ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------

ĐỖ THỊ HIÊN

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA MẶT TRẬN DÂN

TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM THEO

CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG (1960-1975)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------

ĐỖ THỊ HIÊN

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA MẶT TRẬN DÂN

TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM THEO

CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG (1960-1975)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 60 22 03 15

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Quang Hiển

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc

Giải phóng miền Nam Việt Nam theo chủ trƣơng của Đảng (1960-1975)” là

công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu trong luận văn được sử dụng và chú

thích nguồn trung thực.

Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2015

Tác giả

Đỗ Thị Hiên

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Vũ Quang Hiển đã tận tâm định hướng

cho tôi ngay từ những ngày đầu thực hiện luận văn. Những góp ý, chia sẻ, nhận xét

của thầy là động lực và tiền đề quan trọng giúp tôi hoàn thành luận văn này. Đó

cũng là những bài học “làm người” cho tôi trong cuộc sống tương lai.

Tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình đã tạo điều kiện

cho tôi cả về vật chất và tinh thần. Trân trọng cảm ơn quý thầy cô trong và ngoài

khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã giúp tôi hoàn thành

khóa học. Chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên tôi trong suốt

thời gian tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình.

Tác giả

Đỗ Thị Hiên

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4

5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu .................................................. 5

6. Những đóng góp của luận văn ...................................................................... 5

7. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 6

Chƣơng 1. HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC

GIẢIPHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM TỪ THÁNG 12-1960 ĐẾN

THÁNG 5-1969 ................................................................................................ 7

1.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng ............................................... 7

1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử ........................................................................................................ 7

1.1.2. Chủ trương của Đảng và chính sách đối ngoại của Mặt trận ................................... 11

Chủ trương của Đảng .......................................................................................................... 11

1.2. Hoạt động đối ngoại của Mặt trận ............................................................ 20

1.2.1. Tuyên truyền, vận động nhân dân thế giới ủng hộ cách mạng miền Nam Việt Nam . 20

1.2.2. Đấu tranh ngoại giao trực diện với Mỹ trên bàn đàm phán Pari .............................. 39

Chƣơng 2. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT

NAMDUY TRÌ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI TỪ THÁNG 6-1969 ĐẾN

THÁNG 4-1975............................................................................................... 44

2.1 Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng .............................................. 44

2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử ...................................................................................................... 44

Tình hình trong nước ........................................................................................................... 46

2.1.2. Chủ trương của Đảng và chính sách của Mặt trận ................................................... 47

Chủ trương của Đảng .......................................................................................................... 47

2.2. Hoạt động đối ngoại của Mặt trận ............................................................ 54

2.2.1 Tuyên truyền, vận động nhân dân thế giới ủng hộ cách mạng Việt Nam và tăng cường

tình đoàn kết hữu nghị ......................................................................................................... 54

Nhân dân thế giới tiếp tục ủng hộ Mặt trận chống đế quốc Mỹ xâm lược .......................... 59

2.2.2 Hoạt động đối ngoại của Mặt trận hỗ trợ ngoại giao Nhà nước trên bàn đàm phán

Pari và đấu tranh thi hành Hiệp định Pari. ......................................................................... 68

Chƣơng 3. NHẬN XÉT CHUNG VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ .......... 75

3.1 Nhận xét chung ......................................................................................... 75

3.1.1. Ưu điểm ...................................................................................................................... 76

3.1.2. Hạn chế ...................................................................................................................... 83

3.2. Kinh nghiệm lịch sử ................................................................................. 89

KẾT LUẬN .................................................................................................. 100

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 104

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 115

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1. CTQG: Chính trị quốc gia

2. HN: Hà Nội

3. KHXH: Khoa học Xã hội

4. Nxb: Nhà xuất bản

5. Sđd: Sách đã dẫn

6. Tp: Thành phố

7. Tr: Trang

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, liên tiếp chống giặc

ngoại xâm để giành và giữ nền độc lập, tự do là đặc trưng nổi bật của dân tộc Việt

Nam. Đoàn kết chống xâm lăng đó là truyền thống vẻ vang của những người dân

đất Việt. Từ năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời khối đại đoàn kết dân tộc

càng được xây dựng và củng cố vững chắc hơn trong việc thành lập các mặt trận

đoàn kết toàn dân chống kẻ thù. Sức mạnh dân tộc tập hợp trong Mặt trận Việt

Minh đã đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong hai cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng và Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã huy động mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo dưới ngọn cờ cách mạng, tập

hợp trong Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam; tạo nên khối đại đoàn kết dân

tộc to lớn, vững chắc, cô lập cao độ kẻ thù, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến

toàn thắng.

Mặt trận là một vấn đề chiến lược, một trong những nhân tố đảm bảo thắng

lợi của cách mạng. Nhưng ở mỗi thời kỳ lịch sử, với hoàn cảnh khác nhau, yêu cầu,

nhiệm vụ khác nhau, Đảng có những hình thức mặt trận phù hợp.

Ngày 21-1-1954, Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ký kết,

nhưng bị đế quốc Mỹ và tay sai phá hoại. Cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân

tộc Việt Nam đứng trước những thử thách vô cùng khắc nghiệt. Trong lúc nhân dân

Việt Nam cần phải tiến hành một cuộc đấu tranh cách mạng để hoàn thành độc lập

và thống nhất đất nước, thì tình hình thế giới có những diễn biến rất phức tạp, nhất

là tác động của xu thế hòa hoãn đến các nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa.

Để thúc đẩy Cách mạng miền Nam tiến lên, đồng thời làm yên lòng bạn bè

quốc tế, cần phải có một giải pháp phù hợp để giải quyết mối quan hệ giữa chiến

tranh và hòa bình, giữa dân tộc và quốc tế, giữa đất nước và thời đại. Dưới ánh sáng

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) và

căn cứ vào hiện thực lịch sử miền Nam lúc đó, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền

Nam Việt Nam được thành lập ngày 20-12-1960 tại vùng căn cứ Tây Ninh. Đó là

một thắng lợi to lớn của cách mạng miền Nam khi mới từ thế giữ gìn lực lượng sang

1

thế tiến công.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam ra đời, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân miền Nam trong cuộc đấu tranh cứu

nước, đồng thời phải đảm đương cả chức năng chính quyền, thi hành những chính

sách đối nội và đối ngoại. Hoạt động đối ngoại là một nhiệm vụ được tiến hành

song song với cuộc đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị ở miền Nam Việt Nam.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố chính sách đối

ngoại “hòa bình và trung lập”. Chính sách này xuyên suốt quá trình quan hệ đối

ngoại giữa Mặt trận với nhân dân thế giới. Từ đó, Mặt trận không chỉ tranh thủ nhận

được sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cách mạng miền Nam; mà còn góp

phần làm trọn nghĩa vụ quốc tế. Chính bởi vậy, uy tín của Mặt trận ngày càng được

nâng cao và khẳng định trên trường quốc tế.

Sự ra đời và hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Việt Nam là một đặc điểm của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đây là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Vì thế tôi chọn đề tài: “Hoạt động đối

ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam theo chủ trương của

Đảng (1960-1975)” để làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản

Việt Nam.

2. Lịch sử nghiên cứu

Đã có một số công trình viết về Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam với nhiều cách tiếp cận khác nhau:

Cuốn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trong sự nghiệp

cách mạng Việt Nam, TS. Nguyễn Duy Hùng (Chủ biên), (NXB Chính trị Quốc gia,

HN, 2010). Nội dung cuốn sách là sự tập hợp, chọn lọc các bài nghiên cứu, các văn

kiện tiêu biểu về vị trí, vai trò và những đóng góp quan trọng của Mặt trận Dân tộc

giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại

của dân tộc.

Cuốn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1960-1977), Hà

Minh Hồng, Trần Nam Tiến, (NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, HCM,

2010). Cuốn sách phân tích và khẳng định tính tất yếu sự ra đời của Mặt trận Dân

tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, nhằm đoàn kết tập hợp các lực lượng, tầng lớp

yêu nước ở miền Nam, tiếp tục thực hiện chuyển thế chiến lược cho cách mạng

2

miền Nam. Ngọn cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã phất cao trên các chiến trường

miền Nam, hướng dẫn nhân dân đấu tranh trong cuộc chiến đấu một mất một còn

với chiến tranh thực dân mới của Mỹ và chế độ tay sai. Cuốn sách đã trình bày ngắn

gọn và đầy đủ về mặt trận giải phóng với những nội dung cơ bản về quá trình ra đời,

hoạt động và vai trò của mặt trận giải phóng.

Một số sách viết về lịch sử Đảng, lịch sử Việt Nam, lịch sử ngoại giao Việt

Nam và lịch sử cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước đề cập tới sự ra đời và hoạt

động của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam:

Cuốn “Ngoại giao Việt Nam 1945-2000”, Nguyễn Đình Bin (chủ biên),

(NXB Chính trị Quốc gia, HN, 2002). Đây là một công trình nghiên cứu khảo học

công phu của tập thể tác giả các nhà ngoại giao, các chuyên gia hàng đầu về quan hệ

quốc tế ở nước ta. Cuốn sách phác họa những nét chính hoạt động ngoại giao Việt

Nam trong năm mươi lăm năm từ 1945 đến 2000. Trên nền của đời sống chính trị,

kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế trong thời kỳ này, đồng thời gắn liền với quá

trình vận động của cách mạng nước ta, cuốn sách trình bày một cách hệ thống và

tổng hợp các sự kiện ngoại giao của Việt Nam. Cuốn sách đề cập các đặc điểm, tính

chất của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, những thành tựu chủ yếu trong hoạt

động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và ngoại giao nhân dân, đồng thời rút ra những

bài học kinh nghiệm trong hoạt động ngoại giao, những thành công và có cả một số

mặt tồn tại.

Cuốn “Ngoại giao Việt Nam trong cuộc đụng đầu lịch sử”, Nguyễn Phúc

Luân, (NXB Bộ Công an Nhân dân, HN, 2005). Kết hợp hài hòa cùng với đấu tranh

trên mặt trận chính trị, quân sự, tác giả đã thể hiện lại một cách khá đầy đủ những

đường lối, chính sách cũng như những cống hiến của Ngoại giao Việt Nam dưới sự

chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc

Mỹ…

Viết về Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam còn có một số bài

báo đăng trên các tạp chí khoa học như: Nguyễn Bình Minh, Mặt trận dân tộc Giải

phóng miền Nam Việt Nam, ngọn cờ đại đoàn kết, ngọn cờ tất thắng, Tạp chí

nghiên cứu lịch sử, số 57 (tháng 12-1963). Trần Huy Liệu, Vai trò của Mặt trận dân

tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến tranh yêu nước chống đế quốc

Mỹ và tay sai ở miền Nam nước ta hiện nay, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 69

3

(tháng 12-1964); Nguyễn Hoài, Từ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt

Nam đến Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Tạp chí

nghiên cứu lịch sử, số 153 (tháng 12-1973)…

Nhìn chung, những cuốn sách, bài viết trên với góc độ khác nhau đã đề cập

tới những vấn đề cơ bản là quá trình ra đời, hoạt động và vai trò của Mặt trận Dân

tộc Giải phóng đối với cách mạng miền Nam. Nhưng những tác phẩm đó chưa đề

cập một cách cụ thể và hệ thống về vấn đề hoạt động đối ngoại của Mặt trận theo

chủ trương của Đảng. Bởi vậy, từ góc độ lịch sử, kế thừa những công trình đã

nghiên cứu, được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của PGS.TS Vũ Quang Hiển tôi

đã đi sâu nghiên cứu vấn đề hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng

miền Nam Việt Nam theo chủ trương của Đảng (1960-1975).

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ hơn hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Việt Nam theo chủ trương của Đảng, từ đó bước đầu rút ra một số nhận xét và bài

học kinh nghiệm lịch sử.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Trình bày một cách có hệ thống hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc

Giải phóng miền Nam Việt Nam dưới chủ trương chỉ đạo của Đảng qua hai giai

đoạn: 1960 - 1969; 1969 - 1975 gắn với điều kiện lịch sử cụ thể và những kết quả

cụ thể.

- Khôi phục một cách khách quan các hoạt động đối ngoại chủ yếu của Mặt

trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Làm rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân hạn chế của quá trình Đảng

lãnh đạo hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

từ năm 1960 đến năm 1975.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Những chủ trương của Đảng Lao động Việt Nam trong quá trình lãnh đạo

và chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam từ năm 1960 đến năm 1975.

- Qúa trình hiện thực hóa những chủ trương của Đảng thông qua thực tiễn

4

hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Hoạt động đối ngoại của Mặt trận theo chủ trương của Đảng.

- Thời gian nghiên cứu vấn đề từ năm 1960 đến năm 1975. Bởi năm 1960 là

thời điểm thành lập Mặt trận và năm 1975 Mặt trận đã hoàn thành nhiệm vụ tập hợp

lực lượng, đấu tranh giải phóng miền Nam.

5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Nguồn tài liệu

- Luận văn dựa trên Văn kiện của Đảng, những cương lĩnh và văn kiện của

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

- Những cuốn sách liên quan và chuyên khảo tới hoạt động đối ngoại của

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

- Những bài viết đăng trên các tạp chí khoa học đề cập tới vấn đề; cùng

những bài viết đăng trên Báo Nhân dân - cơ quan ngôn luận của Đảng có nội dung

đề cập tới Đảng với hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền

Nam Việt Nam từ năm 1960 đến năm 1975.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn trọng sự thật

khách quan, nói rõ sự thật theo tinh thần của Đại hội VI của Đảng.

- Sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic chủ yếu nhằm trình bày

một cách có hệ thống, toàn diện các sự kiện lịch sử và thực tiễn lịch sử về vấn đề

Đảng với hoạt động đối ngoại của Mặt trận từ năm 1960 đến năm 1975.

- Ngoài ra còn có sử dụng một số phương pháp khác như tổng hợp, so sánh,

phân tích để đánh giá sự kiện và làm nổi bật vấn đề cần nghiên cứu.

6. Những đóng góp của luận văn

- Trình bày một cách có hệ thống và khách quan sự chỉ đạo của Đảng đối với

hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng

như các hoạt động đối ngoại của Mặt trận những năm 1960-1975.

- Đánh giá và rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử từ quá trình

Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

5

Việt Nam từ năm 1960 đến năm 1975.

- Cung cấp thêm một tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về lịch sử Đảng

và lịch sử đối ngoại Việt Nam.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn

được chia thành 3 chương:

Chương 1: Hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Việt Nam từ tháng 12- 1960 đến tháng 5-1969.

Chương 2: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam duy trì hoạt

động đối ngoại từ tháng 6-1969 đến tháng 4 - 1975.

6

Chương 3: Nhận xét chung và kinh nghiệm lịch sử.

Chương 1

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG

MIỀN NAM VIỆT NAM TỪ THÁNG 12-1960 ĐẾN THÁNG 5-1969

1.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trƣơng của Đảng

1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử

Tình hình thế giới

Xu hướng hòa bình – trung lập trên thế giới sau năm Chiến tranh thế giới thứ II.

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ II, nguyện vọng l ớn của nhân dân thế giới là

hòa bình. Xu hướng chung là giữ nguyên trạng châu Âu và nguyên trạng thế giới,

không làm thay đổi bàn cờ chính trị quốc tế.

Sau Chiến tranh thế giới thứ II, trên thế giới có nhiều quốc gia bị chia cắt

(Đức, Trung Quốc, Triều Tiên), nhưng do quan niệm cân bằng quyền lực, không ở

đâu có chủ trương đấu tranh cách mạng để thống nhất đất nước.

Trên thế giới lúc đó cũng xuất hiện xu hướng hoà bình, trung lập. “Các nước

theo chính sách trung lập, chính quyền thuộc về tay giai cấp tư sản, tuy cũng chống

đế quốc nhưng cũng không thích - thậm chí chống lại - phe xã hội chủ nghĩa”. Thái

độ cơ bản và lâu dài của họ là “dựa vào cả hai phe và lợi dụng cả hai phe”. “Tình

hình giằng co ấy trên thế giới không thể không ảnh hưởng đến tương quan lực

lượng ở miền Nam Việt Nam” [8, tr.1070].

Từ khi cuộc Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), thực chất là một cuộc đọ

sức giữa hai phe kết thúc mà không phân thắng bại, các nước lớn đều cho rằng

tương quan lực lượng quốc tế đang ở thế cân bằng. Xu thế hòa hoãn xuất hiện. Tiếp

sau Chiến tranh ở Triều Tiên, cuộc chiến tranh ở Đông Dương (1945-1954) chấm

dứt, làm cho những điểm nóng ở châu Á có liên quan tới các nước lớn và hai phe

tạm thời được giải quyết, nhưng trên thế giới chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang

vẫn diễn ra gay gắt. Ở châu Âu, hình thành hai liên minh quân sự và kinh tế đối lập

nhau. Hai nhà nước Đức ra đời.

Hệ thống Xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển.

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phe xã hội chủ nghĩa hình thành và được

củng cố, những năm 50 của thế kỷ XX, các nước đều tập trung thực hiện những kế

hoạch kinh tế - xã hội dài hạn, thiết lập liên minh chính trị - kinh tế (Hội đồng tương

7

trợ kinh tế - SEV) và liên minh quân sự (Khối Hiệp ước phòng thủ Varsava). Phong

trào giải phóng dân tộc ngày càng dâng cao ở các nước Á, Phi và Mỹ latinh. Cuộc

đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ diễn ra liên tiếp ngay tại các nước tư bản

chủ nghĩa.

Trung Quốc tập trung thực hiện kế hoạch 5 năm và giải quyết những công

việc nội bộ, e ngại việc Mỹ có thể tiếp tục can thiệp vào khu vực, làm cho tình hình

căng thẳng và đe dọa an ninh của Trung Quốc. Trung Quốc tích cực giúp đỡ Việt

Nam trong công cuộc xây dựng miền Bắc, nhưng chưa thể ủng hộ đấu tranh vũ

trang ở miền Nam. Theo Trung Quốc, Hiệp định Giơnevơ đã tạo ra tiền đề chính trị

tốt hơn cho Việt Nam so với tình hình Đức và Triều Tiên, và Việt Nam đã giành

được thế chủ động. Miền Bắc có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội và thông qua đấu

tranh lâu dài để ảnh hưởng và tranh thủ miền Nam.

Cũng như Trung Quốc, Liên Xô giúp Việt Nam thực hiện các kế hoạch ba

năm 1955-1957 và 1958-1960 ở miền Bắc, nhưng không ủng hộ đấu tranh vũ trang

ở miền Nam. Khơrútsốp chủ trương “thi đua hòa bình”, hòa hoãn với Mỹ, trong lúc

Mỹ đang nhảy vào thay chân Pháp ở miền Nam Việt Nam, cùng thời điểm xảy ra

những vụ bạo động ở Ba Lan và Hunggari (1956). Đại hội XX của Đảng Cộng sản

Liên Xô (1956) nhận định: 1- Tất cả các cuộc xung đột trên thế giới đều có thể giải

quyết bằng cách thương lượng hòa bình, 2- Phong trào cách mạng trong nhiều nước

có thể tiến triển hòa bình được. Đại hội đề ra đường lối “tam hòa” (“cùng tồn tại

hòa bình”, “quá độ hòa bình”, “thi đua hòa bình”).

Trọng tâm chiến lược của Liên Xô lúc đó là châu Âu, tập trung củng cố

Đông Âu. Vì lợi ích của mình, Liên Xô coi nhiệm vụ chiến lược hàng đầu là thực

hiện hòa hoãn Đông - Tây, tránh đối đầu với Mỹ, giữ nguyên trạng châu Âu và

nguyên trạng thế giới, tranh thủ vốn và kỹ thuật của Mỹ và các nước phương Tây,

tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên Xô lo ngại sự

phát triển của phong trào giải phóng dân tộc cản trở hòa hoãn, ảnh hưởng đến mục

tiêu chiến lược của Liên Xô.

Điều đáng chú ý là vào những năm 1954-1959, Liên Xô quan hệ với Việt

Nam có phần dè dặt, thận trọng hơn so với các nước khác. Trong một thời gian dài

các phương tiện thông tin đại chúng của Liên Xô không trực tiếp lên án những hành

động của chính quyền Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam. Chủ

8

trương của Liên Xô là giữ nguyên trạng Việt Nam; tập trung xây dựng miền Bắc

vững mạnh để động viên đấu tranh chính trị, giải quyết vấn đề miền Nam thông qua

con đường thương lượng hòa bình.

Mặc dù trong phe xã hội chủ nghĩa có những bất đồng, nhưng vẫn còn giữ

được sự thống nhất, đặc biệt là vấn đề bảo vệ hòa bình, vì càng tranh thủ giữ vững

hòa bình được lâu dài thì càng có điều kiện thuận lợi để tăng cường mau chóng lực

lượng. Tháng 11-1957, Hội nghị 64 Đảng Cộng sản họp tại Matxcơva, tổng kết các

quy luật của chủ nghĩa xã hội, ra tuyên bố kêu gọi nhân dân thế giới đấu tranh

chống nguy cơ chiến tranh. Tuyên bố của Hội nghị nêu rõ: “Ngày nay, đấu tranh

cho hoà bình và cho sự chung sống hoà bình đã trở thành yêu cầu của những tầng

lớp quần chúng đông đảo nhất ở tất cả các nước trên thế giới. Các đảng cộng sản coi

cuộc đấu tranh cho hoà bình là nhiệm vụ hàng đầu của mình. Cùng tất cả các lực

lượng yêu chuộng hoà bình, các đảng cộng sản sẽ làm tất cả mọi việc theo khả năng

của mình để ngăn ngừa chiến tranh” [37, tr.622].

Trong lúc Mỹ công khai tuyên bố ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản lan xuống

Đông Nam Á; xu thế hoà bình, trung lập phát triển ở nhiều nơi, cả Liên Xô và

Trung Quốc đều lo sợ “đốm lửa cháy rừng”, chiến tranh nổ ra ở miền Nam Việt

Nam có thể lan rộng thành chiến tranh thế giới. Điều đó sẽ rất nguy hiểm. Vì thế hai

nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa đều thuyết phục Việt Nam chấp nhận sự chia

cắt đất nước lâu dài.

Sự bất đồng trong phe Xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là quan hệ Xô – Trung.

Tình hình thế giới cũng có những diễn biến rất phức tạp. Bất đồng giữa một số

Đảng cộng sản và công nhân quốc tế ngày càng sâu sắc và bộc lộ công khai, nhất là

bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc.

Sự mất đoàn kết trong nội bộ phe xã hội chủ nghĩa, nhất là mâu thuẫn Trung

- Xô được Mỹ lợi dụng triệt để nhằm phá hoại phong trào cách mạng thế giới, chia

rẽ, gây mất ổn định chính trị và làm suy yếu lực lượng chủ nghĩa xã hội, đồng thời

hạn chế sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô và Trung Quốc đối

với Việt Nam, nơi đang diễn ra cuộc đấu tranh chống sự xâm lược của Mỹ. Trong

tình hình đó, Việt Nam không thể trông chờ vào sự đồng thuận trong phe xã hội chủ

nghĩa như một sự hợp sức, thống nhất hành động giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Vấn

9

đề lúc đó chỉ có thể là tranh thủ sự giúp đỡ của từng nước.

Tình hình trong nước

Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi với

chiến dịch Điện Biên Phủ và sự ký kết Hiệp đinh Giơnevơ về Đông Dương (21-7-

1954). Ranh giới quân sự tạm thời là vĩ tuyến 17, thời hạn tổng tuyển cử là hai năm.

Nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác

nhau. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng kinh tế,

phát triển văn hóa theo hướng chủ nghĩa xã hội, củng cố và tăng cường an ninh -

quốc phòng, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Lẽ ra sau hai năm,

khi quân Pháp rút hết khỏi miền Nam, nhân dân Việt Nam sẽ Tổng tuyển cử thống

nhất đất nước. Nhưng Mỹ đã vào thay chân Pháp, chia cắt lâu dài nước Việt Nam,

biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt thân Mỹ, nằm trong “thế giới tự do”,

đối lập với “phe cộng sản”.

Đế quốc Mỹ trở thành đối tượng trực tiếp của cách mạng Việt Nam. Mục

tiêu trực tiếp của Mỹ trong việc can thiệp vào Việt Nam và tiến hành cuộc chiến

tranh dài ngày nhất trong lịch sử nước Mỹ là xóa bỏ một chế độ chính trị trong hệ

thống thế giới mới đang hình thành. “Chính quyền Aixenhao kiên quyết tạo dựng

miền Nam Việt Nam thành một quốc gia mà sau này sẽ là thành trì chống chủ nghĩa

cộng sản và làm cơ sở để chứng minh cho “nền dân chủ” ở châu Á” [53, tr.52-56].

Thực hiện ý đồ của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm khước từ hiệp thương tổng

tuyển cử với miền Bắc để thống nhất đất nước, tổ chức “trưng cầu dân ý”, phế truất

Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên vị trí tổng thống, tổ chức bầu cử riêng rẽ ở miền

Nam, thành lập cái gọi là “Việt Nam cộng hoà”.

Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm tập trung mọi lực lượng, vừa dụ dỗ, lừa

bịp, vừa đàn áp, khủng bố quần chúng bằng nhiều thủ đoạn thâm độc; thi hành

chính sách “tố cộng”, “diệt cộng”, lập “khu trù mật”, “khu dinh điền” nhằm đánh

vào cơ sở của Đảng Cộng sản, trả thù những người yêu nước, nhất là những người

tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây và những gia đình có người

thân đi tập kết ở miền Bắc.

Đất nước bị chia cắt, ước mơ của nhân dân Việt về gia đình được đoàn tụ sau 2

năm với cuộc tổng tuyển cử tự do, bị chế độ thực dân mới chôn vùi. Lòng uất hận căm

thù của nhân dân Việt Nam nói chung, nhân dân miền Nam nói riêng đối với đế quốc

10

Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngày càng “dâng cao như núi”, “tràn đầy như biển cả”.

Đế quốc Mỹ và tay sai chẳng những xâm chiếm miền Nam, mà còn ráo riết

chuẩn bị “Bắc tiến”, phá hoại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.

Vì vậy, Mỹ và chính quyền Sài Gòn chẳng những là kẻ thù của nhân dân miền Nam

đang bị chúng thống trị, mà còn là kẻ thù chung của nhân dân miền Bắc đã được

giải phóng, của cả dân tộc Việt Nam.

Việc thi hành những điều khoản của Hiệp định Giơnevơ về ranh giới quân sự

tạm thời, thực hiện tập kết, chuyển quân làm so sánh lực lượng ở miền Nam thay

đổi không có lợi cho cách mạng. Do những chính sách khủng bố tàn bạo của đế

quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam nói chung,

nhân dân miền Nam nói riêng với đế quốc Mỹ và tay sai ngày càng phát triển gay

gắt, đòi hỏi phải có một biện pháp quyết liệt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên.

Tình thế cách mạng cho cuộc khởi nghĩa từng phần ở miền Nam đã chín

nguồi, dưới ánh sáng của Nghị quyết 15, cuối năm 1959 và đầu năm 1960 phong

trào Đồng khởi bùng nổ. Phong trào đã làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở địch ở

nhiều vùng nông thôn. Thắng lợi của phong trào Đồng khởi đã làm lung lay tận gốc

rễ bộ máy chính quyền của chủ nghĩa thực dân mới, chuyển cách mạng miền Nam

từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, đánh dấu bước nhảy vọt về chất của

phong trào cách mạng miền Nam.

1.1.2. Chủ trương của Đảng và chính sách đối ngoại của Mặt trận

Chủ trương của Đảng

Trước tình hình đất nước tạm thời chia làm hai miền, cách mạng Việt Nam

bước vào thời kỳ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: đấu tranh để hoàn thành cách

mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Lúc này Đảng khẳng định: Mũi nhọn đấu tranh chĩa vào đế quốc Mỹ, kẻ thù

chính của nhân dân thế giới, kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt Nam. Cuộc

đấu tranh cách mạng của nhân dân hai miền Nam, Bắc trong giai đoạn mới là bộ

phận của xu hướng đấu tranh cho mục tiêu thời đại, vì hòa bình, độc lập dân tộc,

dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Trước tình hình mới trên thế giới và những biến động ở trong nước, tháng 1-

1959, Ban Chấp Hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 15, ra Nghị quyết có

11

ý nghĩa lịch sử đối với cách mạng miền Nam.

Trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15 (khóa II) họp từ ngày

12 đến 22-1-1959 (đợt 1), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Ban Chấp hành Trung

ương phải có đối sách đặc biệt tế nhị, khéo léo và mềm mỏng trước mọi sức ép rất

nặng nề từ nhiều phía trên thế giới đối với Đảng ta lúc đó [37, tr.22].

Ngay sau Hội nghị 15, Ban Bí thư Trung ương Đảng gửi cho Xứ ủy Nam Bộ

bản Chỉ thị và nêu rõ: “Nam Bộ có thể và phải lập căn cứ địa cách mạng để xây

dựng và xúc tiến phong trào cách mạng… tiến tới làm nơi trung tâm hoạt động của

Mặt trận dân tộc thống nhất để nêu cao ngọn cờ giải phóng cứu nước, đánh đổ Mỹ -

Diệm” [37, tr.516].

Nghị quyết 15 chỉ rõ phương hướng và yêu cầu ở miền Nam: “Đảng phải đẩy

mạnh công tác dân vận, tiến tới thành lập một Mặt trận dân tộc thống nhất chống

Mỹ - Diệm thật rộng rãi lấy liên minh công nông làm cơ sở, bao gồm tất cả những

lực lượng yêu nước ở miền Nam, tranh thủ mọi người có thể tranh thủ được, ngay

cả những phần tử có khuynh hướng chống Mỹ - Diệm trong chính quyền của đối

phương” [37, tr.85-86].

Trung ương Đảng chủ trương: “Củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất,

hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước là nhiệm vụ chung của toàn Đảng và

toàn dân ta. Nhưng vì nhiệm vụ cơ bản của mỗi miền khác nhau, cho nên nhiệm vụ,

tính chất, thành phần Mặt trận ở mỗi miền có chỗ khác nhau. Vì vậy, cần có Mặt

trận riêng cho miền Nam” [37, tr.87]. “Mặt trận ở miền Nam phải có một bản

Cương lĩnh cụ thể, và phải đề ra những khẩu hiệu thiết thực, phù hợp với tình hình

từng nơi, từng lúc để động viên và tập hợp quảng đại quần chúng, thống nhất hành

động chống Mỹ - Diệm trong mọi trường hợp cụ thể từ thấp đến cao”. “Mặt trận

miền Nam tuy là riêng cho miền Nam, không nằm trong Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, nhưng phải cùng thực hiện mục tiêu chung với Mặt trận Tổ quốc là nhằm xây

dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và

thực tế do Đảng ta lãnh đạo” [37, tr.89].

Tiếp thu Nghị quyết 15, Xứ ủy Nam Bộ đã họp Hội nghị vào tháng 11-

1959, bày tỏ hoàn toàn tin tưởng đường lối cách mạng do Trung ương vạch ra, tin

tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ

Chí Minh. Đối với vấn đề Mặt trận Dân tộc thống nhất, Nghị quyết Hội nghị nhất

12

trí với chủ trương của Trung ương và nhấn mạnh thêm: “Không ngừng củng cố và

mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ - Diệm. Muốn củng cố và mở

rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ - Diệm phải ra sức củng cố khối công

nông liên minh. Vì phong trào công nông mạnh mẽ bao nhiêu thì tạo điều kiện

thuận lợi cơ bản cho việc củng cố mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhứt chống Mỹ

- Diệm bấy nhiêu” [37, tr.997].

Tháng 9-1960, Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động

Việt Nam được triệu tập. Nghị quyết nêu rõ nội dung cơ bản của chính sách đối

ngoại là: ra sức góp phần tăng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa, tăng

cường sự đoàn kết nhất trí và củng cố tình hữu nghị không gì lay chuyển nổi giữa

nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, phát triển quan hệ hợp tác tương trợ

với các nước anh em theo những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản; kiên

quyết đấu tranh để góp phần bảo vệ và củng cố hòa bình, chống chính sách xâm

lược và gây chiến của đế quốc Mỹ; ra sức ủng hộ phong trào đấu tranh của nhân dân

các nước Á, Phi và Mỹ la tinh chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc; kiên

quyết đấu tranh làm cho Hiệp nghị Giơnevơ về Đông Dương được thi hành đầy đủ

nhằm duy trì hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á; tăng cường quan hệ hữu

nghị giữa Chính phủ và nhân dân Việt Nam với Chính phủ và nhân dân các nước

yêu chuộng hòa bình.

Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh: Để đảm bảo cuộc đấu tranh cách mạng ở

miền Nam giành được toàn thắng, “nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam

là: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây

chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ,

thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập

dân tộc, các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình,

thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo

vệ hòa bình ở Đông - Nam Á và thế giới... Để bảo đảm cho cuộc đấu tranh cách

mạng ở miền Nam giành được toàn thắng, đồng bào ta ở miền Nam cần ra sức xây

dựng khối công nông binh liên hợp và thực hiện một mặt trận dân tộc thống nhất

rộng rãi chống Mỹ - Diệm lấy liên minh công nông làm cơ sở. Mặt trận này phải

đoàn kết các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, dân tộc đa số, các dân tộc thiểu số,

các đảng phái yêu nước và các tôn giáo, và tất cả những người có khuynh hướng

13

chống Mỹ - Diệm. Mục tiêu phấn đấu của mặt trận này là hòa bình, độc lập dân tộc,

tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Công tác mặt trận

phải nhằm đoàn kết tất cả những lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ bất cứ lực

lượng nào có thể tranh thủ, trung lập những thế lực cần phải trung lập, thu hút đông

đảo quần chúng nhân dân vào phong trào đấu tranh chung chống Mỹ - Diệm nhằm

giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc” [38, tr.916].

Như vậy, chủ trương về thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất ở miền

Nam đã sớm được thống nhất trong chỉ đạo của Trung ương và Đảng bộ miền

Nam. Chủ trương này xuất phát từ thực tiễn cách mạng miền Nam sau Hiệp định

Giơnevơ, được Hội nghị Trung ương và Đại hội toàn quốc của Đảng bàn bạc,

đưa vào nghị quyết, hình thành đường lối chỉ đạo thực tiễn. Đó là nhận thức và

định hướng quan trọng đưa đến sự ra đời Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Việt Nam.

Trước tình hình diễn biến nhanh ở miền Nam, ngày 10-11-1960, Bộ Chính trị

gửi Điện chỉ đạo Xứ ủy Nam Bộ và Liên khu V “phải ra cương lĩnh mặt trận Dân

tộc Giải phóng miền Nam, có thể lấy tên là phong trào dân tộc giải phóng miền

Nam, nếu thấy thích hợp” [38, tr.1014].

Ngày 12-11-1960, Bộ Chính trị gửi tiếp bức điện số 20-NB chỉ đạo: “Cần

phải đưa Mặt trận giải phóng ra ngay không cần chờ nhân sự. Trong tình hình hiện

nay chưa cần công bố toàn bộ cương lĩnh Mặt trận mà chỉ nêu ra những điểm chính

trong cương lĩnh để có tiếng nói chính đáng của ta trong cơ hội này. Để kịp thời

lãnh đạo quần chúng và tập hợp dư luận dưới ngọn cờ của Mặt trận, cần ra hiệu

triệu vắn tắt về chế độ thối nát của Mỹ - Diệm và tình hình nghiêm trọng hiện nay,

nhiệm vụ lịch sử của Mặt trận và một số khẩu hiệu lớn” [38, tr.1019].

Ngày 16-11-1960, Ban Bí thư gửi tiếp Điện cho Xứ ủy Nam Bộ chỉ rõ: “nên

đưa Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam ra bằng cách như sau: Cho ra bản

Tuyên ngôn với các khẩu hiệu lớn…; Tuyên ngôn ký tên là Mặt trận dân tộc giải

phóng miền Nam hay một tên nào khác thích hợp hơn… không ký tên Ban vận

động hay đại diện Ban vận động…; Khi có Tuyên ngôn ra rồi và kèm theo cương

lĩnh Mặt trận… cử người của Ban Mặt trận ở mỗi nơi; Sau này ta sẽ triệu tập đại

biểu mặt trận các nơi và một số người các giới bên trên… và thành lập Ban Mặt trận

14

Trung ương…” [38, tr.1023-1024].

Khi Hoa Kỳ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, chuyển sang chiến lược chiến

tranh cục bộ, tình hình đất nước có những thay đổi mới. Ban chấp hành Trung ương

Đảng họp hội nghị lần thứ 11 (3/1965), lần thứ 12 (12/1965) ra nghị quyết với

nhiệm vụ ngoại giao hai miền thời kỳ này là: “tranh thủ đến cao độ sự đồng tình và

ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, của các dân tộc Á, Phi, Mỹ La tinh và của

nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Mỹ” [43, tr.640].

Mở màn cho cục diện “đánh và đàm” cũng như cho mặt trận đấu tranh ngoại

giao là Nghị quyết Trung ương lần thứ 13 (23-26 tháng giêng năm 1967). Đây là

nghị quyết về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự

nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam. Nghị quyết khẳng định:

“Chúng ta tiến công địch về ngoại giao bây giờ là đúng lúc vì ta đã và đang thắng

địch, thế của ta là thế mạnh… Trước mắt, chúng ta cần tập trung vào khẩu hiệu đòi

Mỹ phải chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn việc ném bom và mọi hành động

chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [43,tr. 174-176].

Những thắng lợi mới của nhân dân ta ở trên cả hai miền đất nước đã tạo ra

những khả năng mới để đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao. Tình thế đã đến lúc cho

phép ta mở mặt trận đấu tranh ngoại giao để tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của

nhân dân thế giới và nhân dân tiến bộ Mỹ, cô lập hơn nữa đế quốc Mỹ. Từ ngày 23

đến ngày 26-1-1967, BCH TƯ Đảng tổ chức Hội nghị lần thứ 13, chủ trương đẩy

mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ,

cứu nước của nhân dân ta.

Hội nghị chủ trương: “Để thực hiện quyết tâm chiến lược của ta, trên cơ sở

tiếp tục phát huy những thắng lợi đã giành được, chúng ta phải ra sức đẩy mạnh đấu

tranh quân sự và chính trị ở miền Nam. Đi đôi với đấu tranh quân sự và chính trị ở

miền Nam, ta cần tiến công địch về mặt ngoại giao, phối hợp với hai mặt trận đấu

tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa”. Hội nghị đã vạch rõ vị trí của đấu tranh

ngoại giao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trong giai đoạn trước

mắt: đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết

định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao.

Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành

được trên chiến trường. Tuy nhiên đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản

15

ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tình

chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan

trọng, tích cực và chủ động” [43, tr.174].

Hội nghị vạch ra ba phương châm của đấu tranh ngoại giao là phát huy thế

thắng, thế mạnh của ta; chủ động tiến công địch; giữ vững tính độc lập, đồng thời

phối hợp chặt chẽ với các nước xã hội chủ nghĩa an em.

Tháng Giêng năm 1968, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương

thông qua Nghị quyết của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam tháng 12-1967 phát

động Tổng tấn công và nổi dậy tế Mậu thân: Nhiệm vụ chủ yếu của hoạt động quốc tế

và công tác ngoại giao là phối hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu tranh quân sự với

đấu tranh chính trị trong nước, tích cực phục vụ cho cuộc tổng công kích, tổng khởi

nghĩa giành thắng lợi. Công tác ngoại giao của ta nhằm tiến công địch trong lúc

chúng đang lúng túng, bị động cả về quân sự và chính trị, đồng thời mở đường cho

địch đi vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta. Phải chuẩn bị những phương

án cần thiết để khi tình hình bắt buộc địch phải thương lượng với ta thì ta có thể luôn

luôn giữ vững thế chủ động trong quá trình đàm phán [8, tr.514].

Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia tại bàn đàm

phán Pari, Bác chủ trương “phải vạch trần luận điệu bịp bợm của Johnson, đẩy

mạnh tuyên bố của Nguyễn Cao Kỳ và Phạm Đăng Lâm, phải tuyên truyền nhiều

cho đoàn của Mặt trận” [8, tr.80].

Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 4/1969 chỉ rõ: “Ngoại giao đã trở thành một mặt

trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược”. Ngày 10-5-1969, Nghị quyết Hội nghị lần thứ

16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III nhấn mạnh: “Trên thế mạnh, thế thắng

về quân sự, chính trị, ta đang chủ động tiến công địch trên mặt trận ngoại giao, buộc

địch phải chịu vừa đánh vừa đàm, bị động ngồi lại nói chuyện với miền Bắc, rồi phải

nói chuyện với cả Mặt trận dân tộc giải phóng trong Hội nghị Bốn bên ở Pari. Trong

đấu tranh ngoại giao, cần phối hợp tiến công quân sự và chính trị” [8, tr.522]

Chính sách đối ngoại của Mặt trận

Trước hoàn cảnh lịch sử mới trên thế giới và tình hình trong nước, đặc biệt là

thắng lợi của phong trào Đồng Khởi, theo chủ trương của Đảng, ngày 20-12-1960,

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã ra đời.

Trước tình hình trong và ngoài nước, cuối năm 1960, Xứ ủy Nam Bộ họp

16

bàn việc xúc tiến việc thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất [77, tr.39]. Trên cơ sở

chủ trương và chỉ đạo của Trung ương, đồng chí Nguyễn Văn Linh - Bí thứ Xứ ủy

Nam Bộ nhất trí đề nghị lấy tên Mặt trận là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Việt Nam”. Về mục tiêu của Mặt trận, Xứ ủy nhất trí nêu mục tiêu hòa bình, thống

nhất, độc lập dân chủ, cơm no, áo ấm cho nhân dân, nhưng sáng tạo thêm vấn đề

hòa bình, trung lập cho phù hợp với xu hướng hòa bình trung lập trên thế giới lúc

ấy, đáp ứng yêu cầu của một số người trong các tầng lớp trung gian, trí thức, tư sản,

nhân sĩ yêu nước, cũng như có thể làm cho một số nước ở Đông Nam Á không quá

bức xúc.

Tối ngày 19-12-1960, tại Suối Chò, xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây

Ninh, đại biểu các giai cấp, các đảng phái, các tôn giáo, các dân tộc toàn miền Nam

họp Hội nghị để giải quyết nhiều công việc về thành lập Mặt trận Dân tộc Giải

phóng miền Nam Việt Nam. Hội nghị kéo dài từ 20 giờ đến 1 giờ sáng ngày 20-12-

1960 thì kết thúc với lời tuyên bố long trọng: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền

Nam Việt Nam đã được thành lập.

Ngay sau khi ra đời, Mặt trận đã nhanh chóng trở thành một thực thể chính

trị, đại diện cho nguyện vọng của nhân dân cả nước, đặc biệt là nhân dân miền Nam

Việt Nam. Cùng với thắng lợi trong cuộc đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận và

hoạt động ngoại giao, Mặt trận đã thực sự trở thành ngọn cờ lãnh đạo trực tiếp cuộc

chiến tranh cách mạng miền Nam, nhất là trong thời kỳ chống “chiến tranh đặc biệt”

và trong giai đoạn đầu của chiến tranh xâm lược cục bộ của đế quốc Mỹ.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời với mục đích:

“thực hiện độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình trung lập ở miền Nam,

tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà” [102, tr.1]. Sự ra đời của Mặt trận là một

bước ngoặt hết sức quan trọng đối với cách mạng miền Nam nói riêng và sự nghiệp

thống nhất đất nước nói chung. Đó là người đại diện chân chính duy nhất của 14

triệu nhân dân miền Nam Việt Nam.

Chỉ khi có một chính sách đối ngoại sáng tạo thì Mặt trận mới tranh thủ được

sự ủng hộ của nhân dân thế giới. Sự ủng hộ của nhân dân thế giới đóng một vai trò

quan trọng trong sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam, một nhân tố để lá cờ của

Mặt trận bay cao trên bầu trời quốc tế. Để làm tốt nhiệm vụ đó, Mặt trận đã linh

hoạt bổ sung chính sách đối ngoại mỗi khi hoàn cảnh lịch sử có sự thay đổi. Sự thay

17

đổi đó thể hiện qua: bản Tuyên ngôn, Chương trình hành động 10 điểm (năm 1960);

tuyên bố năm điểm của Mặt trận (năm 1965); Cương lĩnh chính trị (năm 1967)...

nhưng vẫn theo đường lối chiến lược của mặt trận là: „thực hiện chính sách ngoại

giao hòa bình, trung lập”.

Ngày 20-12-1960, Mặt trận đã thông qua bản Tuyên bố và Chương trình

hành động 10 điểm. Bản Tuyên ngôn viết: “Ngày nay, phong trào hòa bình, dân

chủ, độc lập dân tộc đang sôi nổi khắp thế giới. Chủ nghĩa thực dân đang dần tan rã

không gì cứu vãn được, thời kỳ mà bọn đế quốc tha hồ cướp bóc và nô dịch các dân

tộc đã qua rồi. Tình hình đó hết sức thuận lợi cho cuộc đấu tranh để giải phóng

miền Nam khỏi sự xâm lược của đế quốc Mỹ và bọn tay sai. Nhân dân yêu chuộng

hòa bình và tiến bộ trên Thế giới ủng hộ chúng ta. Chúng ta có chính nghĩa, có sức

mạnh đoàn kết phi thường của nhân dân, nhất định chúng ta sẽ thắng. Đế quốc Mỹ

cướp nước và tập đoàn Ngô Đình Diệm bán nước nhất định sẽ thất bại. Sự nghiệp

giải phóng miền Nam nhất định thành công”[4, tr.14].

Bản tuyên bố đề cao vai trò của nhân dân thế giới đối với cách mạng miền

Nam Việt Nam. Tuy nhiên để nhận sự được ủng hộ đó Mặt trận Dân tộc Giải phóng

cần ra sức thực hiện những nhiệm vụ quốc tế: “Chống chiến tranh xâm lược và tất

cả các hình thức nô dịch của đế quốc. Ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân

tộc của nhân dân các nước; Chống tuyên truyền chiến tranh. Đòi tổng giải trừ quân

bị, cấm vũ khí hạt nhân, sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình;

Ủng hộ phong trào đấu tranh hòa bình, dân chủ và tiến bô xã hội trên thế giới. Tích

cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và tiến bộ trên thế giới” [134, tr.1-

2]. Đây là điểm thứ 10 trong Chương trình 10 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải

phóng miền Nam Việt Nam. Bằng điểm này và bằng mọi hoạt động của mình, Mặt

trận đã hòa vào thế giới như là một bộ phận khăng khít, sau trở thành một bộ phận

đi đầu trong phong trào dân tộc giải phóng, hòa bình dân chủ và tiến bộ xã hội.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời với Cương lĩnh 10 điểm đã

giúp nhân dân thế giới hiểu được nguyện vọng của nhân dân Việt Nam từ Nam chí

Bắc là: “độc lập và thống nhất”. Mỹ có chấm dứt xâm lược thì mới có độc lập và

có độc lập thì mới thống nhất đất nước được. Để tranh thủ dư luận rộng rãi của nhân

dân thế giới và làm rõ thêm nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, Cương lĩnh Mặt

trận nhấn mạnh đến chủ trương ngoại giao hòa bình, độc lập, trung lập và tiến tới

18

hòa bình thống nhất Tổ quốc. Từ đó, ở nhiều nước trên thế giới bắt đầu biết đến lá

cờ nửa đỏ, nửa xanh, ngôi sao vàng ở giữa và cũng từ đó, đội quân đối ngoại của

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam có mặt hầu như ở khắp nơi, tại

các hội nghị quốc tế, các diễn đàn gặp gỡ và giao lưu, các cuộc mít tinh đoàn kết

với Việt Nam.

Để thích ứng với hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong và ngoài nước, ở những thời

gian lịch sử cần thiết, Mặt trận lại có sự bổ sung, hoàn thiện hơn các chính sách của

mình. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 11, ngày 22-3-1965, Mặt

trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra Tuyên bố năm điểm. Tuyên bố này kết hợp

với Tuyên bố bốn điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 8-4-1965

là cơ sở vững chắc để đấu tranh ngoại giao với kẻ thù, là ngọn cờ để triệu tập sự ủng

hộ quốc tế. Bản tuyên bố năm điểm viết: “Nhân dân miền Nam biết ơn sâu sắc sự

ủng hộ nhiệt tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới và

tuyên bố sẵn sàng tiếp nhận mọi sự giúp đỡ, kể cả vũ khí và mọi dụng cụ chiến

tranh của bạn bè khắp năm châu” [102, tr. 1].

Năm 1967, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ chủ trì Đại hội bất thường Mặt trận

Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam để thảo luận và thông qua Cương lĩnh chính

trị nhằm liên hiệp hành động với mọi lực lượng có thể liên hiệp được, tranh thủ sự

đồng tình ủng hộ rộng rãi hơn nữa, tạo sức mạnh tiếp tục đưa cuộc kháng chiến chống

Mỹ, cứu nước của nhân dân ta tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn hơn. Cương lĩnh

chính trị ghi rõ: “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thi hành chính

sách ngoại giao hòa bình và trung lập, bảo đảm độc lập, chủ quyền, thống nhất và

toàn vẹn lãnh thổ của nước nhà và giữ gìn hòa bình thế giới” [33, tr1-4].

Bước vào giai đoạn “vừa đánh, vừa đàm”, ngày 3-11-1968, Mặt trận Dân tộc

Giải phóng công bố giải pháp 5 điểm: 1. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Việt Nam phấn đấu thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, phồn vinh tiến

tới thống nhất tổ quốc; 2. Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân khỏi

miền Nam Việt Nam; 3. Công bố nội bộ miền Nam Việt Nam phải do nhân dân

miền Nam Việt Nam tự giải quyết theo Cương lĩnh Mặt trận Dân tộc Giải phóng,

không có sự can thiệp của nước ngoài, thành lập chính phủ dân tộc, dân chủ rộng rãi

để tổ chức tổng tuyển cử tự do ở miền Nam; 4. Việc thống nhất Việt Nam sẽ do

19

nhân dân hai miền giải quyết từng bước, bằng biện pháp hòa bình, nước ngoài

không được can thiệp; 5. Miền Nam Việt Nam thực hiện chính sách ngoại giao hòa

bình trung lập [71, tr.1-4].

Trước những biến động của tình hình trong nước và thế giới, dưới sự lãnh

đạo của Đảng Lao động Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam đã ra đời và thực hiện chính sách ngoại giao: hòa bình, trung lập.

Những văn bản chính trị của Mặt trận vừa ra đời đã được sự hưởng ứng rộng rãi

ở trong nước và sớm có tiếng vang trên trường quốc tế. Những khẩu hiệu, chính sách

ngoại giao của Mặt trận đã có sức tập hợp mạnh mẽ nhân dân thế giới ngay từ đầu.

Kể từ đây, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trở thành người đại diện

chân chính duy nhất, ngọn cờ công khai đoàn kết, tập hợp lực lượng nhân dân trong

nước và trên thế giới tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi

hoàn toàn.

Trên cơ sở những chính sách đối ngoại đã đề ra, theo chủ trương của Đảng,

Mặt trận triển khai cuộc vận động quốc tế rộng lớn, bền bỉ nhằm tố cáo tội ác chiến

tranh của đế quôc Mỹ, làm cho chính phủ và nhân dân các nước Á, Phi, Mỹ Latinh,

các nước trong Phong trào Không liên kết và những người có thiện chí ở phương

Tây hiểu được cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, ủng hộ Việt Nam chống đế

quốc Mỹ xâm lược.

1.2. Hoạt động đối ngoại của Mặt trận

Trong hoàn cảnh miền Nam Việt Nam bị đế quốc Mỹ xâm lược, cùng với sự

biến động của tình hình thế giới: phong trào giải phóng dân tộc lên cao, xu hướng

hòa bình đang được nhân loại ủng hộ, Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam đã tiến hành vận động nhân dân thế giới ủng hộ cách mạng miền Nam Việt

Nam bằng cách tổ chức những đoàn đại biểu Mặt trận đi thăm các nước trên thế

giới, tố cáo tội ác của Mỹ trước dư luận và kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân thế giới.

1.2.1. Tuyên truyền, vận động nhân dân thế giới ủng hộ cách mạng miền

Nam Việt Nam

Trước một kẻ thù hùng mạnh là đế quốc Mỹ, trong một bầu không khí sợ Mỹ

phổ biến trên thế giới, điều cần thiết với cách mạng miền Nam Việt Nam là phải tạo

lập được một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam đánh Mỹ để tập hợp dư

20

luận và cô lập Mỹ về chính trị và tinh thần.

Nhằm mục đích đó, trước tiên cần cho thế giới biết ở miền Nam Việt Nam có

một đại diện chân chính là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặt

trận sẽ thực hiện chính sách đối ngoại để kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân thế giới

tới cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam.

Ngay sau khi ra đời, Mặt trận đã cử nhiều đoàn đại biểu đi thăm các nước

anh em, bạn bè, dự nhiều hội nghị quốc tế, đưa tiếng nói chính nghĩa của nhân dân

miền Nam đang chiến đấu tới các diễn đàn, các cơ quan thông tấn báo chí quốc tế,

tới đông đảo nhân dân thế giới, đồng thời nêu cao lập trường chiến đấu của nhân

dân miền Nam là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn tay sai của Mỹ

ở miền Nam Việt Nam, thực hiện độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình

trung lập ở miền Nam Việt Nam, tiến tới thống nhất đất nước. Đặc biệt thông qua

những chuyến đi thăm Mặt trận đã giới thiệu Tuyên bố, Chương trình hoạt động 10

điểm, Tuyên bố năm điểm, Cương lĩnh chính trị.... Đoàn đại biểu của Mặt trận tới

các nước còn nhằm mục đích tố cáo tội ác của Mỹ trước dư luận quốc tế, đồng thời

kêu gọi nhân dân thế giới ủng hộ cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam.

Mặt trận cử đại biểu đi thăm các nước và tham dự những hội nghị quốc gia,

khu vực và thế giới. Đến năm 1965, 80 đoàn đại biểu của Mặt trận Dân tộc Giải

phóng miền Nam Việt Nam đã đi thăm và dự kỷ niệm ở hơn 50 nước. Riêng trong 11

tháng đầu năm 1965, đã có 31 đoàn đi thăm và dự kỷ niệm ở 24 nước. Trong hai năm

1966 -1967, Mặt trận đã có 65 đoàn đại biểu đi dự các hội nghị quốc tế, khu vực và

các quốc gia khác. Nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa đã đón tiếp các đại biểu Mặt

trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam như đón tiếp những chiến sĩ thân yêu

từ tiền tuyến trở về. Nhân dân các nước Á, Phi, Mỹ La-tinh đã đón tiếp các đại biểu

Mặt trận như đón tiếp những người bạn chiến đấu kiên cường, bất khuất đang đứng ở

đầu sóng ngọn gió trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân

cũ và mới. Những chiến sĩ yêu chuộng hòa bình, tự do trong các nước tư bản đã chào

mừng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam như chào mừng những

người đang bảo vệ một cách kiên quyết nhất công lý và tiến bộ [8].

Mặt trận tham gia vào những Hội nghị khu vực và thế giới. Theo số liệu tổng

kết năm 1965, đã có 45 đoàn đại biểu của Mặt trận và các đoàn thể trong Mặt trận

đã đi dự các hội nghị quốc tế, tiêu biểu như: Hội nghị luật gia dân chủ Á-Phi, Hội

21

nghị kinh tế các nước Á-Phi, Hội nghị nhân dân Đông Dương, Hội nghị Ba Châu...

Trong các chuyến thăm, đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền

Nam Việt Nam đã tố cáo mạnh mẽ đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam. Hiệp định

Giơnevơ năm 1954 vừa được ký kết, đế quốc Mỹ đã xúc tiến âm mưu biến miền

Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự, sử dụng quân địch

và chính quyền tay sai khủng bố tàn khốc cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân

miền Nam Việt Nam. Để chống lại những âm mưu đó của đế quốc Mỹ, quân và dân

miền Nam Việt Nam không chỉ đấu tranh trên các phương diện quân sự, chính trị,

văn hóa, kinh tế… với kẻ thù mà còn đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, thể hiện trong

những hoạt động của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam: lên án, tố

cáo những hành động phi chính nghĩa của đế quốc Mỹ trước nhân loại; lên án

những quốc gia cùng với đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam…

Ngày 22-3-1965, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra tuyên bố

5 điểm, lên án hành động chiến tranh mới của đế quốc Mỹ: “đế quốc Mỹ là kẻ phá hoại

Hiệp định Giơ-ne-vơ, là kẻ gây chiến và xâm lược cực kỳ thô bạo” [4,tr.102].

Tháng 3-1967, Mặt trận Dân tộc Giải phóng cực lực lên án và tố cáo trước

dư luận trong và ngoài nước cuộc hội họp nhằm đẩy mạnh chiến tranh xâm lược của

bè lũ Giôn-xơn và tay sai tại Gu-am với tất cả tính chất nghiêm trọng của nó trong

tình hình hiện tại [99, tr.4].

Với việc tố cáo trước dư luận quốc tế tội ác của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến

tranh miền Nam Việt Nam, Mặt trận mong muốn nhận được sự giúp đỡ của thế giới

nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, đảm bảo hòa bình cho

Đông Nam Á và cho toàn thế giới. Từ đây cũng khẳng định với bạn bè thế giới cuộc

chiến tranh ở miền Nam Việt Nam là cuộc đấu tranh chính nghĩa.

Lên án những quốc gia cùng với đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam: Trong cuộc

chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam nói riêng và ba nước Đông Dương nói

chung Mỹ đã lôi kéo quân của các nước đồng minh như Nam Triều Tiên, Thái Lan,

Úc,… tham gia. Bởi vậy trong quá trình đấu tranh tố cáo Mỹ trước nhân loại thế giới,

Mặt trận cũng đấu tranh với những nước đồng minh của Mỹ, giúp thế giới nhận thấy

sự nguy hiểm của cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

Ngày 20-7-1964, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố:

“Đối với những nước đang bị Mỹ lôi kéo dưới hình thức này hay hình thức khác vào

22

cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam cho rằng sự tham gia của họ bất cứ dưới hình thức nào cũng đều là hoạt động

xâm lược đầy tội ác đối với nhân dân miền Nam Việt Nam, có tội với nhân dân nước

mình, với nhân dân yêu chuộng tự do và công lý trên thế giới”. Mặt trận Dân tộc Giải

phóng miền Nam Việt Nam “nghiêm khắc lên án và cảnh cáo những kẻ đồng lõa với

Mỹ và báo trước rằng những nước nào “vác cờ” vào Việt Nam tiếp sức cho Mỹ để

giết hại nhân dân miền Nam Việt Nam cuối cùng cũng sẽ thất bại” [98, tr.1-3].

Ngày 19-8-1965, Ban liên lạc đối ngoại của Ủy ban Trung ương Mặt trận

Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra tuyên bố về việc bọn tay sai Mỹ ở Nam

Triều Tiên quyết định đưa thêm 15.000 lính đánh thuê vào Việt Nam. Bản tuyên bố

nêu rõ: “Bất chấp sự phản đối ngày càng quyết liệt của nhân dân Triều Tiên và nhân

dân thế giới… nhà cầm quyền Nam Triều Tiên dưới gậy chỉ huy của Mỹ đã đem

xương máu thanh niên Nam Triều Tiên đổi lấy chút đô la và vũ khí Mỹ hòng bám

lâu dài vào địa vị thống trị ở Nam Triều Tiên, áp bức lâu dài và bóc lột nhân dân

Nam Triều Tiên. Hành động trên của bọn Pắc Chung Hi không những chỉ là một

thách thức thô bạo đối với nhân dân Triều Tiên, nhân dân Việt Nam và nhân dân

yêu chuộng công lý, hòa bình trên thế giới mà còn là một sự vi phạm trắng trợn tinh

thần và lời văn của Hiệp định Giơnevơ về Việt Nam; là một sự cố ý chà đạp có hệ

thống chủ quyền và độc lập của nhân dân miền Nam Việt Nam, rõ ràng là một hành

động thù địch với dân tộc Việt Nam; nhân dân Việt Nam không thể dung thứ được.

Ban liên lạc Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thấy cần

lên tiếng tố cáo, lên án trước dư luận thế giới hành động xâm lược mới này của bọn

Pắc Chung Hi và bù nhìn Mỹ ở Nam Triều Tiên” [63, tr.4].

Tháng 8-1966, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra tuyên bố

về cái gọi là “Hội nghị các nước châu Á về việc giải quyết hòa bình vấn đề Việt

Nam” do bọn cầm quyền phản động tay sai Mỹ ở Thái Lan, Phi-lip-pin và Ma-lay-

xi-a đứng ra triệu tập theo lệnh Mỹ vào năm 1966. “Chúng hô hào “người châu Á

giải quyết vấn đề châu Á” nhưng thực chất là thực hiện âm mưu cổ truyền của đế

quốc Mỹ “lấy người châu Á chống người châu Á”. Chính vì vậy Mặt trận Dân tộc

Giải phóng miền Nam Việt Nam “kiên quyết vạch mặt và lên án âm mưu vừa tăng

cường vừa mở rộng chiến tranh, vừa rêu rao hòa bình bịp bợm của đế quốc Mỹ và

23

bè lũ chư hầu của chúng…” [92, tr.4].

Mục đích lên án, tố cáo tội ác của Mỹ và đồng minh của Mỹ là nhằm cho

nhân dân thế giới thấy được bộ mặt thật của bọn xâm lược, từ đó kêu gọi sự ủng hộ

và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước.

Với chính sách ngoại giao “hòa bình, trung lập” Mặt trận đã nhận được sự

ủng hộ của đông đảo nhân dân thế giới. Và để khẳng định hơn nữa sự cần thiết của

việc nhân dân thế giới ủng hộ miền Nam Việt Nam, trong cuộc đấu tranh chống đế

quốc Mỹ, Mặt trận đã liên tục kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới.

Trong lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam gửi

đến các Chính phủ, các dân tộc trên thế giới tháng 6-1961, Mặt trận nêu rõ: “Vì

nguyện vọng tha thiết, chính đáng và thiêng liêng của dân tộc Việt Nam chúng tôi,

vì an ninh, hạnh phúc chung của các dân tộc Đông Dương, châu Á và toàn Thế giới,

chúng tôi khẩn cấp báo động và kêu gọi hết thảy các dân tộc và các Chính phủ yêu

chuộng hòa bình, độc lập, tự do đặc biệt là ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ Latinh;

chúng tôi khẩn cấp báo động và kêu gọi hết thảy những nhân sĩ quan tâm đến công

lý và giàu lòng nhân đạo, hãy cực lực lên án âm mưu, lời nói và hành động thực dân

gây chiến, xâm lược của bọn cầm quyền Mỹ đối với miền Nam Việt Nam. Hãy gấp

rút có thái độ và biện pháp tích cực, cương quyết ngăn chặn và chấm dứt việc bọn

cầm quyền Mỹ tăng cường can thiệp vũ trang vào miền Nam Việt Nam. Hãy kịp

thời dập tắt lò lửa chiến tranh ở miền Nam Việt Nam do bọn cầm quyền Mỹ nhen

nhóm và ráo riết đổ thêm dầu, đe dọa an ninh và hạnh phúc không những của dân

tộc Việt Nam mà của cả các dân tộc ở xung quanh khu vực này và trên khắp thế

giới” [110, tr.2]. Bản kêu gọi là lời tuyên bố sự chính nghĩa của Mặt trận Dân tộc

Giải phóng miền Nam Việt Nam ở miền Nam Việt Nam, đồng thời kêu gọi sự ủng

hộ của nhân dân toàn thế giới.

Ngày 24-3-1965, Ban Đối ngoại Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Việt Nam ra tuyên bố kêu gọi chính phủ và nhân dân các nước trên Thế giới, các tổ

chức và nhân sĩ yêu chuộng hòa bình, nhân đạo trên thế giới “hãy lên tiếng kết án

tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ và buộc chính phủ Mỹ đình chỉ ngay những hành

động chiến tranh ở Việt Nam” [102, tr.4].

Những lời kêu gọi của Mặt trận nhằm vận động nhân dân thế giới ủng hộ

cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, phản đối giặc Mỹ xâm lược, đòi Mỹ phải

24

thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Giơ-ne-vơ, phải rút quân về nước và công nhận

Mặt trận là đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam. Những lời kêu

gọi đó hướng tới tất cả nhân dân thế giới từ những nước xã hội chủ nghĩa anh em,

những nước độc lập dân chủ, cho tới những nước tư bản và nhân dân Mỹ.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam không ngừng đẩy mạnh

các hoạt động đối ngoại, gắn cuộc chiến tranh cứu nước của nhân dân Việt Nam với

phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ trên thế giới. Cùng với

việc tố cáo đế quốc Mỹ, kêu gọi nhân loại nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc

tế đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, đồng thời Mặt trận

cũng bày tỏ sự đoàn kết với nhân dân các nước trong cuộc đấu tranh vì hòa bình,

độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc gây

chiến; ủng hộ mạnh mẽ cuộc kháng chiến của nhân dân Cam-pu-chia, nhân dân Lào

cùng nhân dân các nước châu Á, châu Phi, khu vực Mĩ Latinh… Từ đó tăng cường

thêm tình đoàn kết của Mặt trận với các dân tộc trên khắp năm châu.

Cương lĩnh của Mặt trận nhấn mạnh đường lối đối ngoại hòa bình và trung

lập, khẳng định quyết tâm cùng nhân dân các nước chống bọn đế quốc hiếu chiến,

giữ gìn hòa bình thế giới.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lãnh đạo nhân dân chống

Mỹ cũng góp phần vào sự nghiệp bảo vệ hòa bình thế giới. Đồng chí Bôian

Bungarinốp, Ủy biên Bộ chính trị, Bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản

Bungari, Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Bungari trong buổi tiếp ông

Huỳnh Phan, trưởng đoàn đại diện thường trực Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền

Nam Việt Nam tại Bungari đã nói: “cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt

Nam chống bọn Mỹ xâm lược là một đóng góp to lớn trong cuộc đấu tranh chung

của các dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc và ách nô lệ thực dân, vì độc lập dân tộc,

vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên toàn thế giới” [17, tr.1].

Phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam chống Mỹ là tuyến đầu trong

phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mỹ La tinh.

Mặt trận tuyên bố: “triệt để ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân

và chính phủ Inđônêxia nhằm đập tan khối “Đại Mã lai”; ủng hộ cuộc đấu tranh

chính nghĩa của nhân dân và chính phủ Trung Quốc nhằm giải phóng Đài Loan; ủng

hộ nhân dân và chính phủ Triều Tiên giành hòa bình, thống nhất đất nước; ủng hộ

25

cuộc đấu tranh của nhân dân Nhật Bản đòi thu hồi quần đảo Ôkinaoa và đấu tranh

cho một nước Nhật Bản độc lập, tự do… Mặt trận khẳng định nhân dân Việt Nam

nguyện đem hết sức mình góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung chống chủ nghĩa

đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, của nhân dân các nước ở Đông Nam Á và châu Á

đến thắng lợi hoàn toàn…

Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ nhân dân Cônggô, Ănggôla và các nước khác ở

châu Phi đấu tranh để giành và củng cố độc lập, bảo vệ hòa bình ở khu vực này và

trên thế giới. Chúng tôi hết lòng ủng hộ cuộc đấu tranh anh hùng của nhân dân Cuba

dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Thủ tướng Phiđen Catxtơrô chống mọi âm mưu xâm

lược của đế quốc Mỹ và tin tưởng sắt đá rằng nhân dân Cu-ba bất khuất sẽ giành

được thắng lợi rực rỡ và đứng vững mãi mãi trên hòn đảo tự do ở Tây bán cầu.

Chúng tôi sẽ luôn luôn đứng bên cạnh nhân dân các nước Vênêduêla, Puectô Ricô,

Urugoay và các nước khác ở khu vực Mĩ Latinh trong cuộc đấu tranh giành quyền

độc lập, tự do của mình” [103, tr.4].

Tháng 1-1964 Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam lên án đế quốc Mỹ

đàn áp nhân dân Panama [93, tr.4].

Tháng 7-1964, tại một nơi trong vùng giải phóng miền Nam Việt Nam, Ủy

ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tổ chức cuộc mít

tinh kỷ niệm ngày 26-7 của nhân dân Cu Ba và phát động “Tuần ủng hộ Cu Ba”.

Mặt trận “nghiêm khắc lên án những hành động khiêu khích Cu Ba, yêu cầu trao trả

ngay cho nhân dân Cu Ba căn cứ Guantanamô, một phần lãnh thổ Cu Ba”. Ông

Trần Bạch Đẳng nhấn mạnh: “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

hoàn toàn nhất trí và kiên quyết ủng hộ Cu Ba…” [97, tr.4].

Ngày 19-9-1966, người phát ngôn ban liên lạc đối ngoại trực thuộc Ủy ban

Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã lên án Mỹ bắn

phá lãnh thổ Trung Quốc: “Ngày 9-9-1966, máy bay Mỹ đã xâm phạm vùng trời

huyện Đông Hưng thuộc khu tự trị Choang (Quảng Tây), Trung Quốc, bắn phá bừa

bãi gây thiệt hại về người và tài sản cho nhân dân vùng này… Mặt trận Dân tộc Giải

phóng vô cùng căm phẫn và cực lực lên án hành động khiêu khích chiến tranh thô

bạo này của đế quốc Mỹ”. Mặt trận nêu rõ: “Nhân dân và các lực lượng vũ trang

giải phóng miền Nam Việt Nam nguyện sát cánh cùng với nhân dân và Quân giải

phóng nhân dân Trung Quốc anh em, kiên quyết đánh bại mọi âm mưu và hành

26

động chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ để hoàn toàn giải phóng miền Nam Việt

Nam, tiến tới thống nhất nước Việt Nam, góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Dương,

châu Á và thế giới” [94, tr.4].

Năm 1966, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đưa ra luận điệu Quân giải phóng

miền Nam Việt Nam dùng đất Campuchia làm căn cứ Cách mạng và chúng tiến

hành khiêu khích quân sự và xâm phạm biên giới lãnh thổ Campuchia. Trước những

hành động đó, Mặt trận Dân tộc Giải phóng “kịch liệt lên án và bác bỏ những luận

điệu vu khống bỉ ổi vô căn cứ của Mỹ - ngụy đối với Campuchia… Mặt trận kiên

quyết ủng hộ nhân dân Khơme anh em đang anh dũng đấu tranh chống đế quốc can

thiệp và xâm lược, nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền và lãnh thổ toàn vẹn” [95, tr.4].

Như vậy, cùng với việc lãnh đạo nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược,

Mặt trận đã cùng với nhân dân các nước trên thế giới tham gia vào cuộc đấu tranh

cho thế giới hòa bình và độc lập dân tộc.

Nhân dân thế giới ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

chống đế quốc Mỹ xâm lược

Tất cả những hành động nói trên là sự cụ thể hóa của đường lối đối ngoại

“Hòa bình và trung lập” của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam theo

sự lãnh đạo của Đảng. Những hành động thiết thực đó cùng với chiến lược đối

ngoại sáng tạo, Mặt trận đã tập hợp được lực lượng quốc tế, tranh thủ được sự ủng

hộ dư luận thế giới, tăng cường sức mạnh cho cuộc chiến đấu của nhân dân miền

Nam và cô lập kẻ thù.

Chính bởi vậy, lá cờ chính nghĩa của các mạng miền Nam ngày càng tung bay

phấp phới trên trường quốc tế. Từ năm 1960 đến tháng 6-1969, đi đôi với những

chiến thắng vang dội của các lực lượng vũ trang Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền

Nam Việt Nam liên tiếp thu được những thắng lợi lớn lao trong hoạt động quốc tế của

mình. Vị trí pháp lý của Mặt trận trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.

Uy tín, ảnh hưởng của Mặt trận không ngừng lớn mạnh khắp năm châu.

Sự ủng hộ của nhân dân thế giới tới Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

đã hình thành một mặt trận rộng lớn. Phong trào ủng hộ với nhiều hình thức cùng

những nội dung thể hiện khác nhau.

Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1945 được ký kết, nhân dân thế giới đã sớm

lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh vì hòa bình, thống nhất và dân chủ của nhân dân

27

Việt Nam. Nhưng mới đầu phong trào còn lẻ tẻ, rời rạc. Phải đợi đến khi Mặt trận

Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập, với chủ trương đối ngoại đúng

đắn, phong trào nhân dân thế giới chống Mỹ ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của

nhân dân miền Nam mới phát triển mạnh mẽ và trở thành một phong trào rộng rãi.

Phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Việt Nam, ủng hộ nhân dân Việt Nam đánh Mỹ, hình thành từ năm 1962 đã nhanh

chóng lan rộng và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Phong trào lan ra từ các nước

Đông Dương, các nước xã hội chủ nghĩa đến các nước tư bản, các nước dân tộc độc

lập và trải rộng khắp các châu lục.

Chính sách đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam,

người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam đã góp phần to lớn thu

hút nhân dân thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh ở Việt Nam. Trước tiên là các nước xã

hội chủ nghĩa. Các nước xã hội chủ nghĩa gắn bó với nước Việt Nam bằng mối tình

đồng chí và tình anh em ruột thịt, hết lòng ủng hộ và giúp đỡ nhân dân ta đánh

thắng giặc Mỹ xâm lược. Đó chính là nhân dân Liên Xô, Trung Quốc, Cu Ba,

Bungari, Hunggari, Tiệp Khắc... Đồng chí Bôian Bunraranốp, Ủy ban Bộ chính trị,

Bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Bungari, Chủ tịch Ủy ban Trung

ương Mặt trận Tổ quốc Bungari nhấn mạnh: “Mặt trận Tổ quốc và toàn thể nhân

dân Bungari tiếp tục ủng hộ đầy đủ nhân dân Việt Nam mỗi khi được yêu cầu” [17,

tr.1]. Trong dịp Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng sang Liên Xô dự Đại

hội giải trừ quân bị và hòa bình thế giới, đồng chí Gaphurốp đã nói với Giáo sư

Nguyễn Văn Hiếu rằng: “Nhiệm vụ của chúng tôi ủng hộ các bạn là nhiệm vụ

thiêng liêng trong cuộc đấu tranh chống bọn đế quốc quốc tế”.

Nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, nhân dân

Lào và Neo Lào Hắcxạt long trọng tuyên bố sẽ tăng cường ủng hộ nhân dân Việt

Nam anh em ở cả hai miền bằng cách cùng nhau tăng cường đoàn kết và phối hợp

chiến đấu chặt chẽ hơn nữa để đánh bại hoàn toàn quân xâm lược Mỹ và bè lũ tay

sai, hoàn thành thắng lợi cự nghiệp chống Mỹ, cứu nước vẻ vang của dân tộc, góp

phần bảo vệ hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á.

Trong phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Mặt trận, ủng hộ cách mạng Việt

Nam ngoài các nước xã hội chủ nghĩa còn có các nước dân tộc chủ nghĩa ở châu Á,

châu Phi và khu vực Mỹ la tinh. Bởi vì những khu vực này đang là nơi có phong

28

trào đấu tranh chống Mỹ mạnh mẽ và không ít dân tộc đang chống lại ách nô dịch

của bọn đế quốc. Vì vậy hơn ai hết, họ dễ và sớm tìm thấy sự thông cảm với cuộc

đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam và tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh đó.

Mặt khác họ cũng tìm thấy ở cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam những bài học

kinh nghiệm, những vần đề cấp thiết đang đề ra trước mắt họ. Từ những nước láng

giềng như Campuchia, Lào đến Miến Điện, Ấn Độ, Malaixia, Inđônêxia... ở châu Á;

từ các nước xa xôi ở châu Phi như: Angiêri, Ma rốc, Ănggôla, Công gô, Mô dăm

bích... đến Vênêduêla, Pêru, Urugoay và cả Tân đảo bé nhỏ Goađơlúp nằm trên Đại

Tây Dương... đều không ngừng lên tiếng ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng, nhân

dân miền Nam, lên án tội ác của đế quốc Mỹ.

Qua thời gian, uy tín của Mặt trận ngày càng được nâng cao trên trường quốc

tế, bản chất của giặc Mỹ ngày càng được nhân loại biết đến. Bởi vậy lực lượng tham

gia chống đế quốc Mỹ, ủng hộ cuộc chiến tranh của nhân dân miền Nam dưới sự

lãnh đạo của Mặt trận ngày càng mở rộng.

Phong trào nhân dân thế giới chống Mỹ ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng

miền Nam Việt Nam không chỉ lôi cuốn được nhân dân lao động và tầng lớp thanh

niên - những lực lượng đi hàng đầu của phong trào mà còn lôi cuốn được nhiều

người trong tầng lớp trung gian, tầng lớp trên, kể cả những nhà hoạt động xã hội và

chính trị tiến bộ, những nhà hoạt động khoa học, văn nghệ, giáo dục nổi tiếng. Dẫn

chứng cho điều này là sự ủng hộ của những luật gia dân chủ quốc tế, sinh viên Úc,

các nhà khoa học thế giới, các nhà văn Á-Phi...

Phong trào còn diễn ra ở các địa bàn xung yếu, nơi hậu phương an toàn của

Mỹ, ở những nước “đồng minh” tin cậy đang tích cực ủng hộ Mỹ như Anh, Nhật,

Tây Đức, Cannađa, hay những nước “chư hầu” trung thành đang góp công vào mưu

đồ xâm lược của Mỹ như Úc, Philíppin... các nước này cũng đã không tán thành

cuộc chiến tranh phi nghĩa của đế quốc Mỹ và lên án chính phủ Mỹ, ủng hộ Mặt

trận Dân tộc giải phóng miền Nam.

Mặt trận nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt từ các tầng lớp trong nhân dân Mỹ

như: sinh viên Mỹ, nhà báo Mỹ, các nhà Bác học, tổ chức thanh niên, phụ nữ Mỹ...

Nếu trong cuộc kháng chiến chống Pháp 1945-1954, Việt Nam tìm và nhận được sự

ủng hộ của nhân dân và dư luận Pháp chống đế quốc Pháp, thì giờ đây trong cuộc

kháng chiến chống Mỹ, Mặt trận tìm và nhận được sự ủng hộ của dư luận Mỹ. Dư

29

luận của nhân dân chính quốc là một trong những nhân tố quan trọng không chỉ góp

phần tăng cường mặt trận thế giới ủng hộ miền Nam Việt Nam mà còn nhanh chóng

đưa tới những thắng lợi cuối cùng trong cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam

Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Với một lực lượng hùng hậu và toàn diện như vậy, đế quốc Mỹ bị cô lập trên

trường quốc tế. Trái ngược với đế quốc Mỹ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

đã tranh thủ được đông đảo sự ủng hộ nhân dân thế giới.

Từ đó, phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Mặt trận không ngừng lớn mạnh

trên phương diện số lượng cũng như chất lượng. Đến cuối năm 1968 đầu năm 1969,

hầu như không một Chính phủ tiến bộ nào là không lên án Mỹ, không một ngày nào

không có tin ở nước này hay nước khác ủng hộ Việt Nam và không một Hội nghị

Quốc tế nào dù có hay không có đại diện của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền

Nam mà lại không bàn đến tình hình Việt Nam. Ngay cả những nước về hoàn cảnh

địa lý, lịch sử rất xa xôi với Việt Nam như: Thủy Điển, Phần Lan, nhân dân Nam

Tư... cũng ủng hộ Việt Nam. Phong trào nhân dân thế giới chống Mỹ ủng hộ Mặt

trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã hình thành một mặt trận rộng rãi, tập hợp

được những lực lượng chống đế quốc giành và bảo vệ độc lập, bảo vệ hòa bình, đấu

tranh cho dân chủ và tiến bộ xã hội. Mặc dù đế quốc Mỹ tìm mọi cách phá hoại hoạt

động ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam nói riêng và Việt Nam nói

chung chống Mỹ của các tổ chức chính trị, đoàn thể quần chúng trong một nước đến

các hội nghị khu vực và Hội nghị quốc tế nhưng không được.

Những hình thức và nội dung nhân dân thế giới ủng hộ Mặt trận rất phong phú.

Có nhiều hình thức khác nhau như: viết thư tới Mặt trận, tổ chức mít tinh,

biểu tình và ra tuyên bố ủng hộ Mặt trận. Nội dung hướng tới về cả mặt tinh thần và

vật chất: lên án Mỹ, đòi Mỹ thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, sẵn sàng

đưa quân sang miền Nam giúp nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai,

gửi thuốc men, trang phục, gạo và tiền tới Mặt trận và đặt niềm tin vào sự toàn

thắng của nhân dân miền Nam Việt Nam... Mọi hành động ủng hộ diễn ra bắt đầu từ

những lời nói tới những hành động cụ thể.

