để thu hẹp khoảng cách đã làm cho LSHĐ

-35-

bình quân của các NH vào tháng 6 lên đến 18,5%. Mặc dù hệ lụy của từ CSTT „thắt

chặt‟ của NHNN đã làm cho cuộc đua LSHĐ của các NHTM ngày càng trầm trọng,

nhưng mục tiêu giảm lạm phát bước đầu đã phát huy tác dụng khi tốc độ tăng giá của

tháng 6 đã có xu hướng giảm (chỉ tăng 2,14% so với tháng trước – mức tăng thấp nhất

kể từ đầu năm), tuy nhiên vẫn còn rất cao so với những năm trước đây khi tốc độ tăng

CPI 6 tháng đầu năm 2008 so với cuối năm 2007 (12,63% – mức lạm phát cao nhất

trong giai đoạn 2000 – 2007, Đồ thị 2.1) đã chênh lệch tăng 581 điểm %, lên đến

18,44%.

Bảng 2.1 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2008

LSCB LSTCV LSTCK Văn bản quyết định Ngày áp dụng Lãi suất qua đêm

9,5% 8,5% 9,5% 7,5% 3159/QĐ-NHNN 19/12/2008 22-12-2008

11% 10% 11% 9% 2949/QĐ-NHNN 3/12/2008 05-12-2008

12% 11% 12% 10% 2810/QĐ-NHNN 21-11-2008

13% 12% 13% 11% 2561/QĐ-NHNN 3/11/2008 05-11-2008

14% 13% 14% 12% 2318/QĐ-NHNN 20/10/2008 21-10-2008

15% 14% 15% 13% 1316/QĐ-NHNN 10/6/2008 11-06-2008

15% 12% 13% 11% 1099/QĐ-NHNN 16/05/2008 19-05-2008

15% 8,75% 7,5% 6 % 306/QĐ-NHNN 30/1/2008 01-02-2008

Nguồn: NHNN

Từ tháng 7/2008, cơ chế điều hành lãi suất theo hướng thắt chặt nhằm kiềm

chế lạm phát của NHNN trước đây đã tỏ ra hiệu quả khi đã tác động làm CPI có xu

hướng tăng chậm và ổn định qua từng tháng (đã bắt đầu từ tháng 6), đến cuối tháng 9

CPI chỉ tăng 0,18%/năm so với tháng 8 (mức tăng thấp nhất kể từ đầu năm). Cuộc đua

lãi suất cũng có dấu hiệu chững lại khi LSHĐ và LSCV của các NH đã ngừng tăng và

bắt đầu giảm nhẹ. Tuy nhiên, hệ lụy từ lãi suất thị trường không ngừng tăng cao trong

6 tháng đầu năm đã gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động vay vốn

tiến hành sản xuất kinh doanh, làm gia tăng thất nghiệp và mức tăng trưởng kinh tế

-36-

chậm dần. Chưa dừng lại ở đó, vào những tháng cuối năm, cuộc khủng hoảng tài chính

và suy thoái kinh tế trên toàn cầu đã bắt đầu lây lan sang Việt Nam và gây ảnh hưởng

xấu đến nền kinh tế trong nước: thị trường chứng khoán và bất động sản trở nên ảm

đạm, hàng ngàn doanh nghiệp nhỏ và vừa đã cắt giảm sản xuất và đang đứng trước

nguy cơ phá sản, thất nghiệp tăng cao và tốc độ tăng trưởng sụt giảm. Tốc độ tăng

GDP 9 tháng đầu năm chỉ đạt 6,52%, mức tăng này thấp hơn hẳn so với cùng kỳ năm

ngoái (8,16%) cũng như kết quả của cả năm 2007 (8,48%). Do đó, CSTT từ thắt chặt

được chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng nhằm đẩy mạnh tăng trưởng tín

dụng từ đó góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp và ngăn

ngừa nguy cơ suy giảm kinh tế. Từ 21/10/2008, NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm LSCB

từ 14%/năm xuống còn 8,5%/năm; LSTCV từ 15%/năm xuống còn 9,5%/năm; LSTCK

từ 13%/năm xuống còn 7,5%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử

LNH và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các

NHTM từ 15%/năm xuống còn 9,5%/năm. Kết quả là lãi suất thị trường cũng đã giảm

liên tục cho đến cuối năm (LSHĐ bình quân cuối năm giảm mạnh chỉ còn khoảng 9 –

9,5% so với đỉnh điểm 19% – 20% vào tháng 6). Tuy nhiên hiệu quả truyền dẫn của

CSTT đến nền kinh tế không cao khi tốc độ tăng trưởng GDP cuối năm sụt giảm chỉ

còn 6,18% ( thấp hơn mục tiêu đề ra ban đầu là 8,5% – 9%), tốc độ tăng CPI tháng

12/2008 vẫn còn rất cao, lên tới 19,89% (vượt quá xa so với mục tiêu đặt ra là < 10%).

Tóm lại, năm 2008 mặc dù công tác điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

chịu nhiều tác động xấu từ bên trong lẫn bên ngoài đất nước, mà đặc biệt là cuộc khủng

hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng cũng đã đạt được một số thành công nhất

định vào những tháng cuối năm, như đã ngăn chặn được cuộc đua lãi suất và kiểm soát

tốt lạm phát (từ 18,44% trong 6 tháng đầu năm chỉ tăng lên 19,89% vào cuối năm).

Thành công đó là nhờ vào việc ban hành cơ chế LSCB đối với VND và điều chỉnh linh

hoạt với tần suất cao các mức lãi suất điều hành (tổng cộng 8 lần). Tuy nhiên, do áp

dụng các biện pháp hành chính không cần thiết như ban hành Công điện 02/2008/CĐ-

-37-

NHNN quy định trần LSHĐ là 12% và kêu gọi các NHTM đồng thuận LSHĐ tối đa

11%, NHNN đã làm trầm trọng thêm cuộc đua lãi suất trong 6 tháng đầu năm.

2.4.2 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2009

Dưới tác động tiêu cực làm suy yếu kinh tế trong nước từ cuộc khủng hoảng tài

chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã diễn ra từ những tháng cuối năm 2008, mục tiêu

trọng tâm của CSTT cũng như điều hành lãi suất trong năm 2009 được Chính phủ đưa

ra là “phục hồi tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô”.

Các giải pháp điều hành lãi suất nhằm kích thích nền kinh tế tiếp tục được triển

khai như sau: (i) LSCB, LSTCV, LSTCK, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán

điện tử LNH và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN giảm

xuống mức lần lượt là 7%/năm, 8-7%/năm, 6-5%/năm và 8-7%/năm từ 1/2/2009 và giữ

ổn định đến cuối tháng 11/2009; (ii) ban hành cơ chế lãi suất thoả thuận của các

NHTM đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp

vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng theo thông tư số 01/2009TT-NHNN vào ngày

01/02/2009 (các lĩnh vực còn lại vẫn sẽ tiếp tục thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản theo

Quyết định 16/2008/QĐ-NHNN); (iii) triển khai đồng bộ các cơ chế hỗ trợ lãi suất đối

với các khoản vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng VND theo Quyết định số 131/QĐ-

TTg ngày 23/01/2009, Quyết định 443/QĐ-TTg ngày 4/4/2009, Quyết định số

579/QĐ-TTg ngày 6/5/2009 và Công văn số 670/TTg-KTTH ngày 5/5/2009 của Thủ

tướng Chính phủ với lãi suất hỗ trợ là 4%; đi đôi với tăng cường thanh tra, giám sát,

hoàn thiện cơ chế và tháo gỡ các khó khăn vướng mắc liên quan đến cơ chế hỗ trợ lãi

suất.

Đến hết tháng 11/2009, trước xu thế phục hồi của nền kinh tế đã rõ rệt hơn (ước

tính khả năng tăng trưởng kinh tế vào cuối năm có thể trên 5,2% - đạt mục tiêu đề ra

vào đầu năm là 5%), thì NHNN đã chuyển sang quan tâm đến mục tiêu ổn định giá cả

khi thị trường tiền tệ, tín dụng và giá cả thời gian gần đây có nhiều biến động, đặc biệt

là dư nợ tín dụng cần phải có những biện pháp xử lý kịp thời hơn. Tính đến hết tháng

-38-

11/2009, tổng dư nợ tín dụng đã tăng khá cao, tăng 36,08% so với ngày 31/12/2008

trong khi nguồn huy động không kịp đáp ứng dẫn đến việc một số NH nhỏ gặp khó

khăn về thanh khoản và lãi suất trên thị trường đã có xu hướng tăng từ những tháng

cuối năm. Trước tình hình đó, Chính phủ đã quyết định dừng hỗ trợ LSCV ngắn hạn

chỉ đến 31/12/2009 (so với thời gian thực hiện quy định ban đầu là đến hết Quý

1/2010) và bắt đầu thực hiện từ 1/12/2009. Ngoài ra, NHNN cũng điều chỉnh tăng các

mức lãi suất điều hành thêm 1% (trong đó lãi suất OMO cũng tăng từ 7 lên 8%/năm)

bắt đầu từ 1/12/2009 để tạo điều kiện cho các TCTD gia tăng nguồn vốn huy động từ

nền kinh tế và cải thiện thanh khoản. Động thái thắt chặt này của NHNN đã làm lãi

suất trên thị trường tăng mạnh hơn vào cuối năm, tạo xu hướng lãi suất tăng cao vào

đầu năm 2010.

Bảng 2.2 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2009

LSCB LSTCV LSTCK Văn bản áp dụng Lãi suất qua đêm Ngày áp dụng

8% 8% 8% 6% 01-12-2009 2664/QĐ-NHNN 25/11/2009

7% 7% 7% 5% 10-04-2009 837/QĐ-NHNN 10/4/2009

8% 7% 8% 6% 01-02-2009 173/QĐ-NHNN 23/1/2009

Nguồn: NHNN

Như vậy, điều hành lãi suất năm 2009 nhìn chung tương đối ổn định, phù hợp

với diễn biến của thị trường và mục tiêu của CSTT: tăng trưởng kinh tế năm 2009 đạt

5,32% (đạt mục tiêu đề ra là 5%); lạm phát được kiểm soát tốt (6,52%) đạt mục tiêu đề

ra < 15% và giảm đi rất nhiều so với năm 2008 (19,89%).

2.4.3 Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất năm 2010

Mặc dù điều hành lãi suất hay CSTT của NHNN năm 2009 có kết quả khả

quan, tuy nhiên vẫn còn đó những tồn tại cần phải tiếp tục xử lý trong năm 2010 như:

-39-

tốc độ tăng trưởng kinh vẫn đang bị suy giảm nhiều so với những năm trước đó; lãi

suất thị trường đang có xu hướng tăng nhanh. Nên từ đầu năm đến tháng 10/2010,

trước tình hình kinh tế thế giới đang dần hồi phục, Chính phủ đã giao cho NHNN

nhiệm vụ là điều hành giảm dần mặt bằng lãi suất thị trường, góp phần tăng trưởng

kinh tế theo các Nghị quyết 18/NQ-CP ngày 6/4/2010, Nghị quyết 23/NQ-CP ngày

7/5/2010 và Nghị quyết 39/NQ-CP ngày 4/10/2010.

Để đạt được mục tiêu trên, NHNN đã thực hiện các biện pháp điều hành lãi

suất theo hướng CSTT nới lỏng, như sau: (i) duy trì các mức lãi suất điều hành như

LSCB, LSTCV, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử LNH và cho vay bù

đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN ở mức 8%/năm, LSTCK ở mức 7%

cho đến hết tháng 10/2010; lãi suất OMO được điều chỉnh giảm dần; (ii) thực hiện cơ

chế lãi suất cho vay thỏa thuận đối với VND theo Thông tư 07/2010/TT-NHNN ngày

26/02/2010 (không áp dụng đối với cho vay ngắn hạn phục vụ sản xuất kinh doanh), và

sau đó là Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/04/2010, được áp dụng đối với tất cả

các khoản vay.

Kết quả của chính sách “nới lỏng” trên đã có chiều hướng tốt khi từ tháng 5

đến tháng 10 lãi suất thị trường đã giảm dần, qua đó kích thích gia tăng tiêu dùng, đầu

tư và vay vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đẩy tốc độ tăng GDP 9 tháng đầu

năm đạt 6,52% so với cùng kỳ năm 2009 (cao hơn 120 điểm % so với kết quả đạt được

vào cuối năm 2009 là 5,32%). Tuy nhiên nền kinh tế vẫn còn nhiều bất ổn do ảnh

hưởng từ biến động kinh tế thế giới 2008 – 2009, kết hợp với tác động từ chính sách

nới lỏng trong điều hành CSTT của NHNN khiến lạm phát không ổn định, đang ngày

càng leo thang và có xu hướng tăng cao vào cuối năm. CPI sau khi đột ngột giảm trong

đầu quý 2 thì cuối quý 3 lại đột ngột tăng cao đã làm cho CPI 9 tháng đầu năm lên đến

6,46% so với tháng 12/2009 (gần bằng mức 6.52% của cả năm 2009).

Trước tình hình đó, từ tháng 11/2010 theo Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày

9/11/2010, nhiệm vụ trọng tâm của NHNN là điều hành CSTT theo tín hiệu thị trường

-40-

để kiểm soát lạm phát. Từ tháng 5/11/2010, NHNN đã điều chỉnh tăng 1% các mức lãi

suất chủ chốt, cụ thể: LSCB, LSTCV, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện

tử LNH và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN lên 9% và

LSTCK lên 7%; ngoài ra, NHNN cũng điều chỉnh tăng 1-2%/năm lãi suất OMO. Chịu

tác động từ động thái tăng lãi suất điều hành của NHNN, lãi suất trên thị trường tăng

cao trong tháng 11, và một kịch bản được lập lại như cuộc đua lãi suất ở giai đoạn đầu

năm 2008, các NHTM vừa và nhỏ với tiềm ẩn yếu kém trong thanh khoản, đã đẩy lãi

suất LNH tăng cao, lên đến 18-20%, và mở đầu cho cuộc đua LSHĐ ở cuối năm 2010.

Nhằm ngăn chặn LSHĐ tăng cao ảnh hưởng đến LSCV và sau đó là khả năng hồi phục

kinh tế, đầu tháng 12, với sự đồng thuận của VNBA, NHNN đã chỉ đạo các NHTM ấn

định LSHĐ bằng VND không quá 14%/năm, đã bao gồm các chương trình khuyến mãi

và cộng thưởng đi kèm. Với biện pháp hành chính được đưa ra như vậy, thì đối với một

hệ thống NH còn nhiều yếu kém, chủ yếu là các NHTM vừa và nhỏ lại ẩn chứa rủi ro

thanh khoản cao như nước ta, thì biện pháp này lại thất bại như năm 2008. Kết quả là

LSHĐ vẫn tiếp tục tăng và vượt trần làm LSCV cũng tăng cao gây khó khăn cho tình

hình thanh khoản và các hoạt động kinh tế. Mặt khác trước tình hình tỷ lệ lạm phát

tháng 11 đã cao hơn dự kiến, đáng lẽ NHNN phải có động thái điều chỉnh tăng các mức

lãi suất chủ chốt để khắc phục thì NHNN lại giữ nguyên các mức lãi suất này cho đến

hết năm. Kết quả là khiến lạm phát cuối năm 2010 lên đến 11,75% (cao hơn gần gấp

đôi so với 2009).

Bảng 2.3 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2010

Lãi suất qua đêm LSCB LSTCV LSTCK Ngày áp dụng

9% 9% 9% 7% Từ 05-11-2010

8% 8% 8% Từ 01-02-2010

6% Nguồn: NHNN

Mặc dù năm 2010 có kết quả thuận lợi là tăng trưởng kinh tế đã hồi phục (đạt

6,78%), điều hành lãi suất đã tự do hóa hơn thông qua việc ban hành cơ chế LSCV

-41-

thỏa thuận. Tuy nhiên điều hành lãi suất của NHNN vẫn còn mang nặng tính hành

chính và chứa đựng nhiều bất ổn khi đã khiến lạm phát tăng cao và không ngăn chặn

được cuộc đua lãi suất của các NH.

