ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THU HƯƠNG

HOẠT ĐỘNG TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ

GIỮA CÁC QUỐC GIA ASEAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THU HƯƠNG

HOẠT ĐỘNG TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ

GIỮA CÁC QUỐC GIA ASEAN

Chuyên ngành: Luật quốc tế

Mã số: 8380101.06

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đoàn Năng

Hà Nội – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của

riêng tôi. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công

trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin

cậy, chính xác và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh

toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Đại học Quốc

gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét đề nghị để tôi

có thể bảo vệ luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thu Hương

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

Danh mục các bảng

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................ 1

DANH MỤC CÁC BẢNG .............................................................................. 2

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP

HÌNH SỰ GIỮA CÁC QUỐC GIA ............................................................... 7

1.1. Khái niệm tương trợ tư pháp hình sự .................................................... 7

1.2. Đặc điểm và nguyên tắc tương trợ tư pháp hình sự ........................... 10

1.2.1. Đặc điểm của tương trợ tư pháp hình sự ............................................... 10

1.2.2. Nguyên tắc tương trợ tư pháp hình sự .................................................. 11

1.3. Vai trò của hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự .......................... 14

1.4. Cơ sở pháp lý của hoạt động tương trợ tư pháp hình sự ................... 15

1.4.1. Điều ước quốc tế ................................................................................... 15

1.4.2. Pháp luật quốc gia ................................................................................. 20

Chương 2. PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT CỦA CÁC NƯỚC

ASEAN VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ ...................................... 24

2.1. Pháp luật quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự ................................. 24

2.2. Pháp luật các nước ASEAN về tương trợ tư pháp hình sự ................ 34

2.2.1. Cộng hòa Indonesia ............................................................................... 34

2.2.2. Liên bang Malaysia ............................................................................... 37

2.2.3. Cộng hòa Philippines ............................................................................ 39

2.2.4. Cộng hòa Singapore .............................................................................. 40

2.2.5. Vương quốc Thái Lan ........................................................................... 41

2.2.6. Vương quốc Brunei ............................................................................... 43

2.2.7. Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ........................................................... 44

2.2.8. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ................................................... 46

2.2.9. Liên bang Myanmar .............................................................................. 51

2.2.10. Vương quốc Campuchia ...................................................................... 54

Chương 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

HOẠT ĐỘNG TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ GIỮA CÁC QUỐC

GIA ASEAN ................................................................................................... 58

3.1. Hoạt động tương trợ tư pháp hình sự giữa các quốc gia ASEAN ..... 58

3.2. Pháp luật một số quốc gia ngoài khu vực ASEAN về tương trợ tư pháp

hình sự ............................................................................................................ 62

3.2.1. Pháp luật Liên bang Australia về tương trợ tư pháp hình sự ................ 62

3.2.2. Pháp luật Thụy Điển về tương trợ tư pháp hình sự ............................... 68

3.2.3. Pháp luật Trung Quốc về tương trợ tư pháp hình sự ............................ 70

3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp hình sự

......................................................................................................................... 73

3.3.1. Khó khăn, vướng mắc ........................................................................... 73

3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự . 75

KẾT LUẬN .................................................................................................... 81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Ký hiệu Nguyên nghĩa

Cảnh sát liên bang Australia 1 AFP

Cảnh sát liên bang Australia 2 AFP

3 ASEANAPOL Cảnh sát các nước ASEAN

Vương quốc Brunei 4 BN

Cộng hòa Indonesia 5 ID

INTERPOL Tổ chức cảnh sát quốc tế 6

7 KH Vương quốc Campuchia

8 LA Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

9 MM Liên bang Myanmar

10 MY Liên bang Malaysia

11 PH Cộng hòa Philippines

12 SG Cộng hòa Singapores

13 TH Vương quốc Thái Lan

14 VN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

DANH MỤC CÁC BẢNG

STT Số hiệu Tên bảng Trang

1 Bảng 2.1 Các công ước quốc tế về tương trợ tư pháp 25

về hình sự tiêu biểu mà các quốc gia ASEAN

là thành viên

Bảng 3.1 Thống kê số yêu cầu tương trợ tư pháp về 58 2

hình sự các quốc gia Đông Nam Á nhận được

Bảng 3.2 Thống kê số yêu cầu tương trợ tư pháp về 59 3

hình sự các quốc gia Đông Nam Á gửi đi

Bảng 3.3 Số lượng yêu cầu tương trợ tư pháp về hình 60 4

sự Việt Nam nhận được và gửi đi

LỜI MỞ ĐẦU

1- Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, tình hình tội phạm có tổ chức

xuyên quốc gia đang có nhiều diễn biến phức tạp gây hậu quả nghiêm trọng về

nhiều mặt cho các nước trên thế giới và trong khu vực Đông Nam Á. Theo ước

tính của Văn phòng Liên hợp quốc về chống Ma túy và Tội phạm năm 2016,

giao dịch từ các hoạt động phi pháp xuyên Đông Á và Thái Bình Dương hiện

có giá trị hơn 100 tỷ USD/năm, cao hơn tổng GDP của ba nước Lào, Campuchia

và Myanmar. Hơn nữa, Đông Nam Á còn được biết đến như một trung tâm

trung chuyển của nạn buôn bán người từ nhiều nơi đến Úc, New Zealand. Tội

phạm xuyên quốc gia trở thành mối đe dọa an ninh nghiêm trọng đối với an

ninh khu vực và gây nguy hiểm cho các quốc gia Đông Nam Á.

Riêng tại Việt Nam, tình hình tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia có xu

hướng gia tăng cả về số vụ, quy mô tổ chức và tính chất mức độ nghiêm trọng.

Theo báo cáo của Bộ Công an, trong 10 năm từ 2007 đến 2017, lực lượng chức

năng của Bộ Công an từ trung ương đến địa phương đã phát hiện, khởi tố và

điều tra 1.260 vụ án có yếu tố nước ngoài; trong tổng số 2.041 bị can bị bắt giữ,

có 692 đối tượng là người nước ngoài. Tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia

xảy ra tại Việt Nam khá đa dạng, bao gồm cả tội xâm phạm an ninh quốc gia

và nhiều loại tội phạm hình sự khác, như tội phạm mua bán người Việt Nam ra

nước ngoài, tội phạm về ma túy, tội phạm sản xuất, buôn bán tiền giả, hàng giả,

tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội tổ

chức đánh bạc, gá bạc, tổ chức mại dâm,... Thông qua các kênh hợp tác với

INTERPOL và ASEANAPOL, Cảnh sát Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan

chức năng các nước bắt giữ được hàng trăm đối tượng phạm tội người Việt

Nam hoạt động có tổ chức, xuyên quốc gia ở nước ngoài đưa về Việt Nam để

xử lý; đồng thời cũng phát hiện, bắt giữ và bàn giao hàng trăm đối tượng truy

1

nã quốc tế bỏ trốn vào Việt Nam cho các cơ quan chức năng nước ngoài xử lý.

Vấn đề tội phạm xuyên quốc gia đang đặt ra nhiều thách thức cho cộng

đồng dân cư khu vực Đông Nam Á và nhu cầu phải có một cơ chế hợp tác giải

quyết vấn nạn chung này.

Theo đó, sự ra đời của các chế định pháp lý để phục vụ, hỗ trợ cho hoạt

động đấu tranh với tội phạm xuyên quốc gia là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên,

xuất phát từ vấn đề chủ quyền quốc gia, các hành vi tố tụng hình sự của cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền của một quốc gia chỉ có thể được thực hiện trong

phạm vi giới hạn lãnh thổ của quốc gia đó. Trong khi đó, tính chất đặc thù của

tội phạm xuyên biên giới là có sự liên quan trực tiếp của nhiều quốc gia cho

cùng một hành vi phạm tội. Điều này đồng nghĩa với việc cần thiết phải có sự

hỗ trợ của các cơ quan tố tụng nước ngoài nơi thực hiện các hành vi tố tụng, để

giải quyết các vụ án mà quốc gia có thẩm quyền đang xem xét.

Xét thấy tầm quan trọng của hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong

khu vực, ngày 29/11/2004, các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đã ký kết

Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa các quốc gia ASEAN tại Kuala

Lumpur, Malaysia. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên trong khuôn khổ ASEAN để

làm nền tảng cho hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong khu vực. Tuy nhiên,

sau 14 năm kể từ ngày Hiệp định ra đời, pháp luật chung trong khuôn khổ

ASEAN cũng như thực tiễn hoạt động tương trợ tư pháp hình sự đã có nhiều

thay đổi đáng kể và đang gặp nhiều thách thức.

Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “Hoạt động tương trợ tư pháp hình sự

giữa các quốc gia ASEAN” làm đề tài nghiên cứu luận văn sau đại học của

mình.

2- Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Trong quan hệ quốc tế nói chung, vấn đề tương trợ tư pháp hình sự đã

được đề cập và bàn luận tương đối nhiều, tuy nhiên về khía cạnh pháp luật thì

vấn đề trên còn ít được đề cập. Tính đến thời điểm thực hiện nghiên cứu này,

2

tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội mới chỉ có một luận văn thạc sĩ luật

học của tác giả Vũ Thị Thu Hà năm 2017 về tương trợ tư pháp trong tố tụng

hình sự Việt Nam, cụ thể là “Tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự Việt

Nam”, nhưng chưa có luận văn, luận án nào nghiên cứu về tương trợ tư pháp

hình sự trong phạm vi ASEAN. Về hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong

khuôn khổ ASEAN, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến có thể

kể đến như:

- Nguyễn Thị Thuận, Lê Minh Tiến (Chủ biên) (2012, 2014, 2016), Giáo

trình Pháp luật cộng đồng ASEAN, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công

an nhân dân;

- TS. Nguyễn Quốc Việt (Chủ biên) (2016), Giáo trình Luật tương trợ tư

pháp, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà

Nội;

- Nguyễn Giang Nam (2011), Hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự và

dẫn độ tội phạm có yếu tố nước ngoài, Luận án tiến sĩ, Học viện Cảnh sát nhân

dân;

- Đỗ Mạnh Hồng (2008), Các vấn đề pháp lý cơ bản trong lĩnh vực tương

trợ tư pháp về hình sự của ASEAN, Tạp chí Luật học, (9), 57 – 64;

- Bùi Thị Ngọc Lan, Trần Thế Vinh (2016), Những nội dung cơ bản của

Hiệp định Tương trợ tư pháp về hình sự ASEAN năm 2004 và thực tiễn ở Việt

Nam, Kiểm sát, (12), 52 – 57;

- Nguyễn Ngọc Anh (Chủ biên) (2014), Các văn kiện của Liên Hợp quốc

và khu vực ASEAN về phòng, chống khủng bố, Vụ Pháp chế, Bộ Công an, NXB

Lao động;

- Bùi Mạnh Hùng (2012), Hợp tác quốc tế về chống khủng bố và liên hệ

thực tiễn Việt Nam, Luận văn thạc sĩ.

Ngoài ra, một số bài báo đề cập đến quan điểm của các chuyên gia về các

khía cạnh thẩm quyền hay các cơ quan đầu mối cũng đã đóng góp và làm hoàn

3

thiện hơn về hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự trong khu vực ASEAN.

3- Mục đích nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận về tương

trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự, các đặc điểm, cơ sở pháp lý của chế định

pháp lý về tương trợ tư pháp hình sự giữa các quốc gia.

Từ cơ sở lý luận trên, luận văn nghiên cứu về tương trợ tư pháp hình sự

được quy định trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia của các nước

ASEAN, đồng thời so sánh với một số quốc gia pháp triển để tìm các giải pháp

nhằm hoàn thiện chế định pháp lý cho hoạt động này trong khuôn khổ ASEAN.

4- Phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề tài

- Đối tượng nghiên cứu : Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận

về tương trợ tư pháp hình sự; các quy định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc

gia của các nước ASEAN và một số quốc gia về tương trợ tư pháp hình sự.

- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản

về tương trợ tư pháp hình sự theo nghĩa hẹp và pháp luật về tương trợ tư pháp

hình sự của các quốc gia ASEAN. Luận văn đồng thời phân tích hoạt động

tương trợ tư pháp hình sự giữa các quốc gia, để từ đó đưa ra các giải pháp nâng

cao hiệu quả của hoạt động này trong khuôn khổ ASEAN, tuy nhiên có nghiên

cứu quy định pháp luật một số quốc gia tiêu biểu làm cơ sở đối chiếu, so sánh.

Mặt khác, vì công trình được nghiên cứu và thực hiện tại Việt Nam nên sẽ

thường xuyên có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật Việt Nam để người đọc dễ

hình dung và tiếp cận.

5- Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu khoa học được sử dụng trong luận văn bao

gồm: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, diễn dịch và

các phương pháp thống kê, chuyên gia.

4

6- Tính mới và những đóng góp của đề tài

So với các nghiên cứu đã nêu ở mục 2, nội dung của luận văn này có tính

mới ở chỗ bao quát và bổ sung các quy định pháp luật mới cũng như tình hình

thực tiễn phát sinh cho đến thời điểm thực hiện nghiên cứu trong khu vực Đông

Nam Á, đồng thời cũng thực hiện việc so sánh với quy định pháp luật một số

quốc gia về lĩnh vực này và đề xuất hoàn thiện pháp luật ASEAN về tương trợ

tư pháp hình sự.

Trong luận văn thạc sĩ “Tương trợ tư pháp trong Tố tụng hình sự Việt

Nam” năm 2017 của Vũ Thị Thu Hà, tác giả tập trung làm sáng tỏ những vấn

đề lý luận về tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự, qua đó rút ra những giá

trị hợp lý cho hoạt động lập pháp tố tụng hình sự. Ngoài ra luận văn cũng đã

phân tích, làm rõ thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện

hành về tương trợ tư pháp và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam giai đoạn 5 năm

(2011 - 2015). Trên cơ sở này, luận văn đã đưa ra kiến nghị tiếp tục hoàn thiện

quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tương trợ tư pháp, cũng như

đưa các giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định này. Luận văn này chỉ đề cập

đến vấn đề tương trợ tư pháp về hình sự trong phạm vi một quốc gia và ảnh

hưởng trực tiếp đến quốc gia này, cụ thể là Việt Nam.

Tại “Giáo trình Pháp luật cộng đồng ASEAN” (2012, 2014, 2016), các

tác giả chỉ giới thiệu sơ qua nội dung của Hiệp định tương trợ tư pháp hình sự

ASEAN 2004, bao gồm hai nội dung chính là phạm vi tương trợ và trình tự,

thủ tục tương trợ tư pháp. Các nội dung trên không thay đổi, bổ sung qua các

lần tái bản và cũng không đi sâu làm rõ thêm hoạt động tương trợ tư pháp hình

sự.

Các nội dung chủ yếu được nghiên cứu trong “Giáo trình luật tương trợ

tư pháp hình sự” (2016) là toàn bộ các khía cạnh của hoạt động tương trợ tư

pháp, chủ yếu ở bốn lĩnh vực: tương trợ tư pháp về dân sự, tương trợ tư pháp

về hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù. Cụ thể

5

bao gồm: khái niệm tương trợ tư pháp, lịch sử hình thành, sự phát triển của hoạt

động tương trợ tư pháp và pháp luật tương trợ tư pháp tại Việt Nam cũng như

trên toàn thế giới.

Trong khi đó Luận án tiến sĩ “Hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự và

dẫn độ tội phạm có yếu tố nước ngoài” của tác giả Nguyễn Giang Nam, nghiên

cứu này lại nhằm hoàn thiện lý luận và thực tiễn hoạt động tương trợ tư pháp

về hình sự và dẫn độ tội phạm trong điều tra tội phạm có yếu tố nước ngoài của

lực lượng cảnh sát nhân dân.

Còn đối với các bài báo, các bài nghiên cứu được công bố tại Hội thảo…,

nội dung nghiên cứu cũng chỉ tập trung vào một khía cạnh nhỏ của hoạt động

tương trợ tư pháp hình sự trong khuôn khổ ASEAN.

Về mặt khoa học, luận văn này đóng vai trò là một nghiên cứu chuyên sâu

và tổng quát về tương trợ tư pháp hình sự trong khuôn khổ ASEAN, là nền tảng

cho những công trình nghiên cứu khoa học sâu rộng hơn và cập nhật hơn trong

tương lai.

Về thực tiễn, luận văn này được coi là một nguồn tài liệu tham khảo cho

hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong khuôn khổ ASEAN.

7- Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn bao gồm ba chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tương trợ tư pháp hình sự giữa các

quốc gia;

Chương 2: Pháp luật quốc tế và pháp luật của các nước ASEAN về tương

trợ tư pháp hình sự;

Chương 3: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ

6

tư pháp hình sự giữa các quốc gia ASEAN.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ

GIỮA CÁC QUỐC GIA

1.1. Khái niệm tương trợ tư pháp hình sự

Hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp đã xuất hiện và hình thành từ lâu

đời, việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tố tụng hình sự cũng ra đời từ khá sớm.

Từ thời kỳ cổ đại, nhà nghiên cứu Christopher L. Blakesley đã khẳng

định:“Trong thực tế, văn bản ngoại giao được biết đến sớm nhất có chứa một

phần quy định về sự lộ diện của những kẻ trốn chạy. Đó là Hiệp ước về Hòa

bình giữa Ramses II, Pharaon của Ai Cập, và vua Hittite Hattusili III, được ký

sau khi các nước cố gắng xâm chiếm Ai Cập. Văn bản này được viết bằng chữ

tượng hình, được khắc trên Đền của Ammon ở Karnak và nó cũng được bảo

quản trên những chiếc bàn bằng đất sét ở Akkodrain trong kho Hittite của

Boghazkoi. Văn bản này được coi là các ví dụ sớm nhất về các thỏa thuận về

dẫn độ và những biểu hiện của nó mà trong đó dẫn độ chỉ là một phần của một

văn bản lớn được thiết kế dành cho một mục đích lớn. Đối với các văn bản về

dẫn độ đầu tiên của thời kỳ hiện đại cũng vậy” [19]. Quan niệm này cũng được

thể hiện ở các công trình nghiên cứu của một số học giả Việt Nam [17, Tr.341].

Hiệp ước hòa bình được ký kết giữa vua Hittite Hattusili III và hoàng đế Ai

Cập Rames II vào năm 1296 trước Công nguyên, bao gồm 18 điều khoản, đề

cập chủ yếu đến các hoạt động hợp tác duy trì hòa bình giữa hai quốc gia. Hiệp

ước trên quy định về dẫn độ tại Điều 10 như sau: “Nếu một người bỏ trốn từ

Hattite đến Reamasesa, vị vua vĩ đại của quốc gia này sẽ giữ người đó và trao

trả người này cho Hattusili, vị vua của nước Hattite; Nếu một người quý tộc bỏ

trốn từ Hattite do không muốn phục vụ đức vua của đất nước này sang Ai Cập,

7

vua Reamasesa sẽ không cho phép họ cư trú ở Ai Cập mà giao họ cho

Hattusili…”. Cho đến thời kỳ sau, lịch sử ghi nhận những điều ước quốc tế đa

phương đầu tiên liên quan đến hoạt động dẫn độ như: Điều ước trong lĩnh vực

tội làm tiền giả, vỡ nợ và giết người năm 1802, hay Công ước năm 1889 giữa

các quốc gia Achentina, Bôlivia, Paragoay, Pêru, Urugoay về luật hình sự quốc

tế [7].

Ngày nay, cùng với tiến độ phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội của mỗi

quốc gia, quan hệ hợp tác giữa các nước láng giềng cũng ngày càng được mở

rộng. Tuy nhiên, việc hợp tác quốc tế này cũng có hai mặt, mặt tích cực là nó

tạo ra những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển mọi phương diện của

đời sống kinh tế - xã hội, mặt trái là làm phát sinh một số loại tội phạm mới có

tính chất xuyên quốc gia, như tội phạm về ma túy, tội rửa tiền, tội khủng bố,

các tội phạm sử dụng công nghệ cao hay điển hình như tội mua bán người,…

Thực tiễn cho thấy, tội phạm có tính chất quốc tế đang diễn biến ngày càng

phức tạp cả về phương thức, quy mô cũng như hậu quả.

Chính vì lý do đó, tại phiên họp cuối năm 2000 của Liên hợp quốc tại

Palermo (Italia), Tổng thư ký Liên hợp quốc, khi ấy là ông Kofi Annan, đã bày

tỏ rằng, nếu như tội phạm vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì thực thi pháp luật

cũng phải vượt ra ngoài lãnh thổ, nếu pháp luật bị xâm phạm không phải chỉ ở

một quốc gia mà ở nhiều quốc gia thì công tác đấu tranh chống lại nó không

thể chỉ giới hạn trong khả năng của mỗi nước, nếu kẻ thù của tiến bộ và quyền

con người tìm cách lợi dụng sự mở cửa và hội nhập toàn cầu vì mục đích phạm

tội thì chúng ta cũng sẽ sử dụng cơ hội như vậy để bảo vệ quyền con người và

đánh bại các loại tội phạm…[18]. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền

quốc gia là tối cao, bất khả xâm phạm, nên quyền lực quốc gia chỉ giới hạn

trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Do đó, trong các vụ án hình sự có yếu

tố nước ngoài, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, các cơ quan tư pháp của

8

một quốc gia không thể tự nhân danh mình tiến hành các hoạt động tố tụng

thông thường mà phải thông qua sự giúp đỡ, tương hỗ của quốc gia khác. Trong

pháp luật quốc tế, hoạt động tố tụng này được gọi là “tương trợ tư pháp về hình

sự” hay “mutual legal assistance in criminal matter”.

Cụ thể, trong các văn bản pháp luật quốc tế hiện đại, khái niệm này xuất

hiện một cách chính thức trong Công ước của Liên hợp quốc về chống buôn

lậu ma túy và chất hướng thần năm 1988, Luật mẫu của Liên hợp quốc quy

định về tương trợ tư pháp hình sự năm 1990 [11]. Trong các điều ước quốc tế

đa phương, song phương và trong pháp luật của hầu hết các quốc gia ngày nay

đều ghi nhận và đề cập đến khái niệm tương trợ tư pháp hình sự.