Nhân dân thế giới ủng hộ qua thư từ, bức điện: Từ khi Mặt trận Dân tộc Giải

phóng miền Nam Việt Nam ra đời đã nhận được rất nhiều điện, thư chúc mừng

nồng nhiệt từ nhiều nơi trên thế giới. Đó là những vị đứng đầu Nhà nước, những

30

chính đảng, những phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ

la tinh, các tổ chức hòa bình dân chủ quốc tế và quốc gia, các ủy ban đoàn kết với

Việt Nam, những tổ chức của nhân dân Mỹ chống chiến tranh xâm lược Việt Nam

và những nhân sĩ tiến bộ trên thế giới... tới Mặt trận. Những bức thư, điện đó được

gửi đến liên tục trong năm nhưng nhiều và sôi nổi hơn vào những ngày mang tính

chất kỷ niệm: như ngày 20-7, 1-5, 20-12... Những bức thư được gửi đến từ những

quốc gia láng giềng gần gũi như Trung Quốc, Lào, Campuchia... tới những nước xa

xôi như Angiêri, Bungari... và cả nhân dân Mỹ. Thông qua thư, điện nhân dân thế

giới bày tỏ sự ủng hộ hoàn toàn đối với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Việt Nam. Hội nghị công đoàn quốc tế với lao động và nhân dân A-đen đã thông

qua bức thư gửi nhân dân Việt Nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Nhân dân thế giới tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình: Với quy mô ngày

càng lớn, với tinh thần bền bỉ và mạnh mẽ. Trong những hình thức đấu tranh mà

nhân dân ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, thì mít tinh,

biểu tình là hình thức diễn ra rầm rộ và liên tục nhất, đặc biệt là vào những dịp kỷ

niệm, như ngày của Việt Nam đoàn kết với thế giới, ngày thành lập Mặt trận Dân

tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, ngày 1-5, ngày 20-7... Đến năm 1965, đã có

hàng chục vạn những cuộc mít tinh, biểu tình chống Mỹ đã nổ ra khắp năm châu

làm rung chuyển hơn 40 sứ quán Mỹ trên thế giới [135, tr.4].

Nhân dân thế giới ngày càng chú ý theo dõi cuộc đấu tranh của nhân dân

Nam Việt Nam với mối tình cảm nồng nhiệt. Hàng năm, lễ kỷ niệm ngày thành lập

Mặt trận (20-12) đã được tổ chức trọng thể ở nhiều nước, những cuộc mít tinh biểu

tình diễn ra mạnh mẽ. Năm 1962 có 87 cuộc, 1963 có 95 cuộc, và 1964 có 130 cuộc

[102, tr.3]. Đặc biệt, Hội nghị quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam, chống đế

quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ hòa bình, họp ở Hà Nội cuối tháng 11-1964, đã quyết

định lấy ngày 20-12, ngày kỷ niệm thành lập Mặt trận, làm ngày đoàn kết của nhân

dân thế giới với nhân dân Nam Việt Nam cho đến khi nào nhân dân Nam Việt Nam

giành được thắng lợi cuối cùng [102, tr.3].

Nhân dân Ý, Bỉ, Tây Đức... và nhiều nước khác đã từng rước cờ Mặt trận

trong những cuộc biểu tình chống Mỹ sôi sục của mình [135, tr.4].

Tháng 7-1968, thanh niên cộng sản Anh và nhân dân Anh họp mít tinh tại

Quảng trường Tơ-ra-phan-ga ở thủ đô Luân-đôn, ủng hộ nhân dân Việt Nam chống

31

đế quốc Mỹ xâm lược... Toàn thể cuộc mít tinh đã biến thành một cuộc biểu tình

kéo đến sứ quán Mỹ. Đoàn biểu tình giương cao cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng

miền Nam Việt Nam. Họ vừa đi vừa hô lớn: “thắng lợi thuộc về Mặt trận Dân tộc

Giải phóng miền Nam Việt Nam! Chấm dứt ném bom” [17, tr.4].

Thành công lớn trong hoạt động đối ngoại là các nước đặt quan hệ ngoại giao

với Mặt trận Dân tộc Giải phóng: Có thể nói hoạt động đối ngoại của Mặt trận được

đề ra từ năm 1960, nhưng thực sự bắt đầu là từ năm 1962. Và đến năm 1969, Mặt trận

đã đặt quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới. Các tổ chức quốc tế, quốc gia

đã đặt quan hệ ngoại giao với Mặt trận thông qua việc: đồng ý cho Mặt trận đặt cơ

quan đại diện thường trực, Mặt trận tham gia những Hội nghị mang tính chất quốc

gia, khu vực và quốc tế, nhân dân thế giới và Mặt trận ra tuyên bố chung chống Mỹ.

Đến năm 1965, Mặt trận đã có quan hệ với 44 nước trên thế giới [102, tr.3].

Mặt trận đặt cơ quan đại diện thường trực tại các nước: Để phát triển mối

quan hệ hữu nghị và tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân miền Nam Việt Nam và

nhân dân các nước trên thế giới, nhiều nước đã tạo điều kiện cho Mặt trận Dân tộc

Giải phóng miền Nam Việt Nam đặt ban đại diện thường trực tại đất nước họ. Đến

năm 1965, Mặt trận đã đặt cơ quan đại diện thường trực tại tám nước ở bốn châu

(Cu Ba, Angiêri, Tiệp Khắc, Cộng hòa dân chủ Đức, Inđônêxia, Liên Xô, Trung

Quốc, Hunggari). Các nước Bungari, Ba-lan và Rumani cũng đã mời Mặt trận đặt

cơ quan đại diện thường trực ở nước mình. 11 nước trên đây bao gồm hơn một

nghìn triệu dân... Ở nhiều nước tuy Mặt trận chưa có cơ quan đại diện thường trực

nhưng nhiều vị đứng đầu Nhà nước và Chinh phủ cũng đã bày tỏ cảm tình sâu sắc

đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Nam Việt Nam, xem những vị

lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam như những vị lãnh đạo

Nhà nước và Chính phủ, và đón tiếp những đại biểu của Mặt trận đến thăm nước

mình một cách nhiệt tình, trang trọng, như những đại sứ chân chính của miền Nam

anh hùng [135, tr.3].

Trong những năm tiếp theo (từ năm 1966 đến tháng 6-1969) Mặt trận tiếp tục

đặt ban đại diện thường trực tại các nước trên thế giới. Đến năm 1969, Mặt trận đã

đặt cơ quan đại diện thường trực tại 14 quốc gia. Thêm các nước: Ai Cập, Xyri, Ấn

Độ, Pháp, Ba Lan, Bungari, Ả Rập thống nhất, Triều Tiên, Campuchia... Có các

Phòng thông tin ở Thủy Điển, Đan Mạch, Na Uy, Pháp, Phần Lan, Chi Lê... Đặc

32

biệt, ngày 23-12-1965, Chính phủ Cu Ba quyết định nâng đoàn đại diện Mặt trận

Dân tộc Giải phóng miền NamViệt Nam tại Cu Ba lên thành cơ quan đại diện ngoại

giao chính thức [23, tr.4]. Ngày 9-5-1969, vương quốc Campuchia và Mặt trận Dân

tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã ra thông cáo về việc nâng quan hệ ngoại

giao lên hàng đại sứ quán [136, tr.1]. Với sự kiện này, Vương quốc Campuchia

công nhận Mặt trận Dân tộc giải phóng là đại diện chân chính duy nhất của miền

Nam Việt Nam. Từ đây mở ra một bước tiến mới trong quan hệ giữa Mặt trận với

Chính phủ và nhân dân Campuchia.

Một kết quả có ý nghĩa quan trọng để khẳng định vị trí của Mặt trận trên

trường quốc tế là đại diện của Mặt trận đã được bầu vào cơ quan lãnh đạo các tổ

chức quốc tế. Đến năm 1965, đoàn đại biểu của các đoàn thể trong Mặt trận là hội

viên của mười tổ chức quốc tế và có chân trong ban chấp hành của chín tổ chức

quốc tế. Cuối năm 1963, Ủy ban công đoàn quốc tế đoàn kết với lao động và nhân

dân miền Nam Việt Nam đã được thành lập và đại biểu Hội lao động giải phóng

miền Nam Việt Nam đã được bầu vào Ban thư ký của Ủy ban.

Tại một số hội nghị quốc tế quan trọng, như Hội nghị nhà báo Á-Phi ở

Giacacta (Inđônêxia), các hội nghị đoàn kết Á-Phi, mặc dù bọn tay sai Mỹ ở Sài

Gòn ra sức xoay sở để đòi dự, chúng vẫn bị gạt ra, và lá cờ của Mặt trận Dân tộc

Giải phóng đã hiên ngang tung bay tại các nơi đó. Tại lễ kỷ niệm lần thứ mười ngày

họp Hội nghị Băngđung, đại biểu của Mặt trận đã được mời dự với tư cách là đại

diện duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam. Vai trò nổi bật của Mặt trận tại

Hội nghị nhân dân Đông Dương họp ở Campuchia đầu tháng 2-1965 thể hiện rõ uy

tín lớn lao của Mặt trận đối với các dân tộc Đông Dương đang đấu tranh chống đế

quốc Mỹ, giành độc lập dân tộc. Đại hội đoàn kết nhân dân Á-Phi lần thứ tư họp ở

Gana từ ngày 9 đến ngày 16-5-1965, đã ra nghị quyết về Việt Nam khẳng định Mặt

trận là người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân Nam Việt Nam.

Mặc dù đế quốc Mỹ đã dùng nhiều cách, phương pháp khác nhau nhưng

cũng không ngăn cản sự ảnh hưởng của Mặt trận ra trường quốc tế. Tại các nước Xã

hội chủ nghĩa, vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam càng

nổi bật. Trong các bản tuyên bố của Chính phủ, Quốc hội, các vị lãnh đạo Đảng và

Nhà nước các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên, Cu Ba...

luôn luôn làm nổi bật vị trí to lớn và quyết định của Mặt trận trong sự nghiệp chống

33

Mỹ, cứu nước của nhân dân Nam Việt Nam.

Thông qua những cơ quan đại diện và Phòng Thông tin tại các nước, Mặt

trận có điều kiện cử đại biểu dự nhiều hội nghị của các tổ chức quốc tế, cùng với

những cuộc thăm viếng, gặp gỡ quốc tế. Mặt trận đã triển khai những hoạt động

tuyên truyền rộng khắp để tranh thủ dư luận quốc tế ủng hộ cuộc kháng chiến chống

Mỹ của nhân dân hai miền Nam - Bắc Việt Nam. Nhiều nước đã cung cấp nhà ở, trụ

sở làm việc, kinh phí... cho cơ quan đại diện của Mặt trận hoạt động.

Nhiều quốc gia, tổ chức đã cùng với Mặt trận ra tuyên bố chung chống Đế

quốc Mỹ như: Nhật Bản, Inđônêxia, Ủy ban đoàn kết nhân dân Á-Phi và ủy ban bảo

vệ hòa bình thế giới của Triều Tiên, đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng

Vênêduêla, đại biểu Pa-le-xtin, Hội đồng toàn quốc giải phóng Công Gô, Đảng

Cộng sản Ý... Những tuyên bố chung được ký kết đã càng làm cho mối quan hệ của

Mặt trận Dân tộc Giải phóng với các tổ chức, quốc gia được gắn kết hơn trong một

mục tiêu chung.

Ngày 28-7-1964 ông Nguyễn Văn Tiến, ủy viên Trung ương Mặt trận Dân

tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và ông E.D. Bôsơ ly, bí thư thứ nhất Hội đồng

toàn quốc giải phóng Công-gô (Lêôpônvin) ký tuyên bố chung chống đế quốc Mỹ

[103, tr.4]. Ngày 25-7-1964, tại Bình Nhưỡng, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải

phóng miền Nam Việt Nam và Ủy ban Triều Tiên ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân

dân Nam Việt Nam ký tuyên bố chung chống đế quốc Mỹ [63, tr.4].

Một trong những hoạt động đối ngoại của Mặt trận là hợp tác giáo dục, phát

triển kinh tế, thể thao: Chiều ngày 19-8-1968, ông Nguyễn Như, Trưởng đoàn đại

diện thường trực Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Cộng hòa

dân chủ Đức và ông T. Ôxkan Phítse, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa

dân chủ Đức, ký hiệp định về việc Cộng hòa dân chủ Đức nhận đào tạo sinh viên và

nghiên cứu sinh của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong năm

1968-1969. Ông Ôxkan Phitse nêu rõ: “Lễ ký kết này là sự biểu hiện tốt đẹp trong

quan hệ hợp tác giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam với nước Cộng hòa

dân chủ Đức” [19, tr.4].

Ngày 23-11-1966, Đại hội đồng Ủy ban GANEFO châu Á khai mạc tại

Phnôm Pênh. Dự lễ khai mạc có các đại biểu và các nhà quan sát của 11 nước và

khu vực ở Châu Á, trong đó có đoàn đại biểu nước ta [34, tr.1]. Chủ tịch Mặt trận

34

Dân tộc Giải phóng Nguyễn Hữu Thọ đã gửi thư mừng Đại hội GANEFO. Bức điện

có viết: “Đại hội GANEFO lần này là nơi tập hợp các lực lượng mới trỗi dậy của

Châu Á để biểu dương sức vươn lên của nền thể thao phương Đông” [34, tr.4].

Quan những hình thức đa dạng, phong phú như vậy nhân dân thế giới đã ủng

hộ Mặt trận trên cả phương diện tinh thần và vật chất.

Về tinh thần, nhân dân thế giới ủng hộ, công nhận Mặt trận Dân tộc Giải

phóng miền Nam là đại diên chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt

Nam. Uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày càng được

nâng cao trên trường quốc tế. Đối với dư luận rộng rãi trên thế giới, Mặt trận là

người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam. Điều đó được thể hiện

qua việc các nước đã ủng hộ những văn kiện đường lối quan trọng của Mặt trận như

bản Cương lĩnh chính trị, bản Tuyên bố năm điểm của Mặt trận.

Bản Cương lĩnh của Mặt trận đã được truyền rộng ra khỏi phạm vi đất nước

Việt Nam và nhận được sự ủng hộ của đông đảo nhân dân thế giới. Đến cuối năm

1967, đã có 41 chính phủ, 12 tổ chức quốc tế, 5 tổ chức có tổ chức khu vực đã lên

tiếng ủng hộc Cương lĩnh chính trị của Mặt Trận. Cụ thể như, Liên đoàn thanh niên

dân chủ thế giới ra tuyên bố ủng hộ bản Cương lĩnh chính trị của Mặt trận: “Liên

đoàn thanh niên dân chủ thế giới bày tỏ sự ủng hộ hoàn toàn bản Cương lĩnh chính

trị do Đại hội bất thường Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vừa

thông qua. Là người đại diện chân chính của nhân dân miền Nam Việt Nam, Mặt

trận Dân tộc Giải phóng với bản Cương lĩnh này, đã đưa ra một nền tảng hết sức

rộng rãi và dân chủ có khả năng tập hợp mọi lực lượng tiến bộ để xây dựng miền

Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập và phồn vinh”.

Ông Ôxkan Phitse, Bộ ngoại giao Cộng hòa dân chủ Đức đã nhấn mạnh:

“Còn vài ngày nữa sẽ tiến hành kỷ niệm một năm ngày Cương lĩnh chính trị ra đời.

Một năm qua, Cương lĩnh chính trị đã thể hiện bằng những thắng lợi rực rỡ về quân

sự và chính trị. Những thắng lợi đó là một bằng chứng hùng hồn chứng minh vai trò

to lớn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, người lãnh đạo mọi

thắng lợi của nhân dân miền Nam Việt Nam” [15, tr.4].

Cùng với bản Cương lĩnh chính trị nhân dân thế giới còn ủng hộ bản Tuyên

bố năm điểm của Mặt trận. Bản tuyên bố 5 điểm ngày 22-3-1965 của Chủ tịch đoàn

Ủy ban trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã được

35

hưởng ứng nhiệt liệt ở khắp năm châu. Ngay trong năm 1965, đã có 22 tổ chức quốc

tế và 515 tổ chức quốc gia trong 92 nước đã nhiệt liệt hoan nghênh bản tuyên bố

ngày 22-3-1965 của Mặt trận [135, tr.3].

Ngày 24-7-1966, tại Luân Đôn Ủy ban giải phóng dân tộc quần đảo Tây Ấn đã

họp Hội nghị ủng hộ nhân dân Việt Nam. Hội nghị đã thông qua bản nghị quyết:

“ủng hộ Tuyên bố năm điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam”.

Hội liên hiệp các công đoàn Xây-Lan ra tuyên bố ủng hộ nhân dân ta, bản

tuyên bố nhấn mạnh rằng “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là

người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam và tỏ ý tin

tưởng rằng nhân dân miền Nam nhất định thắng trong cuộc chiến đấu chống bọn

xâm lược Mỹ” [11, tr.4].

Việc thế giới công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam có

ý nghĩa rất quan trọng. Nó chứng tỏ nhân dân các nước đứng về phía nhân dân miền

Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thực hiện quyền tự quyết.

Nhân dân thế giới lên án Mỹ và những nước cùng Mỹ tham gia vào cuộc

chiến tranh ở miền Nam Việt Nam: Tất cả những hình thức ủng hộ của nhân dân thế

giới đều hướng tới mục tiêu là lên án Mỹ và đồng minh Mỹ tham gia vào cuộc chiến

tranh Nam Việt Nam, đồng thời ủng hộ cách mạng miền Nam dưới sự lãnh đạo của

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Đồng bào miền Nam nước ta ghi nhớ mãi lời tuyên bố của Mao Chủ tịch

ngày 29-8-1963: “Đế quốc Mỹ đã phá hoại hiệp định Giơ-ne-vơ lần thứ nhất, ngăn

cản việc thống nhất nước Việt Nam, công khai vũ trang xâm lược miền Nam Việt

Nam. Nhân dân Trung Quốc chúng tôi kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh chính

nghĩa của nhân dân miền Nam” [135, tr3].

Ngày 22-12-1965, hàng triệu nhân dân Nhật Bản, Inđônêxia rầm rộ xuống

đường hô vang: “Mỹ cút khỏi Việt Nam” [135, tr.3].

Bản tuyên bố ngày 22-3-1965 của Chủ tịch đoàn Ủy ban trung ương Mặt trận

Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã được hưởng ứng nhiệt liệt ở khắp năm

châu. Quốc hội và Chính phủ 17 nước, hàng trăm tổ chức quần chúng của trên 80

nước và 39 tổ chức quốc tế [102, tr.3], đã lên án đế quốc Mỹ xâm lược Nam Việt

Nam và ủng hộ nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ.

Đài phát thanh Pơrapa (Tiệp Khắc), tối 7-6-1962 phát đi một bài luận hoan

36

nghênh bản tuyên bố ngày 4-6-1962 của Chính phủ ta bắc bỏ kết luận vu cáo ngày

2-6-1962 của hai đoàn đại biểu Ấn Độ và Ca-na-đa trong Ủy ban Quốc tế. Đài

Pơrapa kết luận: “Nhân dân miền Nam Việt Nam đấu tranh là chuyện tất nhiên. Ở

đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

được toàn thể nhân dân thế giới ủng hộ. Những điều vu cáo của đại biểu Ấn Độ,

Canađa trong Ủy ban Quốc tế dưới sức ép của đế quốc Mỹ là hoàn toàn không có

căn cứ” [65, tr.1].

Ngày 29-3-1966, Bộ ngoại giao cộng hòa dân chủ Đức ra tuyên bố: “Quyết

định của bọn Pắc Chung Hi đưa thêm lính đánh thuê sang Nam Việt Nam là một

hành động khiêu khích nghiêm trọng đối với toàn thể nhân dân Việt Nam. Quyết

định này hoàn toàn đi ngược lợi ích của nhân dân Triều Tiên. Bản tuyên bố lên án

đầy tội ác của bọn Pắc Chung Hi phục vụ cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc

Mỹ ở Việt Nam. Bản tuyên bố đòi Mỹ chấm dứt ngay “cuộc chiến tranh bẩn thỉu”

này và rút tất cả quân đội Mỹ và bọn lính đánh thuê của Pắc Chung Hi và các nước

chư hầu khác khỏi Nam Việt Nam” [10, tr.4]. Cùng ngày, Trung ương Đoàn thanh

niên lao động xã hội chủ nghĩa Triều Tiên cũng ra tuyên bố kêu gọi thanh niên và

sinh viên yêu nước ở miền Nam Triều Tiên đẩy mạnh đấu tranh phản đối đế quốc

Mỹ và bù nhìn Pắc Chung Hi đưa thêm lính đánh thuê sang Nam Việt Nam.

Ngày 22-9-1966, người phát ngôn Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Dân chủ

Đức họp báo tại Berlin, lên án Chính phủ quân phiệt Tây Đức hoàn toàn theo đuôi

đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Người phát ngôn vạch rõ

rằng giới cầm quyền Tây Đức đã để cho lính Tây Đức mặc áo lính Mỹ sang đánh

nhân dân Việt Nam; đã không ngớt ủng hộ những hành động vô nhân đạo của Mỹ

đối với nhân dân Việt Nam, tán dương những hành động tàn bạo của Mỹ giết người,

đốt phá nhà cửa [9, tr.4].

Ủy ban đoàn kết nhân dân Á Phi của Thái Lan tuyên bố “nghiêm khắc lên án

bọn cầm quyền phản động Thái Lan, theo lệnh Giôn-xơn, chủ trương đưa thêm lính

đánh thuê sang Nam Việt Nam nhằm phục vụ kế hoạch của Mỹ mở rộng cuộc chiến

tranh xâm lược ở Việt Nam” [13, tr1].

Về vật chất, nhân dân, chính phủ các nước sẵn sàng đưa quân sang chiến

trường miền Nam Việt Nam, quyên góp tiền, gửi thuốc, dụng cụ y tế và hiến máu

37

cho nhân dân miền Nam.

Đến năm 1965, trên 30 nước đã có các chiến sĩ tình nguyện sang chiến đấu ở

Nam Việt Nam nếu Mặt trận yêu cầu. Thanh niên 18 nước châu Mỹ La-tinh họp tại

trụ sở Viện hữu nghị với các dân tộc ở Cu-ba đã quyết định thành lập đội quân tình

nguyện sang Nam Việt Nam chống Mỹ xâm lược [102, tr3].

Ngày 26-6-1966, báo Đất nước của nhân dân, cơ quan của Đảng cộng sản

Đan Mạch cho biết: “Đoàn thanh niên cộng sản Đan mạch vừa tuyên bố sẵn sàng

gửi tình nguyện sang sát cánh cùng nhân dân Việt Nam chiếu đấu chống Mỹ xâm

lược và sẽ lên đường ngay khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

yêu cầu” [14, tr.4].

Các tổ chức trên thế giới tặng tiền mặt cho Mặt trận dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam: Ngày 20-7-1964, Hội đồng Trung ương các công đoàn Hunggari đã

quyết định tặng Mặt trận hai triệu rưởi phô rin (tiền Hunggari) [ tr4]. Ngày 21-7-

1966, anh Tiền Đại Vĩ, phó bí thư trưởng Hội liên hiệp Thanh niên Trung Quốc trao

cho Đoàn đại biểu Mặt trận tấm ngân phiếu 10000 đồng (tiền Trung Quốc) [14,

tr.4]. Ngày 18-1-1967, thay mặt phong trào hòa bình Pháp, ông Mi-sen Lăng-ghi-

nhông, ủy viên Ban thư ký Hội đồng hòa bình Pháp, đã trao cho đại biểu Mặt trận

đang ở Pháp 30.000 phơrăng (tiền Pháp). Trong năm 1967, các chiến sĩ hòa bình

Pháp đã gửi giúp nhân dân Việt Nam 20 vạn phơrăng để mua thuốc kháng sinh và 7

vạn phơ-răng để mua dụng cụ y tế trang bị cho một bệnh viện. Phụ nữ Pháp vừa

tuyên bố quyên góp được 3 vạn phơrăng ủng hộ Việt Nam [16, tr.1]…

Ủng hộ thuốc men: Tháng 3-1964, sinh viên trường đại học Hevơpho (Mỹ)

ra bản nghị quyết và tuyên bố, có viết: “Chúng tôi xin tặng Mặt trận Dân tộc Giải

phóng miền Nam Việt Nam một ít thuốc men do tiền đóng góp của chúng tôi mua

được.” Sự đóng góp ít ỏi của chúng tôi nhằm nêu bật sự phản đối kịch liệt của

chúng tôi, công khai nêu rõ lập trường dứt khoát của chúng tôi. Chúng tôi đòi quân

đội Mỹ phải rút khỏi Nam Việt Nam. Chúng tôi đề nghị các công dân Mỹ cùng với

chúng tôi lên tiếng tố cáo những hành động tội ác của chính phủ Mỹ đối với nhân

dân Nam Việt Nam, cùng với chúng tôi đòi quân đội Mỹ phải rút khỏi Nam Việt

Nam” [124, tr.4].

Ngày 19-8-1965, nhân dân lao động thành phố Bô-lơ-nhơ đã gửi cho đoàn đại

diện Mặt trận ở Ý 100 hòm thuốc, mỗi hòm trị giá 40000 đồng lia (tiền Ý) [102, tr.3].

38

Tại BerLin, ngày 4-10-1968, đoàn Đại biểu Ủy ban đoàn kết với Việt Nam của Hà

Lan trao cho Đoàn đại diện thường trực Mặt trận... một số thuốc chữa bệnh sốt rét trị

giá 16000 uden (tiền Hà Lan) để ủng hộ nhân dân ta chống Mỹ xâm lược [17, tr.4].

Hiến máu ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam: Ở Xiri, đến năm 1965 “hơn

6000 người ở thủ đô Xantiagô đã ghi tên vào lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng

miền Nam Việt Nam hiến máu gửi tặng nhân dân Việt Nam đang chiến đấu chống

bọn xâm lược Mỹ” [135, tr.4]. Tháng 8-1966, có hơn một vạn học sinh, sinh viên

Ấn Độ trích máu ký tên ủng hộ học sinh, sinh viên và nhân dân Việt Nam trong

cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước. Trong số những người ký tên có hơn 100 giáo

sư đại học. Khoảng 200 học sinh tỏ ý sẵn sàng hiến máu ủng hộ nhân dân Việt Nam

[14, tr.4]. Tháng 9-1966, tại thành phố Ôxtơrava (Tiệp Khắc): 80 người đã hiến máu

giúp nhân dân Việt Nam, tại nhà máy gang thép Vitrôvixe, ¼ số cán bộ, công nhân

đã hiến máu ủng hộ Việt Nam [14, tr.4].

Sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh

yêu nước chính nghĩa của nhân dân Nam Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng. Do

đó uy tín của Mặt trận không ngừng được củng cố và nâng cao trên thế giới.

1.2.2. Đấu tranh ngoại giao trực diện với Mỹ trên bàn đàm phán Pari

Với những cố gắng mọi mặt, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

đến năm 1968 đã đạt được nhiều thắng lợi trên tất cả các mặt quân sự, chính trị và đối

ngoại tạo cơ sở cho vị thế trên bàn ngoại giao của Mặt trận. Cùng với Việt Nam dân

chủ Cộng hòa, uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ngày càng được nâng cao trên

thế giới. Chính phủ Mỹ phải tuyên bố chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc và chấp

nhận họp Hội nghị bốn bên ở Pari. Việc Chính phủ Mỹ thừa nhận Mặt trận Dân tộc

Giải phóng miền Nam Việt Nam là một trong bốn bên tham gia dự Hội nghị Pari về

Việt Nam là một thắng lợi to lớn về ngoại giao của nhân dân Việt Nam.

Cuộc đàm phán tại Pari là một trong những sự kiện trọng đại trong lịch sử

đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam nhằm giải phóng dân tộc và thống nhất

Tổ quốc. Trong đấu tranh ngoại giao, đặc biệt tại Hội nghị Pari, vị trí và vai trò của

Mặt trận Dân tộc Giải phóng có ý nghĩa quan trọng.

Từ tháng 12-1960, Mỹ tìm mọi cách để phủ nhận sự tồn tại, tính đại diện

chân chính và hợp pháp của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, thì

đến lúc này Mỹ buộc phải nhận họp Hội nghị bốn bên ở Pari. Trong bốn bên, Đoàn

39

đàm phán Mặt trận Dân tộc Giải phóng là một bên ngang hàng và bình đẳng với

Đoàn Mỹ để giải quyết vấn đề Việt Nam nói chung và những vấn đề liên quan đến

miền Nam Việt Nam nói riêng.

Tháng 11-1968, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Việt Nam quyết định cử Giáo sư Nguyễn Thị Bình, Ủy viên Ủy ban Trung ương

Mặt trận, làm đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia

công việc trù bị cho Hội nghị Pari về Việt Nam [90, tr.1]. Tại Pa-ri, sau khi Giáo sư

Nguyễn Thị Bình phát biểu, nhân dân Pháp đã tung hoa, vẫy cờ Mặt trận Dân tộc

Giải phóng, giương cao các biểu ngữ: “Mặt trận Dân tộc Giải phóng, người đại diện

chân chính của nhân dân miền Nam Việt Nam muôn năm” [2, tr.1].

Mặc dù Mỹ và chính quyền Sài Gòn ra sức ngăn cản, trì hoãn, nhưng trước

sự đấu tranh của Mặt trận, trước sự ủng hộ của dư luận thế giới, hội nghị bốn bên đã

được triệu tập. Trong cuộc họp báo sáng 13-11-1968 tại Pa-ri, ông Dương Đình

Thảo, đại biểu của Đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã phát biểu: “Nếu

chính quyền Sài Gòn không cử người đến họp, thì ba bên gồm Mặt trận Dân tộc

Giải phóng miền Nam Việt Nam, Việt Nam dân chủ cộng hòa và Mỹ cần họp để tìm

một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam trên cơ sở lập trường năm điểm của

Mặt trận Dân tộc Giải phóng và lập trường bốn điểm của Chính phủ nước Việt Nam

dân chủ cộng hòa” [91, tr.4].

Đoàn đại biểu Mặt trận tham gia Hội nghị Pa-ri về Việt Nam gồm có: Ông

Trần Bửu Kiếm, Trưởng ban liên lạc đối ngoại Ủy ban Trung ương Mặt trân, trưởng

đoàn; Giáo sư Nguyễn Thị Bình, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận, Phó trưởng

đoàn; Ông Trần Hoài Nam, Ủy viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận, Phó trưởng đoàn;

Ông Nguyễn Văn Tiến, Bà Đỗ Thị Duy Liên, Ông Trần Văn Tư, Ông Đinh Bá Thi,

Bà Đặng Văn Thu, đoàn viên [91, tr.4].

Ngày 25 tháng Giêng năm 1969, Hội nghị bốn bên chính thức khai mạc. Đây

là một thắng lợi bước đầu của Đảng và nhân dân Việt Nam. Từ chỗ không chịu, nay

Mỹ phải ngồi vào đàm phán bốn bên, có Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Việt Nam tham dự với tư cách một bên độc lập, bình đẳng.

Phát biểu trong phiên họp đầu tiên, ông Trần Bửu Kiếm khẳng định vai trò to

lớn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là người tổ chức và lãnh

đạo nhân dân miền Nam đấu tranh chống bọn xâm lược Mỹ và tay sai. Mặt trận là

40

người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam, là người có

tiếng nói quyết định và đủ thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề liên quan tới miền Nam

Việt Nam. Mỹ muốn tìm giải pháo chính trị cho vấn đề miền Nam Việt Nam thì phải

nói chuyện nghiêm túc với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Tại những phiên họp của hội nghị bốn bên từ lần 1 đến lần 20, Mặt trận Dân

tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đại diện cho nhân dân miền Nam bày tỏ

quan điểm và nguyện vọng về việc kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình, thống nhất

đất nước.

Ngày 25-1-1969, tại phiên họp toàn thể lần thứ nhất của hội nghị Pari về Việt

Nam, Ông Trần Bửu Kiếm khẳng định: “Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải

phóng miền Nam Việt Nam đến dự hội nghị bốn bên này với tư cách là một bên độc

lập, bình đẳng với các bên khác, để nói chuyện nghiêm chỉnh, nhằm tìm một giải

pháp chính trị đúng đắn cho vấn đề miền Nam Việt Nam” [132, tr.304].

Ngày 8-5-1969, tại phiên họp thứ 16, ông Trần Bửu Kiếm, đưa ra giải pháp

toàn bộ 10 điểm về vấn đề miền Nam Việt Nam. Đó là cơ sở để các bên đi đến ký kết

các hiệp định chấm dứt chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, lập lại hòa bình ở Việt

Nam. Đây là lần đầu tiên Mặt trận Dân tộc Giải phóng đưa ra một giải pháp toàn bộ

về vấn đề Việt Nam tại cuộc đàm phán Pari. Và đại diện của Mặt trận cũng là người

đầu tiên đưa ra một giải pháp hoàn chỉnh. Chính Kissinger đã hiểu đây là một đòn

tiến công ngoại giao sắc bén của Mặt trận và nhận xét: Riêng việc tồn tại một kế

hoạch hoà bình của cộng sản mặc dù bản thân nó là một sự bất ngờ đã gây ra ngay lập

tức sự phản ứng trong quốc hội, trong các phương tiện truyền thông và trong dư luận

công chúng. Họ gây sức ép với chính phủ đừng bỏ qua cơ hội đó [4, tr.239].

Giải pháp của Mặt trận được dư luận thế giới kể cả ở Mỹ hoan nghênh,

hưởng ứng và ủng hộ rộng rãi. Giải pháp 10 điểm không chỉ đặt cơ sở cho cuộc đàm

phán, giành quyền chủ động trên bàn Hội nghị mà còn có tác dụng chiếm lĩnh trận

địa dư luận quốc tế, góp phần củng cố cục diện “vừa đánh vừa đàm” và đề cao hơn

nữa vai trò, vị trí của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Từ đó, Mặt trận tập trung nhiều

hơn vào công tác tuyên truyền, vận động quốc tế, phối hợp đấu tranh ngoại giao với

đấu tranh quân sự, chính trị ở trong nước và phong trào phản chiến của nhân dân

Mỹ, hướng dư luận quốc tế tập trung lên án Mỹ, đòi Mỹ rút nhanh, rút hết quân đội

41

và vũ khí khỏi miền Nam Việt Nam, kết thúc chiến tranh ở Việt Nam.

Từ khắp các nước độc lập dân tộc ở ba lục địa Á, Phi, Mỹ Latinh đến các lực

lượng dân chủ ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu, ở ngay các nước có căn cứ

quân sự của Mỹ như Nhật Bản hay ở ngay nước Mỹ. Tất cả đều hướng về Việt

Nam, về Hội nghị Pari với những trăn trở, sẻ chia cùng nhân dân miền Nam đang

anh dũng chiến đấu vì độc lập tự do.

Bên cạnh Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam luôn có những

tiếng nói bè bạn, cảm thông, khâm phục và yêu mến. Đó là tình đoàn kết chiến đấu

của trên 200 triệu nhân dân Liên Xô, là sự kề vai sát cánh của gần 700 triệu nhân

dân Trung Quốc và cả hậu thuẫn vĩ đại của hàng trăm triệu nhân dân từ các nước xã

hội chủ nghĩa anh em khác.

Ở khắp nơi trên thế giới, những tuần, những tháng “đoàn kết với nhân dân

Việt Nam”, những “cuộc đi bộ vì hòa bình”, những cuộc biểu tình, mít tinh, hội

họp... ủng hộ nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày càng dâng

cao bên cạnh cuộc đàm phán ở Pari.

Tiểu kết

Trước yêu cầu mới của lịch sử Việt Nam nói chung và miền Nam Việt Nam

nói riêng, Đảng Lao Động Việt Nam đã phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ và

sáng tạo để xác định đường lối và phương pháp cách mạng ở miền Nam Việt Nam.

Tư duy của Đảng về đối ngoại và chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng

miền Nam Việt Nam trong thời điểm lịch sử những năm 60 của cách mạng miền

Nam Việt Nam là linh hoạt và phù hợp. Từ tháng 12-1960 đến tháng 5-1969 là

khoảng thời gian với những nỗ lực ban đầu trong hoạt động đối ngoại của Mặt trận,

đồng thời nó cũng khẳng định vai trò to lớn của Mặt trận trong hoạt động đối ngoại.

Những năm đầu trên trường quốc tế, Mặt trận đã đề ra chính sách đối ngoại phù hợp

xuyên suốt trong quá trình hoạt động. Thời gian này, Mặt trận đã chủ động cử

những đoàn đại biểu đi thăm các nước trên thế giới. Qua đó lên án đế quốc Mỹ, kêu

gọi nhân dân thế giới ủng hộ cách mạng miền Nam Việt Nam. Nhờ những hoạt

động của Mặt trận mà cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân miền Nam đã

nhận được sự đồng tình, ủng hộ trên khắp năm châu về cả mặt tinh thần và vật chất.

Từ đây, uy tín của Mặt trận được nâng cao trên trường quốc tế. Nhân dân thế giới

công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là đại diện chân chính

42

duy nhất của nhân dân miền Nam lúc bấy giờ. Đặc biệt, tại Hội nghị bốn bên về

Việt Nam ở Pari, Mặt trận đã được thừa nhận là một trong bốn bên tham gia đàm

phán. Với những kết quả đã làm được, Mặt trận đã vươn lên làm nhiệm vụ như một

chính quyền cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Sự lớn mạnh của Mặt trận trong

khoảng thời gian này đã tạo tiền đề cho những thắng lợi của hoạt động đối ngoại

trong khoảng thời gian sau.

Từ năm 1960 đến tháng 5-1969, hoạt động đối ngoại của Mặt trận ngày càng

phát triển mạnh mẽ và tranh thủ được ngày càng nhiều sự ủng hộ của dư luận quốc

tế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều đó. Đó là do sự bền bỉ, linh hoạt trong hoạt

động đối ngoại của Mặt trận về việc vận động nhân dân thế giới ủng hộ cách mạng

miền Nam; do tính chất ác liệt và quy mô của cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt

Nam ngày càng quyết liệt và mở rộng, từ chiến tranh đơn phương tới chiến tranh

đặc biệt và chiến tranh cục bộ, từ miền Nam đã leo thang lên miền Bắc; do trong

thời gian này, Mặt trận là đại diện chân chính duy nhất của miền Nam Việt Nam,

Mặt trận thay mặt nhân dân miền Nam Việt Nam thực hiện mọi công việc đối nội

43

cũng như đối ngoại.

Chương 2

MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM

DUY TRÌ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI TỪ THÁNG 6-1969 ĐẾN THÁNG 4-1975

2.1 Hoàn cảnh lịch sử và chủ trƣơng của Đảng

2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử

Tình hình thế giới

Tình hình thế giới đang có những diễn biến phức tạp mới. Lực lượng thế giới

có những phân hoá nhất định do tác động của khủng hoảng đường lối phát triển

trong các nước xã hội chủ nghĩa, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,

phong trào độc lập dân tộc.

Đặc biệt bất hoà Xô - Trung đã trở nên căng thẳng (chiến tranh biên giới Xô

- Trung năm 1969), hoà dịu tay đôi Xô - Mỹ, Trung - Mỹ có bước phát triển mới.

Khi Nixon lên nắm quyền, rút kinh nghiệm của chính quyền Johnson, chính quyền

Nixon quyết định táo bạo đi vào bước ngoặt trong quan hệ Mỹ - Trung, chuyển từ

đối địch sang hòa hoãn với hy vọng gỡ thế bí ở Việt Nam: uy hiếp tinh thần Việt

Nam và kích động nhanh hơn nữa Liên Xô đi nhanh trong hòa hoãn với Mỹ. Tháng

7/1971, việc Kissinger đến Bắc Kinh, thủ đoạn của Mỹ là đánh vào lợi ích thiết thân

của Trung Quốc: a) Lợi ích của đường lối kình địch với Liên Xô, lo sợ bị Liên Xô

bao vây từ phía Bắc, phía Tây và phía Nam; b) Lợi ích từ vấn đề Đài Loan; c) Lợi

ích trong việc tranh thủ quan hệ khoa học - kỹ thuật, kinh tế với Mỹ và phương Tây;

d) Lợi ích vào Liên Hợp Quốc, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, tạo thế ba cực

Trung - Mỹ - Xô [8, tr.74]. Tính toán chiến lược đó của Mỹ lại càng được thúc đẩy

khi những cuộc xung đột vũ trang xảy ra liên tiếp ở biên giới Trung - Xô năm 1969.