2.4.4 Thực trạng điều hành lãi suất năm 2011

Theo Luật NHNN năm 2010 có hiệu lực từ 1/1/2011 thì mục tiêu cao nhất,

mục tiêu cuối cùng của CSTT là: “Ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm

phát”. Như vậy, NHNN đã chuyển hướng từ CSTT đa mục tiêu ở thời kỳ 1998 – 2010

(theo Luật NHNN năm 1997 có hiệu lực từ 1998) sang CSTT đơn mục tiêu. Đây là sự

đổi mới, hoàn thiện đúng hướng của NHNN phù hợp với các chuẩn mực của quốc tế.

Ngay từ đầu năm 2011, theo chỉ đạo của Chính phủ (Nghị quyết số 11/NĐ-CP

ban hành ngày 24/02/2011), NHNN đã tiếp tục thực hiện CSTT thắt chặt để ưu tiên

kiềm chế lạm phát. Theo đó, NHNN đã điều chỉnh tăng 5 lần LSTCV và lãi suất cho

vay qua đêm trong thanh toán điện tử LNH và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh

toán bù trừ của NHNN, điều chỉnh tăng 3 lần LSTCK bắt đầu từ 17/02/2011 đến

10/10/2011. Ngoài ra, trước tình hình cuộc đua lãi suất đã bắt đầu từ cuối năm 2010

vẫn đang diễn ra và có xu hướng tăng cao, ngày 03/03/2011 NHNN đã ban hành Thông

tư 02/2011/TT-NHNN quy định về mức trần LSHĐ là 14% cho các NHTM nhằm kiểm

soát chặt chẽ mức LSHĐ đầu vào của các NH từ đó hướng đến mục tiêu giảm LSCV

cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, Thông tư này của NHNN lại không quy định rõ là áp

dụng cho kỳ hạn nào nên đã khiến cho một số NHTM “lách luật” bằng cách áp dụng

mức lãi suất 14%/năm đối với cả các khoản tiền gửi kỳ hạn ngắn như ngày, tuần, khiến

cho lãi suất thực tế lên cao hơn 14%/năm. Mặt khác, với thực trạng muôn thuở chưa

được giải quyết đó là khả năng thanh khoản yếu kém và cạnh tranh không lành mạnh

của các NHTM, mà đặc biệt là các NHTM vừa và nhỏ mà biện pháp hành chính năm

2011 lại một lần nữa tiếp nối thất bại như những tháng đầu năm 2008 và cuối năm

2010. LSHĐ của các NHTM vẫn tiếp tục vượt trần và ngày càng tăng cao, lên đến đỉnh

điểm khoảng 18% vào những tháng giữa năm và kéo dài cho đến hết tháng 9.

-42-

Bảng 2.4 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2011

LSTCV LSTCK Văn bản quyết định Ngày áp dụng Lãi suất qua đêm

16% 15% 13% 10-10-2011 2210/QĐ-NHNN 06/10/2011

14% 14% 13% 01-05-2011 929/QĐ-NHNN 29/4/2011

13% 13% 12% 01-04-2011 692/QĐ-NHNN 31/3/2011

12% 12% 12% 08-03-2011 379/QĐ-NHNN 8/3/2011

11% 11% 7% 17-02-2011 271/QĐNHNN 17/02/2011

Nguồn: NHNN

Nhằm giải quyết tình trạng vượt trần LSHĐ của các NHTM, ngày 28/9/2011

NHNN đã phải bổ sung Thông tư số 30/2011-TT-NHNN về quy định lãi suất tiền gửi

tối đa bằng VND của tổ chức, cá nhân tại các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài,

trong đó có quy định rõ: lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ

hạn dưới 1 tháng là 6%/năm. Lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1

tháng trở lên là 14%/năm thì cuộc đua lãi suất mới có dấu hiệu thuyên giảm và không

vượt trần lãi suất như những tháng trước đó.

Mặt khác, với cơ chế LSCV thỏa thuận đang được áp dụng, thì việc LSHĐ của

các NH tăng cao, vượt xa so với mức trần của NHNN trong 9 tháng đầu năm đã làm

mặt bằng LSCV trong thời gian này bị đẩy lên theo đã gây ra nhiều khó khăn cho các

doanh nghiệp trong việc trả nợ cũng như tiếp cận vốn vay mới, hệ quả tất yếu là các

doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và ảnh hưởng xấu đến tổng cầu. Mặc dù

LSCV đã bắt đầu giảm vào 3 tháng cuối năm nhưng sự sụt giảm này là không đáng kể.

Tốc độ tăng GDP cuối năm 2011 do đó đã sụt giảm so với năm 2010, chỉ còn 5,89%.

Vấn đề đáng nói trong điều hành lãi suất và CSTT trong năm 2011 không phải

-43-

chỉ là ở sụt giảm trong GDP, vì mục tiêu quan tâm hàng đầu, mục tiêu duy nhất trong

năm 2011 được Chính phủ và NHNN đặt ra là kiểm soát lạm phát chứ không phải là

mục tiêu tăng trưởng. Lạm phát trong năm 2011 đã liên tục tăng cao và khó kiểm soát

từ những tháng đầu năm. Lạm phát vào tháng 5/2011 so với tháng 12/2010 đã là

12,07%, vượt mức lạm phát 11,75% của năm 2010. Đến cuối năm 2011, CPI đã lên

đến 18,13%, cao gần bằng với mức 19,89% của năm lạm phát cao đỉnh điểm 2008.

2.4.5 Thực trạng điều hành lãi suất năm 2012

Theo những mục tiêu mà Quốc hội đề ra từ 3/12/2011 theo Nghị quyết số

11/2011/QH13 là kiềm chế lạm phát trong năm 2012 < 10% và tốc độ tăng trưởng kinh

tế ở mức 6 – 6,5%, đầu năm 2012 NHNN đã chủ trương tiếp tục điều hành CSTT theo

hướng thắt chặt nhưng thận trọng và linh hoạt, tránh gây ra cú sốc làm tăng cao lãi suất

thị trường như những tháng đầu năm 2011. Các mức lãi suất chủ chốt do đó vẫn được

thận trọng giữ nguyên trong 2 tháng đầu năm mặc dù tốc độ tăng giá đã giảm mạnh.

Trước xu hướng giảm của lạm phát và trạng thái thanh khoản ở một số NH lớn đã dần

được cải thiện trong khi các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động

sản xuất kinh doanh vì khó tiếp cận được vốn vay từ phía các NHTM do mặt bằng lãi

suất quá cao, NHNN đã ban hành Chỉ thị 01/CT-NHNN vào ngày 13/02/2012, trong đó

xác định rõ nhiệm vụ quan trọng cần phải thực hiện trong năm 2012 là: “giảm lãi suất

thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tiếp cận vốn kinh

doanh”. Đầu tháng 3/2012 NHNN đã mạnh dạn giảm đồng loạt 1% các mức lãi suất

điều hành (trừ LSCB) để hạ nhiệt lãi suất thị trường và giảm bớt căng thẳng thanh

khoản của các NHTM vừa và nhỏ đã tồn tại từ cuối năm 2011 và tiếp tục kéo dài sang

đầu năm 2012. Kết quả khích lệ khi lãi suất thị trường đã bắt đầu hạ nhiệt, thanh khoản

của một số NH đã dần được cải thiện trong khi lạm phát cũng sụt giảm từ mức 18,14%

cuối năm 2011 xuống còn 14,15% trong tháng 3/2012.

Trước tình hình khả quan trong quý 1/2012, ngày 11/4 NHNN đã linh hoạt khi

tiếp tục giảm 1% các mức lãi suất điều hành để theo kịp diễn biến kinh tế vĩ mô (lạm

-44-

phát đang có xu hướng giảm ổn định) và thực hiện mục tiêu giảm lãi suất thị trường, hỗ

trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngoài ra, để hỗ trợ cải thiện

thanh khoản cho các TCTD, từ đó góp phần thực hiện nhiệm vụ giảm lãi suất, ổn định

thị trường, từ đầu tháng 4 NHNN cũng đã điều chỉnh giảm trần LSHĐ.

Tổng cộng trong năm 2012 NHNN đã 6 lần điều chỉnh giảm các mức lãi suất

điều hành và 5 lần điều chỉnh giảm trần LSHĐ. Trong đó, LSTCK giảm từ 13-12-11-

10-9-8-7%/năm, LSTCV giảm từ 15-14-13-12-11-10-9%/năm, lãi suất cho vay qua

đêm trong thanh toán điện tử LNH và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ

của NHNN giảm từ 16-15-14-13-12-11-10%/năm, trần LSHĐ giảm từ 14-13-12-11-9-

8%/năm (mức 9% và 8% được áp dụng đối với tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng). Ngoài

ra, từ 8/6/2012 NHNN đã cho phép các NHTM tự quyết định LSHĐ từ 12 tháng trở lên

(theo thông tư 19/2012/TT-NHNN). Điều này đã hỗ trợ các NHTM rất nhiều trong việc

gia tăng nguồn vốn huy động và cải thiện thanh khoản, từ đó giảm LSHĐ tạo điều kiện

giảm LSCV hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, mặc dù LSCV đã sụt

giảm so với năm 2011, nhưng đa số các doanh nghiệp vẫn chưa tiếp cận được vốn vay

do LSCV vẫn còn rất cao và bản thân tình trạng của các doanh nghiệp vẫn còn rất

nhiều khó khăn và yếu kém nên không thể đáp ứng được điều kiện cho vay vốn từ phía

NH. Điều này đã làm ảnh hưởng đến khả năng phục hồi của nền kinh tế khi GDP 6

tháng đầu năm 2012 ở mức thấp so với kỳ vọng, chỉ đạt 4,38% do nhiều ngành và lĩnh

vực gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm.

Bảng 2.5 Tình hình biến động lãi suất điều hành năm 2012

LSTCV LSTCK Văn bản quyết định Ngày áp dụng Lãi suất qua đêm

10% 9% 7% 2646/QĐ-NHNN 24-12-2012

11% 10% 8% 01-07-2012 1289/QĐ-NHNN 29/6/2012

12% 11% 9% 11-06-2012 1196/QĐ-NHNN 8/6/2012

-45-

13% 12% 10% 28-05-2012 1081/QĐ-NHNN 25/5/2012

14% 13% 11% 11-04-2012 693/QĐ-NHNN 10/4/2012

15% 14% 12% 13-03-2012 407/QĐ-NHNN 12/3/2012

Nguồn: NHNN

Trước tình hình đó, nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh

doanh hiệu quả và khơi thông dòng vốn, NHNN cũng đã có công văn đề nghị các NH

rà soát các khoản vay cũ và điều chỉnh giảm lãi suất các khoản vay cũ xuống còn

15%/năm từ ngày 15/07/2012. Ngoài ra, từ ngày 4/5/2012 NHNN đã ban hành Thông

tư số 14/2012/TT-NHNN quy định mức trần LSCV áp dụng đối với 4 lĩnh vực ưu tiên

gồm: các khoản cho vay nhằm đáp ứng các nhu cầu vốn phục vụ lĩnh vực nông nghiệp,

nông thôn; thực hiện phương án, dự án sản xuất - kinh doanh hàng xuất khẩu; phục vụ

sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; phát triển ngành công nghiệp hỗ

trợ. Theo đó, LSCV ngắn hạn bằng VND đối với 4 lĩnh vực ưu tiên tối đa bằng (=) lãi

suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND có kỳ hạn từ 1 tháng trở lên do NHNN quy định

cộng (+) 3%/năm). Mức trần LSCV ngắn hạn theo biên độ này được điều chỉnh giảm

dần kể từ mốc 15%/năm ngày 4/5/2012 xuống 14%/năm vào ngày 28/05/2012. Ngày

11/06/2012, căn cứ theo Thông tư 20/2012/TT-NHNN ban hành ngày 8/6/2012,

NHNN đã chuyển sang áp dụng trần LSCV ngắn hạn cố định là 13%/năm đối với 4

lĩnh vực ưu tiên, đến 24/12/2012 giảm còn 12%/năm (Thông tư 33/2012/TT-NHNN)

Như vậy, năm 2012, với việc chuyển hướng điều hành CSTT với mục tiêu

trung gian là lãi suất (giảm lãi suất thị trường) chứ không phải kiểm soát khối lượng

hay tín dụng như những năm trước đây, NHNN đã thành công khi điều hành lãi suất

linh hoạt theo kịp diễn biến kinh tế vĩ mô, lãi suất thị trường biến động ổn định theo xu

hướng giảm dần và LSHĐ, LSCV của các TCTD năm 2012 đã giảm hơn nhiều so với

năm 2011, lạm phát năm 2012 cũng được kiểm soát tốt ở mức 6.81%/năm đã tạo một

-46-

tín hiệu khả quan cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, sự ra đời cơ chế lãi suất thỏa thuận đối

với LSHĐ vốn trên 12 tháng và LSCV trung dài hạn là bước đi phù hợp, tạo điều kiện

cho các NHTM hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thương mại và thị trường. Tuy

nhiên, do sức cầu yếu kém, khả năng hấp thụ vốn thấp mà tốc độ tăng trưởng kinh tế

năm 2012 lại tiếp tục sụt giảm, chỉ còn 5,03% (thấp hơn so với mục tiêu đề ra 6-6,5%).

2.4.6 Thực trạng điều hành lãi suất 6 tháng đầu năm 2013

Bước sang năm 2013, nhờ vào việc thực hiện giảm LSHĐ và cho vay VND

trong năm 2012 đã tạo ra những tác động tích cực cho điều hành lãi suất năm 2013.

Theo định hướng, NHNN sẽ điều hành các mức lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế

vĩ mô, tiền tệ, đặc biệt là diễn biến của lạm phát. Tiếp tục áp dụng trần LSHĐ bằng

VND để ổn định mặt bằng lãi suất thị trường, sẽ xem xét bỏ trần LSHĐ khi thị trường

tiền tệ ổn định và thanh khoản của hệ thống TCTD cải thiện vững chắc. Nếu lạm phát

của năm 2013 được kiểm soát ở mức thấp hơn năm 2012, NHNN sẽ tiếp tục điều hành

theo hướng giảm mặt bằng lãi suất phù hợp với diễn biến lạm phát.

Thực tế cho thấy, diễn biến lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế qua 6 tháng

đầu năm ở mức hợp lý so với mục tiêu đề ra. Cụ thể: GDP 6 tháng đầu năm tăng 4,9%

so với cùng kỳ (mục tiêu cả năm là 5,5%), CPI 6 tháng đầu năm tăng 6,69% so với

cùng kỳ (mục cả năm là 8%). Vì vậy các biện pháp điều hành lãi suất trong 6 tháng đầu

năm đã thể hiện được tính chủ động hướng tới những mục tiêu đã định và được điều

chỉnh linh hoạt sát với các diễn biến kinh tế vĩ mô, thể hiện ở những mặt sau:

Lãi suất trên thị trường tiếp tục xu hướng giảm, ổn định phù hợp với định

hướng điều hành CSTT của NHNN. Trong 6 tháng đầu năm 2013, NHNN đã 2 lần điều

chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành như LSTCV, LSTCK, lãi suất cho vay qua đêm

trong thanh toán điện tử LNH và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ

của NHNN đối với các NH, lãi suất OMO cũng được điều chỉnh giảm liên tục. Diễn

biến lãi suất trên thị trường LNH theo sát với lãi suất chỉ đạo của NHNN và giảm

-47-

mạnh. Qua đó cho thấy, tính thanh khoản của các TCTD ngày càng ổn định, vai trò của

NHNN trong dẫn dắt thị trường ngày càng thể hiện rõ rệt.

Bảng 2.6 Tình hình biến động lãi suất điều hành 6 tháng đầu năm 2013

LSTCV LSTCK Văn bản quyết định Ngày áp dụng Lãi suất qua đêm

8% 7% 5% 1073/QĐ-NHNN 13-05-2013

9% 8% 6% 26-03-2013 643/QĐ-NHNN 25/3/2013

Nguồn: NHNN

Đối với các mức lãi suất trên thị trường cũng theo sát sự điều hành của NHNN.