Cùng với sự khác biệt của hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, hợp tác

quốc tế về tư pháp cũng có nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau.

Theo quan điểm của các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa,

tương trợ tư pháp hình sự được hiểu là việc các cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền của các quốc gia giúp đỡ lẫn nhau trong việc tống đạt giấy tờ, tài liệu,

thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt, theo những trình tự, thủ tục trong một

vụ việc tố tụng tư pháp. Phạm vi hợp tác được các quốc gia xác định cụ thể và

ngày càng mở rộng.

Trong khi đó, các nước theo hệ thống thông luật lại không đưa ra một quan

niệm chung về tương trợ tư pháp hình sự, trước hết, nó bao gồm các hoạt động

dịch vụ tống đạt giấy tờ, tài liệu tư pháp, hoạt động thu thập chứng cứ ở nước

ngoài.

Tại các nước xã hội chủ nghĩa, tương trợ tư pháp hình sự được định nghĩa

và áp dụng tương đồng với các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa.

Tuy nhiên, phạm vi thực hiện tương trợ tương đối rộng, bao gồm nhưng không

giới hạn các hoạt động tư pháp như: lập, tống đạt giấy tờ, điều tra thu thập

chứng cứ; công nhận và thi hành án dân sự của Tòa án và quyết định của Trọng

9

tài nước ngoài khám xét, thu giữ, chuyển giao vật chứng; trưng cầu giám định;

lấy lời khai của các bên, lời khai nhân chứng, tiến hành truy cứu hình sự,….

Tựu chung lại, có thể đưa ra một khái niệm tổng quát như sau: Tương trợ

tư pháp về hình sự là việc cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia liên quan,

căn cứ vào các điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia thực hiện một hoặc một

số hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong việc điều tra, truy tố hoặc các thủ

tục tố tụng khác để giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài.

1.2. Đặc điểm và nguyên tắc tương trợ tư pháp hình sự

1.2.1. Đặc điểm của tương trợ tư pháp hình sự

Từ khái niệm tổng quan nêu trên, có thể nhận thấy tương trợ tư pháp về

hình sự có thể thấy tương trợ tư pháp về hình sự có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp về hình

sự đều được pháp luật quốc gia quy định và chỉ rõ. Pháp luật Việt Nam quy

định các cơ quan thực hiện tương trợ tư pháp bao gồm Bộ Công an, Bộ Ngoại

giao, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan đại diện

của Việt Nam ở nước ngoài, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân

cấp tỉnh, Cơ quan điều tra. Tương tự như vậy, phía nước ngoài cũng có các cơ

quan có thẩm quyền tương ứng được quy định trong pháp luật mỗi quốc gia.

Thứ hai, phạm vi của hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự được xét

theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, hoạt động tương trợ

tư pháp hình sự sẽ chỉ bao gồm các hành vi tố tụng riêng biệt do các bên thỏa

thuận hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Hay nói cách khác, tương trợ tư pháp về bản

chất là việc hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt,

ví dụ như tống đạt giấy tờ, thu thập chứng cứ, thi hành án,… Còn nếu hiểu theo

nghĩa rộng, nó sẽ bao gồm cả dẫn độ, chuyển giao người bị kết án và một số

hoạt động khác hỗ trợ việc thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự.

Thứ ba, về cơ sở pháp lý để thực hiện tương trợ tư pháp. Hoạt động hợp

10

tác quốc tế này được điều chỉnh bởi hệ thống các điều ước quốc tế đa phương,

các hiệp định song phương giữa các quốc gia và pháp luật các nước liên quan

đến hoạt động tương trợ tư pháp đó. Thứ tự áp dụng như sau, điều ước quốc tế

giữa các nước liên quan về tương trợ tư pháp được ưu tiên áp dụng, nếu không

có điều ước quốc tế liên quan thì việc tương trợ tư pháp sẽ được thực hiện theo

pháp luật của quốc gia được yêu cầu thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại.

Thứ tư, đây là hoạt động hợp tác quốc tế hướng đến mục tiêu bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và các công dân của các quốc gia

trên lãnh thổ của nhau, đồng thời đấu tranh với tội phạm có tính chất quốc tế,

tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Ngoài ra, tương trợ tư pháp về hình sự

cũng đóng vai trò không nhỏ trong việc củng cố và phát triển mối quan hệ hợp

tác giữa các quốc gia.

1.2.2. Nguyên tắc tương trợ tư pháp hình sự

Tương trợ tư pháp về hình sự là hoạt động hợp tác quốc tế điển hình của

tố tụng hình sự, là một phần không thể thiếu trong quan hệ đối ngoại của mỗi

quốc gia. Việc thực hiện hoạt động trợ giúp tư pháp này phải tuân theo những

nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia và phù hợp với nguyên tắc pháp luật

quốc tế. Như vậy, về cơ bản tương trợ tư pháp hình sự tuân theo hai nhóm

nguyên tắc: các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, và các nguyên tắc

riêng biệt về tương trợ tư pháp hình sự.

1.2.2.1. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế

Việc định hướng nội dung, hình thức hợp tác,... của hoạt động tương trợ

tư pháp về hình sự sẽ được xác định thông qua các nguyên tắc điều chỉnh hoạt

động này. Dưới góc độ lý luận, nguyên tắc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư

pháp được hình thành từ nhu cầu, mục đích hợp tác và do chính sách đối ngoại

của mỗi Nhà nước quyết định. Trong quan hệ quốc tế, các quốc gia luôn phải

tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu

11

nghị, hợp tác giữa các quốc gia.

Nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia:

Trong quan hệ quốc tế, sự khác biệt về chế độ chính trị, sự bất đồng về văn hóa,

cũng như sự phát triển không đồng đều về kinh tế giữa các quốc gia đã dẫn đến

những mâu thuẫn và xung đột ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, việc tình

hình tội phạm có tính chất quốc tế ngày càng gia tăng cả về số lượng, tính chất,

và mức độ nghiêm trọng, đã đặt ra một nhu cầu tất yếu về việc hợp tác giữa các

quốc gia để phòng, chống loại hình tội phạm này. Việc hợp tác này chỉ có thể

hiệu quả khi các quốc gia nghiêm túc tuân thủ nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ

quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia,... Mỗi quốc gia khi thực hiện hoạt động

tương trợ tư pháp về hình sự không được phép lợi dụng việc tương trợ này để

dùng vũ lực hay các thủ đoạn nhằm xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh

thổcủa quốc gia khác.

Nguyên tắc không can thiệp vào những công việc thuộc thẩm quyền nội

bộ của nhau: Xuất phát từ tính toàn vẹn lãnh thổ, các quốc gia không được

phép trực tiếp hay gián tiếp, với bất kỳ lý do nào, can thiệp vào công việc nội

bộ của quốc gia khác. Trong quá trình tương trợ tư pháp hình sự, các quốc gia,

các quốc gia không được phép lợi dụng quá trình hợp tác quốc tế để can thiệp

vào các vấn đề nội bộ của quốc gia khác.

Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế: Mỗi quốc gia

có nghĩa vụ thực hiện với sự thiện chí những nghĩa vụ của mình trong những

thỏa thuận có hiệu lực theo những nguyên tắc và quy phạm được pháp luật quốc

tế thừa nhận chung. Các quốc gia tham gia điều ước song phương và đa phương

về tương trợ tư pháp hình sự phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc này thì mục

đích hợp tác quốc tế mới có thể đạt được.

Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với các quốc gia khác: Mọi

quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với các quốc gia khác để giải quyết các yêu cầu

12

tương trợ tư pháp, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm, duy trì hòa bình

và an ninh quốc tế.

Bên cạnh đó, việc tương trợ tư pháp phải được quy định và thực hiện phù

hợp với Hiến pháp, pháp luật quốc gia, nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc

tế và các điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên. Hiến pháp là đạo luật gốc

của mỗi quốc gia, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tương

trợ tư pháp cũng phải phù hợp và tuân theo tinh thần của Hiến pháp. Khi quốc

gia tham gia, ký kết các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp, thì trong quá

trình nội luật hóa và thực hiện các điều ước quốc tế, các cơ quan có thẩm quyền

của quốc gia phải nghiêm túc tuân thủ các nguyên tắc của pháp luật quốc tế và

các quy định của các điều ước này. Trong trường hợp có xung đột giữa điều

ước quốc tế và pháp luật quốc gia, thì điều ước quốc tế được ưu tiên áp dụng.

1.2.2.2. Nguyên tắc riêng biệt của tương trợ tư pháp hình sự

Nguyên tắc có đi có lại: Có nguồn gốc xuất phát từ thực tiễn khách quan

trong lịch sử quá trình hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trên thế giới. Nguyên

tắc này không trái với nguyên tắc chủ quyền quốc gia, do đó được chấp nhận

và áp dụng một cách phổ biến. Về mục đích, theo nguyên tắc này, khi một quốc

gia được yêu cầu tương trợ tư pháp cho quốc gia khác thì quốc gia này sẽ chỉ

đáp ứng thực hiện yêu cầu đó khi quốc gia được yêu cầu có cơ sở chắc chắn

rằng khi xảy ra trường hợp tương tự, quốc gia đưa ra yêu cầu sẽ đáp ứng thực

hiện yêu cầu của quốc gia này.

Luật pháp các quốc gia và các điều ước quốc tế song phương, đa phương

đều ghi nhận nguyên tắc có đi có lại. Khoản 10 Điều 3 Hiệp định tương trợ tư

pháp trong lĩnh vực hình sự ASEAN quy định: “Các quốc gia thành viên, theo

quy định pháp luật liên quan của nước mình, phải tương trợ trên cơ sở có đi có

lại đối với tội phạm tương ứng mà không tính đến hình phạt được áp dụng”.

Khoản 1 Điều 1 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự

13

và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga quy

định: “Công dân của bên ký kết này được hưởng trên lãnh thổ của Bên ký kết

kia sự bảo vệ pháp lý đối với nhân thân và tài sản như công dân của Bên ký kết

kia”. Khoản 2 Điều 4 Luật tương trợ tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam năm 2007 quy định: “Trường hợp giữa Việt Nam và nước

ngoài chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì hoạt động tương trợ

tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật

Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế”.

Về ưu điểm, nguyên tắc có đi có lại giúp nâng cao hiệu quả của công cuộc

đấu tranh phòng, chống tội phạm có tính chất quốc tế. Ngoài ra, nó cũng là một

phương thức để các quốc gia thể hiện sự thiện chí của mình trong quan hệ hợp

tác. Khi ghi nhận và thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp theo nguyên tắc có

đi có lại, mỗi quốc gia đều mong muốn cũng nhận được sự đối xử tương tự

trong tương lai. Hoạt động tương trợ tư pháp giữa hai bên không được tiến hành

song song cùng thời gian, mà khi một quốc gia được hỗ trợ về tư pháp, quốc

gia này sẽ ghi nhận sự hỗ trợ đó, và trong tương lai khi quốc gia từng hỗ trợ kia

có yêu cầu, quốc gia này sẽ tương trợ tư pháp theo nguyên tắc có đi có lại.

1.3. Vai trò của hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự

Tương trợ tư pháp về hình sự là hoạt động hợp tác quốc tế có ý nghĩa quan

trọng, không chỉ về mặt chính trị - xã hội mà còn cả về ngoại giao, kinh tế.

Chính vì lẽ đó, các quốc gia ngày càng quan tâm đến các hoạt động tương trợ

tư pháp trong phát triển quan hệ vưới các nước và phát triển kinh tế nước mình.

Trên phương diện quốc tế, tương trợ tư pháp về hình sự góp phần không

nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi

hành án đối với các vụ án hình sự, bảo đảm an toàn, an ninh ở mỗi quốc gia,

bảo đảm trật tự pháp luật quốc tế. Tương trợ tư pháp về hình sự đã phát huy vai

trò của mình trong việc ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm xuyên quốc gia, góp

14

phần bảo vệ công lý trên phạm vi toàn cầu.

Xét ở phương diện hẹp hơn, tương trợ tư pháp về hình sự bảo vệ quyền lợi

và lợi ích hợp pháp cho công dân của mỗi quốc gia. Tội phạm nếu không được

trừng trị kịp thời thì trước khi tác động tiêu cực đến cộng đồng thì đã gây bất

lợi đến lợi ích riêng của công dân. Vì vậy, tương trợ tư pháp hình sự là công cụ

quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mỗi quốc

gia và ngay chính quốc gia ấy.

Ngoài ra, hoạt động này còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng về mặt ngoại

giao. Nó thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác cùng có lợi giữa các nước, mà

thông qua đó, các cơ quan và đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện có thể cùng

nhau trao đổi, học tập kinh nghiệm về chuyên môn và có thể rộng hơn là về văn

hóa. Việc này giúp cho các bên cùng nhau phát triển, trở nên gắn kết hơn về

nhiều mặt, quá trình trao đổi cũng là một phần tất yếu để hoàn thiện hơn cơ chế

phối hợp cũng như khung pháp lý của mỗi bên.

Như vậy, có thể nhận định rằng, tương trợ tư pháp về hình sự là một hoạt

động thiết yếu của mỗi quốc gia trong bối cảnh đấu tranh chống tội phạm chung

của thế giới, và là một phần không thể thiếu của hoạt động ngoại giao để xây

dựng mối quan hệ hữu nghị bền vững giữa các quốc gia.

1.4. Cơ sở pháp lý của hoạt động tương trợ tư pháp hình sự

1.4.1. Điều ước quốc tế

Trong các nguồn luật điều chỉnh hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế, có

thể khẳng định điều ước quốc tế là cơ sở pháp lý quan trọng nhất. Tuy nhiên,

cho đến thời điểm hiện tại, thay vì có một điều ước quốc tế chung nhất về tất

cả các vấn đề trong hoạt động tương trợ tư pháp, thì cộng đồng quốc tế mới chỉ

có những điều ước quốc tế về những nhóm vấn đề về tố tụng dân sự, hình sự,

dẫn độ tội phạm, hay chuyển giao người bị kết án để thi hành hình phạt,… Ví

dụ như: Công ước về tống đạt ở nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp

15

liên quan đến dân sự và thương mại 1965 [27], Công ước về thu thập chứng cứ

ở nước ngoài trong vấn đề dân sự và thương mại 1970 [28], Công ước về chống

buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy, chất hướng thần năm 1988 [29], Công

ước về trừng trị việc tài trợ cho khủng bố năm 1999 [30],Công ước Liên hợp

quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 [31], Công ước

về phòng chống tham nhũng của Liên hợp quốc năm 2003 [32],… Tuy nhiên,

trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này chỉ trình bày các điều ước quốc tế

về lĩnh vực hình sự trong khu vực ASEAN.

1.4.1.1. Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa các quốc gia ASEAN

Nội dung chính

Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự gồm 32 điều khoản, đề cập đến

các nội dung cơ bản như phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự, hình thức và

nội dung yêu cầu tương trợ, việc thực hiện yêu cầu tương trợ, vấn đề bảo mật

và hạn chế sử dụng chứng cứ thu thập được, xác thực và chứng thực tài liệu,

chi phí thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp,…

Các quốc gia thành viên ASEAN có sự khác biệt nhất định cả về thể chế

chính trị, văn hóa và kinh tế, dẫn đến mối quan hệ đặc thù giữa các quốc gia, vì

vậy Hiệp định không quy định tất cả các vấn đề pháp lý liên quan đến tương

trợ tư pháp. Tuy nhiên, hướng đến mục đích là nâng cao hiệu quả hoạt động

của các cơ quan thực thi pháp luật trong công tác phòng ngừa, điều tra và truy

tố tội phạm, nên các quốc gia đã thống nhất nội dung tương trợ tư pháp rất chi

tiết và cụ thể. Nội dung bao trùm lên các vấn đề pháp lý được coi là quan trọng

của hoạt động tương trợ tư pháp trong quan hệ quốc tế.

Thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp hình sự

Nguyên tắc thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp là thực hiện một cách

nhanh chóng, trình tự thực hiện tuân theo quy định pháp luật và phụ thuộc vào

tình hình thực tiễn của quốc gia được yêu cầu, nhưng theo cách thức của quốc

16

gia yêu cầu.

Về hình thức, yêu cầu tương trợ tư pháp phải được soạn thành văn bản.

Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp hoặc được pháp luật của quốc gia được

yêu cầu cho phép, yêu cầu có thể được thể hiện dưới dạng lời nói và trong vòng

05 (năm) ngày phải được khẳng định lại bằng văn bản.

Về nội dung, yêu cầu tương trợ phải đáp ứng đủ các thông tin mà quốc gia

được yêu cầu quy định là cần để có thể thực hiện yêu cầu đó, bao gồm nhưng

không phải toàn bộ các nội dung sau:

- Tên của cơ quan yêu cầu và cơ quan có thẩm quyền tiến hành việc điều

tra hay thủ tục tố tụng hình sự liên quan đến yêu cầu;

- Mục đích của yêu cầu và tính chất của tương trợ;

- Mô tả về tính chất vấn đề hình sự và tình trạng hiện tại và tóm tắt về sự

kiện và pháp luật liên quan;

- Mô tả tội phạm nêu trong yêu cầu, gồm cả mức hình phạt cao nhất;

- Mô tả các yếu tố được cho là cấu thành tội phạm và nội dung pháp luật

liên quan;

- Mô tả hành vi hoặc sự kiện quan trọng cần xác minh;

- Mô tả chứng cứ, thông tin và sự trợ giúp cần thiết khác;

- Lý do và chi tiết về thủ tục đặc biệt hoặc các điều kiện mà quốc gia yêu

cầu muốn quốc gia được yêu cầu tuân theo;

- Chi tiết về thời hạn thực hiện yêu cầu;

- Mọi yêu cầu đặc biệt về bảo mật và rõ lý do; và

- Những thông tin hoặc cam kết khác mà pháp luật của quốc gia được yêu

cầu có thể đòi hỏi hoặc cần thiết để thực hiện yêu cầu một cách đúng đắn.

Trong một số yêu cầu nâng cao, yêu cầu tương trợ tư pháp có thể bao gồm

thêm một số nội dung đặc thù như:

- Đặc điểm nhận dạng, quốc tịch và nơi ở của một hay nhiều người là đối

17

tượng của vụ điều tra hoặc thủ tục tố tụng hình sự;

- Đặc điểm nhận dạng và nơi ở của người cần thu thập chứng cứ;

- Đặc điểm nhận dạng và nơi ở của người được tống đạt giấy tờ, quan hệ

của người đó với thủ tục tố tụng hình sự, và cách thức tống đạt giấy tờ;

- Thông tin về đặc điểm nhận dạng và chỗ ở của người cần xác minh;

- Mô tả về cách thức lấy lời khai hoặc ghi lại lời khai;

- Danh mục các câu hỏi cho người làm chứng;

- Mô tả các tài liệu, hồ sơ hay chứng cứ cần thu thập cũng như người thích

hợp cần hỏi để lấy tài liệu, hồ sơ hay chứng cứ đó; trong trường hợp không có

quy định khác, hình thức ghi, sao lại và chứng thực tài liệu, hồ sơ hay chứng

cứ nói trên;

- Nói rõ là chứng cứ hoặc lời khai phải có tuyên thệ hay phải được khẳng

định hay không;

- Mô tả tài sản, đồ vật liên quan đến yêu cầu tương trợ, bao gồm cả đặc

điểm nhận dạng và địa điểm, và

- Mọi lệnh của Tòa án liên quan đến yêu cầu tương trợ và nói rõ hiệu lực

của lệnh đó.

Nếu quốc gia được yêu cầu cho rằng các thông tin được cung cấp theo liệt

kê trên là chưa đủ để thực hiện việc tương trợ thì có thể đề nghị quốc gia yêu

cầu bổ sung thêm. Ngôn ngữ sử dụng cho yêu cầu tương trợ tư pháp bao gồm

các yêu cầu tương trợ, văn bản, tài liệu kèm theo là tiếng Anh, và có thể bao

gồm thêm bản dịch ra tiếng của quốc gia được yêu cầu hay ngôn ngữ quốc gia

này thừa nhận để thuận tiện và dễ dàng hơn cho việc thực hiện thủ tục tương

trợ.

1.4.1.2. Hiệp định tương trợ tư pháp hình sự song phương

Hiệp định song phương giữa các quốc gia là loại điều ước quốc tế phổ biến

nhất trong lĩnh vực tương trợ tư pháp nói chung và tương trợ tư pháp hình sự

18

nói riêng.

Liên hợp quốc đã ban hành luật mẫu quy định về tương trợ tư pháp hình

sự, đây là một mô hình pháp luật có sẵn, được thiết kế linh hoạt để mỗi quốc

gia có thể tham khảo trong quá trình xây dựng, thỏa thuận, ký kết các hiệp định

song phương về tương trợ tư pháp hình sự. Mục đích của Luật này là thúc đẩy

việc tương trợ tư pháp về các vấn đề hình sự giữa quốc gia và nước ngoài hoặc

Tòa án quốc tế. Luật mẫu này bao gồm các nội dung: tên gọi và ngày bắt đầu

có hiệu lực, mục đích, phạm vi áp dụng, giới hạn phạm vi áp dụng, định nghĩa,

người có quyền yêu cầu, yêu cầu thu thập chứng cứ và vật chứng, yêu cầu bố

trí người cung cấp chứng cứ hoặc giúp đỡ, việc giam giữ tù nhân nước ngoài

của Tòa án quốc tế, quyền miễn trừ, hạn chế việc sử dụng chứng cứ hoặc sự

giúp đỡ, yêu cầu thi hành lệnh liên quan đến tài sản do phạm tội mà có, yêu cầu

nước ngoài ra lệnh liên quan đến tài sản do phạm tội mà có, tống đạt tài liệu,

nội dung và hình thức của yêu cầu, từ chối thực hiện, các loại tương trợ, ủy

quyền, chứng thực tài liệu, trả lại vật chứng, bảo mật thông tin.