Quan hệ với Trung Quốc được Nixon triển khai khái nhanh từ 1969 đến mùa xuân

1972 là cao điểm.

Năm 1972, tác động tiêu cực của hòa hoãn ba nước lớn đối với cuộc chiến

tranh Việt Nam lên tới cao điểm khi Tổng thống Nixon lần lượt chính thức đi thăm

Trung Quốc và Liên Xô. Tháng 2/1972, Nixon thăm Trung Quốc, ký Thông cáo

Thượng Hải; tháng 5/1972, Nixon thăm Liên Xô, ký bốn hiệp định cơ bản về quan

hệ Mỹ - Xô. Mỹ gặp Trung Quốc, Liên Xô tranh thủ để hai nước lớn này giảm giúp

đỡ cho Việt Nam xuống mức thấp nhất nhằm ngăn ta đánh mạnh ở miền Nam và ép

44

ta đi vào một giải pháp có lợi cho Mỹ.

Chính quyền Nixon tăng cường mở rộng quy mô hoạt động chính trị và thủ

đoạn ngoại giao xảo quyệt, thực hiện chính sách đối ngoại “cây gậy và cành ôliu”.

Một mặt, Mỹ nhằm biện minh cho hành động leo thang chiến tranh trong chiến lược

“Việt Nam hoá chiến tranh”. Mặt khác, nhằm thực hiện mưu đồ thâm hiểm là lợi

dụng những bất hoà đó để làm suy yếu mặt trận chống Mỹ của nhân dân ba nước

Đông Dương, làm phân hoá mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với cuộc chiến đấu

chống Mỹ cứu nước của nhân dân Đông Dương, làm giảm sự ủng hộ, giúp đỡ cần

thiết của các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của

nhân dân tiến bộ trên thế giới với cuộc đấu tranh của nhân dân ba nước Đông Dương.

Như vậy, Mỹ hy vọng dùng chính trị đối ngoại của một cường quốc hàng đầu

để có thể xoay chuyển cục diện sang thế thuận lợi hơn và tạo “thế mạnh” buộc đối

phương phải chấp nhận một giải pháp kết thúc chiến tranh có lợi cho Mỹ.

Bên cạnh những khó khăn của tình hình thế giới, thì cũng có những thuận lợi

đối với cách mạng Việt Nam. Phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới tăng lên

mạnh mẽ, đặc biệt là sự ủng hộ của nhân dân thế giới với cách mạng Việt Nam tiếp

tục được tăng cường. Phong trào phản đối chính sách của Mỹ ở Việt Nam trong

phần lớn chính giới bên ngoài nước Mỹ, kể cả các đồng minh phương Tây của Mỹ

lên cao. Nước Mỹ lâm vào tình trạng phân hoá nội bộ vì chiến tranh Việt Nam,

nhiều người trong cơ quan lập pháp ở Mỹ chuyển sang chống chiến tranh làm cho

Níchxơn và Lầu năm góc thêm cô lập và lúng túng.

Ở nước Pháp, Jean Sainteny nhấn mạnh: “Cần làm cho các lập trường gần

nhau… Mặt trận Dân tộc Giải phóng phải lên tiếng… Còn đợi gì nữa mà không

thành lập một chính phủ liên hiệp dân tộc trung lập ở miền Nam!... Sau khi chính

phủ liên hiệp được thành lập, dư luận Mỹ sẽ thấy rõ tính ngu xuẩn và vô ích của

cuộc chiến tranh này” [8, tr.371].

Bước sang những năm 1973-1974, tình hình nước Mỹ gặp khó khăn. Kinh tế

Mỹ lâm vào khủng hoảng mới trong lúc Tây Âu và Nhật Bản vượt Hoa Kỳ về một

số mặt hàng công nghiệp.

Nhờ nhận thức sớm và đúng mức những thuận lợi và thách thức của cục diện

quốc tế trong thời kỳ cuộc chống Mỹ đi vào thời điểm giành thắng lợi quyết định,

nhận rõ mưu đồ lừa bịp hoà bình của đế quốc Mỹ, Đảng, cũng như Mặt trận Dân tộc

45

Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền

Nam Việt Nam đã kịp thời chuyển hướng chiến lược đối ngoại, phát huy chính nghĩa,

phối hợp mặt trận ngoại giao với mặt trận chính trị, quân sự tiến công quân thù.

Tình hình trong nước

Ở miền Bắc, Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam đánh bại cuộc chiến tranh

phá hoại lần thứ hai mà đỉnh cao là cuộc tập kích đường không chiến lược, buộc Mỹ

phải ký Hiệp định Pari, rút hết quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ ra khỏi

miền Nam nước ta.

Trước thất bại nặng nề của Mỹ, sau khi lên cầm quyền, Níchxơn đã thay đổi

chiến lược chiến tranh để tiếp tục chính sách áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền

Nam. Tuy vậy, giới cầm quyền Mỹ không thể cưỡng lại được xu thế phải rút ra khỏi

cuộc chiến tranh Việt Nam để cứu vãn chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ đang

gặp nhiều khó khăn, bế tắc ở các nơi khác. Song họ vẫn tiếp tục kéo dài cuộc chiến

tranh, đồng thời mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương, tiếp tục sử dụng

quân đội viễn chinh của Mỹ làm chỗ dựa để ráo riết thực hiện “Học thuyết

Níchxơn”, thực hiện chính sách “Việt Nam hoá chiến tranh”, “dùng người Việt

đánh người Việt”, “dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương” bằng tiền

và vũ khí của Mỹ, do Mỹ chỉ huy để tránh sự thiệt hại về sinh mạng cho thanh niên

Mỹ. Bước đi chiến lược của Mỹ được Níchxơn xếp đặt như sau: năm 1969, tập

trung cố gắng bình định ở miền Nam, nhanh chóng ổn định tình hình; năm 1970 và

1971, làm đảo chính lật đổ Chính phủ Vương quốc Campuchia, lập chính quyền bù

nhìn, phá liên minh ba nước Đông Dương, tiến công quy mô lớn ra ngoài chiến

trường Việt Nam là Campuchia và Lào, phá căn cứ kháng chiến đầu não của ta ở

miền Nam, cắt đường hành lang vận chuyển chiến lược xuyên Đông Dương, cô lập

và bóp nghẹt làm cho cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam “tự nó tàn lụi” dần.

Ở chiến trường miền Nam, Mỹ dốc sức tăng cường mở rộng chiến tranh, cố

gắng quân sự cuối cùng để giành lại thế chủ động sau Tết Mậu Thân.

Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, xuống thang

chiến tranh, rút dần quân Mỹ về nước nhưng kéo dài cuộc chiến tranh và mở rộng

chiến tranh sang Lào và Campuchia. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí

Minh ngày 3-11-1968: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải

46

tiếp tục chiến đấu, quyét sạch nó đi” [46, tr.402], quân và dân Việt Nam phối hợp

với quân và dân hai nước Lào và Campuchia, đánh bại một bước quan trọng chiến

lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và “Học thuyết Níchxơn” ở Đông Dương.

Lợi dụng sơ hở của ta trong việc chậm chuyển hướng tiến công sau Tết Mậu

Thân và bỏ lỏng vùng nông thôn, đế quốc Mỹ - Việt Nam Cộng hòa tiến hành liên

tiếp các kế hoạch “bình định” quyết liệt trong suốt hai năm (giữa năm 1968 đến đầu

năm 1970) như: “bình định cấp tốc”, “bình định đặc biệt”, “bình định bổ sung”…

Đây là cuộc phản công quyết liệt, huỷ diệt tàn khốc của địch bằng cuộc “chiến tranh

giành dân”, “chiến tranh huỷ diệt” trên quy mô lớn gây cho cách mạng Việt Nam

những khó khăn, tổn thất đáng kể.

Đi đôi với nhân tố chiến trường, sự chuyển biến của tình hình nước Mỹ và

chiều hướng chính trị quốc tế tuy có những bước phức tạp mới, nhưng cũng hé mở

những khả năng và thuận lợi mới thúc đẩy việc tăng cường trên hoạt động đối ngoại

của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam.

Phong trào phản chiến chống “Việt Nam hoá chiến tranh” đã thực sự trở

thành trận tuyến thứ hai buộc chính quyền Mỹ phải đối phó. Nó đã góp phần đặc

biệt quan trọng kiềm chế những mưu đồ mở rộng, tăng cường chiến tranh ở Đông

Dương, và vạch trần chiến lược “tìm kiếm hoà bình bịp bợm” của Níchxơn. Đồng

thời, nó cũng thúc đẩy Mỹ phải rút hết quân ở Việt Nam, đình chỉ xâm lược

Campuchia và Lào, đồng thời phải ngồi ở bàn đám phán thương lượng với Việt

Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam

Việt Nam.

2.1.2. Chủ trương của Đảng và chính sách của Mặt trận

Chủ trương của Đảng

Nhìn nhận và đánh giá đúng tình hình thực tế, những chuyển biến trong và

ngoài nước, Đảng Lao động Việt Nam đã kịp thời đưa ra những chủ trương đối

ngoại phù hợp nhằm tạo sức mạnh tốt nhất cho cách mạng Việt Nam.

Đảng nhận định, trong hoạt động đối ngoại lúc này ở Việt Nam có nhiệm vụ

nặng nề và phức tạp là vừa đấu tranh chống lại thủ đoạn và chính sách ngoại giao

thâm độc của Mỹ, vừa bảo đảm duy trì viện trợ, sự ủng hộ và đoàn kết của Liên Xô

và Trung Quốc, không để những cải thiện quan hệ giữa các nước lớn với nhau ảnh

hưởng đến cuộc kháng chiến chống Mỹ và việc đàm phán kết thúc chiến tranh giữa

47

Việt Nam và Hoa Kỳ.

Sau khi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc và chuẩn bị mở hội nghị bốn bên,

đầu năm 1969, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam đề ra mấy nhiệm vụ chủ yếu

trong đối ngoại là: Đẩy địch xuống thang một bước trên chiến trường chính, ép Hoa

Kỳ đơn phương rút một bộ phận của Mỹ; Đề cao vị trí quốc tế của Mặt trận Dân tộc

Giải phóng (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời); Tranh thủ các nước xã hội

chủ nghĩa tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ ta về vật chất và chính trị, đồng thời tranh thủ

sự giúp đỡ mạnh mẽ, có hiệu quả của phong trào nhân dân thế giới, bao gồm cả

nhân dân Mỹ, đấu tranh đòi Mỹ rút nhanh, rút hết và không điều kiện quân ra khỏi

miền Nam.

Chỉ thị số 235-CT/TW nêu rõ chủ trương của Trung ương Đảng về sự ra đời

của Chính phủ cách mạng, một tổ chức chính quyền dân tộc, dân chủ và liên hiệp

bao gồm các lực lượng yêu nước, có lực lượng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng

làm nòng cốt, là thành quả cách mạng của quân và dân miền Nam ta trong sự

nghiệp giải phóng miền Nam, Đối với nước ngoài, cần ra sức tranh thủ sự đồng

tình, ủng hộ của các nước, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa với Chính phủ

cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam; đồng tình với nhân dân ta lên

án Mỹ - nguỵ ngoan cố, đòi Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết và

không điều kiện quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam; đòi Mỹ phải

nghiêm chỉnh nói chuyện với Chính phủ cách mạng lâm thời, người đại diện chân

chính, hợp pháp của nhân dân miền Nam Việt Nam [47, tr .613].

Tháng 5 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính phủ đề ra chủ

trương rằng: “tiến công ngoại giao là một mặt tiến công quan trọng có ý nghĩa

chiến lược lúc này”. Nó có nhiệm vụ phát huy thế thắng và thế chủ động của ta,

tiến công một kẻ địch đang thất bại, bị động về mọi mặt và phải xuống thang;

phát huy thắng lợi quân sự và chính trị trên trường quốc tế; tranh thủ sự đồng

tình, ủng hộ lớn nhất của nhân dân tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ, triệt

để lợi dụng những mâu thuẫn và bế tắc của địch, làm cho tình hình hậu phương

của Mỹ ngày càng bất lợi cho Mỹ, làm cho chúng ngày càng cô lập, lúng túng và

bị động; nắm vững thời cơ, phối hợp với tiến công quân sự và tiến công chính

trị, tiến công liên tục và sắc bén, kiên trì nguyên tắc, khéo vận dụng sách lược,

vừa kiên quyết, vừa linh hoạt, buộc Mỹ phải rút quân và nhận một giải pháp

48

chính trị đáp ững yêu cầu cơ bản của ta [8, tr.36-37].

Hội nghị 19 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 3-1971 quyết định

kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, đề ra chủ trương “tăng cường

khối đoàn kết chiến đấu ba nước Đông Dương, làm thất bại âm mưu của đế quốc

Mỹ kéo dài và mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược”. Về đối ngoại ta chủ trương:

Kết hợp cùng thắng lợi trên mặt trận chính trị, quân sự ngoại giao phải tạo

sức ép quốc tế để từng bước đẩy địch xuống thang chiến tranh, đơn phương rút hết

quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam, chấm dứt hoàn toàn việc đánh phá miền

Bắc, đánh bại thủ đoạn tăng cường chiến tranh bằng “Việt Nam hoá chiến tranh”.

Lợi dụng mâu thuẫn, khai thác những khó khăn trong nội bộ Mỹ, nội bộ

nguỵ và mâu thuẫn giữa Mỹ và nguỵ.

Đề cao vị trí quốc tế của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

(và Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam sau này).

Tích cực và khôn khéo tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và chi viện vật chất

của các nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ ngày càng mạnh mẽ,

có hiệu quả của phong trào nhân dân, các tầng lớp xã hội ở các nước khác nhau trên

thế giới, chú trọng phối hợp với xu hướng phản chiến ở nước Mỹ, hướng tới đòi Mỹ

rút nhanh, rút hết không điều kiện quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi Việt Nam và

Đông Dương.

Thúc đẩy xu thế đánh đàm, phát huy thắng lợi ở chiến trường, đẩy Mỹ vào

thế phải xuống thang chiến tranh, làm thất bại về mặt quốc tế của chiến lược “Việt

Nam hoá chiến tranh”.

Trong bài phát biểu tại Đại hội lần thứ III Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (14-

17/4/1971), đồng chí Trương Chinh – nguyên Tổng Bí thư đã khẳng định: “Đứng

trước kẻ thù hung bạo và nhan hiểm là đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân Việt Nam ta

phải làm gì? Phải đấu tranh dưới mọi hình thức: đấu tranh quân sự, đấu tranh chính

trị và đấu tranh ngoại giao, để tống cổ bọn xâm lược ra khỏi nước ta. Về đấu tranh

ngoại giao…phải nêu cao mục đích đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta, kịp thời

vạch trần mọi âm mưu và hành động của địch, bóc trần những luận điệu lừa bịp, mị

dân của chúng; chỉ rõ thế tất thắng của ta và thế thất bại của địch; góp phần tranh

thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới đối với cuôc kháng chiến

49

chống Mỹ của nhân dân ta.

… Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ ở Việt Nam, Mặt trận thống nhất

chống Mỹ của các dân tộc Đông Dương và Mặt trận của nhân dân thế giới chống đế

quốc Mỹ, bảo vệ độc lập dân tộc và hòa bình, đó là ba tầng Mặt trận bao vây và

đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Lập được ba tầng Mặt trận như thế thì giặc Mỹ bị

vây hãm chặt trong muôn trùng lưới thép, nhất định không tránh khỏi bị thất bại

hoàn toàn.” [8, tr.20]

Đến tháng 7 năm 1971, Đảng chủ trương tiếp tục “phối hợp ba mặt trận đấu

tranh: quân sự, chính trị, ngoại giao… Trong cuộc đấu tranh ngoại giao giữa ta và

địch, chúng ta cần tập trung vào hai yêu cầu trước mắt sau đây: Một là, Gây một sức

ép mạnh trong nước Mỹ, ngay cả trong Thượng và Hạ nghị viện Mỹ để buộc

Nichxon phải đi đến có chủ trương dứt khoát rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam và

phải tuyên bố thời hạn rút quân. Hai là, ta phải kéo chính quyền Sài Gòn xuống một

bước. buộc Mỹ phải đưa ra một chính quyền có thể nói chuyện với ta” [49, tr.409].

Trong Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương

Đảng lần thứ 20 (họp từ ngày 27/1 – 21/2/1972), Bộ Chính trị đã phân tích rõ tình

hình và nhận định trong quan hệ với các nước Lào và Campuchia thì: “Trong công

tác giúp đỡ các nước Bạn và phối hợp chiến đấu với Bạn, phải hết sức chú trọng xây

dựng mối quan hệ tốt giữa ta và Bạn trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản chân

chính, đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau.” Ban Chấp hành

Trung ương kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân “Vì nghĩa vụ quốc tế cao cả đối

với cách mạng Lào, cách mạng Campuchia và đối với phong trào cách mạng thế

giới.” [50, tr.51-53]

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 20 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

(4/4/1972) tiếp tục khẳng định: “Nhiệm vụ cần kíp của toàn Đảng, toàn quân và

toàn dân trong giai đoạn hiện nay là:…Đoàn kết, phối hợp chiến đấu chặt chẽ với

quân và dân Lào, quân và dân Campuchia anh em, đẩy mạnh tiến công địch trên các

chiến trường Đông Dương… Xây dựng mối quan hệ tót giữa ta và Bạn trên tinh

thần chủ nghĩa quốc tế vô sản, đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng chủ quyền của nhau.

Luôn luôn giúp Bạn tăng cường khả năng tự lực cánh sinh. Nâng cao chất lượng

chiến đấu và công tác của các lực lượng, các tổ chức của ta giúp Bạn, làm tố công

50

tác chi viện về vật chất cho Bạn” [50, tr.144-146].

Bộ Chính trị Trung ương Đảng, tháng 5-1972 ra nghị quyết nhấn mạnh về

đối ngoại: “phải tập trung cố gắng vận động nhân dân các nước gây một cao trào

quốc tế lên án đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh xâm lược Việt Nam, đòi phải chấm

dứt ném bom, bắn phá và phong toả nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chấm dứt

chính sách “Việt Nam hoá chiến tranh”, phải buộc Mỹ đi vào thương lượng nghiêm

chỉnh về giải pháp kết thúc chiến tranh.

Ngày 17-5-1972, Thủ tướng Phạm Văn Đồng trả lời báo Le Monde của Pháp:

“Sẵn sàng chấm dứt chiến tranh trong 24 tiếng đồng hồ nếu có thể đạt được kết quả

thông qua thương lượng; quyết tâm chiến đấu đến cùng vì những quyền dân tộc của

nhân dân Việt Nam, nhưng cũng sẵn sàng để cho Mỹ ra khỏi chiến tranh một cách

danh dự; miền Nam Việt Nam sẽ thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc và dân chủ

với một chính phủ gồm Mặt trận Dân tộc Giải phóng, những người trong chính quyền

Sài Gòn (trừ Nguyễn Văn Thiệu) và đại diện cho lực lượng thứ ba” [8, tr.532-533].

Trong bức điện ngày 28 tháng 9 năm 1972, đồng chí Lê Duẩn khẳng định cách

mạng miền Nam và cuộc kháng chiến chống Mỹ “không phải là một cuộc chiến tranh

có tính chất địa phương, cục bộ, mà còn có tính chất quốc tế, tính chất thời đại vì nó

là tiêu điểm của cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai thế lực cách mạng và phản cách

mạng trên phạm vi thế giới”… “Trên mặt trận ngoại giao, ta phải biết lợi dụng mâu

thuẫn trong nội bộ kẻ địch để đánh địch và thắng địch một cách có lợi nhất, nhằm đạt

được những yêu cầu cơ bản của cách mạng miền Nam ta. Nhưng chúng ta không bao

giờ đặt sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta phụ thuộc vào kết quả của cuộc chạy

đua vào Nhà trắng giữa các tập đoàn tư bản Mỹ…, biết nắm thời cơ sử dụng linh hoạt

đấu tranh ngoại giao cũng là một điều rất quan trọng” [50, tr.366-367].

Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban

Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa III ra nghị quyết nhấn mạnh

“kiên quyết đấu tranh trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao, với tính chủ

động, linh hoạt cao” [8, tr. 540].

Chính sách đối ngoại của Mặt trận

Cuộc tấn công nổi dậy Tết Mậu thân 1968 là một thắng lợi lớn đánh dấu một

bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng chưa đủ để lập một Chính phủ

Liên hiệp dân tộc rộng rãi ngay giữa Sài Gòn. Do đó, đối với Ủy ban Trung ương

51

Mặt trận Dân tộc Giải phóng, vấn đề đặt ra là: có nên thành lập chính phủ cách

mạng của miền Nam trong vùng giải phóng hay không”. Các vị lãnh đạo chủ chốt

của Mặt trận Dân tộc Giải phóng: Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Hữu

Thọ, Huỳnh Tấn Phát và Thường vụ Trung ương cục đã có cuộc họp đặc biệt bàn về

vấn đề này, phân tích tình hình miền Nam và thế giới, so sánh lực lượng giữa ta và

địch và cuối cùng nhất trí cho rằng cần lập ngay một chính phủ cách mạng để phát

huy thanh thế của cách mạng miền Nam, quản lý vùng giải phóng và mở rộng quy

mô, tầm vóc của hoạt động đối ngoại. Đồng chí Phạm Hùng được cử ra Hà Nội

trình bày với Bộ Chính trị. Bộ Chính trị hoàn toàn tán thành.

Trước tình hình đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến

tranh”, tháng 6-1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Liên minh các lực

lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam cùng với các lực lượng yêu nước ở

miền Nam họp Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam.

Để đáp ứng yêu cầu lớn lao của cuộc chiến đấu, đáp ứng nguyện vọng của

toàn dân, để có cơ quan điều hành toàn bộ công việc nội trị và ngoại giao trong giai

đoạn lịch sử quang vinh này của nhân dân miền Nam Việt Nam, sau khi quyết định

chế độc chính trị của miền Nam Việt Nam là chế độ “Cộng hoà miền Nam”, Đại hội

quyết định thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam

và Hội đồng cố vấn bên cạnh Chính Phủ.

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là cơ quan

quyền lực tập trung nhất, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của toàn dân ở miền

Nam Việt Nam. Việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam

Việt Nam là một sự kiện chính trị rất quan trọng. Nó không những đánh dấu sự phát

triển của cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam mà còn giương cao ngọn cờ pháp

lý để tập hợp mạnh mẽ hơn các tầng lớp nhân dân miền Nam yêu nước, tán thành

hòa bình và trung lập.

Về đối ngoại, bên cạnh Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam,

nay lại thêm Chính phủ Cách mạng lâm thời. Với chính sách hòa bình, trung lập,

Chính phủ Cách mạng lâm thời và Mặt trận có thể thực hiện quan hệ với những đối

tượng ở nơi mà miền Bắc xã hội chủ nghĩa không có quan hệ. Như vậy làm phong

phú thêm hình thức và khả năng hoạt động đối ngoại Việt Nam và mở rộng hơn nữa

52

mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam.

Chính phủ cách mạng ra đời còn là một đòn giáng mạnh vào chính quyền Sài

Gòn, tay sai của đế quốc Mỹ. Việc thành lập Chính phủ là một cuộc vận động trung

lập, mở rộng hàng ngũ của Mặt trận cách mạng, là đòn tấn công chính trị mạnh mẽ

phối hợp với cuộc tấn công quân sự và giải pháp 10 điểm về ngoại giao, nâng cao

uy tín cách mạng miền Nam trên thế giới.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng với Liên minh các

lực lượng dân tộc dân chủ hoà bình Việt Nam và các đoàn thể khác vẫn hoạt động

mạnh mẽ, làm hậu thuẫn cho Chính phủ lâm thời.

Các cơ quan đại diện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

chuyển thành đại sứ quán của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Các phòng thông tin

của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở các nước khác đều đổi thành Phòng thông tin

của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Một số nơi giữ nguyên là Phòng thông tin của

Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Như vậy là, sau 8 năm rưỡi (12-1960 đến 5-1969), Mặt trận Dân tộc Giải

phóng miền Nam Việt Nam đã có thể giao chuyển toàn bộ chức năng của chính

quyền cách mạng: đối nội cũng như đối ngoại, kể cả tư cách đại diện của nhân dân

miền Nam tại hội nghị Pari về Việt Nam. Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời

Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập, Chính phủ Cách mạng cùng Mặt

trận Dân tộc Giải phóng càng mở rộng phạm vi hoạt động và càng được nhân dân

thế giới và nhân dân Mỹ ủng hộ mạnh mẽ.

Với những hoạt động tích cực trên phương diện đối ngoại của Mặt trận Dân

tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ở thời gian trước (1960-5/1969) nên vị trí, uy

tín của Mặt trận vẫn được nhân dân thế giới coi trọng. Hoạt động đối ngoại của Mặt

trận vẫn tiếp tục được tiến hành trong thời gian này. Những hoạt động ngoại giao

mang tính chất Nhà nước và vị trí đàm phán trên bàn Hội nghị Pari Mặt trận đã

chuyển giao sang Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Đối ngoại nhân dân tiếp tục được Mặt trận phát triển với những hoạt động phong

phú, đa dạng tạo hậu thuẫn vững chắc cho ngoại giao Nhà nước. Trong khoảng thời

gian này, đối ngoại của Mặt trận thường có sự gắn kết chặt chẽ với Chính phủ cách

53

mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

2.2. Hoạt động đối ngoại của Mặt trận

Trong giai đoạn 1960-5/1969, Mặt trận làm rất tốt công tác đối ngoại, đặc biệt

trên phương diện công tác vận động quốc tế nhưng chỉ với tư cách phong trào.Từ

tháng 6-1969, đấu tranh ngoại giao, đàm phán và vận động quốc tế của Chính phủ

Cách mạng lâm thời và Mặt trận Dân tộc Giải phóng có thêm thuận lợi mới, có điều

kiện phát huy cao sự phối hợp giữa ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân, tiếp

thêm sức mạnh cho cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao của cả nước.

2.2.1 Tuyên truyền, vận động nhân dân thế giới ủng hộ cách mạng Việt Nam

và tăng cường tình đoàn kết hữu nghị

Trong giai đoạn này Mặt trận tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân

dân thế giới ủng hộ cuộc chiến tranh của nhân dân Việt Nam chống lại đế quốc Mỹ

xâm lược và chính quyền tay sai tại Sài Gòn.

Mặt trận chủ động tích cực đến thăm các nước trên thế giới nhằm đẩy mạnh

hoạt động đối ngoại, tăng cường mối quan hệ hữu nghị. Không chỉ vậy, Mặt trận

cũng vẫn chủ trương tố cáo tội ác của Mỹ trước dư luận thế giới, kêu gọi sự ủng hộ

của nhân dân thế giới và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời thực

thi những chức năng của một chính quyền từ đối nội đến đồi ngoại, Mặt trận Dân

tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thời gian này hoạt động đối ngoại với tư cách

là đối ngoại nhân dân. Phát huy những thành quả đối ngoại từ giai đoạn trước, thời

gian này Mặt trận tiếp tục đến thăm những quốc gia trên thế giới trong hệ thống các

nước xã hội chủ nghĩa, những nước châu Phi, châu Âu… như Xô-fia tháng 4-1971,

U-Lan Bato tháng 6-1971, Cu Ba tháng 7-1972, Liên Xô tháng 3-1973, An-giê-ri

tháng 9-1973, vùng giải phóng Lào tháng 5-1974, Cộng hòa Irắc tháng 12-1974,

Nam Tư tháng 10-1975, Cu Ba tháng 12-1975…; tham dự những hội nghị khu vực

và quốc tế như Hội nghị cấp cao các nước không liên kết lần thứ 4 họp tại An-giê

vào tháng 10-1973…

Mặt trận tiếp tục tố cáo tội ác của Mỹ trước dư luận thế giới.

Trong thư gửi nhân dân Mỹ nhân ngày độc lập của nước Mỹ (4-7-1970), luật

sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc

Giải phóng miền Nam Việt Nam viết: “Năm nay ngày 4-7 đến với các bạn trong khi

54

Tổng thống Nixơn đã biến cuộc chiến tranh ở Việt Nam thành ba cuộc chiến tranh

diệt khủng ở khắp Đông Dương, và tại nước Mỹ, cuộc khủng hoảng về nhiều mặt

do cuộc chiến tranh đó gây ra càng trở nên trầm trọng. Những khó khăn về kinh tế,

tài chính càng chồng chất, và nhiều vấn đề đối nội bức thiết của nước Mỹ đang đòi

phải sớm giải quyết. Tuy vậy, Tổng thống Nich Xơn vẫn khăng khăng theo đuổi

chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”, duy trì chế độ độc tài thối nát ở Sài Gòn

làm công cụ tiếp tục kéo dài và mở rộng cuộc chiến tranh hao người tốn của ở miền

Nam Việt Nam.”

Khi Mỹ tăng cường những biện pháp chiến tranh ác liệt ở chiến trường miền

Nam vào những năm 1971-1973, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng

miền Nam Việt Nam đã “cực lực tố cáo trước dư luận trong nước và trên thế giới

việc Mỹ - ngụy cưỡng bách di dân và dồn dân ở miền Nam Việt Nam vào các trại

tập trung, đòi chúng phải chấm dứt ngay những hành động phát xít”.

Mặt trận tiếp tục kêu gọi sự giúp đỡ của thế giới đối với cuộc đấu tranh chính

nghĩa của nhân dân miền Nam Việt Nam.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam bày tỏ mong muốn nhân

dân các nước đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa

miền Nam Việt Nam. Trong dịp Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền

Nam Việt Nam đi thăm Ấn Độ, ông Nguyễn Văn Tiến đã tham gia họp báo tại Ấn

Độ, chiều ngày 1-1-1970. Trước đông đủ các nhà báo Ấn Độ và nước ngoài đến dự,

ông Nguyễn Văn Tiến đã “tỏ ý hy vọng rằng cuộc đi thăm này sẽ góp phần tăng

cường quan hệ giữa Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam

với Chính phủ Ấn Độ” [, tr.4].

Trong lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, ngày

29-10-1972 viết: “Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam kêu gọi nhân dân Liên Xô, nhân dân Trung Quốc và nhân dân các nước Xã hội

chủ nghĩa khác, kêu gọi nhân dân các dân tộc yêu chuộng độc lập và tự do, nhân dân

Mỹ yêu chuộng hòa bình, công lý và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới hãy đấu tranh

kiên quyết đòi chính phủ Mỹ phải ký kết ngay hiệp định đã thỏa thuận giữa Mỹ và

Việt Nam dân chủ Cộng hòa để nhanh chóng chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở

Việt Nam. Nhân dân và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam kêu gọi tất

55

cả anh em bầu bạn khắp năm châu, trước đây đã nhiệt liệt đồng tình ủng hộ nhân dân

miền Nam Việt Nam, hãy ủng hộ và giúp đỡ mạnh mẽ hơn nữa sự nghiệp chính nghĩa

của nhân dân chúng tôi cho đến thắng lợi hoàn toàn” [81, tr.1-2].

Trong bức điện gửi tới mừng Hội nghị thế giới đoàn kết với nhân dân

Capuchia ngày 8-12-1973, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ viết: “Từ trước đến nay,

chúng tôi luôn luôn đánh giá cao những hành động tích cực và hiệu quả của các

lược lượng hòa bình, dân chủ tiến bộ thế giới đã thường xuyên phối hợp với nhân

dân Việt Nam, Campuchia, Lào đấu tranh chống chiến tranh xâm lược của Đế quốc

Mỹ ở các nước Đông Dương.

Tại hội nghị quan trọng này, chúng tôi mong rằng các đại biểu sẽ có những

biện pháp tích cực và khẩn cấp ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Campuchia và

ngăn chặn những hành động và mưu đồ của chính phủ Mỹ, gây lại chiến tranh ở

miền Nam Việt Nam, đòi hỏi chính phủ Mỹ và chính quyền Sài Gòn thi hành

nghiêm chỉnh Hiệp định Pari về Việt Nam và giúp đỡ việc thực hiện Hiệp định

Viên-chăn về Lào” [28, tr.1].

Thực hiện nghĩa vụ quốc tế.

Mặt trận nêu cao nhiệm vụ đánh đế quốc Mỹ xâm lược với mục tiêu chung

của thế giới là vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhiệm vụ này có ý nghĩa quốc

tế to lớn và đã được các nước trên thế giới ghi nhận. Tháng 7-1969, trong dịp kỷ

niệm lần thứ sáu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Vác-xô-vi

(Ba Lan), giáo sư J.Grô-xcốp-xki đã nói: “Từ mười mấy năm qua, đế quốc Mỹ đã

tiến hành một cuộc chiến tranh tàn bạo nhất trong lịch sử chống lại nhân dân Việt

Nam anh hùng. Trong cuộc đấu tranh chính nghĩa của mình, nhân dân Việt Nam đã

vượt nhiều khó khăn gian khổ, chịu mọi hy sinh to lớn và đã giành được thắng lợi

vẻ vang. Bằng chủ nghĩa anh hùng của mình nhân dân Việt Nam đã trở thành niềm

tự hào của loài người, là tượng trưng cho chính nghĩa và giá trị của các dân tộc đang

chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và dân chủ” [29, tr.4].

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tiếp tục thực hiện nghĩa

vụ quốc tế. Trong lúc đang chiến đấu, Mặt trận cũng bày tỏ tình đoàn kết, tích cực

ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, các cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân

thế giới. Điều đó càng gắn kết cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu

56

tranh của nhân dân các nước.

Từ năm 1970, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh, tiến đánh sang

Campuchia, Lào, Mặt trận đã chủ động thống nhất phối hợp hoạt động với bạn, giúp

đỡ bạn phát triển nhanh lực lượng vũ trang, phối hợp mở các chiến dịch chiến đấu

mới, tổ chức các chiến dịch phản công lớn, giải phóng nhiều vùng đất đai, nối liền

căn cứ giải phóng, tạo ra một cục diện mới, chưa từng có ở Campuchia, Lào khiến

Mỹ rơi vào thế lúng túng, bị động đối phó trên cả chiến trường Việt Nam và

Campuchia, Lào.

Mặt trận chủ trương đoàn kết chặt chẽ với Lào, Campuchia để chống đế quốc

Mỹ xâm lược. Ngày 9-3-1970, Chủ tịch Mặt trận đã gửi tới Hoàng thân Xuvaluvông

bức điện với nội dung là hoàn toàn ủng hộ giải pháp năm điểm của Mặt trận Lào

yêu nước. Văn bản có ghi: “Nhân dân miền Nam Việt Nam đánh giá cao giải pháp

chính trị về vấn đề Lào do Mặt trận Lào yêu nước đề ra và coi đó là một sáng kiến

rất quan trọng, là cơ sở hết sức đúng đắn để giải quyết vấn đề Lào... Chúng tôi kiên

quyết đòi Mỹ phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ năm 1962 về Lào, tôn

trọng chủ quyền, độc lập, trung lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của vương quốc

Lào, đòi Mỹ phải chấm dứt can thiệp và xâm lược Lào, rút hết quân đội, vũ khí và

phương tiện chiến tranh của Mỹ và lính đánh thuê Thái Lan ra khỏi Lào... Nhân dân

miền Nam Việt Nam tin tưởng sâu sắc rằng lập trường sáng ngời chính nghĩa và

giải pháp chính trị đúng đắn của Mặt trận Lào yêu nước nhất định sẽ được sự đồng

tình và ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân và Chính phủ các nước yêu chuộng hòa bình

và công lý trên toàn thế giới” [27, tr.1].

Mặt trận cùng phối hợp với nhân dân Lào, Campuchia chống Mỹ. Giáo sư

Nguyễn Văn Hiếu đã phát biểu trong Đại hội Đảng lần thứ 24 của Liên Xô như sau:

“Do Mỹ mở rộng chiến tranh Đông Dương biến thành một chiến trường. Nhân dân

ba nước Đông Dương trung thành với bản tuyên bố chung của Hội nghị cấp cao ba

nước Đông Dương, đã đoàn kết thành một khối kiên quyết chống đế quốc Mỹ và tay

sai, nhằm bảo vệ những quyền dân tộc cơ bản của mình và biến Đông Dương thành

một vùng độc lập, hòa bình”.

Dưới ngọn cờ đoàn kết của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam, nhân dân miền Nam không sợ hy sinh gian khổ, kề vai sát cánh cùng đồng

57

bào miền Bắc, cùng nhân dân Lào và Campuchia anh em, thừa thắng xốc tới, quyết

đánh và quyết thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược và tay sai, làm tròn nghĩa vụ

thiêng liêng đối với dân tộc và nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình” [24, tr.4].

Tại Hội nghị cấp cao các nước không liên kết, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ

khẳng định: Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam và chính quyền Sài

Gòn thi hành triệt để Hiệp định Pari là bộ phận không thể tách rời trong cuộc đấu

tranh chung của các nước không liên kết chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực

dân cũ và mới.

Chủ tịch Cu Ba Phi đen CaXtơrô nói trong buổi Hội đàm giữa Bộ chính trị

Cu Ba với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách

mạng Lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, ngày 21-7-1972 rằng: “Việc đoàn

đại biểu miền Nam Việt Nam sang thăm và dự lễ kỷ niệm ngày 26-7 là một sự cổ vũ

hết sức lớn lao đối với toàn Đảng, toàn dân Cu Ba, vì Việt Nam ngày nay là một bài

học, một tấm gương lớn cho thế giới” [7, tr.1].

Năm 1973, khi bọn Pinôchê tiến hành đảo chính quân sự tại Chilê, lật đổ

Chính phủ của Liên minh đoàn kết nhân dân Chilê do Tổng thống A-gien-đê đứng

đầu, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam bày tỏ tình đoàn kết với

nhân dân Chilê. Ủy ban Trung ương Mặt trận ra tuyên bố: “Nhân dân và Mặt trận

dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam khẳng định tình đoàn kết chiến đấu trước

sau như một của mình đối với sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Chilê.

Chúng tôi kịch liệt lên án đế quốc Mỹ, kẻ đã giúp đỡ và chỉ huy cuộc đảo chính

quân sự phản động ở Chilê và đang câu kết với các thế lực phản động chống lại độc

lập và chủ quyền của nhân dân Chilê và các nước Mỹ Latinh. Chúng tôi kịch liệt lên

án những hành động đàn áp phát xít của tập đoàn quân sự phản động Chilê và kiên

quyết đòi chúng phải chấm dứt ngay những hanfhd dộng khủng bố đẫm máu…

Chúng tôi tin rằng các nước không liên kết, các tổ chức dân chủ và các lực lượng

yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới sẽ có những biện pháp cấp bách

chặn bàn tay đẫm máu của bọn quân sự đảo chính ở Chi-lê, kịp thời cứu tính mạng

hàng vạn người yêu nước Chi-lê đang bị đe dọa nghiêm trọng.[10-1973, tr.4]

Trong bức điện trả lời ông Hu-a-ri Bu-mê-điên, Chủ tịch Hội đồng cách

mạng An-giê-ri ngày 12-10-1973 về tình hình nghiêm trọng hiện nay ở Trung Đông

do bọn xâm lược I-xra-en, tay sai của đế quốc Mỹ gây nên, Luật sư Nguyễn Hữu

58

Thọ khẳng định: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam… nhiệt liệt

hoan nghênh chiến công đầu của nhân dân và các lực lượng vũ trang của nước Cộng

hòa A-rập Ai-cập, nước Cộng hòa A-rập Xy-ri và quân du kích Pa-le-xtin. Chúng

tôi vô cùng căm phẫn trước những tội ác man rợ của bọn xâm lược I-xra-en thách

thức láo xược đối với Nghị quyết Hội nghị cấp cao các nước không liên kết lần thứ

tư, đối với dư luận của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế

giới…[31, tr.1].

Nhân dân thế giới tiếp tục ủng hộ Mặt trận chống đế quốc Mỹ xâm lược

Sự mở rộng về mặt không gian, sự bền bỉ theo thời gian đã tạo nên một

phong trào ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và nhân dân

miền Nam với những hình thức đa dạng và nội dung phong phú. Trong giai đoạn

1969 – 1975, phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng

miền Nam Việt Nam và nhân dân Việt Nam bằng nhiều hình thức.