Ngay từ quý I/2013, NHNN đã ban hành Thông tư số 08/2013/TT-NHNN giảm 0,5%

trần lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng (8%/năm xuống

7,5%/năm), lãi suất tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên sẽ do các TCTD tự ấn định trên

cơ sở cung cầu vốn trên thị trường. Tiếp đó, NHNN ban hành Thông tư số 15/2013/TT

– NHNN vào ngày 27/6/2013 tiếp tục giảm 0,5% trần lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn từ 1

tháng đến dưới 6 tháng (7,5%/năm xuống 7%/năm), lãi suất tiền gửi kỳ hạn từ 6 tháng

trở lên sẽ do các TCTD tự ấn định trên cơ sở cung cầu vốn trên thị trường.Bên cạnh

việc giảm trần LSHĐ, trong 6 tháng đầu năm 2013, NHNN đã 3 lần điều chỉnh giảm

LSCV ngắn hạn tối đa với một số lĩnh vực ưu tiên từ 11%/năm xuống còn 9%/năm

thông qua việc ban hành các Thông tư số 09/2013/ TT-NHNN ngày 25/3/2013, Thông

tư số 10/2013/ TT-NHNN ngày 10/5/2013 và Thông tư số 16/2013/ TT-NHNN ngày

27/6/2013.

Qua tình hình 6 tháng đầu năm 2013 cho thấy dấu hiệu khả quan trong điều

hành lãi suất của NHTW, mặc dù trần LSHĐ chưa được gỡ bỏ như định hướng nhưng

tình hình thanh khoản ngày càng ổn định và việc giảm bớt trần lãi suất tiền gửi và trần

LSCV đối với một số lĩnh vực ưu tiên là có cơ sở để tin tưởng vào một cơ chế điều

hành lãi suất ổn định cho thời gian còn lại của năm.

-48-

2.5 Đánh giá thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

giai đoạn 2008 đến tháng 6/2013

Qua những phân tích về thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt

Nam giai đoạn 2008 – tháng 6/2013. Tác giả có một số nhận định và đánh giá như sau:

2.5.1 Những kết quả đạt đƣợc

Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN trong giai đoạn 2008 – tháng 6/2013 đã

phát huy được những mặt tích cực sau đây:

Thứ nhất, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN ngày càng linh hoạt trước

những biến động của nền kinh tế thế giới cũng như diễn biến kinh tế vĩ mô trong nước.

Trong suốt thời gian qua, trước những biến động không ngừng của kinh tế thế

giới cũng diễn biến kinh tế vĩ mô trong nước (dấu hiệu của lạm phát và khả năng hồi

phục tăng trưởng kinh tế), NHNN đã có những điều chỉnh rất linh hoạt và thận trọng

các mức lãi suất điều hành sao cho phù hợp với diễn biến của nền kinh tế.

Đồ thị 2.2 Diễn biến các mức lãi suất điều hành của NHNN từ năm 2008

LSTCK

LSTCV

LSCB

Lãi suất qua đêm

Lãi suất OMO

18% 16% 14% 12% 10% 8% 6% 4% 2% 0%

3 1 0 2 / 5 T

8 0 0 2 / 1 T

8 0 0 2 / 3 T

8 0 0 2 / 5 T

8 0 0 2 / 7 T

8 0 0 2 / 9 T

9 0 0 2 / 1 T

9 0 0 2 / 3 T

9 0 0 2 / 5 T

9 0 0 2 / 7 T

9 0 0 2 / 9 T

0 1 0 2 / 1 T

0 1 0 2 / 3 T

0 1 0 2 / 5 T

0 1 0 2 / 7 T

0 1 0 2 / 9 T

1 1 0 2 / 1 T

1 1 0 2 / 3 T

1 1 0 2 / 5 T

1 1 0 2 / 7 T

1 1 0 2 / 9 T

2 1 0 2 / 1 T

2 1 0 2 / 3 T

2 1 0 2 / 5 T

2 1 0 2 / 7 T

2 1 0 2 / 9 T

3 1 0 2 / 1 T

3 1 0 2 / 3 T

2 1 0 2 / 1 1 T

8 0 0 2 / 1 1 T

9 0 0 2 / 1 1 T

0 1 0 2 / 1 1 T

1 1 0 2 / 1 1 T

đến tháng 6/2013

Nguồn : Tổng hợp từ website của NHNN

Theo dõi Đồ thị 2.2 có thể thấy vào năm 2008, khi lạm phát có xu hướng tăng

-49-

cao và khó kiểm soát vào những tháng đầu năm, NHNN đã điều chỉnh tăng 3 lần các

mức lãi suất chủ chốt (gồm LSCB, LSTCV, LSTCK, lãi suất cho vay qua đêm trong

thanh toán điện tử LNH) để phát tín hiệu thắt chặt tiền tệ, kiểm soát lạm phát, và khi

tốc độ tăng giá đã có biểu hiện sụt giảm từ tháng 6 cho đến tháng 10, trước viễn cảnh

nền kinh tế đang chịu ảnh hưởng nặng từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh

tế toàn cầu làm tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm, NHNN đã lập tức điều chỉnh giảm

các mức lãi suất chủ chốt (5 lần) để ngăn chặn nguy cơ suy thoái kinh tế. Kết quả là

năm 2008 với tần suất 8 lần điều chỉnh tăng giảm các mức lãi suất chủ chốt, không

những lạm phát được kiểm soát tốt từ tháng 6 cho đến cuối năm (từ mức 18,44% trong

6 tháng đầu năm chỉ tăng lên 19,89% vào cuối năm), mà nước ta cũng không bị suy

giảm kinh tế nặng nề như các nước khác trên thế giới. Năm 2012 đến 6 tháng đầu năm

2013, cũng là một minh chứng cho sự điều hành linh hoạt lãi suất của NHNN. Đặc biệt,

năm 2012, khi mặc dù kết quả lạm phát năm trước (2011) ở mức rất cao (11,83%),

nhưng sau 2 tháng đầu năm, đứng trước diễn biến lạm phát sẽ có xu hướng giảm tiếp

tục trong thời gian tới, NHNN đã mạnh dạn điều chỉnh giảm thận trọng các mức lãi

suất chủ chốt – trừ LSCB (6 lần điều chỉnh, mỗi lần điều chỉnh giảm 1%) để giảm lạm

phát mà vẫn đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, tránh gây cú sốc cho thị trường

và kết quả đạt được trong điều hành lãi suất ở năm 2012 là một thành tựu lớn của

NHNN.

Mặt khác, việc điều chỉnh linh hoạt công cụ lãi suất OMO hay nghiệp vụ OMO

với tần suất ngày càng nhiều hơn và tăng, giảm theo đúng xu thế biến động của các

mức lãi suất chủ chốt trong quá trình điều hành lãi suất là một quyết sách đúng đắn của

NHNN, phù hợp theo mô hình điều hành lãi suất mà NHTW ở hầu hết các quốc gia

phát triển đang áp dụng và đạt hiệu quả cao. Vì thị trường mở với đặc điểm giống như

thị trường LNH đều là nơi hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM, nên việc điều chỉnh linh

hoạt công cụ lãi suất OMO theo diễn biến thị trường sẽ có tác dụng ổn định thanh

khoản từ đó hỗ trợ điều tiết lãi suất thị trường (lãi suất LNH, LSHĐ, LSCV) theo đúng

-50-

tín hiệu điều hành lãi suất mà NHNN đưa ra. Bên cạnh đó, tác dụng ưu việt khác của

nghiệp vụ OMO đó là giúp các NHNN kiểm soát tốt lạm phát nếu NHNN biết cách tiết

chế cân đối việc “bơm” và “hút” tiền từ thị trường mở trong quá trình hỗ trợ thanh

khoản hay điều tiết lãi suất thị trường. Vì hai nhiệm vụ quan trọng là hỗ trợ thanh

khoản và dẫn dắt lãi suất thị trường biến động theo đúng tín hiệu điều hành của NHNN

mà công cụ lãi suất OMO thậm chí được điều tiết linh hoạt với tần suất nhiều hơn các

mức lãi suất điều hành khác. Điển hình là năm 2008, lãi suất OMO được điều chỉnh

(tăng giảm theo sự biến động của các lãi suất chủ chốt) đến 11 lần, năm 2012 là 6 lần

và chỉ trong 6 tháng đầu năm 2013, lãi suất OMO đã được điều chỉnh đến 6 lần để điều

tiết lãi suất thị trường theo chủ trương của NHNN.

Đồ thị 2.3 Diễn biến lãi suất OMO, LSHĐ bình quân và LSCV bình quân

Lãi suất LNH (1 tháng)

Lãi suất OMO

LSCV

LSHĐ

25.00%

20.00%

15.00%

10.00%

5.00%

0.00%

01/01/2008

01/01/2009

01/01/2010

01/01/2011

01/01/2012

01/01/2013

từ năm 2008 đến tháng 6/2013

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên đăng trên website của NHNN

Như vậy, với việc điều hành linh hoạt chính sách lãi suất của NHNN, lãi suất đã

ngày càng phát huy tốt vai trò là công cụ quan trọng của CSTT, góp phần điều hành

CSTT và nền kinh tế vĩ mô theo sát mục tiêu đã đề ra trong từng thời kỳ.

Thứ hai, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN đang ngày càng tiến dần đến “tự

do hóa lãi suất”.

-51-

Như chúng ta đã biết lợi ích của cơ chế tự do hóa lãi suất mà hiện nay các quốc

gia phát triển đang thực hiện đó là sẽ tạo sự bình đẳng về quyền lợi trong quan hệ giữa

NH và khách hàng, từ đó góp phần tạo ra một thị trường tiền tệ hiệu quả và ổn định

hơn, giúp quá truyền tải các tín hiệu chính sách lãi suất và tác động đến nền kinh tế

theo một cơ chế tự động và nhanh chóng hơn. Thực tế cho thấy trong suốt thời gian

qua, NHNN đã giảm dần các rào cản lãi suất, giúp lãi suất ngày càng mang tính thị

trường, hình thành theo đúng quy luật cung – cầu và hội nhập với thông lệ quốc tế:

Bảng 2.7 Cơ chế điều hành lãi suất thỏa thuận của NHNN

từ năm 2008 đến tháng 6/2013

Văn bản pháp luật

Cơ chế lãi suất thỏa thuận

Ngày

Số hiệu

Lãi suất huy động

Lãi suất cho vay

QĐ 546/2002/

30/5/02

Được thỏa thuận

Được thỏa thuận

QĐ-NHNN

26/02/08

02/CĐ-NHNN Quy định trần LSHĐ là 12%

Được thỏa thuận

QĐ 16/2008/

Được thỏa thuận nhưng khống chế

Được thỏa thuận nhưng khống chế

16/5/08

QĐ-NHNN

không vượt quá 150% LSCB

không vượt quá 150% LSCB.

Được thỏa thuận nhưng khống chế

không vượt quá 150% LSCB. Riêng

TT

Được thỏa thuận nhưng khống chế

23/1/09

01/2009/TT-

đối với cho vay phục vụ đời sống và

không vượt quá 150% lãi suất cơ bản

cho vay thông qua phát hành thẻ tín

NHNN

dụng thì được thỏa thuận lãi suất

Được thỏa thuận nhưng đối với cho

TT

Được thỏa thuận nhưng khống chế

vay ngắn hạn phục vụ sản xuất kinh

26/2/10

07/2010/TT-

không vượt quá 150% LSCB

doanh thì vẫn bị khống chế không vượt

NHNN

quá 150% LSCB

TT

Được thỏa thuận nhưng khống chế

Được thỏa thuận đối với tất cả các

14/4/10

12/2010/TT-

không vượt quá 150% LSCB

khoản vay.

NHNN

Được thỏa thuận nhưng tối đa không

TT

03/3/11

Được thỏa thuận đối với tất cả các

02/2011/TT-

được vượt quá 14%/năm. Trần LSHĐ

khoản vay

NHNN

có xu hướng giảm dần.

Được thỏa thuận đối với tất cả các

khoản vay ngoài LSCV ngắn hạn đối

TT

Được thỏa thuận nhưng tối đa không

với 4 lĩnh vực ưu tiên. Trong đó, áp

4/5/2012

14/2012/TT-

được vượt quá 12%/năm. Trần LSHĐ

dụng trần LSCV ngắn hạn theo biên độ

NHNN

theo xu hướng giảm dần

(LSCV = LSHĐ + 3%/năm) đối với 4

lĩnh vực ưu tiên.

Được thỏa thuận đối với tất cả các

Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở

khoản vay ngoài LSCV ngắn hạn đối

TT

lên do TCTD ấn định trên cơ sở cung

với 4 lĩnh vực ưu tiên.

19/2012/TT-

cầu vốn thị trường.

Áp dụng trần LSCV ngắn hạn cố định

8/6/2012

NHNN và TT

Áp dụng trần LSHĐ 9%/năm cho kỳ

13%/năm đối với 4 lĩnh vực ưu tiên

20/2012/TT-

kỳ hạn dưới 12 tháng (TT 19/2012/TT-

(TT 20/2012/TT-NHNN). Có xu hướng

NHNN

NHNN). Có xu hướng giảm dần

giảm dần

Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 6 tháng trở

Được thỏa thuận đối với tất cả các

TT

lên do TCTD ấn định trên cơ sở cung

khoản vay ngoài LSCV ngắn hạn đối

15/2013/TT-

cầu vốn thị trường.

với 4 lĩnh vực ưu tiên.

27/6/13

NHNN và TT

Áp dụng trần LSHĐ 7%/năm cho kỳ

Áp dụng trần LSCV ngắn hạn cố định

16/2013/TT-

kỳ hạn dưới 6 tháng (TT 15/2013/TT-

9%/năm đối với 4 lĩnh vực ưu tiên (TT

NHNN

NHNN).

16/2013/TT-NHNN).

 Nguồn : Tổng hợp từ website của NHNN

-52-

Qua Bảng 2.7 cho thấy trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến tháng 6/2013,

tiến trình tự do hóa lãi suất đã được NHNN thận trọng thực hiện nới lỏng từng bước, từ

giữa tháng 5/2008 khi lãi suất kinh doanh của NH (LSHĐ và LSCV) ở tất cả các đối

tượng và kỳ hạn đều bị giới hạn “trần” là 150% LSCB do NHNN công bố (theo Quyết

định số 16/2008/QĐ-NHNN), thì sau hơn 5 năm nới lỏng và bãi bỏ dần các mức “trần”

lãi suất kinh doanh, hiện nay (đến cuối tháng 6/2013), cơ chế thỏa thuận lãi suất đã

được thực hiện ở hầu hết các đối tượng và kỳ hạn, chỉ còn áp mức “trần” LSHĐ là

7%/năm cho kỳ hạn dưới 6 tháng (theo Thông tư 15/2013/TT-NHNN) và mức “trần”

LSCV là 9%/năm đối với 4 lĩnh vực ưu tiên mà thôi (theo Thông tư 16/2013/TT-

NHNN). Việc giảm trần lãi suất một cách thận trọng chứ không thực hiện cơ chế tự do

hóa lãi suất hoàn toàn được xem là một quyết sách đúng đắn của NHNN vì thực tế ở

-53-

nước ta thị trường tiền tệ chưa ổn định, hệ thống NH còn nhiều bất ổn, cơ cấu chủ yếu

là các NHTM vừa và nhỏ có năng lực tài chính yếu kém, thường xuyên gặp rủi ro

thanh khoản, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh làm lãi suất thị trường có nhiều thời

điểm biến động không theo đúng với mục tiêu điều hành của NHNN. Vì vậy nếu thực

hiện cơ chế tự do hóa lãi suất hoàn toàn sẽ rất khó rà soát và phát hiện những NH yếu

kém, dễ xảy ra rối loạn cho thị trường tiền tệ từ đó làm giảm hiệu quả truyền dẫn của

chính sách lãi suất đến nền kinh tế.

Thứ ba, dưới tác động của cơ chế điều hành lãi suất hiệu quả trong thời gian

gần đây (cuối năm 2011 đến tháng 6/2013), lãi suất thị trường đang có xu hướng giảm

dần và ổn định, tạo điều kiện đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý nhưng vẫn

kiểm soát được lạm phát.