Ngoài ra còn phải kể đến Luật mẫu của Cơ quan về phòng chống các tội

phạm về ma túy của Liên hợp quốc [33]. Luật mẫu này gồm 22 điều, bao gồm

các nội dung: phạm vi áp dụng, cơ quan được chỉ định thực hiện, từ chối tương

trợ tư pháp, nội dung yêu cầu, thực hiện các yêu cầu, trả lại tài liệu, điều khoản

giới hạn, bảo vệ bí mật, tống đạt giấy tờ, thu thập chứng cứ, từ chối cung cấp

chứng cứ, chuyển giao tạm thời người bị phạt tù để cung cấp chứng cứ hoặc hỗ

trợ điều tra, triệu tập người làm chứng hoặc hỗ trợ điều tra, bảo hộ người bị

phạt tù và người làm chứng, thông báo bản án và án tích, chuyển giao tiền hoặc

tài sản do phạm tội mà có, chứng nhận và chứng thực, chi phí, tư vấn.

Xuất phát từ nội dung của luật mẫu, các quốc gia thỏa thuận và ký kết các

hiệp định song phương về tương trợ tư pháp hình sự sẽ bao gồm các điều khoản

như: phạm vi áp dụng (hoặc phạm vi tương trợ), hình thức tương trợ, nội dung

19

của yêu cầu tương trợ tư pháp, thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp, từ chối

hoặc hoãn thực hiện yêu cầu, tống đạt giấy tờ, dẫn độ, truy cứu trách nhiệm

hình sự, thông báo bản án, chuyển giao giấy tờ, ngôn ngữ, chi phí,… Tựu chung

lại, các hiệp định này có cấu trúc tương đối giống nhau, bao gồm các nội dung

cơ bản:

- Quy tắc xác định chế độ bảo hộ pháp lý;

- Phạm vi tương trợ tư pháp;

- Cách thức liên hệ khi thực hiện tương trợ tư pháp;

- Cơ quan đầu mối trong tương trợ tư pháp;

- Các quy định liên quan đến ủy thác tư pháp;

- Các quy định về thông tin pháp luật;

- Các quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực pháp luật hình sự và

quyền tài phán hình sự;

- Chuyển giao người bị kết án để thi hành án phạt,..

Các hiệp định tương trợ tư pháp được ký kết giữa các nước có chế độ chính

trị - xã hội khác nhau thường có phạm vi điều chỉnh hẹp hơn.

1.4.2. Pháp luật quốc gia

1.4.2.1. Văn bản luật

Hiến pháp: Hiến pháp là đạo luật gốc của mỗi quốc gia, do đó, trong Hiến

pháp thường sẽ quy định các nguyên tắc chung về việc hợp tác quốc tế.

Điều 12 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam [14] quy định:

“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường

lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa

phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc

tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp

vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương

20

Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là

thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng

đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc

lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Việc Nhà nước thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,

hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc

và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là thành viên; là

bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế là cơ

sở pháp lý quan trọng để xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về tương

trợ tư pháp.

Bộ luật, luật: Cùng với Hiến pháp là đạo luật gốc thì các bộ luật, luật có

chứa đựng quy phạm pháp luật về tương trợ tư pháp cũng là một nguồn quan

trọng. Các bộ luật, luật là nguồn của luật tương trợ tư pháp hình sự tại các quốc

gia chủ yếu bao gồm: Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự, Luật tương trợ

tư pháp hoặc Luật tương trợ tư pháp về hình sự; Luật dẫn độ; Luật chống tham

nhũng; Luật chống rửa tiền; Luật chống buôn bán người;... Tùy từng quốc gia

sẽ quy định khác nhau, và không phải quốc gia nào cũng có một đạo luật riêng

quy định về tương trợ tư pháp hình sự. Theo pháp luật Việt Nam, các đạo luật

chứa đựng quy định về tương trợ tư pháp về hình sự bao gồm:

- Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 ngày 21/12/1999 (sửa đổi, bổ sung

16/09/ 2009) và Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 (sửa đổi,

bổ sung ngày 20/06/ 2017);

- Bộ luật tố tụng hình sự số 19/2003/QH11 ngày 26/11/2003;

- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015 đã

dành Phần thứ tám, từ Điều 491 đến Điều 508, quy định các vấn đề liên quan

đến hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự;

21

- Luật tương trợ tư pháp năm 2007 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 21/11/2007 (có

hiệu lực từ ngày 01/07/2008) với 07 chương và 72 điều, là nguồn quan trọng

của ngành luật tương trợ tư pháp, tạo cơ sở pháp lý để cơ quan Nhà nước có

thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn hoạt động tương trợ tư pháp…

1.4.2.2. Văn bản dưới luật

Hệ thống văn bản dưới luật có chứa đựng các quy phạm về tương trợ tư

pháp là nguồn của ngành luật tương trợ tư pháp như: Nghị định số 92/2008/NĐ-

CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật

tương trợ tư pháp năm 2007 đã được ban hành ngày 22/08/2008; Thông tư số

144/2012/TT-BTC ngày 04/09/2012 của Bộ Tài chính quy định việc lập dự

toán, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác tương trợ tư pháp;

Thông tư liên tịch số 01/2013/TTLT-BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC

ngày 22/03/2013 của Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Viện kiểm sát

nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển

22

giao, tiếp tục thi hành án đối với người đang chấp hành án phạt tù,…

Kết luận Chương 1

Tương trợ tư pháp là hoạt động hợp tác giữa các quốc gia, các quốc gia

dành cho nhau sự hỗ trợ về mặt tư pháp, bằng cách thực hiện các hoạt động

trong phạm vi đã quy định. Mỗi quốc gia, sẽ quy định rõ trong pháp luật nước

mình, cơ quan đầu mối về tương trợ tư pháp. Tương trợ tư pháp nói chung,

tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự nói riêng, đều được điều chỉnh bởi hệ

thống nguồn bao gồm: điều ước quốc tế đa phương và khu vực, hiệp định song

phương với các quốc gia khác, pháp luật quốc gia. Ngoài ra, đặc trưng của hoạt

động tư pháp này là tuân thủ nguyên tắc “có đi có lại”, có nghĩa là khi một quốc

gia được yêu cầu tương trợ tư pháp cho quốc gia khác thì quốc gia này sẽ chỉ

đáp ứng thực hiện yêu cầu đó khi quốc gia được yêu cầu có cơ sở chắc chắn

rằng khi xảy ra trường hợp tương tự, quốc gia đưa ra yêu cầu sẽ đáp ứng thực

hiện yêu cầu của quốc gia này. Đây là một trong những điểm nổi bật của hoạt

động hợp tác quốc tế này. Nó cho thấy tính linh hoạt và cơ chế mở trong tư

pháp quốc tế, giúp dung hòa sự khác biệt về pháp luật và chính trị giữa các quốc

gia trên thế giới, đồng thời cũng tạo cơ hội để các quốc gia thiết lập quan hệ

ngoại giao bằng cách dành cho nhau sự hỗ trợ ưu ái nhất.

Hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự là một trong những hoạt động hợp

tác quốc tế quan trọng và phổ biến trong việc bảo vệ an ninh quốc tế, an ninh

quốc gia hiện nay. Nó đã trở thành một nhu cầu tất yếu và ngày càng trở nên

bức thiết với mỗi đất nước. Việc tăng cường tương trợ tư pháp về hình sự không

chỉ giải quyết những xung đột về tài phán hình sự, nó còn góp phần không nhỏ

trong việc thúc đẩy mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp giữa các quốc gia trên thế

23

giới nói chung, và giữa các quốc gia ASEAN nói riêng.

Chương 2

PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT CỦA CÁC NƯỚC ASEAN VỀ

TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ

2.1. Pháp luật quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự

Các quốc gia ASEAN hiện nay thực hiện việc tương trợ tư pháp về hình sự

thông qua hệ thống các điều ước quốc tế đa phương, song phương và pháp luật

mỗi quốc gia. Đầu tiên, khu vực ASEAN bao gồm 10 quốc gia, đều là thành viên

của Liên hợp quốc, do đó, đều thuộc phạm vi điều chỉnh của các Công ước của

Liên hợp quốc có quy định về tương trợ tư pháp về hình sự, trừ khi có quy định

khác. Một số công ước quốc tế có chứa các điều khoản về tương trợ tư pháp hình

24

sự mà các quốc gia trong khu vực là thành viên được liệt kê trong Bảng 2.1.

Bảng 2.1. Các công ước quốc tế có đề cập về tương trợ tư pháp về hình sự tiêu biểu mà các quốc gia ASEAN là thành viên

[26]

STT CÔNG ƯỚC BN KH ID MY MM LA PH SG TH VN

1 Công ước về các chất hướng thần năm 1971 x x x x x x x x x x

2 Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961 x x x x x x x x x x

Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất x x x x x x x x x x 3 ma túy, chất hướng thần năm 1988

Nghị định thư bổ sung Công ước về quyền trẻ em

4 về cấm mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và phim x x x x x x x x x

ảnh khiêu dâm trẻ em năm 2000

Công ước về trừng trị việc tài trợ cho khủng bố x x x x x x x x x x 5 năm 1999

Công ước về ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm

6 chống lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế, x x x x x x x x x

25

bao gồm viên chức ngoại giao năm 1973

Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng 7 x x x x x x x x x x năm 2003

Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có 8 x x x x x x x x x x tổ chức xuyên quốc gia năm 2000

Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và

9 các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô x x x x x x x

nhân đạo hoặc hạ nhục con người năm 1984

10 Công ước quốc tế về chống bắt con tin năm 1979 x x x x x x x x x

Công ước quốc tế về chống khủng bố bằng bom 11 x x x x x x x x x x năm 1997

Công ước về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp 12 x x x x x x x x x x tàu bay năm 1970

Công ước về trừng trị những hành vi bất hợp pháp 13 x x x x x x x x x x chống lại an toàn hàng không dân dụng năm 1971

26

Công ước về các tội phạm và một số hành vi khác 14 x x x x x x x x x x thực hiện trên tàu bay năm 1963

Công ước về trừng trị các hành vi bất hợp pháp x 15 chống lại an toàn hành trình hàng hải năm 1988

16 Công ước ASEAN về chống khủng bố năm 2007 x x x x x x x x x x

27

Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự ASEAN x x x x x x x x x x 17 năm 2004

Theo Bảng 2.1, có thể thấy các quốc gia trong khu vực ASEAN hầu hết đã

trở thành thành viên của các công ước tiêu biểu có chứa đựng các quy định về

tương trợ tư pháp hình sự. Tuy nhiên, các công ước trên chỉ điều chỉnh một lĩnh

vực cụ thể, cá biệt, và không phải quốc gia nào cũng quan tâm hay cảm thấy cần

thiết đối với quốc gia mình. Chính vì vậy, các quốc gia Đông Nam Á đã quyết

định thiết lập một khung pháp lý cho riêng khu vực mình. Ngày 29/11/2004, các

quốc gia thành viên ASEAN đã đi đến nhất trí ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp

về hình sự ASEAN (sau đây gọi tắt là “Hiệp định”). Việc ký kết Hiệp định trên

không chỉ nhằm thiết lập cơ chế hợp tác trong lĩnh vực tư pháp hình sự giữa các

quốc gia ASEAN mà còn hướng tới mục tiêu cao hơn là tăng cường hợp tác an

ninh – chính trị trong ASEAN và xây dựng Cộng đồng an ninh – chính trị ASEAN

(ASC) vào năm 2015. Trong Kế hoạch hành động ASC được thông qua tại Hội

nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 10 tổ chức tại Viêng Chăn, Lào tháng 11/2004, các

quốc gia ASEAN đã xác định sáu lĩnh vực hợp tác, kèm theo là các chương trình

và biện pháp cụ thể để xây dựng ASC. Một trong những lĩnh vực hợp tác được

xác lập trong quan hệ giữa các quốc gia ASEAN là xây dựng và chia sẻ các chuẩn

mực ứng xử. Để triển khai lĩnh vực hợp tác này, Hiệp định ASEAN về tương trợ

tư pháp về hình sự được coi là công cụ pháp lý hữu hiệu mà các quốc gia thành

viên ASEAN đã, đang và sẽ tiếp tục sử dụng [5].

Theo quy định, Hiệp định sẽ có hiệu lực đối với quốc gia thành viên vào

ngày quốc gia thành viên nộp văn kiện phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập cho

quốc gia nhận lưu chiểu là Malaysia – nơi Hiệp định được ký kết và thông qua.

Việt Nam đã tham gia Hiệp định và chính thức được phê chuẩn ngày 20/09/2005.

Hiệp định gồm 32 điều khoản đề cập các vấn đề pháp lý cơ bản như phạm vi tương

trợ tư pháp về hình sự, hình thức và nội dung yêu cầu tương trợ, việc thực hiện

yêu cầu tương trợ, vấn đề bảo mật và hạn chế sử dụng chứng cứ thu thập được,…

Xuất phát từ mối quan hệ đặc thù giữa các quốc gia thành viên ASEAN, Hiệp

28

định không điều chỉnh tất cả các vấn đề pháp lý liên quan đến tương trợ tư pháp,

như vấn đề dẫn độ tội phạm không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Hiệp định

và một số vấn đề pháp lý khác.

Phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự

Nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của hợp tác quốc tế đấu tranh phòng,

chống tội phạm, các quốc gia thành viên ASEAN đã xác định rất rõ phạm vi tương

trợ tư pháp về hình sự. Theo quy định tại Điều 1 Hiệp định, các hoạt động tương

trợ tư pháp bao gồm:

- Chuyển giao và tiếp nhận lời khai, tài liệu, giấy tờ liên quan đến vụ việc

hình sự;

- Thực hiện khám xét, kiểm soát, kiểm tra các vật chứng và địa điểm gây án;

- Cung cấp các bản chính và bản sao các loại giấy tờ quan trọng, các tài liệu

và thông tin chứng cứ;

- Xác định, truy tìm tài sản có được từ hành vi phạm tội và các công cụ phạm

tội;

- Ngăn chặn việc phân chia và đóng băng các tài sản có được từ hành vi phạm

tội, mà tài sản này có thể được trả lại, tịch biên hoặc tịch thu;

- Trả lại, tịch biên hoặc tịch thu các tài sản có được từ hành vi phạm tội;

- Xác định và nhận dạng các nhân chứng và nghi phạm.

Ngoài ra, các quốc gia thành viên còn có thể thỏa thuận các vấn đề cần tương

trợ tư pháp khác nhưng với điều kiện phải phù hợp với đối tượng điều chỉnh cũng

như mục đích của Hiệp định và phù hợp với pháp luật của quốc gia được yêu cầu.

Việc xác định phạm vi tương trợ tư pháp trên đây chỉ dành riêng cho quan hệ giữa

các quốc gia thành viên. Đồng thời, các điều khoản nói trên sẽ không tạo ra cho

bất cứ cá nhân nào được quyền cung cấp, che giấu hoặc từ chối bất kỳ chứng cứ

nào, cũng như gây khó khăn cho việc thi hành yêu cầu tương trợ tư pháp trong

mối quan hệ pháp lý quốc tế đặc thù giữa các quốc gia thành viên Hiệp định. Tuân

thủ nguyên tắc Pacta sunt servanda [6] của luật quốc tế, các quốc gia thành viên

29

phải có nghĩa vụ tận tâm tương trợ tư pháp hình sự trong khuôn khổ của Hiệp

định, phải sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết để giúp đỡ lẫn nhau trong quá

trình điều tra, xét xử và đưa ra phán quyết về các vụ án hình sự. Bên cạnh việc

xác định rõ ràng phạm vi tương trợ tư pháp, các quốc gia thành viên Hiệp định

còn thỏa thuận nhất trí ghi nhận cụ thể các trường hợp không áp dụng các quy

định của Hiệp định.

Đồng thời, Hiệp định đã thể hiện nhất quán quan điểm chung của các quốc

gia kết ước khi ghi nhận rằng: Không một quy định nào trong Hiệp định này cho

phép một quốc gia thành viên “thực hiện thẩm quyền tài phán hoặc các hoạt động

chức năng trên lãnh thổ của quốc gia thành viên khác mà thẩm quyền đó chỉ dành

riêng cho quốc gia này theo luật pháp quốc gia” [2]. Đây là quy định nhấn mạnh

tới việc tôn trọng nguyên tắc chủ quyền quốc gia trong quan hệ quốc tế. Phạm vi

tương trợ tư pháp theo Hiệp định còn được cụ thể hóa rõ hơn qua việc ghi nhận

quyền từ chối tương trợ tư pháp của quốc gia thành viên được yêu cầu. Quyền từ

chối này bao gồm các quyền có hai cấp độ khác nhau, phụ thuộc vào từng trường

hợp cụ thể phát sinh trong thực tiễn tương trợ tư pháp. Trong tất cả các trường

hợp từ chối tương trợ tư pháp, quốc gia được yêu cầu phải thông báo ngay cho

quốc gia yêu cầu được biết về cơ sở từ chối hoặc tạm đình chỉ tương trợ tư pháp

theo Khoản 9 Điều 3 Hiệp định. Dựa trên cơ sở quy định hiện hành về phạm vi

tương trợ tư pháp hình sự trong khuôn khổ ASEAN đã được trình bày ở trên, các

quốc gia thành viên sẽ chỉ định cơ quan trung ương có thẩm quyền trong lĩnh vực

tương trợ tư pháp hình sự và các cơ quan này sẽ liên lạc trực tiếp với nhau trong

hoạt động tương trợ tư pháp hoặc thông qua kênh ngoại giao (Điều 4 Hiệp định).

Các vấn đề pháp lý về yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 Hiệp định, yêu cầu tương trợ tư pháp phải

được soạn thảo thành văn bản. Tuy nhiên, trong các trường hợp khẩn cấp, yêu cầu

có thể được thể hiện dưới hình thức không thành văn bản nhưng trong khoảng

thời gian 05 ngày phải chuyển sang hình thức viết. Văn bản yêu cầu tương trợ tư

30

pháp phải đảm bảo chứa đựng đầy đủ các nội dung cần thiết theo yêu cầu của quốc

gia được yêu cầu. Cụ thể, văn bản yêu cầu phải ghi nhận các thông tin liên quan

đến tên của cơ quan yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền điều tra hoặc tiến hành xét

xử hình sự, mục đích và bản chất của yêu cầu tương trợ tư pháp, bản mô tả chi tiết

bản chất của vụ việc hình sự, nội dung tóm tắt các sự kiện và văn bản pháp lý có

liên quan, bản mô tả chi tiết về hành vi phạm tội, mức hình phạt cao nhất, các yếu

tố cấu thành tội phạm, các sự kiện quan trọng, nội dung cụ thể của các chứng cứ

và thông tin có liên quan, thời hạn cụ thể thi hành yêu cầu tương trợ tư pháp cùng

các nội dung cần thiết khác,… Toàn bộ các yêu cầu cũng như các tài liệu, giấy tờ

có liên quan đến tương trợ tư pháp sẽ được chuyển giao trực tiếp giữa các cơ quan

trung ương mà các quốc gia thành viên chỉ định. Trong các hoàn cảnh đặc biệt và

cấp thiết thì việc chuyển giao này sẽ được thực hiện thông qua hai tổ chức cảnh

sát quốc tế là INTERPOL và ASEANPOL (Khoản 2 Điều 5 Hiệp định). Về

nguyên tắc, quốc gia được yêu cầu sẽ tiến hành ngay hoạt động tương trợ tư pháp

theo phương thức đã được quy định trong luật hoặc trong thực tiễn quốc gia mình.

Tuy nhiên, theo yêu cầu, quốc gia tiến hành hoạt động tương trợ tư pháp có thể

sử dụng các phương thức mà quốc gia yêu cầu trợ giúp đưa ra, với điều kiện phải

phù hợp với luật pháp và thực tiễn của quốc gia được yêu cầu.

Nội dung tương trợ tư pháp hình sự

Theo Điều 11 Hiệp định, quốc gia được yêu cầu, phù hợp với pháp luật nước

mình, phải cố gắng thu thập được đầy đủ các chứng cứ, lời khai có tuyên thệ, tài

liệu, hồ sơ từ nhân chứng để chuyển cho quốc gia yêu cầu nhằm mục đích phục

vụ cho quá trình tố tụng. Hiệp định mở rộng phạm vi thu thập chứng cứ bằng việc

cho phép sử dụng kết nối truyền hình trực tiếp hoặc các công cụ giao tiếp thích

hợp khác nhằm thực hiện quá trình thu thập chứng cứ, lời khai… nếu việc làm đó

là vì công lý. Đồng thời, khi có yêu cầu lấy lời khai của cá nhân, quốc gia được

yêu cầu phải cố gắng và tận tâm lấy lời khai tự nguyện của họ. Trong việc sử dụng

chứng cứ, quốc gia yêu cầu không có quyền tuyệt đối. Theo Điều 8 của Hiệp định,

31

quốc gia này không được sử dụng, tiết lộ hoặc chuyển giao thông tin hay chứng

cứ do quốc gia được yêu cầu cung cấp để phục vụ cho các mục đích khác với mục

đích đã ghi trong văn bản yêu cầu tương trợ nếu không được sự đồng ý của quốc

gia cung cấp chứng cứ.

Theo Hiệp định, quốc gia được yêu cầu có thể giúp đỡ trong việc đảm bảo

cho một người có mặt tại quốc gia yêu cầu để hỗ trợ việc điều tra hình sự hay có

mặt trong các hoạt động tố tụng liên quan đến vụ việc hình sự tại quốc gia yêu

cầu, trừ trường hợp người đó chính là bị cáo (Điều 14 Hiệp định). Đối với người

bị giam giữ tại quốc gia được yêu cầu mà sự hiện diện của người này là cần thiết

tại quốc gia được yêu cầu trong quá trình điều tra thì quốc gia được yêu cầu có

thể đồng ý cho phép tạm thời chuyển giao người này cho quốc gia yêu cầu (Khoản

1 Điều 15 Hiệp định). Trong cả hai trường hợp, mọi hoạt động dẫn giải cá nhân

có liên quan phải được sự đồng ý của đương sự. Các quy định này hoàn toàn

không cản trở việc sử dụng truyền hình trực tiếp hoặc các phương tiện truyền

thông thích hợp khác theo quy định của pháp luật và thực tiễn của quốc gia được

yêu cầu nếu việc đó được thực hiện vì công lý (Khoản 7 Điều 15 Hiệp định). Quá

trình dẫn giải cá nhân có liên quan từ quốc gia được yêu cầu sang quốc gia yêu

cầu cũng là vấn đề quan trọng, góp phần đảm bảo thực thi có hiệu quả việc giải

quyết các vụ việc hình sự.

Sự ra đời của Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa các quốc gia thành

viên ASEAN là thành công lớn của quá trình hợp tác quốc tế về đấu tranh phòng

chống tội phạm trong khu vực Đông Nam Á. Hiệp định này thể hiện ở mức độ

cao của tinh thần hòa hợp và hữu nghị trong tiến trình phát triển của Hiệp hội

ASEAN. Với 32 điều khoản, văn bản pháp lý quốc tế quan trọng này của ASEAN

chắc chắn sẽ trở thành công cụ pháp lý hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng,

chống tội phạm trong khu vực, đặc biệt là tội phạm khủng bố quốc tế - mối đe dọa

có tính toàn cầu hiện nay. Cùng với tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu

32

rộng, có quyền tin rằng Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự của ASEAN sẽ

góp phần quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ hòa bình và an ninh khu vực, qua đó

đảm bảo sự ổn định và bền vững của trật tự pháp lý quốc tế [5].

Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự của ASEAN hiện đã có đầy đủ sự

tham gia của tất cả các quốc gia Đông Nam Á. Sau khi được lập vào tháng 11 năm

2004 tại Kuala Lumpur, Hiệp định đã được phê chuẩn vào năm 2005 bởi Cộng

hòa Singapore, Liên bang Malaysia và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các

quốc gia lần lượt phê chuẩn vào các năm tiếp theo như Vương quốc Brunei (2006),

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (2007), Cộng hòa Indonesia (2008), Cộng hòa

Philipines (2008), Liên bang Myanmar (2009). Và hai quốc gia cuối cùng phê

chuẩn Hiệp định này là Vương quốc Campuchia (2010) và Vương quốc Thái Lan

(2013), đã giúp Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự ASEAN trở thành khung

pháp lý cao nhất của khu vực điều chỉnh hoạt động hỗ trợ tư pháp trong lĩnh vực

tố tụng hình sự tại Đông Nam Á.

Đối với các nước ASEAN, cơ chế hợp tác về tương trợ tư pháp vẫn chưa

được coi trọng đúng mức. Hiện hầu hết các nước trong khối vẫn chỉ tiến hành

triển khai hoạt động hợp tác về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương

mại với nhau trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại đối với từng vấn đề cụ thể. Nhiều

nước ASEAN vẫn chưa sẵn sàng với cơ chế hợp tác đa phương do nhiều nguyên

nhân. Thứ nhất, có thể thấy hầu hết các điều ước đa phương về tương trợ tư pháp

có các yêu cầu, mục đích, quy phạm dựa trên tiêu chí của nền tư pháp phát triển.

Do đó, đối với một số nước ở khu vực Đông Nam Á còn có khoảng cách nhất

định, khiến cho nhiều nước còn e ngại tiếp cận. Thứ hai, mặc dù hoạt động tương

trợ tư pháp là một trong những hoạt động hợp tác được hình thành và phát triển

từ lâu trên thế giới, nhưng đối với nhiều nước ASEAN thì vẫn còn mới mẻ. Thứ

ba, nhiều nước chưa sẵn sàng để tham gia vào các cơ chế hợp tác đa phương vì lo

ngại phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý với số lượng lớn các quốc gia thành viên,

33

trong khi chưa có nhiều kinh nghiệm hợp tác trong lĩnh vực này. Bối cảnh trên

đặt ra yêu cầu là các nước ASEAN cần tăng cường hợp tác với nhau bằng các

hình thức thiết thực để vượt qua các khó khăn hiện có.

Quy trình yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự

Cơ quan thực thi pháp luật hoặc truy tố của quốc gia A xác định nhu cầu hỗ trợ và gửi yêu cầu đến cơ quan trung ương của mình

Quốc gia A tìm cách truy tố một công dân, khi hành vi phạm tội được cho là xảy ra ở quốc gia B

Cung cấp tài liệu hợp pháp do một cơ quan thực thi pháp luật đang giữ

Bằng chứng và lập tài liệu

Khám xét và tịch biên

Thu xếp để các cá nhân cung cấp bằng chứng hoặc hỗ trợ điều tra tại nước ngoài

Cơ quan trung ương của quốc gia A xác định loại hỗ trợ cần được yêu cầu từ quốc gia B, ví dụ

Nếu chấp thuận, quốc gia B thực hiện yêu cầu. Cơ quan trung ương của quốc gia B chuyển các tài liệu được yêu cầu đến quốc gia A.

Nếu từ chối yêu cầu, quốc gia B thông báo và nêu lý do cho quốc gia A

Quốc gia B nhận được yêu cầu từ quốc gia A và đánh giá yêu cầu

2.2. Pháp luật của các nước ASEAN về tương trợ tư pháp hình sự

2.2.1. Cộng hòa Indonesia

Cộng hòa Indonesia nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của hợp tác quốc

tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm xuyên biên giới, do đó, quốc gia này hỗ

trợ tất cả các cơ chế hợp tác, bao gồm:

- Hợp tác không chính thức giữa các cơ quan thực thi pháp luật;

34

- Hợp tác chính thức giữa các chính phủ.

Có nghĩa là, Indonesia sẽ hỗ trợ pháp lý về hình sự cho các quốc gia một

cách tích cực nhất trên cơ sở các điều ước quốc tế, hoặc theo nguyên tắc có đi có

lại trong trường hợp chưa có điều ước quốc tế tương ứng. Yêu cầu tương trợ tư

pháp về hình sự chỉ bị từ chối, nếu nó thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Yêu cầu hỗ trợ liên quan đến điều tra, truy tố một cá nhân về một hành vi

phạm tội mà theo pháp luật Indonesia hành vi đó không thể bị truy tố;

- Tội phạm có tính chất chính trị (trừ trường hợp tội phạm đó là tội ác chống

lại loài người, chống phá người đứng đầu một quốc gia, khủng bố);

- Tội phạm quân sự;

- Yêu cầu hỗ trợ liên quan đến điều tra, truy tố một cá nhân đã được tha bổng,

khoan hồng hoặc đã hoàn thành hình phạt hình sự;

- Yêu cầu truy tố một người vì lý do chủng tộc, giới tính, tôn giáo, quốc tịch

hoặc niềm tin chính trị;

- Vì lý do chủ quyền, an ninh, lợi ích và luật pháp quốc gia;

- Quốc gia yêu cầu không đảm bảo sẽ không dùng kết quả tương trợ cho mục

đích ngoài mục đích yêu cầu ban đầu;

- Quốc gia yêu cầu không cam kết sẽ cung cấp một sự hỗ trợ tương tự khi

nhận được một yêu cầu từ Indonesia.

Và yêu cầu có khả năng bị từ chối, trong trường hợp:

- Yêu cầu hỗ trợ liên quan đến điều tra, truy tố một cá nhân về một hành vi

phạm tội mà theo pháp luật Indonesia hành vi đó không được coi là phạm tội;

- Yêu cầu hỗ trợ liên quan đến điều tra, truy tố về một tội phạm mà ngoài

phạm vi Indonesia nó không được coi là tội phạm;

- Yêu cầu hỗ trợ liên quan đến điều tra, truy tố một người cho hành vi phạm

tội phải chịu án tử hình;

- Gây nguy hiểm cho sự an toàn của người dân hoặc gánh nặng cho tài sản

35

Nhà nước.

Chính phủ Cộng hòa Indonesia đã ban hành Đạo luật về tương trợ tư pháp

về hình sự số 1 năm 2006 và Đạo luật số 1 năm 1979 về dẫn độ, quy định các

nguyên tắc, hướng dẫn thủ tục tố tụng trong việc thực hiện hợp tác quốc tế về hình

sự nói chung và dẫn độ nói riêng.

Ngoài việc có một hành lang pháp lý nội bộ mạnh mẽ, thì Indonesia cũng là

thành viên của các điều ước quốc tế thiết yếu của Liên hợp quốc, bao gồm:

- Công ước của Liên hợp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma

túy và chất hướng thần năm 1988, được Indonesia phê chuẩn theo Đạo luật số 7

năm 1997;

- Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003, được Indonesia

phê chuẩn theo Đạo luật số 7 năm 2006;

- Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm

2000, được Indonesia phê chuẩn theo Đạo luật số 5 năm 2009.

Về tổng quan, đạo luật tương trợ tư pháp về hình sự của Indonesia khá chi

tiết với phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm:

- Xác định vị trí và danh tính cá nhân;

- Có được các báo cáo hoặc hình thức khác;

- Cung cấp tài liệu hoặc hình thức khác;

- Sắp xếp người để cung cấp bằng chứng hoặc hỗ trợ điều tra;

- Chuyển tài liệu;

- Thực hiện các lệnh khám xét;

- Tịch thu tiền có được từ hành vi phạm tội;

- Thu hồi tiền phạt đối với tội phạm;

- Hạn chế giao dịch hoặc phong tỏa tài khoản, có thể tịch thu hoặc thu hồi tài

sản có liên quan đến tội phạm;

- Xác định tài sản có thể được phục hồi, hoặc trong trường hợp cần thiết để

đáp ứng hình phạt tiền liên quan đến tội phạm;

36

- Các hỗ trợ khác theo quy định của luật nào.

Luật tương trợ tư pháp về hình sự của Indonesia không áp dụng đối với hoạt

động chuyển giao người đang bị giam giữ vì các mục đích tố tụng; dẫn độ hay bắt

giữ, giam giữ vì mục đích dẫn độ đối với bất kỳ cá nhân nào. Cơ quan trung ương

về tương trợ tư pháp hình sự của Indonesia bao gồm Tổng cục trung ương và luật

quốc tế, Tổng cục pháp lý Vụ hành chính, Bộ luật và nhân quyền. Cơ quan này

chịu trách nhiệm xử lý các yêu cầu tương trợ đến và đi, đồng thời đàm phán các

thỏa thuận song phương về tương trợ tư pháp hình sự với các quốc gia khác. Người

chịu trách nhiệm chính thực thi tương trợ tư pháp về hình sự của quốc gia này là

Bộ trưởng Bộ luật và nhân quyền Cộng hòa Indonesia.

2.2.2. Liên bang Malaysia

Tại Malaysia, việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hình sự được thực hiện

tuân theo Đạo luật 621 về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự, được ban hành

năm 2002, sửa đổi, bổ sung năm 2003 [20]. Đầu mối tiếp nhận yêu cầu tương trợ

tư pháp của Malaysia là Tổng chưởng lý Malaysia. Cơ quan trung ương thực hiện

yêu cầu về dẫn độ là Bộ trưởng Bộ an ninh nội bộ, thông qua kênh ngoại giao.

Mục tiêu của luật này là để Malaysia tương trợ và nhận tương trợ tư pháp trong

lĩnh vực hình sự, bao gồm các hoạt động:

- Cung cấp và thu thập bằng chứng, chứng cứ;

- Sắp xếp người đưa ra bằng chứng hoặc hỗ trợ điều tra;

- Thu hồi, tịch thu tài sản có được từ hành vi phạm tội;

- Hạn chế các giao dịch từ tài sản hoặc phong tỏa tài khoản có liên quan đến

hành vi phạm tội nghiêm trọng hoặc tội phạm nước ngoài nghiêm trọng;

- Thực hiện các yêu cầu tìm kiếm và thu giữ;

- Xác định vị trí và nhận dạng các nhân chứng và nghi phạm;

- Xác định hoặc truy tìm số tiền thu được từ tội phạm và tài sản, công cụ có

nguồn gốc hoặc được sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nghiêm trọng;

- Phạt tiền đối với hành vi phạm tội nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm

37

trọng có yếu tố nước ngoài;

- Xác minh bằng chứng, chứng cứ;

- Các hoạt động hỗ trợ khác.

Ngoài ra, theo luật này, Malaysia không cho phép thực hiện dẫn độ hoặc bắt

giữ, giam giữ vì mục đích dẫn độ đối với bất kỳ đối tượng nào. Tuy nhiên, việc

dẫn độ của Malaysia lại được quy định riêng tại Đạo luật dẫn độ 479 năm 1992,

áp dụng với một số quốc gia thuộc hoặc là theo lệnh hoặc là theo hướng dẫn đặc

biệt của Bộ trưởng.

Một điều đáng chú ý của pháp luật Malaysia là trong luật tương trợ tư pháp

về hình sự nước này quy định về tội phạm kép, nghĩa là một yêu cầu tương trợ chỉ

được thực hiện khi hành vi phạm tội theo yêu cầu tương trợ của nước ngoài cũng

cấu thành hành vi phạm tội theo pháp luật Malaysia. Tội phạm kép là một yêu cầu

bắt buộc để Malaysia cung cấp hỗ trợ tư pháp cho các quốc gia khác, và quốc gia

này có quyền từ chối tương trợ tư pháp nếu không thuộc trường hợp trên theo quy

định tại Điểm f Khoản 1 Điều 20 Luật tương trợ tư pháp về hình sự năm 2002.

Các tội phạm được quy định tại Bộ luật hình sự của Malaysia (ban hành từ năm

1963) trong 17 chương (từ Chương 6 đến Chương 22), tương đương với 17 loại

tội phạm: Các tội chống lại Nhà nước; Các tội liên quan đến lực lượng vũ trang;

Các tội phạm xâm phạm trật tự công cộng; Các tội liên quan đến công chức; Xúc

phạm cơ quan công quyền; Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp; Các tội về tiền

tệ và con dấu của chính quyền; Các tội về đo lường; Các tội ảnh hưởng tới sức

khỏe, an toàn, sự thuận tiện của công chúng, đạo đức; Các tội liên quan đến tôn

giáo; Các tội xâm phạm thân thể con người; Các tội xâm phạm sở hữu; Các tội

liên quan đến văn bản và chứng từ ngân hàng; Vi phạm hình sự trong hợp đồng

dịch vụ; Các tội về hôn nhân; Bôi nhọ danh tiếng của người khác; Xúc phạm hoặc

gây phiền nhiễu đến người khác [10, Tr.17].

Malaysia cũng sẽ từ chối yêu cầu tương trợ đối với quốc gia không đưa ra

cam kết thực hiện “có đi có lại” theo Điểm d Khoản 3 Điều 20 luật này. Điều này

38

là để đảm bảo rằng quốc gia yêu cầu sẽ bắt buộc đáp lại một yêu cầu trong tương

lai của Malaysia trong trường hợp khi đó vẫn chưa có hiệp định tương trợ giữa

hai quốc gia.

Ngoài ra, Liên bang Malaysia cũng tham gia nhiều điều ước quốc tế về tương

trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự và các vấn đề cụ thể. Malaysia là thành viên

của Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và

Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, Hiệp định tương trợ tư pháp về

hình sự ASEAN; và ký nhiều hiệp định song phương với các nước để hỗ trợ lẫn

nhau về hình sự.

2.2.3. Cộng hòa Philippines

Quốc gia này không có một Đạo luật riêng để hướng dẫn hoạt động tương

trợ tư pháp về hình sự. Trên thực tế, việc tương trợ tư pháp về hình sự được thực

hiện dựa trên các quy định trong các văn bản pháp luật khác của quốc gia này.

Philippines đã ký các hiệp định song phương với các quốc gia khác về hình sự,

cũng như trở thành thành viên của các điều ước đa phương như Hiệp định tương

trợ tư pháp hình sự ASEAN và Công ước Liên hợp quốc chống tham nhũng. Ngoài

căn cứ vào các điều ước trên, Philippines cũng chấp nhận tương trợ tư pháp về

hình sự đối với các quốc gia khác trên cơ sở có đi có lại.

Tại Philippines không có một cơ quan đứng ra chịu trách nhiệm chính về

tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự mà sẽ bao gồm nhiều cơ quan chức năng,

mỗi cơ quan có thẩm quyền trong một lĩnh vực, bao gồm: Văn phòng Thanh tra,

Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Hội đồng chống rửa tiền. Văn phòng Thanh tra là

cơ quan chịu trách nhiệm về các vấn đề phòng chống tham nhũng. Theo Thông

báo của Philippines liên quan đến việc phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc chống

tham nhũng, thì trong trường hợp không có hiệp định song phương, Văn phòng

Thanh tra đóng vai trò là cơ quan trung ương thực hiện tương trợ tư pháp về phòng

chống tham nhũng. Trường hợp có một hiệp định song phương giữa một quốc gia

là thành viên của UNCAC và Philipines, thì Bộ Tư pháp là cơ quan trung ương

39

tiếp nhận và xử lý các yêu cầu tương trợ tư pháp. Bộ Tư pháp đóng vai trò là cơ

quan trung ương của Philippines trong hoạt động dẫn độ và tương trợ tư pháp về

hình sự nói chung. Bộ Ngoại giao là cơ quan chính của Chính phủ chịu trách

nhiệm theo đuổi và thực hiện các chính sách đối ngoại để thúc đẩy các lợi ích của

quốc gia và người dân Philippines, đồng thời là cơ quan trung ương chịu trách

nhiệm về thủ tục dẫn độ. Trong khi đó, Hội đồng chống rửa tiền trong phạm vi

chức năng của mình thực hiện các hoạt động tố tụng liên quan đến tội phạm rửa

tiền trong trường hợp không có các hiệp định song phương liên quan điều chỉnh.

Cơ chế thực hiện tương trợ tư pháp hình sự tại quốc gia này về cơ bản khá

sơ sài và lỏng lẻo. .

2.2.4. Cộng hòa Singapore

Cộng hòa Singapore ban hành Đạo luật tương trợ tư pháp về hình sự số 12

năm 2000 bao gồm 04 phần, với 47 điều khoản. Luật này quy định các hoạt động

tương trợ tư pháp bao gồm:

- Cung cấp và thu thập bằng chứng, chứng cứ;

- Sắp xếp người để cung cấp chứng cứ hoặc hỗ trợ điều tra;

- Thu hồi, tịch thu tài sản do phạm tội mà có;

- Hạn chế các giao dịch hoặc phong tỏa tài khoản, có thể bị thu hồi, tịch thu

đối với các hành vi phạm tội;

- Thực hiện các yêu cầu tìm kiếm và thu giữ;

- Xác định vị trí và nhận dạng các nhân chứng và nghi phạm.

Đầu mối tương trợ tư pháp về hình sự của Singapore là Tổng Chưởng lý.

Luật này chia ra các quy định riêng về yêu cầu tương trợ gửi đến Singapore

và một phần khác quy định về yêu cầu tương trợ của Singapore gửi đến quốc gia

khác. Trong mỗi phần đều bao gồm các quy định chi tiết về: hoạt động thu thập

chứng cứ, yêu cầu sự có mặt của người ở nước ngoài, trông giữ người quá cảnh,

thực thi lệnh tịch thu ở nước ngoài, hoạt động tìm kiếm và thu giữ, xác định vị trí

40

và danh tính cá nhân, các yêu cầu tương trợ tư pháp khác.

Singapore lựa chọn thực hiện tương trợ các hoạt động phổ biến và quan trọng

nhất trong tố tụng hình sự, tuy phạm vi không nhiều nhưng việc triển khai thực

hiện được quy định vô cùng chi tiết và chặt chẽ.

2.2.5. Vương quốc Thái Lan

Vương quốc Thái Lan ban hành Đạo luật B.E 2535 năm 1992 [24] về tương

trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự gồm 42 điều khoản, định nghĩa “tương trợ” là

các hoạt động hỗ trợ điều tra, truy tố, tịch thu tài sản và các thủ tục khác liên quan

đến tố tụng hình sự. Điều 12 luật này quy định cụ thể hơn về hình thức của hoạt

động tương trợ, bao gồm:

- Lấy lời khai;

- Cung cấp tài liệu, đồ vật và vật chứng;

- Tống đạt tài liệu;

- Khám xét, thu giữ tài liệu hoặc đồ vật;

- Xác định vị trí của cá nhân;

- Lấy lời khai của người có liên quan và người làm chứng;

- Viện dẫn tài liệu và vật chứng tại tòa;

- Thu giữ tài sản;

- Chuyển giao người bị giam giữ vì mục đích cung cấp lời khai, khởi tố vụ

án hình sự.

Hoạt động tương trợ tư pháp hình sự ở Thái Lan có thể được thực hiện theo

hai cách:

- Căn cứ vào hiệp định song phương về tương trợ tư pháp hình sự ký giữa

Thái Lan và nước ngoài;

- Thực hiện theo nguyên tắc “có đi có lại”.

Nguyên tắc trên được quy định tại Điều 9 Luật này, ngoài ra điều này cũng

quy định việc tương trợ sẽ được thực hiện với điều kiện không ảnh hưởng đến chủ

quyền, an ninh quốc gia, vi phạm các lợi ích công cộng, chính trị quan trọng cũng

41

như không liên quan đến tội phạm quân sự của Thái Lan.

Cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự của Thái

Lan theo luật này quy định được gọi chung là cơ quan trung ương, cụ thể là Tổng

chưởng lý hoặc người được chỉ định. Cơ quan trung ương sẽ nhận yêu cầu tương

trợ trực tiếp từ các quốc gia có hiệp định tương trợ với Thái Lan, còn các quốc gia

chưa có hiệp định thì sẽ gửi yêu cầu thông qua kênh ngoại giao. Và cơ quan trung

ương sẽ chịu trách nhiệm xác định tính pháp lý và tính phù hợp của toàn bộ các

yêu cầu và quá trình thực hiện. Cơ quan này cũng được ủy quyền đặt ra các nguyên

tắc hoặc tuyên bố về việc thực thi toàn bộ quá trình thực hiện. Sau khi tiếp nhận

yêu cầu, cơ quan trung ương sẽ xem xét và xác định xem yêu cầu đó có đủ điều

kiện để được hỗ trợ không. Trường hợp đã đủ điều kiện, cơ quan trung ương sẽ

chuyển yêu cầu cho cơ quan có thẩm quyền để thực hiện; trường hợp yêu cầu đó

chưa đủ điều kiện, cơ quan trung ương sẽ từ chối tương trợ và thông báo cho quốc

gia yêu cầu lý do, nguyên nhân không thể thực hiện hoặc yêu cầu bổ sung các

điều kiện theo quy định để có thể thực hiện.

Cơ quan có thẩm quyền theo luật này bao gồm: Tổng cảnh sát trưởng – chịu

trách nhiệm giải quyết các yêu cầu về khởi tố vụ án hình sự và lấy lời khai, cung

cấp tài liệu, đồ vật và chứng cứ cho Tòa án, tống đạt giấy tờ, khám xét, thu giữ và

xác định vị trí cá nhân; Tổng công tố trưởng về kiện tụng – được giao nhiệm vụ

giải quyết các yêu cầu về khởi tố vụ án hình sự và lấy lời khai của người làm

chứng, viện dẫn tài liệu cũng như chứng cứ theo yêu cầu thu giữ tài sản tại Tòa

án; Vụ trưởng Vụ giáo dục cải tạo – được phân cấp thẩm quyền giải quyết các yêu

cầu chuyển giao người bị giam giữ để cung cấp lời khai.

Ngày 18/04/2016, Thái Lan ban hành Đạo luật tương trợ tư pháp về hình sự

B.E 2559 [25] để sửa đổi, bổ sung cho Đạo luật B.E 2535 năm 1992. Đạo luật này

gồm 12 điều khoản, bảo lưu các quy định về nguyên tắc, cách thức, phương thức

thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp; các nội dung sửa đổi, bổ sung bao gồm các

quy định cụ thể về từng hoạt động tương trợ cho phù hợp với tình hình phát triển

42

và nhu cầu tất yếu của xã hội. Nội dung sửa đổi bao gồm: yêu cầu của cơ quan

trung ương, cung cấp thông tin, tìm kiếm và tịch thu, chuyển giao người đang bị

giam giữ, tịch thu tài sản, tìm kiếm sự hỗ trợ.

Trên cơ sở luật tương trợ tư pháp về hình sự, Thái Lan đã xây dựng và ban

hành luật dẫn độ B.E 2551 có hiệu lực ngày 10/08/2008 [23] để quy định cụ thể

về hoạt động dẫn độ. Theo đó, cơ quan trung ương điều phối các yêu cầu dẫn độ

vẫn là Tổng chưởng lý hoặc người được chỉ định khác. Cơ quan trung ương này

sẽ là đầu mối tiếp nhận các yêu cầu dẫn độ đối với các quốc gia đã có hiệp định

dẫn độ với Thái Lan, các quốc gia chưa có hiệp định dẫn độ với Thái Lan sẽ gửi

yêu cầu qua con đường ngoại giao.

So với các quốc gia thành viên trong khu vực, pháp luật tương trợ tư pháp

hình sự của Thái Lan là có tính cập nhật mới nhất, bên cạnh đó nước này cũng đã

có cho mình một đạo luật riêng về dẫn độ. Có thể nói, khung pháp lý của quốc gia

này về tương trợ tư pháp hình sự tương đối đầy đủ và bài bản, có tính phù hợp cao

với thực tiễn.

2.2.6. Vương quốc Brunei

Vương quốc Brunei ban hành luật tương trợ tư pháp về các vấn đề hình sự

năm 2005 với 4 phần và 57 điều khoản để tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung

cấp và được hỗ trợ tư pháp trong các vấn đề hình sự, bao gồm:

- Thu thập bằng chứng, tài liệu, bài báo hoặc các tài liệu khác;

- Sắp xếp cho các cá nhân, bao gồm cả người bị giam giữ, để cung cấp bằng

chứng hoặc hỗ trợ điều tra;

- Tịch thu tài sản đối với hành vi phạm tội;

- Xác định vị trí và danh tính của cá nhân;

- Thực hiện các yêu cầu tìm kiếm và thu giữ;

- Cung cấp bản gốc hoặc bản sao chứng thực các tài liệu và hồ sơ liên quan,

bao gồm hồ sơ của Chính phủ, ngân hàng, tài chính, doanh nghiệp;

43

- Bất kỳ hỗ trợ nào khác không trái với pháp luật của Brunei.

Việc tương trợ tư pháp hình sự tại Brunei được cung cấp trong trường hợp

giữa Brunei và quốc gia yêu cầu có một hiệp định song phương, hoặc cùng là

thành viên của một điều ước quốc tế đa phương. Các yêu cầu tương trợ sẽ được

gửi tới Tổng chưởng lý để xem xét và xử lý. Tuy nhiên, một yêu cầu dẫn độ là

không được phép theo luật này, bao gồm cả việc bắt giữ hay giam giữ với mục

đích dẫn độ đối với bất kỳ cá nhân nào.

Brunei chủ yếu thực hiện tương trợ trong việc cung cấp bằng chứng cho hoạt

động tố tụng hình sự. Tương như như Singapore, pháp luật của quốc gia này về

tương trợ tư pháp hình sự cũng tương đối bài bản và chi tiết. Bên cạnh đó, Brunei

cũng ban hành một luật riêng về dẫn độ năm 2006, quy định vô cùng kỹ càng về

trình tự thủ tục, điều kiện thực hiện hoạt động này.

2.2.7. Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào không có luật riêng quy định về tương trợ

tư pháp trong lĩnh vực hình sự, nhưng trong pháp luật về tố tụng hình sự nước này

có chứa đựng các điều khoản về hợp tác quốc tế. Ngoài ra, Lào cũng ký rất nhiều

các hiệp định định song phương với các quốc gia khác, ví dụ như Cộng hòa nhân

dân Trung Hoa, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hòa dân chủ nhân

dân Triều Tiên và tham gia điều ước đa phương như Hiệp định về tương trợ tư

pháp về hình sự ASEAN.

Trong luật tố tụng hình sự số 01/NA ngày 15/05/2004 của nước này đã dành

Phần 9 để quy định về hợp tác quốc tế, với 04 điều khoản. Bộ luật này sau đó đã

được sửa đổi, bổ sung năm 2012 nhưng vẫn giữ nguyên các nội dung về hợp tác

quốc tế. Theo đó, việc hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự giữa Lào và các quốc

gia khác phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền lãnh thổ của quốc

gia, không can thiệp vào các công việc nội bộ, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp

với Hiến pháp của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và các nguyên tắc cơ bản của

pháp luật quốc tế. Việc hợp tác sẽ tuân thủ Hiệp định song phương về tương trợ

44

tư pháp đã ký kết giữa Lào và quốc gia khác, trường hợp chưa có Hiệp định song

phương hoặc đa phương liên quan đến tố tụng hình sự, việc hợp tác sẽ vẫn được

thực hiện trên cơ sở nguyên tắc hợp tác lẫn nhau nhưng không được trái với pháp

luật của Lào.

Phạm vi tương trợ tư pháp theo Đạo luật này có thể bao gồm dẫn độ, trao đổi

tù nhân, tịch thu tài sản của bị cáo hoặc bị đơn, thi hành án, hợp tác trong chống

tội phạm xuyên biên giới và những hoạt động khác. Tuy nhiên, luật cũng cho phép

quốc gia này được phép từ chối yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự trong hai

trường hợp. Trường hợp đầu tiên là yêu cầu tương trợ tư pháp của quốc gia yêu

cầu không phù hợp với các điều ước quốc tế song phương, đa phương mà Lào là

thành viên hoặc một bên, hay vi phạm quy định của pháp luật quốc gia. Trường

hợp thứ hai là khi quốc gia này này nhận thấy việc thực hiện tương trợ tư pháp về

hình sự theo yêu cầu sẽ gây ra tổn hại đến chủ quyền, an ninh hoặc ổn định hay

bất kỳ lợi ích quan trọng nào của quốc gia.

Lào là một quốc gia có nền kinh tế còn yếu kém so với các nước trong khu

vực, cuộc sống người dân còn nhiều khó khăn nên kiến thức pháp luật còn hạn

chế, tình hình buôn bán người và cưỡng bức lao động ở quốc gia này tương đối

phổ biến. Chính vì vậy, tuy chưa có luật về tương trợ tư pháp hình sự nhưng Lào

đã ban hành các Đạo luật riêng về dẫn độ và chống buôn bán người. Ngày

01/08/2012, Quốc hội đã phê chuẩn một Đạo luật về dẫn độ và Chủ tịch nước

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào vừa ban hành luật dẫn độ. Luật này không chỉ

cung cấp các nguyên tắc, quy tắc và biện pháp khắc phục dẫn độ mà còn chỉ định

cơ quan trung ương để phối hợp với các tổ chức khác có liên quan. Cơ quan trung

ương có thẩm quyền về dẫn độ là một Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ

quan khác có liên quan là Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an và Tòa án

nhân dân tối cao. Ngoài ra, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã ban hành Đạo luật

chống buôn bán người ngày 17/12/2015 có quy định hợp tác quốc tế về chống

buôn bán người dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập lẫn nhau, toàn

45

vẹn lãnh thổ và chủ quyền, tuân thủ các điều ước mà quốc gia này là một bên tham

gia. Việc tương trợ tư pháp về hình sự theo luật này giữa Lào và các quốc gia khác

sẽ được thực hiện tuân thủ quy định tại các điều ước song phương, đa phương mà

Lào là một bên và phù hợp với pháp luật của quốc gia này cũng như các quy tắc

và thông lệ khác của luật pháp quốc tế.

Tuy nhiên, để hoạt động hợp tác quốc tế về tố tụng hình sự có hiệu quả, trong

tương lai Lào cần nghiên cứu xây dựng và ban hành các hướng dẫn chi tiết, cụ thể

hơn thay vì các nguyên tắc áp dụng chung như hiện tại.

2.2.8. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Tính đến tháng 12 năm 2017, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã là

thành viên của 22 điều ước quốc tế đa phương và 23 điều ước quốc tế song

phương, trong đó có 11 hiệp định song phương chứa đựng quy định về tương trợ

tư pháp hình sự và 12 hiệp định chuyên biệt về tương trợ tư pháp hình sự [4].

Các điều ước quốc tế đa phương về tương trợ tư pháp về hình sự mà Việt

Nam là thành viên gồm:

- Công ước về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay năm 1970;

- Công ước về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng

không dân dụng năm 1971;

- Nghị định thư về trừng trị các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại các cảng

hàng không phục vụ hàng không dân dụng quốc tế năm 1988, bổ sung Công ước

Mông-trê-an năm 1971 về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn

hàng không dân dụng;

- Công ước về các tội phạm và một số hành vi khác thực hiện trên tàu bay

năm 1963;

- Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961;

- Công ước về các chất hướng thần năm 1971;

- Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy, chất hướng

thần năm 1988;

46

- Nghị định thư bổ sung Công ước về quyền trẻ em về cấm mua bán trẻ em,

mại dâm trẻ em và phim ảnh khiêu dâm trẻ em năm 2000;

- Công ước về ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống lại những người

được hưởng bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao năm 1973;

- Công ước về trừng trị việc tài trợ cho khủng bố năm 1999;

- Công ước về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hành trình

hàng hải năm 1988;

- Nghị định thư về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn của

những công trình cố định trên thềm lục địa năm 1988, bổ sung Công ước về trừng

trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hành trình hàng hải năm 1988;

- Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa các quốc gia ASEAN năm

2004;

- Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003;

- Công ước ASEAN về chống khủng bố năm 2007;

- Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia

năm 2000;

- Công ước về bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân năm 1980 (Sửa đổi năm

2005);

- Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc

trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người năm 1984;

- Công ước quốc tế về chống bắt con tin năm 1979;

- Công ước quốc tế về chống khủng bố bằng bom năm 1997;

- Hiệp định hợp tác khu vực về chống cướp biển và cướp có vũ trang chống

lại tàu thuyền tại châu Á năm 2004;

- Công ước ASEAN về chống mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em

năm 2015.

Về pháp luật trong nước, tại Hiến pháp 2013, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam khẳng định hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và

47

toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng

có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Việt Nam là

thành viên.

Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 ngày 21/12/1999 (sửa đổi, bổ sung 16/09/

2009) và Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 (sửa đổi, bổ sung

ngày 20/06/ 2017) quy định về tội phạm và hình phạt, làm cơ sở xem xét các yêu

cầu tương trợ tư pháp hình sự. Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, các cơ

quan có thẩm quyền sẽ xem xét hành vi phạm tội ở nước ngoài có cấu thành tội

phạm theo pháp luật Việt Nam không. Theo nguyên tắc tội phạm kép, chỉ khi hành

vi này cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam thì mới

được tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam khi nước ngoài có yêu

cầu.

Bộ luật tố tụng hình sự số 19/2003/QH11 ngày 26/11/2003 đã dành phần thứ

8 quy định về việc hợp tác quốc tế, trong đó chương 36 là những quy định chung

về hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự. Chương này bao gồm Điều

340 quy định về nguyên tắc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự, Điều

341 quy định về việc thực hiện tương trợ tư pháp, Điều 342 quy định về việc từ

chối thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp. Bộ luật tố tụng hình sự số

101/2015/QH13 [13] ngày 27/11/ 2015 ra đời trong bối cảnh đã có luật riêng về

tương trợ tư pháp, do đó, nó đã được lược bỏ các quy định cụ thể liên quan đến

thực hiện tương trợ tư pháp, từ chối thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp, việc

chuyển giao hồ sơ, vật chứng của vụ án. Tuy nhiên, Bộ luật này vẫn dành Phần

thứ 8, với 06 điều khoản (từ Điều 491 tới Điều 497), để hướng dẫn cơ chế hợp tác

quốc tế trong lĩnh vực hình sự, trong đó bổ sung các nội dung chưa được quy định

tại luật tương trợ tư pháp. Các quy định này bao gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối

cao là Cơ quan trung ương của Việt Nam trong hoạt động tương trợ tư pháp hình

sự (Điều 493); Giá trị pháp lý của tài liệu, đồ vật thu thập được thông qua việc

48

hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự (Điều 494); Sự có mặt của người làm chứng

và người giám định, người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam ở nước ngoài

và ngược lại (Điều 496).

Luật tương trợ tư pháp số 08/2007/QH12 [15] ngày 21/11/2007 dành

Chương III (từ Điều 17 đến Điều 31) để quy định chi tiết về tương trợ tư pháp

hình sự. Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm chính trong việc tiếp

nhận, xem xét và xử lý các yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự, sau đó chuyển

cho cơ quan có thẩm quyền tương ứng thực hiện các hoạt động tương trợ theo yêu

cầu. Đây cũng là cơ quan đề xuất ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc

tế về tương trợ tư pháp; cũng như có thẩm quyền kiến nghị sửa đổi, bổ sung và

hoàn thiện khung pháp lý về tương trợ tư pháp của Việt Nam. Luật này cũng quy

định trách nhiệm của một số cơ quan khác như Bộ Tư pháp – thống nhất quản lý

Nhà nước về tương trợ tư pháp; Bộ Ngoại giao – chủ trì phối hợp với các bộ,

ngành có liên quan xem xét, quyết định áp dụng nguyên tắc có đi có lại; Cơ quan

đại diện của Việt Nam ở nước ngoài – đóng vai trò trung gian, tiếp nhận và chuyển

giao yêu cầu cho cơ quan có thẩm quyền trong nước; Tòa án nhân dân cấp tỉnh,

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Cơ quan điều tra – tiếp nhận yêu cầu do các cơ

quan trung ương chuyển đến và trực tiếp thực hiện các công việc theo chức năng

để hoàn thành yêu cầu tương trợ tư pháp.

Việt Nam hỗ trợ tư pháp cho các quốc gia khác để thực hiện các công việc

sau:

- Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về hình sự;

- Triệu tập người làm chứng, người giám định;

- Thu thập, cung cấp chứng cứ;

- Truy cứu trách nhiệm hình sự;

- Trao đổi thông tin;

- Các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về hình sự.

Khi một yêu cầu được gửi đến Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao sẽ

49

tiếp nhận và xem xét yêu cầu này. Trường hợp yêu cầu đó hợp lệ, cơ quan này sẽ

chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền thực hiện, trường hợp không hợp lệ, yêu

cầu đó sẽ bị từ chối hoặc hoãn thực hiện. Một yêu cầu tương trợ tư pháp về hình

sự của nước ngoài chỉ bị từ chối khi thuộc một trong các trường hợp sau:

- Không phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các quy

định của pháp luật Việt Nam;

- Gây phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia;

- Liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự một người về hành vi

phạm tội mà người đó bị kết án, được tuyên không có tội hoặc được đại xá, đặc

xá tại Việt Nam;

- Liên quan đến hành vi phạm tội đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình

sự theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam;

- Liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật nhưng không cấu thành tội phạm

theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam.

Đối với hoạt động dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt

tù, Bộ Công an sẽ là đầu mối tiếp nhận yêu cầu và thực hiện thủ tục xử lý các yêu

cầu này, chuyển tiếp đến cơ quan có thẩm quyền thực hiện. Tuy nhiên, việc dẫn

độ cũng có thể bị từ chối, nếu người bị dẫn độ thuộc một trong các đối tượng:

- Là công dân Việt Nam;

- Thuộc trường hợp không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chấp

hành hình phạt do đã hết thời hiệu hoặc vì những lý do hợp pháp khác theo pháp

luật Việt Nam;

- Người bị yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự đã bị Tòa án của

Việt Nam kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật về hành vi phạm tội được

nêu trong yêu cầu dẫn độ hoặc vụ án đã bị đình chỉ theo quy định của pháp luật tố

tụng hình sự Việt Nam;

- Người bị yêu cầu dẫn độ là người đang cư trú ở Việt Nam vì lý do có khả

năng bị truy bức ở nước yêu cầu dẫn độ do có sự phân biệt về chủng tộc, tôn giáo,

50

giới tính, quốc tịch, dân tộc, thành phần xã hội hoặc quan điểm chính trị;

- Trường hợp yêu cầu dẫn độ có liên quan đến nhiều tội danh và mỗi tội danh

đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nước yêu

cầu dẫn độ nhưng không đáp ứng các quy định tại Khoản 1 Điều 33 Luật tương

trợ tư pháp hình sự 2007.

Khoản 1 Điều 33 Luật trên quy định như sau:

“Người có thể bị dẫn độ theo quy định của Luật này là người có hành vi

phạm tội mà Bộ luật hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự của nước yêu cầu quy

định hình phạt tù có thời hạn từ một năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình hoặc

đã bị Tòa án của nước yêu cầu xử phạt tù mà thời hạn chấp hành hình phạt tù còn

lại ít nhất sáu tháng.”

Đối với các yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù, cơ quan

có thẩm quyền của Việt Nam sẽ từ chối thực hiện vì lý do nhân quyền và vì lý do

quốc gia, cụ thể:

- Khi có căn cứ cho rằng người được chuyển giao có thể bị tra tấn, trả thù

hoặc truy bức tại nước tiếp nhận chuyển giao;

- Việc chuyển giao có thể phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia của

Việt Nam.

Về tổng quan, Việt Nam có hệ thống quy định pháp luật về tương trợ tư pháp

trong lĩnh vực hình sự khá đầy đủ và chi tiết. Tuy nhiên, luật tương trợ tư pháp

hình sự được ban hành từ năm 2007 cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có nhiều

văn bản dưới luật hướng dẫn áp dụng cũng như chưa được cập nhật nên còn thiếu

các quy định điều chỉnh các quan hệ hay hoạt động mới phát sinh trong hoạt động

tố tụng hình sự hiện đại.

2.2.9. Liên bang Myanmar

Liên bang Myanmar ban hành luật tương trợ tư pháp về hình sự ngày

28/04/2004, bao gồm 09 chương với 43 điều khoản. Theo đó, quốc gia sẽ áp dụng

Đạo luật này đối với các hoạt động tương trợ tư pháp cho các quốc gia: (i) là thành

51

viên của các điều ước quốc tế đa phương mà Myanmar là thành viên; (ii) là một

bên trong hiệp định song phương ký với Myanmar; (iii) có thỏa thuận hỗ trợ qua

lại (nguyên tắc có đi có lại) trong trường hợp không thuộc hai mục trên, để hỗ trợ

tư pháp liên quan đến điều tra, truy tố và các thủ tục tố tụng hình sự khác. Mục

đích chính của Đạo luật này là:

- Cho phép hỗ trợ trong các vấn đề hình sự theo các điều ước quốc tế đa

phương, khu vực và song phương giữa các quốc gia;

- Cho phép kết nối và liên lạc với các tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực và

nước ngoài trong việc thực hiện các vấn đề hình sự;

- Cho phép đặt ra và thực hiện các biện pháp thích hợp để cung cấp hỗ trợ

giữa các quốc gia, liên quan đến điều tra, truy tố và tố tụng tư pháp trong các vấn

đề hình sự;

- Cho phép phòng ngừa và ngăn chặn hiệu quả các tội phạm nghiêm trọng

khác bao gồm khủng bố, tài trợ cho khủng bố, các tội phạm có tổ chức xuyên quốc

gia và các tội phạm liên quan đến rửa tiền.

Khác với pháp luật một số quốc gia quy định cơ quan trung ương chịu trách

nhiệm chính thực hiện tương trợ tư pháp hình sự là Tổng Chưởng lý, Myanmar

thành lập một cơ quan để thực hiện hoạt động tương trợ bao gồm 11 thành viên,

thuộc nhiều thành phần, cụ thể:

(a) Bộ trưởng Bộ Nội vụ - Chủ tịch

(b) Thứ trưởng Bộ Nội vụ - Phó Chủ tịch

(c) Thứ trưởng Bộ Ngoại giao – Thành viên

(d) Thứ trưởng Bộ Tài chính và Thành viên Doanh thu – Thành viên

(e) Thứ trưởng Bộ Di trú và Thành viên Dân số - Thành viên

(f) Phó Chánh án – Thành viên

(g) Phó Tổng chưởng lý – Thành viên

(h) Một đại diện của Bộ Quốc phòng – Thành viên

(i) Tổng cục trưởng Tổng cục Hành chính – Thành viên

52

(j) Tổng giám đốc, Lực lượng Cảnh sát Myanmar – Thư ký

(k) Tổng tham mưu trưởng, Tổng cục cảnh sát Myanmar – Thư ký chung.

Cơ quan trung ương này sẽ chịu trách nhiệm thực hiện:

- Thực hiện hoặc từ chối hỗ trợ sau khi xem xét các yêu cầu;

- Tham vấn cho Chính phủ liên quan trong việc ký kết các hiệp định song

phương về tương trợ tư pháp hình sự;

- Ấn định các chương trình đào tạo cần thiết cho nhân viên từ các Bộ và tổ

chức có liên quan để nâng cao kỹ năng và nghiệp vụ trong việc thực hiện luật này;

- Liên lạc và phối hợp, trong trường hợp cần thiết nếu vấn đề được yêu cầu

cũng liên quan đến một quốc gia khác;

- Phối hợp với các cơ quan chính phủ, tổ chức và người có liên quan về vấn

đề được yêu cầu;

- Thông báo cho các Bộ và tổ chức có liên quan để thực hiện các yêu cầu và

chuyển giao lại kết quả cho quốc gia yêu cầu;

- Yêu cầu và nhận hỗ trợ từ Nhà nước nước ngoài trong các vấn đề hình sự.

Theo luật này, Myanmar thực hiện tương trợ tư pháp trong phạm vi các hoạt

động sau:

- Lấy bằng chứng hoặc lời khai;

- Hợp pháp hóa lãnh sự các giấy tờ tư pháp;

- Kiểm tra các đối tượng và các trang web;

- Xác định hoặc truy tìm tiền hoặc tài sản có liên quan đến hành vi phạm tội

để làm chứng cứ;

- Tìm kiếm, thu giữ, kiểm soát, ban hành lệnh cấm và tịch thu tang vật;

- Lấy các thông tin, tài liệu đã được dùng làm bằng chứng, hồ sơ và ý kiến

chuyên gia;

- Cung cấp bản gốc hoặc bản sao có chứng thực của các tài liệu có liên quan

và các hồ sơ chứng cứ;

- Cung cấp thông tin địa chỉ của người phạm tội, và thông tin cần thiết khác;

53

- Các vấn đề khác được Cơ quan trung ương đồng ý hỗ trợ.

Quốc gia này thực hiện tương trợ tương đối linh động khi để ngỏ một trường

hợp “Các vấn đề khác được Cơ quan trung ương đồng ý hỗ trợ”, đây được coi như

một thiện chí của Myanmar đối với các quốc gia khác để có thể linh động hỗ trợ

đối với các yêu cầu ngoài các trường hợp đã quy định. Tuy nhiên, việc tập hợp

các cơ quan Nhà nước có chức năng khác nhau thành một cơ quan trung ương

chung khiến cho quốc gia gửi yêu cầu đến Myanmar gặp khó khăn trong việc xác

định chủ thể nhận yêu cầu và thẩm quyền nhận yêu cầu. Đây có thể coi là một hạn

chế trong cơ chế thực hiện tương trợ tư pháp hình sự tại quốc gia này.

2.2.10. Vương quốc Campuchia

Tuy không có một Đạo luật riêng về tương trợ tư pháp hình sự, nhưng Vương

quốc Campuchia dành một chương với 30 điều khoản trong Bộ luật tố tụng hình

sự năm 2007 để quy định chi tiết về dẫn độ. Dẫn độ được thực hiện theo quy định

tại các điều ước quốc tế đa phương, khu vực hoặc song phương mà Campuchia là

một bên, trường hợp không có công ước quốc tế điều chỉnh thì sẽ áp dụng các

điều khoản quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự, trừ khi có luật riêng. Luật này

quy định trường hợp yêu cầu dẫn độ với Campuchia và yêu cầu dẫn độ từ

Campuchia, trong cả hai trường hợp này đều nêu chi tiết các điều kiện, thủ tục

thực hiện.

Năm 2011, Bộ Tư pháp nước này đã thành lập Cơ quan trung ương trực thuộc

Tổng cục nghiên cứu và phát triển tư pháp để thực hiện tương trợ tư pháp, chuyển

giao tù nhân và dẫn độ trong hình sự, dân sự và các vấn đề thương mại. Cơ quan

này chịu trách nhiệm:

- Tiếp nhận và xem xét các yêu cầu dẫn độ, chuyển giao tù nhân và thực hiện

tương trợ tư pháp trong các vụ án hình sự, dân sự và thương mại;

- Chuyển các yêu cầu tương trợ tư pháp đến cơ quan có thẩm quyền và gửi

trả kết quả tương trợ cho các quốc gia yêu cầu;

- Sắp xếp thông tin được gửi và theo dõi tất cả các yêu cầu đã nhận và gửi để

54

đảm bảo liên lạc thông suốt, hiệu quả;

- Đóng vai trò là đầu mối để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tương trợ

tư pháp;

- Liên hệ trực tiếp hoặc qua các kênh ngoại giao với các cơ quan trong nước

và quốc tế để tạo điều kiện hỗ trợ pháp lý lẫn nhau;

- Tổ chức, xem xét và tạo điều kiện cho việc dịch các yêu cầu, hồ sơ vụ án,

bằng chứng và các tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp;

- Quản lý dữ liệu của các yêu cầu tương trợ, tổ chức các tài liệu pháp lý, nhập

thông tin vào cơ sở dữ liệu và nộp trực tuyến cho Bộ Tư pháp;

- Giữ bí mật các yêu cầu tương trợ cả về nội dung và tài liệu, cũng như thông

tin thực tế của bất cứ yêu cầu nào được đưa ra và bất kỳ hành động nào được thực

hiện liên quan đến yêu cầu;

- Đảm bảo thông tin và bằng chứng được bảo vệ khỏi bị mất và sử dụng, thay

đổi, hoặc tiết lộ mà không được phép hoặc sử dụng không vì mục đích đúng đắn;

- Xây dựng các kế hoạch hành động để tạo điều kiện tham quan học tập, hội

thảo và các cuộc họp ở cấp quốc gia và quốc tế;

- Liên hệ với các nhà tài trợ để nhận được hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực;

- Cải thiện hợp tác với các cơ quan trong nước và quốc tế để tạo điều kiện

cho nhau hỗ trợ pháp lý.

Bên cạnh đó, Campuchia cũng là thành viên của một số điều ước quốc tế như

Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia vào và

Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, Hiệp định tương trợ tư pháp về

hình sự ASEAN. Quốc gia này cũng ký nhiều hiệp định song phương về dẫn độ

với một số quốc gia như Thái Lan, Lào, Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam.

Đây là các cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện việc tương trợ tư pháp hình sự

tại quốc gia này. Trường hợp không có một trong các căn cứ trên, quốc gia này sẽ

55

hỗ trợ pháp lý về dẫn độ thông qua kênh ngoại giao.

Hoạt động tương trợ tư pháp tại Campuchia đang được thực hiện một cách

chung nhất từ dân sự, hình sự đến các vấn đề thương mại. Chưa có một luật riêng

56

hay một cơ chế riêng cho lĩnh vực hình sự tại quốc gia này.

Kết luận Chương 2

Các quốc gia trong khu vực ASEAN đều xây dựng cho mình các cơ chế

riêng để thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp, là nền tảng hữu hiệu để hợp tác

quốc tế và khu vực trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm xuyên quốc gia.

Tuy không phải quốc gia nào cũng có đạo luật riêng về tương trợ tư pháp trong

lĩnh vực hình sự, nhưng trong hệ thống pháp luật quốc gia sẽ luôn chứa đựng các

quy định riêng lẻ trong các luật riêng về dẫn độ, phòng chống tham nhũng,… hay

các nguyên tắc cơ bản trong Hiến pháp, Bộ luật tụng hình sự. Bên cạnh đó, các

quốc gia này cũng là thành viên của các hiệp ước song phương, điều ước quốc tế

khu vực và đa phương về tương trợ tư pháp hình sự. Và, không dừng lại ở đó, các

quốc gia vẫn đang nỗ lực để tạo dựng hành lang pháp lý mạnh mẽ hơn nữa, bằng

cách đàm phán, ký kết thêm nhiều hiệp định song phương hay tham gia các điều

ước đa phương về tương trợ tư pháp hình sự nói chung và các công ước về các

lĩnh vực cụ thể nói riêng.

Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quan thì khung pháp lý điều chỉnh hoạt động

này trong phạm vi ASEAN còn tương đối đơn giản, chưa được đầy đủ và hoàn

thiện. Bởi lẽ ASEAN là khu vực có các nền kinh tế trẻ và đang dần vươn mình ra

thế giới, các quan hệ xã hội mới sẽ xuất hiện theo đà phát triển đó. Trong khi đó,

pháp luật của nhiều quốc gia đã xuất hiện từ lâu đời, mang đậm dấu ấn của các

quốc gia đô hộ từ trong quá khứ, nay đã không còn phù hợp và có tính cập nhật

với tốc độ phát triển của kinh tế và văn hóa thời đại mới. Ngay cả đối với các quốc

gia có sự cập nhật nhanh như Việt Nam, với các đạo luật mới như Bộ luật hình sự

2015, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và có hẳn một đạo luật riêng về tương trợ tư

pháp năm 2007, nhưng các văn bản hướng dẫn chi tiết cả về căn cứ thực hiện lẫn

57

biện pháp kỹ thuật lại vô cùng ít ỏi.

Chương 3

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT

ĐỘNG TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ GIỮA CÁC QUỐC GIA

ASEAN

3.1. Hoạt động tương trợ tư pháp hình sự giữa các quốc gia ASEAN

Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự ASEAN 2004 đóng vai trò rất

quan trọng trong hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trong khu vực Đông Nam

Á. Trên cơ sở Hiệp định này, các quốc gia đã thực hiện và hỗ trợ nhau giải

quyết được nhiều vụ án hình sự, góp phần đảm bảo an ninh khu vực.

Theo số liệu thống kê của Ban thư ký Hiệp định tương trợ tư pháp hình sự

ASEAN, tính đến ngày 19/04/2019, việc thực hiện tương trợ tư pháp về hình

sự giữa các quốc gia Đông Nam Á được tổng hợp theo các bảng dưới đây:

Bảng 3.1. Thống kê số yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự các quốc gia

Đông Nam Á nhận được [22]

Năm Tổng số Quốc gia yêu cầu 2016 2017 2018 2019*

- - - Không có - Brunei

Campuchia Không có Không có Không có Không có Không có

7 1 - Không có Indonesia 8

Lào Không có Không có Không có Không có Không có

16 14 13 5 Malaysia 48

- - - Không có Không có Myanmar

- 1 1 Không có Philippines 2

5 10 14 6 Singapore 35

3 9 29 Không có Thái Lan 41

58

2 4 Không có Không có Việt Nam 6

* Tính đến ngày nộp số liệu thống kê cho Ban Thư ký

Bảng 3.2. Thống kê số yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự các quốc gia

Đông Nam Á gửi đi [22]

Năm Tổng số Quốc gia yêu cầu 2016 2017 2018 2019*

- - Không có Brunei - 1

Campuchia Không có Không có Không có Không có

6 2 Không có Indonesia 6 14

Lào Không có Không có Không có Không có Không có

10 10 10 2 Malaysia 32

2 - Không có Myanmar - 2

- - Không có Philippines 1 1

4 1 2 Singapore 9 16

22 10 Không có Thái Lan 17 49

48 Không có Không có Việt Nam 46 94

* Tính đến ngày nộp số liệu thống kê cho Ban Thư ký

Trên đây chỉ là con số thống kê về số vụ tương trợ tư pháp giữa các quốc

gia trong khu vực Đông Nam Á, nếu tính riêng tại từng quốc gia, con số trên

chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Tính riêng tại Việt Nam, từ 01/07/2008 đến

31/05/2017, Vụ Hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp hình sự - Viện kiểm sát

nhân dân tối cao đã tiếp nhận 627 yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự từ các

59

quốc gia khác, đồng thời cũng gửi đi 660 yêu cầu.

Bảng 3.3. Số lượng yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự Việt Nam nhận được và gửi đi [4]

Năm

Số yêu cầu 6 tháng 6 tháng Tổng TTTPHS cuối năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 đầu năm

2017 2008

Nước ngoài đề nghị 37 82 33 41 71 84 66 72 93 48 627 Việt Nam thực hiện

Việt Nam đề nghị

nước ngoài thực 1 13 13 33 57 75 89 125 147 107 660

60

hiện

Nhìn chung, hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự gia tăng hàng năm

theo tiến trình hội nhập và hợp tác ngày càng sâu rộng giữa các quốc gia, đã và

đang cố gắng đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh chống tội phạm xuyên

quốc gia và tội phạm có yếu tố nước ngoài. Tại Việt Nam, việc tiếp nhận cũng

như giải quyết các yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của nước ngoài đều

được thực hiện tốt. Tuy nhiên, vẫn có một số ít trường hợp bị từ chối do không

phù hợp với quy định pháp luật của quốc gia được yêu cầu, vì lý do ảnh hưởng

đến an ninh quốc gia hay hành vi không thỏa mãn nguyên tắc “tội phạm kép”.

Một số ít yêu cầu khác không thực hiện được do nước yêu cầu không cung cấp

đủ thông tin để xác định đối tượng. Trong phạm vi khu vực, tuy các quốc gia

đều đã trở thành thành viên của Hiệp định tương trợ tư pháp hình sự ASEAN

nhưng do đây là hiệp định chung nên quy định các vấn đề mang tính nguyên

tắc, thiếu chi tiết hay ít đi vào những vấn đề cụ thể, một số quốc gia trong quá

trình nội luật hóa đã bảo lưu các điều khoản nhất định, hay pháp luật quốc gia

thiếu các cơ chế phù hợp để thực hiện. Vì vậy, tuy có khung pháp lý chung

nhưng việc triển khai tương trợ tư pháp hình sự chưa thực sự hữu hiệu như

mong đợi.

Về quá trình thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp hình sự, các quốc gia

sẽ ban hành các mẫu yêu cầu cho từng hoạt động tương trợ cụ thể và phù hợp

với quy định của pháp luật và phạm vi tương trợ của quốc gia mình trên cơ sở

biểu mẫu của Hiệp định. Ví dụ Brunei có 06 mẫu yêu cầu tương trợ tư pháp:

Yêu cầu đối với việc thu thập bằng chứng; Yêu cầu sự tham dự của một cá

nhân; Yêu cầu quyền giám hộ của người quá cảnh; Yêu cầu tìm kiếm và thu

giữ; Yêu cầu xác định vị trí và danh tính cá nhân; Yêu cầu tống đạt giấy tờ ra

Tòa [21]. Trong khi đó Malaysia lại chỉ quy định 02 loại biểu mẫu, là mẫu dành

cho các yêu cầu gửi đến quốc gia này, và biểu mẫu dành cho các yêu cầu

Malaysia gửi đến quốc gia khác. Myanmar và Singapore ban hành một biểu

61

mẫu chung nhất cho tất cả các trường hợp yêu cầu, chỉ bao gồm các thông tin

cơ bản nhất.

3.2. Pháp luật một số quốc gia ngoài khu vực ASEAN về tương trợ tư

pháp hình sự

3.2.1. Pháp luật Liên bang Australia về tương trợ tư pháp hình sự

3.2.1.1. Khái quát về tương trợ tư pháp theo pháp luật Australia

Tương trợ tư pháp hình sự theo pháp luật Australia

Tương trợ tư pháp hình sự là hình thức mà các nước sử dụng để cung cấp

và nhận về sự giúp đỡ chính thức của quốc gia khác trong hoạt động điều tra,

truy tố hình sự. Tương trợ tư pháp cũng được dùng để thu hồi tài sản do phạm

tội mà có. Liên bang Australia đã ban hành Luật tương trợ tư pháp về hình sự

năm 1987 để điều chỉnh việc thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự. Luật này

quy định một số hình thức tương trợ như sau:

- Một người bị buộc tội lừa đảo, rửa tiền và sao kê tài khoản ngân hàng

của người đó thu được từ các thể chế tài chính nước ngoài để trợ giúp cho công

việc điều tra và truy tố khi có khả năng hoặc để thu hồi lại tiền/tài sản do phạm

tội mà có, hoặc;

- Một nhân chứng sống ở nước ngoài và lời khai của nhân chứng này được

thu thập để hỗ trợ cho công tác điều tra và truy tố người bị buộc tội.

Cơ quan trung ương về tương trợ tư pháp hình sự của quốc gia này là Cơ

quan trung ương về hợp tác chống tội phạm quốc tế thuộc Vụ hợp tác chống tội

phạm quốc tế, Cơ quan Tổng chưởng lý quản lý việc thực hiện.

Thẩm quyền lập yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự

Pháp luật tương trợ tư pháp hình sự Australia quy định rằng, chỉ Tổng

chưởng lý, Bộ trưởng Tư pháp hoặc người được ủy quyền mới được lập Yêu

cầu tương trợ tư pháp gửi đi nước ngoài. Ngoại lệ đối với trường hợp, Chính

phủ Australia lập yêu cầu tương trợ tư pháp theo đề nghị của một cơ quan thực

thi pháp luật hoặc cơ quan công tố, toà án Australia hoặc, có khi theo yêu cầu

62

của bị cáo trong vụ án hình sự.

Phạm vi tương trợ tư pháp hình sự

Quốc gia này có phạm vi tương trợ tư pháp hình sự tương đối hẹp, bao

gồm 04 hoạt động dưới đây:

- Thực hiện lệnh khám xét để thu thập chứng cứ như sao kê tài khoản từ

các tổ chức tài chính;

- Thu thập chứng cứ của người làm chứng tại Australia phục vụ quá trình

tố tụng ở nước ngoài;

- Sắp xếp cho người làm chứng (nếu tự nguyện) đến nước khác để cung

cấp chứng cứ trong quá trình tố tụng ở nước ngoài;

- Xin phê chuẩn và thực hiện lệnh tạm giữ và tịch thu tài sản do phạm tội

mà có.

Từ chối yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự

Cơ quan trung ương của Australia có quyền từ chối yêu cầu tương trợ tư

pháp hình sự, căn cứ vào Điều 8 Luật tương trợ tư pháp và quy định của các

Hiệp định tương trợ tư pháp mà nước này là thành viên. Các trường hợp nước

này từ chối thực hiện tương trợ bao gồm:

- Liên quan đến tội phạm chính trị;

- Vì lý do chủng tộc, giới tính, tôn giáo, dân tộc hoặc quan điểm chính trị

của người đó;

- Liên quan đến tôi phạm quân sự theo luật quân sự nước này;

- Ảnh hưởng đến chủ quyền, an ninh hoặc lợi ích quốc gia hoặc lợi ích

thiết thực của một bang hoặc vùng lãnh thổ Australia, hoặc trừng phạt một

người hai lần;

- Không thỏa mãn nguyên tắc tội phạm kép;

- Yêu cầu liên quan tới việc truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc trừng phạt

một người vì một hành động hoặc không hành động xảy ra ngoài lãnh thổ nước

yêu cầu và pháp luật Australia không quy định là tội phạm đối với hành vi thực

63

hiện bên ngòai lãnh thổ của mình trong trường hợp tương tự (ngoài lãnh thổ);

- Đã hết thời hiệu hoặc bất kỳ lý do nào khác;

- Ảnh hưởng tới việc điều tra hoặc xét xử tại quốc gia này;

- Ảnh hưởng tới sự an toàn của người nào đó ở trong hoặc ngoài lãnh thổ

quốc gia;

- Tạo ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn lực của liên bang hoặc của một bang

hoặc vùng lãnh thổ, hoặc khi xem xét toàn bộ tình huống của vụ án được cung

cấp mà thấy rằng tương trợ không nên được thực hiện.

Quy trình, thủ tục nhận và gửi yêu cầu tương trợ được quy định trong các

hiệp định tương trợ tư pháp song phương và các điều ươc quốc tế đa phương,

khu vực mà Australia là thành viên.

Hình thức và nội dung yêu cầu tương trợ gửi đến Australia

Theo Luật tương trợ tư pháp nước này, các yêu cầu tương trợ tư pháp hình

sự có thể được gửi tới Tổng chưởng lý hoặc người được ủy quyền. Và nếu các

cơ quan khác hoặc Toà án Australia nhận được yêu cầu, thì các cơ quan này có

trách nhiệm gửi lại Cơ quan trung ương của Australia về tương trợ tư pháp hình

sự. Một yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự phải được gửi đến dưới dạng văn

bản, có mô tả chính xác bản chất của vụ việc, cũng như tóm tắt đầy đủ nội dung

vụ án, luật áp dụng và hình phạt cho tội phạm đang bị điều tra. Yêu cầu khắt

khe này đảm bảo cho việc thực hiện được chính xác và nhanh chóng.

Bảo mật

Trừ trường hợp được Tổng chưởng lý hoặc Bộ trưởng Tư pháp cho phép,

mọi hành vi tiết lộ thông tin về việc nhận/gửi yêu cầu tương trợ tư pháp, nội

dung của yêu cầu, việc chấp nhận hay từ chối yêu cầu đều là phạm pháp.

3.2.1.2. Hỗ trợ giữa cảnh sát với cảnh sát và cơ quan với cơ quan

Trong quá trình thực hiện tố tụng hình sự, có nhiều phương thức để người

thi hành pháp luật thu thập thông tin và chứng cứ từ nước ngoài. Tương trợ tư

pháp, hỗ trợ giữa cảnh sát với cảnh sát và hỗ trợ giữa cơ quan với cơ quan là

64

các hình thức khác nhau nhưng đều là các hình thức hợp tác hiệu quả. Tương

trợ tư pháp là biện pháp mà các nước dùng để giúp đỡ và yêu cầu tương trợ cấp

Nhà nước trong việc điều tra và truy tố hình sự. Tương trợ tư pháp cũng được

sử dụng để thu hồi tài sản do phạm tội mà có. Trong khi đó, việc hợp tác, hỗ

trợ giữa các cơ quan cảnh sát một nước với cơ quan cảnh sát là quốc gia khác

thường nhằm mục đích trao đổi thông tin tình báo chung và thông tin của hoạt

động thu thập lời khai theo tự nguyện.

INTERPOL là tổ chức cảnh sát có tính chất quốc tế lớn nhất thế giới. Tổ

chức này giúp cho việc hỗ trợ cảnh sát với cảnh sát và thậm chí hợp tác khi mà

giữa các quốc gia không có quan hệ ngoại giao. Cảnh sát liên bang Australia

(AFP) duy trì một mạng lưới nhân viên quốc tế thực hiện các nhiệm vụ ở nước

ngoài. Thông qua các nhân viên này, các cơ quan thực thi luật của Australia và

nước ngoài trao đổi thông tin và tiến hành điều tra. AFP cũng ký kết Biên bản

ghi nhớ với đối tác ở nhiều quốc gia khác, giúp việc hợp tác giữa các cơ quan

cảnh sát thuận tiện hơn.

Sự khác biệt ở đây là hợp tác giữa các cơ quan cảnh sát không bao gồm

việc cung cấp các thông tin mà phải dùng biện pháp cưỡng chế mới thu được

như lệnh khám xét. Và những yêu cầu tương trợ tương tự như vậy phải thực

hiện thông qua thủ tục yêu cầu tương trợ tư pháp.

Việc hợp tác giữa cảnh sát với cảnh sát thường được sử dụng trong giai

đoạn điều tra hoặc thu thập tin tình báo hoặc các thông tin không yêu cầu sử

dụng biện pháp cưỡng chế. Đây là kênh thông tin hiệu quả để xác định nước

ngoài có những tài liệu nào trước khi lập yêu cầu tương trợ tư pháp. Vì cảnh

sát thường được kêu gọi để hỗ trợ thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp nên duy

trì mối quan hệ tốt giữa cảnh sát ở các nước rất có ích cho quá trình thực hiện

tương trợ tư pháp.

Hầu hết các cơ quan điều tra liên bang Australia có bố trí nhân viên liên

65

lạc và thoả thuận chia sẻ thông tin với các đối tác của mình ở nước ngoài. Các

thông tin trao đổi thông qua hỗ trợ cơ quan với cơ quan thường không yêu cầu

biện pháp cưỡng chế hoặc một yêu cầu tương trợ tư pháp.

“Hỗ trợ cơ quan với cơ quan” bao gồm cả hoạt động hỗ trợ cảnh sát với

cảnh sát và hợp tác giữa các cơ quan không phải là cảnh sát như hợp tác giữa

Cơ quan thuế Australia và Uỷ ban chứng khoán và đầu tư Australia với đối tác

ở nước ngoài. Trong nhiều trường hợp, cụm từ “hợp tác cảnh sát với cảnh sát”

và “hợp tác cơ quan với cơ quan” được sử dụng thay thế cho nhau. “Hỗ trợ

cảnh sát với cảnh sát” đôi khi được sử dụng như thuật ngữ chung gồm tất cả

hình thức tương trợ không chính thức giữa cảnh sát và các cơ quan khác. Tuy

nhiên, ở quốc gia này, việc hỗ trợ cảnh sát với cảnh sát chỉ là hỗ trợ mà Cảnh

sát liên bang và cảnh sát của bang và vùng lãnh thổ thực hiện cho các đối tác

của mình ở nước ngoài.

3.2.1.3. Yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự gửi tới Australia

Tương trợ tư pháp là một công cụ quan trọng đối với Australia trong quá

trình đấu tranh chống tội phạm và thu hồi tài sản do phạm tội mà có. Quốc gia

này sẽ cố gắng hỗ trợ trong những trường hợp khẩn, tuy nhiên sẽ phải tuân thủ

những điều kiện cụ thể khi thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp, cụ thể:

Thứ nhất, Australia chỉ tiếp nhận yêu cầu tương trợ tư pháp của quốc gia,

không chấp nhận yêu cầu của cá nhân;

Thứ hai, yêu cầu và các tài liệu gửi kèm nên được thể hiện bằng văn bản

và dịch sang tiếng Anh.

Thứ ba, yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự cần có các nội dung cơ bản như:

- Cơ quan: tên của cơ quan điều tra hoặc truy tố và cơ quan đại diện lập

yêu cầu tương trợ;

- Tội danh: nêu tội danh đang bị điều tra và hình phạt cao nhất được áp

dụng. Không cần phải xác định tội danh tương ứng ở Australia;

- Miêu tả: mô tả bản chất của vụ việc hình sự và bản tóm tắt nội dung vụ

66

án, hành vi và các trường hợp đang điều tra. Không cần phải chứng minh tội

danh đang điều tra nhưng phải nêu được các căn cứ có cơ sở về việc nghi ngờ

phạm tội. Nên thiết lập mối liên hệ giữa hoạt động điều tra hoặc xét xử ở nước

ngoài và tương trợ tư pháp đã lập;

- Nội dung tương trợ: nêu chi tiết nội dung tương trợ, ưu tiên dưới dạng

liệt kê. Nếu yêu cầu lấy lời khai nhân chứng thì nước yêu cầu nên gửi kèm theo

danh mục các câu hỏi. Đồng thời, cần khẳng định các tài liệu thu được để phục

vụ cho quá trình điều tra hoặc truy tố hoặc thu hồi tài sản do phạm tội mà có;

- Mục đích: nêu ngắn gọn lý do tại sao lại cần phải thực hiện tương trợ.

Thứ tư, một yêu cầu sẽ được rút ngắn thời gian xem xét nếu có các thông

tin bổ sung như:

- Cơ sở pháp lý: cơ sở để lập yêu cầu tương trợ (như công ước hoặc hiệp

định hay điều khoản có đi có lại);

- Thông tin chi tiết về người phạm tội: cung cấp thông tin về đối tượng

điều tra như tên đầy đủ (họ và tên), bí danh, giới tính, địa chỉ, quốc tịch, số hộ

chiếu và nơi ở, nếu có;

- Đi lại: có cần đề nghị Australia cho phép cơ quan thực thi pháp luật ở

nước ngoài đến Australia để hỗ trợ thực hiện yêu cầu tương trợ hay không;

- Hình thức: là hình thức mà tài liệu cần được cung cấp;

- Thời hạn thực hiện: Trong trường hợp cần thực hiện gấp yêu cầu, nêu rõ

lý do phải làm gấp;

- Địa chỉ liên hệ.

Thứ năm, yêu cầu tương trợ nên có thêm những thông tin khác để hỗ trợ

Australia thực hiện yêu cầu.

Thứ sáu, yêu cầu tương trợ cũng nên kèm theo thông tin đặc biệt dành

riêng cho từng yêu cầu cụ thể. Theo luật tương trợ tư pháp của Australia, một

số loại tương trợ đòi hỏi thông tin đặc biệt từ nước yêu cầu, gồm có:

- Lấy lời khai nhân chứng: xác định xem lời khai được cung cấp tự nguyện

67

hay bằng cách thẩm vấn trước tòa;

- Quy trình thu thập chứng cứ: xác định xem việc thu thập chứng cứ được

nhân viên pháp lý hay bồi thẩm đoàn tiến hành;

- Xin lệnh tịch thu tài sản do phạm tội mà có: để xin lệnh tịch thu, lệnh

phạt tiền hoặc lệnh tạm giữ cần phải có một bản thông báo về yêu cầu này .

Thứ bảy, về tài sản do phạm tội mà có: Các cơ quan thực thi pháp luật của

Australia có thể thu hồi tài sản của tội phạm bị truy tố ở nước ngoài. Việc có

thể thực hiện được điều này hay không còn tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể.

Tuy nhiên nếu có khả năng tài sản phạm tội ở Australia thì hãy xác định xem

có lý do nào để phản đối Australia tạm giữ tài sản phạm tội.

Thứ tám, yêu cầu phải được gửi đến Cơ quan trung ương về tương trợ tư

pháp trong các vấn đề hình sự Australia, là Cơ quan trung ương về hợp tác

chống tội phạm quốc tế thuộc Vụ Hợp tác chống tội phạm quốc tế, Cơ quan

Tổng chưởng lý Australia là Cơ quan trung ương về tương trợ tư pháp về hình

sự. Yêu cầu tương trợ cũng có thể gửi qua kênh ngoại giao tới Cơ quan Tổng

chưởng lý Australia.

3.2.2. Pháp luật Thụy Điển về tương trợ tư pháp hình sự

Tương trợ tư pháp quốc tế về hình sự của Thụy Điển được quy định trong

một đạo luật ban hành năm 2000 - International Legal Assistance Act. Đạo luật

mới này cho phép các cơ quan có thẩm quyền của Thụy Điển trong điều kiện

phù hợp thực hiện việc tương trợ đối với các quốc gia có yêu cầu trong điều tra

hình sự và tố tụng hình sự. Theo đó, Thụy Điển sẽ tiến hành các hoạt động

tương trợ tư pháp hình sự sau:

- Thu thập chứng cứ từ Tòa án;

- Tịch biên, tịch thu tài sản;

- Tìm đối tượng (người hoặc tài sản);

- Thẩm tra đối tượng được yêu cầu;

- Lắp đặt camera giám sát;

68

- Chuyển giao đối tượng đang bị quản thúc đến đối chất.

Yêu cầu tương trợ tư pháp theo pháp luật Thụy Điển được thực hiện từ

công tố viên, Thẩm phán điều tra, Thẩm phán xét xử và Tòa án của nước ngoài.

Nội dung của yêu cầu tương trợ tư pháp:

- Thông tin chung về yêu cầu thủ tục tố tụng;

- Thông tin về người phạm tội như hành vi, thời điểm xảy ra hành vi, diễn

biến của hành vi phạm tội...;

- Luật áp dụng;

- Hình thức tương trợ tư pháp được yêu cầu;

- Thông tin về người có liên quan.

Yêu cầu tương trợ tư pháp liên quan đến tìm đối tượng, thẩm tra đối tượng,

đặt camera giám sát,... được chuyển đến công tố viên có thẩm quyền giải quyết

yêu cầu. Yêu cầu về thu thập chứng cứ được chuyển đến Tòa án quận hoặc Tòa

án thành phố có thẩm quyền giải quyết yêu cầu. Một trong những khó khăn của

việc thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp là các quốc gia kể cả quốc gia thành

viên Liên minh châu Âu không nắm rõ hệ thống các cơ quan có thẩm quyền

giải quyết vụ việc, do đó yêu cầu được chuyển thẳng đến Bộ Tư pháp. Các yêu

cầu tương trợ tư pháp từ các quốc gia ngoài châu Âu hoặc các quốc gia chưa

ký với Thụy Điển hiệp định tương trợ tư pháp được chuyển tới Bộ Tư pháp để

giải quyết.

Pháp luật về tương trợ tư pháp của Thụy Điển cũng quy định các trường

hợp từ chối yêu cầu nếu như yêu cầu đó:

- Gây phương hại đến chủ quyền quốc gia;

- Có nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh quốc gia;

- Xung đột pháp luật (vi phạm nguyên tắc chung và cơ bản của pháp luật

Thụy Điển).

Ngoài ra yêu cầu tương trợ còn có thể bị từ chối nếu:

- Liên quan đến tội phạm chính trị;

69

- Liên quan đến tội phạm quân đội;

- Thẩm quyền từ chối yêu cầu tương trợ tư pháp thuộc Chính phủ.

3.2.3. Pháp luật Trung Quốc về tương trợ tư pháp hình sự

3.2.3.1. Cơ sở pháp lý về tương trợ tư pháp về hình sự

Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự Trung quốc được điều chỉnh bởi ba

loại nguồn quy phạm quy định rõ ràng trong Điều 17 Bộ luật tố tụng hình sự

nức này, bao gồm: Điều ước quốc tế, Hiệp định tương trợ tư pháp với các quốc

gia và pháp luật trong nước.

Theo GS.TS. Ngũ Quang Hồng, Trung Quốc đã tham gia một số các công

ước quốc tế như: Công ước Liên hợp quốc thống nhất về danh mục các chất ma

túy, Công ước Hague, Công ước Montreal, Công ước Liên hợp quốc về các

chất hướng thần, Công ước Liên hợp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp các

loại chất ma túy và chất hướng thần, Công ước Liên hợp quốc về chống tội

phạm xuyên quốc gia và Công ước Liên hợp quốc về phòng chống tham

nhũng,... Các công ước này đều quy định, đối với các tội phạm quốc tế, nước

tham gia ký kết công ước, khi đưa ra tố tụng hình sự đối với tội phạm, phải

cung cấp sự hợp tác tư pháp lẫn nhau ở giới hạn cao nhất, bao gồm cung cấp

các chứng cứ,... [7]. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng ký nhiều hiệp định song

phương về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tố tụng hình sự và dẫn độ với các

quốc gia trên thế giới. Đây sẽ là các căn cứ pháp lý quan trọng để quốc gia này

thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp hình sự.

3.2.3.2. Nguyên tắc tương trợ tư pháp về hình sự

Nguyên tắc và căn cứ hợp tác quốc tế hình sự ở Trung Quốc theo quy định

tại Điều 17 Bộ luật tố tụng hình sự Trung Quốc:

“Căn cứ theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa Nhân dân Trung

Hoa ký kết hoặc tham gia; hoặc căn cứ theo các nguyên tắc ưu đãi lẫn nhau,

các cơ quan tư pháp Trung Quốc và các cơ quan tư pháp nước ngoài có thể đề

70

nghị hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự”.

Cơ quan trung ương chịu trách nhiệm về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình

sự ở Trung Quốc bao gồm: Tòa án nhân dân Trung Quốc và tòa án nước ngoài;

Viện kiểm sát nhân dân Trung Quốc và cơ quan kiểm sát nước ngoài; Cơ quan

công an Trung Quốc và cơ quan cảnh sát nước ngoài.

Nguyên tắc ưu đãi lẫn nhau hay còn được hiểu là nguyên tắc có đi có lại

được quán triệt trong hoạt động hợp tác quốc tế về hình sự. Theo đó, “trong

trường hợp Trung Quốc và một quốc gia nào đó không ký kết các điều ước hợp

tác hỗ trợ tư pháp hoặc hai nước không cùng tham gia một công ước quốc tế có

các điều khoản về hợp tác hỗ trợ tư pháp, nếu cơ quan tư pháp nước này căn cứ

theo thỉnh cầu của cơ quan tư pháp Trung Quốc cung cấp các hỗ trợ tư pháp,

thì cơ quan tư pháp Trung Quốc cũng phải có các hỗ trợ tư pháp theo các thỉnh

cầu của cơ quan tư pháp nước ấy. Làm như vậy, có lợi trong việc phát triển

quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Trung Quốc và nước ngoài trên cơ sở bình đẳng,

cũng có lợi trong việc tiến hành thuận lợi các hoạt động tố tụng hình sự có yếu

tố nước ngoài và xử lý chính xác các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài của

Trung Quốc” [7].

3.2.3.3. Phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự

Các nội dung của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự Trung Quốc bao

gồm:

(1) Tiến hành các biện pháp điều tra thu thập chứng cứ như: thẩm vấn các

đương sự, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, người giám định; tiến

hành giám định, khám nghiệm, kiểm tra, khám xét lục soát, kiểm tra niêm

phong, giam giữ, nhận dạng,...;

(2) Tống đạt văn thư các loại tài liệu và văn thư pháp luật được cơ quan

tư pháp lập ra trong quá trình tố tụng hình sự, như bản phán quyết, bản xét định,

71

quyết định, giấy triệu tập, thông báo hầu Tòa,...

Các văn thư ngoài tố tụng là các văn thư hoặc các tài liệu văn tự ngoài các

văn thư tố tụng, nhưng có liên quan đến trình tự tố tụng hình sự, như chứng

minh thư, công hàm gửi đi và phúc đáp,...;

(3) Chuyển giao tài liệu, chứng cứ;

(4) Thông báo kết quả tố tụng;

(5) Dẫn độ;

(6) Trao đổi và hợp tác về thông tin tình báo tội phạm.

3.2.3.4. Trình tự, thủ tục hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự Trung Quốc

Pháp luật về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự Trung Quốc phân thành

hai loại thủ tục: Thủ tục yêu cầu hợp tác của cơ quan tư pháp Trung Quốc đối

với cơ quan tư pháp nước ngoài, và; Thủ tục yêu cầu hợp tác của cơ quan tư

pháp nước ngoài đối với các cơ quan tư pháp Trung Quốc. Các thủ tục này được

quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự nước này và trong các điều ước

quốc tế đa phương, hiệp định song phương mà Trung Quốc là thành viên.

Đối với dẫn độ thì nước có yêu cầu phải có đơn yêu cầu dẫn độ đến Bộ

ngoại giao Trung Quốc và đơn đó cần ghi rõ các nội dung:

- Tên cơ quan thỉnh cầu, họ tên, giới tính, tuổi, quốc tịch, loại và số giấy

tờ tùy thân, nghề nghiệp, đặc điểm bên ngoài, nơi ở, nơi cư trú và các thông tin

hỗ trợ nhận dạng thân phận hoặc để tìm người bị thỉnh cầu dẫn độ;

- Vụ việc phạm tội, bao gồm thời gian, địa điểm, hành vi, kết quả phạm

tội…;

- Các quy định pháp luật về thời hạn truy tố và khung hình phạt… Đồng

thời, nước có yêu cầu dẫn độ phải cung cấp các tài liệu: Lệnh truy nã hoặc bản

sao các văn bản có giá trị tương đương khác;

- Khi thỉnh cầu dẫn độ để thực hiện hình phạt thì phải kèm theo văn bản

phán quyết đã có hiệu lực hoặc bản sao bản tuyên án, đối với tội phạm đã thực

hiện một phần hình phạt, còn phải kèm theo giấy chứng nhận đã thực hiện hạn

72

tù;

- Chứng cứ phạm tội hoặc tài liệu, chứng cứ bắt buộc khác, ảnh, dấu vân

tay của người bị yêu cầu dẫn độ và các tài liệu khác… Sau khi nhận được yêu

cầu dẫn độ Bộ ngoại giao Trung Quốc tiến hành thẩm tra đơn và các tài liệu,

xác định phù hợp với quy định của Luật dẫn độ và Điều ước dẫn độ… Nếu cho

rằng phù hợp thì đơn và hồ sơ yêu cầu dẫn độ gửi đến Tòa án nhân dân tối cao,

Viện kiểm sát nhân dân tối cao để giải quyết.

3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp

hình sự

3.3.1. Khó khăn, vướng mắc

Hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự vẫn gặp nhiều khó khăn trong thực

hiện, cả về quy định pháp luật lẫn thực tiễn triển khai.

Về cơ sở pháp lý, bên cạnh điều ước quốc tế đa phương, hiệp định song

phương các quốc gia đều xây dựng hệ thống pháp luật quốc nội nên đã hình

thành khung pháp lý khá đầy đủ cho các lĩnh vực hoạt động hợp tác quốc tế

trong tố tụng hình sự. Việc ký kết các điều ước quốc tế về hợp tác quốc tế trong

tố tụng hình sự là xu thế tất yếu của quá trình hội động nhập, thể hiện sự thân

thiện hợp tác giữa các quốc gia, đồng thời còn hình thành cơ sở pháp lý cho các

hoạt động hợp tác quốc tế trong đấu tranh, xử lí tội phạm trên toàn cầu, khu vực

và từng quốc gia. Không có điều ước quốc tế các quốc gia vẫn có thể tiến hành

các hoạt động tương trợ tư pháp trên cơ sở áp dụng nguyên tắc có đi có lại. Tuy

nhiên, việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại không phải bao giờ cũng được thực

hiện một cách dễ dàng, nhất là đối với các nước ở các hệ thống pháp luật khác

nhau. Để khắc phục tình trạng đó thì việc ký kết các điều ước quốc tế là lựa

chọn tối ưu, nhất là đối với những nước theo hệ thống pháp luật Common law

chỉ chấp nhận tương trợ tư pháp khi nước yêu cầu và nước được yêu cầu đã ký

kết hiệp định tương trợ tư pháp. Trước xu thế hội nhập quốc tế, việc các quốc

gia tự xây dựng cho mình những đạo luật riêng biệt điều chỉnh hoạt động hợp

73

tác quốc tế là cần thiết nhằm xác định nguyên tắc, các trường hợp tiếp nhận, từ

chối hợp tác, thẩm quyền, thủ tục, thời hạn và các vấn đề khác có liên quan của

hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự. Những quy định của pháp luật quốc gia

không những là cơ sở để thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế mà còn là

định hướng khi tham gia vào các điều ước quốc tế về hợp tác quốc tế trong tố

tụng hình sự. Do đặc điểm về văn hóa, kinh tế, chính trị, mỗi quốc gia lại có

những đặc thù của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự. Đặc thù đó thể hiện

trong việc có hay không tham gia điều ước quốc tế, phạm vi mức độ tham gia;

ký kết hay không ký kết các hiệp định với quốc gia đối tác; và trong các quy

định của pháp luật quốc gia.

Về quy định pháp luật, có sự chênh nhau giữa pháp luật các quốc gia khi

thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự. Việc các nước yêu cầu cam kết không

áp dụng án tử hình là điều kiện để thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp là vấnd

đề khá phổ biển trong thực tiễn hoạt động tương trợ tư pháp hình sự cũng như

việc đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự. Tuy nhiên,

không phải pháp luật một số quốc gia về tương trợ tư pháp hình sự lại chưa có

quy định về trình tự, thủ tục cam kết không áp dụng hình phạt tử hình trong

hoạt động tương trợ tư pháp hình sự. Ngoài ra, phạm vi tương trợ tư pháp hình

sự giữa pháp luật quốc gia và các cam kết quốc tế mà quốc gia đó tham gia

chưa được phù hợp, sẽ dẫn đến tình trạng thiếu căn cứ điều chỉnh, thiếu quy

định hướng dẫn thực hiện tại quốc gia đó. Không chỉ về phạm vi, các quy định

cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện một số yêu cầu tương trợ cũng chưa được

quy định chi tiết, hướng dẫn rõ ràng tại pháp luật quốc gia cũng là nguyên nhân

dẫn đến việc lúng túng cho các cơ quan, cán bộ trực tiếp thực hiện yêu cầu

tương trợ tư pháp hình sự.

Về thực tiễn, khi yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự giữa các quốc gia

thường mất nhiều thời gian và rất lâu mới có kết quả, trong khi đó việc giải

quyết các vụ án hình sự phải tuân thủ thời hạn luật định. Việc chậm trễ có kết

74

quả thực hiện yêu cầu tương trợ ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ giải quyết

vụ án. Lý do là bởi các cơ sở pháp lý cho hoạt động tương trợ tư pháp về hình

sự cả của quốc gia lẫn các cam kết quốc tế vẫn còn bỏ ngỏ chưa quy định thời

hạn thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự. Bên cạnh đó, việc bất đồng

ngôn ngữ giữa các quốc gia dẫn đến hệ quả là tài liệu trong hồ sơ yêu cầu tương

trợ tư pháp hình sự có những bản dịch chưa đúng từ ngữ pháp luật, chưa logic

về ngữ pháp, gây khó khăn cho cơ quan thụ lý thực hiện, hoặc không thể xác

định được đối với các trường hợp ghi không chính xác tên, địa chỉ con người

theo đúng ngôn ngữ của quốc gia được yêu cầu tương trợ. Một số trường hợp

việc trưng cầu phiên dịch để cơ quan điều tra làm việc với các đối tượng mang

quốc tịch nước ngoài gặp nhiều khó khăn nhất là khi ngôn ngữ không phổ

thông, dẫn đến việc lập biên bản ghi lời khai và làm các thủ tục tạm giữ, tạm

giam còn vướng mắc. Trong nhiều yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự, quốc gia

yêu cầu đề nghị thu giữ tài sản,… kèm theo các lệnh, quyết định của cơ quan

có thẩm quyền. Tuy nhiên, do tính chất lãnh thổ, các lệnh và quyết định đó

không có hiệu lực thi hành trên lãnh thổ quốc gia được yêu cầu. Do đó, quốc

gia được yêu cầu phải thực hiện bằng các văn bản, quyết định của mình phù

hợp với quy định của nội luật, nhưng cũng chưa có văn bản hướng dẫn thực

hiện.

3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp về hình

sự

3.3.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình

sự

Pháp luật khu vực ASEAN:

Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự ASEAN là hiệp định chung nên

quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc, hợp tác chung, ít đi vào những

vấn đề cụ thể, và có những quốc gia căn cứ vào nội luật mà bảo lưu điều, khoản

75

nhất định. Do đó, vẫn cần thiết ký kết các Hiệp định song phương với từng quốc

gia trong khối ASEAN để quy định cụ thể hơn các vấn đề hợp tác phù hợp với

pháp luật hai bên.

Mặt khác, có những Hiệp định đã được ký từ lâu, trải qua thời gian dài

thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nay đã không còn phù hợp, cần

bổ sung những quy định, thỏa thuận mới hoặc ký lại để phù hợp với yêu cầu

hợp tác. Các Hiệp định chung gồm nhiều lĩnh vực như dân sự, hình sự, lao

động, gia đình cũng không còn phù hợp với các cam kết khu vực cũng như pháp

luật quốc gia, cần tách ra thành các Hiệp định riêng để đảm bảo hiệu quả hoạt

động tương trợ tư pháp về hình sự.

Pháp luật Việt Nam:

Những năm qua với sự nỗ lực của các cơ quan hữu quan ở Việt Nam đã

hình thành khung pháp lý về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự trên ba

phương diện: Tham gia vào các điều ước quốc tế toàn cầu và khu vực về hợp

tác quốc tế trong đấu tranh, phòng chống tội phạm; Triển khai ký kết thêm các

Hiệp định về tương trợ tư pháp hình sự và các hoạt động hợp tác quốc tế khác;

Sửa đổi, bổ sung quy định về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự bằng việc

ban hành các văn bản pháp luật, trong đó quy định chi tiết việc thực hiện các

yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu hội nhập

quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý về hợp

tác quốc tế trong tố tụng hình sự theo các hướng sau:

- Cần ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật của các cơ quan có

thẩm quyền, làm cơ sở giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài, tạo điều kiện

thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự của các cơ quan có

thẩm quyền.

- Rà soát tổng thể các Hiệp định về tương trợ tư pháp hình sự mà quốc gia

đã ký kết để tiến hành đàm phán, sửa đổi, bổ sung hoặc ký kết các Hiệp định

tương trợ tư pháp hình sự với các nước có liên quan. Việc rà soát nhằm mục

76

đích phát hiện các bất cập, các quy định không còn phù hợp.

- Nghiên cứu gia nhập các Điều ước quốc tế chưa phải là thành viên. Như

đã phân tích ở Chương 1, quá trình toàn cầu hóa đem đến không ít lợi ích, cũng

đồng thời kéo theo nhiều vấn đề tiêu cực, như sự gia tăng đột biến của tội phạm

xuyên quốc gia như tội phạm rửa tiền, tội phạm buôn bán ma túy và các chất

gây nghiện khác, tội phạm khủng bố và tài trợ khủng bố, tội phạm buôn bán

người và nội tạng người, tội phạm đánh bạc,… Một phần trong số đó là do

người bản địa thực hiện, nhưng có tính chất xuyên quốc gia. Số vụ phạm tội

của người nước ngoài tại nước sở tại có chiều hướng tăng nhanh vì lý do dịch

chuyển dân số giữa các quốc gia. Công dân nước ngoài dần dần trở thành một

phần tương đối quan trọng trong cấu phần dân cư của mỗi quốc gia, làm gia

tăng số lượng tội phạm được thực hiện bởi người nước ngoài, đồng thời cũng

làm tăng số lượng nghi can trốn ra nước ngoài nhằm thoát khỏi thẩm quyền xử

lý của cơ quan có thẩm quyền trong nước. Việc này đã khiến cho các tổ chức

tội phạm xuyên quốc gia coi vượt biên như một hình thức hữu hiệu để che giấu

tội phạm và kiếm lợi nhuận từ hành vi phạm tội. Do đó, việc tham gia các điều

ước quốc tế là vô cùng cần thiết, đây là cơ chế bảo hộ nhanh nhất mà các quốc

gia có thể thực hiện. Sau khi tham gia các điều ước quốc tế, để tạo dựng một

cơ chế chặt chẽ hơn, các quốc gia vẫn cần tiếp tục đàm phán, ký kết các Hiệp

định song phương với các quốc gia trong và ngoài khu vực; trong đó ưu tiên

các quốc gia có mối liên hệ với ASEAN như Trung Quốc. Ví dụ như trong năm

2019, tại Việt Nam và Campuchia bắt được các đường dây đánh bạc lớn, cầm

đầu là những người có quốc tịch Trung Quốc, họ lợi dụng kẽ hở pháp luật giữa

các quốc gia để thực hiện hành vi phạm tội.

Tại Việt Nam, qua hơn mười năm thực hiện, Luật tương trợ tư pháp năm

2007 đã bộc lộ nhiều hạn chế, cần thay đổi: Bổ sung phạm vi tương trợ tư pháp

hình sự bao gồm các hoạt động tương trợ trong việc áp dụng biện pháp truy

tìm, thu giữ, phong tỏa, kê biên, tịch thu, trả lại tài sản do phạm tội mà có và

77

công cụ, phương tiện phạm tội; liên kết điều tra, phối hợp điều tra… và quy

định trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động tương trợ; xem xét sửa đổi, bổ

sung căn cứ từ chối tương trợ theo hướng phân biệt giữa những trường hợp bắt

buộc phải từ chối và có thể từ chối; bổ sung quy định về trình tự, thủ tục cam

kết không áp dụng hình phạt tử hình; bổ sung quy định cho phép sử dụng các

phương tiện kỹ thuật trong gửi và tiếp nhận hồ sơ ủy thác tư pháp và thực hiện

hoạt động tương trợ tư pháp. Ngoài ra, cần ban hành thêm các văn bản dưới

luật hướng dẫn chi tiết thi hành quy định về tương trợ tư pháp hình sự trong

Luật tương trợ tư pháp năm 2007 và các quy định về hợp tác quốc tế tại phần

thứ tám của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn, mối

quan hệ phối hợp và trình tự, thủ tục của các cơ quan tiến hành tố tụng trong

thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp hình sự. Mặt khác, cũng cần lồng ghép

các quy định về thời hạn thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp để rút ngắn thời

gian, tránh tình trạng kéo dài gây ảnh hưởng đến thời hạn điều tra vụ án theo

luật định.

3.3.2.2. Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trung ương thực

hiện tương trợ tư pháp về hình sự tại mỗi quốc gia để đảm bảo hiệu quả hợp

tác

Trên cơ sở các văn bản pháp luật quốc gia đã quy định về cơ quan đầu mối

và các cơ quan khác thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế trong tố tụng hình

sự, cần hình thành cơ chế phối hợp có hiệu quả hơn trong việc thực hiện trách

nhiệm tiếp nhận, chuyển giao, xem xét, giải quyết các yêu cầu của nước ngoài

về tương trợ tư pháp. Việc phối hợp liên ngành, đặc biệt là các cơ quan đầu

mối, trong tất cả các giai đoạn thực hiện hoạt động này đều vô cùng quan trọng,

nó giúp cho việc trao đổi thông tin nhanh chóng, giải quyết kịp thời các yêu cầu

có tính phức tạp hay có tính liên đới cần sự thống nhất giữa các ngành. Bên

cạnh đó, cần nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn

78

trực tiếp thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp. Đối với các cán bộ này, thì

ngoài số lượng, chất lượng, năng lực, trình độ, chuyên môn thì ngoại ngữ là

79

một yếu tố không thể thiếu.

Kết luận Chương 3

Việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự giữa các

quốc gia trong khu vực ASEAN đã đạt được những thành tựu đáng kể từ khi có

Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự ASEAN 2004. Tuy nhiên, thực tiễn cho

thấy việc thực thi vẫn còn nhiều hạn chế, cả về số lượng và chất lượng so với

nhu cầu của các quốc gia này. Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động này ở các

quốc gia chưa được hoàn thiện. Hiệp định tương trợ tư pháp hình sự ASEAN

quy định hoạt động tương trợ tư pháp hình sự có thể được thực hiện theo nguyên

tắc có đi có lại, nhưng cụ thể việc áp dụng như thế nào, cơ quan nào có thẩm

quyền quyết định thì chưa có một văn bản nào hướng dẫn, cả ở phạm vi khu

vực lẫn tại các quốc gia thành viên. Việc thiếu các quy định hướng dẫn gây khó

khăn không nhỏ cho các cơ quan chức năng và đội ngũ nhân viên triển khai

hoạt động tương trợ này, chưa kể đến việc bản thân những người trực tiếp thực

hiện chưa đủ khả năng và không được cung cấp đủ điều kiện để tiến hành. Đông

Nam Á là một khu vực đặc thù, bởi các quốc gia trong khu vực có sự khác biệt

tương đối lớn về thể chế chính trị, văn hóa, và cả kinh tế. Do đó, sẽ thường

xuyên xảy ra tình trạng một yêu cầu bị từ chối do không thỏa mãn nguyên tắc

tội phạm kép, do một quốc gia kém phát triển hơn nên chưa phát sinh các loại

tội phạm tương đương.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, các quốc

gia này cần đẩy mạnh hơn nữa việc thiết lập các khung pháp lý cũng như nâng

cao chất lượng bộ máy chuyên trách trực tiếp thực hiện việc tương trợ. Trung

Quốc, Australia và Thụy Điển đều là các quốc gia phát triển ở các châu lục

khác nhau, và mỗi quốc gia đều có những phương thức khác nhau để đẩy hiệu

quả hoạt động tương trợ lên mức cao nhất, là điều mà các quốc gia ASEAN nên

80

học hỏi, áp dụng.

KẾT LUẬN

Trong những năm qua, tình hình trên thế giới, khu vực và tại các quốc gia

có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là lĩnh vực phòng ngừa và đấu tranh chống

tội phạm. Bên cạnh việc tăng nhanh chóng về số lượng thì thủ đoạn thực hiện

của các loại tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia cũng ngày càng tinh

vi và khó lường trước. Do đó, điều quan trọng nhất là các quốc gia cần thiết lập

thẩm quyền pháp lý ngoài biên giới, hoặc khả năng pháp lý để thực hiện thẩm

quyền bên ngoài biên giới lãnh thổ thông thường – liên quan đến loại tội phạm

này. Nhận thức được tầm quan trọng đó, các quốc gia trên thế giới nói chung

và đặc biệt tại khu vực Đông Nam Á nói riêng, đang ngày càng chú trọng hoạt

động tương hỗ về tư pháp trong lĩnh vực hình sự.

Hợp tác quốc tế trong tư pháp về hình sự chưa bao giờ là một hoạt động

đơn giản, không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ ngoại giao giữa các nước

mà còn đóng vai trò quan trọng đối với an ninh mỗi quốc gia. Tuy quan trọng

như vậy, nhưng thay vì có một công ước quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự,

thì chỉ có các điều ước quốc tế đa phương trong từng lĩnh vực riêng lẻ có điều

khoản về tương trợ tư pháp hình sự. Trong ở tầm khu vực, cụ thể là Đông Nam

Á, hiện đã có một hiệp định thống nhất điều chỉnh hoạt động tư pháp này là

Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự ASEAN năm 2004. Không dừng lại ở

đó, các quốc gia ASEAN vẫn tiếp tục ký kết các hiệp định song phương, và

đang từng bước hoàn thiện pháp luật quốc gia để có thể phù hợp với tốc độ phát

triển của hoạt động tương trợ tư pháp hình sự.

Song song với việc ký kết, tham gia các hiệp định và ban hành luật mới,

các quốc gia thành viên ASEAN cũng thường xuyên ngồi lại cùng nhau để đánh

giá các thành tựu đã đạt được và tính hiệu quả của khung pháp lý hiện hành.

Ngày 26/04/2018, Hội nghị quan chức cấp cao lần thứ 8 về Hiệp định tương trợ

81

tư pháp về hình sự giữa các nước ASEAN đã được tổ chức tại Hà Nội, Việt

Nam. Ngoài sự tham gia của đại diện các quốc gia ASEAN, hội nghị còn mời

đến các chuyên gia từ Văn phòng Liên hợp quốc về ma túy và tội phạm và Cục

Hình sự Bộ Tư pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ để cùng trao đổi chuyên môn và

chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn. Điều này cho thấy, ASEAN luôn hướng đến mục

tiêu hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động hợp tác quốc tế về hình sự.

Đồng thời, cũng phải khẳng định, sau 15 năm được ban hành (từ 2004 đến

2019), hoạt động tương trợ tư pháp hình sự giữa các quốc gia ASEAN chưa

thực sự hiệu quả như mong muốn ban đầu. Theo cảnh báo của INTERPOL, các

đội tượng phạm tội sẽ tiếp tục lợi dụng sự khác biệt giữa hệ thống pháp luật của

các quốc gia trong việc điều chỉnh một số quan hệ xã hội mới để tiến hành các

hành vi phạm tội. Các quốc gia cần có luật riêng về chống rửa tiền và tịch thu

tài sản, các luật quy định về hợp tác quốc tế chống tội phạm. Đạo luật tương

trợ tư pháp về hình sự sẽ tạo điều kiện cho các điều tra viên và công tố viên có

được và trao đổi chứng cứ giữa các quốc gia, giúp cho quá trình giải quyết vụ

án được nhanh chóng và hiệu quả. Mặt khác, tính chất của loại tội phạm này

liên tục thay đổi theo tiến trình phát triển của kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ

thuật, do đó, cộng đồng quốc tế và khu vực cần có sự trao đổi và cập nhật

thường xuyên để đảm bảo rằng các luật được tương thích ở mức độ cao nhất để

có thể ngăn ngừa tội phạm lợi dụng các khoảng trống trong các khung pháp lý.

Đồng thời, cần nâng cao năng lực và trình độ của lực lượng điều tra và đội ngũ

thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp hình sự về các lĩnh vực tài chính, ngân

hàng, chống rửa tiền,… Chỉ khi nâng cao được chất lượng con người thì mọi

hoạt động mới có thể đạt được hiệu quả cao nhất, bởi đây chính là nền tảng của

82

mọi quốc gia và khu vực.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu tham khảo bằng tiếng Việt

1. Nguyễn Ngọc Anh (Chủ biên) (2014), Các văn kiện của Liên Hợp quốc và

khu vực ASEAN về phòng, chống khủng bố, Vụ Pháp chế, Bộ Công an, NXB

Lao động.

2. ASEAN (2004), Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự

ASEAN, Bộ Ngoại giao Việt Nam – Cổng thông tin điện tử về công tác lãnh

sự (https://lanhsuvietnam.gov.vn) (truy cập ngày 24/09/2019).

3. TS. Đỗ Hòa Bình (Chủ biên), TS. Phạm Thị Thu Hương, ThS. Lê Đức

Hạnh, (2016), Thuật ngữ pháp luật quốc tế, NXB Chính trị quốc gia – Sự

thật, Hà Nội;

4. Bộ Công an (2017), Tài liệu hội nghị Tổng kết 10 năm triển khai thi hành

Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 và thực hiện công tác dẫn độ, chuyển

giao người bị kết án phạt tù.

5. Vũ Thị Thu Hà (2017), Tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam,

Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

6. Đỗ Mạnh Hồng (2008), Các vấn đề pháp lý cơ bản trong lĩnh vực tương trợ

tư pháp về hình sự của ASEAN, Tạp chí Luật học số 9/2008, tr.57-64.

7. Ngũ Quang Hồng (2017), Chế độ hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự

Trung Quốc, Tạp chí Khoa học, chuyên trang Luật học, Đại học Quốc gia

Hà Nội.

8. Bùi Mạnh Hùng (2012), Hợp tác quốc tế về chống khủng bố và liên hệ thực

tiễn Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đai học Quốc gia Hà Nội.

9. Bùi Thị Ngọc Lan, Trần Thế Vinh (2016), Những nội dung cơ bản của Hiệp

định Tương trợ tư pháp về hình sự ASEAN năm 2004 và thực tiễn ở Việt

83

Nam, Kiểm sát, (12), 52 – 57.

10. TS. Phạm Văn Lợi (Chủ nhiệm đề tài) (2010), Nghiên cứu, so sánh pháp

luật hình sự của một số nước ASEAN, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp,

Hà Nội.

11. Liên hợp quốc, Luật mẫu của Liên hợp quốc quy định về tương trợ tư pháp

hình sự, Cơ sở dữ liệu PICMS Thông tin Hỏi – đáp phục vụ Đại biểu quốc

hội của Phòng Thông tin, Trung tâm Thông tin – TV – NCKH, Văn phòng

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

12. Nguyễn Giang Nam (2011), Hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn

độ tội phạm có yếu tố nước ngoài, Luận án tiến sĩ, Học viện Cảnh sát nhân

dân, Hà Nội.

13. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 ngày

27/11/2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

14. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013 của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam.

15. Quốc hội (2007), Luật tương trợ tư pháp số 08/2007/QH12 ngày

21/11/2007 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

16. Nguyễn Thị Thuận, Lê Minh Tiến (Chủ biên) (2012, 2014, 2016), Giáo

trình Pháp luật cộng đồng ASEAN, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

17. Nguyễn Trung Tín (2013), “Những vấn đề lí luận và thực tiễn về Luật hình

sự quốc tế”, Dẫn độ trong Luật Hình sự Quốc tế, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

18. TS. Nguyễn Quốc Việt (Chủ biên) (2016), Giáo trình Luật tương trợ tư

pháp, Đại học kiểm sát Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

B. Tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh

19. Christopher L. Blakesley (1981), The Practice of Extradition from

Antiquity to Modern France and the United States: A Brief History 4 B.C.

84

Int’l & Comp. L. Rev. 39 (1981).

20. Malaysia: Mutual assistance in criminal matters regulation 2003, Official

Portal of Secretariat for the treaty on mutual legal assitance in criminal

matters among like-minded ASEAN member countries

(http://aseanmlatsec.agc.gov.my) (truy cập ngày 24/09/2019).

21. MLA Secretariat, Obtaining assistance from Brunei Darussalam in

criminal matters, Attorney General’s Chambers, Prime Minister’s Office

(http://www.agc.gov.bn) (truy cập ngày 24/09/2019).

22. Official Portal of Secretariat for the treaty on mutual legal assitance in

criminal matters among like-minded ASEAN member countries,

(http://aseanmlatsec.agc.gov.my) (truy cập ngày 24/09/2019).

23. Thailand: Extradition Act, B.E. 2551, United Nations Office on Drugs and

Crime (https://www.unodc.org) (truy cập ngày 24/09/2019);

24. Thailand: The act on mutual assitance in criminal matters, B.E. 2535,

International Labour Organization (http://www.ilo.org) (truy cập ngày

24/09/2019).

25. Thư viện điện tử của Văn phòng học thuật, Ban thư ký Hạ Viện Thái Lan

(https://library2.parliament.go.th) (truy cập ngày 24/09/2019).

26. Tổng hợp số liệu từ trang web của United Nations Treaty Collection,

(https://treaties.un.org) (truy cập ngày 24/09/2019).

27. United Nations (1965), Convention on the Service Abroad of Judicial and

Extrajudicial Documents in Civil or Commercial Matters, The Hague

Conference on private international law (https://www.hcch.net) (truy cập

ngày 24/09/2019).

28. United Nations (1970), Convention on the Taking of Evidence Abroad in

Civil or Commercial Matters, The Hague Conference on private

85

international law (https://www.hcch.net) (truy cập ngày 24/09/2019).

29. United Nations (1988), United Nations Convention against illicit traffic in

narcotic drugs and psychotropic substances, United Nations Treaty

Collection (https://treaties.un.org) (truy cập ngày 24/09/2019).

30. United Nations (1999), International Convention for the suppression of the

financing of terrorism, United Nations Treaty Collection

(https://treaties.un.org) (truy cập ngày 24/09/2019).

31. United Nations (2000), United Nations Convention against transnational

organized crime, United Nations Treaty Collection (https://treaties.un.org)

(truy cập ngày 24/09/2019).

32. United Nations (2003), United Nations Convention against corruption,

United Nations Treaty Collection (https://treaties.un.org) (truy cập ngày

24/09/2019).

33. United Nations Office on Drugs and Crime, Model treaty mutual

assistance criminal matters, (https://www.unodc.org) (truy cập ngày

86

24/09/2019).