Trên cơ sở chính sách ngoại giao xuyên suốt của Mặt trân là “hòa bình, trung

lập” với mục tiêu phù hợp với yêu cầu chung của thế giới nên Mặt trận đã nhận

được sự giúp đỡ to lớn về mọi mặt từ nhân dân tiến bộ thế giới. Chủ nghĩa đế quốc

Mỹ đã trở thành kẻ thù của loài người. Cuộc đảo chính quân sự phát xít ở Chilê

chống lại chế độ tiến bộ của Tổng thống A-gien-đê, cuộc chiến tranh bùng nổ lại ở

Trung Đông do chính sách gây chiến và xâm lược của I-xra-en và sự can thiệp của

đế quốc Mỹ, những hành động tiến công khiêu khích trắng trợn của Mỹ đối với các

tàu biển Cu-ba, những hành động của Mỹ và chính quyền Sài Gòn vi phạm ngày

càng nghiêm trọng các điều khoản của Hiệp định Pari về Việt Nam… cho thấy rõ

rằng chủ nghĩa đế quốc Mỹ, kẻ thù nguy hiểm nhất của loài người, đang ngoan cố

dùng những thủ đoạn hết sức tàn bạo và xảo quyệt để chống lại các trào lưu cách

mạng của nhân dân thế giới. Chính bởi vậy, sự đoàn kết của nhân dân thế giới

chống lại chủ nghĩa đế quốc là nhiệm vụ chung của loài người với mục tiêu hòa

bình, dân chủ.

Nhân dân thế giới ủng hộ qua thư từ, điện mừng: Nhân kỷ niệm ngày thành

lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, các Đảng Cộng sản, các vị

lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các đoàn thể nhân dân nhiều nước trên thế giới đã gửi

điện mừng đến các vị lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ cách

mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Những bức điện mừng của Liên Xô,

59

Trung Quốc, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng nước Cộng hòa nhân dân Bun-ga-ri, Bí

thư thứ nhất Đảng Xã hội chủ nghĩa công nhân Hung-ga-ri, Chủ tịch đoàn chủ tịch

nước Cộng hòa nhân dân Hung-ga-ri Phan Lô-xôn-xi, Chủ tịch Hội đồng toàn quốc

Mặt trận nhân dân yêu nước Hung-ga-ri Giu-la Can-lai, Ủy viên Đoàn chủ tịch Ban

chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, Ban chấp hành Trung ương Đảng

Cộng sản Ý, Đảng Cộng sản cánh tả Thụy Điển, Đảng Xã hội Cánh Tả Đan Mạch,

Liên đoàn thanh niên dân chủ thế giới, Đảng Cộng sản Nhật Bản ... đều bày tỏ tình

đoàn kết và sự ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh anh dũng và tất thắng của nhân dân

Việt Nam.

Bạn bè quốc tế đón tiếp Đoàn đại biểu Cộng hòa miền Nam Việt Nam nói

chung và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam nói riêng như người

bạn quý, người bạn anh hùng. Những phong trào mít tinh đón đoàn, tiếp đoàn và

tiễn đoàn diễn ra đầy tình nghĩa. Màu cờ của Mặt trận được tung bay ở nhiều quốc

gia trên thế giới, những băng khẩu hiệu “Nhiệt liệt chào mừng các sứ giả của nhân

dân miền Nam Việt Nam anh hung”, “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam muôn năm” được giương cao. Bài ca “Giải phóng quân miền Nam” cũng được

vang lên ngay trên quốc gia của nước bạn.

Ngày 23-12-1970, được sự ủy nhiệm của Chính phủ nước Cộng hòa nhân

dân Triều Tiên, đồng chí Kim Kiêng Riên, Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế đối ngoại của

Triều Tiên, đã trao cho Đại sứ Cộng hòa miền Nam Việt Nam Vũ Ngọc Hồ bức thư

nói về việc Chính phủ Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên gửi Mặt trận Dân tộc

Giải phóng và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam một

số hàng gồm vải, thuốc men và thực phẩm giúp nhân dân bị bão lụt ở vùng Trung

Trung Bộ [25, tr4].

Nhân dân thế giới tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình ủng hộ Mặt trận Dân

tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tháng 12-1969, để hưởng ứng tháng đoàn kết

với Việt Nam, lập thành tích chào mừng kỷ niệm lần thứ chín ngày thành lập Mặt trận

Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, nhiều tỉnh, thành phố, cơ quan, trường học,

xí nghiệp ở Cộng hòa Dân chủ Đức, đã tổ chức mít tinh, đi lao động lấy tiền ủng hộ

Việt Nam. Ở tỉnh Ha-lơ, cuộc mít tinh đã thu hút tới 2000 người [20, tr.4].

Tối ngày 25-1-1970, 2000 nhân dân Anh, tay cầm đuốc rầm rộ biểu tình tuần

hành qua các phố Luân Đôn và kéo đến trụ sở của Quốc hội và thủ tướng Anh. Sinh

60

viên trường Đại học Giôn-Xmít cũng đã biểu tình chống lại tên Cao Xuân Vệ - ủy

viên quân sự sứ quán ngụy tại Luân Đôn. Họ nêu cao khẩu hiệu: “Chủ tịch Hồ Chí

Minh muôn năm!”, “Thắng lợi thuộc vể Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Việt Nam” [21, tr.1].

Nhân dân Pháp tổ chức cuộc mít tinh to lớn ủng hộ nhân dân Việt Nam

vào ngày 12-2-1970 tại Pari. Tới dự cuộc mít tinh có Đảng Cộng Pháp và 3000

nhân dân Pháp còn có Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Việt Nam [58, tr.4].

Trên thế giới nồng nhiệt mít tinh kỷ niệm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc

Giải phóng miền Nam Việt Nam, tiêu biểu là cuộc mít tinh của 400 đại biểu Đảng

Cộng sản, Đảng Xã hội, các công đoàn và các tổ chức quần chúng của Nhật Bản

ngày 18-12-1970 [54, tr.4]; cuộc mít tinh trọng thể của hơn một vạn nhân dân Trung

Quốc tại lễ đường Quốc hội Trung Quốc ngày 20-12-1970 [115, tr.4].

Tại nước Mỹ, ngày 24-4-1971, năm trăm nghìn nhân dân thuộc đủ các giới,

các thành phần rầm rộ mít tinh, biểu tình tại thủ đô Oa-sinh-tơn đòi chấm dứt chiến

tranh xâm lược Việt Nam, rút hết quân Mỹ về nước. Đi đầu là hàng nghìn cựu chiến

binh và 300 sĩ quan tại ngũ mặc quân phục, mang theo quốc kỳ Mỹ và cờ của Mặt

trận Dân tộc Giải phóng. Cùng đi biểu tình có bà Coretta King (vợ mục sư Luther

Kinh đã bị ám sát) và khoảng 20 nghị sĩ trong đó có Phillip Hart, John Conyers,

Vance Hartke, McGovern. Phong trào phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam tại

nước Mỹ diễn ra mạnh mẽ. Ngày 9-5, đông đảo nhân dân Mỹ tham gia vào ngày

toàn quốc phản đối chiến tranh Việt Nam ở khắp nước Mỹ [113, tr.1].

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được Chính phủ, Đảng

cộng sản các nước mời sang thăm đất nước, dự Đại hội và những sự kiện quan trọng

khác. Đó là những chuyến đi của Đoàn đại biểu Mặt trận tham dự Đại hội Đảng

cộng sản Pháp [87, tr.4], Đảng cộng sản Liên Xô, Đảng cộng sản Tiệp Khắc [66,

tr.1], Đại hội lần thứ 14 Đảng Cộng sản Bungari ... Khi dự Đại hội lần thứ 19 của

Đảng Cộng sản Pháp, Đoàn đại biểu đã gửi tới Đại hội bức điện với những lời chúc

mừng mà Đảng Cộng sản đã làm được và cảm ơn Đảng Cộng sản và nhân dân Pháp

luôn dành cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam sự

ủng hộ chí tình và sự giúp đỡ ngày càng to lớn. Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải

61

phóng miền Nam Việt Nam đi dự Đại hội lần thứ 16 Đảng Nhân dân Cách mạng

Mông Cổ tổ chức tại thủ đô U-Lan Ba-tơ vào ngày 7-6-1971. Đoàn đại biểu sang dự

Lễ kỷ niệm lần thứ 50 cách mạng nhân dân Mông Cổ.

Ngày 1-1-1970, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam và Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của miền Nam Việt Nam do ông Nguyễn

Văn Tiến, Ủy viên trung ương Mặt trận dẫn đầu đi thăm Ấn Độ. Đoàn đại biểu đã

được các cấp lãnh đạo, nhân dân Ấn Độ đón tiếp nồng nhiệt. Hàng trăm đại biểu

nhân dân Ấn Độ nhiệt liệt chào mừng đoàn, hô vang các khẩu hiệu: “Mặt trận Dân

tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam muôn năm!”, “Đế quốc Mỹ rút khỏi miền Nam

Việt Nam”, “Chủ tịch Hồ Chí Minh bất diệt!”.

Nhận lời mời của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Đoàn

đại biểu Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam do

ông Hồ Xuân Sơn, Ủy viên Ban Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận, dẫn đầu đã

đến Mát-xcơ-va chiều ngày 11-4-1970 để dự lễ kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh

V.I.Lê-nin [66, tr.4].

Nhận lời mời của Chính phủ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên,

Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ cách

mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã cử một đoàn đại biểu đi dự Tháng

đấu tranh chung chống đế quốc Mỹ, đòi quân xâm lược Mỹ rút khỏi Nam Triều

Tiên. Ngày 23-6-1970, đoàn đã lên đường đi Bình Nhưỡng [55, tr.4].

Sau những chuyến thăm thể hiện tình hữu nghị giữa Mặt trận Dân tộc Giải

phóng với các quốc gia trên thế giới những thông cáo chung đã được ký kết. Từ

tháng 6-1969 đến tháng 4-1975, theo thống kê ban đầu qua Báo Nhân dân, Báo Đại

Đoàn kết, Mặt trận đã gần 20 lần ký thông cáo chung với các nước như Đức, Ba

Lan, Hung-ga-ri, Liên Xô, A-rập, Xy-ri, Triều Tiên, Tiệp Khắc, Mông Cổ, Công-gô,

Chi lê, Lào, Ai Cập…

Nội dung ủng hộ của nhân dân thế giới đối với Mặt trận Dân tộc Giải phóng

miền Nam Việt Nam thể hiện ở nhiều mặt.

Trên phương diện tinh thần, là sự ủng hộ các chính sách của Mặt trận. Nhân

dân thế giới ca ngợi chính sách đúng đắn của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam

Việt Nam đã giương cao ngọn cờ đoàn kết cứu nước, động viên nhân dân chiến đấu

62

giành thắng lợi. Trong cuộc biểu tình tại Pa-ri ngày 12-2-1970, đồng chí G.Mác-se

khẳng định rằng những người cộng sản và nhân dân Pháp hoàn toàn ủng hộ giải

pháp toàn bộ 10 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Trong bức điện Đảng Cộng sản Ý gửi Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 19-12-1970 “bày tỏ sự ủng

hộ hoàn toàn đối với những đòi hỏi chính đáng của Chính phủ Cách mạng lâm thời

miền Nam Việt Nam là Mỹ phải rút hết quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam, phải

thành lập ở Sài Gòn một chính phủ liên hợp lâm thời, phải để nhân dân miền Nam

Việt Nam tự quyết định tương lai của mình” [54, tr1].

Trong bức điện của Xăm-đéc Quốc trưởng Nôrôđôm Xihanúc, Chủ tịch

Mặt trận thống nhất dân tộc Campuchia gửi Luật sự Nguyễn Hữu Thọ nhân kỷ

niệm lần thứ mười thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng có viết: “Mặt trận Dân

tộc Giải phóng và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam

là người đại diện chân chính duy nhất và là quyền lực hợp pháp của nhân dân Việt

Nam anh em” [54, tr.1].

Những lời viết trong bức thư, bức điện là những tình cảm mà nhân dân thế giới

gửi đến Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặc dầu đó chỉ là những

lời nói động viên, mang tính chất cổ động tinh thần, nhưng nó cũng góp phần khẳng

định vị thế, vai trò của Mặt trận trên trường quốc tế. Thể hiện rõ sự gắn kết và mối

quan hệ của nhân dân thế giới với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam,

niềm tin chiến thắng vào cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.

Ngày 14-7-1969, Đồng chí Phiđen Caxtơrô tuyên bố: “Cu Ba nhất định

đạt mười triệu tấn đường! Mười điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền

Nam Việt Nam nhất định chiến thắng! Nhân dân Cu Ba và nhân dân Việt Nam

tràn đầy phấn khởi trước hai sự kiện: Cu Ba đang thực hiện thắng lợi kế hoạch

sản xuất mười triệu tấn đường và ở miền Nam Việt Nam vừa thành lập Chính

phủ cách mạng lâm thời” [64, tr.4].

Lên án đế quốc Mỹ tham gia vào cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam và

phá hoại Hiệp định Pari là một nội dung đấu tranh của nhân dân thế giới ủng hộ

nhân dân Việt Nam, ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và

Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam.

Ngày 23-6-1970, hơn 1700000 nhân dân khắp nước Nhật Bản đã tham gia

63

đấu tranh đòi hủy bỏ “hiệp ước an ninh Nhật – Mỹ”, đòi thu hồi toàn diện và không

điều kiện đảo Ô-ki-na-oa, chống Mỹ xâm lược Đông Dương, chống Mỹ xâm lược

Việt Nam, tỏ tình đoàn kết với nhân dân Việt Nam. [105, tr.4].

Đầu tháng 7-1970, nhân dân Cộng hòa dân chủ Đức đã lấy chữ ký, ra nghị

quyết lên án đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, bày tỏ lập trường ủng hộ mạnh mẽ

cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Nhân dân Ha-lơ đã thông qua

nghị quyết nêu rõ: “Chúng tôi nhiệt liệt chào mừng những thắng lợi to lớn và toàn

diện trong chín năm qua của quân và dân miền Nam Việt Nam và nghiêm khắc lên

án những hành động tàn bạo của đế quốc Mỹ ở Sơn Mỹ cũng như ở nhiều nơi khác

thuộc miền Nam Việt Nam. Một lần nữa, chúng tôi nguyện đem hết sức mình ủng

hộ đến cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam Việt Nam.” Nghị quyết cuộc mít

tinh ở Frai-bec có đoạn viết: “Chúng tôi đòi đế quốc Mỹ phải chấm dứt ngay những

hành động vô cùng tàn bạo ở miền Nam Việt Nam, phải chấm dứt xâm lược, rút hết,

rút không điều kiện quân đội Mỹ và quân chư hầu của Mỹ ra khỏi miền Nam Việt

Nam” [121, tr.4].

Ngày 22-1-1970, Hội luật gia dân chủ quốc tế đã ra thông cáo lên án tố cáo

tội ác của Mỹ. Bản thông cáo nêu rõ: “Hội luật gia dân chủ quốc tế trịnh trọng lên

tiếng phản đối những tội ác của Mỹ và lên án bọn xâm lược Mỹ đã vi phạm những

quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam, gây ra những vụ thảm sát ở Sơn Mỹ, Thăng

Bình và nhiều nơi khác trong đó hàng trăm dân thường không có vũ khí tự vệ đã bị

bắn chết” [tr.4].

Ngày 10-1-1970, Phó tổng thống Dămbia khẳng định với Ủy viên đoàn đại biểu

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời

Cộng hòa miền Nam rằng: “Vì danh dự và con người chúng tôi không bao giờ thay đổi

lập trưởng, chúng tôi luôn luôn ủng hộ cuộc chiến đấu của các bạn. Mỹ phải rút quân

không điều kiện khỏi miền Nam Việt Nam, để nhân dân Việt Nam tự giải quyết công

việc nội bộ của mình không có sự can thiệp của nước ngoài” [52, tr.4].

Ngày 14-2-1970, đồng chí G.Mác-se tuyên bố: đòi Mỹ rút hết, nhanh chóng

và không được đòi điều kiện gì tất cả quân đội của chúng cũng như quân đội các

nước ngoài phe Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, để nhân dân Việt Nam giải quyết

lấy công việc nội bộ của mình, không có sự can thiệp của nước ngoài .

Ngày 25-12-1970, đồng chí Kim Kiêng Riên, Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế đối

64

ngoại của Triều Tiên đã nói: “Tuân theo lời dạy của Thủ tướng Kim Nhật Thành,

cũng như trước đây, nhân dân Triều Tiên sau này sẽ tiếp tục đem hết sức mình tích

cực ủng hộ và giúp đỡ cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân miền Nam Việt

Nam chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ cho đến thắng lợi cuối cùng” [115, tr.4].

Mở cuộc điều tra tội ác của Mỹ ở miền Nam Việt Nam: Hội giúp đỡ khoa học

Mỹ họp vào năm 1972, tại cuộc họp các nhà khoa học Mỹ đã tố cáo tội ác thả thuốc

hóa học xuống Việt Nam. Bác sĩ GiamXtơn, giáo sư sinh vật trường Đại học Y-ên-nơ

nêu lên tác hại của những chất độc hóa học của Mỹ, gây ra ở miền Nam Việt Nam

như: Các bụi sú chết dọc các sông lạch, phải hơn 25 năm nữa mới mọc lại được; Ở

những nơi cây rừng bị diệt, đã xảy ra nạn xói lở; Ở những nơi thả một số chất độc hóa

học, sinh hoạt của nhân dân bị đảo lộn;... Ảnh hưởng tới việc sinh đẻ, làm cho con trẻ

mới sinh bị sứt miệng, điếc, không có óc, phổi không bình thường...”. Các nhà khoa

học Mỹ dự cuộc họp đã quết định mở cuộc điều tra và những hậu quả chiến tranh hóa

học của bọn xâm lược Mỹ ở miền Nam Việt Nam” [126, tr.1].

Ủng hộ trên phương diện vật chất.

Dưới khẩu hiệu “trái tim chúng ta hướng về Việt Nam”, tháng 1-1970, các

nhà máy liên hợp gang thép ở Ai-đen-huýt-ten-xtát đã tổ chức lao động ngoài giờ và

quyên góp tiền ủng hộ Việt Nam được hơn 13.700 mác. Nhân tháng đoàn kêt với

Việt Nam, đơn vị vũ trang tỉnh Xvê-rin đã quên góp hơn 100.000 mác, ngành làm

nhạc cụ của Cộng hòa dân chủ Đức đã tổ chức làm thêm ngoài giờ được hơn 75.000

mác ủng hộ Việt Nam [121, tr.4].

Trong bài phát biểu trả lời câu hỏi của bà Đan tại Quốc hội ngày 27-5-1971,

Bộ trưởng Bộ ngoại giao Thủy Điển khẳng định sẽ viện trợ cho Mặt trận Dân tộc

Giải phóng miền Nam Việt Nam ba triệu curon thông qua Hội chữ thập đỏ Thủy

Điển. Số tiền viện trợ này được dùng để mua thuốc và dụng cụ y tế [24, tr.3].

Tháng 1-1970, nhân tháng đoàn kết với Việt Nam, đơn vị vũ trang tỉnh

Xvêrin (nước Cộng hòa Tandania) đã có hơn 370 lượt người hiến máu ủng hộ

Việt Nam [121, tr.4].

Nhân dân Cu Ba ủng hộ Việt Nam với hình thức vụ mía 10 triệu tấn

đường để kỷ niệm lần thứ 10 nhân ngày Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

ra đời. “Đó là một biểu hiện mới hết sức cao đẹp của tình đoàn kết chiến đấu anh

65

em Cu Ba – Việt Nam” [64, tr.4].

Cùng với việc ủng hộ Mười điểm của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam, ngày 1-8-1969, đồng chí Phiđen Caxtơ đã có ý kiến sẽ giúp nhân

dân Việt Nam về giống lúa và các loại máy chặt mía. “Ngày nay, Cu Ba đã và sẽ

gửi tặng nhân dân Việt Nam những giống lúa có năng suất cao... Ngày nay Cu Ba

đã sản xuất được các loại máy chặt mía. Bất cứ lúc nào nhân dân Việt Nam cần đến,

Cu Ba sẵn sàng gửi giúp nhân dân Việt Nam anh em các máy chặt mía đó” [64,

tr.4]. Và hành động thực tiễn hơn, năm 1973, Chủ tịch Phi-đen Caxtơ đã đến thăm

đồng bào nhân dân miền Nam Việt Nam. Chủ tịch Phi-đen Ca-xtơ-rô phất cao lá cờ

của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và dõng dạc hô to như mệnh

lệnh: “Các đồng chí hãy mang lá cờ bách chiến bách thắng này cắm tại Sài Gòn!”,

“Hẹn gặp lại tại Sài Gòn sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng!”.

Nhân dân thế giới trao tặng những món quá quý báu cho đại diện Mặt trận

Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Chiều ngày 3-10-1974, tại Nhà Quốc hội,

thay mặt Đoàn chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, Chủ tịch Lu.

Xê-đen-ban đã trao tặng Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ huân chương Xu-khê Ba-to,

huân chương cao quý nhất của Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ và bộ quần áo dân tộc

Mông Cổ tỏ sự kính trọng đối với quý khách Việt Nam. Điều này là biểu hiện tốt

đẹp của mối tình đoàn kết chiến đấu và tình hữu nghị anh em giữa nhân dân Mông

Cổ và nhân dân miền Nam Việt Nam [tr.1-4]

Ngày 7-10-1974, nhận lời mời của Tổng thống nước Cộng hòa A-rập Xy-ri

Ha-phây En Át-xát, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ và Đoàn đại biểu Cộng hòa miền

Nam Việt Nam đã đến thủ đô Đa-mát. Trong cuộc gặp gỡ hai bên đã thân mật trao

đổi kinh nghiệm chiến đấu ở Việt Nam và Xy-ri và mối quan hệ giữa Đảng Bát và

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Hai bên nhất trí cho rằng cần

tăng cường tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân Cộng hòa A-rập Xy-ri và nhân

dân miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới. Nhân dịp này, Ngài Tổng Bí thư

Đảng Bát đã trao tặng Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ lá cờ của Đảng [61,tr.1].

Ngoài ra, chúng ta đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của Campuchia,

Lào để mua lượng lớn lương thực, thực phẩm, thuốc men, đạn dược cung cấp cho

chiến trường Nam Bộ và Tây Nguyên. Đặc biệt, Lào và Campuchia đã tạo điều kiện

cho quân đội ta mở đường vận chuyển lương thực, thực phẩm và vũ khí vào chiến

66

trường miền Nam. Một trong những tuyến đường quan trọng góp phần tạo thế chiến

lược tiến công địch trên cả ba nước là đường Trường Sơn huyền thoại. Đây được

xem là một căn cứ kháng chiến rất quan trọng, hậu phương chiến lược lớn, trực tiếp

gắn bó ba nước Đông Dương. Tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn được xây dựng,

củng cố và ngày càng mở rộng, gắn bó các chiến trường ba nước Đông Dương là

một trong những biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa

nhân dân và quân đội Việt Nam với nhân dân và quân đội các nước bạn Lào và

Campuchia anh em.

Nhân dân Lào và Campuchia cùng phối hợp với Mặt trận Dân tộc giải phóng

miền Nam Việt Nam đánh bại những kế hoạch mở rộng chiến tranh ra Đông Dương

của đế quốc Mỹ. Ở chiến trường Campuchia, những cuộc phối hợp chiến đấu giữa

quân tình nguyện Việt Nam và LLVT Campuchia đã đánh bại 10 vạn quân Mỹ và

ngụy quyền Sài Gòn khi chúng tấn công sang đất Campuchia tháng 4-1970, đánh

bại các cuộc hành quân lớn của Mỹ - ngụy "Chen La I" tháng 6-1970, "Toàn thắng"

tháng 2-1971, "Chen La II" tháng 8-1971, mở ra cục diện mới cho cách mạng

Campuchia, đồng thời tạo thế chiến lược có lợi cho quân và dân ta ở miền Nam.

Ngày 24-4-1970, Hội nghị cấp cao nhân dân ba nước Đông Dương họp tại

Quảng Châu (Trung Quốc), ra tuyên bố chung là cương lĩnh đấu tranh chung và

hiến chương chung về quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân ba nước chống Mỹ

xâm lược. Hội nghị nhằm tập hợp đoàn kết mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ của

ba nước, tranh thủ dư luận và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới đối với

cuộc kháng chiến của ba dân tộc, làm cho đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bị phân hóa,

cô lập. Ngày 7-2-1971, Mỹ và chính quyền Sài Gòn mở chiến dịch Lam Sơn 719

nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh ở Shespone, Hạ Lào. Quân đội Việt Nam và

Pathét Lào phối hợp đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 vào ngày 23-3-1971 [8,

tr.527]. Tinh thần đoàn kết ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia đã góp phần tạo

nên sức mạnh tổng hợp đánh bại đế quốc Mỹ, giải phóng ba nước khỏi ách xâm

lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai trong cùng một thời gian tương đối gần nhau:

Việt Nam và Campuchia giành được thắng lợi vào tháng 4-1975, Lào giành thắng

67

lợi vào tháng 12-1975.

2.2.2 Hoạt động đối ngoại của Mặt trận hỗ trợ ngoại giao Nhà nước trên

bàn đàm phán Pari và đấu tranh thi hành Hiệp định Pari.

Chính sách ngoại giao “hòa bình trung lập” của Mặt trận Dân tộc giải phóng

miền Nam Việt Nam đã được Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam

khẳng định lại. Chính phủ Cách mạng lâm thời quyết tâm: “Thực hiện chính sách

ngoại giao hòa bình trung lập, đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước tôn trọng

độc lập chủ quyền của Việt Nam. Chống chiến tranh xâm lược tích cực bảo vệ hòa

bình thế giới.”

Hoạt động đối ngoại của Mặt trận hỗ trợ ngoại giao của Chính phủ Cách

mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra

đời, hoạt động đối ngoại của Mặt trận giai đoạn đầu gắn liền với Chính phủ Cách

mạng. Và dần về sau thì chuyển hoạt động đối ngoại sang bộ ngoại giao của Chính

phủ Cách mạng, Mặt trận trở về thực hiện nhiệm vụ đối ngoại nhân dân.

Giai đoạn đầu Chính phủ Cách mạng mới ra đời, những hoạt động đối ngoại

như đi viếng thăm hữu nghị các nước, tham gia các Hội nghị quốc tế... đều gắn liền

với Mặt trận. Điều đó là bởi, dựa trên những nền tảng đối ngoại Mặt trận đã xây

dựng được trong những năm 1960-1969 sẽ góp phần củng cố và nâng cao vị trí của

Chính phủ Cách mạng trên trường quốc tế, đặc biệt là trong bàn đàm phán bốn bên

ở Pari về Việt Nam.

Có đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, có uy tín cao trong

quần chúng nhân dân trong nước và trên thế giới đó là kết quả hoạt động đối ngoại

bền bỉ của Mặt trận Dân tộc giải phóng từ năm 1960-5/1959. Và khi Chính phủ cách

mạng lâm thời ra đời cũng đã nhanh chóng được nhân dân thế giới thừa nhận và ủng

hộ mạnh mẽ. Ngay sau khi việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời được

công bố các nước anh em, bạn bè, các đoàn thể quốc tế nhiệt liệt hoan nghênh và

đón chào và công nhận Chính phủ. Chỉ trong tháng 6-1969, đã có 23 nước công

nhận và lập quan hệ ngoại giao với Chính phủ Cách mạng lâm thời. Các cơ quan đại

diện, các Phòng Thông tin của Mặt trận ở các nước đều chuyển thành Đại sứ quán

và Phòng Thông tin của Chính phủ Cách mạng lâm thời.

Cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai đã kéo dài gần 15 năm, cuộc

68

đàm phán Pari đã được mở ra, yêu cầu chính trị phục vụ cho cuộc đàm phán được

đặt lên là chính. Bởi vậy, sự thành lập Chính Phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa

miền Nam Việt Nam là phù hợp. Tại cuộc đàm phán ở Pari về Việt Nam, đại diện

cho miền Nam có Mặt trận Dân tộc Giải phóng và chính quyền Sài Gòn. Mặt trận

Dân tộc Giải phóng làm rất tốt công tác vận động quốc tế nhưng chỉ với tư cách

phong trào. Nay có Chính phủ Cách mạng, ta có điều kiện phát huy cao sự phối hợp

giữa ngoại giao Nhà nước với ngoại giao nhân dân. Trong hoạt động quốc tế có

những lĩnh vực mà chính quyền tham gia mới thuận, chẳng hạn Hội nghị các nước

Không liên kết. Các phong trào thường chỉ được mời làm quan sát viên. Việc cấp hộ

chiếu cho cán bộ ngoại giao đi quốc tế cũng khó khăn. Nhưng quan trọng hơn cả là

có Chính phủ Cách mạng, ta giành một vị thế bình đẳng thật sự tại bàn đàm phán

cũng như trong tiến hành giải pháp sau này. Sự kiện này thể hiện rõ sự phát triển

trong hoạt động đối ngoại của Mặt trận nói riêng và của ngoại giao nước Việt Nam

Dân chủ cộng hòa nói chung.

Trên bàn đàm phán Pari, từ phiên họp lần thứ 21 ngày 12-6-1969 trở đi, tiếp

tục và kiên trì quan điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, đại diện Chính phủ

Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam công bố: Đoàn đại biểu Mặt

trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Pari về Việt Nam nay trở

thành Đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời do Bà Nguyễn Thị Bình, Bộ

trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ cách mạng lầm thời Cộng hòa miền Nam Việt

Nam là trưởng đoàn.

Trên cơ sở giải pháp toàn bộ 10 điểm ngày 8-5-1969 của Mặt trận Dân tộc

Giải phóng, ngày 17-9-1970, đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời đưa ra “giải pháp

8 điểm”. Với sự nỗ lực của quân và dân Việt Nam, ngày 27-1-1973, hiệp định Pari

về Việt Nam đã được ký kết. Và đến năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ của

nhân dân miền Nam toàn thắng với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Hiệp định Pari được ký kết có một ý nghĩa lịch sử to lớn. Cùng với Hiệp định

Giơnevơ về Đông Dương, sự kiện này cho thấy bước tiến trên con đường xây dựng

nền ngoại giao độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế của Đảng, của nhân dân ta. Đó là

thành tựu nổi bật của ngoại giao trong thời đại Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên sau khi hiệp định Pari được ký kết, Hoa Kỳ và chính quyền Sài

Gòn vẫn chưa thi hành theo hiệp định. Bởi vậy cùng với Chính phủ Cách mạng lâm

69

thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thì Mặt trận cũng tích cực, chủ động vận động

nhân dân thế giới lên án đế quốc Mỹ, yêu cầu đế quốc Mỹ và tay sai thực thi

nghiêm chỉnh hiệp định Pari.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng vận động nhân dân thế giới ủng hộ Chính phủa

Cách mạng lâm thời và đòi chính quyền Sài Gòn và đế quốc Mỹ thi hành theo Hiệp

định Pari đã ký kết.

Ngay khi Hiệp định Paris có hiệu lực, quân và dân miền Nam Việt Nam đã

thi hành nghiêm chỉnh hiệp định, thực hiện ngừng bắn trên toàn chiến trường, trao

trả đầy đủ tù binh Mỹ và tù binh chính quyền Sài Gòn.

Tuy nhiên chính quyền Sài Gòn có sự hỗ trợ đứng sau của đế quốc Mỹ đã có

những hành động phá hoại Hiệp định Pari. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu huy

động nhiều máy bay ném bom bắn phá thị trấn Lộc Ninh và vùng Bà Đốp, giết và

làm bị thương trên 100 dân thường, phá hủy nhiều nhà cửa, trường học, bệnh

viện… [8, tr.541], Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam công bố lệnh

kiên quyết giáng trả những hành động chiến tranh, vi phạm Hiệp định Paris của

chính quyền Sài Gòn.

Tại Hội nghị hiệp thương hai bên miền Nam ở La Celle Saint Cloud (Paris)

ngày 25-4-1973, Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời nghiêm khắc tố cáo và

phê phán các hành động phá hoại hiệp định của Chính quyền Sài Gòn, tranh thủ dư

luận gây sức ép buộc chính quyền Nguyễn Văn Thiệu phải tôn trọng Hiệp định

Paris. Hoạt động đối ngoại của Mặt trận hướng vào việc đòi Mỹ và chính quyền Sài

Gòn thi hành hiệp định; lên án chính quyền Sài Gòn không chịu ngừng bắn, không

thả hết tù nhân chính trị. Trong tuyên truyền quốc tế, Mặt trận và Chính phủ Cách

mạng lâm thời cũng vận động báo chí quốc tế gợi lại hình ảnh các “chuồng cọp” để

tăng sức ép với Sài Gòn [70, tr.183].

Trong Hội nghị cấp cao các nước Không liên kết lần thứ tư tại Alger tháng 9

năm 1973, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ chỉ ra rõ những hành động phá hoại Hiệp

định Pari của chính quyền tay sai và đế quốc Mỹ: Hiệp định về chấm dứt chiến

tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết và có hiệu lực từ tháng 1-1973.

Thực tế 9 tháng qua đã cho thấy rằng chính quyền Sài Gòn và Hoa Kỳ đã vi phạm

một cách có hệ thống và rất nghiêm trọng những điều khoản trọng yếu của Hiệp

định Pari, nhất là điều khoản về ngừng bắn. Họ liên tiếp hành quân lấn chiếm, cho

70

máy bay ném bom, bắn phá vùng kiểm soát của Chính phủ Cách mạng lâm thời từ

Quảng Trị, Thừa Thiên Huế đến Nam Bộ. Họ ráo riết tiếp tục chương trình “bình

định”, bắt bớ, khủng bố, tàn sát đồng bào ta ở các vùng đô thị và nông thôn nằm

dưới sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn. Họ đặt ra hàng trăm thứ thuế, bóc lột

đến tận xương tủy đồng bào ta để nuôi dưỡng bộ máy chiến tranh… Họ khăng

khăng khước từ mọi đề nghị hợp tình hợp lý của Chính phủ Cách mạng lâm thời tại

Hội nghị hiệp thương giữa hai bên miền Nam Việt Nam tại Pari và phá hoại hoạt

động bình thường của Ban liên hợp quân sự hai bên và Ủy ban quốc tế. Mỹ là một

bên ký Hiệp định Pari, là kẻ đã nuôi dưỡng và chỉ huy chính quyền Sài Gòn, phải

chịu trách nhiệm hoàn toàn về tình hình nghiêm trọng hiện nay ở miền Nam Việt

Nam. Chính các cố vấn Mỹ ngụy trang là chuyên viên dân sự đang chỉ huy kế hoạch

càn quét lấn chiếm, chỉ huy chương trình “bình định”. Chính Mỹ đã đưa thêm một

cách trái phép vũ khí và dụng cụ chiến tranh vào miền Nam Việt Nam. Âm mưu của

Mỹ từ sau khi có Hiệp định Pari vẫn là duy trì và củng cố chính quyền Thiệu để làm

công cụ thực hiện “học thuyết Nich-Xơn”, giúp Thiệu tăng cường và củng cố quân

đội Sài Gòn và bộ máy cảnh sát hòng tiếp tục duy trì tình trạng chiến tranh, duy trì

chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Do âm mưu và hành động

phá hoại Hiệp định Pari của Mỹ và chính quyền Sài Gòn cho nên miền Nam Việt

Nam chưa thật sự có hòa bình [8, tr.540].

Ngày 22-12-1973, tại cuộc mít tinh ở Ác-mê-ni-a Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ

nêu: “Tuy bị thất bại nhưng cho đến nay Hoa Kỳ vẫn chưa từ bỏ mưu đồ xấu xa đối

với đất nước chúng tôi. Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn đang phá hoại một cách

nghiêm trọng Hiệp định Pari. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam do

đó phải tiếp tục và còn khó khăn gian khổ. Lập trường của Mặt trận dân tộc giải

phóng và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là quyết

tâm đấu tranh để buộc Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn phải thi hành nghiêm chỉnh

và triệt để Hiệp định Pari”. [114, tr.4].

Hoạt động tuyên truyền, vận động tranh thủ sự ủng hộ nhân dân thế giới của

Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời trong những năm 1973-1975 đã làm cho

dư luận thế giới nhận thức rõ trắng – đen, chính – tà, thấy rõ chính quyền Sài Gòn

phá hoại Hiệp định Paris.

Nhân dân thế giới yêu cầu chính quyền Sài Gòn và đế quốc Mỹ nghiêm chỉnh

71

thi hành theo Hiệp định quốc tế Pari.

Với những hoạt động đối ngoại tích cực, trong những chuyến thăm hữu nghị

các nước trên thế giới, trong những hội nghị quốc tế, Mặt trận dân tộc giải phóng

luôn tố cáo những hành động sai trái, phá hoại Hiệp định Pari của chính quyền Sài

Gòn và đế quốc Mỹ tới bạn bè năm châu. Hiểu rõ cuộc đấu tranh anh hùng của nhân

dân miền Nam Việt Nam và tội ác của đế quốc Mỹ, các nước trên thế giới liên tục

lên tiếng ủng hộ Mặt trận dân tộc giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời, yêu

cầu đế quốc Mỹ nhanh chóng thi hành theo Hiệp định Pari, chấm dứt hoàn toàn

chiến tranh ở miền Nam Việt Nam.

Chủ tịch Đoàn chủ tịch Cộng hòa nhân dân Hung-ga-ri Lô-sôn-xi Pan khẳng

định: “lập trường trước sau như một của Đảng, chính phủ và nhân dân Hung-ga-ri

tiếp tục tăng cường ủng hộ và giúp đỡ nhân dân miền Nam Việt Nam trong cuộc đấu

tranh nhằm bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh và triệt để Hiệp định Pari về Việt Nam,

cũng như trong công cuộc xây dựng lại vùng giải phóng miền Nam Việt Nam”.

Trong Hội nghị cấp cao các nước Không liên kết năm 1973, hội nghị đã nhiệt

liệt ca ngợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, coi đó là lá cờ

đầu của phong trào giải phóng dân tộc. Hội nghị đã nhiệt liệt hoan nghênh việc ký

Hiệp định Pari về Việt Nam. Hội nghị cũng kịch liệt lên án chính quyền Sài Gòn và

chính phủ Mỹ đã vi phạm hết sức nghiêm trọng và có hệ thống mọi điều khoản của

Hiệp định Pari về Việt Nam và kiên quyết phải đòi họ thi hành nghiêm chỉnh và

triệt để Hiệp định Pari.

Tổng thống J.Ni-ê-rê-rê đã hội đàm chính thức với Chủ tịch Nguyễn Hữu

Thọ và Đoàn đại biểu Chính phủ cách mạng lầm thời ký thông cáo chung (29-9-

1973). Trong thông cáo chung nghiêm khắc lên án việc Mỹ vi phạm Hiệp định Pari,

tiếp tục can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. [26, tr.1-3]

Ngày 4-12-1973, Chủ tịch Mặt trận thống nhất dân tộc Ba Lan J.Grô-xcốp-xki

lên án mạnh mẽ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ dung túng và giúp đỡ leo

thang hành động chiến tranh và tội ác, vi phạm có hệ thống các điều khoản cơ bản

của Hiệp định Pari, gây nên tình hình căng thẳng nghiêm trọng hiện nay ở miền Nam

Việt Nam và phải chấm dứt ngay mọi hành động tàn bạo. Đồng chí khẳng định rằng

Mặt trận thống nhất dân tộc Ba Lan và toàn thể nhân dân Ba Lan luôn luôn ủng hộ

Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Chính phủ cách mạng và nhân dân miền Nam Việt

72

Nam trong cuộc đấu tranh nhằm thi hành triệt để và đầy đủ Hiệp định Pari [129, tr.1].