Đồ thị 2.4 Diễn biến các mức lãi suất điều hành, LSHĐ bình quân

25.00%

LSHĐ

LSTCV

LSCV

LSTCK

Lãi suất qua đêm

Lãi suất OMO

20.00%

15.00%

10.00%

5.00%

0.00%

và LSCV bình quân từ năm 2008 đến tháng 6/2013

Nguồn NHNN

Có thể nói giai đoạn từ cuối năm 2011 đến tháng 6/2013, sau khi đã tích lũy

được những kinh nghiệm của giai đoạn trước, thì cơ chế điều hành lãi suất đã tỏ ra hiệu

quả hơn khi những động thái điều hành lãi suất của NHNN đã tác động rõ nét và gắn

-54-

chặt với lãi suất thị trường, từ đó góp phần truyền dẫn tốt hơn đến các biến số vĩ mô

của nền kinh tế. Biểu hiện là lãi suất thị trường trong giai đoạn 2012 – tháng 6/2013

như lãi suất LNH, LSHĐ và LSCV đã biến động xoay quanh và tăng giảm theo sự thay

đổi của các mức lãi suất điều hành của NHNN (Đồ thị 2.3 và Đồ thị 2.4), phù hợp với

chủ trương của NHNN là giảm lãi suất thị trường với xu hướng ổn định nhằm hỗ trợ

cho hoạt động kinh doanh của NH cũng như các doanh nghiệp từ đó góp phần thực

hiện tốt mục tiêu của CSTT là kiểm soát tốt lạm phát nhưng vẫn đảm bảo tăng trưởng

kinh tế ở mức hợp lý.

2.5.2 Những mặt hạn chế

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN trong

thời gian qua cũng còn tồn tại nhiều mặt hạn chế, cụ thể như sau:

Thứ nhất, dưới tác động của cơ chế điều hành lãi suất trong thời gian qua, lãi

suất thị trường có nhiều diễn biến bất thường và không ổn định hay hiệu quả truyền

dẫn tác động của các mức lãi suất công bố đến lãi suất thị trường còn yếu, chưa gắn

kết chặt chẽ với nhau.

Theo cơ chế điều hành lãi suất gián tiếp hay tự do hóa lãi suất mà hiện nay các

quốc gia đã và đang thực hiện, và ở đây là NHNN, thì việc điều hành lãi suất theo cơ

chế này phải đảm bảo theo nguyên tắc các loại lãi suất mà NHNN công bố (lãi suất

điều hành) phải có tác động hiệu ứng và có mối quan hệ chặt chẽ đối với lãi suất thị

trường. Có nghĩa là, bất kỳ hành động tăng hoặc giảm các mức lãi suất điều hành của

NHNN sẽ là tín hiệu muốn thực thi CSTT thắt chặt hay mở rộng mà NHNN muốn phát

đi và tác động làm lãi suất trên thị trường biến động theo nhằm đạt được mục tiêu cụ

thể. Nhưng với cơ chế điều hành lãi suất mà NHNN thực thi trong suốt thời gian qua,

đặc biệt là khoảng thời gian từ cuối năm 2011 trở về trước, các mức lãi suất điều hành

của NHNN chưa thực sự là tín hiệu thị trường tác động hiệu quả đến mặt bằng lãi suất

thị trường gồm lãi suất LNH, LSHĐ và LSCV.

Theo nguyên tắc điều hành lãi suất mà NHNN đang áp dụng hiện nay thì lãi

-55-

suất LNH phải được điều tiết nằm trong giới hạn của “trần” là LSTCV, “sàn” là

LSTCK và được điều tiết qua công cụ lãi suất nghiệp vụ thị trường mở. Nhưng quan

sát biến động lãi suất LNH đặt trong mối quan hệ với “khung lãi suất” của nó cho thấy,

có nhiều thời điểm lãi suất LNH vượt “trần” LSTCV – đó là thời điểm các NHTM

đang thiếu hụt thanh khoản trầm trọng phải thi nhau “chạy đua lãi suất” để cải thiện

thanh khoản (năm 2008, năm 2010, năm 2011), nhưng cũng có những thời điểm lãi

suất LNH lại phá đáy “sàn” LSTCK khi thanh khoản của các NHTM ở trạng thái dư

thừa. (Đồ thị 2.5) Như vậy, việc thực tế diễn ra không theo đúng nguyên tắc điều tiết

lãi suất LNH theo “khung lãi suất” đề ra ban đầu đã chứng tỏ sự kém hiệu quả trong

khâu truyền tải động thái điều hành của NHNN đến lãi suất thị trường.

Đồ thị 2.5 Diễn biến LSTCV, LSTCK, Lãi suất LNH và lãi suất OMO

Lãi suất LNH (1 tháng)

LSTCV

LSTCK

Lãi suất OMO

25.00%

20.00%

15.00%

10.00%

5.00%

0.00%

01/01/2008

01/01/2009

01/01/2010

01/01/2011

01/01/2012

01/01/2013

từ năm 2008 đến tháng 6/2013

Nguồn: Tổng hợp từ website của NHNN

Ngoài ra, mối quan hệ giữa lãi suất OMO đối với lãi suất LNH và trong vai trò

ổn định thanh khoản và điều tiết lãi suất LNH biến động theo tín hiệu điều hành của

NHNN cũng còn nhiều hạn chế khi lãi suất LNH thường xuyên biến động với độ chênh

lệch rất lớn đối với lãi suất OMO, không xoay quanh lãi suất OMO (đã được NHNN

-56-

điều chỉnh theo sự biến động của các mức lãi suất điều hành khác hay theo tín hiệu

điều hành mà NHNN muốn truyền tải). Đặc biệt có những giai đoạn mà lãi suất LNH

chênh lệch cao hơn nhiều so với lãi suất OMO đã tạo ra “vùng bù rủi ro thanh khoản”

rất lớn, những giai đoạn đó chính là lúc thanh khoản của các NHTM đang yếu kém

trầm trọng, từ đó hình thành những “cuộc chạy đua” đẩy lãi suất thị trường lên rất cao

gây nhiều khó khăn cho công tác điều hành lãi suất cũng như nền kinh tế. (Đồ thị 2.5)

Cũng giống như mối quan hệ đối với lãi suất LNH, vai trò điều tiết LSHĐ và

LSCV của các mức lãi suất điều hành cũng trở nên kém hiệu quả khi LSHĐ và LSCV

thường không ổn định, các NHTM liên tục tạo ra những cuộc chạy đua lãi suất lặp đi

lặp lại (2008, 2010 và 2011). Từ Đồ thị 2.3 và 2.4 có thể thấy hầu như trong suốt thời

gian qua, LSHĐ và LSCV luôn biến động với độ chênh lệch rất xa so với các mức lãi

suất điều hành, điều đó chứng tỏ sự gắn kết yếu kém của các mức lãi suất điều hành đối

với lãi suất thị trường. Từ đó làm giảm hiệu quả tác động của cơ chế điều hành lãi suất

đối với doanh nghiệp, dân cư và nền kinh tế.

Đồ thị 2.6 Diễn biến LSCB, LSHĐ bình quân và LSCV bình quân

25.00%

LSHĐ bình quân

LSCV bình quân

LSCB

20.00%

15.00%

10.00%

5.00%

0.00%

từ năm 2008 đến tháng 6/2013

Nguồn NHNN

-57-

Ngoài ra cơ chế điều hành LSCB trong thời gian qua cũng trở nên mờ nhạt, “hữu

danh vô thực” khi đứng yên ở mức 9% trong suốt từ năm 2010 đến nay và đã thoát ly

mối liên hệ với các mức lãi suất thị trường (đặc biệt là LSCV có những thời điểm vượt

trần 150% LSCB rất xa – Đồ thị 2.6) cũng như các mức lãi suất điều hành khác (Đồ thị

2.2), trong khi các mức LSTCV, LSTCK, Lãi suất cho vay qua đêm và Lãi suất OMO

đã được NHNN điều chỉnh tăng giảm liên tục từ năm 2010 đến nay.

Thứ hai, sự truyền dẫn tác động của cơ chế điều hành lãi suất hay CSTT đến

tổng cầu và các biến số kinh tế vĩ mô còn yếu kém, làm kết quả điều hành lãi suất hay

CSTT thường không đạt được những mục tiêu đã đề ra.

Như nội dung chương 1 đã trình bày, mục tiêu mà cơ chế điều hành lãi suất

hướng đến chính là mục tiêu điều hành CSTT. Tức là việc thực thi chính sách lãi suất

phải đảm thực hiện được mục tiêu cuối cùng về mức độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát,

thất nghiệp v.v… trong từng thời kỳ cụ thể.

Bảng 2.8 Mục tiêu và thực hiện Tăng trƣởng kinh tế và Lạm phát 2008 – 2013

Đơn vị: %/năm

Chỉ tiêu Tăng trưởng kinh tế Lạm phát

Năm Mục tiêu Thực hiện Mục tiêu Thực hiện

2008 8,5 – 9 6,18 < 10 19,89

2009 5 5,32 < 15 6,52

2010 6,5 6,78 7 – 8 11,75

2011 7 – 7,5 5,89 7 18,13

2012 6 – 6,5 5,03 < 10 6,81

2013 5,5 5,3* 8 7*

Nguồn: Tổng cục Thống kê. *: Ước tính

Bảng 2.8 cho thấy mối tương quan giữa 2 nội dung “mục tiêu” đề ra và kết quả

“thực hiện” hai nhiệm vụ quan trọng của việc điều hành CSTT cũng như điều hành

chính sách lãi suất trong giai đoạn từ 2008 đến tháng 6/2013. Thực tế cho thấy kết quả

-58-

thực hiện trong giai đoạn này thường xuyên nằm ngoài các chỉ tiêu đã được đề ra ban

đầu và với biên độ chênh lệch ngày càng lớn. Điều đó cho thấy hiệu quả truyền dẫn của

chính sách lãi suất hay CSTT đến nền kinh tế vĩ mô trong thời gian qua còn rất yếu.

Thứ ba, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN thường chậm so với các diễn biến

của nền kinh tế.

Thực tế thời gian qua cho thấy cách điều hành lãi suất của NHNN thường chậm

so với diễn biến của nền kinh tế khi phải chứng kiến liên tục những biến động trái

chiều trong lãi suất và thanh khoản của hệ thống NH. Chúng ta phải thừa nhận một

thực tế rằng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN thực hiện trong giai đoạn gần đây

phần lớn chưa thực sự đi trước và dẫn dắt thị trường tiền tệ. Sự thay đổi trong chính

sách điều hành chỉ được đưa ra khi có quá nhiều phàn nàn từ thực tế, hoặc khi tình hình

đã xảy ra những hậu quả nghiêm trọng. Chẳng hạn như năm 2008, sau nhiều tháng NH

lâm vào tình trạng thiếu thanh khoản nặng nề, NHNN mới chấp nhận nâng LSCB lên

14% trong khi cơ chế điều hành lãi suất lúc này là căn cứ vào LSCB. Hay như chính

sách hỗ trợ lãi suất năm 2009 nên được rút lại sớm hơn khi tình hình cho thấy chiều

hướng phục hồi đã xuất hiện, thậm chí sự phục hồi còn khá chắc chắn. Tuy nhiên

Chính phủ vẫn tiếp tục triển khai cho đến cuối năm vì cho rằng sự phục hồi là chưa

chắc chắn và có quá nhiều doanh nghiệp phàn nàn là vẫn chưa tiếp cận được nguồn vốn

ưu đãi. Hậu quả là tăng trưởng tín dụng quá mức trong khi nguồn vốn huy động của

các NH lại không tương xứng đã làm xảy ra tình trạng thiếu vốn cho vay và hậu quả là

lãi suất bị đẩy lên cao tạo ra những cuộc đua lãi suất trong năm 2010 và 2011 gây ra

không ít khó khăn đến hoạt động kinh doanh của các NH cũng như đối với doanh

nghiệp và nền kinh tế.

Thứ tư, việc xây dựng cơ chế điều hành lãi suất trong thời gian qua chưa được

NHNN xác định rõ, còn đang trong giai đoạn tìm tòi thử nghiệm khi NHNN công bố

quá nhiều lãi suất điều hành, trong đó chưa xác định được đâu là lãi suất chính thức

hay chủ đạo để vận hành cơ chế.

-59-

Hiện nay, NHNN sử dụng đến 5 loại lãi suất điều hành như: LSCB, LSTCK,

LSTCV, lãi suất cho vay LNH

NHNN NH, lãi suất

OMO. Mặc dù chức năng của mỗi loại lãi suất là khác nhau và được NHNN quy định ở

những mức khác nhau nhưng vai trò của chúng còn nhiều chồng chéo và phức tạp.

Việc lựa chọn, sử dụng, xác định cách tính và chức năng cơ bản của từng loại lãi suất

chưa được quy định rõ ràng. Cụ thể như LSTCV và LSTCK tuy được quy định ở

những mức khác nhau và đóng vai trò khác nhau trong cơ chế điều hành lãi suất

(LSTCV với vai trò là “lãi suất trần” của khung định hướng lãi suất thị trường LNH

thường được quy định cao hơn biên độ là 2% so với LSTCK – đóng vai trò là “lãi suất

sàn”) nhưng công cụ sử dụng để cho vay cầm cố và tái chiết khấu cũng như cơ chế tiếp

cận hai hình thức tái cấp vốn và tái chiết khấu này vẫn còn nhiều điểm giống nhau. Do

vậy, hai loại lãi suất này chưa thực sự phát huy được vai trò tạo khung dao động của lãi

suất trên thị trường LNH. Ngoài ra, các loại lãi suất điều hành này chưa thực sự phát

huy được vai trò định hướng dẫn dắt thị trường khi mà có nhiều thời điểm lãi suất thị

trường đã vượt xa các mức lãi suất định hướng của NHNN.

Thứ năm, NHNN còn sử dụng quá nhiều biện pháp hành chính trong quá trình

điều hành lãi suất nhưng lại không có những biện pháp chế tài thích hợp đã dẫn đến

tình trạng biến tướng lách luật, cạnh tranh không lành mạnh gây mất ổn định trong hệ

thống NH. Điển hình cho việc áp dụng những biện pháp hành chính không hiệu quả và

gây ảnh hưởng xấu cho thị trường tiền tệ và hệ thống NH là những tháng đầu năm

2008, cuối năm 2010 và đầu năm 2011 nhằm ngăn chặn cuộc đua lãi suất tăng cao của

các NHTM. Cụ thể, Đầu năm 2008, NHNN đã ban hành công điện số 02/2008/CĐ-

NHNN quy định lãi suất huy động tối đa là 12%/năm và thông qua VNBA vận động

các NHTM chấp thuận lãi suất huy động là 11%/năm. Điều này cũng được thực hiện

tương tự ở cuối năm 2010 vẫn với cái gọi là đồng thuận LSHĐ tối đa 14%/năm của

Hiệp hội Ngân hàng và trong năm 2011 là quy định mức trần LSHĐ 14%/năm theo

-60-

thông tư 02/2011/TT-NHNN. Tất cả những giải pháp hành chính kể trên đều mang lại

kết quả thất bại trong công tác điều hành lãi suất của NHNN khi không ngăn chặn được

cuộc đua lãi suất của các NH mà còn làm cuộc đua lãi suất ngày càng trầm trọng hơn

như đã phân tích ở mục 2.4.1, 2.4.3 và 2.4.4. Ngoài ra, chính những biện pháp hành

chính này còn tạo ra những biến tướng, lách luật, cạnh tranh không lành mạnh gây mất

ổn định trong hệ thống NH khi nhiều NHTM, đặc biệt là các NHTM vừa và nhỏ với

năng lực tài chính yếu kém đã lách “trần” lãi suất bằng nhiều cách khác nhau như

khuyến mãi, dự thưởng, quà biếu, quà tặng v.v... và tạo ra cuộc đua lãi suất “ngầm”

trong hệ thống.

2.5.3 Nguyên nhân của những mặt hạn chế

Từ những phân tích về các mặt hạn chế của cơ chế điều hành lãi suất trong thời

gian qua, theo tác giả những mặt hạn chế trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu

sau:

Thứ nhất, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam trong suốt thời gian

qua phải chịu đựng những “cú sốc từ bên ngoài” lẫn những “cứ sốc chính sách” được

xuất phát từ bên trong nền kinh tế.

“Cú sốc từ bên ngoài” chính là những biến động khôn lường của nền kinh tế thế

giới trong suốt thời gian qua như: hiện tượng giá cả các loại nguyên vật liệu đầu vào,

giá xăng dầu trên thế giới không ngừng tăng cao đã góp phần gây ra tình trạng lạm phát

tăng cao đột biến vào đầu năm 2008, hay đặc biệt nhất là ảnh hưởng của cuộc khủng

hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu vào cuối năm 2008 đã gây rất nhiều khó

khăn cho công tác điều hành lãi suất, kiểm soát lạm phát cũng như làm suy giảm tăng

trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2008 – 2009, và những ảnh hưởng này vẫn còn

“tiềm ẩn” trong những năm tiếp theo. Ngoài ra cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

vào năm 2011 cũng tác động không nhỏ đến Việt Nam. Có thể nói do bị ảnh hưởng

những cú sốc từ bên ngoài không mong muốn đó, mà công tác điều hành lãi suất cũng

như CSTT của NHNN Việt Nam thời gian qua đã gặp rất nhiều khó khăn và đạt kết

-61-

quả không như ý.

Ngoài ra, những “cú sốc chính sách” từ bên trong nền kinh tế cũng là một trong

những nguyên nhân làm cho công tác điều hành lãi suất không thuận lợi. “Cú sốc chính

sách” chính là những chính sách được các nhà điều hành đưa ra nhằm giúp quốc gia

thoát khỏi tình trạng khó khăn đang gặp phải, nhưng những chính sách này lại được áp

dụng quá mức nên chính bản thân nó lại gây ra một cú sốc khác đối với nền kinh tế.

Điển hình là chính sách kích cầu được triển khai quá lâu từ năm 1999 (đến 2007) để

vực dậy nền kinh tế, nhưng khi nền kinh tế đã trở lại quỹ đạo tăng trưởng tiềm năng,

đến lúc phải ngưng lại thì Chính phủ đã không thực hiện dẫn đến tình trạng lạm phát

không ngừng gia tăng và rơi vào tình trạng tăng cao không thể kiểm soát vào những

tháng đầu năm 2008. Hay như chính sách nới lỏng tiền tệ vào năm 2009 đáng lẽ phải

được dừng lại sớm hơn khi nền kinh tế đã có xu hướng hồi phục gần như là chắc chắn,

thì có thể lạm phát sẽ không tăng quá cao vào năm 2010 và 2011.

Thứ hai, do cơ chế điều hành lãi suất hay CSTT của NHNN vẫn còn theo đuổi

nhiều mục tiêu, trong đó không lựa chọn được mục tiêu nào là ưu tiên cấp thiết đã gây

rất nhiều khó khăn cho công tác điều hành lãi suất.

Trong suốt thời gian qua, với CSTT hay chính sách lãi suất đa mục tiêu, NHNN

đã bị chi phối rất nhiều trong việc ra quyết định điều hành của mình. Thực tế qua các

năm kết quả điều hành thường không thành công do mục tiêu của CSTT cũng như điều

hành lãi suất cứ giằng co giữa hai mục tiêu có phần mâu thuẫn nhau và rất khó thực

hiện là kiểm soát lạm phát nhưng vẫn đảm bảo tăng trưởng kinh tế. Thực hiện được

điều này quả là rất khó vì lý thuyết và thực tế đã chứng minh là khi muốn giảm lạm

phát thì phải đánh đổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế và ngược lại, không thể thực hiện

đồng thời cả hai mục tiêu. Trong thời gian qua, NHNN đã nhiều lần thực hiện chính

sách nới lỏng để cải thiện tốc độ tăng trưởng kinh tế, rồi chuyển sang chính sách thắt

chặt để kiềm chế lạm phát (và ngược lại). Sự chuyển đổi liên tục và có phần đột ngột

này đôi khi không phù hợp với tình trạng và khả năng thích ứng của thị trường lại tạo

-62-

ra cú sốc làm cho tình hình càng trở nên khó khăn hơn. Do đó việc xác định mục tiêu

cuối cùng nào ưu tiên nhất là rất quan trọng nếu muốn tất cả những chính sách đề ra

nhằm phục vụ cho mục tiêu đơn nhất đó tác động hiệu quả đến thị trường và nền kinh

tế. Theo Luật NHNN năm 2010 đang áp dụng từ 1/1/2011 cho đến nay, mặc dù đã xác

định được mục tiêu ưu tiên của CSTT và điều hành lãi suất là “ổn định giá cả biểu hiện

qua chỉ tiêu lạm phát, nhưng đối lúc trong quá trình điều hành NHNN vẫn còn bị chi

phối bởi mục tiêu đảm bảo tăng trưởng kinh tế nên hiệu quả đạt được vẫn chưa cao.

Thứ ba, NHNN chưa thực sự chủ động và độc lập trong điều hành, NHNN còn

phụ thuộc nhiều vào Chính phủ.

Từ khi thành lập cho đến nay, NHNN Việt Nam luôn là một cơ quan thuộc

Chính phủ, là một đơn vị ngang Bộ. Thống đốc NHNN là thành viên của Chính phủ, có

hàm tương đương với Bộ trưởng, được Chính phủ bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước

Chính phủ và Quốc hội. Chính vì vậy, hoạt động của NHNN chịu sự điều chỉnh rất lớn

của Chính phủ. NHNN chỉ là cơ quan xây dựng dự án CSTT quốc gia để Chính phủ

trình Quốc hội quyết định, trên cơ sở đó, NHNN tổ chức thực hiện và có trách nhiệm

điều hành trong phạm vi đã được Quốc hội và Chính phủ duyệt. Tương tự, NHNN Việt

Nam không được độc lập thiết lập mục tiêu hay xây dựng chỉ tiêu hoạt động.

Xét trong bốn cấp độ độc lập của IMF (2004) thì NHNN Việt Nam nằm ở cấp

độ độc lập thứ tư “độc lập tự chủ hạn chế”. Đây là cấp độ độc lập thấp nhất của NHTƯ

đối với Chính phủ. Điều đó phần nào làm giảm tính linh hoạt trong việc điều hành thực

hiện CSTT quốc gia, thậm chí đôi khi gây ra sự chậm trễ trong phản ứng chính sách

trước các diễn biến khó lường trên thị trường tài chính - tiền tệ ảnh hưởng đến sự ổn

định của đồng tiền. Gần như mọi hoạt động của NHNN đều phải được sự cho phép của

Chính phủ (phát hành tiền, thực hiện CSTT quốc gia, cho vay ngân sách trung ương,

bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài, cho vay các tổ chức tín dụng trong

trường hợp đặc biệt). Ở đây, NHNN Việt Nam chỉ được coi như là cơ quan quản lý

hành chính nhà nước, giống như các Bộ khác, chứ không phải là một thiết chế đặc biệt

-63-

dù tổ chức, hoạt động của NHNN ảnh hưởng rất lớn đến tính an toàn của hệ thống ngân

hàng, sự ổn định của giá trị đồng tiền, an ninh tiền tệ của một quốc gia.

Bên cạnh đó, do là cơ quan của Chính phủ nên có trường hợp NHNN phải thực

hiện những nhiệm vụ không phù hợp với mục tiêu của CSTT, chẳng hạn như tái cấp

vốn cho các NHTM để khoanh, xoá nợ các khoản vay của các tập đoàn nhà nước và

doanh nghiệp nhà nước. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu

quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng

tiền.

Thứ tư, điều hành lãi suất dựa quá nhiều vào diễn biến CPI trong quá khứ

Với nguyên tắc của Fisher (Lãi suất danh nghĩa bằng (=) Lãi suất thực cộng (+)

lạm phát kỳ vọng), nếu muốn đảm bảo lãi suất thực dương (có lợi cho người cho vay

hay người gửi tiền) thì lãi suất danh nghĩa phải được điều chỉnh sao cho cao hơn lạm

phát kỳ vọng (LSCV > LSHĐ > Lạm phát kỳ vọng). Vậy điểm đáng lưu ý ở đây chính

là lãi suất (danh nghĩa) phải được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát kỳ vọng hay xu hướng

lạm phát được dự đoán trong tương lai chứ không phải là tỷ lệ lạm phát đã xảy ra trong

hiện tại hay quá khứ. Thực tế cho thấy trong suốt thời gian qua, nhằm tuân theo nguyên

tắc “lãi suất thực dương”, NHNN đã thực hiện công tác điều hành lãi suất của mình

thông qua sự sự biến động của chỉ số CPI hàng tháng (hoặc hành quý) được Tổng cục

Thống kê tính toán và công bố, trong khi chỉ số CPI này lại được tính bằng cách so

sánh tốc độ tăng giá so với tháng trước (hoặc năm trước). Dùng chỉ số CPI (được so

sánh với quá khứ) để điều chỉnh lãi suất (danh nghĩa) lại biểu hiện mức lợi tức mà

người cho vay (hay gửi tiền, đầu tư) sẽ nhận được trong tương lai là mâu thuẫn và

không hợp lý. Chính sự mâu thuẫn này dẫn đến tình trạng nhiều thời điểm lãi suất NH

lại thấp hơn cả tỷ lệ lạm phát hay lãi suất tiền gửi của người dân là lãi suất thực âm do

những quy định về mức trần lãi suất của NHNN không theo kịp với xu hướng của diễn

biến lạm phát, cụ thể là như mức trần LSHĐ 14%/năm được áp dụng trong cả năm

2011 trong khi lạm phát đã lên đến hai con số và ngày càng tăng cao vượt ngưỡng mức

-64-

trần LSHĐ (đến cuối năm lên đến 18,13%), nên để giữ chân khách hàng, hàng loạt các

NH phải tìm cách lách “trần” LSHĐ bằng nhiều hình thức khác nhau dẫn đến cuộc đua

lãi suất “ngầm” vào năm 2011 gây rất nhiều khó khăn cho nền kinh tế.

Ngoài ra, một nguyên nhân khác góp phần làm cho việc điều hành lãi suất dựa

vào chỉ tiêu CPI của NHNN chưa hiệu quả đó là CPI hiện nay NHNN đang sử dụng

vẫn còn chứa đựng những yếu tố dễ bị thay đổi giá nhưng chỉ có tác động tạm thời đến

chỉ số giá tiêu dùng như giá lương thực và năng lượng (xăng, dầu) hay những cú sốc từ

phía cầu (như ảnh hưởng tâm lý) nên đôi khi chưa phản ảnh được sự tăng giá thực sự

hay phản ánh được xu hướng thực sự của lạm phát. Lạm phát ở đây phải thể hiện được

dấu hiệu giá cả hàng hóa dịch vụ nhìn chung đang gia tăng một cách có hệ thống và

mang tính chất lâu dài (Lạm phát cơ bản – Core Inflation) chứ không phải chỉ một

phận hàng hóa dịch vụ nào đó tạm thời biến động.

Thứ năm, NHNN chưa làm tốt vai trò người cho vay cuối cùng đối với các

NHTM trên thị trường LNH và thị trường mở

Như chúng ta đã biết, vai trò người cho vay cuối cùng của NHNN được thể hiện

khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh khoản không thể vay mượn hoặc huy động

vốn từ nơi nào khác nữa thì sẽ tìm đến NHNN với vai trò người cứu cánh, người cuối

cùng sẽ tiếp vốn hỗ trợ cho các NHTM và các TCTD bằng nhiều hình thức như chiết

khấu, tái chiết khấu, tái cấp vốn, cho vay bắt buộc trong thanh toán bù trừ, bơm vốn

qua nghiệp vụ thị trường mở v.v... Thông qua vai trò người cho vay cuối cùng, NHNN

sẽ điều tiết cung tiền và truyền dẫn đến nền kinh tế theo đúng định hướng của CSTT.

Như vậy về nguyên tắc NHNN là người cho vay cuối cùng trên thị trường LNH

và thị trường mở thì trong những thời điểm NHTM khát vốn, cánh cửa cuối cùng mà

các NHTM tìm đến chính là cửa sổ tái cấp vốn, tái chiết khấu hoặc hoạt động bơm tiền

qua OMO thông qua mua vào các giấy tờ có giá mà các NHTM đang nắm giữ. Nhưng

thực tế trong suốt thời gian qua, trên thị trường có nhiều thời điểm hoạt động của các

NH lại không diễn ra theo nguyên tắc này, đó là có hiện tượng các NHTM lớn sau khi

-65-

vay được vốn từ NHNN, đã cho các NH vừa và nhỏ đang gặp khó khăn trong thanh

khoản vay lại với lãi suất cao hơn để hưởng chênh lệch, do đó đã đẩy lãi suất LNH lên

rất cao và khó kiểm soát. Về phía các NHTM vừa và nhỏ do không đủ điều kiện đáp

ứng hoạt động vay tái cấp vốn, hoặc nắm giữ quá ít giấy tờ có giá nên không thể tham

gia vào các hoạt động tái chiết khấu, nghiệp vụ bơm vốn từ OMO của NHNN, để cải

thiện khó khăn thanh khoản của mình, đành phải tìm đến các NHTM lớn hơn để vay

lại với lãi suất cao. Chính nguyên nhân này đã góp phần gây ra những cuộc đua LSHĐ

lặp đi lặp lại của các NHTM. Qua đó đẩy lãi suất thị trường đi chệnh hướng lãi suất

định hướng của NHNN làm ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả công tác điều hành lãi

suất cũng như điều hành CSTT của NHNN. Như vậy trong thời gian qua, rõ ràng là

NHNN đã chưa hoàn thành tốt vai trò người cho vay cuối cùng trên thị trường LNH và

thị trường mở.

Thứ sáu, hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, công tác thống kê, dự báo còn nhiều

hạn chế

Thực tế cho thấy thời gian qua hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tại Việt Nam

chưa đầy đủ, độ tin cậy chưa cao, chất lượng chưa đồng nhất. Đối với các chỉ tiêu kinh

tế vĩ mô như số liệu về đầu tư, CPI có sự khác biệt giữa các nguồn khác nhau, số liệu

GDP chỉ có số liệu theo quý kể từ năm 1999. Đối với các số liệu về lãi suất như lãi suất

thị trường (LSHĐ, LSCV ngắn hạn; dài hạn), lãi suất thị trường mở không được hệ

thống đầy đủ nên cũng rất khó thống kê và thu thập, số liệu lãi suất bình quân LNH

mặc dù được NHNN công bố cụ thể trên website nhưng việc tập hợp dữ liệu rất khó

khăn khi phải làm công tác thủ công (theo từng ngày) và chỉ có ở mốc thời gian 3 năm

trở lại, ngoài ra số liệu về lãi suất giao dịch LNH giữa các TCTD thì hầu như không thể

thu thập được, chỉ có thể lấy từ cơ sở dữ liệu của nước ngoài. Hiện nay chỉ mới có một

số cơ quan, bộ ngành thực hiện việc thống kê và niêm yết số liệu, nhưng hệ thống

thông tin số liệu được tập hợp vẫn chưa đầy đủ, chất lượng và độ tin cậy vẫn chưa cao

do có nhiều sai khác giữa các nguồn. Chính từ thực trạng công tác thống kê, hệ thống

-66-

thông tin, cơ sở dữ liệu còn hạn chế đã làm cho việc phân tích, so sánh dựa trên các số

liệu lịch sử còn chưa thực sự chính xác và đáng tin cậy.

Bên cạnh đó, do hệ thống thông tin về diễn biến thị trường phục vụ cho việc

hoạch định chính sách còn yếu, chưa kịp thời và đầy đủ, đã làm cho khả năng dự báo

của NHNN còn nhiều sai lệch. Công tác dự báo còn hạn chế và chưa nắm bắt đầy đủ xu

hướng thị trường đã nhiều lần làm Chính phủ hay NHNN đề ra chỉ tiêu quá cao khiến

công tác điều hành được tiến hành nóng vội vượt quá khả năng thích ứng của thị

trường và hệ thống NH, nên đã gây “sốc” làm giảm tác dụng của chính sách và kết quả

cuối cùng là chỉ tiêu kế hoạch và thực tế thực hiện thường có sự chênh lệch khá lớn.