Nhân dịp kỷ niệm 13 năm ngày thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Ác-mê-ni-a vạch rõ: Hiệp định Pari

và chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam là thắng lợi vĩ đại của nhân

dân Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi lịch sử của tất cả các dân tộc trong hệ

thống xã hội chủ nghĩa và các lực lượng yêu chuộng hòa bình. Chúng tôi kịch liệt

lên án những hành động khiêu khích của chính quyền Sài Gòn được Hoa Kỳ ủng hộ

vi phạm hiệp định đó. Đồng chí bày tỏ tin tưởng rằng nhân dân miền Nam Việt

Nam, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Mặt trận dân tộc giải phóng và Chính phủ cách

mạng lầm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, nhất định sẽ hoàn thành thắng lợi

những nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Cùng với toàn dân Liên Xô, nhân

dân Ác-mê-ni-a sẽ làm hết sức mình để tăng cường ủng hộ và giúp đỡ nhân dân

miền Nam Việt Nam trong cuộc đấu tranh chính nghĩa vì tự do và độc lập của tổ

quốc [69, tr1-3]

Như vậy, qua những chuyến thăm hữu nghị đến với các tổ chức ban, ngành,

đoàn thể trên thế giới của Mặt trận đã góp phần tăng cường dư luận thế giới ủng hộ

việc ký kết và thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pari.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua những hoạt động đối ngoại của mình Mặt

trận đã hoàn thành tốt nhiệm vụ sứ mệnh đoàn kết quốc tế. Trong kháng chiến

chống đế quốc Mỹ, những thành công trong hoạt động đối ngoại đã tạo nên một sức

mạnh to lớn để đi đến kết quả là bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam vào tháng

4-1975 và tiến tới thống nhất đất nước. Miền Bắc được bảo vệ, miền Nam được giải

phóng sẽ tiến tới thống nhất nước nhà. Đây là thành quả to lớn của nhân dân Việt

Nam, của sự ủng hộ tích cực của nhân dân thế giới và không thể phủ nhận vai trò

của Mặt trận dân tộc giải phóng. Trong những bức điện mừng kỷ niệm 15 năm ngày

thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam nhân dân thế giới như

Trung Quốc, Triều Tiên, Campuchia, Xy-ri… đều vui mừng trước những thắng lợi

kỳ diệu đó. Nhân dân miền Nam Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Mặt trận

dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiến hành một cuộc đấu tranh lâu dài,

gian khổ chống Mỹ, cứu nước và cuối cùng đã đánh bại bọn xâm lược đế quốc Mỹ

và tay sai, giành thắng lợi to lớn giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam. Đồng

thời, bạn bè quốc tế tin tưởng và kính chúc Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng

73

hòa miền Nam Việt Nam, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam hoàn

thành thống nhất đất nước và thu nhiều thắng lợi vẻ vang hơn nữa trong việc xây

dựng và củng cố chủ nghĩa xã hội trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Từ ngày 31-1 đến 4-2-1977, Đại hội thống nhất các tổ chức Mặt trận của cả

nước được tổ chức tại hội trường Thống nhất, thành phố Hồ Chí Minh. Đại biểu các

tầng lớp nhân dân, các tổ chức, đoàn thể nhiệt liệt hoan nghênh việc thống nhất

thành một mặt trận duy nhất lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận Dân

tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đến đây đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử vẻ

vang sau 16 năm tồn tại và phát triển.

Tiểu kết

Như vậy từ tháng 6-1969, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao Động Việt Nam,

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm

thời đã cùng kết hợp tiến hành các hoạt động đối ngoại rất năng động, sáng tạo, đã

đạt được những thành tựu vẻ vang, góp phần đắc lực vào thắng lợi của cuộc kháng

chiến trường kỳ.

Hoạt động đối ngoại của Mặt trận trong thời gian này có sự thay đổi. Với vị

trí đã được thiết lập từ thời gian trên, thời gian này Mặt trận được đông đảo nhân

dân các nước mời sang dự Đại hội, sang thăm hữu nghị và hội đàm. Những chuyến

đi của Mặt trận gắn liền với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam

Việt Nam. Mục đích trong những chuyến thăm thời gian này bên cạnh việc vận

động nhân dân thế giới ủng hộ cách mạng miền Nam Việt Nam như khoảng thời

gian 1960-1969 thì Mặt trận còn kêu gọi nhân dân thế giới ủng hộ những lập trường

quan điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Và

từ Hội nghị bốn bến về Việt Nam ở Pari lần thứ 21 (ngày 10-6-1969) thay cho đoàn

đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là Chính phủ lâm thời

Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Hoạt động tranh thủ quốc tế và cuộc đấu tranh ngoại giao của Mặt trận và

Chính phủ Cách mạng lâm thời, phối hợp với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm

cho dư luận Mỹ và dư luận thế giới nhận thức rõ trắng - đen, chính - tà; thấy rõ

chính quyền Sài Gòn phá hoại Hiệp định Paris và phá hoại hòa bình, còn Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời thì nắm vững ngọn cờ hòa

74

bình và thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris.

Chương 3

NHẬN XÉT CHUNG VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ

3.1 Nhận xét chung

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam - Tổ chức mặt trận dân tộc

thống nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam trong những năm chống Mỹ, cứu

nước do Đảng Lao Động Việt Nam, trực tiếp là Đảng bộ miền Nam lãnh đạo. Mặt

trận được chính thức thành lập ngày 20-12-1960 theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị

lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) và là thành quả của phong

trào Đồng Khởi ở miền Nam những năm 1959-1960.

Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam cùng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam, tổ chức các tầng lớp

nhân dân trong cả nước, đoàn kết chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng, giành toàn

thắng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất Tổ quốc.

Từ năm 1954 đến năm 1975, trước kẻ thù xâm lược là đế quốc Mỹ lớn mạnh,

Đảng Lao động Việt Nam đã luôn bám sát tình hình thực tế trong và ngoài nước để

đề ra đường lối đúng đắn nhằm thực hiện mục tiêu bảo vệ miền Bắc, giải phóng

miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Cùng với mặt

trận chính trị và quân sự, mặt trận ngoại giao trong thời gian này được Đảng đặc

biệt chú trọng. Đối với miền Nam, Đảng chủ trương đề cao vị trí quốc tế của Mặt

trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vận động dư luận quốc tế chống các

hành động tăng cường chiến tranh và can thiệp của Mỹ ở miền Nam. Dưới sự lãnh

đạo của Đảng, hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt

Nam đã diễn ra phong phú về cả nội dung và hình thức, đã hoàn thành sứ mệnh lịch

sử vẻ vang. Đồng chí Nguyễn Duy Niên, Bộ trưởng Ngoại giao đã đánh giá: “Từ

năm 1960, với sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã

xuất hiện một mũi tấn công vô cùng lợi hại của ngoại giao miền Nam mà ngoại giao

nhân dân là nòng cốt”.

Chặng đường của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã

khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo trong đường lối đối ngoại của Đảng. Đồng thời

cũng khẳng định sự tuân thủ và linh hoạt trong hoạt động đối ngoại của Mặt trận.

Đường lối của Đảng và hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền

75

Nam Việt Nam từ năm 1960 đến năm 1975 đã giúp cách mạng miền Nam đi từ

thắng lợi này đến thắng lợi khác, Hiệp định Pari được ký kết, cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã giành thắng lợi trọn vẹn.

3.1.1. Ưu điểm

Nhìn lại quá trình hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền

Nam Việt Nam theo chủ trương của Đảng có những ưu điểm sau:

Thứ nhất, trong qúa trình lãnh đạo cách mạng miền Nam, Đảng đã đề ra

đường lối đối ngoại độc lập tự chủ và đúng đắn.

Từ năm 1960 đến năm 1975, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh ác

liệt đối với nhân dân miền Nam Việt Nam với những loại hình chiến tranh thực dân

mới: “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hoá chiến tranh”.

Trải qua từng loại hình, tính chất ác liệt của cuộc chiến tranh ngày càng được thể

hiện. Cùng với đó là sự thay đổi trong sự phản ứng của nhân dân thế giới đối với

cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ của nhân dân miền Nam Việt Nam. Trước

những yêu cầu thực tiễn của lịch sử, Đảng Lao Động Việt Nam đã liên tục bám sát

tình hình, có những chủ trương nhằm đẩy mạnh hoạt động đối ngoại với những

nhiệm vụ cụ thể phù hợp trong từng thời điểm. Khi cuộc chiến tranh mới bắt đầu,

Đảng chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nhằm tranh thủ sự đồng

tình và ủng hộ tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước châu Á, châu Phi

và của nhân dân thế giới đối với phong trào yêu nước của nhân dân miền Nam và

đối với sự nghiệp thống nhất Tổ quốc của nhân dân. Khi mâu thuẫn Xô - Trung phát

triển ngày càng gay gắt, các nước xã hội chủ nghĩa không thể thống nhất hành động

để ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược thì Đảng chủ trương tăng cường đoàn kết

các nước xã hội chủ nghĩa. Cuối năm 1967, ở miền Nam có những bước phát triển

trên mặt quân sự, thì về đối ngoại Đảng chủ trương trong lúc chúng đang lúng túng,

bị động “phải mở đường cho địch đi vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho

ta”… Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tuân thủ theo sự chỉ đạo

của Đảng để tiến hành hoạt động đối ngoại bên cạnh mặt trận chính trị và quân sự.

Mặt trận đã phát động, lãnh đạo cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước và cũng biết

cách chấm dứt cuộc chiến tranh một cách có lợi nhất.

Thứ hai, uy tín của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trên thế

76

giới không ngừng lớn mạnh.

Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời đã đánh dấu một

thời kỳ phát triển mới của sự nghiệp đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân

miền Nam Việt Nam. Từ đó, lá cờ chính nghĩa của đồng bào ta ở miền Nam càng

bay xa trên trường quốc tế. Trải qua 16 năm hoạt động, đi đôi với những chiến

thắng vang dội của các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam, Mặt

trận Dân tộc giải phóng miền Nam đã liên tiếp thu được nhiều thắng lợi lớn trong

hoạt động quốc tế. Vị trí pháp lý của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt

Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Uy tín, ảnh hưởng quốc tế

của Mặt trận không ngừng lớn mạnh.

Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được đông đảo nhân dân

thế giới thừa nhận là người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam

Việt Nam. Mặt trận đã đạt cơ quan đại diện thường trực ở nhiều nước trên thế giới.

Đó chính là một thắng lợi chính trị to lớn của Mặt trận. Thắng lợi đó không ngừng

tăng cường tình hữu nghị và đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân miền Nam Việt Nam

với nhân dân các nước anh em và các nước bạn, mà còn góp phần nâng cao địa vị

và uy tín của Mặt trận trên trường quốc tế, tạo thêm địa bàn hoạt động của Mặt trận

ở khắp năm châu.

Thứ ba, dưới sự lãnh đạo của Đảng với sự bền bỉ trong hoạt động đối ngoại,

Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của nhân

dân thế giới.

Nếu như trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954),

phong trào đoàn kết quốc tế ủng hộ nhân dân Việt Nam chỉ giới hạn ở Pháp. Những

tên tuổi đã trở thành biểu tượng của tình đoàn kết này là Henri Martin và Raymonde

Dien. Trong cuộc chiến tranh được coi là chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, chủ

yếu là chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam, phong trào đoàn kết quốc tế với Việt Nam

đã diễn ra rộng khắp trên thế giới từ châu Á sang châu Âu sang Mỹ, tạo thành một

mặt trận nhân dân thế giới. Ngoài sự viện trợ và sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô,

Trung Quốc, Cu Ba và các nước xã hội chủ nghĩa khác, còn có các phong trào

chống chiến tranh, vì hòa bình, đoàn kết với Việt Nam diễn ra khắp các lục địa.

Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược

được hình thành từ cuối năm 1964, đã nhanh chóng mở rộng, phát triển mạnh mẽ từ

77

khi Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam và dùng không quân đánh phá miền Bắc.

Với hoạt động đối ngoại sáng tạo, tích cực và bền bỉ, quan hệ quốc tế của

Mặt trận không ngừng phát triển rộng rãi. Nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa đều

một lòng đứng về phía nhân dân miền Nam Việt Nam, tích cực ủng hộ Mặt trận Dân

tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Phong trào lan từ các nước xã hội chủ nghĩa

tới các nước tư bản phát triển, các nước dân tộc độc lập khắp các châu lục. Phong

trào nhân dân Mỹ chống chiến tranh cũng phát triển nhanh và mạnh, sớm mở ra quy

mô toàn quốc và thống nhất hành động. Phong trào sôi động và quyết liệt nhất là ở

các nước Tây Bắc Âu, bao gồm các đoàn thể dân chủ, hoà bình, các tổ chức công

đoàn, phụ nữ, thanh niên, sinh viên quốc gia và quốc tế. Nhiều tổ chức tôn giáo, xã

hội, từ thiện trước kia ít tham gia hoạt động chính trị, nay cũng hăng hái tham gia

vào phong trào ủng hộ Mặt trận, ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhiều tổ

chức ủng hộ Mặt trận, đoàn kết với Mặt trận được thành lập ở các nước. Nhiều nhân

vật có tên tuổi và ảnh hưởng quốc tế ở các nước để bày tỏ sự ủng hộ Mặt trận, lên

án Mỹ. Từ đó, một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam

chống Mỹ xâm lược hình thành và mở rộng.

Mặt trận nhân dân thế giới chống Mỹ ủng hộ Việt Nam phát triển tới quy mô

toàn thế giới. Hầu như không có một chính phủ tiến bộ nào là không lên án Mỹ,

không một ngày nào không có tin ở nước này hay nước khác có mít tinh, biểu tình

ủng hộ Việt Nam, và không một hội nghị quốc tế nào dù có hay không có mặt đại

biểu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam mà lại không bàn đến tình hình

Việt Nam, ra nghị quyết ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Có thể nói, phong

trào nhân dân thế giới chống Mỹ ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam đã tập hợp

được những lực lượng chống đế quốc giành và bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ hoà

bình, đấu tranh cho dân chủ và tiến bộ xã hội. Mặc dù đế quốc Mỹ tìm mọi cách phá

hoại, hoạt động ủng hộ Việt Nam chống Mỹ của các tổ chức chính trị, đoàn thể

quần chúng trong một nước đến các hội nghị khu vực và hội nghị quốc tế vẫn thu

được thắng lợi to lớn. Điểm nổi bật trong mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân

dân miền Nam Việt Nam chống Mỹ là có nhiều mặt trận khác nhau nhưng kết hợp

chặt chẽ với nhau: có mặt trận bảo vệ hoà bình thế giới, có mặt trận nhân dân các

nước đấu tranh giành và bảo vệ độc lập, có mặt trận hình thành trong ngọn lửa hờn

căm trước tội ác chiến tranh của bọn xâm lược Mỹ, có mặt trận phản chiến của nhân

78

dân Mỹ và các nước “chư hầu” của Mỹ. Có nhiều mặt trận, mức độ ủng hộ cũng

không giống nhau, song tất cả đều nhất trí rằng: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

nước của nhân dân miền Nam là chính nghĩa, hợp với công pháp quốc tế đã quy

định ở hiệp định Giơnevơ năm 1954; Nhân dân thế giới cùng với nhân dân Việt

Nam đấu tranh đòi Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút ngay quân đội Mỹ về nước để

cho nhân dân Việt Nam tự giải quyết lấy công việc nội bộ của mình.

Những nội dung, hình thức ủng hộ Mặt trận rất phong phú, đa dạng: mít tinh,

biểu tình, hội thảo, ký kiến nghị, quyên góp tiền bạc, thuốc men, quần áo, hiến máu

ủng hộ Việt Nam. Nhiều thanh niên đăng ký tình nguyện sang Việt Nam chiến đấu.

Phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Mặt trận chống Mỹ xâm lược, không do

một trung tâm nào tổ chức và lãnh đạo. Chính cuộc kháng chiến chính nghĩa, anh

hùng và thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam ở hai miền là động lực chính thức

tỉnh lương tri loài người và thúc đẩy phong trào. Hoạt động đối ngoại của Mặt trận

đã góp phần quan trọng vào thúc đẩy phong trào, hướng phong trào vào các hoạt

động, và khẩu hiệu ngày càng sát với yêu cầu đấu tranh ngoại giao của Việt Nam.

Hoạt động đối ngoại của Mặt trận mở rộng tiếp xúc, tham gia rộng rãi các diễn đàn

quốc tế, gặp gỡ các tổ chức quốc gia và quốc tế, cung cấp nhân chứng, tư liệu về tội

ác của Mỹ giúp cho phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm

lược ngày một thiết thực hơn.

Chưa bao giờ số phận của một dân tộc nhỏ và số phận của nhân dân thế giới

lại gắn chặt với nhau như vậy, chưa có cuộc đấu tranh của một dân tộc nào lại được

sự ủng hộ quốc tế như cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt

Nam! Trong phong trào ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, các lực lượng, đảng phái, xu

hướng, các tôn giáo khác ở các nước đã đoàn kết lại, phối hợp thống nhất hành

động. Như đồng chí Nguyễn Thị Bình nhận định: “Trong lịch sử thế giới chưa từng

có phong trào đoàn kết quốc tế nào rộng lớn, sâu sắc, bền bỉ suốt hai thập kỷ như

phong trào đoàn kết quốc tế với nhân dân Việt Nam chống Mỹ cứu nước. Thực tế

đó càng khẳng định tính chất đúng đắn của chủ trương lớn kết hợp sức mạnh dân

tộc với sức mạnh thời đại mà Bác Hồ và Đảng đã vạch ra cho hôm qua, hôm nay và

cả mai sau.” [8, tr. 330].

Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đã nhận định “Trong hoàn cảnh

quốc tế phức tạp, việc vận động hình thành trên thực tế một mặt trận nhân dân thế

79

giới như vậy là một sáng tạo của Đảng, là kết quả rực rỡ của đường lối đối ngoại độc

lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế đúng đắn. Không phải bất cứ sự nghiệp chính nghĩa

nào đều giành được sự đồng tình và ủng hộ như thế. Từ sau chiến tranh thế giới thứ

hai, ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, đã liên tục nổ ra các cuộc đấu tranh của các

dân tộc vì độc lập, tự do, nhưng chưa có cuộc đấu tranh của dân tộc nào có thể động

viên được một phong trào nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam…” [8, tr.330].

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam tuy chưa thành một chính quyền, một chính phủ, trên thế giới chưa bao giờ có

Mặt trận nào như vậy, được cả thế giới thừa nhận. Trước đây, Việt Nam có chính

quyền, có chính phủ, có cả Liên Xô, Trung Quốc nữa, nhưng cũng chưa được công

nhận rộng rãi như Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Vị trí của Mặt

trận được nâng cao như vậy trên trường quốc tế, bởi chính nghĩa về cách mạng miền

Nam lớn quá, sự thất bại của Mỹ to quá. Tất cả mọi người trên thế giới đều thấy cái

phi nghĩa, đều thấy cái kém hèn, đều thấy cái yếu ớt, đều thấy tất cả cái xấu xa đều

thuộc về phía Mỹ, còn những cái gì đẹp đẽ nhất của loài người, những cái chính

nghĩa đều giành cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Thứ tư, thành công trong hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải

phóng miền Nam Việt Nam đã đưa đế quốc Mỹ vào thế cô lập trên trường quốc tế.

Trái với uy tín ngày càng lớn của Mặt trận trên trường quốc tế, trong quá trình

xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ đã tự lột hết mặt nạ này đến mặt nạ khác, và ngày

càng lộ rõ sự hung ác của chúng trước dư luận thế giới. Với việc trắng trợn tăng

cường và mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ càng bị nhân

dân thế giới lên án mạnh mẽ. Đến nỗi ngay các nước đồng minh tin cậy của Mỹ như

Anh, Nhật, Tây Đức, Canada không phải lúc nào cũng ủng hộ Mỹ xâm lược Việt

Nam; có lúc sự ủng hộ đó chủ yếu là những lời hứa hão, đến lúc cần sự ủng hộ cụ thể

thì họ làm lơ. Việc chính phủ Canada tuyên bố không gửi quân sang miền Nam giúp;

việc chính phủ Nhật trước áp lực của quần chúng yêu cầu Mỹ không để máy bay B52

cất cánh từ Ô-ki-na-oa sang ném bom ở Việt Nam; việc tổng thống Pháp Đờ-gôn lên

án Mỹ, đòi Mỹ rút khỏi Việt Nam, nhất là chính phủ Pháp từ chối không bán lại máy

bay Seai-rây-đơ cho Mỹ mà bán cho Campuchia, một nước đang chống Mỹ… Những

điều đó cho thấy Mỹ ngày càng bị cô lập và sa lầy trong cuộc chiến tranh xâm lược

80

Việt Nam. Bộ ngoại giao Mỹ đã than rằng: Chúng ta muốn có sự giúp đỡ nhiều hơn

của các nước đồng minh. Nhưng chúng ta rất thất vọng về việc này. Trong tình hình

khó khăn, nguy cấp thì chẳng thấy có ai giúp đỡ nữa.

Để thoát khỏi tình trạng cô lập, đế quốc Mỹ không bỏ lỡ một cơ hội nào để

xuyên tạc cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam, lôi kéo các nước dân

tộc chủ nghĩa, tranh thủ sự nhất trí trong phe đế quốc. Đế quốc Mỹ còn đặc biệt cử

nhiều đoàn ngoại giao đến hàng trăm nước để thuyết phục, mua chuộc sự đồng tình

với Mỹ. Nhưng nơi đâu các đoàn ngoại giao của Mỹ cũng bị lên án và phản đối. Có

thể nói, trong lịch sử thế giới, chưa bao giờ đế quốc Mỹ bị cô lập đến mức độ như

vậy. Cũng chưa bao giờ chúng phải chịu những đòn về quân sự cũng như về chính

trị và phải bị động đối phó khắp nơi trên thế giới.

Có thấy được đế quốc Mỹ bằng mọi thủ đoạn, ra sức lôi kéo, tranh thủ các

nước về phía chúng trong khi Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam ngày

càng phát triển rộng rãi, mạnh mẽ, uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền

Nam Việt Nam ngày càng được tăng cường trên trường quốc tế mới thấy được hết ý

nghĩa sâu xa của tình trạng cô lập tuyệt vọng của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm

lược Việt Nam.

Thứ năm, sự lớn mạnh của Mặt trận Dân tộc giải phóng trên thế giới là cơ

sở, tiền đề cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam có

chỗ đứng chính trị vững chắc trên trường quốc tế và góp phần đưa tới thành công

của Hội nghị Pari về Việt Nam.

Đến năm 1969, trước những chuyển biến của tình hình quốc tế, để đáp ứng

yêu cầu lớn lao của cuộc chiến đấu, đáp ứng nguyện vọng của toàn dân, để có cơ

quan điều hành toàn bộ công việc nội trị và ngoại giao trong giai đoạn lịch sử quang

vinh của nhân dân miền Nam Việt Nam, sau khi quyết định chế độ chính trị của

miền Nam Việt Nam là chế độ “Cộng hoà miền Nam”, Đại hội đại biểu quốc dân

miền Nam đã quyết định thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền

Nam Việt Nam và Hội đồng Cố vấn bên cạnh Chính phủ. Đứng trước sự kiện có ý

nghĩa lịch sử nói trên, tổng thống Mỹ Nixon tuyên bố: Tân Chính phủ đó chính là

một danh hiệu mới cho những hoạt động cũ đã có từ trước đây. Mặt trận là lực

lượng hậu thuẫn nòng cốt dẫn tới sự ra đời của Chính phủ. Lúc này, vai trò trong

hoạt động đối ngoại của Mặt trận không tách riêng biệt mà thông qua Chính phủ.

81

Những thành viên của Mặt trận, cùng các đoàn thể quần chúng của Mặt trận, trong

đó nổi lên là vai trò của Chủ tịch Mặt trận - Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, uỷ viên Mặt

trận bà Nguyễn Thị Bình, giáo sư Nguyễn Văn Hiếu và ông Nguyễn Văn Tiến…

Những thành viên này của Mặt trận về sau đều có Mặt trong Đoàn đại biểu Chính

phủ Cách mạng lâm thời tới Hội nghị quốc tế Pari.

Được sự ủng hộ, giúp đỡ từ bạn bè quốc tế, với những thắng lợi trên mặt

chính trị và quân sự, dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong, Mặt trận Dân tộc giải

phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc đấu tranh trực diện với đế quốc Mỹ đã góp

phần đưa tới thắng lợi trên bàn đàm phán bốn bên tại Pari. Đây là một thành công

lớn trong ngoại giao của thời đại Hồ Chí Minh.

Rút kinh nghiệm từ Hội nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương, dưới sự lãnh

đạo của Đảng, hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt

Nam đã thể hiện rõ vai trò tích cực, chủ động và sáng tạo. Mặt trận (sau là Chính

phủ Lâm thời) cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tại bàn đàm phán Pari luôn

giữ vững độc lập, tự chủ, đàm phán trực tiếp, tay đôi với Mỹ. Việt Nam đã chọn

thời điểm, phương thức đấu tranh phù hợp, thực hiện cam kết với anh em và bầu

bạn quốc tế “Việt Nam biết đánh và biết kết thúc chiến tranh”.

Việc chấp nhận Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một

trong bốn bến trong bàn đàm phán tại Pari cho ta thấy Mỹ buộc phải công nhận Mặt

trận là một thực thể chính trị ở miền Nam Việt Nam. Những cố gắng trên bàn đàm

phán tại Pari về Việt Nam của Mặt trận sau là Chính phủ Cách mạng lầm thời Cộng

hòa miền Nam Việt Nam cùng những thắng lợi trên chiến trương đã dẫn tới Hiệp

định Pari được ký kết ngày 27-1-1973. Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh và

lập lại hòa bình là kết quả của những thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nước vĩ đại của nhân dân miền Nam; là một thành quả xuất sắc của Mặt

trận Dân tộc giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam

Việt Nam trên trường quốc tế. Sự ủng hộ nồng nhiệt, tích cực và mạnh mẽ của nhân

dân thế giới là một nhân tố quan trọng đưa đến những kết quả trên bàn đàm phán tại

Pari về Việt Nam.

Thứ sáu, vai trò của cá nhân - Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, một trí thức yêu

nước tiêu biểu, người lãnh đạo chủ chốt của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền

82

Nam Việt Nam.

Cuối năm 1960, khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được

thành lập nhưng chưa có người đứng đầu. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, một nhân vật

tiêu biểu có thể lĩnh trọng trách Chủ tịch Mặt trận còn đang bị quản thúc ở Tuy Hoà

- Phú Yên. Kế hoạch giải thoát Luật sư được vạch ra. Ngày 30-10-1961, Luật sư

được nhân dân và các lực lượng vũ trang tỉnh Phú Yên giải thoát và hộ tống về

chiến khu Dương Minh Châu, Tây Ninh. Tháng 2-1962, tại Đại hội lần thứ I Mặt

trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Luật sư được bầu làm Chủ tịch Ủy

ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, trực tiếp tham

gia lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của đồng bào và chiến sĩ miền

Nam. Từ đây, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ trở thành người lãnh đạo chủ chốt, linh hồn

của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.

Trong công tác đối ngoại, trên cương vị Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải

phóng miền Nam Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm

thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã đón tiếp nhiều

đoàn đại biểu các nước đến thăm vùng giải phóng miền Nam và các đại sứ đến trình

quốc thư; trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu

nước của nhân dân ta; thăm hữu nghị nhiều nước nhằm tranh thủ sự đồng tình ủng

hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới đối với sự nghiệp cách mạng nước ta.

Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam từ khi ra đời dưới sự lãnh

đạo của Chủ tịch, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ cho đến khi hoàn thành trọn vẹn sứ

mệnh lịch sử của mình là luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, đã động viên

được tinh thần yêu nước trong mọi tần lớp nhân dân, tranh thủ được sự ủng hộ tích

cực của bạn bè gần xa. Trên cơ sở kiên định đường lối và chiến lược cách mạng

đúng đắn của Đảng, trong chỉ đạo sách lược, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam không ngừng phát triển và hoạt động rất linh hoạt, mềm dẻo, nhằm

đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, cô lập kẻ thù ngoan cố, thêm bạn bớt thù, kết hợp

sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, nhằm đánh bại kẻ thù, giành thắng lợi từng

bước, tiến lên đánh bại chúng, giành thắng lợi hoàn toàn.

3.1.2. Hạn chế

Bên cạnh những ưu điểm, trong hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc

83

Giải phóng miền Nam Việt Nam theo chủ trương của Đảng còn có những hạn chế

nhất định. Đó là những hạn chế về chủ trương của Đảng, hạn chế về điều kiện thực

tiễn đầy khó khăn lúc bấy giờ.

Thứ nhất, chủ trương của Đảng về thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam và hoạt động đối ngoại của Mặt trận còn chậm so với thực tiễn.

Do những chi phối của hoàn cảnh khách quan, Đảng chưa phát hiện sớm và

đánh giá kịp thời tính chất, khả năng và những giới hạn của quá trình trì hoãn, cải

thiện quan hệ giữa các nước lớn có liên quan tới vấn đề Việt Nam, cũng như khả

năng mà Việt Nam.

Ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược,

Đảng chậm chuyển hướng tình hình, chậm trong việc quyết định thành lập Mặt trận

Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Từ năm 1954 - 1959, Đảng chủ trương

chiến tranh hòa bình, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ ở Việt Nam. Mở đầu là

“phong trào hòa bình” của trí thức và các tầng lớp nhân dân ở Sài Gòn – Chợ Lớn

vào tháng 8-1954. Trong “phong trào hòa bình”, nhiều cuộc mít tinh, hội họp và

đưa yêu sách đòi chính quyền thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ… được tổ

chức. Trong khi đó, Mỹ - Diệm tăng cường khủng bố, đàn áp, lùng bắt, giết hại

những người lãnh đạo phong trào, gây thiệt hại lớn cho cách mạng. Từ năm 1957-

1959, cách mạng miền Nam gặp muôn vàn khó khăn.

Theo Hiệp định Giơnevơ, nhân dân ta nghiêm chỉnh chấp hành lệnh ngừng

bắn, lực lượng vũ trang thực hiện tập kết về nơi quy định trước khi xuống tàu ra

Bắc. Thế nhưng, khi Hiệp định Giơnevơ vừa được ký, máu đã chảy trên đường phố

Sài Gòn, máu chảy khắp miền Nam. Mỹ - Diệm đã dùng những thủ đoạn tàn khốc

nhất, những vụ thảm sát kinh khủng nhất để kìm hãm ý chí dân tộc, xóa nhòa thành

quả chín năm kháng chiến. Ở miền Trung Nam Bộ, chúng trả thù dã man những

người kháng chiến. Tại miền Đông Nam Bộ, địch càn quét sâu vào căn cứ, bắn giết,

cầm tù nhiều cán bộ, đồng bào. Từ miền Tây Nam Bộ cho đến rừng núi Tây

Nguyên, chúng vừa tàn sát, vừa dồn dân lập khu dinh điền, khu trù mật, ấp chiến

lược, giam hãm cả xã, cả buôn làng vào những trại tập trung… Các đợt “tố cộng”,

“diệt cộng” nối tiếp nhau với các hình thức trấn áp, ly khai Đảng, ly khai chồng tập

kết, ép vợ cán bộ tập kết lấy bọn tay sai hoặc binh lính ngụy ác ôn…Mỹ - Diệm còn

dùng đến phương sách của bọn phát xít đó là ra Luật 10/59 “đặt cộng sản ra ngoài

84

vòng pháp luật” và lê máy đi khắp nơi để giết những người yêu nước.

Sự khủng bố mang tính chất trả thù ồ ạt ở miền Nam của Mỹ - Diệm không

chỉ đóng khung trong mối tác động cách mạng – phản cách mạng ở Việt Nam; nó

bao quát một phạm vi rộng hơn bởi thắng lợi chống thực dân cũ của nhân dân Việt

Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào giải phóng dân

tộc khắp thế giới, điều mà đế quốc Mỹ rất úy kỵ.

Trước những hành động tàn bạo của kẻ thù 1956, Xứ ủy Nam Bộ đã họp và

đưa ra Nghị quyết. Tuy nhiên trong Hội nghị đó, mức độ “bạo lực cách mạng” được

nêu ra chưa được rõ. Và do chưa có nghị quyết của Trung ương, cho nên tổ chức và

hoạt động vũ trang còn hạn chế, chỉ chủ yếu để tự vệ và vũ trang tuyên truyền xây

dựng cơ sở. Trong lúc đó, những khó khăn về trang bị cơ sở vật chất, hậu cần cho

lực lượng vũ trang chưa có điều kiện khắc phục, chưa mạnh dạn xây dựng các vùng

căn cứ vững chắc. Quân địch thì được trang bị đầy đủ, luôn mở quy mô đánh phá

ngày càng ác liệt vùng căn cứ địa để làm phong trào đấu tranh chính trị của quần

chúng bị núng thế.

Năm 1958 là năm khó khăn nhất cho tình hình cách mạng miền Nam thì Xứ

ủy Nam Bộ đã họp Hội nghị lần thứ ba quyết định mở một số cuộc đấu tranh vũ

trang tích cực nhằm thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Lực

lượng chính trị phối hợp với lực lượng vũ trang để giành chính quyền về tay nhân

dân. Lúc này, lực lượng chính trị đóng vai trò chính, có sự tham gia của lực lượng

vũ trang, chủ yếu là dân quân du kích. Vì thế đấu tranh vẫn theo hình thức “đường

lối hòa bình”.

Bước sang những năm 1959-1960, khi tình thế cách mạng miền Nam ngày

càng khó khăn, nhân dân không thể tiếp tục cam chịu được nữa, sự tàn bạo của Mỹ -

Diệm đã lên tới cao độ thì Đảng đã chủ trương phải khởi nghĩa giành chính quyền

về tay nhân dân, chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam. Như vậy, chủ trương này được xem là muộn so với thực tiễn, so với nguyện

vọng của nhân dân miền Nam.

Nguyên nhân của hạn chế này là do ảnh hưởng của xu hướng hòa hoãn và

tâm lý lo ngại “đốm lửa cháy rừng” của các nước lớn trên thế giới.

Thứ hai, trong quá trình chỉ đạo đôi lúc Đảng chưa kịp thời có những

biện pháp nhằm khắc phục kịp thời những khó khăn cho hoạt động đối ngoại của

85

Mặt trận

Đầu những năm 60, tình hình quốc tế, đặc biệt là sự bất đồng trong phe xã

hội chủ nghĩa không có lợi cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Khi mới ra

đời, nhiều cá nhân, nhiều tổ chức, nhiều nước trên thế giới chưa biết tới Mặt trận

Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và e sợ cộng sản. Khi biết tới Mặt trận thì

nhân dân thế giới cũng không dễ dàng công nhận Mặt trận là người đại diện chân

chính của nhân dân miền Nam. Đồng thời cũng có nhiều cá nhân, tổ chức chưa hiểu

về cuộc chiến tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam, họ chưa tin vào sự chính

nghĩa cuộc chiến tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam chống đế quốc Mỹ.

Nhân dân thế giới, nhất là nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và các nước

độc lập dân tộc, hiểu rõ, đồng cảm và ủng hộ cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân

Việt Nam. Nhưng trong buổi ban đầu, do những thông tin sai lệch của phía Mỹ, nên

trong một bộ phận dư luận cũng còn có sự ngộ nhận, hồ nghi. Có những bạn chân

thành bộc lộ với chúng ta rằng, họ rất quý mến nhân dân Việt Nam nhưng họ chưa

thông về những cụm từ như “đế quốc Mỹ”, “vai trò người đại diện chân chính duy

nhất của Mặt trận Dân tộc Giải phóng”… Các đoàn thể của chúng ta kiên trì giải

thích và bằng những sự kiện cụ thể, những nhân chứng, vật chứng chính xác từ cuộc

đấu tranh cứu nước của nhân dân ta và những tội ác không thể chối cãi của bọn xâm

lược và tay sai của chúng, dần chúng ta đã tranh thủ và củng cố thêm sự đồng tình

và ủng hộ của nhân dân thế giới.

Lúc đầu người dân Mỹ không quan tâm, thậm chí còn ủng hộ hành động

chiến tranh của Tổng thống Mỹ. Nhưng sau đó, do nhận ra tính chất phi nghĩa của

cuộc chiến tranh do giới cầm quyền Washington phát động và khi Mỹ ngày càng bị

sa lầy vào cuộc chiến thì phong trào phản chiến phát triển càng mạnh.

Bởi vậy cho tới năm 1963, phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Mặt trận nói

riêng, ủng hộ cuộc chiến tranh yêu nước của nhân dân miền Nam Việt Nam nói

chung phản đối đế quốc Mỹ diễn ra lẻ tẻ, chưa có sự gắn bó giữa các nước. Một

trong những nhiệm vụ quan trọng của Mặt trận lúc này là tích cực tuyên truyền, làm

sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân miền Nam, lên án chính sách xâm lược và

những hành động tàn bạo của Mỹ - ngụy để tranh thủ nhiều người ủng hộ cuộc đấu

tranh chống Mỹ xâm lược. Mặt trận mới được thành lập, còn non trẻ, việc đi tuyên

truyền trong những năm đầu rất khó khăn về việc như đưa ra những dẫn chứng rõ

86

ràng, cụ thể về tội ác của Mỹ để bạn bè thế giới biết được. Khi “Chiến tranh đặc

biệt” của Mỹ bắt đầu, nhưng lúc này dư luận thế giới không phải đã thấy ngay được

tình hình đó.

Mặt khác, đế quốc Mỹ đã không bỏ lỡ một cơ hội nào để xuyên tạc cuộc đấu

tranh yêu nước của nhân dân miền Nam; chúng không từ bỏ một thủ đoạn nào để

tập trung mọi hoạt động nhằm chia rẽ phe xã hội chủ nghĩa, tranh thủ sự nhất trí

trong phe đế quốc. Đặc biệt từ năm 1965, chúng huy động cả bộ máy tuyên truyền

khổng lồ vu cáo “miền Bắc xâm lược miền Nam” “chính sách của Mỹ ở Việt Nam

nhằm mục đích giúp cho nhân dân miền Nam Việt Nam phát triển kinh tế”; đồng

thời liên tiếp mở nhiều chiến dịch tấn công “hoà bình”, đi tìm kiếm “hoà bình” bằng

những lời lẽ, thủ đoạn lừa bịp; chúng còn bỏ hàng tỷ đô la để phát triển vùng sông

Cửu Long, bỏ tiền phát triển kinh tế vùng Đông Nam Á để đánh lừa dư luận, hạn

chế sự phản đối của nhân dân thế giới đối với cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở

miền Nam Việt Nam.

Cho nên, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Mặt trận và bạn bè, các tổ chức

thành viên của Mặt trận đã làm hết sức mình để nêu bật chính nghĩa của nhân dân

miền Nam và yêu cầu sự ủng hộ của nhân dân toàn thế giới.

Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã đấu tranh ngoại giao

trực diện với một kẻ thù lớn mạnh nhất thế giới. Đế quốc Mỹ là một nước lớn, có

tiềm lực mạnh về mọi mặt từ kinh tế đến quân sự, có đội ngũ ngoại giao nhà nghề.

Đây là một thách thức lớn trong hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc giải

phóng miền Nam Việt Nam vì Mặt trận mới được thành lập, hoạt động đối ngoại

còn mới mẻ, chưa có kinh nghiệm. Điều này được thể hiện rõ nét trên con đường đi

đến bàn đàm phán tại Pari. Để ngồi vào bàn đàm phán có điều kiện là một vấn đề

không dễ dàng. Tạo điều kiện cho Mặt trận là một trong bốn bên tham gia đàm phán

lại càng khó.

Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, Hiệp định Giơnevơ được ký

kết năm 1954, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương hoà bình, thực hiện nghiêm

chỉnh Hiệp định Giơnevơ. Tuy nhiên với hành động hiếu chiến, đế quốc Mỹ và tay

sai đã mở cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam nhằm biến miền Nam

Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Với thế

mạnh về quân sự, chúng vừa leo thang chiến tranh, vừa rêu rao thiện chí hòa bình,

87

hô hào “đàm phán không điều kiện”. Đảng và Mặt trận đã kiên quyết bác bỏ, tiếp

tục kiên trì kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và vận động quốc tế, kể cả nhân dân

tiến bộ Mỹ nhằm thay đổi tình hình.

Để vượt qua được thử thách này, trước hết Đảng và Mặt trận thực hiện

phương châm đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Mặt

trận phải nắm vững và thực hiện đúng chủ trương đối ngoại của Đảng, vận dụng

linh hoạt trước những hoàn cảnh cụ thể trong nước và thế giới. Đồng thời Mặt trận

vận động để nhận được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, tạo thêm tiềm lực cùng đấu

tranh với đế quốc Mỹ. Để có được kết quả trên bàn đàm phán Pari, thì miền Nam

Việt Nam cần có những thắng lớn trên mặt chính trị và quân sự. Chính bởi vậy, Mặt

trận Dân tộc giải phóng cần phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc, làm nên những

chiến thắng quân sự mang tính chất bước ngoặt để tạo áp lực trên bàn đàm phán tại

Pari. Như Hồ Chí Minh đã nói: “thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng.