Ngoài ra, sự phối hợp thông tin giữa các bộ ngành và NHNN để dự báo về tiền tệ, về

kinh tế vĩ mô vẫn chưa đồng bộ và còn nhiều hạn chế, do đó có ảnh hưởng nhất định

đến tính nhất quán giữa CSTT và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, làm giảm hiệu quả

điều hành CSTT cũng như công tác điều hành lãi suất của NHNN. Đặc biệt là đối với

yếu tố “lãi suất” khi nó phản ánh lợi tức mà người cho vay hay nhà đầu tư sẽ nhận

được trong tương lai, nên nếu những hạn chế trong khả năng dự báo dẫn đến dự báo sai

lệnh so với diễn biến lãi suất thị trường, sẽ rất dễ xảy ra những “rủi ro lãi suất” gây bất

lợi cho hoạt động đầu tư, tín dụng và từ đó ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.

Thứ bảy, tính công khai, minh bạch hóa thông tin còn nhiều hạn chế.

Thị trường thực tế hiện nay vẫn còn thiếu rất nhiều những thông tin cần thiết

cần phải công khai và minh bạch để phục vụ cho các đối tượng quan tâm cũng như

phục vụ cho công tác điều hành lãi suất đạt hiệu quả. Ví dụ như các số liệu báo cáo tài

chính, tình trạng nợ xấu v.v… của các NHTM đối với NHNN và thị trường vẫn chưa

minh bạch và đúng với thực tế điều tra từ NHNN; việc công bố thông tin về quá trình

điều hành và ra các quyết định điều hành lãi suất cũng như CSTT của NHNN trong

thời gian qua vẫn chưa thực hiện tốt, mức độ cam kết và nhất quán trong định hướng

điều hành lãi suất cũng như CSTT của NHNN vẫn còn nhiều hạn chế và đôi khi đi

ngược lại với kỳ vọng thị trường và những công bố ban đầu. Những yếu kém trong

-67-

công tác công khai và minh bạch hóa thông tin xuất phát từ phía NHNN lẫn các NHTM

đã làm thị trường thiếu hụt về thông tin, thông tin bất cân xứng dẫn đến khả năng dự

báo yếu kém, các nhà đầu tư và người dân do nắm bắt thông tin không đầy đủ nên

không chắc chắn về diễn biến của lãi suất, lạm phát v.v… trong tương lai, chủ yếu chạy

theo “tâm lý bầy đàn” làm ảnh hưởng không tốt đến quyết định đầu tư và ảnh hưởng

xấu đến nền kinh tế.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam giai đoạn 2008 –

tháng 6/2013 cho thấy hiệu quả mang lại của chính sách lãi suất đối với thị trường tiền

tệ cũng như đối với nền kinh tế vẫn chưa cao. Bên cạnh một số ít những thành công

vẫn còn tồn tại rất nhiều mặt hạn chế cần phải giải quyết triệt để trong thời gian tới.

Trên cơ sở tìm ra những nguyên nhân gây ra các mặt hạn chế trong công tác điều hành

lãi suất giai đoạn 2008 – tháng 6/2013, trong Chương 3 tác giả sẽ trình bày những định

hướng cũng như một số giải pháp cụ thể để hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất của

NHNN Việt Nam trong thời gian tới.

-68-

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN

CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM

3.1 Mục tiêu, định hướng điều hành chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất hướng

đến năm 2020

Trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính thế giới, nền kinh

tế các nước nói chung phải đối mặt với suy thoái và từng bước phục hồi cùng những

diễn biến phức tạp. Mặc dù Việt Nam không bị tác động trực tiếp, song khủng hoảng

tài chính thế giới đã phần nào ảnh hưởng đến kinh tế và thị trường tiền tệ trong nước

trong khi nền kinh tế nội địa cũng bộc lộ những hạn chế nội tại. NHNN Việt Nam cần

có những mục tiêu cụ thể cũng như những định hướng trong điều hành chính sách tiền

tệ và chính sách sách lãi suất hướng đến năm 2020.

3.1.1 Mục tiêu điều hành CSTT hƣớng đến năm 2020

Nhìn chung, đối với các NHTW, CSTT bao gồm các mục tiêu sau: Lạm phát thấp

và ổn định, tăng trưởng kinh tế ổn định, tạo công ăn việc làm, ổn định hệ thống tài

chính…Các NHTW có thể lựa chọn điều hành CSTT đa mục tiêu hoặc điều hành

CSTT đơn mục tiêu.

Có thể nói, điều hành CSTT đa mục tiêu là điều hành CSTT theo lối truyền thống.

Và hiện nay, các nước có xu hướng điều hành CSTT theo hướng đơn mục tiêu. Thật

vậy, với CSTT đơn mục tiêu, chỉ đeo đuổi một mục tiêu duy nhất và cũng là mục tiêu

cuối cùng, một số ưu điểm của việc điều hành CSTT đơn mục tiêu thể hiện như sau:

- Mục tiêu đơn nhất nên NHTW sẽ lựa chọn được những công cụ quyết định

nhất để tác động và đạt được mục tiêu đó.

- Mục tiêu đơn nhất nên thước đo hiệu quả và điều hành CSTT của NHTW sẽ

rõ ràng và cụ thể.

- Mục tiêu đơn nhất tạo điều kiện cho bộ máy chuyên môn của NHTW tập

trung nghiên cứu để đạt được kỳ vọng.

-69-

Tại Việt Nam, mục tiêu cuối cùng và duy nhất của CSTT, thể hiện trong Luật

NHNN 2010 có hiệu lực từ 1/1/2011, là “ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ

tiêu lạm phát”. So với quan điểm chính sách tiền tệ đa mục tiêu trong giai đoạn 1997-

2010: “ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội,

đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống xã hội”(Luật NHNN 1997) thì theo

quan điểm của tác giả, chính sách tiền tệ đơn mục tiêu của Luật NHNN 2010 vẫn tiếp

tục là định hướng phù hợp trong thời gian tới.

Luật NHNN 2010 đã quy định mục tiêu duy nhất của CSTT là ổn định giá trị

đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, nhưng trong các văn bản chỉ đạo, điều hành

CSTT thể hiện phải đồng thời thực hiện nhiều mục tiêu có mức ưu tiên như nhau như:

mức cung tiền M2, tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an toàn

hệ thống các TCTD. Do đó các giải pháp và công cụ điều hành CSTT nhiều khi phải

cùng một lúc giải quyết các mục tiêu, nên kết quả chưa đảm bảo được tính bền vững và

hiệu quả.

Vì vậy, theo tác giả trong giai đoạn hướng đến năm 2020, hoạch định mục tiêu

CSTT cần nhất quán và kiên định quan điểm ưu tiên kiểm soát lạm phát vì đây là vấn

đề cơ bản để từ đó ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng.

3.1.2 Định hƣớng điều hành CSTT hƣớng đến năm 2020

Trên cơ sở nhất quán và kiên định theo định hướng về mục tiêu điều hành CSTT

là ưu tiên kiểm soát lạm phát, theo tác giả định hướng điều hành CSTT trong thời gian

tới NHNN cần phải thực hiện đồng bộ một số định hướng quan trọng sau đây:

Phối hợp chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa

NHNN cần tiếp tục điều hành CSTT chặt chẽ, thận trọng và linh hoạt, phối hợp

hài hòa với CSTK. CSTT và CSTK là hai bộ phận trọng yếu trong điều tiết vĩ mô nền

kinh tế và đặc biệt trong kiểm soát lạm phát. Hai chính sách này trên thực tế được

hoạch định và thực thi khá riêng biệt bởi hai cơ quan khác nhau của Chính phủ. Chúng

vừa có tính độc lập, nhưng vừa có tính tương tác, hỗ trợ nhau trong việc điều tiết vĩ mô

-70-

nền kinh tế. Do vậy, để tăng cường hiệu quả của hai chính sách này cần phải có sự kết

hợp nhịp nhàng và đồng bộ. Chẳng hạn như không thể theo đuổi đồng thời nhiều mục

tiêu trái chiều, do vậy, Nhà nước cần xác định và công bố mục tiêu trọng tâm trong

từng thời kỳ để thực hiện nhất quán nhằm định hướng hoạt động cho từng chính sách.

Trên cơ sở đó, các hoạt động của từng chính sách sẽ có sự phối hợp nhằm đạt được

mục tiêu trong từng thời kỳ mà vẫn đảm bảo mục tiêu dài hạn.

Nâng cao vị thế độc lập của Ngân hàng Nhà nước

NHNN cần chủ động hoàn toàn trong việc sử dụng các công cụ của CSTT. Cụ

thể, về điều hành, NHNN phải được quyền xác định, quyết định và điều tiết lượng tiền

cung ứng hàng năm và trong từng thời điểm, đồng thời được sử dụng công cụ lãi suất

và các công cụ tiền tệ khác để tác động vào mục tiêu lạm phát. Từng bước xây dựng

Ngân hàng nhà nước tương đối độc lập với Chính phủ cả về điều hành CSTT và về

hoạt động tài chính. Và vấn đề còn lại là năng lực hoạt động của Ngân hàng Nhà nước

để nhận và tự chịu trách nhiệm.

Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất

Việc sử dụng công cụ lãi suất trong công tác điều hành CSTT trong thời gian tới

cần được tiếp tục thực hiện theo chủ trương ổn định mặt bằng lãi suất thị trường theo

hướng giảm dần, qua đó góp phần giảm LSCV hỗ trợ cho hoạt động tín dụng của hệ

thống NH, qua đó hỗ trợ cung ứng vốn cho các ngành, các lĩnh vực phục vụ cho mục

tiêu phát triển kinh tế của đất nước, tuy nhiên cần phải cân đối với việc kiểm soát lạm

phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Ngoài ra, để cải thiện tình trạng thanh khoản của các

NHTM cũng như tạo tính linh hoạt, cạnh tranh lành mạnh cho thị trường, NHNN cần

nới lỏng dần các giới hạn “trần lãi suất” nhưng trên cơ sở thận trọng từng bước và có

kiểm soát.

Kiểm soát tổng phương tiện thanh toán và tín dụng

Nhằm giúp nền kinh tế có điều kiện phục hồi, trong những năm tiếp theo cần điều

hành tổng phương tiện thanh toán và tín dụng theo hướng nới rộng tín dụng và tổng

-71-

phương tiện thanh toán ở mức hợp lý; hỗ trợ kích cầu bằng lãi suất thấp một số lĩnh

vực tiêu dùng thiết yếu và các ngành hàng sản xuất không đủ sản lượng đang phải nhập

khẩu trong các lĩnh vực nông sản, thực phẩm, nguyên liệu. Điều này giúp bản thân NH

giảm được tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ; hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế.

Xử lý nợ xấu, và bảo đảm an toàn hệ thống TCTD

Xử lý nợ xấu, tái cơ cấu và bảo đảm an toàn hệ thống TCTD là một trong những

vấn đề quyết định để giải thoát khó khăn cho nền kinh tế.

- Tất cả các NHTM và TCTD đều phải xây dựng đề án giải quyết và lộ trình

giải quyết nợ xấu trình NHNN thẩm định và phê duyệt.

- Hoàn thiện các quy định quản lý, bảo đảm an toàn hoạt động tổ chức tín

dụng, ngăn ngừa các nguy cơ thực tế dẫn đến khủng hoảng hệ thống ngân hàng và

các tổ chức tín dụng theo hướng: sửa đổi hoặc điều chỉnh các tỷ lệ bảo đảm an

toàn hoạt động phù hợp với thực tế môi trường hoạt động kinh doanh ngân hàng

Việt Nam. Đồng thời, tiếp cận với tiêu chuẩn quốc tế và tăng cường kỷ cương,

hiệu lực trong thực thi quy định của các TCTD, bảo đảm an toàn hệ thống.

Phối hợp đồng bộ và linh hoạt các công cụ CSTT trong quá trình điều hành CSTT

Trong thời gian tới, NHNN cần nâng cao năng lực điều hành, phối hợp tốt và

đồng bộ các công cụ CSTT trong quá trình điều hành CSTT như: công cụ lãi suất, tỷ

giá, nghiệp thị trường mở, hoạt động tái cấp vốn, tái chiết khấu, công cụ dự trữ bắt

buộc, kiểm soát tín dụng v.v… Qua thực tế điều hành CSTT ở các nước khác cho thấy

việc phối hợp tốt và linh hoạt các công cụ trong quá trình điều hành CSTT sẽ tạo ra

những tác động mạnh hơn đến tổng cầu góp phần giúp truyền tải hiệu quả CSTT đến

các mục tiêu cuối cùng như kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hay giảm

thất nghiệp.

Xây dựng và phát triển hệ thống ngân hàng an toàn vững mạnh

Nhằm xây dựng và phát triển hệ thống ngân hàng an toàn, vững mạnh, NHNN

cần thực hiện đồng bộ việc tái cấu trúc, cơ cấu lại hệ thống NH theo hướng an toàn,

-72-

lành mạnh và hiệu quả; tăng cường các công tác thanh tra, giám sát các TCTD để phát

hiện và xử lý nghiêm các TCTD yếu kém, có rủi ro thanh khoản cao, nợ xấu nhiều,

cạnh tranh không lành mạnh, không chấp hành tốt các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động;

NHNN cần theo dõi sát tình hình tăng trưởng tín dụng của các NH sao cho đảm bảo

mức tăng trưởng tín dụng phải hợp lý và đi đôi với an toàn hệ thống; ngoài ra, NHNN

cần tiến hành phân loại NH và có biện pháp giám sát phù hợp đối với từng nhóm NH.

Thông tin minh bạch và rõ ràng

Để chính sách tiền tệ trở nên rõ ràng và minh bạch thì Ngân hàng nhà nước cần

phải thiết lập được cơ chế truyền tải cụ thể về tính minh bạch và giải trình thông tin

trước công chúng. Chẳng hạn, về nội dung truyền tải cần bao gồm: quan điểm của

Ngân hàng Nhà nước về việc thực hiện mục tiêu lạm phát với tư cách là mục tiêu cuối

cùng; tổng quan và diễn biến tình hình lạm phát trong thời gian qua; những giải pháp

của Ngân hàng Nhà nước để tiếp tục thực hiện mục tiêu lạm phát và các giải trình

khác… Về cách thức truyền tải có thể thông qua các ấn phẩm như báo cáo thường niên,

định kỳ, hoặc giải trình định kỳ của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trên phương tiện

truyền thông.

Nâng cao chất lượng công tác thống kê, dự báo

Nâng cao chất lượng công tác thống kê, gồm thống kê giá và thống kê tiền tệ.

Hoàn thiện bộ máy thống kê từ trung ương đến địa phương, nhằm cung cấp số liệu,

thông tin đáng tin cậy và nhanh chóng. Với hệ thống thông tin được cập nhật kịp thời

những thay đổi trên thị trường tài chính và tình hình kinh tế để có cơ sở phân tích và dự

báo chính xác phục vụ cho hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ.

3.1.3 Định hƣớng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam hƣớng đến

năm 2020

Do mục tiêu của cơ chế điều hành lãi suất cũng chính là mục tiêu mà công tác

điều hành CSTT hướng đến nên định hướng mục tiêu điều hành chính sách lãi suất của

NHNN hướng đến năm 2020 cũng không nằm ngoài định hướng đơn mục tiêu trong

-73-

điều hành CSTT, đó là: „NHNN điều hành lãi suất sao cho góp phần thực hiện tốt mục

tiêu ưu tiên cấp thiết là ổn định giá cả hay kiểm soát tốt lạm phát‟.

Để đạt được định hướng mục tiêu là kiểm soát lạm phát, cơ chế điều hành lãi suất

trong thời gian tới cần phải chú trọng thực hiện theo định hướng: “Tự do hóa lãi suất –

có kiểm soát”. Việc điều hành lãi suất theo hướng ngày càng tự do hóa đến mức tự do

hóa hoàn toàn là một việc cần thiết để thiết lập một thị trường năng động, trong đó các

NHTM hoạt động cạnh tranh lành mạnh theo đúng quy luật thị trường và hội nhập với

thông lệ quốc tế. Tuy nhiên do điều kiện thị trường tài chính Việt Nam còn nhiều yếu

kém, các công cụ tài chính vẫn chưa đa dạng và phát triển, hoạt động của hệ thống NH

vẫn chưa lành mạnh và kỷ luật chưa nghiêm, thanh khoản của đa số các NHTM vẫn

còn chứa đựng nhiều rủi ro nên trước mắt chưa thể thực hiện „gỡ bỏ‟ trần lãi suất hoàn

toàn để tránh gây ra rối loạn thị trường không thể kiểm soát được, thay vào đó là việc

giảm dần mức trần LSCV và LSHĐ phải được thực hiện thận trọng theo đúng diễn

biến của thị trường và diễn biến của nền kinh tế vĩ mô. Như vậy xu hướng tự do hóa lãi

suất là cần thiết nhưng phải được NHNN thực hiện từng bước theo đúng lộ trình giảm

trần lãi suất và gắn chặt với sự thận trọng, kiểm soát, điều chỉnh linh hoạt lãi suất theo

sát diễn biến thị trường.

Ngoài ra, tiếp nối thành công trong công tác điều hành lãi suất năm 2012 và 6

tháng đầu năm 2013, trong thời gian tới, NHNN nên tiếp tục điều hành CSTT với mục

tiêu trung gian là lãi suất thị trường chứ không chỉ là khối lượng cung ứng tiền hay

khối lượng tín dụng như những năm trước đây. Cụ thể là NHNN vẫn tiếp tục điều hành

lãi suất theo định hướng ổn định và giảm dần lãi suất thị trường về mức lãi suất mục

tiêu đã đề ra từ ban đầu. Thông qua mức lãi suất mục tiêu đã đề ra, NHNN sẽ thực hiện

công tác điều hành lãi suất (chủ yếu qua nghiệp vụ thị trường mở) sao cho điều tiết lãi

suất LNH giảm về sát với mức lãi suất mục tiêu hoặc biến động xung quanh mức lãi

suất mục tiêu, qua đó góp phần điều tiết các mức lãi suất thị trường như LSHĐ và

LSCV cũng giảm về hoặc biến động xung quanh mức lãi suất mục tiêu mong muốn.

-74-

3.2 Giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm và các nguyên nhân tồn tại của những mặt

hạn chế trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN giai đoạn 2008 đến tháng 6/2013,

tác giả xin nêu lên một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất của

NHNN Việt Nam hướng đến những định hướng điều hành lãi suất từ 6 tháng cuối năm

2013 đến năm 2020 như sau:

3.2.1 Nhóm giải pháp tăng cƣờng mức độ độc lập của NHNN, từ đó hoàn

thiện những điều kiện cơ bản để hƣớng tới điều hành lãi suất theo cơ

chế lạm phát mục tiêu

Qua thực tế các nước cho thấy, một mô hình NHTW độc lập ngoài việc giúp quốc

gia kiểm soát lạm phát tốt hơn, còn giúp giảm thâm hụt ngân sách, giúp NHTW thực

hiện CSTT hiệu quả sẽ góp phần vào tăng trưởng kinh tế ổn định hơn. Ngoài ra, với xu

hướng hiện nay khi đa số các quốc gia đã và đang hướng đến áp dụng cơ chế điều hành

CSTT lạm phát mục tiêu – với rất nhiều ưu điểm giúp các nước điều hành một CSTT

hiệu lực và hiệu quả cao thì điều kiện cơ bản trước tiên để có thể áp dụng chính sách

này đó là NHTW phải có được sự độc lập tương đối so với Chính phủ trong việc hoạch

định và thực thi CSTT. Chính vì vậy, nâng cao tính độc lập của NHNN đối với Chính

phủ là một trong những điều kiện tiên quyết giúp NHNN Việt Nam điều hành có hiệu

quả CSTT nói chung và chính sách lãi suất nói riêng, nhằm đạt được những mục tiêu

kinh tế vĩ mô, trong đó ưu tiên trước hết trong thời gian tới đó là „kiểm soát lạm phát‟.

Hiện tại, theo thể chế chính trị và kinh tế hiện hành, NHNN Việt Nam hiện nay

đang phụ thuộc rất nhiều vào Chính phủ mà về mặt kinh tế thì gần như là phụ thuộc

tuyệt đối về tài chính; ngoài ra nghĩa vụ và trách nhiệm về hiệu quả điều hành CSTT

của NHNN cũng chưa được xác lập rõ ràng, vị thế của NHNN còn rất mơ hồ; theo Luật

NHNN thì hầu hết các nội dung lớn trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến CSTT đều do

Chính phủ quyết định. Do đó khó có thể đổi mới NHNN theo hướng là một NHTW có

mức độ độc lập cao trong điều hành CSTT so với Chính phủ trong thời gian trung hạn

-75-

vì phải sửa đổi rất nhiều về thể chế pháp luật như từ Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội

Chủ nghĩa Việt Nam cho đến các bộ luật cơ bản như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật

NHNN, Luật các TCTD v.v…Chính vì lý do đó, trong thời gian trung hạn, chỉ cần đổi

mới NHNN Việt Nam trở thành một NHTW độc lập tương đối với Chính phủ, cụ thể là

chỉ độc lập với Chính phủ về việc thực thi CSTT.

Trong thời gian trung hạn, cần cải cách mức độ độc lập của NHNN theo hướng

NHNN được độc lập trong việc xác định khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế và

chủ động sử dụng các công cụ điều hành CSTT một cách có hiệu quả. Ngoài ra, để hạn

chế sức ép từ phía Chính phủ, hoạt động điều hành CSTT của NHNN phải thông qua

Hội đồng Chính sách Tiền tệ Quốc gia do Quốc hội quyết định. Trong đó Hội đồng

CSTT Quốc gia bao gồm người đứng đầu là Chủ tịch – Thống đốc NHNN; Ban điều

hành gồm Thống đốc và Phó Thống đốc; giúp việc cho Hội đồng có Ban Thư ký – gồm

một số chuyên gia của NHTW. Hội đồng CSTT Quốc gia là cơ quan tối cao có quyền

và chịu trách nhiệm (theo luật định) chủ yếu về hoạch định, giám sát thực thi CSTT

Quốc gia và Chiến lược phát triển hệ thống các TCTD đã được các cơ quan nhà nước

có thẩm quyền phê chuẩn hoặc quyết định các vấn đề lớn khác có liên quan đến CSTT

Quốc gia và vấn đề điều tiết giám sát hệ thống NH. Như vậy, điều này cho phép Hội

đồng CSTT Quốc gia độc lập với Chính phủ nên các quyết định về tiền tệ sẽ chủ động

hơn và phù hợp hơn với mục tiêu của Hội đồng. Để đổi mới NHNN theo hướng độc lập

tương đối với Chính phủ (chỉ độc lập trong điều hành CSTT), Chính phủ cần thực hiện:

(i) đề nghị Quốc hội thông qua Hội đồng CSTT Quốc gia và Quốc hội quyết định Chủ

tịch Hội đồng CSTT Quốc gia; (ii) Chính phủ bàn giao dần quyền lực điều hành CSTT

sang Hội đồng CSTT Quốc gia trong thời gian trung hạn.

3.2.2 Nhóm giải pháp cải thiện tính hành chính trong điều hành CSTT

Thực trạng điều hành lãi suất nói riêng và CSTT nói chung trong thời gian qua

cho thấy việc áp dụng quá nhiều các biện pháp hành chính nhưng lại không có những

biện pháp chế tài cần thiết, NHNN thiếu hiệu quả trong công tác thanh tra giám sát hệ

-76-

thống NH, kỷ luật thị trường chưa nghiêm minh đã khiến thị trường thường xảy ra hiện

tượng các NH cạnh tranh không lành mạnh, phải chạy đua lãi suất ngầm hoặc thực hiện

những biện pháp biến tướng, lách luật dưới nhiều hình thức để lách luật – những biện

pháp hành chính chưa hoàn thiện và hiệu quả mà NHNN ban hành.

Mặc dù trong thời gian tới việc thực hiện tự do hóa lãi suất, loại bỏ dần những

biện pháp hành chính là cần thiết để vận hành hoạt động NH theo đúng cơ chế thị

trường và để các NH tự do cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy thị trường tài chính và nền

kinh tế phát triển. Tuy nhiên xét trong điều kiện hiện nay thực lực của hệ thống NHTM

Việt Nam còn nhiều yếu kém, nhất là trong năng lực thanh khoản, khả năng quản trị rủi

ro v.v..., thị trường tài chính thì chưa phát triển nên việc tự do hóa hoàn toàn (bãi bỏ

hoàn toàn các biện pháp hành chính) sẽ rất dễ xảy ra rối loạn thị trường khó kiểm soát,

từ đó ảnh hưởng xấu đến hoạt động của hệ thống NH và gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Do

đó, trong thời gian tới việc tiếp tục áp dụng (hạn chế) và ngày càng nới lỏng các biện

pháp hành chính là cần thiết để từng bước thực hiện tốt định hướng „tự do hóa lãi suất

– có kiểm soát‟ theo lộ trình đã đề ra. Các biện pháp hành chính này (trần lãi suất) khi

được áp dụng để đạt được hiệu quả cao nhất và hỗ trợ mục tiêu ổn định lãi suất thị

trường phải có sự xem xét và tính toán một cách hợp lý khoa học dựa vào điều kiện thị

trường, diễn biến kinh tế vĩ mô cũng như năng lực tài chính của các NH.

Trước mắt, cần phải điều chỉnh linh hoạt (theo hướng giảm dần) các mức trần

LSHĐ và trần LSCV đối với 4 lĩnh vực ưu tiên nhằm hỗ trợ cho hoạt động sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, nhưng việc điều

chỉnh linh hoạt trần lãi suất phải trên cơ sở thận trọng theo sát diễn biến của thị trường

và nền kinh tế như diễn biến lạm phát, khả năng thanh khoản của các NH, khả năng

hấp thụ vốn của nền kinh tế v.v... Ngoài ra để cải thiện và nâng cao hiệu quả của các

biện pháp hành chính đã ban hành, NHNN cần quy định các hình thức xử lý nghiêm

minh trường hợp các TCTD vi phạm, cạnh tranh không lành mạnh gây rối loạn thị

trường, từ đó nâng cao tính kỷ luật thị trường, nhưng trước đó, để tìm ra các TCTD vi

-77-

phạm NHNN cũng cần phải cải thiện và thực hiện tốt hơn công tác thanh tra, giám sát

các TCTD để dễ dàng rà soát tìm ra những NH yếu kém, tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể

dẫn đến việc lách luật, cạnh tranh không lành mạnh. Trong điều kiện nếu thị trường tài

chính tiền tệ và năng lực hệ thống NH ngày càng ổn định vững chắc, lạm phát được

kiểm soát tốt và ổn định, NHNN có thể xem xét theo lộ trình, từng bước thực hiện một

cơ chế điều hành lãi suất tự do hóa hoàn toàn, không cần phải quy định một biện pháp

hành chính nào nữa.

3.2.3 Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản

Theo kinh nghiệm điều hành cơ chế lãi suất của nhiều nước trên thế giới cho thấy,

công cụ LSCB của NHTW là một công cụ quan trọng không thể thiếu trong việc định

hướng hoạt động tín dụng của các NHTM, từ đó góp phần ổn định tài chính và ổn định

giá cả trong nước. Tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế của từng quốc gia mà việc sử dụng

công cụ LSCB trong việc điều hành CSTT cần được linh hoạt triển khai theo những

cách thức khác nhau, phù hợp với điều kiện của nền kinh tế quốc gia theo từng giai

đoạn nhằm phát huy tối đa chức năng của các công cụ và đảm bảo cho sự ổn định, phát

triển của thị trường tài chính. Cụ thể, NHNN cần tạo điều kiện để lãi suất cơ bản thể

hiện đúng vai trò định hướng thị trường tiền tệ của mình theo những hướng đi như sau:

- Trước mắt là phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản trở thành lãi suất chuẩn

mực, định hướng được lãi suất thị trường, trên cơ sở đó NHNN sử dụng LSCB dưới

danh nghĩa là mức lãi suất mục tiêu. Khi NHNN công bố LSCB ra thị trường, điều này

sẽ đồng nghĩa với việc NHNN đang phát đi tín hiệu là điều hành hay định hướng lãi

suất thị trường về mức lãi suất mục tiêu là LSCB. Theo kinh nghiệm của một số nước

trên thế giới, để có thể phát huy được tốt vai trò định hướng của LSCB thì bản thân

NHTW của quốc gia đó phải xác định được những mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở

định lượng cụ thể về lạm phát, tăng trưởng, hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh

tế đạt trạng thái cân bằng. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản -

-78-

làm cơ sở định hướng chuẩn mực cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền

tệ là một việc cần thiết phải thực hiện trong thời gian này.

- Trên cơ sở mức LSCB hay mức lãi suất mục tiêu đã xác định, NHNN hình

thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo khác như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết

khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử LNH và cho vay bù đắp thiếu

hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các NH. Thông qua nghiệp vụ thị

trường mở (công bố và điều tiết lãi suất nghiệp vụ thị trường mở hoặc thực hiện mua,

bán giấy tờ có giá ngắn hạn), NHNN sẽ chủ động điều tiết lãi suất thị trường (bao gồm

lãi suất LNH rồi đến LSHĐ, LSCV ngắn hạn rồi dài hạn) biến động về xung quanh

mức LSCB hay mức lãi suất mục tiêu, qua đó sẽ tác động đến các hành vi cho vay, đi

vay của các thành viên trên thị trường tài chính – tiền tệ, lượng tiền cung ứng cũng sẽ

được điều tiết hợp lý để đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu này, từ đó góp phần thực

hiện tốt mục tiêu mà CSTT hay chính sách điều hành lãi suất hướng đến.

3.2.4 Nhóm giải pháp tiếp tục phát triển hoạt động thị trƣờng liên ngân

hàng và thị trƣờng mở giúp NHNN thực hiện tốt vai trò ngƣời cho vay cuối cùng

Qua phân tích thực trạng và tìm ra nguyên nhân gây ra các mặt hạn chế cho thấy

trong thời gian qua NHNN chưa thực hiện tốt vai trò người cho vay cuối cùng của

mình trên thị trường LNH và thị trường mở - là hai thị trường với chức năng cơ bản là

hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống NHTM, giúp nâng cao hiệu quả truyền tải cơ chế điều

hành lãi suất của NHNN đến lãi suất thị trường và nền kinh tế, mặt hạn chế này đã thể

hiện rõ khi lãi suất thị trường có những thời điểm biến động không theo đúng định

hướng mà NHNN đã đề ra ban đầu. Và một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến

NHNN chưa thực hiện tốt vai trò của mình và hiệu quả truyền dẫn đến lãi suất thị

trường chưa cao đó là do hoạt động trên thị trường LNH chưa được tổ chức tốt, hoạt

động trên thị trường mở thì chưa đa dạng và phát triển. Như vậy để NHNN thực hiện

tốt vai trò người cho vay cuối cùng đối với các TCTD hay thực hiện tốt công tác điều

tiết lãi suất thị trường theo đúng định hướng đã đề ra, NHNN cần phải thực hiện một số

-79-

giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động trên thị trường LNH và thị trường

mở như sau:

Đối với thị trường liên ngân hàng: (i) NHNN nên thực hiện các biện pháp và

xây dựng hệ thống các chỉ tiêu kiểm soát hữu hiệu thị trường LNH nhằm theo dõi kịp

thời diễn biến lãi suất trên thị trường LNH, làm cơ sở để nghiên cứu và ban hành các

loại lãi suất chỉ đạo khác; (ii) NHNN cần thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả hoạt động thị trường LNH, đảm bảo lãi suất thị trường LNH là cơ sở để NHNN

tính toán và xác định các mức lãi suất điều hành khác qua các hoạt động thiết thực như:

NHNN cần đưa ra những quy định cụ thể về quyền lợi và trách nhiệm của các NHTM

tham gia; thành lập tổ chức xếp hạng các NH trực thuộc NHNN để đánh giá các chỉ

tiêu cơ bản của NH, từ đó chọn được những NH thực sự lớn mạnh và tâm huyết tham

gia thị trường LNH; (iii) NHNN cần hoàn thiện hệ thống thanh toán quốc gia

(CITAD) tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển vốn qua lại giữa các NHTM; (iv)

Tiếp tục hoàn thiện các cơ sở pháp lý nhằm hướng dẫn và giải quyết các vấn đề phát

sinh trong quá trình các NHTM tham gia trên thị trường LNH.