Chiêng có to tiếng mới lớn” [4, tr .27].

Lực lượng cán bộ hoạt động đối ngoại của Mặt trận còn mỏng và một số

chưa dày dặn kinh nghiệm. Trong khi khối lượng công việc rất nhiều, cần có một

đội ngũ đông đảo những nhà đối ngoại. Lực lượng cán bộ mỏng, trình độ chưa

chuyên nghiệp, nên việc chỉ đạo các cơ quan đại diện ở nước ngoài chưa đi vào nề

nếp, một số quy định, chế độ cộng tác nước ngoài chưa sát với thực tế.

Hạn chế này là do hoàn cảnh lịch sử tác động tới. Tình hình đất nước Việt

Nam lúc đó còn nhiều khó khăn, nguồn tài chính còn eo hẹp, ngoại giao vừa từ

chiến khu trở về, bắt đầu xây dựng chính quy. Tại miền Nam, cuộc kháng chiến

chống đế quốc Mỹ luôn diễn ra ác liệt, không có nhiều thời gian để đầu tư xây dựng

đội ngũ những nhà đối ngoại chuyên nghiệp. Nhưng từ năm 1965 trở đi, khi Mặt

trận bắt đầu tạo được vị trí trên trường quốc tế thì Đảng và Mặt trận đẩy mạnh công

tác đào tạo đội ngũ những nhà ngoại giao. Công tác đào tạo cán bộ được thực hiện ở

cả trong nước và gửi đi nước ngoài nhằm tạo ra những cán bộ có trình độ chuyên

môn thành thạo để triển khai công tác đối ngoại đồng bộ và có hiệu quả.

Hoạt động đối ngoại diễn ra gắn liền với chiến trường, phải vừa đánh vừa

đàm nên có nhiều khó khăn. Trong những năm tháng hoạt động của Mặt trận Dân

tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ diễn ra

ngày càng ác liệt, gây những trở ngại không nhỏ cho hoạt động đối ngoại của Mặt

88

trận. Bom đạn Mỹ rót xuống liên tục đã phá huỷ hệ thống giao thông nên việc đi lại

không dễ dàng, những đoàn đại biểu của Mặt trận đi đến các nước trên thế giới sẽ

có những hạn chế.

Với tư cách là Mặt trận chưa phải là một chính quyền, nên việc cấp hộ chiếu

cho cán bộ, thành viên đi làm hoạt động đối ngoại cũng không thuận lợi. Và đặc

biệt, Mặt trận chưa thể tạo điều kiện để đón các đoàn đại biểu nước ngoài tới thăm

vùng giải phóng, chứng kiến sự ác liệt của cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam

do đế quốc Mỹ gây ra. Những hoạt động tố cáo đế quốc Mỹ chỉ mang tính chất gián

tiếp thông qua đài phát thanh, báo chí và những hình ảnh minh hoạ.

3.2. Kinh nghiệm lịch sử

Thực tiễn hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam

Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã để lại những bài học kinh nghiệm quý báu.

3.2.1.Chỉ đạo chặt chẽ hoạt động ngoại giao “hai trong một” nhằm thực

hiện mục tiêu chiến lược chung của cách mạng Việt Nam là bảo vệ miền Bắc, giải

phóng miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước

Do đặc điểm cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh

đạo của Đảng, từ khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời tháng

12-1960 và đặc biệt sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam

Việt Nam thành lập tháng 6-1969, về ngọai giao, hình thành một thực tế là cùng

một nước Việt Nam có hai hệ thống và tổ chức ngoại giao, cùng ở một nước ngoài,

có hai cơ quan đại diện. Ngoại giao của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ

Cách mạng lâm thời theo chính sách hòa bình, trung lập. Ngoại giao Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa là nền ngoại giao của một nước xã hội chủ nghĩa. Ngoại giao hai

miền với những sắc thái riêng, nhưng phối hợp, bổ sung cho nhau thật hài hòa, dưới

sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Lao động Việt Nam, cùng thực hiện một đường lối

quốc tế nhằm phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược chung của cách mạng Việt Nam,

cùng đại diện cho một dân tộc đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

Hai cơ quan ngoại giao cùng nhau bàn bạc, phát huy vai trò chủ động, độc

lập theo đặc thù của ngoại giao mỗi miền, bổ sung cho nhau, phối hợp chặt chẽ và

nhịp nhàng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của nền ngoại giao Việt Nam. Đấy là

một nét đặc thù, một ưu thế mà không nước nào trên thế giới có được trong cùng

89

hoàn cảnh đất nước bị chia cắt.

Ngay sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành

lập và bắt đầu triển khai các hoạt động quốc tế, Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại

diện ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhanh chóng triển khai các hoạt

động phối hợp và hỗ trợ hoạt động đối ngoại của Mặt trận ở trong và ngoài nước.

Bộ Ngoại giao cử một số cán bộ sang công tác và tham gia vào bộ máy hoạt động

đối ngoại của Mặt trận. Trường Ngoại giao đào tạo cán bộ đối ngoại cho Mặt trận;

một số cán bộ ngoại giao tốt nghiệp lớp đào tạo ngắn hạn đầu tiên đã tham gia bộ

phận công tác đối ngoại của miền Nam.

Bộ phận đối ngoại của Mặt trận phối hợp hoạt động rất chặt chẽ với các đơn

vị của Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ở các nước có cả cơ quan đại

diện ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và của Mặt trận, cơ quan miền

Bắc chủ động phối hợp công tác phục vụ cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, vì

hòa bình thống nhất nước nhà. Ngoại giao miền Nam, ngoại giao Mặt trận - một bộ

phận hợp thành của ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và

cùng phục vụ nhiệm vụ cách mạng chung của cả nước. Tại Hội nghị cán bộ ngoại

giao lần thứ ba, tháng 1 - 1964, Hồ Chủ tịch nhắc nhở cán bộ ngoại giao hai miền

“phải rất khéo, giúp đỡ lấn nhau, bàn bạc với nhau mà làm” [4, tr.401].

Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm hết sức mình giúp đỡ Mặt trận

Dân tộc Giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt

Nam về chủ trương, cán bộ, tổ chức, bộ máy, giới thiệu Mặt trận với các chính phủ

mà Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã có quan hệ đối ngoại từ trước. Đồng thời với nỗ

lực của mình, Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời đã tiến hành các hoạt

động đối ngoại năng động và sáng tạo và đạt được nhiều thành tựu vẻ vang.

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam

Việt Nam (sau là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam)

trong nhiều trường hợp đều có đại sứ trong cùng một nước, lại có trường hợp

miền này có đại diện tại một nước, một tổ chức, một hội nghị quốc tế, trong khi

miền kia không có. Trong mọi hoạt động có liên quan đến cả miền Bắc và miền

Nam, hai miền bàn chung chủ trương nhưng phân công hoạt động riêng theo

cách thức phù hợp với mỗi miền.

Trong quá trình phối hợp công tác trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, ngoại

90

giao hai miền đã hoạt động theo phương châm “tuy hai mà một, tuy một mà hai”,

dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng nhau phối hợp phục vụ cuộc đấu tranh giải phóng

miền Nam, thống nhất Tổ quốc. “Tuy hai mà một, tuy một mà hai” là một sách lược

ngoại giao lớn, chỉ rõ nét đặc thù và mối quan hệ phân công và phối hợp giữa ngoại

giao miền Bắc và ngoại giao miền Nam trong nền ngoại giao Việt Nam nói chung

thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sách lược đó nhằm đề cao vị trí, vai trò và

tính độc lập của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tập hợp thêm

lực lượng và các xu hướng khác nhau ở trong nước và trên thế giới. Sách lược ngoại

giao ấy về thời gian được vận dụng trong suốt thời ký kháng chiến chống đế quốc

Mỹ, trước, trong và sau Hội nghị Pari; Về không gian, không chỉ thể hiện tại bàn

đàm phán Pari mà trên cả nhiều diễn đàn khác, ở nhiều địa bàn quốc gia và dân tộc,

nhiều tổ chức chính trị, xã hội quốc tế có quan hệ với vấn đề Việt Nam.

Đây là một nét độc đáo của ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ ngoại giao lần thứ năm, ngày 16-3-1966,

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bây giờ ngoại giao của ta vừa là một mà vừa là hai;

vừa là hai mà lại vừa là một. Ta vừa có ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa, vừa có ngoại giao của Mặt trận Dân tộc giải phóng. Hai cái vừa là hai mà lại

vừa là một, vừa là một mà lại vừa là hai. Hai khối đó phải kết hợp chặt chẽ với

nhau. Có khi Mặt trận nói chứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nói thì không đúng. Có

khi cả hai đều nói. Phải đoàn kết với nhau, cùng bàn bạc với nhau” [68, tr143-

144]. Đây là một nhân tố để khẳng định với bạn bè thế giới một chân lý không bao

giờ thay đổi được “dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn,

nhưng chân lý đó không hề thay đổi”.

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam ra đời, thiết lập một Bộ

ngoại giao riêng. Tại cuộc đàm phán bốn bên ở Pari từ tháng 6 năm 1969 thay cho

Đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, phái đoàn ngoại giao của

Chính phủ Cách mạng lâm thời đã đóng vai trò chủ động thúc đẩy giải pháp cho vấn

đề Việt Nam: khẳng định lại Tuyên bố năm điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng;

đưa ra giải pháp toàn bộ mười điểm về vấn đề miền Nam Việt Nam; nhiều đề nghị

xoay quanh vấn đề rút hết quân Mỹ và thành lập chính phủ liên hiệp ở miền Nam

Việt Nam. Phái đoàn luôn luôn là người được phát biểu trước, cũng là người được

vinh dự đưa ra nhiều sáng kiến. Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bao giờ cũng

91

lên tiếng ủng hộ, phân tích rõ thêm yêu cầu chính đáng của Mặt trận, của Chính phủ

Cách mạng lâm thời. Những nội dung đấu tranh của hai đoàn tại bàn đàm phán,

được báo chí các nước loan đi khắp thế giới, làm cho dư luận quốc tế và ngay tại

Mỹ, ngày càng đồng tình, ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam,

đòi Mỹ chấm dứt xâm lược, chấm dứt can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam

Việt Nam.

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ký Hiệp

định Paris ngày 27-1-1973, tham gia Hội nghị quốc tế Paris và ký Định ước Paris

ngày 2-3-1973 về Việt Nam, và phối hợp với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đấu

tranh đòi đối phương thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris.

Từ ngày 15 đến ngày 21-10-1975, tại thành phố Hồ Chí Minh, đoàn đại biểu

miền Bắc và đoàn đại biểu miền Nam (bao gồm đại diện của Chính phủ Cách mạng

lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Việt Nam và Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt Nam) đã

tiến hành Hội nghị hiệp thương chính trị để bàn về vấn đề thống nhất nước Việt

Nam về mặt nhà nước. Hội nghị hiệp thương chính trị quyết định: Cần sớm tổ chức

tổng tuyển cử trên toàn lãnh thổ Việt Nam để bầu ra quốc hội chung của cả nước;

quốc hội đó sẽ bầu ra các cơ quan lãnh đạo của nhà nước, xác định thể chế nhà

nước, và quy định Hiến pháp mới của nước Việt Nam thống nhất.

Cuộc tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội đã được tổ chức ngày 25-4-1976. Quốc

hội thống nhất đã họp vào tháng 6-1976 quyết định đổi tên nước là Cộng hoà Xã hội

Chủ nghĩa Việt Nam.

Nước Việt Nam thống nhất, có một đường lối chính sách đối ngoại. Hai Bộ

Ngoại giao đã hợp nhất lại; cơ quan đại diện ngoại giao của hai miền ở nước ngoài

cũng được hợp nhất lại thành một cơ quan đại diện duy nhất – là đại diện của nước

Việt Nam thống nhất và xã hội chủ nghĩa.

3.2.2. Chỉ đạo vận dụng sách lược đối ngoại mềm dẻo nhằm tập hợp đến

mức cao nhất mọi lực lượng chính trị trên thế giới, tăng cường sự đoàn kết ủng hộ

quốc tế đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân miền Nam Việt Nam.

Mặt trận ra đời giữa lúc các lực lượng hiếu chiến trên thế giới đang chạy đua

vũ trang, đe doạ hoà bình, bản thân phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự

phân liệt. Nhân dân thế giới đang đấu tranh để đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ

92

hoà bình. Mặt trận Dân tộc giải phóng đã giương cao ngọn cờ “hoà bình, trung lập”

khẳng định quyết tâm cùng nhân dân thế giới chặn tay bọn hiếu chiến, giữ gìn hoà

bình. Quyết tâm đó là ý chí của nhân dân miền Nam Việt Nam, quyết đánh và quyết

thắng chính sách xâm lược của đế quốc Mỹ dưới mọi hình thức. Quyết tâm đó cũng

là mong mỏi của nhân dân miền Nam làm bạn với tất cả các dân tộc, không phân

biệt chế độ chính trị hay xã hội.

Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là tổ chức tập hợp lực

lượng và tiến hành cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ, nên quá trình phát triển

của Mặt trận gắn liền với những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của nhân dân miền

Nam Việt Nam về mọi mặt chính trị, quân sự, văn hóa cũng như đối ngoại. Chính

sách ngoại giao “hòa bình, trung lập” của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam

Việt Nam, theo đường lối của Đảng đã giành được những thành quả to lớn trong

hoạt động đối ngoại.

Chính sách ngoại giao “hoà bình và trung lập” là ngọn cờ của Mặt trận cũng

như Chính phủ Cách mạng lâm thời sau này. Trong điểm 8 trong Chương trình 10

điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ghi rõ “Thực hiện

chính sách ngoại giao hoà bình, trung lập”: 1- Xóa bỏ mọi hiệp ước bất bình đẳng

xâm phạm đến chủ quyền của dân tộc do tập đoàn tay sai của Mỹ ký với nước

ngoài; 2- đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính

trị; theo nguyên tắc chung sống hòa bình của Hội nghị Băngđung; 3- đoàn kết chặt

chẽ với các nước yêu chuộng hòa bình và các nước trung lập. Mở rộng quan hệ hữu

hảo với các nước Đông Nam Á, đặc biệt đối với các nước láng giềng Campuchia,

Lào; 4- không tham gia khối liên minh quân sự nào, không liên minh quân sự với

nước Lào; 5- nhận viện trợ kinh tế của bất cứ nước nào sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam

không có điều kiện rằng buộc [68, tr.204-205].

Phần IV của Cương lĩnh chính trị đã phát triển và cụ thể chủ trương nói trên

bao gồm 4 điểm: 1 - Đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước, không phân biệt chế

độ chính trị và xã hội, theo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh

thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của

nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hoà bình…; 2 - Tăng cường quan hệ hữu

nghị với tất cả các nước đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước

của nhân dân Việt Nam…; 3 - Tích cực ủng hộ phong trào độc lập dân tộc của nhân

93

dân châu Á, châu Phi, châu Mỹ là tính chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực

dân cũ và mới…; 4 - Tích cực đấu tranh để góp phần bảo vệ hoà bình thế giới, chống

bọn đế quốc hiếu chiến và xâm lược đứng đầu là đế quốc Mỹ…[68, tr.235-237].

Điều 12 trong Chương trình hành động của Chính phủ Cách mạng lâm thời

Cộng hoà miền Nam Việt Nam, khẳng định lại những chủ trương nói trên của Mặt

trận. Chính phủ cách mạng lâm thời quyết tâm “Thực hiện chính sách ngoại giao hoà

bình trung lập, đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước tôn trọng độc lập chủ quyền

của Việt Nam. Chống chiến tranh xâm lược, tích cực bảo vệ hoà bình thế giới”. Việc

thực hiện chính sách ngoại giao nói trên đã đem lại những kết quả to lớn.

Hoà bình, trung lập là một chủ trương lớn thu hút được sự đồng tình của

đông đảo các lực lượng yêu chuộng hoà bình, tự do, công lý trên thế giới. Khẩu hiệu

“hoà bình” tranh thủ được sự ủng hộ của tất cả những ai muốn hoà bình, phản đối

chiến tranh. Khẩu hiệu “trung lập” nhằm mở rộng mặt trận đoàn kết quốc tế, không

phân biệt chính kiến, đảng phái, tôn giáo. Do đó, trên thế giới có những lực lượng

không tán thành xã hội chủ nghĩa, nhưng lại nhiệt tình ủng hộ cuộc đấu tranh giải

phóng của nhân dân miền Nam Việt Nam. Mặt khác, xu thế hoà bình, trung lập phát

triển khắp các lục địa. Chủ trương miền Nam hoà bình, trung lập góp phần gắn cuộc

đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam với phong trào bảo vệ hoà bình thế

giới, với phong trào các nước Không liên kết; tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế rộng

rãi, đồng thời đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà

bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, chống chủ nghĩa đế quốc hiếu chiến

và xâm lược. Chủ trương miền Nam hoà bình, trung lập còn có tác dụng lợi dụng

mâu thuẫn giữa các nước đế quốc, cô lập Mỹ.

Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã xây dựng một phương

châm đối ngoại rõ ràng và vững chắc, gồm những điểm căn bản sau: Kiên trì dựa

vào các đảng mácxit Lêninnít trên thế giới, trước hết là kiên trì dựa vào phe xã hội

chủ nghĩa; tăng cường đoàn kết và quan hệ hữu nghị ủng hộ lẫn nhau đối với các

nước dân tộc chủ nghĩa, các phong trào và tổ chức chống chủ nghĩa thực dân cũ và

mới, chú trọng các nước Đông Nam Á, nhất là Campuchia và Lào; đồng thời tranh

thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân và dư luận yêu chuộng hòa bình, dân chủ,

tự do trên thế giới, chú trọng nhân dân và dư luận Mỹ, Pháp, Anh và các nước tham

94

gia hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam [82,tr.6].

Thực hiện phương châm đối ngoại trên, hoạt động đối ngoại của Mặt trận

đều nhằm thành lập một mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn và mạnh mẽ ủng hộ

cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam Việt Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai.

Chủ trương của Mặt trận là dựa vào toàn thể phe xã hội chủ nghĩa hùng

mạnh, một lực lượng rất lớn có nhiều uy tín tinh thần và nhiều sức mạnh vật chất.

Sự đồng tình ngày càng nồng nhiệt của tất cả các Đảng Cộng sản và công nhân trên

thế giới, các đảng này đã tổ chức các cuộc vận động quần chúng các nước tư bản

chủ nghĩa ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược.

Mặt trận không chỉ tìm kiếm sự ủng hộ của nhân dân các nước dân tộc chủ

nghĩa, của phong trào chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, mà đồng thời còn đặt

vấn đề đoàn kết hữu nghị, ủng hộ lẫn nhau, nghĩa là đặt cách mạng miền Nam ở cái

vị trí chủ động, ở một vai trò ủng hộ phong trào dân tộc bằng bản thân cuộc chiến

đấu chống Mỹ. Và chỉ có trong vị trí và vai trò ấy thì cách mạng miền Nam mới

nhận được sự ủng hộ nhiều nhất của nhân dân các nước dân tộc chủ nghĩa, nhân dân

các xứ thuộc địa và nửa thuộc địa. Thực tế lịch sử cho thấy, phong trào giải phóng

dân tộc chống thực dân trên thế giới hiện nay chủ yếu là chống Mỹ, làm phân tán

lực lượng Mỹ bằng khả năng khởi nghĩa hay bằng những cuộc đấu tranh vũ trang

trực diện chống chính quyền bù nhìn tay sai của Mỹ. Trong hoạt động đối ngoại,

Mặt trận để tâm nhiều tới các nước Á Phi và khu vực Mỹ la tinh - nơi đang có

phong trào nhân dân chống Mỹ, chống bằng chính trị có và cả bằng khởi nghĩa vũ

trang. Trong khu vực Á Phi Mỹ la tinh đó, Mặt trận đặc biệt chú trọng các nước

Đông Nam Á, nhất là Campuchia, Lào, là những nước gần gũi, những nước láng

giềng của Việt Nam. Việc đế quốc Mỹ dựa vào Nhật, Philippin, Thái Lan và bọn

phản động Lào để tấn công miền Nam Việt Nam thì ý nghĩa của phong trào chính trị

chống Mỹ ở Nhật, ở Campuchia, phong trào vũ trang chống Mỹ ở Lào, ở Thái Lan

là quan trọng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.

Mặt trận xem nhân dân và dư luận yêu chuộng hòa bình, chống chiến tranh

xâm lược, yêu chuộng dân chủ, tự do ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa như là bạn

đồng minh của Việt Nam chiến đấu. Trong quá trình xâm lược miền Nam Việt

Nam, Mỹ đã lôi kéo các nước chư hầu và tìm kiếm sự tán đồng của chính phủ các

nước tư bản chủ nghĩa, từ sự tán đồng bằng lời tuyên bố suông, qua sự tán đồng

95

bằng cách gửi một ít nhà chuyên môn, thuốc men, tiền bạc, đến sự tán đồng mạnh

hơn bằng cách gửi một số quân tham chiến theo Mỹ. Bởi vậy, phong trào nhân dân

hết sức rộng rãi ở các nước tư bản chủ nghĩa nhằm ngăn chặn chính phủ nước họ

theo đuôi Mỹ dưới áp lực của đồng đô la, nhằm đòi chính phủ nước họ tuyên bố

chống chính sách xâm lược của Mỹ, nhằm quyên góp thực tế cho cuộc kháng chiến

chống Mỹ của nhân dân miền Nam Việt Nam là rất quan trọng.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Việt Nam tìm sự ủng hộ của nhân dân

và dư luận Pháp để chống đế quốc Pháp, thì bây giờ trong cuộc kháng chiến chống

Mỹ, Mặt trận tìm sự ủng hộ của nhân dân và dư luận Mỹ là điều đương nhiên. Điều

này có một tầm quan trọng chiến lược, đó là trung tâm điểm của “Mặt trận thứ hai”

chống đế quốc Mỹ xâm lược. Trong cuộc chiến tranh của nhân dân miền Nam, có

dựa vào pháp lý Hiệp định Giơnevơ năm 1954, cho nên không thể nào không chú

trọng đến nhân dân và dư luận các nước đã tham gia ký kết Hiệp định (nhằm chủ

yếu vào Anh, Pháp), để làm áp lực đối với chính phủ họ đòi Mỹ phải tôn trọng và

thực hiện các điều khoản cơ bản và các nghị quyết Giơnevơ về Việt Nam.

Mặt trận đã bền bỉ tranh thủ được sức mạnh thời đại, sức mạnh của nhân loại

để cùng với nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai nhằm thực hiện mục

tiêu “thống nhất đất nước”. Đế quốc Mỹ giàu và mạnh, luôn dùng mọi thủ đoạn

nhưng không thể nào ngăn cản được sự ủng hộ và giúp đỡ của thế giới đối với cuộc

chiến tranh chính nghĩa của nhân dân miền Nam.

Với hoạt động đối ngoại sáng tạo, tích cực và bền bỉ, quan hệ quốc tế của

Mặt trận không ngừng phát triển rộng rãi. Nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa đều

một lòng đứng về phía nhân dân miền Nam Việt Nam, tích cực ủng hộ Mặt trận Dân

tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Bằng nhiều hành động cụ thể, nhân dân Á, Phi,

Mỹ La-tinh đã tỏ rõ sự gắn bó của mình với cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam

Việt Nam. Bằng nhiều hình thức đấu tranh phong phú, nhân dân các nước đế quốc,

tư bản, và trước hết là nhân dân Mỹ đã tỏ rõ sự đồng tình mạnh mẽ đối với cuộc đấu

tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam, kiên quyết lên án bọn xâm lược Mỹ, kiên

quyết vạch trần những tội ác dã man của chúng. Với sức mạnh to lớn của nhân dân

thế giới ủng hộ Mặt trận, đẩy đế quốc Mỹ vào thế cô lập và tuyệt vọng, gây cho

chúng những khó khăn lúng túng không thể giải thoát. Như vậy, phong trào nhân

dân thế giới đoàn kết với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, ủng hộ

96

nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược đạt tới một quy mô chưa từng thấy không

những ở các nước xã hội chủ nghĩa, các nước dân tộc chủ nghĩa mà ở các nước tư

bản chủ nghĩa và ở ngay nước Mỹ. Với những thắng lợi liên tiếp về mặt quân sự, uy

tín của Mặt trận ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Chủ trương đối ngoại “hoà bình, trung lập” của Mặt trận trong thời điểm lịch

sử lúc bấy giờ là một bước lùi cần thiết về sách lược nhằm hạn chế cuộc đấu tranh

trong phạm vi miền Nam, khắc phục lo ngại của các nước anh em về sự lan rộng

thành chiến tranh thế giới. Vấn đề thống nhất đất nước không còn là mục tiêu đấu

tranh trong hai năm đầu sau ngày ký Hiệp định Giơnevơ như trước nữa, mà là mục

tiêu sẽ tiến tới bằng phương pháp hoà bình.

3.2.3. Chỉ đạo kiên trì nắm vững mục tiêu chiến lược của cách mạng trong

mọi hoạt động đối ngoại

Chủ trương đối ngoại phục vụ yêu cầu cách mạng trong nước, nhiệm vụ

trong nước. Đường lối chính trị, đáp ứng yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong

những điều kiện lịch sử cụ thể. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc vì chính trị đối

ngoại phải phục vụ chính trị đối nội. Mọi hoạt động đối ngoại đều phản ánh quan

điểm, lập trường của Đảng, lợi ích của cách mạng, của dân tộc. Điều đó khẳng định

giữ vững sự lãnh đạo của Đảng trong mọi hoạt động đối ngoại là sự cần thiết và

đúng đắn.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng ra đời với chủ trương xây dựng miền Nam Việt

Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập… đã tạo nên ba mũi tiến công ngoại giao

mạnh mẽ. Một là, Mặt trận khẳng định và thật sự tiêu biểu cho quyền tự quyết của

nhân dân miền Nam Việt Nam nắm vững ngọn cờ thi hành Hiệp định Giơnevơ, đề

cao thế hợp pháp của phong trào nhân dân chống đế quốc và tay sai, giáng một đòn

vào cái gọi là “thế hợp pháp” của chế độ Sài Gòn. Hai là, chương trình xây dựng

một miền Nam độc lập, hòa bình, trung lập là một đòn chính trị đánh vào luận điệu

của Hoa Kỳ về ngăn chặn của chủ nghĩa cộng sản lan xuống Đông Nam Á. Ba là,

khi “chiến tranh lạnh” đang diễn ra gay gắt, việc lôi kéo, tập hợp lực lượng rất khẩn

trương. Các nước thuộc thế giới thứ ba và phong trào giải phóng dân tộc đang

hướng vào xu thế hòa bình trung lập, không đứng về phe nào. Việc Mặt trận đề ra

chính sách đối ngoại, hòa bình, trung lập là phù hợp với trào lưu chung, thuận lợi

97

cho việc tranh thủ sự ủng hộ quốc tế.

Kết hợp chặt chẽ với Lào, Campuchia và sự hỗ trợ giúp đỡ đắc lực từ Liên

Xô, Trung Quốc… thực hiện mục tiêu của cách mạng: đấu tranh chống đế quốc Mỹ,

bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giải phóng Lào,

Campuchia.

Đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước nhằm thiết lập mặt trận nhân dân

thế giới rộng rãi ủng hộ cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Khi mở rộng quan hệ đối ngoại trong tình hình thế giới những năm 60, Mặt trận chủ

động đề rõ những quy định: Đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước, không

phân biệt chế độ chính trị và xã hội, theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền

và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình

đẳng và cùng có lợi, chung sống hòa bình; Xóa bỏ mọi hiệp ước bất bình đẳng do

ngụy quyền đã ký với Mỹ hoặc các nước khác; Tôn trọng quyền lợi về kinh tế và

văn hóa của các nước đồng tình và ủng hộ hoặc giúp đỡ sự nghiệp chống Mỹ, cứu

nước của nhân dân Việt Nam; Nhận sự giúp đỡ về kinh tế và kỹ thuật của bất cứ

nước nào, không kèm theo điều kiện chính trị rằng buộc; Không tham gia khối liên

minh quân sự nào; không nhận nhân viên quân sự và căn cứ quân sự của nước ngoài

trên lãnh thổ mình.

Nhận định rõ mục tiêu của cách mạng Việt Nam chung với mục tiêu đấu

tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Bởi vậy Mặt trận chủ trương phải kết hợp mục tiêu đấu tranh của nhân dân Việt

Nam ở miền Nam với mục tiêu đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc

lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Điểm thứ 10 trong chương trình 10 điểm của Mặt trận ghi rõ “chống chiến

tranh xâm lược, tích cực bảo vệ hòa bình thế giới” [68, tr.206]. Với điểm này và

bằng mọi hoạt động, Mặt trận đã trở thành một bộ phận khăng khít của phong trào

đấu tranh cho hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Tháng 9-1965, giữa lúc nhân dân Việt Nam đang tiến hành cuộc chiến đấu

chống Mỹ, cứu nước, trong diễn văn đọc nhân dịp kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành

lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1965), Thủ tướng Phạm Văn Đồng nêu

rõ: “Mừng ngày Quốc khánh năm nay, nhân dân ta hơn bao giờ hết gắn liền cuộc

đấu tranh cách mạng của chúng ta với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân thế

98

giới, ra sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế, đồng thời góp phần

của chúng ta vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân các nước. Chúng ta hết lòng

hết sức đoàn kết trên cơ sở chủ nghĩa Mác Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản với

Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác trong phe xã hội chủ nghĩa, “thành

trì của cách mạng thế giới và hòa bình thế giới”, đồng thời chúng ta ra sức đoàn kết

với nhân dân Á, Phi, Mỹ la tinh và nhân dân lao động toàn thế giới, chung sức đấu

tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.

Như vậy, dưới sự chỉ đạo của Đảng mọi hoạt động đối ngoại của Mặt trận

như tuyên truyền, vận động, mở rộng mặt trận ngoại giao với những chính sách cụ

thể đều hướng tới mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng

thế giới nói chung.

Tiểu kết

Những nhận xét và bài học kinh nghiệm lịch sử về hoạt động đối ngoại của

Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được đưa ra dựa trên sự phân tích,

nghiên cứu và tập hợp tư liệu lịch sử qua hệ thống dẫn chứng cụ thể. Điều đó khẳng

định hoạt động đối ngoại của Mặt trận vừa là thành quả, vừa là sự xem xét để rút kinh

nghiệm, vừa là truyền thống quý báu của dân tộc có ý nghĩa thời đại sâu sắc.

Những thành quả và kinh nghiệm lịch sử về sự chỉ đạo của Đảng đối với hoạt

động đối ngoại Mặt trận một lần nữa chứng minh hùng hồn sức mạnh của thời đại,

của nhân dân thế giới đối với cách mạng Việt Nam. Với hoạt động đối ngoại tích

cực, Mặt trận đã được nhân dân thế giới coi là đại diện chân chính duy nhất của

miền Nam. Nhiều nước bạn coi Mặt trận như một Chính phủ thực sự. Các đoàn

99

ngoại giao của Mặt trận được tiếp đón như các đoàn của một chính phủ chính thức.

KẾT LUẬN

Từ năm 1960, khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được

thành lập đã góp phần làm cho hoạt động đối ngoại Việt Nam trở nên phong phú, đa

dạng và có đặc thù riêng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, vì mục

tiêu chiến lược chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình

thống nhất Tổ quốc, hoạt động đối ngoại của Mặt trận chẳng những góp phần to lớn

trong việc đề cao vị trí quốc tế của cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân miền

Nam chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ mà còn là góp phần tập hợp lực

lượng thế giới rộng rãi đồng tình ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân

Việt Nam.

Thứ nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chủ trương đối ngoại “hòa bình, trung

lập” của Mặt trận đã thu hút được sự chú ý của dư luận quốc tế, đem lại cho Mặt

trận một vị trí chính trị ngày càng cao trên trường quốc tế. Ngọn cờ giải phóng của

Mặt trận trở thành biểu tượng của một số tổ chức và liên hoan quốc tế có xu hướng

đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đòi tự do độc lập.

Thứ hai, dưới sự lãnh đạo của Đảng nền ngoại giao “tuy hai mà là một, tuy

một mà hai” trở thành nét độc đáo và sáng tạo lớn của đối ngoại Việt Nam trong

cuộc kháng chiến chống Mỹ. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và

Chính phủ Cách mạng lâm thời đã tiến hành các hoạt động đối ngoại rất năng động,

sáng tạo, đạt được những thành tựu vẻ vang, góp phần đắc lực vào thắng lợi của

cuộc kháng chiến trường kỳ.

Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam ra đời và hoạt động 16

năm. Đó là 16 năm oai hùng của lịch sử dân tộc, từng bước “đánh cho Mỹ cút, đánh

cho ngụy nhào”. Để có được thắng lợi vang dội đó không chỉ dựa vào sự chung sức

đồng lòng của toàn dân tộc mà còn dựa vào sự giúp đỡ ủng hộ của bạn bè khắp năm

châu. Với chính sách đội ngoại “hòa bình trung lập” Mặt trận Dân tộc giải phóng

miền Nam Việt Nam đã đạt được những mục tiêu đề ra. Mặt trận đã trở thành một

phận khăng khít trên trường thế giới, được nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế biết đến.

Mặt trận đã hoàn thành tốt những nghĩa vụ quốc tế của mình. Không những vậy,

Mặt trận đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới. Được bè bạn

100

quốc tế giúp đỡ về mọi mặt cả tinh thần và vật chất...

Hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam

đã góp phần đem lại những thắng lợi đầy ý nghĩa cho dân tộc. Đó là quá trình đấu

tranh để Mặt trận trở thành một trong bốn bên trong bàn đàm phán tại Pari về Việt

Nam; để khẳng định trước toàn thế giới Mặt trận Dân tộc giải phóng và Chính phủ

lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là người đại diện chân chính duy nhất của

nhân dân miền Nam; để tiến tới sự toàn thắng ngày 30-4-1975... Đúng như lời tuyên

bố của Mặt trận đã nói nhân ngày 20-7-1964: “Có sức mạnh, có đường lối đấu

tranh đúng đắn, được sự đồng tình, ủng hộ của Nhân dân yêu chuộng hòa bình và

công lý trên thế giới, nhân dân miền Nam Việt Nam nhất định giành được thắng lợi

cuối cùng”.

Thứ ba, những thành tựu trong hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc

Giải phóng miền Nam Việt Nam đã khẳng định: “Trong suốt mười ngàn ngày đêm

chiến đấu, đối ngoại và ngoại giao thực sự là một mũi tấn công chiến lược có nhiệm

vụ phối hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự trên chiến trường

để giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành toàn thắng, biến sự ủng hộ quốc tế

thành một trong các nhân tố quyết định thắng lợi.”[8, tr.411]

Hoàn cảnh và yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ đòi hỏi Đảng không thể

dừng lại hình thức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà đã linh hoạt tiến tới thành lập Mặt

trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải

phóng miền Nam Việt Nam là một trong những sáng tạo chiến lược của Đảng nhằm

đáp ứng yêu cầu thực tế của tình hình trong nước và thế giới trong những năm 1960

của cách mạng miền Nam Việt Nam. Đồng thời đó cũng là một nét tiêu biểu thể hiện

bản lĩnh sáng tạo trong tổ chức lực lượng cách mạng của Đảng, của Hồ Chí Minh.

Thật đáng tự hào về tinh thần độc lập tự chủ trên cơ sở đoàn kết quốc tế

trong sáng của Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước. Phải là một đảng Mác-

Lê, đoàn kết nhất trí, nắm vững bạo lực cách mạng, có đường lối và phương pháp

cách mạng tiến công đúng đắn, giữ vững đoàn kết quốc tế và đường lối độc lập tự

chủ. Nếu không thì không thể có thắng lợi to lớn của chống Mỹ, cứu nước.

Đảng ta đã lãnh đạo cuộc chống Mỹ, cứu nước thắng lợi với một đường lối

quốc tế đúng đắn và sáng tạo: Đã kết hợp được đặc điểm cách mạng Việt Nam với

101

đặc điểm của thời đại; Đã kết hợp được lợi ích của sự nghiệp cách mạng Việt Nam

với lợi ích của sự nghiệp cách mạng quốc tế; Đã kết hợp được một cách đúng đắn

chủ nghĩa yêu nước chân chính với tinh thần đoàn kết quốc tế.

Phải tìm được hình thức tập hợp lực lượng thích hợp và phương pháp đấu

tranh để vừa đẩy mạnh phong trào cách mạng miền Nam, vừa bảo vệ miền Bắc, bảo

vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa và bảo về hoà bình thế giới. Yêu cầu thực tế đó đòi hỏi

Đảng Lao động Việt Nam phải phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo

để xác định đường lối và phương pháp cách mạng Việt Nam ở miền Nam. Cùng với

quá trình hình thành đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam, tư duy của Đảng

về việc thành lập một mặt trận ở miền Nam ngày càng sáng tỏ. Và từ trong thắng lợi

của phong trào Đồng Khởi, theo chủ trương của Đảng, ngày 20-12-1960, Mặt trận

Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.

Trải qua quá trình hoạt động của Mặt trận đã khẳng định sự sáng tạo của Đảng

khi chủ trương thành lập Mặt trận. Khi ra đời, Mặt trận đã xác định rõ hoàn cảnh lịch

sử trong và ngoài nước để đưa ra chính sách ngoại giao phù hợp. Mặt trận Dân tộc

Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập giữa lúc các lực lượng hiếu chiến

trên thế giới đang chạy đua vũ trang, đe dọa hòa bình, bản thân phong trào cách mạng

và hòa bình thế giới phân liệt sâu sắc. Nhân dân thế giới đang đấu tranh để đẩy lùi

nguy cơ chiến tranh, bảo vệ hòa bình… Mặt trận Dân tộc Giải phóng từ giữa miền

Nam khói lửa, đã giương cao ngọn cờ hòa bình, trung lập, khẳng định quyết tâm cùng

nhân dân các nước chặn tay bọn hiếu chiến, giữ gìn hòa bình.

Việc thành lập cho riêng miền Nam Việt Nam một mặt trận đã cho thấy

Đảng bước đầu xác lập vị thế cách mạng miền Nam trong vị trí quốc tế để sau này

nâng cấp thành Chính phủ cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Đã

tách Mặt trận ra khỏi miền Bắc Việt Nam, ra khỏi phe cộng sản nhằm cố gắng hạn

chế quy mô cuộc đấu tranh cách mạng trong phạm vi miền Nam. Đây được xem là

cơ chế đặc thù của cách mạng miền Nam Việt Nam trong quan hệ quốc tế.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận đã hoàn thành nghĩa vụ của mình một

cách tích cực, làm tốt sứ mệnh lịch sử của mình. Để rồi, cho tới hôm nay, đã lùi sâu

vào lịch sử Mặt trận vẫn được nhắc tới như một hình ảnh đẹp nhất, tự hào nhất của

nhân dân miền Nam, nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Với đường lối chính

102

sách đối ngoại đúng đắn, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam xứng

đáng là một sự kiện trung tâm trong trang sử oanh liệt của cách mạng miền Nam

Việt Nam.

Thứ tư, những trang lịch sử mà Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt

Nam với hoạt động đối ngoại đã viết lên là những trang sử vô cùng phong phú và

mang ý nghĩa thời đại sâu sắc. Vấn đề này sẽ được tiếp tục phát triển và nghiên cứu

sâu hơn nữa khi chúng ta tiếp cận phạm vi nguồn tư liệu rộng hơn cùng với khả

103

năng nghiên cứu chuyên sâu hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Lan Anh (2011), Đảng với hoạt động đối ngoại của Chính phủ

Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Luận văn cao học,

Trường ĐH KHXH-NV.

2. Bà Nguyễn Thị Bình đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt

Nam tới Pa-ri (1968), Báo Nhân dân, ra ngày 23-12.

3. Ban liên lạc đối ngoại trực thuộc Ủy ban trung ương Mặt trận Dân tộc giải

phóng miền Nam Việt Nam cảnh cáo bọn Pắc Chung Hi (1967), Báo Nhân

dân, ra ngày 24-2.

4. Nguyễn Đình Bin (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, NXB Chính trị

Quốc gia, HN.

5. Nguyễn Thị Bình (2004), Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Chính phủ Cách

mạng lâm thời tại Hội nghị Pari về Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, HN.

6. Biên niên sự kiện lịch sử Mặt trân Dân tộc thống nhất Việt Nam, tập II (1954-

1975), NXB Chính trị Quốc gia, HN, 2004.

7. Bộ chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Cu Ba Hội đàm thân mật với đoàn

đại biểu miền Nam Việt Nam (1972), Báo Nhân dân, ra ngày 22-7.

8. Bộ Ngoại giao (2007), Mặt trận Ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt

Nam, NXB Chính trị Quốc gia, HN.

9. Bộ Ngoại giao Cộng hòa Dân chủ Đức lên án giới cầm quyền Tây Đức theo

đuổi Mỹ xâm lược Việt Nam (1966), Báo Nhân dân, ra ngày 15-12.

10. Bộ Ngoại giao Cộng hòa Dân chủ Đức ra tuyên bố lên án bọn Pắc Chung Hi

đưa thêm lính đánh thuê sang Nam Việt Nam (1966), Báo Nhân dân, ra ngày

3-4.

11. Các nhà khoa học tham gia hội nghị thảo luận vật lý Bắc Kinh ra tuyên bố về

vấn đề Việt Nam (1966), Báo Nhân dân, ra ngày 4-8.

12. Cả thế giới ủng hộ nhân dân ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược (1966), Báo

Nhân dân, ra ngày 8-8.

13. Cả thế giới ủng hộ nhân dân ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược (1966), Báo

104

Nhân dân, ra ngày 13-8.

14. Cả thế giới ủng hộ nhân dân ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược (1966), Báo

Nhân dân, ra ngày 21-8.

15. Cả thế giới ủng hộ nhân dân ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược (1966), Báo

Nhân dân, ra ngày 16-9.

16. Cả thế giới ủng hộ nhân dân ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược (1967), Báo

Nhân dân, ra ngày 1- 2.

17. Cả thế giới ủng hộ nhân dân ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược (1968), Báo

Nhân dân, ra ngày 21-11.

18. Cả thế giới ủng hộ nhân dân ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược (1969), Báo

Nhân dân, ra ngày 2-3.

19. Cả thế giới ủng hộ nhân dân ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược (1969), Báo

Nhân dân, ra ngày 21-5.

20. Cả thế giới ủng hộ nhân dân ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược (1969), Báo

Nhân dân, ra ngày 22-5.

21. Cả thế giới ủng hộ nhân dân ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Liên đoàn phụ

nữ dân chủ quốc tế đòi rút không thể điều kiện quân Mỹ khỏi miền Nam Việt

Nam. 2000 nhân dân Anh biểu tình chống Mỹ xâm lược Việt Nam (1972),

Báo Nhân dân, ra ngày 12-11.

22. Chính nghĩa của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam sáng ngời

trên thế giới (1966), Báo Nhân dân, ra ngày 22-7.

23. Chính phủ Cu Ba quyết định nâng đoàn đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng

miền Nam Việt Nam tại Cu Ba lên thành cơ quan đại diện ngoại giao chính

thức (1965), Báo Nhân dân, ra ngày 24-12.

24. Chính phủ Thụy Điển viện trợ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt

Nam (1971), Báo Nhân dân, ra ngày 30-5.

25. Chính phủ Triều Tiên giúp nhân dân vùng bị bão lụt ở miền Nam Việt Nam

(1970), Báo Nhân dân, ra ngày 27-12.

26. Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ kết thúc tốt đẹp cuộc đi thăm hữu nghị nước cộng

hòa thống nhất Tan-da-ni-a và sang thăm nước cộng hòa u-gan-đa (1973), Báo

105

Nhân dân, ra tháng 30-9.

27. Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ gửi điện đến hoàng thân Xu-pha-nu-vông ủng hộ

giải pháp 5 điểm của Mặt trận Lào yêu nước (1972), Báo Nhân dân, ra ngày

30-10.

28. Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ gửi điện mừng Hội nghị thế giới đoàn kết với nhân

dân Campuchia (1973), Báo Nhân dân, ra ngày 9-12.

29. Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ hội đàm với Hội đồng Nhà nước Ba Lan (1973),

Báo Nhân dân, ra ngày 8-12.

30. Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ mừng Đại hội GANEFO châu Á (1969), Báo Nhân

dân, ra ngày 16-5.

31. Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ trả lời Chủ tịch Hội đồng Cách mạng An-giê-ri

H.Bu-Mê-Điên về tình hình Trung Đông (1973), Báo Nhân dân, ra ngày 14-

10.

32. Quỳnh Cư (1967), Một vài ý kiến về ý nghĩa quốc tế của cuộc chiến đấu chống

Mỹ của nhân dân miền Nam, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số 104, ra tháng 11.

33. Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam,

NXB Sự thật, 1967.

34. Đại hội đồng Ủy ban GANEFO châu Á khai mạc tại Nông Pênh (1966), Báo

Nhân dân, ra ngày 29-11.

35. Đại hội luật gia dân chủ quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh của đồng bào ta ở miền

Nam (1964), Báo Nhân dân, ra ngày 15-4.

36. Đảng cộng sản Pháp, Rê-uy-ni-ông, nhân dân Cu-ba, An-giê-ri, Liên đoàn phụ

nữ dân chủ quốc tế, Liên đoàn thanh niên dân chủ thế giới nhiệt liệt ủng hộ

nhân dân ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược (1968), Báo Nhân dân, ra ngày 8-

12.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, NXB Chính

trị Quốc gia Hà Nội, HN.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, NXB Chính

trị Quốc gia Hà Nội, HN.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 22, NXB Chính

trị Quốc gia Hà Nội, HN.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23, NXB Chính

106

trị Quốc gia Hà Nội, HN.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 24, NXB Chính

trị Quốc gia Hà Nội, HN.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 25, NXB Chính

trị Quốc gia Hà Nội, HN.

43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 26, NXB Chính

trị Quốc gia Hà Nội, HN.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 27, NXB Chính

trị Quốc gia Hà Nội, HN.

45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, NXB Chính

trị Quốc gia Hà Nội, HN.

46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29, NXB Chính

trị Quốc gia Hà Nội, HN.

47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 30, NXB Chính

trị Quốc gia Hà Nội, HN.

48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 31, NXB Chính

trị Quốc gia Hà Nội, HN.

49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 32, NXB Chính

trị Quốc gia Hà Nội, HN.

50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 33, NXB Chính

trị Quốc gia Hà Nội, HN.

51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34, NXB Chính

trị Quốc gia Hà Nội, HN.

52. Đặc phái viên Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng

miền Nam Việt Nam và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam

Việt Nam thăm Cộng hòa Dăm-bi-a (1970), Báo Nhân dân, ra ngày 11-1.

53. Trần Bạch Đằng (1993), Chung một bóng cờ: Về Mặt trận Dân tộc Giải phóng

miền Nam Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, HN.

54. Điện mừng nhân dịp kỷ niệm lần thứ mười ngày thành lập Mặt trận Dân tộc

giải phóng miền Nam Việt Nam (1970), Báo Nhân dân, ra ngày 30-12.

55. Đoàn đại biểu Chính phủ ta, đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng và

107

Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đi dự tháng đấu

tranh chung chống đế quốc Mỹ, đòi quân xâm lược Mỹ rút khỏi Nam Triều

Tiên (1970), Báo Nhân dân, ra ngày 24-6.

56. Đoàn đại biểu Cộng hòa dân chủ Đức trao tặng phẩm cho Đoàn đại biểu Mặt

trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1964), Báo Nhân dân, ra ngày

28-11.

57. Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam dự lễ kỷ niệm

lần thứ 100 ngày sinh Lê-nin đến Mát-xcơ-va (1970), Báo Nhân dân, ra ngày

21-4.

58. Đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đi dự đại hội

Đảng cộng sản Pháp (1970), Báo Nhân dân, ra ngày 5-2.

59. Đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đi dự đại hội

lần thứ 14 của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc (1971), Báo Nhân dân, ra ngày 25-5.

60. Đoàn đại biểu Cộng hòa miền Nam Việt Nam thăm Ai Cập, Xy-ri và ra thông

cáo chung (1974), Báo Nhân dân, ra ngày 4-10.

61. Đoàn đại biểu Cộng hòa miền Nam Việt Nam thăm chính thức Ả-rập Xy-ri và

ra thông cáo chung (1974), Báo Nhân dân, ra ngày 9-10.

62. Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam tại Liên Xô (1962), Báo

Nhân dân,ra ngày 10-7.

63. Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng Nam Việt Nam và Ủy ban Triều

Tiên ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Nam Việt Nam ký tuyên bố chung

chống đế quốc Mỹ (1964), Báo Nhân dân, ra ngày 29-7.

64. Đồng chí Phi-đen C-xtơ-rô; Mười điểm của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền

Nam nhất đinh thắng! (1969), Báo Nhân dân, ra ngày 2-8.

65. Giác thư của Mặt trận Dân tộc giải phóng: thái độ của Ấn Độ và Can-na-đa

xúc phạm tinh thần dân tộc Việt Nam khiêu khích phong trào đấu tranh dân

tộc độc lập toàn thế giới (1962), Báo Nhân dân, ra ngày 5-6.

66. Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu trưởng đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng

miền Nam Việt Nam đọc lời chào mừng Đại hội lần thứ 24 Đảng Cộng sản

Liên Xô (1972), Báo Nhân dân, ra ngày 7-11.

67. George C. Herring (1998), Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, Nxb

108

Chính trị quốc gia, HN. tr. 52-56.

68. Nguyễn Hoài (1973), Từ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đến

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Tạp chí

nghiên cứu lịch sử, số 153, tháng 12.

69. Hoạt động của đoàn đại biểu Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Liên Xô,

Hunggari (1973), Báo Nhân dân, ra ngày 14-12.

70. Hà Minh Hồng, Trần Nam Tiến (2010), Mặt trận Dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam (1960-1977), NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, HCM.

71. TS. Nguyễn Duy Hùng (Chủ biên) (2010), Mặt trận Dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị Quốc

gia, HN.

72. Nguyễn Khắc Huỳnh (2008), “Lương tri của loài người thức tỉnh: động lực

của mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ”, Tạp chí Nghiên

cứu quốc tế, số 3, tr 3-11.

73. Nguyễn Khắc Huỳnh (2010), “Mặt trận ngoại giao trong kháng chiến chống

Mỹ, tài trí và nghệ thuật”, Tạp chí lịch sử quân sự, số tháng 2, tr 18-22.

74. Khai mạc phiên họp toàn thể lần thứ nhất của hội nghị Pari về Việt Nam

(1969), Báo Nhân dân, ra ngày 66-1.

75. Kiên quyết lên án hành động tăng cường chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, Ủy

ban Trung ương Neo Lào Hắc-xạt tuyên bố: nhân dân Lào quyết cùng nhân

dân Việt Nam anh em tăng cường đoàn kết, đánh thắng giặc Mỹ xâm lược

(1968), Báo Nhân dân, ra ngày 29-11.

76. Kỷ niệm lần thứ 5 ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam: 20/12/1965, NXB Ty Thanh Hoá – Thông tin Thanh Hoá, 1965.

77. Lịch sử biên niên xứ uỷ Nam Bộ và Trung ương cục miền Nam (1954 – 1975),

NXB Chính trị Quốc gia, HN, 2002.

78. Liên Xô và Hung-ga-ri hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của

nhân dân ta. Cộng hòa dân chủ Đức coi việc ủng hộ và giúp đỡ nhân dân ta

chống Mỹ xâm lược là nhiệm vụ quốc tế hàng đầu. Nhiều nhà khoa học Mỹ

vạch tội ác của bọn xâm lược Mỹ dùng chất độc hóa học ở miền Nam Việt

109

Nam (1972), Báo Nhân dân, ra ngày 22-12.

79. Trần Huy Liệu (1963), Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam -

ngọn cờ đại đoàn kết, ngọn cờ tất thắng, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số 57, ra

tháng 12.

80. Trần Huy Liệu (1964), Vai trò của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt

Nam trong cuộc chiến tranh yêu nước chống đế quốc Mỹ và tay sai ở miền

Nam nước ta hiện nay, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 69, ra tháng 12.

81. Lời kêu gọi của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam

Việt Nam (1972), Báo Nhân dân, ra ngày 30-10.

82. Nguyễn Phúc Luân (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp độc

lập, tự do (1945-1975), NXB Chính trị Quốc gia, HN, 2001.

83. Nguyễn Phúc Luân (2005), Ngoại giao Việt Nam trong cuộc đụng đầu lịch sử,

NXB Công an Nhân dân, HN.

84. Nguyễn Phúc Luân (2005), “Nhìn lại thành tựu và nhân tố thắng lợi của Mặt

trận ngoại giao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975”, Tạp

chí nghiên cứu quốc tế, số 1, tr 3-16.

85. Đoàn Luyến (2013), Vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1960-1968), Luận văn Thạc sĩ, Đại

học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

86. Mặt trận Dân tộc giải phóng Chính phủ Cách mạng lâm thời tại Hội nghị Pari

về Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, 2004.

87. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam chúc mừng đại hội lần thứ

19 Đảng cộng sản Pháp (1972), Báo Nhân dân, ra ngày 13-12.

88. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cử đại biểu đi dự đại hội luật

gia dân chủ Á-Phi (1962) Báo Nhân dân, ra ngày 17-10.

89. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam cử đại biểu sang Liên Xô và In-đô-nê-

xi-a dự lễ kỷ niệm 3 năm thành lập Mặt trận (1963), Báo Nhân dân, ra ngày

17-12.

90. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cử đại diện tham gia công

việc trù bị Hội nghị Pa-ri về Việt Nam (1968), Báo Nhân dân, ra ngày 24-12.

91. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cử đoàn đại biểu tham dự

110

hội nghị Pa-ri về Việt Nam (1968), Báo Nhân dân, ra ngày 27-12.

92. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam kiên quyết lên án trò bịp

“Hội nghị các nước châu Á bàn về vấn đề Việt Nam (1966), Báo Nhân dân, ra

ngày 23-8.

93. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lên án đế quốc Mỹ đàn áp

nhân dân Pa-na-ma (1964), Báo Nhân dân, ra ngày 21-1.

94. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lên án Mỹ bắn phá lãnh thổ

Trung Quốc (1966), Báo Nhân dân

95. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lên án Mỹ- ngụy âm mưu tấn

công Cam-pu-chia (1966), Báo Nhân dân, ra ngày 26-11.

96. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam nghiêm khắc cảnh cáo Thái

Lan tiếp tay cho Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược (1967), Báo Nhân dân, ra

ngày 15-3.

97. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam phát động “Tuần ủng hộ Cu-

ba (1964), Báo Nhân dân, ra ngày 28-7.

98. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra tuyên bố nhân ngày 20-7-

1964: có sức mạnh, có đường lối đấu tranh đúng đắn, được sự đồng tình, ủng

hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình và chân lý trên thế giới, nhân dân miền

Nam Việt Nam nhất định giành được thắng lợi cuối cùng (1964), Báo Nhân

dân, ra ngày 13-7.

99. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra tuyên bố về cuộc Hội nghị chiến

tranh của Mỹ ở Gu-am (1967), Báo Nhân dân, ra ngày 20-3.

100. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam thăm tỉnh Quảng Đông

(1962), Báo Nhân dân, ra ngày 18-10.

101. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam thăm thành phố Hàm Hưng

(Triều Tiên) (1962), Báo Nhân dân, ra ngày 19-11.

102. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trên thế giới (1965), Báo

Nhân dân, ra ngày 28-5.

103. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Hội đồng toàn quốc giải

phóng Công-gô (Lê-ô-pôn-vin) ký tuyên bố chung chống đế quốc Mỹ (1964),

111

Báo Nhân dân, ra ngày 2-8.

104. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và cộng hòa dân chủ Đức ký

hiệp định về việc Cộng hòa dân chủ Đức đào tạo sinh viên và nghiên cứu sinh

của Mặt trận năm 1968-1969 (1969), Báo Nhân dân, ra ngày 15-9.

105. Mặt trận nhân dân yêu nước Hung-ga-ri, Chủ tịch Hội đồng An-giê-ri, Liên

đoàn thanh niên dân chủ thế giới hoan nghênh cương lĩnh chính trị của Mặt

trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1969), Báo Nhân dân, ra ngày

21-5.

106. Mít tinh lớn ủng hộ Việt Nam tại Pa-ri (1972), Báo Nhân dân, ra ngày 16-12.

107. Một nhà báo Mỹ hưởng ứng bức thư của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam gửi nhân dân Mỹ” (1964), Báo Nhân dân, ra ngày 21-4.

108. Mỹ - Hàng nghìn nhân dân mít tinh, biểu tình ở Oa-sinh-tơn đòi chấm dứt

chiến tranh xâm lược Việt Nam, rút hết quân về nước (1972), Báo Nhân dân,

ra ngày 15-12.

109. Mỹ: hơn 2000 nhân dân biểu tình trước phủ tổng thống đòi chấm dứt chiến

tranh xâm lược Việt Nam, Ủy ban đoàn kết nhân dân Á Phi của Thái Lan phản

đối bọn cầm quyền phản động theo lệnh Mỹ đưa thêm lính đánh thuê sang

Nam Việt Nam (1969), Báo Nhân dân, ra ngày 28-5.

110. Mười điểm trong chương trình hoạt động của Mặt trận Dân tộc giải phóng

miền Nam Việt Nam (1961), Báo Nhân dân, ra ngày 12-2.

111. M.N (1967), Phương châm hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc giải

phóng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc

Mỹ”, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số 94, ra tháng 1.

112. Nguyễn Bình Minh (1963), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam,

ngọn cờ đại đoàn kết, ngọn cờ tất thắng, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 57, ra

tháng 12.

113. Nhân dân Bắc Kinh mít tinh trọng thể kỷ niệm lần thứ mười ngày thành lập

Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam – thủ tướng Chu Ân Lai tới dự (1970),

Báo Nhân dân, ra ngày 23-12.

114. Nhân dân Hà Lan, giúp nhân dân ta thuốc, cả thế giới ủng hộ nhan dân ta đánh

thắng giặc Mỹ xâm lược (1968), Báo Nhân dân, ra ngày 2-10.

115. Nhân dân thế giới nồng nhiệt kỷ niệm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc giải

112

phóng miền Nam Việt Nam (1970), Báo Nhân dân, ra ngày 31-12.

116. Nguyễn Di Niên (2009), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, NXB Chính trị

Quốc gia, HN.

117. Những văn kiện chủ yếu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam: từ tháng 12-1965 đến tháng 12-1966, NXB Sự thật, 1967.

118. Ông Dương Đình Thảo trong đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam họp báo (1968), Báo Nhân dân, ra ngày 23-12.

119. Paniel Ellsberg (2006), Những bí mật về chiến tranh Việt Nam, Nxb Công an

Nhân dân, HN.

120. Pierre Asselin (2005), Nền hòa bình mong manh, Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

121. Phó Tổng thống Tan-da-ni-a Ca-ca-oa: Nhân dân Tan-da-ni-a luôn luôn ủng

hộ Việt Nam và tin tưởng rằng đế quốc Mỹ nhất định thất bại. Nhân dân Cộng

hòa dân chủ Đức ủng hộ Việt Nam (1970), Báo Nhân dân, ra ngày 2-1.

122. Lương Viết Sang (2005), Qúa trình Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao tại

Hội nghị Pari về Việt Nam (1968-1973), Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

123. Sinh viên Ken-bơ-rơ phất cao cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt

Nam, biểu tình chống Mỹ (1966), Báo Nhân dân, ra ngày 30-6.

124. Sinh viên Mỹ góp tiền mua thuốc tặng Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam

Việt Nam (1964), Báo Nhân dân, ra ngày 18-4.

125. Tại hội nghị kinh tế các nước Á- Phi: Đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải

phóng miền Nam Việt Nam tố cáo đế quốc Mỹ (1962), Báo Nhân dân, ra ngày

11-11.

126. Thế giới tiếp tục lên án tội ác của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam (1972),

Báo Nhân dân, ra ngày 19-12.

127. Toàn thế giới ủng hộ chúng ta: Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt

Nam được toàn thế giới ủng hộ (1962), Báo Nhân dân, ra ngày 9-6.

128. Toàn thế giới ủng hộ chúng ta (1969), Báo Nhân dân, ra ngày 16-5.

129. Tư liệu ngoại giao – Bác Hồ trong trái tim các nhà ngoại giao, NXB Chính trị

Quốc gia, HN, 1999.

130. Nguyễn Hữu Thọ (2005), “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

– mấy bài học lớn”, Việt Nam trên con đường lớn bản hung ca thế kỷ 20, Nxb

113

Lao động xã hội, HN.

131. PGS.TS Ngô Đăng Tri (chủ biên), 50 năm phong trào Đồng Khởi ở miền Nam

Việt Nam những vẫn đề lịch sử, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, HN, 2010.

132. Nguyễn Duy Trinh (1979), Mặt trận ngoại giao thời kỳ chống Mỹ cứu nước

1965-1975, NXB Sự thật, HN.

133. Tuyên ngôn của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1961),

Báo Nhân dân, ra ngày 4-2, tr 1-4.

134. Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam nghiêm khắc lên

án Mỹ gây tội ác ở Ninh Bình, Thanh Hóa, Nam Định, Thái Bình, Việt Trì,

Thái Nguyên (1967), Báo Nhân dân, ra ngày 29-1.

135. Uy tín của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trên thế giới

không ngừng lớn mạnh (1965), Báo Nhân dân, ra ngày 16-12.

136. Vương quốc Capuchia và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam

quyết định nâng quan hệ ngoại giao lên hàng Đại sự quán (1969), Báo Nhân

dân, ra ngày 10-5.

137. Xã luận: Sự ủng hộ của nhân dân Á-Phi cổ vũ mạnh mẽ nhân dân ta đấu tranh

114

chống Mỹ (1966), Báo Nhân dân, ra ngày 1-4.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO HÒA BÌNH VÀ TRUNG LẬP

(trích Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam)

[33]

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thi hành chính sách ngoại

giao hòa bình và trung lập, bảo đảm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh

thổ của nước nhà và giữ gìn hòa bình thế giới. Chính sách đó cụ thể như sau:

1. Đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính

trị và xã hội, theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của

nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi,

chung sống hòa bình.

Xóa bỏ mọi hiệp ước bất bình đẳng do ngụy quyền đã ký với Mỹ hoặc các

nước khác.

Tôn trọng quyền lợi về kinh tế và văn hóa của các nước đồng tình và ủng hộ

hoặc giúp đỡ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam.

Nhận sự giúp đỡ về kinh tế và kỹ thuật của bất cứ nước nào, không kèm theo

điều kiện chính trị rằng buộc.

Không tham gia khối liên minh quân sự nào; không nhận nhân viên quân sự

và căn cứ quân sự của nước ngoài trên lãnh thổ mình.

2. Tăng cường quan hệ hữu nghị với tất cả các nước đồng tình, ủng hộ và

giúp đỡ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam.

Tăng cường quan hệ láng giềng tốt với Campuchia và Lào. Không ngừng

củng cố tình đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau giữa nhân dân các nước Đông Dương,

nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, chống

chính sách xâm lược và gây chiến của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng.

3. Tích cực ủng hộ phong trào độc lập dân tộc của nhân dân châu Á, châu Phi

và châu Mỹ Latinh chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân cũ và mới.

Tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Mỹ chống chiến tranh xâm

115

lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam.

Tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của người da đen ở Mỹ đòi

những quyền dân tộc cơ bản của mình.

Tích cực ủng hộ phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội

ở các nước trên thế giới.

4. Tích cực đấu tranh để góp phần bảo vệ hòa bình thế giới, chống bọn đế

quốc hiếu chiến và xâm lược đứng đầu là đế quốc Mỹ. Đòi giải tán các khối quân sự

xâm lược và căn cứ quân sự của chủ nghĩa đế quốc ở nước ngoài.

Không ngừng củng cố và phát triển quan hệ với các tổ chức dân chủ quốc tế

và nhân dân các nước, kể cả nhân dân Mỹ.

Tích cực góp phần vào việc củng cố và phát triển mặt trận của nhân dân thế

giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, vì độc lập dân tộc và

116

hòa bình.

Phụ lục 2

GIẢI PHÁP TOÀN BỘ MƯỜI ĐIỂM VỀ VẤN ĐỀ MIỀN NAM VIỆT

NAM (8-5-1969) [70]

1. Tôn trọng các quyền dân tộc của nhân dân Việt Nam.

2. Rút hết quân Mỹ, nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh của

Hoa Kỳ và các nước phe Mỹ, hủy bỏ các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ ở miền Nam

Việt Nam.

3. Vấn đề các lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam Việt Nam do các

bên Việt Nam cùng giải quyết.

4. Nhân dân miền Nam Việt Nam giải quyết công việc nội bộ của mình,

không có sự can thiệp của nước ngoài, bầu ra quốc hội lập hiến, xây dựng hiến

pháp, thành lập chính phủ liên hiệp.

5. Thành lập chính phủ liên hiệp lâm thời trên nguyên tắc bình đẳng, dân chủ

và tôn trọng lẫn nhau nhằm thực hiện một miền Nam Việt Nam hòa bình, độc lập,

dân chủ, trung lập.

6. Miền Nam Việt Nam thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình, trung lập,

thực hiện chính sách láng giềng tốt với Campuchia và Lào, lập quan hệ với tất cả

các nước.

7. Thực hiện từng bước thống nhất nước Việt Nam bằng phương pháp hòa

bình trên cơ sở bàn bạc giữa hai miền; trong khi chờ đợi thực hiện hòa bình thống

nhất nước Việt Nam, lập lại quan hệ bình thường về mọi mặt giữa hai miền.

8. Hai miền Nam, Bắc, trong khi chờ thống nhất, cam kết không tham gia

liên minh quân sự nào, không cho phép nước ngoài có căn cứ quân sự, quân đội và

nhân viên quân sự trên đất mình.

9. Giải quyết những hậu quả của chiến tranh; vấn đề tù binh, vấn đề thiệt hai

về chiến tranh ở Việt Nam.

10. Thỏa thuận về sự giám sát quốc tế đối với việc rút vũ khí và dụng cụ

117

chiến tranh.

Phụ lục 3

DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN ĐOÀN ĐẠI BIỂU MẶT TRẬN DÂN TỘC

GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM TẠI HỘI NGHỊ PARI [71]

* Đoàn trù bị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng: Từ ngày 4-11 đến ngày

16-12-1968

Nguyễn Thị Bình (trưởng đoàn);

Trần Văn Tư (đoàn viên);

Dương Đình Thảo (đoàn viên, người phát ngôn);

Phạm Thanh Vân (Nguyễn Bình Thanh, Thư ký Trưởng đoàn, phiên dịch).

* Đoàn đại biểu chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng: Từ ngày

16-12-1968 đến ngày 6-6-1969

- Trưởng đoàn:

Trần Bửu Kiếm.

- Phó Trưởng đoàn:

Nguyễn Thị Bình;

Trần Hoài Nam (người phát ngôn).

- Ủy viên:

Nguyễn Văn Tiến;

Đinh Bá Thi;

Đỗ Duy Liên;

Trần Văn Tư.

- Cố vấn, phát ngôn:

Dương Đình Thảo;

Lý Văn Sáu.

- Chuyên viên:

Nguyễn Ngọc Dung;

Phạm Thanh Vân;

Phan Nhẫn;

Đặng Ninh Đăng (Hà Đăng)

118

Trịnh Văn Ánh (Nguyễn Ngọc Ẩn).

Phụ lục 4

NHỮNG TỔ CHỨC QUỐC TẾ MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG

THAM GIA

(Khảo sát qua báo Nhân dân từ năm 1960-1975)

Liên hiệp Công đoàn thế giới

Hội đồng hòa bình thế giới

Liên hiệp Phụ nữ dân chủ quốc tế

Liên hiệp Thanh niên dân chủ thế giới

Hội luật gia dân chủ thế giới

Hội nhà báo

Ủy ban đoàn kết ba châu

119

Phong trào Không liên kết

Phụ lục 5

BIÊN NIÊN HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC

GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM (6/1969-4/1975)

(khảo sát qua Báo Nhân dân, Báo Giải phóng từ năm 1969 đến năm 1975)

Năm 1969

- Ngày 5-10, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm Trung Quốc.

- Ngày 15-10, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm Hungary.

- Ngày 16-10, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm Đức và ra thông cáo chung.

- Ngày 20-10, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm Ba Lan và ra thông cáo chung.

- Ngày 23-10, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm Bungari và ra thông cáo chung.

- Ngày 2-11, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam đi dự lễ kỉ niệm Cách mạng tháng 10 và thăm hữu nghị Liên Xô, ra thông cáo

chung.

- Ngày 5-11, Chủ tịch A.N. Cô-xư-chin hội đàm với Chủ tịch Nguyễn Hữu

Thọ.

- Ngày 8-11, Đồng chí Brê-giơ-nép hội đàm thân mật với Chủ tịch Nguyễn

Hữu Thọ.

- Ngày 9-11, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm Xy-ri.

- Ngày 10-11, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm Vôn-ga-grát.

- Ngày 10-11, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm An-giê-ri.

- Ngày 14-11, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm A-rập thống nhất và ra thông cáo chung.

- Ngày 20-11, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

120

Nam thăm Tiệp Khắc và ra thông cáo chung.

- Ngày 27-11, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm Triều Tiên và ra thông cáo chung.

- Ngày 29-11, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ gửi điện cảm ơn Chủ tịch Vantelln

Biích.

- Ngày 4-12, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm An-ba-ni.

- Ngày 6-12, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm hữu nghị Mông Cổ và ra thông cáo chung.

- Ngày 10-12, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm Ghi-nê và ra thông cáo chung.

- Ngày 19 và 20 -12, Nhân dân các nước kỷ niệm ngày thành lập Mặt trận

Dân tộc Giải phóng.

- Ngày 20-12, Điện mừng của các nước trên thế giới nhân kỷ niệm ngày

thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

- Ngày 20-12, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm Công gô (Bra da-vin) và ra thông cáo chung.

- Ngày 20-12, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm Ấn Độ.

- Ngày 22-12, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm Tan-da-ni-a.

- Ngày 24-12, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm vùng giải phóng Lào.

Năm 1970

- Ngày 10-1, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm Dăm-bi-a.

- Ngày 18-1, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ mừng nhân dân Cu Ba giành thắng

lợi bước đầu trong vụ mía 10 triệu tấn đường.

- Ngày 26-1, Liên đoàn Phụ nữ dân chủ Quốc tế đòi rút không điều kiện quân

Mỹ ra khỏi Miền Nam Việt Nam.

- Ngày 4-2, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

121

Nam đi dự Đại hội lần thứ 19 Đảng Cộng sản Pháp.

- Ngày 18-3, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ gửi điện đến hoàng thân Xu-fa-nu-

vông ủng hộ giải pháp 5 điểm của Mặt trận Lào yêu nước.

- Ngày 23-3, Điện trao đổi giữa Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ và quốc trưởng

Nô-rô-đôm Xi-ha-núc.

- Ngày 20-4, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam dự lễ kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Lênin đến Mát-xcơ-va.

- Ngày 3-5, Tuyên bố của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam về Hội nghị cấp

cao của nhân dân Đông Dương.

- Ngày 7-7, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ trả lời phỏng vấn của đặc phái viên

báo A-ca-ha-ta.

- Ngày 6-8, Đoàn Đại biểu Cộng hòa miền Nam Việt Nam sang Cu Ba dự lễ

kỷ niệm ngày khởi nghĩa vũ trang.

- Ngày 11-11, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam nghiêm

khắc lên án Mỹ - ngụy lại đưa quân trắng trợn xâm lược Cam-pu-chia.

- Ngày 20-12, Điện mừng của nhân dân thế giới kỷ niệm lần thứ 10 ngày

thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

- Ngày 19-12, nhân dân thế giới nồng nhiệt kỷ niệm ngày thành lập Mặt trận

Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

- Ngày 21-12, Thủ tướng Chu Ân Lai tiếp Đoàn đại biểu Ủy ban Trung ương

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

- Ngày 23-12, Quốc trưởng Nô-Rô-Đôm Xi-ha-núc và Thủ tướng Pen Nút

tiếp đoàn Đại biểu Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam.

- Ngày 20-12, mít tinh trọng thể tại vùng giải phóng Lào kỷ niệm ngày thành

lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Năm 1971

- Ngày 2-4, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt đi dự

Đại hội lần thứ 24 Đảng Cộng sản Liên Xô.

- Ngày 10-5, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

122

Nam đến Xô-fi-a.

- Ngày 24-5, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam đi dự Đại hội lần thứ 14 của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc.

- Ngày 29-5, Chính phủ Thủy Điển viện trợ Mặt trận Dân tộc Giải phóng

miền Nam Việt Nam.

- Ngày 14-6, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam đi dự Đại hội lần thứ 16 Đảng Nhân dân Cách Mạng Mông Cổ.

- Ngày 15-6, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ trả lời phóng vấn của thông tấn xã

Ba Lan.

- Ngày 17-6, Đoàn đại biểu ta và Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng

miền Nam Việt Nam đến thăm U-lan Ba-to.

- Ngày 3-7, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ gửi thư đến nhân dân Mỹ nhân ngày

Độc lập nước Mỹ (4-7).

- Ngày 11-7, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam đi dự lễ kỷ niệm lần thứ 50 Cách mạng nhân dân Mông Cổ.

- Ngày 6-10, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ mừng Đoàn đại biểu Đảng và Chính

phủ Liên Xô nhân dịp sang thăm Việt Nam.

- Ngày 9-10, Điện cảm ơn của Chủ tịch N.Pốt-goóc-nưi gửi Chủ tịch Nguyễn

Hữu Thọ.

- Ngày 29-10, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ gửi thư thăm hỏi đồng bào các

vùng bị bão ở Trung Quốc.

- Ngày 9-11, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ gửi điện mừng Quốc khánh vương

quốc Campuchia.

Năm 1972

- Ngày 21-7, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm Cu Ba.

- Ngày 6-9, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

thăm Chi-lê và ra thông cáo chung.

- Ngày 12-12, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam đi dự Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Pháp.

Năm 1973

- Ngày 24-2, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ gửi điện mừng thắng lợi vĩ đại của

123

nhân dân Lào.

- Ngày 26-3, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam thăm hữu nghị Liên Xô.

- Ngày 27-7, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ tiếp trưởng đoàn Đoàn đại biểu

Đảng Cộng sản Nhật Bản.

- Ngày 27-8, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đi dự Hội nghị cấp cao các nước

Không liên kết.

- Ngày 15-9, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ thăm hữu nghị chính thức An-giê-ri.

- Ngày 25-9, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ gửi điện mừng Hoàng thân Xu-pha-

nu-vông.

- Ngày 20-9, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ thăm hữu nghị Xê-nê-gan.

- Ngày 24-9, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ thăm hữu nghị Nam Tư.

- Ngày 26-9, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ thăm hữu nghị chính thức Cộng hòa

A-rập Ai-cập.

- Ngày 28-9, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ thăm hữu nghị Cộng hòa thống nhất

Tan-da-ni-a.

- Ngày 2-10, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ thăm Cộng hòa U-gan-đa.

- Ngày 9-10, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Việt Nam ra tuyên bố lên án những hành động phát xít của bọn quân sự phản động

ở Chi-lê.

- Ngày 13-10, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ trả lời Chủ tịch Hội đồng Cách

mạng An-giê-ri H.Bu-Mê-Điên về tình hình Trung Đông.

- Ngày 1-11, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ trả lời phỏng vấn của Thông tấn xã

Cu Ba Pren-xa La-ti-na.

- Ngày 30-11, Tổng thống Xê-cu Tu-rê cảm ơn Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ.

- Ngày 3 và 4-12, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ hội đàm với Hội đồng Nhà

nước Ba Lan.

- Ngày 8-12, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ gửi điện mừng Hội nghị thế giới

đoàn kết với nhân dân Campuchia.

- Ngày 12-12, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ thăm hữu nghị Hung-ra-ri.

- Ngày 22-12, Chủ tịch nguyễn Hữu Thọ thăm hữu nghị Cộng hòa xã hội chủ

124

nghĩa Xô viết Ác-mê-ni-a.

- Ngày 19 và 20-12, Các nước kỷ niệm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải

phóng: Hunggari, Mông Cổ, Liên Xô, Trung Quốc, Rumani, Bỉ, Pháp, Angiêri,

Nauy, Phần Lan, Cu Ba, Ba Lan.

Năm 1974

- Ngày 16-1, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ thăm hữu nghị chính thức vùng giải

phóng Lào và ra tuyên bố chung.

- Ngày 7-3, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ gửi điện mừng Chủ tịch Hu-a-ri Bu-

mê-đi-en.

- Ngày 28-9, Mít tinh mừng quốc khánh Trung Quốc trong vùng giải phóng

miền Nam.

- Ngày 29-9, Đoàn đại biểu Cộng hòa miền Nam Việt Nam thăm Mát-xcơ-

va.

- Ngày 1-10, Đoàn đại biểu Cộng hòa miền Nam Việt Nam thăm Mông Cổ

và ra thông cáo chung.

- Ngày 3-10, Đoàn đại biểu Cộng hòa miền Nam Việt Nam thăm Ai Cập và

ra thông cáo chung.

- Ngày 7-10, Đoàn đại biểu Cộng hòa miền Nam Việt Nam thăm chính thức

Ả-rập Xy-ri và ra thông cáo chung.

- Ngày 10-10, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam đi thăm hữu nghị nước Cộng hòa I-rắc và ra thông cáo chung.

- Ngày 5-11, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ gửi điện mừng Cách mạng tháng

Mười.

- Ngày 7 và 9-12, Đoàn đại biểu Liên hiệp Công đoàn thế giới thăm vùng

giải phóng miền Nam Việt Nam.

- Ngày 16-12, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ trả lời phỏng vấn báo Thanh niên

quật khởi (Cu Ba).

- Ngày 20-12, Các nước anh em kỷ niệm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc

Giải phóng: Mông Cổ, Triều Tiên, Lào.

- Ngày 20-12, Các Đại sứ Cộng hòa A-rập Ai-Cập, Nam Tư và Xê-nê-gan

125

trình quốc thư lên Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ.

- Ngày 20-12, Điện mừng kỷ niệm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải

phóng của các nước: Liên Xô, Trung Quốc, Campuchia, Lào, Bungari, Mông Cổ,

Triều Tiên, Cu Ba, Hunggari, Ba Lan.

Năm 1975

- Này 11-1, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ trả lời phỏng vấn của nhà báo Liên

Xô.

- Ngày 19-2, Tổng thống nước CH Xi-ê-la Lê-ôn tiếp đặc phái viên của chủ

126

tịch Nguyễn Hữu Thọ.

Phụ lục 6

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA MẶT TRẬN

DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM (1960-1977)

(Nguồn: Báo Nhân dân, (1962), số 3108)

(Nguồn: Báo Nhân dân, (1963), số 3442) (Nguồn: Báo Nhân dân, (1966), số 4380)

127

(Nguồn: Báo Nhân dân, (1966), số 4513) (Nguồn: Báo Nhân dân, (1966), số 4470)

(Nguồn: Báo Nhân dân, (1966), số 4496)

128

Nguồn: Báo Nhân dân, (1962), số 3108) Nguồn: Báo Nhân dân, (1962), số 3108)

Nguồn: Báo Nhân dân, (1962), số 3108) Nguồn: Báo Nhân dân, (1962), số 3108)

129

(Nguồn: Báo Nhân dân, (1966), số 4469) (Nguồn: Báo Nhân dân, (1966), số 4506)

(Nguồn: Báo Nhân dân, (1966), số 4518) Nguồn: Báo Nhân dân, (1966), số 4544)

130

(Nguồn: Báo Nhân dân, (1966), số 4467) (Nguồn: Báo Nhân dân, (1966), số 4467)

(Nguồn: Báo Nhân dân, (1966), số 4380)

(Nguồn: Báo Nhân dân, (1966), số 4527)

131

(Nguồn: Báo Nhân dân, (1966), số 4555 ) (Nguồn: Báo Nhân dân, (1968), số 5016)

(Nguồn: Báo Nhân dân, (1968), số 5072)

132

(Nguồn: Báo Nhân dân) (Nguồn: Báo Nhân dân, (1973), số 7160)

(Nguồn: Báo Nhân Dân, năm 1973)

(Nguồn: Báo Nhân dân)

133