Đối với hoạt động thị trường mở: (i) NHNN cần từng bước tiến hành nghiên

cứu, hoàn chỉnh và đẩy mạnh cơ chế thực hiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở như:

đa dạng hóa các loại giấy tờ có giá giao dịch trên thị trường, hoàn thiện quy trình, tăng

số phiên giao dịch, mở rộng kết nạp thành viên mới tạo điều kiện cho các NHTM vừa

và nhỏ có thể tham gia thị trường mở và tiếp cận được với hình thức tái cấp vốn của

NHNN; (ii) NHNN cần xác định tín phiếu kho bạc là loại giấy tờ có giá chủ chốt được

sử dụng để mua bán trong công cụ nghiệp vụ thị trường mở để kiểm soát cung ứng tiền

và lãi suất thị trường vì đây là loại giấy tờ có giá có rủi ro thấp, tính lỏng cao mà đặc

biệt hơn hết là sự trung lập về lợi ích kinh tế là cao nhất so với các loại giấy tờ có giá

khác trong nền kinh tế; (iii) NHNN cần thực hiện các giải pháp góp phần làm tăng tính

lỏng của các loại giấy tờ có giá nhằm mở rộng quy mô và phạm vi của nghiệp vụ thị

trường mở, chẳng hạn như đề ra các giải pháp khuyến khích người dân nắm giữ các

-80-

loại giấy tờ có giá thay vì thói quen nắm giữ tiền mặt.

3.2.5 Nhóm giải pháp tăng cƣờng vai trò công tác thống kê, dự báo

NHNN cần tăng cường vai trò công tác thống kê tổng hợp thông tin bằng cách

xây dựng một hệ thống thông tin có thể cập nhật kịp thời những thay đổi trên thị trường

tài chính và diễn biến của nền kinh tế vĩ mô. Để thực hiện được điều đó NHNN cần

thực hiện một số biện pháp như: (i) cần có chính sách đầu tư hợp lý về cơ sở vật chất,

trang thiết bị và con người phục vụ cho công tác phân tích, tính toán, cập nhật thông tin

về lãi suất trên thị trường; (ii) cần phối hợp với các Bộ, ban ngành khác và thậm chí là

các tổ chức tài chính ở nước ngoài để thu thập được nhiều thông tin đáng tin cậy hơn;

(iii) đối với hoạt động trên thị trường LNH, NHNN cần phải thu thập được đầy đủ các

thông tin về chào vốn của các NH được lựa chọn hằng ngày về các giao dịch được lựa

chọn trong ngày, doanh số, thời hạn, lãi suất... Việc thu thập thông tin này cần phải

được thực hiện thông qua mạng vi tính trực tuyến giữa NHNN với các NHTM khác

một cách nhanh chóng; (iv) hoàn thiện và phát triển hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu về

quy mô, lẫn chất lượng, trên cơ sở tin học hóa hiện đại phục vụ cho công tác thu thập,

thống kê, phân tích và dự báo, chẳng hạn như bổ sung thêm các mốc thời gian dài hơn,

một số chỉ tiêu cần được trình bày chi tiết hơn về kỳ hạn (chẳng hạn GDP hiện nay chỉ

có số liệu theo quý), đặc biệt cần bổ sung thêm hệ thống các số liệu về lãi suất rất khó

thu thập được hiện nay như lãi suất OMO, lãi suất giao dịch LNH của các NHTM (hiện

nay chỉ được thu thập thủ công qua từng ngày và chỉ có mốc thời gian trong vòng 3

năm trở lại), lãi suất thị trường (chưa có một hệ thống cơ sở dữ liệu tổng hợp đầy đủ).

Trên cơ sở thực hiện tốt công tác thu thập thông tin, thống kê số liệu, NHNN cần

thực hiện một số biện pháp sau để tăng cường hiệu quả công tác dự báo trong tương lai

(mà đặc biệt quan trọng trong thời gian tới là công tác dự báo về lạm phát) như sau: (i)

tăng cường hiệu quả phân tích và dự báo bằng cách áp dụng các mô hình kinh tế lượng;

(ii) đào tạo đội ngũ chuyên môn và cung cấp cơ sở vật chất phù hợp để thiết lập các mô

hình phân tích và dự báo có kết quả sát thực; (iii) thực hiện nhiều hơn các cuộc điều tra

-81-

về những kỳ vọng lạm phát hoặc kỳ vọng lãi suất thị trường được thực hiện bởi NHNN

hoặc các khu vực tư nhân; (iv) tăng cường phối hợp trao đổi thông tin với các Bộ,

ngành, cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước để phân tích và dự báo được diễn biến của

xu hướng lạm phát và lãi suất cũng như một số chỉ tiêu quan trọng khác.

3.2.6 Nhóm giải pháp thực hiện cơ chế điều hành lãi suất theo hƣớng công

khai, minh bạch hóa thông tin

Việc tăng cường tính công khai và minh bạch hóa thông tin có quan hệ mật thiết

đến việc thực thi có hiệu quả chính sách lãi suất nói riêng và CSTT nói chung thể hiện

ở những mặt sau: tính minh bạch làm tăng hiểu biết tốt hơn của công chúng về thị

trường và CSTT, trên cơ sở đó người dân sẽ tin tưởng và ủng hộ cho công tác điều

hành CSTT của NHNN giúp cho việc điều hành CSTT đạt kết quả tốt hơn; Khi công

khai minh bạch hóa thông tin giúp các chủ thể trên thị trường tài chính hiểu biết và dự

đoán được những động thái điều hành của NHTW, thì công tác truyền tải CSTT đến

các hoạt động của nền kinh tế sẽ được thực hiện trôi chảy hơn. Đo đó, để công tác tăng

cường công khai minh bạch hóa thông tin được thực hiện tốt góp phần đạt hiệu quả cao

trong công tác điều hành CSTT hay chính sách lãi suất thì NHNN cần phải thiết lập

được cơ chế cụ thể về tính minh bạch và cách công bố thông tin, giải trình trước công

chúng của NHNN, cụ thể như sau:

- Nội dung cần công khai và minh bạch trong điều hành CSTT và chính sách lãi

suất bao gồm: (i) mục tiêu điều hành (trong thời gian tới phải trình bày giải thích rõ

mục tiêu là ưu tiên kiểm soát lạm phát); (ii) dự báo về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, tài

chính tiền tệ và khả năng đạt được mục tiêu; (iii) biên bản cuộc họp và quyết định

chính sách; (iv) kết quả bỏ phiếu ra quyết định chính sách; (v) tổng quan tình hình thực

hiện chính sách; (vi) giải thích về việc thay đổi chính sách (nếu có)

- Cách thức công khai và minh bạch thông tin có thể áp dụng các kênh thường

xuyên, định kỳ và không định kỳ. Kênh thường xuyên, định kỳ (tháng, quý) thông qua

các ấn phẩm như báo cáo thường niên, báo cáo định kỳ về lạm phát; thông qua giải

-82-

trình định kỳ của Thống đốc NHNN trên truyền hình hoặc các phương tiện truyền

thông. Kênh đột xuất thông qua tổ chức họp báo, trả lời báo chí và công chúng.

- Các cam kết về nội dung truyền tải qua các ấn phẩm – báo cáo, trả lời báo chí

của NHNN cần được xác thực bởi Thống đốc NHNN qua thư hoặc văn bản cam kết với

Quốc hội, hoặc Thủ tướng Chính phủ, hoặc Chủ tịch nước.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Qua những định hướng trong điều hành CSTT và những định hướng trong cơ

chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam trong thời gian tới, có thể thấy xu hướng

tự do hóa lãi suất có kiểm soát đang là định hướng chủ đạo mà NHNN hướng đến.

Ngoài ra, để công tác điều hành lãi suất đạt kết quả tốt hơn thì trong điều hành CSTT,

NHNN cũng cần phải dần chuyển sang thực hiện mục tiêu trung gian là lãi suất chứ

không chỉ là kiểm soát khối lượng như trước đây. Để đảm bảo thực hiện tốt theo định

hướng này, NHNN Việt Nam cần phải thực hiện đồng bộ một số biện pháp như: tăng

cường mức độ độc lập của NHNN với Chính phủ; cải thiện tính hành chính trong công

tác điều hành lãi suất; hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản; tăng cường công tác

thống kê, dự báo; thực hiện công khai, minh bạch hóa thông tin v.v…

KẾT LUẬN

Hoàn thiện hơn cơ chế điều hành lãi suất là việc làm rất cần thiết hiện nay khi

Việt Nam đang hội nhập sâu rộng và chịu ảnh hưởng rất lớn từ những biến động kinh

tế trên thế giới. Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất không chỉ có ý nghĩa quan trọng

trong công tác điều hành lãi suất, điều hành chính sách tiền tệ mà còn có vai trò quan

trọng đối với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Hiện nay Việt Nam đang ngày

càng tự do hóa hơn về lãi suất để đảm bảo điều hành lãi suất có hiệu quả bằng những

công cụ gián tiếp, tuy nhiên sự hội nhập về lãi suất này cần phải hết sức thận trọng

cũng như phải được tiến hành theo lộ trình đã tính toán lỹ lưỡng để không gây ra

những cú sốc ảnh hưởng không tốt với thị trường tiền tệ Việt Nam đang còn nhiều yếu

kém và non nớt. Ngoài ra, để đảm bảo công tác điều hành lãi suất đạt được kết quả tốt

hơn đòi hỏi NHNN phải có được sự chủ động nhiều hơn trong điều hành CSTT cũng

như điều hành lãi suất, hạn chế sự phụ thuộc quá nhiều vào Chính phủ. Đây cũng

chính là một trong những điều kiện tiên quyết trong những điều kiện cơ bản để có thể

áp dụng cơ chế “lạm phát mục tiêu” mà NHNN Việt Nam nên xem xét và hướng đến.

Với mục tiêu giúp “Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam” bằng những

tổng quan lý thuyết về lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất, những phân tích và đánh

giá về thực trạng điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam trong giai đoạn 2008 – tháng

6/2013, đưa ra những thành công, mặt hạn chế, nguyên nhân gây ra những mặt hạn

chế, từ đó đề ra một số giải pháp nhằm “Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất” hướng

đến năm 2020, hy vọng đề tài sẽ là một tài liệu hữu ích để NHNN tham khảo, từ đó

góp phần hỗ trợ NHNN đưa ra những giải pháp điều hành lãi suất “hoàn thiện” hơn

trong thời gian tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Châu Đình Phương (2009), “Suy nghĩ về cơ chế điều hành lãi suất hiện nay”, Tạp

chí ngân hàng, (Số 6), tr. 69.

2. Đỗ Thị Ngọc Anh (2011), “Trao đổi về cơ chế áp dụng lãi suất trong huy động vốn

của NHNN hiện nay”, Tạp chí ngân hàng, (Số 15), tr. 27-28.

3. Frederic S.Mishkin (1999), Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường tài chính, Nhà xuất

bản Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội.

4. Hà Quang Đào (2011), “Nhìn lại cơ chế điều hành lãi suất trong thời gian qua – giải

pháp thời gian tới”, Nghiên cứu kinh tế, (Số 310), tr. 17-22.

5. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Giáo trình lịch sử các học thuyết

kinh tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Lâm Hồng Anh (2007), Giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành lãi suất của Chính

Phủ đối với Ngân hàng phát triển Việt Nam trong điều kiện hội nhập, Luận văn

Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí

Minh.

7. Lê Phan Thanh Hòa (2011), “Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở Việt

Nam”, Công nghệ ngân hàng, (Số 67), tr. 39-43.

8. Lê Văn Tư (2006), Tiền tệ, Ngân hàng, Thị trường tài chính, Nhà xuất bản Tài

chính, TP.HCM.

9. Minh Khuê (2012), “Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở Việt Nam”,

Tạp chí ngân hàng, (Số 3), tr. 23-27.

10. N. Gregory Mankiw (1997), Kinh tế học vĩ mô, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội.

11. Nguyễn Anh Vũ (2011), “Bàn về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam”,

Công nghệ ngân hàng, (Số 28), tr. 43-45.

12. Nguyễn Đắc Hưng (2011), “Một số ý kiến góp phần hoàn thiện cơ chế điều hành lãi

suất và phát triển thị trường tiền tệ”, Tạp chí ngân hàng, (Số 10), tr. 16-18.

13. Nguyễn Đại Lai (2011), “Giảm lãi suất trong bối cảnh chống lạm phát”, Chứng

khoán Việt Nam, (Số 154), tr. 33-36.

14. Nguyễn Đăng Dờn - Chủ biên (2011), Nghiệp vụ Ngân hàng Trung Ương, Nhà xuất

bản Đại học Quốc gia TPHCM, TP.HCM

15. Nguyễn Đình Luận (2013), “Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam và đề xuất các chính sách”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, (Số 21),

tr.16-20

16. Nguyễn Đình Tự (2011), “Một số ý kiến về điều hành lãi suất ngân hàng ở nước ta

hiện nay”, Tạp chí ngân hàng, (Số 20), tr. 26-29.

17. Nguyễn Minh Phong (2010), “Điều hành lãi suất ngân hàng theo hướng giảm dần –

Kết quả bước đầu và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí ngân hàng, (Số 9), tr. 2-9.

18. Nguyễn Ngọc Bảo (2011), “Lãi suất cơ bản trong điều hành chính sách lãi suất từ

sau khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận”, Tạp chí ngân hàng, (Số 11), tr. 13-15.

19. Nguyễn Thị Kim Thanh (2010), “Chính sách lãi suất – Cơ sở lý luận và thực tiễn”,

Tạp chí ngân hàng, (Số 8), tr. 5-24.

20. Nguyễn Thị Kim Thanh (2013), “Hướng tới bình ổn thị trường tiền tệ những tháng

cuối năm 2013”, Tạp chí tài chính, (Số 585), tr. 18-20.

21. Nguyễn Thị Thu Hiếu (2013), “Đôi điều suy ngẫm về cơ chế điều hành lãi suất Việt

Nam hiện nay”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, (Số 12), tr.13-18

22. Nguyễn Thị Trà My (2011), Tác động cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng

Nhà nước đến thanh khoản các Ngân hàng Thương mại Việt Nam, Luận văn Thạc

sỹ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

23. Nguyễn Xuân Hưng (2009), “Lạm bàn về cơ chế lãi suất trong cơ chế thị trường

của Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (Số 7), tr. 34-42.

24. Nguyễn Xuân Hưng (2010), “Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW các nước và

liên hệ với Việt Nam”, Thị trường tài chính tiền tệ, (Số 16), tr. 21-23.

25. Robert S.Pinkdyck, Daniel L.Rubinfeld (1999), Kinh tế học vi mô, Nhà xuất bản

Thống Kê, Hà Nội.

26. Tô Thị Ánh Dương - Chủ biên (2010), Lạm phát mục tiêu và hàm ý đối với khuôn

khổ chính sách tiền tệ ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội.

27. Trương Thị Mỹ Chi (2011), Thực trạng lãi suất thị trường tiền tệ Việt Nam giai

đoạn 2007-2010, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ

Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

28. Sử Đình Thành –Vũ Thị Minh Hằng (2008), Nhập môn Tài chính – Tiền tệ, Nhà

xuất bản Lao động Xã hội, TP.HCM

29. Văn Tạo (2009), “Cơ chế điều hành lãi suất mới đã phát huy tác dụng góp phần

kiềm chế lạm phát và chống suy giảm kinh tế”, Thị trường Tài chính Tiền tệ, (Số

274-275), tr. 40-43.

30. Vũ Hoài Chang (2011), “Cơ chế điều hành lãi suất thị trường tiền tệ của ngân hàng

trung ương”, Khoa học và đào tạo ngân hàng, (Số 4), tr. 15.

Website tham khảo

31. http://finance.tvsi.com.vn/News/2012810/213909/dieu-hanh-chinh-sach-tien-te-

hoc-duoc-gi-tu-ngan-hang-trung-uong-nhat-ban.aspx

32. Bách khoa toàn thư mở: http://vi.wikipedia.org

33. Thư viện dữ liệu điện tử của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF: http://elibrary-data.imf.org

34. Website Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam http://chinhphu.vn

35. Website Tổng Cục thống kê: www.gso.gov.vn

36. Website Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn