ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRIỆU VĂN QUÂN
KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THÁI NGUYÊN - 2020
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRIỆU VĂN QUÂN
KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN Ngành: LL&PPDH bộ môn Lý luận Chính trị Mã số: 8140111
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: TS. Đồng Văn Quân
THÁI NGUYÊN - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này do bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn
khoa học của TS. Đồng Văn Quân - Giảng viên Khoa Giáo dục Chính trị - Trường
Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên. Các kết quả nghiên cứu được trình bày
trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Mọi thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2020
Tác giả
Triệu Văn Quân
i
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô
giáo khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã
truyền đạt những tri thức quý báu và dìu dắt, giúp đỡ tôi trong suốt khóa học.
Đặc biệt, xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới TS. Đồng Văn Quân đã tận tình
giúp đỡ trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hướng dẫn, đóng góp ý kiến quý
báu để tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các quý thầy, cô của Trung tâm Giáo
dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để
tôi có thế thực nghiệm đề tài này.
Xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi
trong suốt quả trình tôi theo học chương trình sau đại học.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2020
Tác giả
Triệu Văn Quân
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................. vi
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................ vii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của luận văn .............................................................................. 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 4
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ................................................................. 4
4. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 4
5. Giả thuyết khoa học ......................................................................................... 5
6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................... 5
7. Đóng góp mới của luận văn ............................................................................. 6
8. Kết cấu của luận văn ........................................................................................ 6
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP
THẢO LUẬN NHÓM VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG
DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH - ĐẠI
HỌC THÁI NGUYÊN .............................................................................. 7
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................... 7
1.1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài về sử dụng phương pháp thảo
luận nhóm, phương pháp đóng vai trong dạy học ....................................... 7
1.1.2. Các công trình trong nước về sử dụng phương pháp thảo luận nhóm,
phương pháp đóng vai trong dạy học ........................................................ 10
1.2. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................... 15
1.2.1. Khái niệm phương pháp, phương pháp dạy học...................................... 15
1.2.2. Khái niệm phương pháp thảo luận nhóm ................................................ 16
1.2.3. Khái niệm đóng vai và phương pháp đóng vai trong dạy học ................ 25
iii
1.2.4. Kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong
dạy học ....................................................................................................... 30
1.3. Cơ sở khoa học của việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ................. 34
1.3.1. Cơ sở tâm lý học ...................................................................................... 34
1.3.2. Cơ sở lý luận dạy học .............................................................................. 35
1.4. Sự cần thiết của việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ............ 38
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 42
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ QUY TRÌNH THIẾT KẾ BÀI GIẢNG
THEO HƯỚNG KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM VÀ
PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC
QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC
PHÒNG VÀ AN NINH - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ............................... 43
2.1. Thực trạng sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung
tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên .................. 43
2.1.1. Khái quát về Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học
Thái Nguyên .............................................................................................. 43
2.1.2. Khảo sát và đánh giá thực trạng việc kết hợp phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc
phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học
Thái Nguyên .............................................................................................. 46
2.1.3. Những vấn đề thực tiễn đặt ra khi kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an
ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái
Nguyên ....................................................................................................... 57
2.2. Quy trình thiết kế bài giảng môn Công tác quốc phòng, an ninh theo hướng
sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai ... 60
2.2.1. Các nguyên tắc xây dựng quy trình ......................................................... 60
iv
2.2.2. Xây dựng quy trình thiết kế bài giảng ........................................................ 64
2.2.3. Điều kiện để thực hiện quy trình tổ chức cho người học kết hợp phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai đạt hiệu quả ................... 75
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 81
Chương 3. THIẾT KẾ BÀI GIẢNG VÀ THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM .... 82
3.1. Thiết kế bài giảng theo quy trình kết hợp phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc
phòng, an ninh .......................................................................................... 82
3.1.1. Thiết kế bài giảng thực nghiệm số 1 ......................................................... 83
3.1.2. Thiết kế bài giảng thực nghiệm số 2 ......................................................... 94
3.2. Thực nghiệm sư phạm ............................................................................. 104
3.2.1. Giới thiệu khái quát về quá trình thực nghiệm ...................................... 104
3.2.2. Kết quả thực nghiệm .............................................................................. 107
3.2.3. Kết luận chung về thực nghiệm sư phạm .............................................. 110
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 112
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................... 113
1. Kết luận ........................................................................................................ 113
2. Kiến nghị ..................................................................................................... 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 116
PHỤ LỤC
v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTQP-AN : Công tác quốc phòng, an ninh
ĐHTN : Đại học Thái Nguyên
GDQP&AN : Giáo dục Quốc phòng và an ninh
: Giảng viên GV
: Người học NH
: Phương pháp dạy học PPDH
: Trang tr
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Quy mô người học ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh -
Đại học Thái Nguyên ................................................................................ 45
Bảng 2.2. Cơ cấu giảng viên giảng dạy môn Công tác quốc phòng, an ninh ở
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên
(năm học 2019 - 2020) .............................................................................. 45
Bảng 2.3: Cách hiểu của giảng viên Trung tâm về kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-
AN ................................................................................................... 49
Bảng 2.4: Phân chia mức độ nhận thức của giảng viên về vai trò của việc
kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai
đối với hiệu quả cho NH trong dạy học môn CTQP-AN ................ 50
Bảng 2.5: Thống kê về mức độ sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai của giảng viên trong dạy học môn
CTQP - AN tại Trung tâm ............................................................... 51
Bảng 2.6: Cách hiểu của người học về kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN tại Trung
tâm ................................................................................................... 55
Bảng 2.7: Mức độ nhận thức của người học về sự cần thiết của việc giảng
viên sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN ................................. 56
Bảng 2.8: Nhận thức của người học về mức độ sử dụng việc kết hợp phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai của giảng viên
trong dạy học môn CTQP - AN tại Trung tâm ............................... 57
Bảng 3.1: Kết quả kiểm tra 1 tiết của trung đội thực nghiệm và trung đội
đối chứng (lần 1) ........................................................................... 108
Bảng 3.2: Kết quả kiểm tra 1 tiết của trung đội thực nghiệm và trung đội
đối chứng (lần 2) ........................................................................... 109
vii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Đương thời, Chủ tịch Hổ Chí Minh đã căn dặn người giảng viên (GV) cần chú
ý “làm thế nào cho việc học tập thiết thực, vui vẻ, không câu nệ, hình thức, tuyệt
đối tránh cách nhồi sọ, lý luận và thực hành phải đi đôi với nhau” [21, tr34]. Người
còn nói “muốn học tập có kết quả phải có thái độ đúng và phương pháp đúng”. Nghị
quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế” cũng chỉ rõ: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ
đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm
thực hiện...” [9]. Như vậy, đổi mới phương pháp giảng dạy là một trong những vấn
đề cốt yếu của đổi mới giáo dục, nhất là giáo dục đại học hiện nay.
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh (GDQP&AN, gọi tắt là Trung tâm)
là một đơn vị trực thuộc Đại học Thái Nguyên, có nhiệm vụ đào tạo phần kiến thức
an ninh, quốc phòng cho sinh viên các cơ sở giáo dục đại học thành viên của Đại
học Thái Nguyên (ĐHTN), góp phần đắc lực vào quá trình hình thành năng lực,
phẩm chất của người học trong toàn Đại học. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chống lại những âm mưu, thủ đoạn
thâm độc của kẻ thù, Trung tâm phải đổi mới toàn diện quá trình đào tạo, đẩy mạnh
việc vận dụng phương pháp dạy học hiện đại, sát thực tế, phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo và bồi dưỡng năng lực tư duy, rèn luyện năng lực hoạt động thực
tiễn cho người học (NH). Tuy nhiên, chất lượng đào tạo tại Trung tâm hiện nay còn
thấp, tư duy độc lập, sáng tạo của người học còn yếu, phương pháp còn giản đơn,
nặng về truyền thụ lý thuyết nên cần nhanh chóng nâng cao chất lượng đào tạo.
Quá trình đào tạo của Trung tâm đang diễn ra trong bối cảnh thế giới có sự
phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, đặc biệt là khoa học công nghệ
thông tin. Hệ thống tri thức con người tìm ra trên tất cả các lĩnh vực ngày càng
nhiều, phong phú và đa dạng. Vì vậy, trong quá trình dạy học, nội dung tri thức cần
trang bị cho người học ngày càng tăng trong khi đó phương pháp dạy học (PPDH)
1
chậm đổi mới, chưa theo kịp sự đòi hỏi của thực tiễn. Với điều kiện đó Trung tâm
không thể trang bị cho người học mọi tri thức khoa học mà đòi hỏi người học phải
tự giác, tích cực, độc lập chiếm lĩnh tri thức một cách sáng tạo. Từ đòi hỏi của thực
tiễn thường xuyên biến đổi với những chiều hướng khác nhau nên thông tin nhanh
bị lạc hậu do vậy làm nảy sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa sự phát triển nhanh
chóng của nội dung dạy học với PPDH chưa kịp phát triển tương xứng. Xu hướng
giải quyết mâu thuẫn này là phải chuyển từ việc truyền thụ tri thức đơn thuần sang
rèn luyện phẩm chất trí tuệ, phát triển năng lực tư duy, bồi dưỡng kỹ năng nhận thức
cho người học.
Nếu chiến tranh xảy ra trong tương lai, thì đó là một cuộc chiến tranh sử dụng
vũ khí công nghệ cao có sự thay đổi về hình thức, thủ đoạn với tính chất phạm vi
rộng, tốc độ nhanh, sức huỷ diệt lớn không cho phép người chiến sĩ ngồi vắt óc suy
nghĩ trong những tình huống khó khăn nguy hiểm mà đòi hỏi họ phải có tư duy mau
lẹ, linh hoạt, sáng tạo. Bởi vậy, ngay trong quá trình đào tạo không những tạo lập
được kiến thức cơ bản làm nền tảng, phẩm chất đạo đức, năng lực quản lý, hoàn
thành nhiệm vụ bằng sự nhiệt tình, lòng dũng cảm mà còn phải bằng cả trí tuệ, tư
duy khoa học sáng tạo.
Việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy
học là nhằm kích thích tính tự chủ nhận thức của người học. Đây là yêu cầu xuất
phát từ tính hai mặt của quá trình dạy học. Trong quá trình này người học không chỉ
là đối tượng của quá trình giảng dạy, mà còn là chủ thể nhận thức. Do đó, người học
tiếp thu khối lượng và chất lượng tri thức như thế nào không chỉ phụ thuộc vào trình
độ của giảng viên mà còn phụ thuộc vào mức độ tham gia của họ vào hoạt động đó.
Nói cách khác, kết quả học tập của người học phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực
của họ.
Trong thời gian qua, Trung tâm đã phát động phong trào đổi mới quá trình dạy
học, đặc biệt là đổi mới PPDH, kết hợp phương pháp truyền thống với hiện đại, giữa
truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu và tổ chức hoạt động huấn luyện, nhờ đó đã tạo
ra những chuyển biến quan trọng trong việc phát huy tính tích cực nhận thức của
người học. Hiện nay đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu đổi mới PPDH nhằm
tìm ra những biện pháp, cách thức vận dụng hiệu quả các PPDH. Tuy nhiên, do đòi
2
hỏi của thực tiễn yêu cầu đào tạo ngày càng cao, việc kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai trong bài giảng môn Công tác quốc phòng, an
ninh (CTQP-AN) ở Trung tâm còn nhiều hạn chế. Giảng viên còn dạy học theo kiểu
truyền thống, thầy giảng trò tập trung nghe là chủ yếu, chưa đưa người học vào
những tình huống để rèn luyện tư duy sáng tạo. Người học phần lớn mang tính thụ
động, chưa tích cực, chưa sáng tạo. Mức độ kích thích sự tìm tòi khám phá tri thức
của người học chưa cao. Do đó, nghiên cứu bổ sung việc kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai để kích thích tính tích cực nhận thức của người
học một cách có hệ thống hiện vẫn đang là một yêu cầu có tính cấp thiết, góp phần
đáp ứng sự đòi hỏi của thực tiễn đào tạo hiện nay.
Đối với người học, là những người trẻ, khỏe, có trí sáng tạo, nhưng do thời
gian học tập rèn luyện, huấn luyện tại Trung tâm quá ngắn để người học tìm hiểu,
tạo mối quan hệ thân mật, cộng tác trong làm việc nhóm, nên trong quá trình học
tập, huấn luyện người học còn ngại phát biểu ý kiến và nói lên những chính kiến,
suy nghĩ của mình để trao đổi, thảo luận, nhất là khi gặp vấn đề khó. Do đó, khi
giảng viên đặt câu hỏi hay nêu vấn đề, người học thường không trả lời. Đây cũng là
một yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý e ngại, rụt rè của người học hoặc ít hợp tác, trao
đổi.
Về giáo trình dạy học, đối với môn CTQP-AN thường khô khan, trừu tượng,
nội dung giáo trình mang tính ổn định, ít thay đổi trong nhiều năm, bài học thường
kết cấu dài nên ảnh hưởng đến tâm lý giảng viên sợ cháy giáo án. Mặt khác, trong
nội dung bài lại có nhiều thuật ngữ chuyên ngành quân sự người học ít được tiếp
cận nên khó hiểu, buộc giảng viên phải dành nhiều thời gian để giảng giải, phân
tích.
Để khắc phục những khó khăn, hạn chế còn tồn tại, phát huy những yếu tố
thuận lợi nhằm nâng cao chất lượng huấn luyện ở Trung tâm cần phải có những giải
pháp ngang tầm. Việc đề xuất đổi mới PPDH cần được nghiên cứu và triển khai một
cách khoa học.
Xuất phát từ các lý do trên tôi chọn đề tài: “Kết hợp phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an
3
ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên” để
nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ thuộc chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy
học bộ môn Lý luận Chính trị.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN ở Trung tâm GDQP&AN, luận văn
tiến hành tổ chức thực nghiệm giảng dạy và đề xuất quy trình, biện pháp kết hợp
hai phương pháp này trong giảng dạy, nhằm kích thích tính tích cực nhận thức của
người học.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phù hợp với mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
Một là, nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận của việc kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai trong bài giảng môn CTQP-AN.
Hai là, nghiên cứu làm rõ thực trạng của việc sử dụng kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy, học môn CTQP-AN ở Trung tâm
GDQP&AN.
Ba là, đề xuất quy trình và các biện pháp kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai nhằm nâng cao chất lượng dạy, học môn CTQP-AN ở
Trung tâm GDQP&AN.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là quá trình dạy học môn CTQP-AN ở Trung tâm Giáo
dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là vận dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai trong quá trình dạy học môn CTQP-AN ở Trung tâm Giáo
dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
4. Phạm vi nghiên cứu
4
Các phương pháp kích thích tính tích cực nhận thức của người học gồm nhiều
phương pháp và có thể sử dụng trong nhiều hình thức tổ chức dạy học khác nhau,
phạm vi của đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai trong bài giảng môn CTQP-AN ở Trung tâm Giáo dục quốc
phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên năm học 2019 - 2020.
5. Giả thuyết khoa học
Trước yêu cầu đổi mới toàn diện sự nghiệp giáo dục đào tạo nói chung, quá
trình dạy học nói riêng, phải đổi mới nâng cao chất lượng vận dụng các PPDH là
đòi hỏi khách quan. Vì vậy, trong quá trình tiến hành bài giảng môn CTQP-AN ở
Trung tâm nếu thực hiện tốt việc xây dựng quy trình chuẩn bị và tiến hành bài giảng
môn CTQP-AN theo hướng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai để kích thích tính tích cực nhận thức; đa dạng các phương pháp dạy học,
nghiên cứu chuyển hoá các PPDH truyền thống thành phương pháp kích thích tính
tích cực nhận thức của người học; bảo đảm các điều kiện sư phạm thuận lợi cho quá
trình vận dụng phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai để kích thích
tính tích cực nhận thức thì sẽ nâng cao chất lượng dạy, học và phát triển được tư
duy sáng tạo của người học.
6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Về phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam; hệ thống phương pháp luận,
khoa học chuyên ngành, để tiếp cận đối tượng nghiên cứu và luận giải các nhiệm
vụ của đề tài.
6.2. Về phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã lựa chọn và sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
và thực tiễn sau đây:
Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái
quát hoá các tài liệu lý luận chuyên ngành, liên ngành để xây dựng cơ sở của vấn
đề nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: quan sát hoạt động dạy học, trưng cầu
5
ý kiến, phân tích và tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu sản phẩm giáo dục, xin ý kiến
chuyên gia...
Ngoài ra đề tài còn kế thừa thành tựu các công trình khoa học liên quan đến
đề tài của các nhà khoa học khác.
7. Đóng góp mới của luận văn
Góp phần phát triển lý luận về PPDH môn CTQP-AN ở các Trung tâm Giáo
dục quốc phòng và an ninh.
Đưa ra khái niệm kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng
vai trong bài giảng môn CTQP-AN.
Đề xuất quy trình và biện pháp nâng cao chất lượng kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai trong bài giảng môn CTQP-AN ở Trung tâm
Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
Làm tài liệu tham khảo cho các Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh
khác, học viên cao học chuyên ngành lý luận và phương pháp dạy học bộ môn lý
luận chính trị.
8. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm các phần: mở đầu, 3 chương với 8 tiết, kết luận và
kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP
THẢO LUẬN NHÓM VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG DẠY HỌC
MÔN CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC
QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài về sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm, phương pháp đóng vai trong dạy học
Việc nghiên cứu tìm ra những phương pháp dạy học thích hợp, khắc phục tính
một chiều của hình thức dạy học thuyết giảng nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học đã được đề cập từ rất lâu trong lịch sử giáo dục.
Trong đó, phương thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai là những phương
pháp dạy học đang được sử dụng khá rộng rãi trong các trường học. Nghiên cứu về
các phương pháp dạy học này đã có nhiều tác giả với nhiều công trình nghiên cứu
trên thế giới khác nhau. Cụ thể:
J.A.Kômenxki (1592 - 1670) nhà giáo dục vĩ đại Tiệp Khắc trên cơ sở thâu
tóm những kinh nghiệm quý báu của nhân loại từ thời cổ đại đến thế kỷ XVII và
ông đã kịch liệt phản đối PPDH giáo điều, kinh viện chỉ dựa vào sách vở mà nhồi
sọ, bắt học sinh học thuộc lòng. Ông kêu gọi hãy tìm ra PPDH cho phép giáo viên
dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn, học sinh phải mở mang tài năng của mình bằng
khả năng độc lập của họ. Ông yêu cầu giáo viên phải “kích thích” học sinh, nêu lên
những câu hỏi kích thích tính tích cực của người học và lôi cuốn họ vào công việc.
Ông cho rằng lựa chọn và sử dụng PPDH phải gây hứng thú tối đa cho cả hai bên,
nghĩa là phải phát huy cao độ vai trò chủ thể của cả người dạy và người học. Tuy
nhiên, ông luôn chủ trương xây dựng các PPDH kích thích tính tích cực của người
học. Ông viết: “Thật là khờ khạo khi nhà giáo không dạy theo khả năng tiếp thu của
học sinh mà lại theo ý muốn chủ quan của thầy. Sức vươn lên của tạo hóa muốn
được trợ lực chứ không bao giờ muốn bị dồn ép. Nhà giáo dục giống như người
thầy thuốc ở các chức năng đầy tớ chứ không phải các chức năng làm chủ tạo hoá”
[16, tr.61]. Từ việc tôn trọng vai trò chủ thể nhận thức của người học, Ông khái quát
7
thành nguyên tắc “tính tự giác và tích cực trong quá trình dạy học”. Ông đòi hỏi
người học phải mở mang tài năng của mình bằng khả năng độc lập của bản thân.
Các phương pháp dạy học như thảo luận nhóm đã được đưa ra để giáo viên áp dụng
khi phát huy tính tích cực cho người học.
Tác giả M.N Xcatkin (1965), Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học, Nxb Giáo dục. Trong cuốn sách này tác giả đã nêu ra các phương pháp dạy học để tích cực hóa hoạt động nhận thức cho học sinh. Phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai đều được coi là những phương pháp dạy học tích cực giúp phát huy tính chủ động, sáng tạo cho người học. Tuy nhiên, ở công trình này, tác giả chưa đề cập đến việc kết hợp các phương pháp dạy học nay như thế nào để phát huy tính hiệu quả của nó.
Tác giả B.P.Exipop (1977) trong hệ thống lý luận dạy học của mình, ông cho rằng tư tưởng về tính tích cực và tính độc lập của học sinh giữ vai trò quan trọng. Theo ông đó là sự phát triển tư duy độc lập trong công tác độc lập, tích cực của học sinh. Nó tạo ra “cơ sở duy nhất vững chắc cho mọi sự học tập có hiệu quả” [12, tr.45]. Ông cho rằng trong nhà trường không nên dồn tất cả tính tích cực trong công tác dạy học vào người giáo viên, còn NH thì lại thụ động, mà nên cố gắng sao cho bản thân học sinh tích cực ở mức độ cao nhất. Trong các phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực của người học mà ông đề cập đến, phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp mà giáo viên nên thường xuyên sử dụng để tăng tích tự giác, sự hợp tác giữa NH với nhau.
Tác giả Babanxki. Iu. K. (1981), Tích cực hóa quá trình dạy học, Nxb Cục đào tạo và bồi dưỡng. Ở cuốn sách này, tác giả đã chỉ ra mối tương tác giữa các yếu tố trong quá trình dạy học (dạy - nội dung - học). Muốn quá trình dạy học đạt hiệu quả, cần phải chú trọng đến tất cả các yếu tố này. Sử dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học để tăng sự tương tác giữa các yếu tố dạy học là điều cần thiết. Tác giả cũng đã nêu ra cách thức sử dụng các phương pháp dạy học như dạy học thảo luận nhóm để tăng cường sự tương tác giữa người học với người học nhằm tích cực hóa quá trình dạy học.
Robert Slavin (1995), “Dạy học theo nhóm nhỏ, lý thuyết nghiên cứu và thực hành” Nxb Giáo dục, Hà Nội. Trong cuốn sách này tác giả cũng đã đề cập đến dạy học theo nhóm nhỏ. Với hình thức dạy học nhóm nhỏ này, học viên sẽ cùng nhau làm việc trong các nhóm nhỏ để hoàn thành mục tiêu học tập chung đề ra. Đây là
8
phương pháp dạy học có thể được giảng viên sử dụng ở nhiều môn học khác nhau nhằm tăng tính chủ động cho NH.
Nhóm tác giả Robert J.Marzand, Debra J.Pickering, Jane E.Pollock (2011), “Các phương pháp dạy học hiệu quả” (Người dịch: Nguyễn Hồng Vân), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. Ở công trình nghiên cứu này, nhóm tác giả đã đặt ra vấn đề người giáo viên cần phải quan tâm đến việc người học như thế nào chứ không phải chỉ là dạy cái gì. Cho nên, mỗi phương pháp dạy học sẽ chỉ ra cho người giáo viên những cách làm cụ thể để thực hiện công tác giảng dạy hiệu quả nhất. Trong đó, nhóm tác giả cũng khẳng định phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai là các phương pháp dạy học hiệu quả cần được áp dụng vào quá trình dạy học một cách thường xuyên để nâng cao chất lượng giáo dục.
Tác giả Lê Thị Ngọc Thương đã biên dịch từ tài liệu “Role Play as a Teaching
Method: A Practical Guide” (Hướng dẫn thực hành: đóng vai như một phương pháp
dạy học) của tiến sĩ Kanokwan Manorom và Zoë Pollock. Trong công trình nghiên
cứu này, nhóm tác giả đã đánh giá cao vai trò của việc sử dụng phương pháp đóng
vai trong dạy học cho sinh viên vì nó rèn được các kỹ năng thực hành, kích thích
tích cực, chủ động của họ trong học tập. Theo nhóm tác giả: PPĐV góp phần nâng
cao sự hiểu biết nhiều hơn về sự phức tạp thực hành chuyên môn và cho phép sinh
viên phát triển kỹ năng để tham gia vào các cuộc đàm phán đa liên đới trong môi
trường có kiểm soát của lớp học. Đóng vai trong lớp học có thể được thực hiện bằng
nhiều cách, có thể gồm yếu tố trực tuyến hay tương tác mặt đối mặt.
Tác giả Bernd Meier, Nguyễn Văn Cường (2018), Lý luận dạy học hiện đại:
Cơ sở đổi mới mục tiêu, Nội dung và phương pháp dạy học, Nxb Đại học Sư
phạm. Cuốn sách đã nêu ra khái quát về phương pháp dạy học nhóm và phương
pháp đóng vai, khẳng định đây là những phương pháp sử dụng trong dạy học ở
nhiều môn học khác nhau nhằm phát huy tính tích cực của người học. Theo nhóm
tác giả: “Ưu điểm chính của dạy học nhóm là thông qua cộng tác làm việc trong
một nhiệm vụ học tập có thể phát triển tính tự lực, sáng tạo cũng như năng lực
xã hội, đặc biệt là khả năng cộng tác làm việc, thái độ đoàn kết của học sinh”
[2; tr.133]. Còn ưu điểm của phương pháp đóng vai là: “Phát triển năng lực giao
tiếp; phát triển khả năng đồng cảm; phát triển khả năng đánh giá; phát triển
lòng khoa dung; ý thức được quan điểm cá nhân; khắc phục được nhút nhát của
9
cá nhân khi đóng vai” [2; tr.145]. Tuy nhiên, ở các tác giả cũng chưa đưa ra cách
thức để kết hợp hai phương pháp này trong dạy học nhằm phát huy tính hiệu quả
của nó.
Những công trình nghiên cứu trên đây của các tác giả nước ngoài đã cho
thấy phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai đều là các phương
pháp dạy học phát huy tính tích cực cho NH. Những nội dung được nêu ra trong
các công trình nghiên cứu này sẽ là cơ sở quan trọng để tác giả luận văn kế thừa
và sử dụng để hoàn thành các mục đích, nhiệm vụ mà đề tài luận văn đã nêu ra.
1.1.2. Các công trình trong nước về sử dụng phương pháp thảo luận nhóm,
phương pháp đóng vai trong dạy học
Nhận thức được vai trò quan trọng của việc sử dụng các phương pháp dạy
học tích cực, kết hợp các phương pháp dạy học tích cực với nhau để kích thích
tính tích cực của người học trong quá trình dạy học và vận dụng tư tưởng Hổ Chí
Minh: “Về giảng dạy, tránh lối dạy nhồi sọ...Về học tập, tránh lối học vẹt” [21,
tr.319], “Không nên dạy thuộc lòng từng câu từng chữ”, “Tuyệt đối không nhắm
mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều”, “phải đào sâu suy nghĩ”, phải nêu cao
tác phong độc lập suy nghĩ chín chắn, kỹ càng, mạnh dạn đề xuất vấn đề thảo luận
cho thông suốt. Vì vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu lý luận dạy học đều có đề cập
đến việc nghiên cứu, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, kết hợp một số
phương pháp với nhau để phát huy tính tích cực nhận thức của người học và coi đó
như là một trong những điều kiện quyết định nhất để nâng cao chất lượng quá trình
dạy học.
Trong những năm gần đây, trên những phương tiện thông tin đại chúng trong
và ngoài quân đội như: báo chí, tạp chí, tài liệu... đã có nhiều bài viết, trao đổi về
việc sử dụng kết hợp các PPDH tích cực vào quá trình giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học của cả thầy và trò. Đặc biệt, nhiều nhà giáo đã mạnh dạn
đưa vấn đề sử dụng kết hợp các PPDH tích cực để kích thích tính tích cực nhận
thức của người học vào bài giảng, để thu hút sự chú ý của NH, khơi dậy ở họ niềm
say mê học hỏi, tìm tòi và phát huy khả năng sáng tạo của họ; giúp họ thoát khỏi
trạng thái căng thẳng, thái độ học tập thờ ơ, thiếu nghiêm túc trong học tập.
10
Trong đó việc kết hợp giữa phương pháp thảo luận nhóm với phương pháp
đóng vai cũng đang được nhiều giáo viên sử dụng vào quá trình dạy học. Tác giả
Vũ Thị Hồng Quế (2009), Quy trình kết hợp phương pháp đóng vai với thảo luận
nhóm trong dạy học môn đạo đức ở bậc tiểu học, Luận văn thạc sĩ Khoa học giáo
dục, Đại học Vinh. Tác giả đã khái quát về cơ sở lý luận về phương pháp đóng vai
và phương pháp thảo luận nhóm; xây dựng quy trình kết hợp phương pháp đóng vai
với thảo luận nhóm trong dạy học môn đạo đức cho học sinh tiểu học; thực nghiệm
sư phạm đối với quy trình nêu ra là khả thi, hiệu quả.
Theo tác giả Đặng Vũ Hoạt xu hướng cơ bản của đổi mới PPDH là “Tích cực
hoá hoạt động nhận thức của học sinh, cụ thể là huy động năng lực tư duy của học
sinh, lôi cuốn học sinh vào hoạt động, học sinh phải nắm được cách chiếm lĩnh tri
thức. Tích cực hoá hoạt động nhận thức thực chất là tôn trọng, phát huy vai trò chủ
thể của học sinh” [13, tr.77]. Ông quan niệm tính tích cực nhận thức của NH được
thể hiện ở chỗ trong học tập họ phải huy động cao các chức năng tâm lý, đặc biệt là
chức năng tư duy có liên quan đến nghề nghiệp tương lai của mình. Từ quan niệm
đó Ông đã giới thiệu một số PPDH mới đó là: phương pháp động não, phương pháp
tìm tòi khảo sát, phương pháp đóng vai, phương pháp xác định giá trị. Khi mà sử
dụng các phương pháp này một cách thuần thục, có sự kết hợp giữa các phương
pháp này với nhau sẽ đạt hiệu quả cao trong hoạt động dạy và học.
Tác giả Nguyễn Văn Cường (2005), Phát triển năng lực thông qua phương
pháp và phương tiện dạy học mới, Tài liệu hội thảo tập huấn, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Dự án phát triển giáo dục THPT, Hà Nội. Trong tài liệu này, tác giả cũng đã
bàn tới nội dung phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai, nêu ra khái
niệm, đặc điểm những ưu và nhược điểm của các phương pháp dạy học này. Theo
tác giả, khi giáo viên sử dụng kết hợp các phương dạy học với các phương tiện dạy
học hiện đại sẽ phát triển năng lực cho người học.
Tác giả Đinh Văn Đức, Dương Thị Thuý Nga (2011), Phương pháp dạy học
Giáo dục công dân ở trường THPT, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội. Ở công trình
nghiên cứu này, nhóm tác giả đã nêu ra các quan niệm về PPDH nói chung, PPDH
Giáo dục công dân nói riêng. Trong đó, các phương pháp đóng vai, thảo luận nhóm
đã được các tác giả trình bày khái quát về khái niệm, cách thực hiện, chỉ ra những
11
ưu điểm và nhược điểm của các PPDH này. Theo nhóm tác giả: “Phương pháp đóng
vai là phương pháp tổ chức cho người học thực hành, làm thử một số cách ứng xử
nào đó trong một tình huống giả định” [11; tr.170] Các giả cũng khẳng định không
có một PPDH nào là vạn năng, muốn quá trình dạy học đạt được hiệu quả giáo viên
nên căn cứ đối tượng dạy học, nội dung bài học để lựa chọn kết hợp các PPDH cho
phù hợp.
Tác giả Quang Dương đã trình bày 24 phương pháp và kỹ thuật nhóm, trong
đó có trình bày các phương pháp dạy học tích cực của người học như: Tấn công trí
não (Brain Storming); Thảo luận nhóm (Buzz section); Nghiên cứu trường hợp
(Case Study); Tọa đàm (Colioquy); Tiểu ban (Committee); Biểu diễn
(Demontration); Đóng vai (Role playing); Kịch ngắn (Skit)... Qua đó Ông cho rằng:
“việc dạy học theo nhóm là một bước trong sự chuyển đổi từ dạng học tập thể hoá
sang cá thể hoá, từ độc thoại sang đối thoại, từ làm việc của thầy sang làm việc của
trò từ áp đặt qua khích lệ sáng kiến cá nhân” [6, tr.39].
Bên cạnh đó, sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai
trong dạy học còn được trình bày trong các bài báo khoa học đăng trên tạp chí
chuyên ngành như: Tác giả Trần Duy Hưng (2000), Mô hình phương pháp dạy học
theo nhóm nhỏ”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 4, tr.9-10. Tác giả Ngô Thị Thu
Dung (2001), Mô hình tổ chức dạy học theo nhóm trong giờ học trên lớp, Tạp chí
Giáo dục, số 5, tr. 21-22. Nguyễn Thị Toan (2013), Vận dụng phương pháp thảo
luận nhóm trong dạy học môn GDCD ở phổ thông, Tạp chí Giáo dục, số 312, kì 2,
tháng 6/2013. Các bài viết này đều đưa ra những cách hiểu về dạy học nhóm, cách
chia nhóm cho phù hợp để phát huy được tính tích cực cho người học. Theo tác giả
Nguyễn Thị Toan: “Thảo luận nhóm là phương pháp dạy học tích cực được sử
dụng thường xuyên trong quá trình đổi mới PPDH hiện nay. Để khắc phục lối
truyền thụ tri thức một chiều, thụ động, máy móc, giáo viên cần biết cách sử dụng
phối hợp nhiều phương pháp truyền thống và hiện đại, trong đó có thảo luận nhóm”
[30; tr.37].
Bài viết “Đổi mới PPDH môn GDCD sau năm 2015 theo hướng phát triển
năng lực cho học sinh” của tác giả Lưu Thu Thủy (2013), Kỷ yếu Hội thảo Quốc
12
gia giáo dục đạo đức công dân, giáo dục phổ thông Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt
Nam. Trong bài viết này, tác giả nhận định: Đóng vai là một phương pháp dạy học
của môn GDCD, PPĐV sẽ giúp cho học sinh có năng lực giao tiếp, năng lực giải
quyết vấn đề, năng lực tư duy phê phán, năng lực sáng tạo [29; tr.378 - 382].
Ngoài ra, còn có các công trình luận văn, luận án cũng nghiên cứu về phương
pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai như: Tác giả Phạm Thị Minh Phúc
(2007), Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn giáo dục công
dân phần “Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội” ở trường THPT Đinh Tiên
Hoàng, Luận văn thạc sĩ Khoa học giáo dục, Hà Nội. Nguyễn Thị Hiệp (2012), Vận
dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học phần “công dân với đạo đức” môn
GDCD lớp 10 cho học sinh trường THPT Chu Văn An - Hà Nội, Luận văn thạc sĩ
Khoa học giáo dục, Hà Nội. Trần Thị Thơm (2016), Vận dụng phương pháp thảo
luận nhóm trong dạy học Giáo dục công dân lớp 10 ở các trường trung học phổ
thông huyện Phú Bình, Luận văn thạc sĩ Giáo dục học, Thái Nguyên. Nguyễn Thị
Ngọc Lan (2018), Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo
dục công dân ở trường Trung học phổ thông Hàm Long, thành phố Bắc Ninh, Luận
văn thạc sĩ Khoa học Giáo dục, Thái Nguyên…. Trần Thị Bích Ngọc (2017), Sử
dụng phương pháp đóng vai trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT
Lê Xoay huyện Vĩnh Tường, Luận văn thạc sĩ Khoa học giáo dục, Đại học Sư
phạm Hà Nội. Vũ Thị Bốn (2017), Vận dụng phương pháp đóng vai trong dạy
học phần Công dân với pháp luật ở trường THPT Lương Tài 2, Luận văn thạc sĩ
Khoa học giáo dục, Đại học Sư phạm Hà Nội. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2017),
Sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học môn GDCD ở các trường THPT
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Khoa học giáo dục, Đại học Sư
phạm Thái Nguyên... Các công trình nghiên cứu này đều đã khái quát cơ sở lý
luận và thực tiễn của phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai trong
dạy học; chỉ ra sự cần thiết của việc sử dụng các phương pháp này trong dạy học
nói chung, môn GDCD nói riêng; xây dựng quy trình và tiến hành thực nghiệm
sư phạm đối với quy trình đã xây dựng để chứng minh tính hiệu quả và khả thi
13
của quy trình góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo
dục.
Thời gian gần đây ở các Học viện, Nhà trường trong quân đội, các Trung tâm
Giáo dục quốc phòng và an ninh cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu về PPDH
nói chung, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai nói riêng có liên
quan đến đề tài. Trong các công trình đó phải nói đến đề tài “Đổi mới PPDH trong
các trường đại học quân sự” đã giới thiệu các phương pháp đó là: Dạy học nêu vấn
đề, phương pháp đóng vai - mô hình hoá, phương pháp tổ chức tự học của NH, các
PPDH thông qua tập thể NH. Trong các giáo trình giáo dục học quân sự những năm
gần đây cũng đã đưa ra một số phương pháp kích thích tính tích cực nhận thức như:
Khởi động trí tuệ; Đối thoại, tranh luận; Đóng vai nhận thức; Graph dạy học; Trắc
nghiệm sư phạm (Test); Dạy học hợp tác.
Thông qua một số đề tài, các tác giả cũng đã rút ra những kết luận khá quan
trọng về thực trạng cải tiến PPDH ở đại học đó là: PPDH ở nước ta hiện nay còn nặng
về thuyết trình, nhẹ về rèn luyện nghề nghiệp chuyên môn, và kỹ năng tay nghề. Chủ
yếu là GV độc thoại chưa phát huy được tính độc lập, tính tự chủ của người học, chưa
chú ý nhiều đến hướng dẫn người học tự học, tự nghiên cứu. Chưa phát huy được tính
dân chủ trong quá trình dạy học. Chưa tạo điều kiện cho người học tự điều chỉnh để
nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện phương pháp tác phong tự học tự nghiên cứu
một cách sáng tạo. Chưa chú ý sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong dạy
học. Chưa mở rộng việc nghiên cứu học tập và vận dụng sáng tạo các PPDH hiện đại
của một số nước tiên tiến trên thế giới.
Nhìn chung ngày càng có nhiều người quan tâm nghiên cứu về PPDH theo
hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của người học. Tuy nhiên, qua xem xét cho
thấy còn rất ít công trình đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống, cơ bản về kết hợp
các phương pháp trong bài giảng môn CTQP-AN trong quá trình đào tạo ở các
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh. Đặc biệt ở Trung tâm Giáo dục quốc
phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên từ trước đến nay hoàn toàn chưa có một
tác giả nào nghiên cứu về vấn đề này. Vì vậy, để góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo trong tình hình mới đòi hỏi phải có một công trình nghiên cứu tìm ra một số biện
pháp vận dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong
14
dạy học môn CTQP-AN ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học
Thái Nguyên.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm phương pháp, phương pháp dạy học
Trong quá trình nhận thức và trong hoạt động thực tiễn, con người luôn tìm
cách làm cho hoạt động của mình ngày càng có hiệu quả cao. Điều này dẫn đến sự
hình thành phương pháp trong cuộc sống. Con người muốn nhận thức đúng bản chất
của sự vật, tiếp cận với sự vật, khám phá thuộc tính của sự vật để khái quát ra lý
luận về sự vật thì cần phải có phương pháp.
Thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Methodos” có nghĩa là:
con đường, cách thức hoạt động nhằm đạt được mục đích. "Phương pháp theo nghĩa
chung nhất là cách thức đạt tới mục tiêu, là hoạt động được sắp xếp theo một trật
tự nhất định" [31, tr.458].
Theo Ph.Bêcơn phương pháp như “Sợi chỉ cần thiết dẫn đường”. Còn
R.Đềcactơ lại đưa ra nhận định: Thiếu phương pháp thì người tài cũng lỗi, có
phương pháp thì người tầm thường cũng làm được việc phi thường.
Hêghen (1770 - 1881) là đại biểu vĩ đại nhất của triết học cổ điển Đức cho rằng:
Phương pháp là ý thức về hình thức của sự tự vận động bên trong của nội dung.
Theo Ju.k.Babansky: "Phương pháp dạy học là những cách thức hoạt động tương
tác được điểu chỉnh của giáo viên và học sinh hướng vào việc giải quyết các nhiệm vụ
giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong quá trình dạy học" [1; tr.88].
Cũng như các quan điểm trên, tác giả Phan Thị Hồng Vinh quan niệm về
phương pháp dạy học “là cách thức hoạt động phối hợp thống nhất của giáo viên
và học sinh trong quá trình dạy học được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của giáo
viên nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và các nhiệm vụ dạy học” [33; tr.204].
Tác giả Phan Trọng Ngọ lại khẳng định: "Định nghĩa chung về phương pháp
là những con đường, cách thức để tiến hành hoạt động dạy học" [24; tr.145].
Tác giả Phạm Viết Vượng với cách hiểu “phương pháp dạy học là tổng hợp các
cách thức hoạt động phối hợp của giáo viên và học sinh, trong đó phương pháp dạy
chỉ đạo phương pháp học, nhằm giúp học sinh chiếm lĩnh hệ thống kiến thức khoa học
và hình thành hệ thống kỹ năng, kỹ xảo thực hành sáng tạo” [34; tr tr..102-103].
15
Từ điển Bách khoa định nghĩa: "Phương pháp là cách thức, con đường,
phương tiện để đạt tới mục đích nhất định, để giải quyết những nhiệm vụ nhất định
trong nhận thức và trong thực tiễn" [31; tr.87].
Tuy được đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung khi nói tới
phương pháp các nhà khoa học, nhà giáo dục đều cho rằng phương pháp là cách
thức, là con đường, là phương tiện để đạt được mục đích. Phương pháp bắt nguồn
từ thực tiễn, phản ánh những quy luật khách quan của đối tượng nghiên cứu. Sức
mạnh của phương pháp trong điều kiện phản ánh đúng quy luật khách quan sẽ đem
lại cho khoa học và thực tiễn một công cụ hiệu quả nhất để nghiên cứu và cải tạo
thế giới.
Trong quá trình giáo dục và dạy học rất cần có phương pháp. Phương pháp
giúp người học bằng sự nỗ lực cố gắng của bản thân, dưới sự hướng dẫn của GV
chiếm lĩnh được kiến thức bằng con đường ngắn nhất. Vì thế, ở bất cứ nhà trường
nào, người GV nào cũng mong muốn tìm được những phương pháp dạy học tối ưu,
hiệu quả nhất đối với NH. Có phương pháp tốt quá trình truyền đạt và lĩnh hội tri
thức đạt hiệu quả cao, phương pháp không phù hợp sẽ khiến NH không hiểu bài,
không hứng thú vào bài học.
Như vậy, mỗi nhà khoa học với những cách tiếp cận khác nhau đã đưa ra nhiều
quan điểm, khái niệm về phương pháp dạy học. Song, trong các quan điểm của các
nhà khoa học chúng ta đều thấy có sự thống nhất rằng: Phương pháp dạy học là tổng
hợp các cách thức hoạt động của giảng viên và người học nhằm thực hiện tốt nhiệm
vụ dạy học.
1.2.2. Khái niệm phương pháp thảo luận nhóm
Nhóm (group) là tập hợp những cá thể được hình thành theo những nguyên tắc
nhất định để thực hiện nhiệm vụ nào đó trong khoảng thời gian xác định. Giữa các
thành viên trong nhóm luôn có sự tương tác lẫn nhau trong quá trình thực hiện hoạt
động chung của nhóm. Theo đó, nhóm được đặc trưng bởi số lượng người, bởi sự
tương tác giữa các thành viên.
“Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dạy học trong đó lớp học được
chia thành các nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều được làm việc, được
16
bàn bạc, trao đổi về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung của nhóm mình về
vấn đề đó” [11, tr.163].
Trong phương pháp thảo luận nhóm “đòi hỏi mỗi thành viên phải tự lực suy
nghĩ, tích cực và chủ động trao đổi ỷ tưởng để đưa đến quan điểm thống nhất của
cả nhóm, từ đó hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công, hợp tác làm
việc và kết quả làm việc của cả nhóm sau đó được trình bày, đánh giá trước toàn
lớp” [2, tr.128].
Thông qua sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, NH được trực tiếp trao đổi
với nhau về nhận thức, quan điểm của bản thân để làm rõ một vấn đề nào đó hoặc
tham gia góp những ý tưởng làm giàu thêm kiến thức về các nội dung phù hợp với
hoạt động học. Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm là lấy mối quan hệ tác động
qua lại giữa NH với NH làm trung tâm của quá trình dạy học dưới sự chỉ đạo, hướng
dẫn của GV nhằm mục đích phát triển tri thức, kỹ năng và thái độ tích cực đặc biệt
là kĩ năng hợp tác, làm việc theo nhóm.
Thảo luận nhóm thường được áp dụng để đi sâu vào vận dụng vào luyện tập,
củng cố một chủ đề đã học, nhưng cũng có thể để tìm hiểu một chủ đề mới. Nhiệm
vụ của các nhóm tham gia thảo luận có thể giống nhau hoặc mỗi nhóm thảo luận
nhận một nhiệm vụ khác nhau thuộc nội dung trong một bài giảng.
Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để bảo đảm nguyên tắc cá biệt, vừa đáp
ứng được tính phổ biến trong dạy học, GV có thể chia nhóm theo nhiều tiêu chí
khác nhau. Mỗi tiêu chí có những ưu và nhược điểm riêng. Do đó, về mặt phương
pháp luận không nên tuyệt đối hóa hay áp dụng một tiêu chí duy nhất trong cả bài
giảng.
Một là, sử dụng cách chia nhóm ngẫu nhiên: Ở hình thức này, GV có thể chia
nhóm theo bàn hoặc chia theo tổ hoặc gắp thăm. Đây là cách chia khi không cần có
sự phân biệt về trình độ của NH. Tất cả NH đều phải hoạt động để giải quyết những
vấn để được đặt ra. Nhiệm vụ được giao không có sự khác nhau nhiều về nội dung,
có chung một yêu cầu và ít có sự chênh lệch về trình độ khó.
Hai là, sử dụng cách chia nhóm theo sở trường: Đối với cách chia này thường
được sử dụng trong các giờ thực hiện ngoại khóa, khi đó mỗi nhóm sẽ gồm những
17
NH có chung hứng thú, chung sở trường. Theo cách chia nhóm này một mặt vừa
dễ tạo hứng thú cho NH nhưng cũng dễ tạo ra sự cách biệt nếu thường xuyên duy
trì hình thức này.
Ba là, sử dụng cách chia nhóm theo cùng một trình độ: Khi thực hiện theo
cách chia này có thể phân hóa NH về trình độ bởi mức độ khó, dễ của nội dung bài
giảng cho từng đối tượng có trình độ giỏi, khá, trung bình, yếu của NH. GV cần có
những yêu cầu cụ thể hơn đối với từng nhóm thảo luận trong việc giải quyết cùng
một nhiệm vụ nghiên cứu, GV có thể có những yêu cầu cao hơn với nhóm giỏi, khá
và gợi ý cho nhóm ở mức độ trung bình và yếu. Như vậy, khi sử dụng cách chia này
sẽ kích thích được hứng thú học tập trong lớp, NH sẽ tự tích cực, chủ động và tự
giác hơn theo sự hướng dẫn, điều khiển tổ chức thảo luận nhóm của GV. Một điều
cần lưu ý ở đây khi áp dụng cách chia này là GV phải nắm chắc trình độ của mỗi
đối tượng NH để chia sao cho đúng trình độ, nếu không sẽ không đạt được mục
đích, yêu cầu đặt ra.
Bốn là, sử dụng cách chia nhóm gồm đủ trình độ: Theo cách chia nhóm này,
việc xác định vai trò của trưởng nhóm là rất quan trọng. Cách chia này thường được
sử dụng khi cần có sự hỗ trợ lẫn nhau theo yêu cầu của nội dung bài giảng.
Như vậy, có nhiều cách chia nhóm khác nhau, mỗi cách có một ưu điểm riêng.
Do đó, trước khi quyết định việc chia nhóm GV cần cân nhắc dựa vào mục tiêu bài
giảng, vị trí và sở trường của từng NH.
Trên thực tế, có rất nhiều hình thức tổ chức thảo luận theo nhóm, hiệu quả của
mỗi hình thức tuỳ thuộc vào ý đồ và tính chất sử dụng của GV. Dưới đây là một số
hình thức thảo luận nhóm trong dạy học môn CTQP-AN ở trung tâm GDQP&AN
Đại học Thái Nguyên.
+ Chia theo nhóm nhỏ thông thường
Theo cách chia này, GV chia lớp học thành các nhóm nhỏ (từ 5-7 thành viên)
để tổ chức thảo luận một vấn đề cụ thể và nhanh chóng đưa ra kết luận tập thể về
vấn đề đó. Hình thức này thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp dạy
học khác trong một bài giảng, một tiết học, nội dung thảo luận của nhóm nhỏ thông
thường là các vấn đề có thời gian ngắn, thời lượng ít (từ 5 - 7 phút).
+ Chia theo nhóm nhỏ rì rầm
18
Đối với cách chia này, GV chia lớp thành các nhóm “cực nhỏ” từ 2-3 thành
viên (thường là cùng một bàn) để trao đổi (rì rầm) và thống nhất trả lời một câu hỏi,
giải quyết một vấn đề, nêu một ý tưởng, một quan điểm... Với hình thức này, GV
cần cung cấp đầy đủ, chính xác các dữ kiện, gợi ý và nêu rõ yêu cầu đối với các câu
trả lời để các thành viên tập trung vào giải quyết vấn đề.
+ Chia theo nhóm kim tự tháp
Đây là hình thức mở rộng của nhóm thảo luận rì rầm, sau khi thảo luận nhóm
theo cặp như vậy (nhóm rì rầm) các nhóm (2-3 nhóm rì rầm) kết hợp thành một
nhóm thảo luận lớn hơn để hoàn thiện một vấn đề chung, nếu cần thiết có thể kết
hợp nhóm này thành những nhóm thảo luận lớn hơn (8-16 thành viên).
+ Chia theo nhóm đồng tâm
Đối với cách chia này, Giảng viên chia lớp thành hai nhóm: một nhóm thảo
luận và một nhóm quan sát (sau đó hoán đổi cho nhau). Nhóm thảo luận là nhóm
nhỏ ( 6 - 8 thành viên) có nhiệm vụ thảo luận, trình bày vấn đề được giao, số NH còn
lại đóng vai trò là người quan sát và phản biện. Hình thức sử dụng nhóm thảo luận
này rất có hiệu quả đối với việc dạy học các nội dung tri thức có tính khái quát, trừu
tượng của môn CTQP-AN, từ đó góp phần làm tăng ý thức, trách nhiệm của mỗi
NH đồng thời tạo động cơ cho những cá nhân nhút nhát, ngại trình bày ý tưởng của
mình trước tập thể.
Khi tiến hành thảo luận nhóm, cần đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
Một là, tổ chức nhóm thảo luận có thể lớn hoặc nhỏ, tuỳ theo nội dung thảo
luận. Tuy nhiên tổ chức thành nhóm thảo luận từ 6 - 8 thành viên là tốt nhất, vì số
thành viên như vậy vừa đủ nhỏ để đảm bảo tất cả các thành viên có thể tham gia ý
kiến của bản than và cũng vừa đủ lớn để đảm bảo rằng NH có thể trao đổi quan
điểm, ý kiến của mình về nội dung thảo luận.
Hai là, chia nội dung bài giảng thành những vấn đề nhỏ có mối liên hệ với
nhau. Mỗi vấn đề nhỏ là một nội dung thảo luận.
Ba là, mỗi nhóm thảo luận phải có một nhóm trưởng để điều khiển, duy trì
hoạt động của nhóm và có thư ký để ghi chép đầy đủ các ý kiến trong quá trình thảo
luận nhóm.
19
Bốn là, tại một thời điểm có thể giao cho nhiều nhóm cùng thảo luận một nội
dung, nhưng cũng có thể giao cho mỗi nhóm một nội dung, sự liên kết giữa các nhóm
sẽ tạo ra sự thống nhất chung của bài giảng. Tùy theo mục tiêu bài giảng, GV có thể
kết hợp các cách theo những mức độ nhất định để đảm bảo tính phù hợp.
Năm là, các sản phẩm của cá nhân hay nhóm thảo luận được thể hiện trên các
sản phẩm thảo luận như: Bảng tài liệu, mô hình hay các bản báo cáo. Sản phẩm đó
phải được trình bày trước lớp hoặc nhóm trong lớp để mọi người góp ý, nhận xét.
Sáu là, cần đảm bảo phải có thông tin, phản hồi từ các nhóm khác. Trong quá
trình các nhóm thảo luận, GV cần kiểm tra việc ghi chép của thư ký, quan sát để
nắm bắt được thái độ và mức độ tích cực của NH khi tham gia thảo luận.
Bảy là, khi kết thúc việc thảo luận nhóm, GV cần có nhận xét, đánh giá, tổng
hợp ý kiến, đưa ra kết luận cuối cùng về vấn đề thảo luận, thực hiện công tác cố vấn,
trọng tài và kịp thời khen ngợi, khích lệ đối với những nhóm, những cá nhân làm tốt.
Tám là, khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm cần xác định cụ thể hoạt
động của GV và NH.
Hoạt động của giảng viên
Giảng viên thiết kế các nhiệm vụ, các tình huống thảo luận cho NH.
Nội dung bài giảng phải được GV thiết kế thành các nhiệm vụ học tập. Các
nhiệm vụ học tập phải kích thích NH có nhu cầu làm việc nhóm, có sự hợp tác, hỗ
trợ, giúp đỡ, chia sẻ và phối hợp để hoàn thành nhiệm vụ. Do vậy, quá trình này đòi
hỏi người GV phải có tri thức sâu rộng, có kĩ năng thiết kế nhiệm vụ, có nghệ thuật
sư phạm, tạo môi trường hợp tác và kích thích nhu cầu ham muốn giải quyết vấn đề
của NH.
Trong quá trình thiết kế nhiệm vụ, GV phải dự đoán được trước những khó
khăn và vướng mắc của NH có thể gặp phải trong quá trình giải quyết nhiệm vụ; dự
đoán được các kĩ năng hiện có của NH để giao nhiệm vụ phù hợp và kích thích sự
phát triển; xác định nhiệm vụ sẽ đồng nhất hay khác nhau giữa các nhóm; dự kiến
thời gian hoàn thành nhiệm vụ và phương thức tổ chức hoạt động của NH để có thể
hoàn thành nhiệm vụ.
20
Nghiên cứu cách thức chia nhóm và phân chia vai trò của các thành viên trong
nhóm:
Giảng viên cần phải chia đều về số lượng và năng lực làm việc giữa các nhóm
thảo luận. Nếu vấn đề đặt ra trong bài giảng không nhiều, GV có thể cho hai nhóm
cùng thảo luận một vấn đề. Nhưng sau đó GV có thể linh hoạt cho một nhóm báo
cáo kết quả đã thảo luận, còn nhóm kia đặt ra câu hỏi phản biện về vấn đề đó.
Sau khi phân chia thành các nhóm thảo luận, GV có thể hướng dẫn NH phân
chia vai trò của các thành viên trong nhóm, đảm bảo mỗi thành viên trong nhóm
thảo luận đều được phân công nhiệm vụ rõ ràng.
Nhiệm vụ của các thành viên trong một nhóm có thể bao gồm:
Trưởng nhóm, là người giữ vai trò điều khiển nhóm thảo luận và có nhiệm vụ
hướng dẫn các thành viên tham gia vào hoạt động, giải thích rõ nhiệm vụ hoạt động
của nhóm; tóm tắt nội dung thảo luận, kiểm tra lại xem mọi thành viên đã hiểu vấn
đề chưa; thống nhất ý kiến của nhóm; giải quyết các “mâu thuẫn” trong quá trình
hoạt động thảo luận nhóm. Với vai trò này, GV cần chọn NH có nhiều năng lực hơn,
đặc biệt là năng lực quản lý nhóm, giám sát và hướng dẫn các thành viên khác trong
nhóm thảo luận.
Thư kí, là người giữ vai trò ghi chép mọi ý kiến của các thành viên trong nhóm,
biên tập và tóm tắt các ý kiến của các thành viên trong nhóm.
Người báo cáo sẽ thay mặt nhóm báo cáo kết quả thảo luận.
Vai trò của các thành viên trong nhóm thảo luận cũng thường xuyên được thay
đổi, NH cần được luân phiên nhau làm nhóm trưởng hoặc thư kí, luân phiên nhau
đại diện cho nhóm trình bày báo cáo kết quả sau quá trình thảo luận.
Bố trí không gian lớp học
Cách bố trí không gian lớp học cũng có sức ảnh hưởng lớn đến dạy học theo
phương pháp thảo luận nhóm. Nét sáng tạo trong dạy học phát triển kĩ năng cho
NH là GV xắp xếp, bố trí lại không gian lớp học, giúp cho NH mặt đối mặt, tích
cực hợp tác nhằm hoàn thành nhiệm vụ học tập, thuận lợi cho GV đi lại kiểm tra
21
giám sát; thuận lợi cho việc di chuyển nhóm thảo luận theo chiến lược dạy học của
GV.
Sử dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học trong thảo luận nhóm
Phương pháp dạy học cần được vận dụng linh hoạt, ở đó cần sự kết hợp hài
hòa giữa thảo luận nhóm với các phương pháp dạy học khác như nêu vấn đề, thuyết
trình, vận dụng tình huống, đàm thoại... Kết hợp các phương pháp dạy học đó như
thế nào, ở mức độ nào, cần phải dựa trên mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, đối tượng
và điều kiện thực tế của dạy học.
Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm cũng đòi hỏi GV phải lựa chọn đa dạng
hóa các kỹ thuật dạy học nhằm tạo ra sự tương tác giữa NH với NH, tổ chức, điều
khiển, cố vấn, giúp đỡ NH trong quá trình thảo luận nhóm.
Trong quá trình sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, GV luôn phải thay đổi
vai trò của bản thân mình, lúc là người hợp tác, có khi là người cổ vũ, người động
viên, người quan sát những hoạt động của NH... GV càng đi sâu vào nhiều hoạt
động của NH thì càng đưa ra được nhiều chỉ đạo thích đáng để NH thảo luận nhóm
đúng nội dung bài học. GV cũng không nên can dự quá nhiều vào quá trình thảo
luận nhóm của NH, cũng không thể khoanh tay đứng nhìn đối với những khó khăn
và nghi vấn của NH mắc phải. Với tư cách là người điều khiển, nhiệm vụ của GV
là xây dựng một bầu không khí lớp học hài hoà, thoải mái, hoạt động nhịp nhàng,
tạo nên hứng thú học tập cho NH. GV cần khống chế thời gian thảo luận của NH
thật khoa học để quá trình thảo luận không diễn ra chậm chạp, cũng không diễn ra
quá nhanh theo kiểu chiếu lệ hình thức.
Hoạt động của người học
Phương pháp thảo luận nhóm không chỉ coi trọng tác động qua lại giữa thầy
và trò, mà nổi bật là coi trọng sự tương tác giữa NH với NH. Khi tổ chức thảo luận
nhóm NH không phải làm việc một mình mà luôn hoạt động trong một nhóm cụ thể
gồm có nhiều thành viên khác nhau. Chính vì vậy, điều này đòi hỏi tính cộng tác,
tính sẵn sàng chung sức, tích tích cực trong trao đổi, thảo luận đi đến thống nhất ý
kiến trong nội dung bài học; trong nhận xét, đánh giá, đóng góp, bổ sung kiến thức
để hoàn thành nhiệm vụ học tập dưới sự hướng dẫn, điều khiển, cố vấn của GV.
22
Tuy nhiên, để thực hiện được quá trình thảo luận nhóm được tốt yêu cầu đặt
ra là NH phải nắm được nguyên tắc làm việc theo nhóm, phân công nhiệm vụ cụ
thể đến từng thành viên trong nhóm, phù hợp với năng lực của từng thành viên, biết
lên kế hoạch hoạt động và dự kiến hoàn thành sản phẩm của nhóm... Mỗi thành viên
trong nhóm phải nhận thức rõ ràng nhiệm vụ của mình, tích cực suy nghĩ và tìm tòi
để giải quyết các vấn đề mà GV giao cho. Mỗi thành viên phải có trách nhiệm tương
trợ, giúp đỡ, động viên, khuyến khích cũng như nhắc nhở các thành viên khác trong
nhóm hoàn thành nhiệm vụ đúng thời gian quy định, đủ nội dung theo yêu cầu để
hưởng thành quả chung của nhóm.
Người học phải nhận thức được sản phẩm của nhóm là sự nỗ lực tổng hợp của
tất cả các thành viên và kết quả sau khi thảo luận là tất cả các thành viên trong nhóm
đều phải có khả năng hiểu, nắm vững nội dung kiến thức, kĩ năng mà nhiệm vụ học
tập đề ra.
Chín là, kiểm tra, đánh giá
Sau khi kết thúc hoạt động thảo luận nhóm, GV phải tổ chức cho NH thực
hành báo cáo kết quả mình vừa thảo luận và tổng kết rút kinh nghiệm, đồng thời
đóng vai trò là người nhận xét, đánh giá. GV có thể thực hiện nhiều phương thức
đánh giá khác nhau để khắc phục được tình trạng chỉ quan tâm đến nhóm mà không
chú ý từng NH, chỉ quan tâm kết quả học tập mà không chú ý sự tiến bộ của từng
thành viên. Kiểm tra đánh giá là quá trình động viên khuyến khích kịp thời những
thành viên tích cực trong hoạt động thảo luận nhóm, đồng thời lưu ý quan tâm đến
những thành viên có năng lực yếu để NH có thêm lòng tự tin hoàn thành nhiệm
vụ.
* Ưu điểm của phương pháp thảo luận nhóm
Qua nghiên cứu của các nhà giáo dục thì dạy học bằng phương pháp thảo luận
nhóm có một số ưu điềm như:
Học theo nhóm bao giờ cũng sôi nổi, phát huy được tính tích cực, tinh thần
trách nhiệm của NH; tạo cơ hội thuận lợi cho mọi thành viên trong nhóm được bộc
lộ quan điểm và hiểu biết của mình về nội dung và phương pháp học tập; giúp NH
có nhiều cơ hội rèn luyện khả năng diễn đạt cách thức tư duy và ý tưởng; tăng cường
sự tự tin cho NH; tạo cơ hội để các thành viên trong lớp học trao đổi, làm quen, hợp
23
tác, học hỏi lẫn nhau góp phần làm tăng bầu không khí tin cậy, hiểu biết, đoàn kết
và thân thiện giữa các thành viên; tạo yếu tố kích thích thi đua giữa các thành viên
trong nhóm, đặc biệt là các chủ đề có tính sáng tạo cao; hình thành phương pháp tự
học, trình bày vấn đề cho NH; tạo nhiều cơ hội cho GV có thông tin phản hồi về
NH, để cả người dạy và người học bổ sung, rút kinh nghiệm về những gì mình còn
thiếu, tạo cơ hội cho NH tự đánh giá bản thân và bạn cùng lớp dựa trên các tiêu chí
được đề ra theo nhiệm vụ, yêu cầu, kiến thức của bài học. Việc đánh giá của GV
với NH diễn ra trong cả quá trình học tập chứ không chỉ một bài kiểm tra như trước
đây. Đây là một PPDH tích cực để hình thành và rèn luyện các kinh nghiệm nghiên
cứu, kinh nghiệm học tập cho NH khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường và cả sau
này khi các em bắt đầu công việc và tham gia các hoạt động xã hội khác.
* Hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp thảo luận nhóm nhiều ưu điểm nhưng cũng có những hạn chế
nhất định, đó là:
Giảng viên và NH cần đầu tư nhiều công sức từ khâu chuẩn bị đến thực hiện,
NH phải nghiên cứu tài liệu và những vấn đề liên quan trước khi tới lớp. GV phải
có khả năng chuyển được những nội dung tri thức trong giáo trình, tài liệu thành
những tri thức dạy học dưới dạng tình huống có vấn đề. Điều này không hề đơn giản
với mọi GV và mọi bài học; lớp học đông khi áp dụng phương pháp thảo luận nhóm
sẽ có nhiều trở ngại; tốn nhiều thời gian cho cả GV và NH; đặc biệt, hiện nay chương
trình học tập ở bậc đại học NH học theo tín chỉ, số lượng NH trong một giảng đường
rất đông, việc chia nhóm và quan sát nhóm rất phức tạp, dẫn đến chưa phát huy hết
hiệu quả tích cực của PPDH này. Việc phân chia và quản lý nhóm không hợp lý sẽ
dẫn đến tình trạng nhiệm vụ của nhóm chỉ tập trung vào một số NH chủ động, tích
cực. Khi nghiên cứu về hình thức dạy học này cần chú ý đến đặc trưng cơ bản của
thảo luận nhóm trong dạy học ở đại học.
Thứ nhất là thảo luận nhóm phải có chủ đề khoa học nhất định để các nhóm căn
cứ vào đó mà trình bày báo cáo, thảo luận, tranh luận.
Thứ hai là trước khi tổ chức thảo luận nhóm phải có sự chuẩn bị cẩn thận cả về
phía GV và NH, trong đó sự chuẩn bị kỹ lưỡng của nhóm NH là đặc biệt cần thiết.
24
Thứ ba là trong quá trình tố chức thảo luận nhóm phải có GV trực tiếp hướng
dẫn, điều khiển để thảo luận nhóm diễn ra đúng hướng và đạt được mục tiêu đề ra.
1.2.3. Khái niệm đóng vai và phương pháp đóng vai trong dạy học
Trong Từ điển Tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê, “đóng vai là thể hiện nhân
vật trong kịch bản lên sân khấu hay màn ảnh bằng hành động, nói năng như thật.
Khi một vấn đề, một chủ đề nào đó trong cuộc sống hiện thực được xây dựng thành
một vở kịch thì được gọi là kịch bản, nhưng để thể hiện được nội dung kịch bản đó,
người diễn viên phải đảm nhận sắm vai một nhân vật và biểu diễn vai đó, quá trình
đó được gọi là đóng vai” [25; tr.337]. Với quan niệm này của tác giả Hoàng Phê,
đóng vai chính là việc hóa thân của mình vào các nhân vật, trong các tình huống cụ
thể theo một kịch bản nhất định đã được xây dựng.
Trong giáo dục, cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau về đóng vai và phương
pháp đóng vai. Đóng vai là một PPDH thông qua mô phỏng và thường có tính chất
trò chơi. Có nhiều hình thức trò chơi dạy học như trò chơi tự do, trò chơi đóng vai,
quy tắc trò chơi, lập kế hoạch biểu diễn kịch, biểu diễn tự do. Với cách nhìn nhận
này, phương pháp đóng vai liên quan đến các khái niệm mô phỏng và trò chơi.
Ở các mô phỏng NH đảm nhận vai trò thường có ở trò chơi hoặc làm việc trong
những môi trường được mô phỏng, nhằm phát triển năng lực hành động, năng lực
quyết định trong những tình huống gần với cuộc sống nhưng đã được đơn giản hóa.
Theo mức độ tự lực, có 2 loại trò chơi đóng vai cơ bản:
Đóng vai có điều khiển: nội dung, hành động của các vai đã được đưa ra trước
theo kịch bản và người chơi cần làm đúng theo kịch bản.
Đóng vai “mở” hay “tự do”: Không có quy định bắt buộc về hành động chi tiết
của các vai mà phụ thuộc vào sự sáng tạo và tự kiến tạo của người chơi.
Ngày nay, trò chơi đóng vai được sử dụng như một PPDH trong nhiều môn
học, đặc biệt là các môn khoa học xã hội. Khi sử dụng phương pháp đóng vai sẽ
khuyến khích được NH thâm nhập vào môi trường thực tế, thử đặt mình vào các
nhân vật, trong các tình huống khác nhau để giải quyết vấn đề đang đặt ra trong
cuộc sống.
Phương pháp đóng vai là PPDH mang tính chất tương tác giữa GV với NH,
NH với NH, NH với môi trường học tập. Sử dụng PPDH này sẽ phát huy được tính
25
tích cực chủ động của NH, phát triển kỹ năng giao tiếp, hợp tác, năng lực giải quyết
vấn đề.
Đóng vai được áp dụng trong hoạt động dạy học nhằm mục đích nâng cao hiểu
biết về tri thức, kỹ năng, thái độ của NH để đạt tới mục tiêu dạy học. Thông qua
việc hóa thân mình vào các nhân vật, NH sẽ chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh được
kiến thức và được hoạt động trực tiếp trong suốt quá trình đóng vai. Sử dụng PPDH
đóng vai, GV sẽ giống như người đạo diễn, xây dựng chủ đề kịch bản theo nội dung
môn học còn NH chính là các diễn viên tham gia đóng vai, hóa thân thành các nhân
vật theo kịch bản đã có. Khi tham gia vào quá trình đóng vai, NH có điều kiện để
khắc sâu kiến thức và hình thành những kinh nghiệm cần có để ứng xử trong thực
tiễn đời sống.
Trên thực tế, đóng vai xuất phát từ nghệ thuật kịch. Khoảng từ thế kỉ XIX, nó
được đưa vào quá trình dạy học và trở thành một PPDH được nhiều nhà giáo dục
sử dụng. Theo tác giả Phan Trọng Ngọ: “Phương pháp đóng kịch trong dạy học là
giáo viên cung cấp kịch bản và đạo diễn, học viên hành động theo vai diễn. Qua đó,
họ học được cách suy nghĩ, thể hiện hành động cũng như các kỹ năng ứng xử khác
của các nhân vật trong kịch bản” [24; tr.283].
Như vậy, ta có thể hiểu đóng vai là một PPDH, trong đó NH thực hiện những
tình huống hành động được mô phỏng theo các vai diễn về một chủ đề gắn với thực
tiễn thường mang tính chất trò chơi, trong đó các tình huống diễn ra trong cuộc
sống, các vấn đề xung đột được thể hiện bằng đóng vai nhằm phát triển năng lực
hành động thông qua sự trải nghiệm của chính bản thân NH và thông qua thông tin
phản hồi từ những người quan sát.
Hiểu một cách khác, phương pháp đóng vai thực chất là phương pháp tổ
chức cho người học thông qua hình thức đóng kịch, diễn xuất thành các nhân vật
được thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả
định. Thông qua đó, giúp người học tích cực tham gia, sáng tạo, thể hiện được bản
thân, phát triển kỹ năng giao tiếp, hòa nhập vào môi trường học tập linh hoạt, năng
động.
* Các bước tiến hành thực hiện phương pháp đóng vai
Giai đoạn chuẩn bị:
26
Giảng viên xác định chủ đề, mô phỏng các tình huống và các vai cần phân tích
những đặc điểm của NH và của môi trường học tập tương ứng để xây dựng các tình
huống mô phỏng sao cho chúng gần với thực tế ở mức tối đa.
Thông tin cho NH về chủ đề và các vai diễn.
Chia nhóm vào giao chủ đề, tình huống và yêu cầu đóng vai cho từng nhóm
Chọn các vai, chủ yếu dựa trên các nguyên tắc tự nguyện, GV có thể gợi ý,
khuyến khích.
Quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai cho mỗi nhóm.
Giai đoạn tiếp nhận: Vì đây phần lớn là những tình huống phức tạp nên NH
trước tiên phải được làm quen với những tình huống và các quy tắc chơi.
Giải thích cho rõ vai.
Kiểm tra lại xem những người cùng chơi có nắm rõ vai trò của mình hay không.
Xác định các tiêu chí quan sát và giao nhiệm vụ quan sát.
Người chơi làm quen với các vai của mình, có thể sử dụng các thẻ mô tả vai.
Giai đoạn tương tác: Trong giai đoạn này NH là những cá nhân hoặc trong
các nhóm sẽ thực hiện các hành động chơi.
Giai đoạn này có thể được chia thành nhiều "vòng chơi".
Người chơi tự nhập vào vai của mình.
Thực hiện trò chơi đóng vai mà không ngắt quãng.
Những người không trực tiếp tham gia đóng vai thì có vai trò là những người
quan sát.
Giai đoạn đánh giá: Ở giai đoạn này sẽ xác định và đánh giá thành công, thất
bại và những đánh giá về cả quá trình chơi.
Người chơi tách mình khỏi vai trò của mình, tự đánh giá về việc trình diễn, về
các vai diễn và cảm nhận của mình.
Người quan sát nhận xét về tiến trình trò chơi.
Cả lớp thảo luận đánh giá trò chơi.
Rút ra những kiến thức từ trò chơi.
Ở các mô phỏng, môi trường học tập là một mô hình môi trường phức tạp
nhưng rõ ràng, với sự tham gia của những bạn chơi. Vật liệu, dụng cụ chơi cũng có
ý nghĩa vô cùng to lớn, chúng có thể bao gồm các đối tượng, các hình tượng tượng
27
trưng, các bản minh họa. Tiếp theo, điều quan trọng là các quy tắc chơi, tức là những
quy định nêu rõ những hành động được phép của NH. Những mô phỏng quy mô lớn
mà ở đó nhiều NH sẽ học đồng thời học với nhau, đòi hỏi phải có một tổ phụ trách
trò chơi, tổ này chịu trách nhiệm cung cấp những thông tin bổ sung nếu cần, giám
sát sự tuân thủ các quy tắc chơi hoặc đảm nhận chức năng trọng tài.
Ở phương pháp đóng vai điều quan trọng không phải là cuối cùng giải pháp
nào sẽ xuất hiện mà là việc những người tham gia cố gắng trong quá trình đóng vai
như thế nào. Vì vậy, việc đánh giá trò chơi đóng vai cũng quan trọng như bản thân
trò chơi đóng vai.
Đóng vai cũng giống như các PPDH khác, không phải là một phương pháp
vạn năng, có thể sử dụng để thay thế hoàn toàn các PPDH khác. Vì vậy, cần đánh
giá những ưu điểm và hạn chế của PPDH này để sử dụng nó có hiệu quả, phát huy
được thế mạnh của phương pháp đóng vai.
* Ưu điểm của phương pháp đóng vai
Khi sử dụng phương pháp đóng vai trong quá trình dạy học, NH được rèn
luyện và thực hành kỹ năng ứng xử, bày tỏ thái độ trong môi trường học tập trước
khi thực hành trong thực tiễn xã hội. Quá trình học phải đi đôi với hành, nếu chỉ chú
trọng học lý thuyết mà không được trải nghiệm thông qua các tình huống thực tế thì
NH rất dễ bị rơi vào trạng thái hụt hẫng, chán chường. Nhưng khi được rèn luyện,
thực hành, NH sẽ hình thành được những kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm sống,
giúp NH vượt qua được mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.
Sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học sẽ gây chú ý và hứng thú cho
NH. Với phương pháp dạy học này, NH sẽ được trực tiếp khám phá, bản than tự tìm
tòi tri thức mới nên NH sẽ cảm thấy hào hứng hơn trong học tập và chất lượng của
giờ học cũng đạt hiệu quả cao.
Phương pháp đóng vai là PPDH khích lệ sự thay đổi thái độ và hành vi của
NH theo hướng tích cực. Rèn luyện cho NH kỹ năng giải quyết vấn đề thực tiễn,
chủ động, sáng tạo xử lý tình huống trong cuộc sống xã hội. Sử dụng phương pháp
đóng vai trong dạy học giúp NH phân biệt được những hành vi nào là đúng, hành
vi nào là sai trong thực tế, do đó NH sẽ tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù
hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội.
28
Trong quá trình sử dụng phương pháp đóng vai, qua các vai diễn NH có thể
thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm mà các vai diễn đã thực
hiện. Bởi lẽ, mỗi một vai diễn đều mang một nội dung truyền tải nhất định tới người
xem. Thông qua những lời nói và việc làm của vai diễn đó, người xem sẽ đánh giá
ngay được điều đó là phù hợp hay không phù hợp. Vì vậy, từng cử chỉ, lời nói của
nhân vật đều có tác động nhất định tới nhận thức của người xem.
Sử dụng phương pháp đóng vai trong quá trình dạy học tạo điều kiện phát triển
tư duy sáng tạo của NH, là nơi để NH thể hiện năng lực bản thân, tài năng của mình
trước tập thể lớp học. Khi sử dụng hình thức dạy học đóng vai, NH là người chủ
động tự tìm tòi lĩnh hội tri thức, đồng thời còn khơi dậy ở NH sự sáng tạo và tài
năng vốn có của mình trong quá trình thực hiện đóng vai.
Khi thực hiện các vai diễn giúp NH có thể khắc phục được tính nhút nhát, e
ngại khi xuất hiện trước đám đông để NH trở nên tự tin hơn, mạnh dạn và trưởng
thành hơn trong cuộc sống. Bằng phương pháp dạy học đóng vai, NH sẽ được hóa
thân vào nhân vật cụ thể theo kịch bản. Điều đó làm cho những bạn luôn có cảm
giác tự ti về bản thân khi xuất hiện bằng một vai diễn khác với bản thân mình, các
bạn đó sẽ không những không tự ti về bản thân mình nữa, mà còn có thể thỏa sức
thể hiện nhân vật bằng khả năng của mình.
* Hạn chế của phương pháp đóng vai
Khi sử dụng phương pháp đóng vai, nếu NH thực hiện đóng vai mà không hiểu
rõ vai diễn của mình phải diễn như thế nào, lời thoại ra sao thì sẽ không thu được
kết quả như mong muốn, đôi khi trong những tình huống như vậy kết quả còn ngược
lại. Khi thực hiện đóng vai, một trong những yêu cầu không thể thiếu để góp phần
tạo nên sự thành công của vai diễn đó là sự nhập vai của các nhân vật. Do đó, nếu
NH không hiểu rõ vai diễn của mình, không thuộc lời thoại thì sẽ không thể truyền
tải đúng, đủ thông điệp tới người khác và sẽ không đạt được hiệu quả dạy học như
mong đợi.
Sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học nếu yếu tố hóa trang hoặc đạo
cụ không được chuẩn bị tốt thì sẽ giảm hiệu quả của giờ học, không tạo ra được sự
hứng thú cho NH. Người đóng vai ít có kinh nghiệm và khả năng diễn đạt không tốt
sẽ làm cho lớp học không tập trung hoặc rối nhiễu. Thực hiện hóa trang cho các
29
nhân vật là một trong những yếu tố cần thiết cho một vai diễn, bởi khi đã đóng vai,
chúng ta hoàn toàn trở thành một con người khác với mình ở đời thường. Vì vậy,
để nhập vai tốt thì cần phải có sự đầu tư về trang phục và đạo cụ cần thiết cho vai
diễn đó.
Trong khi thực hiện đóng vai nếu GV không bao quát, quản lý lớp học tốt trong
quá trình tiến hành diễn xuất thì rất dễ bị phá vỡ trật tự lớp học, lớp học trở nên ồn
ào, mất trật tự. Trong quá trình NH thực hiện diễn xuất, do sự hấp dẫn bởi khả năng
diễn xuất của nhóm thực hiện, NH trong lớp có thể không kiềm chế được cảm xúc
của mình nên thường xuất hiện những hành vi làm ảnh hưởng tới trật tự lớp học như
cười, nói lớn, la hét… Những điều này vô hình chung đã làm phá vỡ khuôn khổ trật
tự trong lớp học.
Sau khi thực hiện đóng vai, lớp học dễ bị xáo trộn, mất thời gian tập trung ổn
định lớp học để GV tiếp tục phần giảng dạy tiếp theo. Sử dụng phương pháp đóng
vai trong dạy học làm NH tập trung sự chú ý vào nội dung vai diễn muốn truyền tải
tới người xem bởi sự hấp dẫn trong diễn xuất của nhân vật. Do vậy, khi kết thúc
tình huống, những dư âm của vai diễn vẫn còn đọng lại khiến NH phân tâm và chưa
thể tập trung vào bài giảng của GV ngay được. Điều này cũng gây ra những ảnh
hưởng nhất định tới chất lượng dạy và học.
Như vậy, cũng giống như những PPDH khác, phương pháp đóng vai tồn tại cả
những ưu điểm và hạn chế. Để thực hiện có hiệu quả phương pháp này, GV phải biết
tận dụng, phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế của nó trong quá trình
dạy học. Người dạy cũng không được lạm dụng nhiều lần phương pháp này trong
một tiết dạy mà cần phải kết hợp với các phương pháp dạy học khác.
1.2.4. Kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy
học
Sử dụng các phương pháp dạy học biệt lập chỉ tồn tại trên lý thuyết, còn trên
thực tiễn trong quá trình dạy học người GV luôn chủ động, sáng tạo và phối hợp hài
hòa giữa các phương pháp khác nhau để đem lại hiệu quả cao cho quá trình giảng
dạy để truyền thụ tri thức. Bởi không có một phương pháp nào là vạn năng bên cạnh
những ưu điểm các phương pháp dạy học luôn tồn tại những hạn chế cần được bổ
30
sung bằng những phương pháp khác. Phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai cũng vậy.
Khi bàn về khái niệm kết hợp Từ điển tiếng Việt viết: “Kết hợp là gắn với nhau
để bố sung, hỗ trợ cho nhau” [32; tr.604]. Do vậy, theo tác giả “kết hợp phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học thực chất là vận dụng
hài hòa phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong một quá trình
giảng dạy”. Việc vận dụng này không phải là sử dụng một cách rời rạc phương pháp
thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong một bài giảng mà hai phương pháp
này có sự hòa quyện vào nhau trong cùng một hoạt động, trong cùng một mục đích
chiếm lĩnh nội dung tri thức nhất định. Trong hoạt động đó phương pháp thảo luận
nhóm hỗ trợ cho phương pháp đóng vai phát huy cao độ những ưu điểm, khắc phục
hạn chế và ngược lại. Nhằm đem lại kết quả cao nhất trong chiếm lĩnh tri thức, rèn
luyện kỹ năng kỹ xảo, hình thành nhân cách cho NH.
Việc vận dụng hài hòa phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai
không được hiểu là hai phương pháp này có vị trí ngang nhau trong mọi giai đoạn
lên lớp mà với những mục tiêu khác nhau của từng giai đoạn vai trò, vị trí của từng
phương pháp có sự khác nhau. Tuy nhiên trong cả một quá trình phương pháp thảo
luận nhóm vẫn được xem là có vai trò chủ đạo. Bởi vì chính hoạt động thảo luận
nhóm mới giúp NH chiếm lĩnh những tri thức của bài học, nhưng cũng không nên
tuyệt đối vai trò của phương pháp thảo luận nhóm.
* Các bước, điều kiện kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai trong dạy học
Các bước:
Bước 1: Chuẩn bị kế hoạch kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai khi soạn bài giảng. Đây luôn là bước đầu tiên, quan trọng mà GV cần chuẩn
bị kỹ để đem lại kết quả cao cho giờ học. Để thực hiện tốt bước này GV phải:
Xác định mục đích, yêu cầu, nội dung bài học. Đây là yếu tố để quyết định có
kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai hay không; phương
thức cũng như thời gian kết hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho giờ giảng. Bởi
không phải bài học nào cũng có thể vận dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai được vì có những tri thức loài người phải mất nhiều công
31
sức mới tìm ra được nên việc tự thảo luận giữa NH với nhau rất khó chiếm lĩnh
được tri thức này.
Chuẩn bị những phương tiện, đồ dùng trực quan và các đồ dùng khác cho hoạt
động nhóm trong giờ học. Những đồ dùng này có cái do GV chuẩn bị có cái do NH
chuẩn bị tùy vào điều kiện cụ thể của lớp học.
Hình thành các bước kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai trong bài giảng. Việc xác định các bước kết hợp của GV càng rõ ràng, chi
tiết bao nhiêu thì càng có lợi cho tiến trình lên lớp đạt hiệu quả bấy nhiêu.
Bước 2: Tổ chức thực hiện kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai trong giờ học. Trong bước này GVcần thực hiện một số nội dung sau:
Giảng viên phân chia NH thành các nhóm học tập nhỏ; trình chiếu hoặc trưng
bày phương tiện trực quan cho các nhóm quan sát hoặc phân phát phương tiện trực
quan tới từng nhóm học tập; giao nhiệm vụ cụ thể cho nhóm học tập làm việc với
phương tiện trực quan.
Giảng viên hướng dẫn nhóm học tập tiến hành thảo luận nhóm và xây dựng
kịch bản. Trong khi NH thảo luận theo nhóm nhỏ GV cần quan sát hoạt động của
từng nhóm, lắng nghe ý kiến của NH, giúp đỡ nhóm nếu thấy cần thiết.
Người học lên trình bày kết quả làm việc của nhóm. Hình thức trình bày có thể
bằng lời, viết, vẽ lên giấy hoặc ngay trên đồ dùng trực quan.
Người học tiến hành phục trang và diễn xuất theo kịch bản đã được chuẩn bị
trong quá trình thảo luận nhóm.
Bước 3: Đánh giá kết quả hoạt động của người học.
Việc đánh giá kết quả hoạt động được diễn ra giữa NH với NH. Đó là các
nhóm thảo luận đánh giá hoạt động của nhau bằng việc nhận xét, bổ sung ý kiến về
nội dung nhóm bạn trình bày. Bên cạnh đánh giá giữa NH với NH là sự đánh giá
của GV đối với hoạt động của NH.
Các nhóm đánh giá kết quả của nhau bằng việc nhận xét, bổ sung ý kiến.
Giảng viên nhận xét kết quả hoạt động của từng nhóm và về đồ dùng trực quan
nhóm đã chuẩn bị (nếu đã được giảng viên giao), nhận xét ý kiến bổ sung của nhóm
bạn.
32
Giảng viên thu lại đồ dùng trực quan, cho điểm nhóm NH nếu thấy cần.
Điền kiện:
Trong đánh giá kết quả hoạt động của các nhóm, GV có thể lựa chọn nhiều
hình thức đánh giá khác nhau phù hợp với điều kiện, đối tượng NH khác nhau. Làm
sao để việc đánh giá tạo cho NH niềm tin, sự hứng khởi trong học tập.
Việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai phải được
xuất phát từ mục đích, yêu cầu và nội dung bài học. Do đó, GV cần nghiên cứu kỹ
nội dung bài học có phù hợp với sự kết hợp này không.
Trung tâm phải có một cơ sở vật chất khá tốt để đảm bảo phương tiện, đồ dùng
trực quan mang tính khoa học, tính thẩm mỹ và đảm bảo cho số lượng NH trong một
nhóm không quá đông, không gian có đủ để nhóm hoạt động có hiệu quả.
Giảng viên cần phải có kỹ năng sự phạm tốt để giải quyết những tình huống
bất thường có thể xảy ra giữa các nhóm và giữa các thành viên trong một nhóm.
Bên cạnh đó GV cần có trình độ nhất định về công nghệ thông tin, về kỹ thuật để
nhanh chóng giải quyết những lỗi nhỏ xảy ra đối với máy móc tránh ảnh hưởng đến
tiến độ làm việc của nhóm.
Người học phải có tinh thần trách nhiệm đế hoạt động nhóm và bảo quản, sử
dụng đồ dùng trực quan có hiệu quả.
* Ưu điểm của việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai trong dạy học
Khi sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm với phương pháp đóng vai
giúp cho hoạt động thảo luận nhóm đem lại kết quả cao hơn vì phương tiện và đồ
dùng trực quan kích thích sự chú ý của NH, trợ giúp những khó khăn trong lĩnh hội
những kiến thức trừu tượng nên hạn chế tình trạng có những NH không chú ý vào
nội dung thảo luận của nhóm do không hứng thú với nội dung thảo luận hoặc nội
dung có nhiều đòi hỏi về kiến thức trừu tượng.
Giảng viên không mất nhiều thời gian để giải thích nội dung, yêu cầu thảo luận
nhóm cho từng nhóm học tập.
Đem lại hiệu quả cao trong việc chiếm lĩnh tri thức vì kiến thức được trình bày
thông qua lời nói của GV kết hợp với hình ảnh minh họa thì kiến thức đó lưu giữ
trong trí nhớ NH không lâu nhưng nếu kết hợp lời nói, hình ảnh và hành động kiến
33
thức lưu giữ trong trí nhớ NH rất lâu.
* Hạn chế của việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai trong dạy học
Việc sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm với phương pháp đóng vai
đòi hỏi ở người GV phải nhuần nhuyễn nhiều kỹ năng sư phạm.
Cơ sở vật chất của Trung tâm phải được trang bị tốt từ phương tiện trực quan
cho tới phòng học.
Giảng viên phải tốn khá nhiều thời gian, công sức để chuẩn bị bài giảng lên
lớp cũng như phương tiện và đồ dùng trực quan.
1.3. Cơ sở khoa học của việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh
1.3.1. Cơ sở tâm lý học
Nhu cầu nhận thức là điểm khởi đầu để NH tìm tòi, sáng tạo và kích thích tính
tích cực của bản thân trong nhận thức.
Chúng ta thấy nhu cầu trở thành nguồn gốc của tính tích cực. Nhu cầu có một
vai trò hết sức quan trọng, khi kết hợp với ý thức sẽ tạo thành động lực thúc đẩy
hành vi của con người. Nhu cầu là cơ sở, là cái khởi đầu trong quá trình con người
hoạt động, trong hoạt động con người nảy sinh nhu cầu cụ thể, rồi lại từ nhu cầu để
tiến hành hoạt động tiếp theo nhằm mục đích cuối cùng. Vì vậy, nhu cầu không
những biểu hiện vai trò quyết định các điều kiện bên ngoài và bên trong, mà nó còn
biểu hiện vai trò của tính sáng tạo của ý thức. Bao gồm cả nhu cầu vật chất và nhu
cầu tinh thần quyết định hành vi và kích thích tính tích cực của nhân cách.
Trong hoạt động học tập thì nhu cầu nhận thức, sự khám phá tri thức mới, sự
chiếm lĩnh nó là điểm khởi đầu để kích thích sự hứng thú, tạo động lực nhận thức
của NH. Một điều hiển nhiên là nếu NH không có nhu cầu nhận thức, không có nhu
cầu nâng cao tầm hiểu biết của bản thân, thì trong học tập của NH không thể có
được tính tích cực trong hoạt động nói chung và trong hoạt động học tập nói riêng.
Hứng thú nhận thức là biểu hiện cao tính tích cực của NH. Vì không có hứng thú
thì sẽ không có thái độ say mê học tập, không có tính sáng tạo, khả năng suy đoán
và tìm tòi chân lý. Hứng thú bao giờ cũng có tính tích cực. Nhưng không phải sự
tích cực nào cũng có hứng thú. Hứng thú nhận thức cũng như nhu cầu nhận thức
34
đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình học tập của NH. Nếu không có hứng
thú, chỉ biết hoạt động bằng sức mạnh, cưỡng bức, thì sẽ thủ tiêu lòng ham muốn
học tập của NH.
Mỗi bài giảng, mỗi tiết học, người GV không chỉ chú ý đến nội dung tri thức,
không chỉ nhồi nhét kiến thức đầy đầu cho NH, mà phải có phương pháp giảng dạy
phù hợp để khơi dậy ở NH sự hứng thú, say mê, có nhu cầu nhận thức, tiếp thu lĩnh
hội tri thức một cách chủ động, sáng tạo, tích cực, chứ không phải bị dồn ép, thụ
động, uể oải, chán nản. Nếu để NH rơi vào tình trạng như vậy thì chất lượng bài
giảng sẽ không cao.
Động cơ học tập tích cực là yếu tố thúc đẩy tính tích cực nhận thức của NH.
Động cơ là thái độ chủ quan của con người đối với hoạt động mà cơ sở là mục đích
được tự giác đặt ra. Mục đích hoạt động và cả sản phẩm hoạt động mà con người
mong đợi đều được cụ thể hoá trong động cơ. Tính tích cực xuất hiện và thúc đẩy
hoạt động khi chủ thể ý thức một cách rõ ràng mục đích hoạt động của mình và
động cơ đó phải chứa đựng ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Nguồn gốc của tính tích cực là hứng thú, nhu cầu nằm trong hoạt động chủ đạo
của NH. Nghĩa là, con người hoạt động có hứng thú, có nhu cầu thực sự sẽ là đòn
bẩy thúc đẩy hoạt động đó đạt kết quả cao nhất. Trên cơ sở của nhu cầu hứng thú,
sẽ hình thành động cơ. Nhu cầu, hứng thú, động cơ hoạt động với đối tượng được
xác lập, sẽ thúc đẩy con người tiến hành thực hiện hành động để tạo ra sản phẩm,
đạt được mục đích. Tính tích cực hoạt động giờ đây biểu hiên rõ hơn bằng sự tập
trung chú ý, vượt mọi khó khăn trở ngại, nhanh nhạy trong quan sát, linh hoạt, sáng
tạo, chính xác trong tư duy, tưởng tượng nhằm vào việc tạo ra chất lượng cao trong
sản phẩm của hoạt động. Hay nói cách khác, những hiện tượng tâm lý kể trên chính
là chỉ số của tính tích cực. Khi thấy chủ thể nào đó đang tập trung chú ý cao độ,
khắc phục mọi khó khăn trong quá trình hành động, hoặc thực hiện các quá trình
nhận thức một cách nhanh nhạy, hiệu quả cao chắc chắn ta khẳng định rằng chủ thể
ấy đang tích cực hành động.
1.3.2. Cơ sở lý luận dạy học
* Xuất phát từ bản chất của quá trình dạy học
35
Bản chất quá trình dạy học là hoạt động nhận thức có tính chất nghiên cứu của
NH. Người học phải nghiên cứu khám phá và là chủ thể của hoạt động nhận thức.
Dạy học vừa là một môn khoa học vừa là một môn nghệ thuật, có tính kế hoạch và
có tính mục đích. Dạy học giúp cho NH nắm vững hệ thống kiến thức về thế giới
và cuộc sống loài người. Trên cơ sở đó để hình thành cho NH thế giới quan và nhân
sinh quan, vừa hiểu sâu hiểu rộng, vừa biết vận dụng chúng vào thực tiễn để hình
thành kỹ năng hoạt động trí tuệ và thực hành, tạo nên văn hoá cuộc sống, đó là cơ
sở học vấn của NH. Thực chất là quá trình dạy chữ, dạy hoạt động và dạy làm người.
Dạy học đạt đến trình độ nghệ thuật khi tạo được nhu cầu nhận thức cho NH
và xác định cho NH nỗ lực ý chí phấn đấu. Dạy học hướng vào khai thác mọi tiềm
năng trí tuệ. Tri thức khoa học chỉ trở thành hệ thống, chuyển biến thành kỹ năng
hành động và trở nên vững vàng khi NH chủ động, tích cực và có ý thức. Nghệ thuật
dạy học chỉ ra rằng muốn xây dựng động lực của quá trình dạy học có hai điều quan
trọng cần phải lưu ý: Một là, phải biến yêu cầu của chương trình dạy học thành nhu
cầu nhận thức của NH bằng cách tạo dựng các tình huống nhận thức. Hai là, phải
đưa NH tới đỉnh điểm của những mâu thuẫn chứa đựng những khó khăn vừa sức
đối với NH bằng mọi khả năng của mình.
* Xuất phát từ quy luật về mối quan hệ giữa dạy và học
Trong quá trình dạy học, NH vừa là đối tượng của hoạt động dạy, vừa là chủ
thể của hoạt động học. Thông qua hoạt động học, dưới sự chỉ đạo của GV, NH phải
tích cực chủ động cải biến chính mình về kiến thức, kỹ năng, thái độ, hoàn thiện
nhân cách. Hay nói cách khác, dạy học là quá trình hoạt động của hai chủ thể, trong
đó dưới sự tổ chức, hướng dẫn và điều khiển của GV, NH nhận thức lại nền văn
minh nhân loại và rèn luyện hình thành kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động, tạo lập
thái độ sống tốt đẹp.
Dạy học là quá trình phối hợp hoạt động giữa hai chủ thể đó là người dạy và
người học. Hai chủ thể này có mối quan hệ thống nhất với nhau. GV là chủ thể của
hoạt động dạy, được đào tạo chu đáo về nghiệp vụ sư phạm, người nắm vững kiến
thức khoa học chuyên ngành, các quy luật phát triển tâm lý, ý thức và hoạt động
36
nhận thức của NH, để tổ chức mọi hoạt động của NH, người quyết định chất lượng
giáo dục.
Giảng viên giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ quá trình dạy học, người xây dựng
và thực thi kế hoạch trong giảng dạy môn học, người tổ chức cho NH thực hiện hoạt
động học tập dưới mọi hình thức, trong những thời gian và không gian khác nhau,
người điều khiển các hoạt động trí tuệ và hướng dẫn thực hành cho NH. Giảng viên
là người chỉ dẫn, giúp đỡ NH học tập, rèn luyện đồng thời là người kiểm tra uốn
nắn và giáo dục NH trong mọi phương diện. Bằng sự khéo léo của phương pháp sư
phạm, GV khai thác tiềm năng trí tuệ, kiến thức và kinh nghiệm sống của NH, giúp
họ tìm ra phương pháp học tập sáng tạo, tự lực nắm kiến thức và hình thành các kỹ
năng hoạt động.
Đối tượng hoạt động của GV là hệ thống kiến thức, sự phát triển trí tuệ và nhân
cách của NH. Trước khi lên lớp, GV nghiên cứu các tài liệu, giáo trình, nắm vững
và gia công tài liệu đó theo chiến thuật sư phạm, bằng phương pháp giảng dạy để
chuyển tải nội dung, tác động đến quy luật tâm lý nhận thức của NH phát triển theo
mục đích gáo dục.
Mục đích của hoạt động dạy là làm cho NH nắm vững kiến thức và hình thành
kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động, từ đó mà phát triển trí tuệ và nhân cách, nghĩa là
làm cho NH trở thành những người lao động thông minh, người lao động có tri thức.
Nội dung hoạt động dạy là tổ chức cho NH nhận thức, và truyền đạt kiến thức,
hướng dẫn luyện tập, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, kiểm tra uốn nắn và giáo dục thái
độ học tập cho NH.
Người học là chủ thể của hoạt động học, chủ thể có ý thức, chủ động, tích cực
và sáng tạo trong nhận thức và rèn luyện nhân cách. Mọi hoạt động của con người
nhìn chung đều phải có ý thức, việc học tập càng phải có ý thức. Người học phải
xác định được động cơ học tập, có động cơ thái độ học tập đúng, có kế hoạch hoạt
động chủ động và luôn tích cực thực hiện tốt kế hoạch đó. Tính tích cực học tập thể
hiện ở cả hai mặt: chuyên cần và tính sâu sắc trong các hoạt động trí tuệ. Cách học
thể hiện trong việc tìm kiếm, xử lý thông tin và vận dụng chúng vào giải quyết các
nhiệm vụ học tập và thực tiễn cuộc sống, thể hiện trong sự tìm tòi, khám phá vấn đề
37
mới bằng phương pháp mới, cái mới không phải là sự sao chép mà là sự sáng tạo
của mỗi cá nhân.
Chủ thể hoạt động học là NH, chủ thể tích cực trong nhận thức, rèn luyện và
tu dưỡng bản thân. Đối tượng của hoạt động học là hệ thống tri thức và hệ thống kỹ
năng tương ứng. Người học phải chiếm lĩnh được hệ thống kiến thức trong chương
trình, để sử dụng trong tình huống học tập và thực tiễn cuộc sống.
Mục đích của hoạt động học là tiếp thu nền văn minh nhân loại để chuyển hoá
thành trí tuệ và nhân cách bản thân, trở thành người lao động thông minh năng động
và sáng tạo.
Hoạt động học là quá trình nhận thức, tìm tòi, thấu hiểu, nắm vững, ghi nhớ và
vận dụng kiến thức vào cuộc sống của NH. Vì vậy, trong quá trình dạy học phải coi
trọng vị trí vai trò của NH, kích thích tính tích cực chủ động của họ.
Ngoài ra còn xuất phát từ xu thế dạy học hiện đại trên thế giới chuyển từ dạy
kiến thức sang dạy tư duy, dạy nội dung sang dạy phương pháp. Chuyển trọng tâm
hoạt động dạy của GV từ chủ yếu là truyền đạt sang trọng tâm chủ yếu là thiết kế,
tổ chức điều khiển hoạt động nhận thức độc lập, sáng tạo của NH.
1.4. Sự cần thiết của việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh
Trong thời đại ngày nay, lượng thông tin tri thức của nhân loại hàng ngày tăng
theo cấp số nhân. Điều này đòi hỏi con người phải có khả năng thích ứng liên tục
và nhanh chóng cả về tri thức và kỹ năng. Vì vậy, nếu trước đây ưu tiên số một của
giáo dục là trang bị kiến thức cho NH , giúp cho NH ghi nhớ được một lượng kiến
thức thông tin, kiến thức tối đa trong khả năng của họ thì ngày nay các phương tiện
lưu trữ thông tin sẵn sàng cung cấp thông tin một cách nhanh chóng cho con người.
Do đó, ưu tiên số một của NH không phải là ghi nhớ tri thức mà là nhanh chóng tiếp
cận, vận dụng tri thức mới và sáng tạo ra tri thức mới. Hơn nữa tri thức của nhân
loại ngày nay thay đổi nhanh chóng và sớm trở nên lỗi thời. Do đó, nội dung chương
trình dạy học cần chú trọng kiến thức nền tảng và kỹ năng tự học, tự nghiên cứu
hơn là chỉ chú trọng trang bị tri thức cho NH. Như vậy, sự kết hợp các phương pháp
dạy học truyền thống và hiện đại sẽ đáp ứng được được yêu cầu trên.
38
Chúng ta đều biết rằng chỉ có đổi mới căn bản phương pháp dạy học thì mới
có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong ngành giáo dục, mới đảm bảo được mục
tiêu chuyển từ dạy là trung tâm sang lấy học làm trung tâm. Cho nên dạy học là một
quá trình hoạt động diễn ra là dạy và học. Đó là hai nhân tố tác động biện chứng
trong một mối quan hệ thống nhất. Mục đích của quá trình này là nhằm hình thành
cho người học hệ thống tri thức khoa học, các kĩ năng, kĩ xảo và khả năng vận dụng
vào thực tiễn. Kết quả là trang bị cho NH các kiến thức cơ bản, nâng cao trình độ
học vấn cho NH kể cả mặt kiến thức, phương pháp hoạt động và năng lực tổ chức
thực tiễn.
Trong quá trình dạy và học thì nhân tố dạy của GV giữ vai trò chủ đạo song
nhân tố học của NH là chủ động hoạt động tích cực, sáng tạo, năng động để tiếp thu
các kiến thức khoa học. Quá trình dạy và học là hai hoạt động có sự tác động biện
chứng lẫn nhau. Nếu hai hoạt động này tách rời nhau thì không còn là một quá trình
nữa. Hoạt động dạy học chỉ có hiệu quả khi nó biết tác động kích thích, khơi dạy ở
NH những nhu cầu mới. Hoạt động học chỉ có hiệu quả khi nó biết phát huy tính tự
giác, độc lập, sáng tạo và tích cực để lĩnh hội kiến thức.
Xuất phát từ đặc điểm của môn học, việc kết hợp hai phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp đóng vai trong giảng dạy môn CTQP-AN, kết hợp sử dụng
hai phương pháp giảng dạy trên một cách sáng tạo, linh hoạt sẽ phát huy tính tích
cực của người học thông qua hàng loạt các tác động của GV, NH không còn ở trạng
thái bị động khi tiếp thu kiến thức mà thông qua đó NH có thể vận dụng những kiến
thức mình được học vào trong cuộc sống cũng như công việc.
Các nhà giáo dục đang hướng tới các phương pháp dạy học tích cực, tức là sử
dụng những phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Dạy học tích cực là sự kết hợp linh hoạt nhiều phương pháp phù hợp với nội dung,
trình độ nhận thức của NH và điều kiện thực tế để đạt được mục tiêu dạy học. Mỗi
phương pháp đều có ưu điểm và hạn chế của nó, không có phương pháp nào là tối
ưu cả. Dạy học tích cực đòi hỏi cần có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành và
tăng cường liên hệ với thực tiễn cuộc sống.
Xuất phát từ đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu, nội dung chương trình của môn
CTQP-AN mà người GV phải chú trọng đến vấn đề đổi mới phương pháp. Để thực
39
hiện đổi mới phương pháp dạy học thì người GV là yếu tố quyết định hàng đầu
trong việc thực hiện đổi mới. Chủ trương dạy học hiện nay là dạy học theo chuẩn
kiến thức, kỹ năng nên yêu cầu người GV phải đầu tư thời gian và công sức nhiều
hơn để xây dựng được một hệ thống phương pháp và phương tiện dạy học thích hợp
cho từng nội dung bài giảng. Trên lớp GV sẽ dạy ít hơn nhưng NH phải làm việc
nhiều hơn thông qua các hoạt động tương tác hoặc các trò chơi, bài tập tình huống
theo sự hướng dẫn và hỗ trợ của GV. Người học sẽ được GV tạo điều kiện để trao
đổi với nhau và trao đổi với GV. Chính vì được sáng tạo, tìm tòi khám phá của NH
và sự phản biện của NH trong mỗi giờ học sẽ góp phần làm giàu thêm kiến thức cho
GV. Nếu tổ chức được một giờ học như thế chắc chắn NH sẽ ham học và học được
nhiều hơn.
Xuất phát từ mục đích, yêu cầu, nội dung của môn học có ý nghĩa quan trọng
bởi từ đây người GV sẽ xác định được hình thức, phương pháp giảng dạy. Mục đích
của dạy học môn CTQP-AN có nhiều cấp độ khác nhau tùy vào từng bài, từng tiết
cụ thề để GV có thể xác định mục đích khác nhau.
Mục đích nhận thức: Môn CTQP-AN góp phần hình thành, làm sâu sắc về hiểu
biết của NH về chủ nghĩa xã hội; về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng;
pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là những kiến thức căn bản về công tác Quốc
phòng, An ninh trong giai đoạn hiện nay. Những hiểu biết đó có vai trò quan trọng
đối với việc hình thành tình cảm, lòng tin và thái độ đúng đắn đối với Đảng và Nhà
nước.
Mục đích cảm xúc: Chủ trương đưa môn CTQP-AN vào gảng dạy cho đối tượng
là sinh viên của ĐHTN nhằm hình thành tình cảm, lòng tin và thái độ đúng đắn đối với
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Mục đích hành vi: Giảng dạy và học tập môn CTQP-AN giúp NH nhận thức
đúng đắn đầy đủ về các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong và ngoài
nước, từ đó vận dụng vào trong cuộc sống một cách linh hoạt, cũng như giải quyết
các tình huống xảy ra trong cuộc sống cũng như công việc.
Nội dung môn CTQP-AN là những kiến thức vừa mang tính lý luận vừa gắn
liền với thực tiễn đời sống xã hội, mang tính thực tế cao. Qua các tình huống NH sẽ
có cách ứng xử phù hợp với những tinh huống diễn ra trong công việc cũng như
40
trong cuộc sống, biết liên hệ so sánh giữa các tình huống giả định với tỉnh huống có
thực trong cuộc sống.
Việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai là sự kết
hợp khá mới có thể phát huy tính tích cực của NH, giúp cho NH chủ động, hứng
thú, dễ dàng nắm bắt được tri thức mới hơn hẳn các phương pháp dạy học truyền
thống.
41
Tiểu kết chương 1
Dạy học là một quá trình vừa mang tính khuôn mẫu, mô phạm, vừa có tính
nghệ thuật, được tạo thành bởi hai yếu tố cơ bản là người dạy và người học. Để quá
trình đó đạt kết quả cao thì cả người dạy và người học cần tuân thủ nguyên tắc đảm
bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Điều này có vai trò, ý nghĩa rất quan
trọng trong việc xác định phương pháp dạy học phù hợp với nội dung kiến thức, với
đối tượng người học.
Chương trình GDQP&AN ở các bậc học Đại học, Cao đẳng, Trung cấp nghề
và chuyên nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng đối với NH, nó hình thành thế giới
quan, phương pháp luận khoa học và cung cấp tri thức, kinh nghiệm sống và kĩ năng
thực hành các động tác quân sự cho NH. Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp dạy
học chưa hợp lí, thiếu sự đa dạng, phong phú làm hạn chế sự hứng thú trong học tập
ở NH. Thực tiễn đó đòi hỏi sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, trong đó kết
hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai để nâng cao hiệu quả
dạy học môn CTQP-AN ở các trung tâm GDQP&AN nói chung và Trung tâm
GDQP&AN - ĐHTN nói riêng. Phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng
vai khi được vận dụng kết hợp cùng với một số phương pháp dạy học khác sẽ góp
phần tích cực hoá hoạt động của NH nhằm phát triển tri thức, kĩ năng, thái độ đáp
ứng nhu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Qua thực tế trải nghiệm và nghiên
cứu, bản thân tác giả nhận thấy việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN có khả năng đem lại hiệu quả
cao. Tuy nhiên, để kết hợp hai phương pháp này thành công và đáp ứng được mục
tiêu môn học, kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai cần
được xây dựng thành quy trình mang tính chặt chẽ và đảm bảo tính khoa học.
42
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ QUY TRÌNH THIẾT KẾ BÀI GIẢNG
THEO HƯỚNG KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM VÀ
PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC
QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG
VÀ AN NINH - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
2.1. Thực trạng sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo
dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên
2.1.1. Khái quát về Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên (trước đây
là Trung tâm Giáo dục Quốc phòng thành phố Thái Nguyên) là một trong những
Trung tâm Quốc phòng đầu tiên của nước ta, được thành lập theo Quyết định số
2963/QĐ-TCCB ngày 17/12/1992 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Nhiệm vụ của Trung tâm là tổ chức Giáo dục quốc phòng, an ninh cho NH các
trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và Trung học phổ
thông trong khu vực; đào tạo sĩ quan dự bị; thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học
sư phạm quân sự.
Năm 1994, Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên
được hình thành từ Trung tâm Giáo dục Quốc phòng thành phố Thái Nguyên của
Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc và các Bộ môn quân sự thuộc các trường đại học
nêu trên (tên gọi lúc đó của Trung tâm là Trung tâm Quốc phòng Thái Nguyên). Các
sĩ quan biệt phái của Trung tâm do Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên quản lý.
Theo Quyết định số: 170/QĐ-BGD&ĐT ngày 08/01/2002 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái
Nguyên trở thành một đơn vị thành viên trực thuộc Đại học Thái Nguyên.
Trải qua một quá trình hình thành và phát triển, Trung tâm lại có sự thay đổi về
tên gọi cho phù hợp với chức năng đào tạo và địa bàn đóng quân. Căn cứ Quyết định
số: 437/QĐ-BGDĐT ngày 15/02/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đổi tên Trung
43
tâm Giáo dục Quốc phòng Thái Nguyên thành Trung tâm Giáo dục quốc phòng và
an ninh - Đại học Thái Nguyên.
Theo Quyết định này, Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học
Thái Nguyên là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Đại học Thái Nguyên có nhiệm vụ
giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho NH và đào tạo giáo
viên giáo dục quốc phòng, an ninh phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh
thuộc khu vực trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Từ khi thành lập đến nay, Trung tâm đã có sự dịch chuyển địa điểm đóng
quân từ Khu B của trường Đại học Sư phạm Việt Bắc (Cao đẳng Sư phạm Việt Bắc
cũ, năm 1992) được di dời đến Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp (năm 1996).
Từ tháng 5 năm 2008, Trụ sở của Trung tâm được di chuyển về địa điểm mới tại xã
Quyết Thắng, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
Hiện tại, hệ thống cơ sở vật chất của Trung tâm bao gồm: giảng đường, thư
viện, hội trường, ký túc xá; nhà làm việc của Ban Giám đốc, nhà công vụ; khu thao
trường kỹ chiến thuật, nhà kho quân khí, quân trang; sân vận động … với diện tích
đất sử dụng là 15,5327 ha. Diện tích này đáp ứng yêu cầu huấn luyện, nghiên cứu
khoa học quân sự và các hoạt động rèn luyện, sinh hoạt tập thể của người học và
cán bộ, giảng viên.
Trong 28 năm xây dựng và phát triển, được sự quan tâm của Đảng uỷ, Ban
Giám đốc Đại học Thái Nguyên, sự quan tâm của Bộ Tham mưu Quân khu I, đội
ngũ cán bộ giảng viên, viên chức của Trung tâm đã phát huy tốt bản chất truyền
thống Quân đội, quyết tâm vượt qua những khó khăn để từng bước xây dựng, ổn
định cơ sở vật chất bảo đảm cho quá trình hoạt động tổ chức thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ giáo dục quốc phòng, an ninh cho NH toàn Đại học Thái Nguyên.
Hiện nay, Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên
có khả năng tổ chức học tập trung cho mỗi khóa khoảng 1.700 người học. Dưới đây
44
là kết quả thống kê về quy mô đào tạo và cơ cấu giảng viên dạy môn Công tác quốc
phòng, an ninh tại Trung tâm.
Bảng 2.1. Quy mô người học ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh
- Đại học Thái Nguyên
Năm học 2018 -2019 Năm học 2019 - 2020
Từ 7000 đến 9000 người học Từ 8000 đến 10.000 người học
(Nguồn: Khoa Giáo viên)
Bảng 2.2. Cơ cấu giảng viên giảng dạy môn Công tác quốc phòng, an ninh ở
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên
(năm học 2019 - 2020)
TT Cơ cấu GV Tiêu chí Số lượng Tổng số
Nam 8 1 Giới tính 10 Nữ 2
Dưới 30 3
2 Độ tuổi Từ 31 đến 45 6 10
Trên 45 tuổi 1
Dưới 5 năm 3
Từ 6- 10 năm 4 3 Thâm niên công tác 10 Từ 11- 15 năm 0
Trên 15 năm 3
Cao đẳng 0 0
Đại học 9 9 4 Trình độ đào tạo Thạc sĩ 1 1
Tiễn sĩ 0 0
GS 0 0 5 Học hàm PGS 0 0
(Nguồn: Khoa Giáo viên)
Nhìn vào bảng tổng hợp 2.2 trên đây cho thấy đội ngũ giảng viên giảng dạy
môn CTQP-AN ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên
45
đều có trình độ từ đại học trở lên, tuổi đời và tuổi nghề đều còn trẻ. Đây có thể coi là
thế mạnh trong công tác đổi mới giáo dục và đào tạo ở Trung tâm, bởi giảng viên trẻ
sẽ có cơ hội để học tập, nâng cao trình độ, không ngừng đổi mới và sáng tạo, tiếp cận
với những phương pháp, phương tiện dạy học hiện đại để có những giờ giảng ngày
càng có chất lượng cao, kích thích tính tích cực, sáng tạo của người học. Ngoài công
tác giảng dạy, giảng viên còn tham gia vào công tác nghiên cứu khoa học như viết
bài cho các tạp chí, tham gia thực hiện đề tài cấp cơ sở...
Là Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh lớn của khu vực trung du miền
núi phía Bắc, với nhiệm vụ giáo dục quốc phòng, an ninh cho NH và đào tạo giáo
viên quốc phòng, an ninh, những năm qua, Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an
ninh - Đại học Thái Nguyên đã có nhiều biện pháp thiết thực, hiệu quả nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục đào tạo, đổi mới căn bản nội dung, phương pháp giáo dục
và đào tạo; hoàn thiện cơ sở vật chất, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
giảng viên; chất lượng giáo dục quốc phòng thường xuyên cho NH. Tuy nhiên, để
công tác giảng dạy của Trung tâm được tốt hơn, đặc biệt là các học phần giảng dạy
lý thuyết, giảng viên cần tích cực hơn nữa trong việc nâng cao trình độ chuyên môn,
đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng kết hợp các phương pháp, phương tiện dạy
học hiện đại để phát huy được tính sáng tạo, chủ động của người học.
2.1.2. Khảo sát và đánh giá thực trạng việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên
Để nghiên cứu làm rõ thực trạng việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục
quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên chúng tôi tiến hành như sau:
2.1.2.1. Mục đích khảo sát
Khảo sát nhằm đánh giá thực trạng việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm
và đóng vai của giảng viên trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên, từ đó xác lập
cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng quy trình sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận
46
nhóm và đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm
Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
2.1.2.2. Đối tượng khảo sát
Giảng viên: 09 giảng viên dạy môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm
Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
Người học: 168 người học thuộc Trung đội 1, 2, 3 và 4, K28 - CN1 ( Người
học Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp - thành viên trực thuộc Đại học Thái
Nguyên học tại Trung tâm)
2.1.2.3. Nội dung khảo sát
- Nhận thức của giảng viên về kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo
dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
- Nhận thức của giảng viên về vai trò kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
đóng vai để phát huy tính tích cực, sáng tạo của NH, nâng cao hiệu quả dạy học
môn CTQP-AN.
- Mức độ sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và đóng vai trong dạy
học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an
ninh - Đại học Thái Nguyên.
- Cách sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và đóng vai của giảng
viên trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc
phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
- Chất lượng học tập môn Công tác quốc phòng, an ninh của người học trong
một số khóa học tại Trung tâm.
- Nhận thức của NH về sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và đóng
vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc
phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
- Nhận thức của NH về vai trò và mức độ sử dụng kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung
tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
47
2.1.2.4. Phương pháp khảo sát
Để điều tra thực trạng tác giả đã sử dụng các phương pháp điều tra, tổng kết
kinh nghiệm, dự giờ giảng để trực tiếp quan sát hoạt động của giảng viên và
người học.
2.1.2.5. Kết quả khảo sát thực trạng
Trong những năm gần đây việc đổi mới phương pháp dạy học đã được Trung
tâm quan tâm, tuy nhiên với môn CTQP-AN thì việc đổi mới phương pháp dạy học
vẫn còn khiêm tốn. Việc sử dụng các phương pháp dạy học hiện đại vào bài giảng
môn CTQP-AN chưa được nhiều và hiệu quả chưa cao. Các phương pháp dạy học
như phương pháp đóng vai, phương pháp luyện tập, phương pháp trò chơi... chưa
được sử dụng thường xuyên và sử dụng chưa có hiệu quả. Kết hợp phương pháp
thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai vẫn còn mới lạ đối với giảng viên. Giảng
viên vẫn bị chi phối bởi các phương pháp dạy học chỉ thiên về thuyết trình, giảng
giải, đàm thoại là chủ yếu. Giảng viên chưa mạnh dạn, tự tin áp dụng một số phương
pháp hiện đại, tích cực vào giảng dạy mà trong đó có phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai, nhất là việc sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai chưa được sử dụng nhiều trong thực tế giảng dạy. Các tiết
học vẫn đơn thuần diễn ra với các hoạt động như thuyết trình, đàm thoại, giảng giải
rồi rút ra kiến thức, nội dung bài học.
Do đó, các tiết học môn CTQP-AN vẫn chưa thực sự gây hứng thú học tập cho
người học, người học tiếp thu bài một cách thụ động, không tích cực trong các hoạt
động học tập để chủ động tìm hiểu kiến thức khiến cho hiệu quả của các tiết dạy
chưa cao. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành và phát triển kĩ năng
kỹ xảo, ứng xử trong các mối quan hệ của người học.
Dưới đây là kết quả khảo sát mà chúng tôi thu được từ phía giảng viên và
người học về việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai
trong dạy học môn CTQP-AN.
Thứ nhất, về phía giảng viên
* Thực trạng nhận thức của giảng viên về bản chất của việc kết hợp phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN.
48
Bảng 2.3: Cách hiểu của giảng viên Trung tâm về kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN
Số Tỷ lệ TT Các quan niệm phiếu (%)
01 Là phương pháp chia nhóm diễn kịch cho NH xem. 0 0
Là việc sử dụng hài hòa phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai trong quá trình dạy học, để
02 hai phương pháp hòa quyện, hỗ trợ cho nhau trong 6 66,7
cùng một hoạt động, giúp NH chiếm lĩnh tri thức của
nội dung môn học.
03 Là cách tổ chức cho NH thành từng nhóm vui chơi. 2 22,2
Là cách chia NH thành từng nhóm diễn lại các động 04 1 11,1 tác có thật trong cuộc sống.
Kết quả điều tra cho thấy: đa số giảng viên Trung tâm cho rằng kết hợp phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN “Là
việc sử dụng hài hòa phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong
quá trình dạy học, để hai phương pháp hòa quyện, hỗ trợ cho nhau trong cùng một
hoạt động, giúp NH chiếm lĩnh tri thức của nội dung môn học” chiếm tỷ lệ 66,7%.
Như vậy, giảng viên đã hiểu đúng về bản chất của việc kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai trong quá trình dạy học môn CTQP-AN. Kết
hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai là giải quyết một tình
huống cụ thể của nội dung bài học có sự thảo luận của nhóm trước. Các tình huống
đó gắn với thực tiễn cuộc sống của NH. Sau đó thông qua cách diễn xuất bằng các
cử chỉ hành động như lời nói, tâm trạng, cách phục trang... để toát lên tính cách của
nhân vật qua đó NH hiểu được nội dung bài học.
Số giảng viên có quan niệm dạy học kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai: “Là cách tổ chức cho NH thành từng nhóm vui chơi” chiếm
22,2% hoặc “Là cách chia NH thành từng nhóm diễn lại các động tác có thật trong
cuộc sống” chiếm 11,1%. Với cách hiểu của giảng viên như trên là chưa đúng với
bản chất của việc sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai trong quá trình dạy học. Tuy nhiên không có giảng viên nào hiểu sử dụng
kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai “Là phương pháp
49
chia nhóm diễn kịch cho NH xem”. Điều đó chứng tỏ rằng giảng viên đã hiểu đúng
về bản chất của việc sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai trong quá trình dạy học.
* Thực trạng nhận thức của giảng viên Trung tâm về vai trò của việc kết hợp
phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai đối với hiệu quả cho NH
trong dạy học môn CTQP-AN.
Bảng 2.4: Phân chia mức độ nhận thức của giảng viên về vai trò của việc kết
hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai đối với hiệu quả
cho NH trong dạy học môn CTQP-AN
TT Các mức độ, lý do
Số phiếu Mức độ
Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết 01 02 03 7 2 0 Tỷ lệ (%) 77,8 22,2 0
Lý do
Rất cần thiết vì:
01 90 90
02 10 10 Giờ học sinh động, NH chủ động hơn trong việc chiếm lĩnh tri thức. NH có điều kiện trải nghiệm, tích lũy kinh nghiệm sống cho hoạt động xã hội sau này.
01 0 0
02 0 0
Không cần thiết vì: Giờ học ồn, kém hiệu quả. Giảng viên phải đầu tư cho bài học nhiều hơn, công phu hơn. Kìm hãm sự phát triển tư duy trừu tượng của NH. 0 0
03
Từ kết quả điều tra cho thấy: đa số giảng viên Trung tâm đánh giá cao tầm
quan trọng và sự cần thiết của việc sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai trong quá trình dạy học môn CTQP-AN cho NH. Có
77,8% giảng viên cho rằng việc tổ chức cho NH kết hợp thảo luận nhóm và đóng
vai là rất cần thiết. Theo đánh giá của GV, việc tổ chức cho NH sử dụng kết hợp
phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai làm cho giờ học sinh động,
50
NH chủ động hơn trong việc chiếm lĩnh tri thức, NH có điều kiện được trải nghiệm.
Mặt hạn chế của việc sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai trong quá trình dạy học môn CTQP-AN như giờ học ồn, kém hiệu quả,
giảng viên phải đầu tư cho bài học nhiều hơn, kìm hãm sự phát triển tư duy trừu
tượng của NH không được được đề cập đến. Bên cạnh những mặt tích cực của việc
sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai được các
GV khẳng định ở trên, nó cũng có những mặt hạn chế nhất định. Nếu giảng viên
không biết cách tổ chức, phân bố thời gian hợp lý NH sẽ rơi vào tình trạng chú trọng
đến “phần diễn” không tập trung chú ý đến việc thảo luận để tìm ra những tri thức
cơ bản, rèn kỹ năng cho NH, giờ học sẽ kém hiệu quả, không đạt được mục tiêu bài
học đặt ra.
Qua ý kiến của GV Trung tâm, tác giả khẳng định mức độ cần thiết và vai trò
của việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong giảng
dạy môn CTQP-AN cho NH hiện nay là rất cần thiết. Vấn đề quan trọng đặt ra là
phải tổ chức cho NH thảo luận nhóm kết hợp với đóng vai như thế nào để NH tích
cực, chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức đồng thời rèn luyện cho NH các kỹ
năng, kỹ xảo và hành vi thói quen theo mục đích môn học.
* Thực trạng về mức độ sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai của giảng viên trong dạy học môn CTQP - AN tại Trung tâm.
Bảng 2.5: Thống kê về mức độ sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai của giảng viên trong dạy học môn CTQP - AN tại
Trung tâm
STT Mức độ Số phiếu Tỷ lệ %
01 Thường xuyên 0 0
02 Không thường xuyên (đôi khi sử dụng) 3 33,3
03 Không tổ chức 6 66,7
Qua bảng thống kê điều tra cho thấy: Giảng viên ít tổ chức cho NH sử dụng
kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong quá trình dạy
học môn CTQP-AN. Có 33,3% giảng viên tổ chức nhưng không thường xuyên,
51
trong đó, có tới 66,7% giảng viên không tổ chức cho NH sử dụng kết hợp phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong quá trình dạy học môn CTQP-
AN.
Cũng qua khảo sát chúng tôi nhận thấy: điều kiện cơ sở vật chất, đồ dùng dạy
học cơ bản đầy đủ, đội ngũ giảng viên có tay nghề vững vàng việc tiếp cận cái mới
nhanh hơn, chất lượng học tập của NH cũng cao hơn. Nhưng thực tế cho thấy một
số giảng viên do năng lực hạn chế, thiếu kiến thức cập nhật liên hệ thực tiễn cho
nên việc tổ chức cho NH sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai còn gặp nhiều khó khăn. Nhất là việc giảng viên hướng dẫn NH chuẩn
bị thảo luận nhóm, lời thoại, cách diễn xuất của NH, hướng dẫn NH cách phục trang.
Đặc biệt, một số giảng viên chưa biết tổ chức cho NH kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai trong quá trình dạy học. Một số giảng viên
khác mặc dù nhận thức đúng về vai trò của việc tổ chức cho NH kết hợp phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai nhưng do chưa nắm vững quy trình
nên có tổ chức nhưng hiệu quả chưa cao, giờ học ồn, kém hiệu quả ảnh hưởng đến
tiến trình lên lớp.
* Thực trạng về cách thức sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN tại Trung tâm
Qua điều tra và dự giờ môn CTQP-AN của một số GV tác giả nhận thấy: Mặc
dù các đồng chí GV đã nhận thức đúng vai trò và tầm quan trọng của việc sử dụng
kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn
CTQP-AN, nhưng nhìn chung đa số giảng viên còn lúng túng trong việc tổ chức
cho NH thực hành sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai. Giảng viên thường căn cứ vào nội dung bài giảng, đặt câu hỏi cho NH
trả lời, yêu cầu NH thảo luận nhóm rồi đóng vai. Vì vậy, hệ thống câu hỏi thường
lộn xộn, chưa hướng cho NH vào mục đích thảo luận nhóm, quan sát các tình tiết
trong vai diễn, cử chỉ, hành động, lời thoại, cách phục trang... để rút ra tri thức nội
dung bài học, các chuẩn mực hành vi đạo đức, đồng thời hình thành và phát triển
các kỹ năng nhận xét đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh,
kỹ năng lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực xã hội…
cho NH thông qua các tình huống.
52
Một số giảng viên cho NH về nhà chuẩn bị lời thoại sẵn, hoặc giảng viên viết
sẵn lời thoại cho NH, nhiều nhóm NH cùng sử dụng một lời thoại để diễn xuất. Vì
vậy, giờ dạy trở nên buồn tẻ, mờ nhạt, không phát huy được vai trò chủ thể của
NH. Có những giờ học, giảng viên quá chú trọng đến phần diễn xuất kéo dài thời
gian xem đây là phần nội dung chính của giờ học, cách phục trang ở một số tiết
quá cầu kỳ như diễn kịch, vì vậy hiệu quả giờ giảng thấp giảng viên chưa xác định
đúng được mục đích của bài giảng.
Việc tổ chức cho NH thảo luận nhóm, thường bắt đầu từ việc nêu nội dung
tình huống cụ thể, xác định mục đích thảo luận, đóng vai, tổ chức cho NH đóng vai,
rút ra kết luận khoa học, ý nghĩa bài học. Tuy nhiên một số giảng viên chưa nắm
vững quy trình này.
Một số GV đã có ý thức trong việc đổi mới phương pháp dạy học, cố gắng tổ
chức cho NH tự thảo luận, chuẩn bị một số lời thoại, phân công các vai diễn, các nhân
vật cần tham gia diễn xuất, qua thảo luận nhóm các em tự chiếm lĩnh tri thức của bài
học. Qua dự giờ môn CTQP-AN của một số GV của Trung tâm tác giả nhận thấy khi
tổ chức cho NH đóng vai theo từng nhóm nhỏ GV thường tiến hành như sau:
Giảng viên chia NH thành các nhóm nhỏ, giảng viên nêu nội dung tình huống
để NH thảo luận (thường là các tình huống có sẵn trong giáo trình), các nhóm tiến
hành thảo luận theo yêu cầu của GV, sau đó giảng viên yêu cầu NH lên trình diễn,
GV yêu cầu các nhóm trả lời câu hỏi của mình, GV ghi các ý lên bảng.
Do cách tổ chức chưa chặt chẽ, GV chưa giao nhiệm vụ cụ thể qua phiếu giao
việc cho NH, trong quá trình NH theo dõi các nhóm diễn xuất NH chỉ chú ý đến
phần diễn, không quan tâm đến nội dung (diễn nhằm mục đích gì ? Tại sao lại như
vậy?). Trong quá trình thảo luận nhóm, một số NH không tham gia tích cực vào
hoạt động chung của nhóm, có những cá nhân làm việc riêng, không chịu suy nghĩ
chính vì vậy NH chưa thực sự tích cực hoạt động, chưa tập trung vào bài học, giờ
học còn ồn hiệu quả chưa cao.
Qua khảo sát một số giảng viên thường tổ chức cho NH thảo luận và đóng vai
theo các bước sau:
Bước 1: Giảng viên đưa ra tình huống
Bước 2: Chia nhóm - Cho các nhóm thảo luận.
53
Bước 3: Cho NH diễn xuất đóng vai.
Bước 4: Người học nhận xét.
Bước 5: Giảng viên rút ra kết luận.
Nhìn chung, cách tổ chức cho NH thảo luận và đóng vai theo các bước chưa
đầy đủ, chưa theo một quy trình chặt chẽ. Giảng viên chưa xác định được rõ công
việc của thầy và trò một cách rành mạch. Giảng viên còn làm việc nhiều thay cho
NH, đặc biệt cách tổ chức cho NH diễn xuất GV còn lúng túng nhiều, mỗi GV có
một cách tổ chức riêng, chưa thống nhất.
Như vậy, một số GV Trung tâm chưa nắm vững được quy trình tổ chức cho
NH thảo luận nhóm và đóng vai trong quá trình dạy học môn CTQP-AN. Đặc biệt,
khi tổ chức cho NH đóng vai theo các nhóm nhỏ GV còn gặp nhiều khó khăn như
việc theo dõi hướng dẫn chưa chặt chẽ khoa học, do đó NH chưa tích cực, chủ động
trong giờ học. Nhiều NH còn e thẹn, rụt rè không dám tham gia diễn xuất, hiệu quả
giờ dạy chưa cao.
Khi trả lời câu hỏi: Theo đồng chí để tổ chức cho NH kết hợp sử dụng phương
pháp thảo luận nhóm với phương pháp đóng vai cần phải có điều kiện gì ? phần lớn
GV đều nhất trí cho rằng:
Phải tuân theo một quy trình chặt chẽ.
Giảng viên phải có một trình độ và năng lực nhất định.
Giảng viên phải xây dựng được các tình huống cụ thể, phải lường trước được
các tình huống khác xảy ra để hướng dẫn NH.
Giảng viên hướng dẫn NH chuẩn bị bài, hướng dẫn cách trang phục, sử dụng
đạo cụ, đồ dùng học tập phù hợp với nội dung bài giảng.
Tuy nhiên, qua khảo sát tác giả nhận thấy một số giảng viên quan niệm phần
diễn là phần chính của việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai. Điều này đúng nhưng chưa đủ bởi phần diễn mới thể hiện được nội dung
của các tình huống thông qua tính cách của các nhân vật mà NH tham gia đóng vai.
Mục tiêu, nội dung bài học cần đạt không phải ở phần diễn mà giảng viên phải biết
cách tổ chức hướng dẫn NH tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình thảo luận
để các em rút ra được nội dung chính của bài học. Số giảng viên quan niệm như vậy
còn ít, thực trạng này cho thấy để đưa phương pháp này vào thực tiễn phát huy hết
54
tác dụng của nó cần phải nâng cao năng lực, nhận thức của giảng viên về bản chất
của việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy,
học môn CTQP-AN.
Như vậy, chúng ta khẳng định rằng PPDH trong giờ học này có rất nhiều hạn
chế, cần thiết phải được điều chỉnh và đổi mới làm cho giờ học sinh động hơn, NH
học tập tích cực hơn và chủ động lĩnh hội tri thức bài học bằng các hoạt động học
tập dưới sự tổ chức của GV.
Thứ hai, về phía người học (NH)
* Thực trạng nhận thức của NH về bản chất của việc kết hợp phương pháp
thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN.
Bảng 2.6: Cách hiểu của người học về kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN tại Trung tâm
Số Tỷ lệ TT Các quan niệm phiếu (%)
01 Là phương pháp chia nhóm diễn kịch cho NH xem. 21/168 12,5
Là việc sử dụng hài hòa phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai trong quá trình dạy học, để
02 hai phương pháp hòa quyện, hỗ trợ cho nhau trong cùng 108/168 64,3
một hoạt động, giúp NH chiếm lĩnh tri thức của nội
dung môn học.
03 Là cách tổ chức cho NH thành từng nhóm vui chơi. 16/168 9,5
Là cách chia NH thành từng nhóm diễn lại các động tác 23/168 13,7 04 có thật trong cuộc sống.
Căn cứ vào bảng 2.6 cho thấy đã có một số lượng lớn NH được khảo sát đã có
sự nhận thức đúng đắn về việc kết hợp giữa phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai trong dạy học đó là: việc sử dụng hài hòa phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp đóng vai trong quá trình dạy học, để hai phương pháp hòa
quyện, hỗ trợ cho nhau trong cùng một hoạt động, giúp NH chiếm lĩnh tri thức của
nội dung môn học (chiếm tỷ lệ 64,3%). Sự nhận thức đúng đắn này sẽ là cơ sở quan
55
trọng để NH có thể chủ động tham gia vào các tiết học khi giảng viên sử dụng kết
hợp hai PPDH này một cách tích cực, hiệu quả.
Tuy nhiên, vẫn còn có một số lượng nhất định NH hiểu sai hay nhầm lẫn của
việc kết hợp giữa hai phương này trong dạy học. Điều này cũng là lẽ tất yếu, bởi
bản thân giảng viên trong quá trình chúng tôi khảo sát tại Trung tâm cũng vẫn còn
có người hiểu chưa đúng về việc kết hợp giữa phương pháp thảo luận nhóm và đóng
vai trong quá trình dạy học.
* Thực trạng nhận thức của NH về mức độ cần thiết của việc giảng viên sử
dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học
môn CTQP-AN.
Bảng 2.7: Mức độ nhận thức của người học về sự cần thiết của việc giảng viên
sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai
trong dạy học môn CTQP-AN
Số Tỷ lệ Mức độ TT phiếu (%)
01 Rất cần thiết 113/168 67,3
02 Cần thiết 42/168 25,0
03 Không cần thiết 13/168 7,7
Nhìn vào bảng 2.7, số NH được khảo sát cho rằng việc giảng viên sử dụng kết
hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn
CTQP-AN là rất cần thiết chiếm tỷ lệ 67,3%. Trong khi đó chỉ có 7,7% số NH được
hỏi cho rằng giáo viên không cần thiết sử dụng kết hợp hai phương pháp này trong
dạy học môn CTQP - AN. Điều này cho thấy, NH có nhu cầu về việc giảng viên
nên thường xuyên thay đổi PPDH, sử dụng nhiều hơn các PPDH hiện đại để làm
mới các tiết học, khiến giờ học trở nên vui vẻ, sinh động.
Như vậy, không phải chỉ có học các môn chuyên ngành NH mới có nhu cầu
mong muốn GV đổi mới PPDH, ngay cả khi học tại Trung tâm Giáo dục Quốc
phòng - An ninh, NH vẫn mong muốn được học những giờ học mới mẻ mà không
phải là tiết học chỉ toàn lý thuyết nhàm chán và khô cứng.
56
* Thực trạng nhận thức của NH về mức độ sử dụng kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP - AN tại Trung tâm
Bảng 2.8: Nhận thức của người học về mức độ sử dụng việc kết hợp
phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai của giảng viên
trong dạy học môn CTQP - AN tại Trung tâm
STT Mức độ Số phiếu Tỷ lệ %
01 Thường xuyên 0 0
02 Không thường xuyên (đôi khi sử dụng) 84 50,0
03 Không tổ chức 84 50,0
Kết quả khảo sát bảng 2.8 cho thấy tỷ lệ giảng viên sử dụng kết hợp phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai của giảng viên trong dạy học môn
CTQP - AN tại Trung tâm được NH đánh giá với mức độ không thường xuyên
chiếm tỷ lệ 50% ý kiến được hỏi và 50% ý kiến được hỏi còn lại cho là giảng viên
không tổ chức việc kết hợp hai PPDH này trong bất cứ tiết học nào của môn CTQP
- AN. Nhận định này của NH khá tương đồng với kết quả mà chúng tôi đã khảo sát
giảng viên về mức độ sử dụng kết hợp hai PPDH này trong dạy học môn CTQP -
AN tai Trung tâm Giáo dục Quốc phòng, An ninh - ĐHTN.
Việc giảng viên không sử dụng thường xuyên kết hợp hai PPDH: thảo luận
nhóm và đóng vai trong dạy học môn CTQP - AN mà thường giảng viên sử dụng
đơn lẻ từng phương pháp và kết hợp với các PPDH truyền thống như thuyết trình,
đàm thoại. Chính bởi vậy nên NH không cảm thấy hứng thú với môn học, kết quả
học tập của môn học vì thế cũng không thật cao. Trong giờ học vẫn còn NH ngủ gật
hoặc nói chuyện, làm việc riêng, thiếu tập trung. Do đó, GV nên thay đổi, sử dụng
kết hợp nhiều hơn các PPDH hiện đại để việc giảng dạy mang lại sức hấp dẫn hơn
cho NH, giờ học có chất lượng cao hơn.
2.1.3. Những vấn đề thực tiễn đặt ra khi kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên
2.1.3.1. Về việc dạy của giảng viên
57
Qua việc khảo sát, phân tích số liệu tác giả rút ra một số nhận xét sau:
Phần lớn GV đã nhận thức đúng đắn sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN có một vị trí hết sức
quan trọng. Tuy nhiên, từ nhận thức đúng đắn đến việc làm đòi hỏi sự nỗ lực cố
gắng của mỗi GV. Đa số GV chưa tìm ra những biện pháp hữu hiệu để sử dụng
phương pháp này đạt hiệu quả cao nhất trong quá trình dạy học môn CTQP-AN. Vì
vậy, NH còn thụ động trong giờ học, đặc biệt là những giờ học có những nội dung
kiến thức mới luôn thay đổi trong cuộc sống, những kiến thức liên quan đến chuyên
môn quân sự mà NH ít va chạm trong cuộc sống, những giờ học thiếu đồ dùng trực
quan phù hợp, làm cho giờ học trở nên tẻ nhạt.
Trong dạy học môn CTQP-AN việc sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp đóng vai có tầm quan trọng đặc biệt. Đa số GV được điều tra
đánh giá cao về phương pháp đóng vai, đặc biệt là sử dụng kết hợp phương pháp
thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong giờ giảng môn CTQP-AN góp phần
hình thành cho NH những chuẩn mực hành vi đạo đức đồng thời hình thành và phát
triển các kỹ năng nhận xét đánh giá hành vi của bản thân và những người xung
quanh, kỹ năng lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực
đạo đức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo đối với các động tác thực hành quân sự…
Người học chủ động, sáng tạo, giờ học sinh động hơn, NH học tập hứng thú hơn.
Từ đó, hiệu quả dạy học, giáo dục được nâng cao.
Giảng viên đã tổ chức cho NH đóng vai, nhưng việc tổ chức cho NH kết hợp
thảo luận nhóm với đóng vai ít được GV tiến hành, hoặc tiến hành còn lộn xộn,
chưa theo một quy trình chặt chẽ, hiệu quả giờ học chưa cao, NH chưa thực sự hoạt
động tích cực trong giờ học, tiến trình lên lớp còn bị ảnh hưởng.
Giảng viên sử dụng phương pháp đóng vai chưa linh hoạt, các tình huống đưa
ra còn bị lệ thuộc nhiều vào giáo trình, chưa mạnh dạn đưa ra các tình huống có
thực gần gũi với đời sống của NH. Việc liên hệ các nhân vật có thực trong đời sống
cộng đồng còn hạn chế. Giảng viên hướng dẫn NH chuẩn bị lời thoại còn cứng nhắc,
chưa phát huy được tư duy ngôn ngữ của NH. Chính vì vậy, giờ học trở nên gò bó,
mang tính áp đặt cao.
2.1.3.2. Về việc học của người học
58
Chất lượng học tập môn CTQP-AN qua kiểm tra ở một số bài còn thấp. NH
chưa chủ động hứng thú trong giờ học. GV lên lớp chủ yếu hướng dẫn NH đọc
thuộc lời thoại mà GV đã chuẩn bị sẵn, gọi một số bạn mạnh dạn tham gia diễn xuất.
GV chưa quan tâm đến việc NH phải tích cực chủ động chuẩn bị các lời thoại theo
cách hiểu của NH, mỗi nhóm chuẩn bị các lời thoại khác nhau, cách diễn đạt khác
nhau để NH có thể chủ động tìm kiếm kiến thức. Vì vậy, NH còn bị áp đặt, thụ
động.
Theo tác giả, những tồn tại nêu trên chủ yếu do các nguyên nhân sau:
Theo ý kiến của các đồng chí GV, một trong những khó khăn mà GV gặp phải
trong quá trình dạy học môn CTQP-AN là việc sử dụng chưa hiệu quả các phương
pháp tổ chức dạy học. Việc sử dụng phương pháp đóng vai khó đối với GV và NH
vì sử dụng phương pháp này đòi hỏi NH phải có tính sáng tạo cao. Trình độ, năng
lực sư phạm của một bộ phận GV còn hạn chế, khi tiếp xúc với phương pháp dạy
học mới còn lúng túng. Trình độ của GV không đồng đều, xuất phát do GV được
đào tạo từ nhiều hệ khác nhau, chuyên ngành khác nhau.
Hiện nay môn CTQP-AN bao gồm 8 bài, chính vì vậy việc chuẩn bị bài giảng của
GV chưa được đầu tư một cách thích đáng. Giảng viên lên lớp truyền thụ cho NH
những kiến thức đã quy định trong nội dung giáo trình, ít liên hệ mở rộng thực tế,
nhất là cập nhật thông tin chính trị, quân sự và thời sự mới.
Đồ dùng và phương tiện dạy học hiện nay còn thiếu nhiều, một số đã hỏng,
đặc biệt là phương pháp đóng vai các nhân vật trong vai diễn lại phải có trang phục
phù hợp với tình huống đặt ra. Chính vì vậy đồ dùng dạy học phải thường xuyên
thay đổi, hơn nữa mỗi tình huống đóng vai trong một bài học khác nhau đòi hỏi phải
thay đổi trang phục khác nhau cho phù hợp với tình huống đặt ra. Vì vậy, trong một
bài học để sử dụng phương pháp đóng vai đạt hiệu quả đòi hỏi GV phải chuẩn bị
hết sức công phu, thậm chí còn tốn kém về kinh phí mà đời sống GV hiện nay chưa
đáp ứng được nhu cầu, vì vậy ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập môn
học.
Nhiều GV chưa có sự thống nhất về chuyên môn, còn nhiều ý kiến khác nhau
về phương pháp dạy học môn CTQP-AN, đặc biệt là sử dụng kết hợp phương pháp
thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong quá trình dạy học.
59
Những nguyên nhân trên làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả
dạy học môn CTQP-AN ở Trung tâm.
2.2. Quy trình thiết kế bài giảng môn Công tác quốc phòng, an ninh theo hướng
sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai
2.2.1. Các nguyên tắc xây dựng quy trình
Quy trình là trình tự phải tuân theo để tiến hành một công việc nào đó.
Quy trình dạy học là một tổ hợp các thao tác của GV hoặc của NH hay của cả
GV và NH được tiến hành theo một trình tự lôgic nhất định nhằm đạt được mục
đích dạy học.
Quá trình tổ chức cho NH học theo hướng sử dụng kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai chỉ đạt kết quả tối ưu khi được tổ chức theo
một quy trình cụ thể chặt chẽ, bao gồm các thao tác bố trí thành các hành động,
thành những công đoạn, sắp xếp theo một trật tự tuyến tính. Chúng ta cần tiến hành
theo một quy trình đảm bảo tính hệ thống, tính thực tiễn, tính hiệu quả. Khi xây
dựng quy trình tổ chức cho NH sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai trong quá trình dạy học môn CTQP-AN tác giả dựa trên
những nguyên tắc cơ bản sau:
2.2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống
Hoạt động dạy và hoạt động học là hai nhân tố cơ bản nằm trong cấu trúc hệ
thống của quá trình dạy học, giữa chúng có quan hệ biện chứng tạo nên sự thống
nhất của quá trình này. Quy trình dạy học theo hướng kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai phải là một chỉnh thể thống nhất giữa quy trình
dạy và quy trình học. Ở mỗi giai đoạn cụ thể dạy hoặc học các thành phần của nó là
các giai đoạn, các bước và các thao tác phải được liên kết với nhau theo một lôgic
chặt chẽ, yếu tố trước phải là điều kiện, tiền đề theo sự thực hiện chức năng của các
yếu tố đứng sau. Đồng thời các yếu tố đứng sau như là sự kế tục, hoàn thiện chức
năng, là sự hiện thực hoá của các yếu tố đứng trước.
Ở mỗi bước, mỗi giai đoạn, các thao tác tác động sư phạm của GV phải phù
hợp với thao tác NH và ngược lại. Sự phù hợp đó tạo thành sự thống nhất toàn vẹn
của quy trình và làm cho nó trở thành chỉnh thể hợp lí. Để đạt được điều đó cần xác
định:
Số lượng các giai đoạn, các bước, các thao tác vừa đủ để hoạt động có hiệu quả.
60
Nội dung các giai đoạn, các bước không quá phức tạp, cũng không đơn giản,
đảm bảo cho GV và NH có thể thực hiện được trong quá trình dạy học môn CTQP-
AN.
Các giai đoạn, các bước phải được sắp xếp theo một cấu trúc lôgic, kế tục
nhau, không được chồng chéo, không lặp lại và gần giống với lôgic tự nhiên của
hoạt động dạy và hoạt động học.
Sự phân giải và sắp xếp các yếu tố trong quy trình sao cho có thể dễ dàng kiểm
soát đến từng bước, từng thao tác cho đến sản phẩm cuối cùng.
Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống là nguyên tắc cơ bản để xây dựng và xác
lập quy trình dạy học theo hướng sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN.
2.2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và sư phạm
Qúa trình kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai phải
là một công trình khoa học sư phạm, được thực hiện một cách chuẩn xác, dựa trên
những đặc điểm của hai phương pháp, làm sao để nhược điểm của phương pháp này
được bù hoặc giảm xuống nhờ những ưu điểm của phương pháp kia và các ưu điểm
của hai phương pháp được nâng lên nhờ sự kết hợp này. Việc kết hợp cần được thực
hiện một cách linh hoạt, với những nội dung phù hợp, tránh tình trạng kết hợp một
cách cẩu thả, tùy tiện, vô nguyên tắc.
Để đảm bảo nguyên tắc này cần:
Vận dụng các phương pháp khác làm cầu nối, làm bước đệm tránh tình trạng
đơn điệu, cứng nhắc trong quá trình kết hợp.
Những vấn đề cho nhóm thảo luận cần lấy chính kết quả của khoa học chuyên
ngành làm đồ trực quan.
Vận dụng tối đa trong điều kiện có thể những thiết bị khoa học hiện đại vào
trong quá trình kết hợp.
Sử dụng linh hoạt hai phương pháp, lựa chọn phương pháp giữ vai trò trọng
tâm khi nó phát huy tối đa ưu điểm trong giai đoạn đó.
2.2.1.3. Nguyên tắc thể hiện tinh thần đổi mới phương pháp dạy học
61
Quy trình kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai tập
trung vào đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích
cực, chủ động của NH dưới sự hướng dẫn, tổ chức của GV nhằm phát huy tinh thần
chủ động, độc lập, sáng tạo trong chiếm lĩnh tri thức. Tránh lối học thụ động một
chiều là hạn chế của phương pháp dạy học truyền thống, thế nhưng cần tận dụng
các ưu điểm của phương pháp truyền thống để phát huy hơn nữa hiệu quả của quá
trình kết hợp, đồng thời tạo một bước đệm cho việc làm quen, vận dụng phương
pháp dạy học tích cực vào quá trình dạy học.
Để đảm bảo nguyên tắc này cần:
Đặt quá trình kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai
trong tổng thể các phương pháp dạy học nói chung, vận dụng linh hoạt các phương
pháp khác nhau trong quá trình kết hợp.
Đổi mới môi trường học tập, gắn học tập với thực hành và vận dụng; gắn mục
tiêu dạy kiến thức với việc hình thành các kỹ năng, kỹ xảo.
Đổi mới cách đánh giá thông qua đổi mới nội dung và hình thức đánh giá; phối
hợp cách đánh giá truyền thống với các đánh giá mới để đảm bảo tính khách quan,
trung thực, đánh giá được nhiều mặt của quá trình học tập.
2.2.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức
Quy trình kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong
dạy học môn CTQP-AN với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa
học cho NH tại Trung tâm phải đảm bảo tính vừa sức. Có nghĩa là nội dung thảo luận
và các yêu cầu làm việc với đồ dùng trực quan phải phù hợp với trình độ nhận thức của
NH, với thói quen tổ chức học tập, năng lực của GV Trung tâm.
Để đảm bảo nguyên tắc này cần:
Trong quá trình xây dựng quy trình phải nghiên cứu kỹ về trình độ nhận thức
của đối tượng NH để có những bước thực hiện hiệu quả như: lựa chọn đồ dùng trực
quan, lựa chọn yêu cầu thảo luận, lựa chọn biện pháp hỗ trợ.
Nắm được đặc điểm chung về tâm lý, động cơ, thái độ học tập của NH để từ
đó có những lựa chọn phù hợp về hình thức kết hợp.
62
Nghiên cứu năng lực, thói quen, tâm lý chung của GV dạy môn CTQP-AN để
có cách thức kết hợp phù hợp.
2.2.1.5. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn
Xây dựng quy trình tổ chức cho NH sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN phải dựa vào điều
kiện thực tiễn dạy học ở các bậc học nói chung, ở môn CTQP-AN nói riêng. Nó
phải phù hợp với đặc điểm nội dung, điều kiện, yêu cầu của GV, NH đồng thời có
tác dụng nâng cao hiệu quả dạy học. Cụ thể:
Phù hợp với đặc điểm nội dung, chương trình môn CTQP-AN.
Phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học.
Phù hợp với trình độ năng lực chuyên môn của đông đảo GV, phù hợp với điều
kiện cụ thể của các trường, các Trung tâm GDQP&AN, có khả năng triển khai ứng
dụng rộng rãi trong thực tiễn dạy học chương trình GDQP&AN.
Phù hợp với đặc điểm tâm lí, trình độ nhận thức của NH, đảm bảo tính vừa sức
đối với NH.
Có khả năng nâng cao chất lượng dạy và học, có nhiều ưu điểm hơn so với các
giải pháp hiện có trong dạy học môn CTQP-AN ở Trung tâm hiện nay.
Như vậy, dạy học theo hướng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai theo quy trình đề xuất phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và phải có
khả năng ứng dụng rộng rãi trong quá trình dạy môn CTQP-AN ở Trung tâm hiện
nay.
2.2.1.6. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả
Quy trình tổ chức cho NH sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai trong quá trình dạy học môn CTQP-AN không chỉ đảm bảo
tính thực tiễn mà còn phải đảm bảo tính hiệu quả. Nó vừa có thể ứng dụng rộng rãi
đồng thời nâng cao chất lượng dạy học.
Việc tổ chức cho NH thảo luận nhóm kết hợp với đóng vai phải đảm bảo cho
NH lĩnh hội tri thức cơ bản, đầy đủ với chất lượng cao và vững chắc. Bên cạnh việc
giúp NH lĩnh hội hệ thống tri thức đầy đủ và vững chắc, việc vận dụng quy trình
này vào quá trình dạy học phải nhằm vào mục tiêu hình thành cho NH những chuẩn
mực hành vi đạo đức; đồng thời, hình thành và phát triển các kỹ năng nhận xét đánh
giá hành vi của bản thân và những người xung quanh, kỹ năng lựa chọn và thực hiện
63
các hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức trong các quan hệ và tình huống
đơn giản cụ thể của cuộc sống, biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện. Mặt khác,
thông qua phương pháp dạy học này giúp cho NH hình thành các kỹ năng kỹ xảo
như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng nhận thức, kỹ năng ra quyết định, kỹ xảo thực hiện
các động tác, tư thế vận động trên chiến trường để vận dụng vào thực tiễn nếu chiến
tranh tương lai xảy ra... Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin vào khả năng
của bản thân, có trách nhiệm với hành động của mình, yêu thương tôn trọng con
người, mong muốn mang lại niềm vui hạnh phúc cho mọi người, yêu cái thiện, cái
đúng, cái tốt, không đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu, có niềm tin vào giai cấp,
lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc.
Việc tổ chức cho NH sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai theo quy trình này phải tăng cường được mức độ hoạt động của NH
trong giờ học, làm cho NH tích cực, chủ động hứng thú phù hợp với đặc điểm tâm
lí của lứa tuổi NH, phù hợp với định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Như vậy, quy trình tổ chức cho NH kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN phải tạo ra được hiệu quả một
cách toàn diện. Giúp NH nhận thức được các chuẩn mực hành vi đạo đức đồng thời
hình thành cho NH thái độ và kỹ năng hành vi đạo đức, kỹ xảo trong thực hành các
thao tác sử dụng các loại vũ khí bộ binh, các tư thế vận động trên chiến trường.
Trong đó, mục tiêu về kỹ năng chiến đấu là đích cuối cùng và quan trọng nhất của
nội dung chương trình GDQP&AN nói chung và môn CTQP-AN nói riêng.
2.2.2. Xây dựng quy trình thiết kế bài giảng
2.2.2.1. Quy trình thực hiện chung
Giai đoạn 1: Thiết kế bài giảng theo hướng kết hợp phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp đóng vai.
* Công việc của giảng viên
Bước 1: Xác định mục đích, yêu cầu, nội dung bài giảng.
Bước 2: Xác định mục đích sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai.
Bước 3: Lựa chọn nội dung thảo luận nhóm và đóng vai.
64
Bước 4: Lập kế hoạch tổ chức dạy học theo hướng kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai.
* Công việc của người học
Người học nghiên cứu nội dung bài giảng trước thông qua giáo trình, chuẩn bị
một số đồ dùng học tập, chuẩn bị đồ dùng trực quan, trang phục theo yêu cầu của
giảng viên.
Giai đoan 2: Thực hiện tiến trình dạy học theo tư tưởng kết hợp phương pháp
thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai.
* Công việc của giảng viên
Bước 1: Giảng viên giới thiệu bài giảng một cách sinh động, hấp dẫn nhằm lôi
cuốn người học vào quá trình học tập.
Bước 2: Tổ chức cho NH thảo luận nhóm kết hợp với đóng vai.
Chia người học thành các nhóm.
Giảng viên gợi ý cho NH chọn tình huống, phát phiếu giao nhiệm vụ.
Hướng dẫn giúp đỡ các nhóm thảo luận, chuẩn bị lời thoại, cách diễn xuất,
trang phục.
Tổ chức cho NH đóng vai
Bước 3: Kết luận nội dung bài giảng. Trong bước này GV cần cho NH nhóm
khác nhận xét kết quả làm việc của nhóm đang trình bày; thực hiện vai trò trọng tài
cho tranh luận giữa các nhóm; kết luận nội dung bài giảng.
* Công việc của người học
Bước 1: Người học tiếp nhận nội dung của bài giảng.
Bước 2: Tiến hành thảo luận nhóm kết hợp với đóng vai.
Ổn định tổ chức nhóm.
Nhận tình huống thảo luận và phiếu giao việc của nhóm.
Người học tổ chức thảo luận tìm hiểu sâu sắc nội dung tình huống, tiến hành
báo cáo kết quả thảo luận, chuẩn bị lời thoại của các nhân vật, phong cách diễn xuất
(lời nói, điệu bộ, cử chỉ...). Phân công các thành viên trong nhóm tham gia đóng vai
các nhân vật trong tình huống. Người học hóa trang phù hợp với các nhân vật trong
tình huống.
Người học thực hiện đóng vai.
65
Bước 3: Rút ra nội dung cơ bản của bài giảng.
Giai đoạn 3: Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của NH sau quá trình dạy học
theo hướng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai. *
Công việc của giảng viên
Giảng viên có thể thực hiện trong quá trình từng nhóm lên trình bày kết quả
của mình hoặc khi tất cả các nhóm đã trình bày xong, hay cuối giờ học tùy theo ý
tưởng của GV trong điều kiện cụ thể; về hình thức đánh giá có thế lựa chọn các hình
thức đánh giá khác nhau; điểm, sản phẩm, phần thưởng...; nội dung đánh giá gồm:
về việc chuẩn bị đồ dùng diễn xuất, trang phục (nếu giảng viên giao), về kiến thức
mà nhóm đã lĩnh hội, về sự tương tác của nhóm.
* Công việc của người học
Nhận xét, đánh giá kết quả hoạt động của nhóm mình và của nhóm bạn.
2.2.2.2. Quy trình thực hiện cụ thể
Quy trình tổ chức dạy học kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai là sự kết hợp chặt chẽ giữa quy trình dạy của thầy và quy trình học
của trò. Nó là trật tự logic các giai đoạn, các bước, các thao tác dạy và học từ khi
bắt đầu và cho đến khi kết thúc. Ở mỗi giai đoạn, mỗi bước các thao tác tác động sư
phạm của thầy và thao tác tự học của trò luôn luôn phù hợp với nhau giúp NH tích
cực tự học, tự chiếm lĩnh tri thức bằng chính các hành động của mình theo các bước
sau:
Giai đoạn 1: Thiết kế bài giảng theo hướng kết hợp phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN ở Trung tâm Giáo
dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
* Công việc của giảng viên
Bước 1: Xác định mục đích của bài giảng.
Mục đích là cái NH phải đạt được sau tiết giảng, bài giảng. Mục đích bao gồm
mục tiêu về kiến thức, về kỹ năng và về thái độ. Mục đích cần phải được GV xác
định cụ thể, đây là kim chỉ nam cho hoạt động dạy của GV và cũng là cơ sở cho
việc đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của NH.
Thông qua mục đích bài giảng, GV xác định được nội dung nào của bài giảng
sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai sẽ đem lại
kết quả khả quan. Việc xác định mục đích bài giảng của GV càng rõ ràng, chính xác
66
bao nhiêu thì việc tổ chức dạy học theo hướng kết hợp này càng đem lại hiệu quả
cao bấy nhiêu.
Bước 2: Xác định mục đích sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai.
Giảng viên cần xác định rõ mục đích của việc vận dụng kết hợp phương pháp
thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học. Đây là bước đặc biệt quan
trọng mang tính quyết định đến các bước tiếp theo cũng như trong suốt quá trình
kết hợp.
Mục đích của việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng
vai trong dạy học môn CTQP-AN là giúp NH chủ động, sáng tạo trong quá trình
lĩnh hội tri thức môn học thông qua việc trao đổi kinh nghiệm, kiến thức với các
thành viên khác trong nhóm dựa trên những đồ dùng trực quan, trang phục nhân vật
và hoạt động diễn xuất của các nhân vật. Đó là một trong những điều kiện khiến cho
việc tiếp thu những kiến thức mang tính lý luận, tính trừu tượng cao trở nên dễ dàng
và sống động. Hơn nữa thông qua hoạt động nhóm NH hình thành được các kỹ năng,
kỹ xảo: kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng giải quyết xung đột, kỹ năng trình
bày và bảo vệ ý kiến của mình; kỹ xảo thực hành các kỹ năng vận động trên chiến
trường, thao tác, động tác quân sự... điều rất cần thiết của người học trong giai đoạn
hiện nay, đặc biệt là trong tương lai nếu chiến tranh xảy ra.
Bước 3: Lựa chọn nội dung.
Trên cơ sở mục đích của bài giảng, giảng viên nghiên cứu và lựa chọn nội
dung phù hợp để dạy học theo hướng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai. Giảng viên nên lưu ý một số điểm sau khi lựa chọn:
Lựa chọn những nội dung dễ hiểu có tình huống cụ thể.
Lựa chọn nội dung không quá khó với kinh nghiệm sống và kiến thức của NH.
Tốt nhất nên chọn những nội dung có thể sử dụng các kiến thức liên môn để giải
thích, làm rõ.
Lựa chọn những nội dung GV hiểu thật sự sâu sắc. Vì trong quá trình thảo
luận, quá trình tự làm việc và chiếm lĩnh tri thức, với kiến thức và kinh nghiệm sống
còn ít của NH các kết luận NH rút ra rất đa dạng có nhiều khi trái chiều nhau. Cho
67
nên với vai trò là trọng tài GV sẽ không thể làm NH thỏa mãn nếu kiến thức không
thật sự sâu sắc.
Bước 4: Lập kế hoạch tổ chức dạy học theo hướng kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai.
Việc lập kế hoạch cho NH chiếm lĩnh tri thức theo hướng kết hợp phương pháp
thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai có vai trò hết sức quan trọng đến sự thành
công của hoạt động này trong thực tiễn. Nó đảm bảo cho GV chủ động trong toàn
bộ tiến trình lên lớp, giúp NH hoạt động có trọng tâm, hiệu quả.
Kế hoạch này của GV được thể hiện thông qua bài giảng. Đây là bản kế hoạch
chi tiết các hoạt động của thầy và trò cùng tri thức mà NH cần chiếm lĩnh. Do vậy
GV cần chú ý trong quá trình soạn bài giảng, thiết kế các hoạt động một cách hài
hòa, phân phối thời gian cho các hoạt động, dự kiến các tình huống có thể xảy ra...
Mục đích đầu tiên của quá trình dạy học là NH nắm được kiến thức cơ bản của
bài giảng. Do vậy, việc NH tổ chức thảo luận nhóm mục đích là việc lĩnh hội các tri
thức bài giảng. Như vậy, trong quá trình soạn bài giảng, giảng viên cần dành nhiều
thời gian để nghiên cứu câu hỏi thảo luận. Hệ thống câu hỏi đó phải đảm bảo:
Hướng vào nội dung môn học cần truyền tải. Câu hỏi đi từ chiếm lĩnh những
tri thức cụ thể đến những tri thức mang tính khái quát, trừu tượng.
Mang nghĩa tường minh.
Mang tính vừa sức để NH có thể vận dụng những kiến thức của môn học khác
hoặc kiến thức của bài giảng trước làm cơ sở cho việc phát hiện, chiếm lĩnh tri thức
của bài giảng mới.
Cấu trúc của bài giảng được thiết kế như sau:
I - Mục đích yêu cầu.
Kiến thức
Kĩ năng
Thái độ
II - Đồ dùng dạy học.
Chuẩn bị của giảng viên
Chuẩn bị của người học
III- Hoạt động lên lớp.
Kiểm tra bài cũ
68
Bài mới
1. Mở bài
Giảng viên (hoặc người học) làm gì?
2. Dạy bài mới
Hoạt động 1: (Nội dung và thời gian)
Công việc của giảng viên
Công việc của người học
Hoạt động 2: (Nội dung và thời gian)
Công việc của giảng viên
Công việc của người học
.......................................................
3. Củng cố, luyện tập
4. Đánh giá
5. Hoạt động nối tiếp (nếu cần)
Khi soạn bài giảng, lập kế hoạch tổ chức cho NH sử dụng kết hợp phương pháp
thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai, giảng viên cần thiết kế cả phiếu giao việc
cho NH. Trong phiếu giao việc GV xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập nhằm hướng
dẫn NH theo dõi nội dung bài giảng đúng trọng tâm, đúng hướng. Hệ thống câu hỏi,
bài tập được xây dựng trên cơ sở mục đích của việc thảo luận nhóm và trình độ hiểu
biết của NH nhằm:
Hướng NH tự khám phá tri thức thông qua việc thảo luận nhóm bằng cách theo
dõi tính cách, lời thoại của nhân vật trong các tình huống.
Giúp NH hiểu được mục đích, nhiệm vụ kết hợp giữa thảo luận nhóm và đóng
vai. (Mục đích kết hợp thảo luận nhóm và đóng vai để làm gì? NH sẽ rút ra được những
tri thức khoa học nào? Những kĩ năng nào cần rèn cho NH trong thực tiễn?).
Người học tìm ra được tri thức khoa học, kĩ năng mới trong quá trình học tập.
Giúp NH liên hệ, so sánh giữa các tình huống giả định với các tình huống có
thực diễn ra trong cuộc sống.
Giúp NH rèn luyện và hoàn thiện những kỹ năng đã học ứng dụng trong
cuộc sống.
69
Về nội dung và hình thức các câu hỏi, bài tập thiết kế trong phiếu giao việc
phải diễn đạt một cách chặt chẽ, rõ ràng, mạch lạc, chính xác và dễ hiểu. Cần đa
dạng hoá hình thức câu hỏi, bài tập gây sự hứng thú cho NH, đồng thời phù hợp với
trình độ nhận thức của NH. Các câu hỏi về đánh giá, nhận xét thái độ, hành vi của
từng nhân vật trong tình huống, có những câu hỏi để NH tự nhận xét, đánh giá về
chính bản thân mình, hay có những câu hỏi gợi mở để các em đưa ra các tình huống
ứng xử khác phù hợp với nội dung bài giảng...
Từ việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai với hệ
thống câu hỏi, NH sẽ biết được mục đích, nhiệm vụ thảo luận nhóm và đóng vai của
mình, biết theo dõi cách diễn xuất của các bạn đồng thời biết tìm ra được nội dung
kiến thức của bài giảng, đó là những tri thức mà mục tiêu bài giảng đưa ra.
Như vậy, khác với cách tổ chức cho NH sử dụng phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai thông thường. Hệ thống các câu hỏi trong phiếu học tập
không những có tác dụng định hướng hoạt động thảo luận nhóm và đóng vai cho
NH đi đúng mục đích, đúng kế hoạch, đúng trọng tâm mà còn có tác dụng tổ chức,
hướng dẫn, kiểm tra kết quả hoạt động của NH.
Trong quá trình lập kế hoạch nội dung bài giảng cho NH kết hợp phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai, GV cần chuẩn bị một số đạo cụ
đơn giản để hoá trang tăng thêm tính hấp dẫn của phương pháp đóng vai, chủ động
trong kế hoạch giảng dạy của mình.
* Công việc chuẩn bị của người học
Người học tìm hiểu trước nội dung bài giảng qua giáo trình, chuẩn bị một số
đồ dùng học tập, trang phục… theo yêu cầu của giảng viên.
Giai đoạn 2: Tổ chức hoạt động kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN ở Trung tâm Giáo dục quốc
phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
Đây là giai đoạn quan trọng nhất, có tính chất quyết định tới hiệu quả của quá
trình dạy học theo hướng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai. Bài giảng được kết cấu bởi nhiều tình huống dạy học. Sự kết thúc lời giải
của một tình huống này sẽ là điểm xuất phát mở đầu cho những lời giải tiếp theo
70
nhưng ở mức độ cao hơn tương ứng với sự lôgíc của bài giảng ở mỗi tình huống,
hoạt động của thầy và trò đều tuân theo các bước cụ thể như sau:
Bước 1: Giới thiệu nội dung bài giảng.
Việc giới thiệu nội dung bài giảng có một ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo cho
NH sự tò mò, háo hức chờ đợi các nội dung kiến thức, các tình huống nội dung bài
giảng sắp diễn ra đối với NH. Chính vì vậy, GV cần thay đổi cách giới thiệu nội
dung bài giảng bằng nhiều hình thức khác nhau (Thông qua một trò chơi, một câu
chuyện, một tình huống có vấn đề, một câu hỏi gợi mở...) nhằm lôi cuốn NH trong
quá trình học tập.
Người học tiếp nhận bài giảng, tiến hành các hoạt động dưới sự hướng dẫn của
giảng viên.
Bước 2: Tổ chức cho người học kết hợp thảo luận nhóm với đóng vai.
Đây là bước quan trọng nhất, hiệu quả của giờ dạy phụ thuộc rất lớn vào hoạt
động của giảng viên và người học ở bước này. Bao gồm những công việc sau:
* Công việc của giảng viên
Giảng viên chia NH thành các nhóm nhỏ, mỗi nhóm từ 4 - 5 thành viên (Số
lượng trong mỗi nhóm phụ thuộc vào nội dung bài giảng). Trong cách chia nhóm
GV lưu ý nên luân chuyển nhóm trưởng, các thành viên trong nhóm một cách linh
động, tránh sự trùng lặp để NH được giao lưu, học hỏi nhiều hơn.
Nêu nội dung tình huống một cách cụ thể, NH sẽ thảo luận trong nhóm để tìm
hiểu sâu sắc nội dung tình huống, chuẩn bị lời thoại của các nhân vật, phân công
mỗi thành viên đảm nhận một vai phù hợp với tính cách từng nhân vật để tham gia
diễn xuất.
Hướng dẫn NH phục trang sao cho phù hợp, sử dụng các đạo cụ phù hợp với
nội dung nhằm tăng thêm tính hấp dẫn, gây sự chú ý bất ngờ, phù hợp với đặc điểm
tâm lí người học. Giảng viên chuẩn bị một số phương án về cách ứng xử, lời thoại
của các nhân vật trong tình huống để hướng dẫn NH. Giảng viên theo dõi, tổ chức
hướng dẫn NH. Đặc biệt quan tâm giúp đỡ các nhóm NH gặp khó khăn trong quá
trình thảo luận cũng như đóng vai.
Tổ chức cho người học đóng vai nhân vật.
* Công việc của người học
71
Người học tổ chức thảo luận nội dung (tình huống) giảng viên nêu ra
Các nhóm ổn định tổ chức, cử nhóm trưởng, người thư ký ghi chép.
Các nhóm tiếp cận nhiệm vụ học tập của mình qua phiếu giao việc và lời giải
thích hướng dẫn của giảng viên.
Người học phải ý thức được mục đích, yêu cầu và nhiệm vụ thảo luận nhóm và
đóng vai, hình thành nhu cầu giải quyết nhiệm vụ. Đây chính là động lực thúc đẩy tính
tích cực chủ động, sự sáng tạo của mỗi NH nói riêng và cả nhóm nói chung.
Các nhóm tiến hành thảo luận, chuẩn bị lời thoại, phong cách diễn xuất theo
yêu cầu nội dung tình huống.
Phân công đóng vai.
Người học có thể đóng vai chiến sỹ, cán bộ chỉ huy, quần chúng nhân dân hay
một tên địch... Mỗi nhân vật có một tính cách riêng, chịu ảnh hưởng bởi hoàn cảnh
của nhân vật cụ thể... Chính vì vậy, NH thảo luận để tìm hiểu tính cách từng nhân
vật, chọn các thành viên trong nhóm tham gia diễn xuất phù hợp với tính cách của
các nhân vật đó.
Người học chọn cách phục trang
Giảng viên gợi ý hướng dẫn cho NH chọn cách phục trang phù hợp với nhân
vật để tăng thêm tính hấp dẫn, gây sự chú ý của NH. Cách phục trang không nên
quá cầu kì làm mất thời gian không đảm bảo yêu cầu nội dung bài giảng.
Người học thực hiện đóng vai
Người học tham ra diễn xuất cần chú ý đến: phong cách, điệu bộ, lời thoại....
biểu diễn phải hết sức tự nhiên phù hợp với tính cách của từng nhân vật. Người học
phải biết “hoá thân” vào nhân vật, tạo dựng cho nhân vật sống đúng với hoàn cảnh
thực. Một tình huống có thể nhiều nhóm cùng tham ra diễn xuất, qua đó chúng ta
có thể so sánh đánh giá sự sáng tạo của người học.
Bước 3: Tổ chức cho người học báo cáo kết quả
* Công việc của giảng viên
Tổ chức cho NH báo cáo kết quả thảo luận nhóm và đóng vai trước trung đội.
Để rèn luyện cho NH cách nghe, cách hiểu, tái hiện lại những thông tin đã thu nhận,
72
GV có thể yêu cầu các nhóm khác nhận xét về lời thoại, phong cách biểu diễn, cách
trang phục... của nhóm khác có phù hợp với nội dung tình huống nêu ra hay không,
đồng thời bổ sung ý kiến của nhóm mình.
* Công việc của người học
Ở bước này người học tiến hành các công việc như sau:
Đại diện các nhóm lên báo cáo kết quả quá trình thảo luận nhóm và đóng
vai của nhóm mình trước trung đội.
Các nhóm khác lắng nghe, tranh luận, bổ sung ý kiến của nhóm mình.
Người học rút ra được tri thức khoa học, những kỹ năng cần rèn luyện, liên hệ
thực tiễn, ý nghĩa bài giảng.
Bước 4: Giảng viên nhấn mạnh và chốt những nội dung trọng tâm.
Trên cơ sở kết quả thảo luận nhóm và đóng vai của các nhóm GV khái quát lại
toàn bộ vấn đề, những kết luận về nhận thức, kỹ năng, hành vi, thái độ, tình cảm, đây
chính là mấu chốt lại những vấn đề cơ bản trọng tâm của bài giảng.
Cũng có thể GV nêu lên một tình huống để NH tự đánh giá nhận xét, đưa ra
các phương án giải quyết, rút ra các tri thức khoa học và các hành vi ứng xử. Sau
đó GV chốt lại nội dung kiến thức của bài giảng. Đồng thời GV cần dành thời gian
động viên, khen thưởng những nhóm hoạt động tích cực, có kết quả thảo luận và
đóng vai tốt.
Người học nhắc lại những kết luận chung của bài giảng hoặc đánh giá các hành
vi của các nhân vật trong tình huống, trong cuộc sống mà NH bắt gặp.
Giai đoạn 3: Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của người học
Kiểm tra đánh giá là khâu cuối cùng của bất kì một quá trình dạy học nào,
nhằm xác định tính đúng đắn của việc thực hiện quá trình cũng như kết quả của quá
trình ấy. Việc tổ chức cho NH kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai với tư cách là phương pháp dạy học cần được kiểm tra đánh giá,
thông qua đó để kịp thời điều chỉnh quá trình hoạt động của GV và hoạt động của
NH, đồng thời rút kinh nghiệm cho NH quá trình về sau.
Việc đánh giá được xác định trên các tiêu chí sau:
73
Kết quả nhận thức của người học.
Kết quả của việc hình thành kỹ năng cho người học.
Kết quả giáo dục về thái độ tình cảm cho người học.
Mức độ chú ý của người học trong giờ học.
Khi đánh giá kết quả học tập của NH sau mỗi tiết học cần tạo điều kiện cho
các em tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Bao gồm;
Đánh giá về mặt định lượng:
Kết quả học tập của người học.
Kĩ năng vận dụng kiến thức, bộc lộ kỹ năng của người học như kĩ năng kĩ năng
nhận xét đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh, kĩ năng lựa chọn
và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức, kỹ năng thực hành
các thao tác, động tác quân sự thông qua các tình huống đơn giản cụ thể.
Đánh giá về mặt định tính:
Mức độ hoạt động của người học trong giờ giảng.
Mức độ chú ý của người học trong tiến trình bài giảng.
Cách ứng xử của người học với mọi người xung quanh. Thái độ tự trọng, tự
tin vào khả năng của bản thân...
Đánh giá chung:
Nhằm mục đích đánh giá toàn diện về hiệu quả việc sử dụng kết hợp phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN ở
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
Khi kiểm tra, đánh giá kết quả học tập sau mỗi tiết giảng cần tạo điều kiện cho
NH tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau.
Giảng viên theo dõi cách ứng xử của người học thông qua nội dung bài giảng
trên lớp, cách ứng xử, đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh
theo các chuẩn mực hành vi đã học.
Giảng viên theo dõi đánh giá và giúp đỡ người học điều chỉnh hành vi theo các
chuẩn mực đạo đức.
74
Giảng viên theo dõi, đánh giá cả về kỹ năng đóng vai của người học thông qua
các vai diễn, để người học có thể hoàn thiện bản thân và vận dụng linh hoạt trong
thực tiễn của cuộc sống.
2.2.3. Điều kiện để thực hiện quy trình tổ chức cho người học kết hợp phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai đạt hiệu quả
Tổ chức cho người học kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai trong giờ giảng môn CTQP-AN là một phương pháp dạy học tích cực, phát
huy được tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học trong quá trình học tập. Tuy
nhiên, để tổ chức cho NH sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai có hiệu quả chúng ta cần lưu ý một số vấn đề sau:
2.2.3.1. Về phía Trung tâm và các cấp quản lý
Để sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai
được thành công và mang lại chất lượng dạy và học đạt kết quả tốt đòi hỏi Trung
tâm cần thực hiên các yêu cầu sau:
Phải có kế hoạch đầu tư về cơ sở vật chất và con người, kế hoạch tài chính
hàng năm ngoài việc dành một khoản tương xứng cho việc mua sắm trang thiết bị
dạy học, hình thành các phòng học chuyên dụng còn dành một phần kinh phí cho
nghiên cứu triển khai, thực hiện một số sản phẩm của hoạt động nghiên cứu khoa
học và tham quan học tập trong và ngoài nước cho giảng viên.
Phải chú trọng khuyến khích cả về tinh thần, vật chất cho những giảng viên
đã nhiệt tình và tốn nhiều công sức cải tiến và đổi mới phương pháp dạy học, chuyên
tâm đầu tư thời gian cho nghiên cứu khoa học.
Bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng sư phạm cho đội ngũ cán bộ giảng viên phải
là bước đầu quan trọng và được thực hiện qua các hình thức khác nhau. Đặc biệt là
phải chú trọng bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho các giảng viên chưa có chứng chỉ
giáo dục đại học theo chương trình chung.
Phải tổ chức các hội thảo chuyên đề kèm theo các báo cáo, và các bài giảng
minh hoạ được chuẩn bị trước để học tập và trao đổi kinh nghiệm.
Phải khai thác và sử dụng tối đa các nguồn vốn để đầu tư nâng cấp cơ sở vật
chất kỹ thuật, trang thiết bị và phương tiện dạy học kết hợp với việc khuyến khích
75
giảng viên tham gia thiết kế và chế tạo phương tiện và đồ dùng dạy học từ đơn giản
đến phức tạp.
Phải chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của các cán bộ giảng viên để
họ có thể yên tâm cho công tác giảng dạy của mình.
Đối với đội ngũ cán bộ là trưởng, phó Phòng, Khoa, Khung quản lý người
học, các tổ chức Đảng, đoàn thể trong Trung tâm phải thực sự là một thành tố tham
gia vào quá trình giáo dục đào tạo, phải nắm vững mục tiêu dạy học, đặc điểm và
yêu cầu khi sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng
vai. Cán bộ quản lý phải có nhận thức đúng vai trò tầm quan trọng của việc kết hợp
phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai. Trung tâm phải có cơ chế
tạo cơ sở pháp lý tổ chức cho giảng viên, người học tiến hành sử dụng kết hợp
phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai, tạo môi trường thuận lợi
cho giảng viên, người học tổ chức thực hiện. Tổ chức quản lý sao cho phù hợp, khoa
học, có thái độ xem xét đánh giá đúng, khách quan, động viên người học để họ phát
huy nỗ lực chủ quan của mình ngày càng tốt hơn. Các cấp quản lý phải có quyết
tâm đổi mới, phải có tổ chức chặt chẽ và thực hiện từng bước có lãnh đạo, không
thể thực hiên đơn lẻ.
Ngoài các biện pháp sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai trong bài giảng môn CTQP-AN, Trung tâm còn phải xây dựng đội
ngũ cán bộ làm công tác quản lý có đầy đủ phẩm chất và năng lực; thường xuyên
xây dựng Trung tâm chính quy, vững mạnh toàn diện, bảo đảm trong mọi tình huống
vẫn đào tạo được người học có phương pháp tư duy mau lẹ, linh hoạt sáng tạo.
2.2.3.2. Về phía giảng viên
Giảng viên phải được đào tạo cơ bản, vừa có kiến thức chuyên môn sâu rộng,
vừa có trình độ sư phạm lành nghề, biết ứng xử các tình huống tinh tế sư phạm, biết
sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học hiện đại, biết tổ chức hướng dẫn các
hoạt động nhận thức của NH. Nếu không có trình độ khoa học cao thì không trở
thành giảng viên giỏi, song không phải bất kỳ nhà khoa học nào cũng là nhà sư
phạm giỏi. Vì vậy, giảng viên phải luôn nỗ lực cố gắng thời gian để tự nghiên cứu,
tự trau dồi chuyên môn để tự vun đắp cho sự nghiệp giáo dục của mình. Đặc biệt,
giảng viên phải luôn rèn luyện cho mình phẩm chất đạo đức cách mạng và lương
76
tâm nghề nghiệp và phải coi nghề dạy học của mình là nghề dạy chữ, dạy người và
dạy nghề. Giảng viên phải luôn bồi dưỡng lòng yêu nghề, tính kỷ luật và tinh thần
trách nhiệm cao. Đối với giảng viên môn CTQP-AN điều này càng trở nên quan
trọng vì họ không chỉ là giảng viên có nhiệm vụ truyền thụ kiến thức quốc phòng
an ninh, mà còn là người giáo dục cho NH đạo đức, hình thành lý tưởng, chuẩn mực
đạo đức cho thế hệ kế cận, tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà Nước. Đặc biệt, phải tạo cho họ có nhiều thời gian để nghiên cứu tích lũy
và trau dồi kiến thức, có thời gian nghỉ ngơi, nghiên cứu khoa học, vì nghiên cứu
khoa học là con đường duy nhất để tích luỹ kiến thức, nâng cao trình độ, gọt sắc tư
duy góp phần tìm ra những hình thức, biện pháp thích hợp truyền đạt kiến thức đến
người học.
Mỗi giảng viên phải coi nhiệm vụ học tập, bồi dưỡng và nâng cao trình độ
chuyên môn là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng nhất để đáp ứng yêu cầu
giảng dạy và nghiên cứu khoa học ngày càng cao của Trung tâm, đáp ứng yêu cầu
đổi mới phương pháp dạy học. Để làm sao cho mỗi tiết giảng đều thu hút được sự
chú ý của NH và đạt được nhiều giờ giảng tốt. Quan trọng hơn là giảng viên phải
tham gia các lớp học ngoại ngữ và tin học để có thể dịch được các tài liệu dạy học
nước ngoài và sử dụng thành thạo các phương tiên kỹ thuật dạy học hiện đại. Giảng
viên phải liên tục học tập và học tập suốt đời thì mới đáp ứng được chương trình
giáo dục đào tạo của Trung tâm. Từ nắm vững lý luận, trao đổi về kinh nghiêm,
mỗi giảng viên trong từng bài giảng, từng môn học cần tìm tòi, đổi mới phương
pháp giảng dạy phù hợp, có sự liên hê chặt chẽ với những thay đổi về nội dung
giáo trình. Vì vậy, mỗi GV phải luôn tự học, tự bồi dưỡng nâng cao lý luận, kĩ
năng dạy học môn CTQP-AN, cách hướng dẫn NH học tập nhất là kĩ năng tổ chức
cho NH sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai.
Phương pháp đóng vai vừa là kĩ thuật, đồng thời vừa là nghệ thuật, đòi hỏi GV
phải có năng lực sư phạm nhất định, GV phải sử dụng linh hoạt các phương pháp
và hình thức dạy học một cách sáng tạo. Tuỳ thuộc vào nội dung từng bài, từng tình
huống cụ thể trong mối tương quan với các phương pháp dạy học khác.
Trong bài giảng tổ chức cho NH sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai GV phải chuẩn bị chu đáo kế hoạch, nội dung bài giảng
77
và các phương tiện phục vụ dạy học. Dự kiến các bước tiến hành, chuẩn bị các tình
huống và định hướng cách giải quyết trong mỗi tình huống đó, đồ phục trang, phiếu
giao việc cho các nhóm. Giờ giảng sẽ không đạt hiệu quả khi GV không chuẩn bị
kỹ kế hoạch bài giảng, NH thiếu những đồ dùng học tập cần thiết.
Giảng viên phải dự kiến phân bố thời gian hợp lí cho từng hoạt động thảo luận
nhóm và đóng vai của NH. Điều này rất quan trọng vì nếu phân bố thời gian không
hợp lí, tổ chức không tốt sẽ ảnh hưởng đến tiến trình lên lớp. Nếu kéo dài thời gian
đóng vai giờ học trở thành “diễn kịch” giờ giảng sẽ kém hiệu quả, bởi phần đóng
vai không phải là nội dung chính của bài giảng. Người học có tìm ra được tri thức
khoa học, rèn luyện các kĩ năng sống hay không lại phụ thuộc vào phần thảo luận
nhóm. Vì vậy, GV phải chủ động về mặt thời gian, đảm bảo đúng yêu cầu về mặt lí
luận dạy học, tuân thủ lôgic của quá trình dạy học.
Trong quá trình NH tiến hành thảo luận nhóm và đóng vai, giảng viên phải
thường xuyên quan sát theo dõi giúp đỡ NH trong những tình huống có vấn đề đối
với NH. Nếu NH chưa hiểu được nội dung tình huống, không viết được lời thoại
theo đúng yêu cầu tình huống nêu ra GV cần phải theo dõi gợi ý, hướng dẫn NH
cách viết lời thoại. đây là vấn đề khó đối với NH bởi lời thoại phải ngắn gọn, xúc
tích, dễ hiểu, dễ thuộc, toát lên được nội dung tình huống. Cách phục trang của NH
không nên quá cầu kì làm mất thời gian, hiệu quả giờ giảng thấp. Cách thể hiện vai
diễn nhẹ nhàng phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi NH. Giảng viên phải tạo ra
không khí vui vẻ, nhẹ nhàng, thoải mái trong giờ giảng, NH cảm thấy tự tin, tạo đà
cho sự phát triển của nội dung tiếp theo.
Không nên chia nhóm quá đông, giảng viên cần lưu ý căn cứ vào tình huống
cụ thể để phân nhóm sao cho NH có thể đảm nhiệm được tất cả các vai trong tình
huống, tránh tình trạng NH nam phải đóng vai nữ và ngược lại. Những thành viên
có tính cách mạnh mẽ và nhút nhát cũng cần phải lưu ý trong quá trình phân nhóm
tạo cơ hội tốt nhất để NH tham gia đóng vai một cách tự tin đạt hiệu quả cao nhất
trong giờ giảng.
2.2.3.3. Về phía người học
78
Để sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai
trong dạy học môn CTQP-AN ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại
học Thái Nguyên được hiệu quả thì đòi hỏi người học phải thực hiện tốt các yêu cầu
sau:
Người học luôn có thái độ học tập đúng đắn và nghiêm túc, có tư tưởng cầu
tiến trong học tập, có mục đích học tập rõ ràng, luôn tích cực và tự giác trong học
tập, không được coi thường môn học. Mỗi người học phải nhận thức được vị trí,
tầm quan trọng của môn CTQP-AN, phải rèn luyện cho mình cách học và phương
pháp học, luôn tự bồi dưỡng cho mình niềm say mê và hứng thú học tập, đặc biệt
phải có niềm tin vào tri thức, có như vậy mới đem lại kết quả học tập tốt.
Người học phải luôn có ý thức tự học, tự nghiên cứu ngoài giờ lên lớp và chăm
chỉ đọc tài liệu tham khảo ở thư viên hay tìm kiếm thông tin trên mạng để phục vụ
cho hoạt động học tập của mình đạt kết quả tốt.
Người học chuẩn bị bài trước khi lên lớp, có như vậy mới có thể tiếp nhận tri
thức thầy truyền đạt và không cảm thấy mơ hồ, khó hiểu.
Phải biết rèn luyện cho mình tinh thần tự giác học tập, tự nghiên cứu và say
mê nghiên cứu khoa học.
Người học phải chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ học tập theo yêu cầu nội dung bài
giảng.
Người học phải độc lập suy nghĩ, thảo luận rút ra nội dung kiến thức, hành vi
ứng xử trong cuộc sống, đóng vai phù hợp với nội dung các tình huống đưa ra.
Khi thảo luận nhóm và đóng vai cần phân bố thời gian phải phù hợp tránh tình
trạng kéo dài, quá cầu kì trong cách trang phục dẫn đến nội dung bài giảng không
đạt yêu cầu.
2.2.3.4. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học
Xuất phát từ nhu cầu cấp bách đối với chất lượng dạy học và từ vai trò là trợ
giúp cho phương pháp dạy học. Việc đổi mới cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật
dạy học là một vấn đề cấp thiết ở Trung tâm hiện nay. Việc đổi mới cơ sở vật chất,
phương tiện kỹ thuật dạy học ở Trung tâm trước hết phải xuất phát từ mục đích,
nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của Trung tâm. Bởi, mục đích, nhiệm vụ dạy học đã
quy định nội dung hoạt động của giảng viên, người học. Nếu cơ sở vật chất, phương
79
tiện dạy học đáp ứng được yêu cầu của hoạt động dạy và học sẽ làm cho hiệu quả
của hoạt động đó cao hơn. Như vậy, nếu xây dựng được hệ thống cơ sở vật chất,
phương tiện kỹ thuật dạy học hợp lý thì sẽ nâng cao được chất lượng và hiệu quả
dạy học tại Trung tâm. Tính hợp lý đó chính là sự đáp ứng tốt nhất các yêu cầu hoạt
động dạy và học tương ứng với mục đích và nhiệm vụ dạy học đã đề ra. Bên cạnh
việc phù hợp với mục đích, nhiệm vụ dạy học, quá trình đổi mới cơ sở vật chất,
phương tiện dạy học còn phải gắn liền với việc đổi mới phương pháp dạy học, nhờ
đó mới lôi cuốn được phương tiện, kỹ thuật mới vào quá trình dạy học, góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo. Đổi mới cơ sở vật chất phương tiện kỹ thuật dạy học
phải được quan tâm đầy đủ trên tất cả các môn học; phải gắn liền với nâng cao năng
lực khai thác sử dụng các phương tiện đó; phải phát huy tác dụng của các phương
tiện dạy học hiện có, đồng thời phải đảm bảo tính kinh tế. Tránh hiện tượng chạy
đua theo cái mới, đầu tư quá kinh phí cho phép, gây lãng phí, hiệu quả chất lượng
giáo dục đào tạo thấp. Trung tâm phải phải tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang
bị thêm những trang bị kỹ thuật hiện đại như: máy tính, máy chiếu, giảng đường
chuyên dụng, bổ sung các loại giáo trình, sách báo, tài liêu tham khảo trong hê
thống thư viện. Đặc biệt là các tài liêu tham khảo phải được cập nhật thường xuyên,
đảm bảo khai thác thông tin từ mạng máy tính, xây dựng và hoàn thiện hệ thống
thư viện điện tử. Phải tập trung củng cố nâng cấp thư viện phổ thông và tăng cường
đầu tư các thiết bị dạy học hiện đại, tăng số lượng đầu sách, giáo trình, các tài liệu
tham khảo, tổ chức biên dịch và khai thác có hiệu quả các nguồn tài liệu để có đầy
đủ đầu sách, phục vụ cho học tập và nghiên cứu của giảng viên và người học góp
phần nâng cao chất lượng dạy học của Trung tâm.
2.2.3.5. Đổi mới tư duy, cách dạy, cách học, cách tổ chức kiểm tra, thi, đánh giá kết
quả học tập của người học
Đổi mới phương pháp phải được tiến hành đồng bộ với đổi mới mục tiêu, nội
dung, cách thức tổ chức kiểm tra, thi, đánh giá kết quả học tập của NH. Để đổi mới
phương pháp cần phải yêu cầu đổi mới mục tiêu, nội dung và hình thức kiểm tra,
thi, đánh giá kết quả học tập của NH.
Về mục tiêu dạy học, cần phải chuyển mục tiêu chủ yếu là trang bị kiến thức
sang phát triển tư duy sáng tạo cho người học.
80
Về nội dung dạy học, chuyển từ những nội dung chủ yếu được lấy trong sách
vở và các tài liêu lý luận sang những nội dung rút ra từ cả lý luận và thực tiễn, các
tình huống hoạt động trong huấn luyện và chiến đấu thực tiễn.
Về kiểm tra, thi, đánh giá kết quả học tập của NH, phải từng bước đổi mới các
phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của NH như: thi vấn đáp, thi trắc
nghiệm, xêmina buộc giảng viên phải thay đổi cách dạy, NH phải thay đổi cách học.
Đổi mới hệ thống đánh giá, đánh giá phải dựa vào mục tiêu, áp dụng các
phương pháp thích hợp và tiến bộ trong đánh giá sao cho khách quan, tin cậy, chính
xác. Bởi vì, dù chương trình phù hợp đến đâu, giảng dạy cải tiến đến đâu, nhưng
cách đánh giá không đổi mới thì không đem lại hiệu quả, người học có hứng thú
nhưng không có điều kiện để thực hiện.
Như vậy:
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn, tác giả thấy cần thiết phải đề ra cách thức quy
trình tổ chức cho người học thực hiện kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN bao gồm các giai đoạn, các
bước, được sắp xếp theo một trình tự hợp lí. So với cách thức tổ chức cho người
học thảo luận nhóm và đóng vai thông thường, việc tổ chức cho người học sử dụng
kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai được tiến hành dựa
trên những hoạt động cụ thể của người học dưới sự định hướng, điều khiển của
giảng viên và thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập trong phiếu giao việc. Trong điều
kiện cho phép quy trình này có thể vận dụng vào quá trình dạy học môn CTQP-AN
ở các Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh khác, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học, rèn luyện kĩ năng, kỹ xảo cho người học. Nếu hiệu quả ấy được
khẳng định, thì cách thức, quy trình tổ chức cho người học thực hiện kết hợp phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai hoàn toàn có tính khả thi.
Tiểu kết chương 2
Một trong những yếu tố quyết định trong quá trình giáo dục đó là lựa chọn và vận dụng phương pháp. Nếu lựa chọn đúng phương pháp và vận dụng linh hoạt các phương pháp trong quá trình dạy học sẽ tạo cho người học niềm say mê, hứng thú trong học tập do vậy đổi mới phương pháp dạy học trở thành vấn đề quan trọng
81
trong giáo dục hiện nay. Kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai là lựa chọn mang tính khả thi về mặt phương pháp.
Sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên cần phải được tuân theo một quy trình nhất định. Từ khâu chuẩn bị lên lớp của giảng viên và người học đến khâu tổ chức thực hiện và cuối cùng là kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động học tập đều phải được chú ý đúng mức. Mỗi khâu có một chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ biện chứng và nằm trong một chỉnh thể đế quá trình dạy học được thực hiện một cách thống nhất, khoa học và có hiệu quả cao.
Cùng với việc thực hiện quy trình nêu trên việc sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên chỉ đem lại hiệu quả cao khi có những thay đổi trong nhận thức của cả một hệ thống giáo dục từ cấp quản lý đến giảng viên và người học, cũng như những thay đối trong nhận thức của xã hội. Từ những nhận thức đúng đắn về vấn đề đó, cấp quản lý cần có được chủ trương đúng đắn mang tính chỉ đạo lâu dài, cũng như những hướng dẫn cụ thể cho quá trình thực hiện. Quan trọng nhất là việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn giảng dạy. Chỉ có việc tổ chức thực hiện một cách bài bản, khoa học làm cho quá trình kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP- AN ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên mới diễn ra thành công, đem lại ý nghĩa cho công tác giáo dục, đó mới chính là mục đích của nghiên cứu và đổi mới phương pháp dạy học. Quá trình thực hiện đó cần có sự nỗ lực, hợp tác của Ban Giám đốc, các Phòng, Khoa và giảng viên dạy môn CTQP- AN. Trong đó hoạt động tích cực của giảng viên có vai trò quyết định. Do đó, để thực hiện thành công bên cạnh vững kiến thức, giảng viên dạy môn CTQP-AN của Trung tâm cần rèn luyện, hình thành cho mình những kỹ năng cần thiết khác để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Chương 3
THIẾT KẾ BÀI GIẢNG VÀ THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. Thiết kế bài giảng theo quy trình kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh
82
Áp dụng soạn hai bài giảng trong môn Công tác quốc phòng, an ninh.
Bài B1: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam (5 tiết).
Bài B2: Phòng chống địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao (3 tiết).
3.1.1. Thiết kế bài giảng thực nghiệm số 1
PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT
ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
(Tiết 1: Giảng phần 1, 2 và một phần nội dung của mục 3)
I. Mục tiêu bài học
Kiến thức:
- Hiểu được khái niệm, bản chất, đặc điểm của những âm mưu, thủ đoạn của
kẻ thù trong chiến lược “Diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch.
- Hiểu được các biện pháp phòng, chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, Bạo
loạn lật đổ của Đảng và Nhà nước ta.
- Hiểu, phân tích được trách nhiệm của công dân trong việc tham gia phòng,
chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, Bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Kĩ năng:
- Nhận diện được âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù trong chiến lược “Diễn biến
hoà bình”.
- Đánh giá được những biểu hiện, đặc điểm, hình thức của âm mưu, thủ
đoạn mà kẻ thù thực hiện trong chiến lược “Diễn biến hoà bình”.
Thái độ:
- Tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, bảo vệ cái đúng, tích cực
trong xã hội.
- Tích cực học tập, rèn luyện về mọi mặt, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng tham gia bảo vệ khi Tổ quốc cần.
II. Tài liệu và phương tiện dạy học - Giáo trình Giáo dục quốc phòng - an ninh tập 1 (Bộ GD và ĐT) tái bản năm
2014. Dùng cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng. - Sử dụng máy chiếu, mô hình học cụ, phim tài liệu.
III. Phương pháp dạy học:
83
Chủ yếu sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng
vai cùng với một số phương pháp khác như thuyết trình, vấn đáp, nêu vấn đề, tình
huống…
IV. Tiến trình dạy học
1. Thủ tục lên lớp
Nhận người học kiểm tra quân số, vật chất bảo đảm, điều chỉnh vị trí ngồi của
người học, báo cáo cấp trên (nếu có).
Phổ biến quy chế lớp học, kiểm tra bài cũ (nếu có), nêu đầu bài, phổ biến ý định
giảng dạy.
2. Thực hành giảng dạy
NỘI DUNG CHÍNH HOẠT ĐỘNG CỦA GIẢNG VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI HỌC
Hoạt động 1: Giới thiệu bài mới - GV sử dụng PP trực quan kết hợp thuyết trình, nêu vấn đề: + Sử dụng phim tài liệu: Âm mưu “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ (3 phút) cho NH xem + Qua phần phim tư liệu các em vừa xem xong cho thấy âm mưu “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam từ khi chúng ta giành được chính quyền đến nay vẫn chưa bao giờ chấm dứt, mà thủ đoạn của chúng còn tinh vi, xảo quyệt hơn. Vậy chúng ta cần phải hiểu rõ thế nào là “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ, nhận diện được các thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch và có những biện pháp để chống lại những âm mưu đó, thủ đoạn đó? Chúng ta cùng nghiên cứu bài mới:
- Người học theo dõi, suy nghĩ về vấn đề GV nêu ra. - NH: nghe giảng và ghi chép bài
B1: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ
84
NỘI DUNG CHÍNH HOẠT ĐỘNG CỦA GIẢNG VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI HỌC
của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam
- Người học chia thành các nhóm theo sự phân công của GV: + Tiến hành bầu nhóm trưởng, thư ký và phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm. + Xây ý tưởng cho kịch bản, lời thoại và lựa chọn người diễn.
Hoạt động 2: Tìm hiểu về khái niệm “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ; âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam. - GV: Tổ chức hoạt động thảo luận nhóm kết hợp với đóng vai. - GV: + Chia Trung đội thành 4 nhóm theo vị trí ngồi. + GV nêu tình huống và câu hỏi cho các nhóm tiến hành thảo luận, xây dựng kịch bản, lời thoại để đóng vai. + Yêu cầu người học suy nghĩ đề xuất ý tưởng để trình bày sản phẩm nhóm nhằm phát huy năng lực bản thân. + Thời gian chuẩn bị cho mỗi nhóm là: 8 phút + Thời gian báo cáo kết quả cùng diễn xuất: không quá 4 phút - Nội dung và yêu cầu của các nhóm như sau:
- Nhóm trưởng tiến hành Nhóm 1
tiếp nhận chủ đề thảo
85
NỘI DUNG CHÍNH HOẠT ĐỘNG CỦA GIẢNG VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI HỌC
Nội dung thảo luận: Em hiểu như luận triển khai cho nhóm
thế nào về tự diễn biến. Theo em để của mình thảo luận.
phòng, chống tự diễn biến chúng ta - Thư ký ghi chép lại
phải làm gì? Từ đó xây dựng kịch toàn bộ nội dung thảo
bản ngắn cụ thể về tự diễn biến đó luận của nhóm, từ tiến
và tiến hành diễn xuất theo kịch bản trình đã thảo luận rút ra
đó. nội dung bài học.
- Lựa chọn và xây dựng
kịch bản, lời thoại để tiến
hành diễn xuất.
- Phân vai để diễn xuất
- Nhóm trưởng tiến hành Nhóm 2
Nghiên cứu sự kiện điển hình: Trong tiếp nhận chủ đề thảo
những năm gần đây đất nước ta có luận triển khai cho nhóm
một số phần tử phản động âm mưu của mình thảo luận.
tổ chức bạo động như ở 4 tỉnh Tây - Thư ký ghi chép lại
Nguyên, Mường Nhé, bạo động ở toàn bộ nội dung thảo
Vũng Áng- Hà Tĩnh, địch lợi dụng luận của nhóm, từ tiến
tôn giáo làm phản động ở Thái Hà - trình đã thảo luận rút ra
Hà Nội nhằm chống phá Nhà nước nội dung bài học.
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt - Lựa chọn và xây dựng
Nam. kịch bản, lời thoại để tiến
Nội dung thảo luận: Theo em, hành diễn xuất.
nguyên nhân của các vụ bạo động - Phân vai để diễn xuất
đó từ đâu? Đảng nhà nước ta đã
làm những gì để giải quyết các vụ
bạo động nói trên? Bản thân em
nhận thức như thế nào về các vụ
bạo động nói trên? Từ nội dung
86
NỘI DUNG CHÍNH HOẠT ĐỘNG CỦA GIẢNG VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI HỌC
trên hãy xây dựng một kịch bản về
giải quyết một vụ bạo loạn đang
diễn ra.
- Nhóm trưởng tiến hành Nhóm 3:
Nghiên cứu sự kiện điển hình: tiếp nhận chủ đề thảo
Trong văn kiện Đại hội toàn quốc luận triển khai cho nhóm
lần thứ XII, Đảng ta xác định: của mình thảo luận.
Chúng ta đang phải đương đầu với - Thư ký ghi chép lại
những nguy cơ: Nguy cơ tụt hậu xa toàn bộ nội dung thảo
hơn về kinh tế so với các nước trong luận của nhóm, từ tiến
khu vực và trên thế giới; Nguy cơ trình đã thảo luận rút ra
chống phá, "diễn biến hòa bình của nội dung bài học.
các thế lực thù địch", "tự chuyển - Lựa chọn và xây dựng
hóa", "tự diễn biến" xa rời lý tưởng kịch bản, lời thoại để tiến
của Đảng, xa rời lợi ích của nhân hành diễn xuất.
dân và mục tiêu xây dựng đất nước - Phân vai để diễn xuất
đi lên chủ nghĩa xã hội của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên;
Nguy cơ tệ nạn tham nhũng, lãng
phí, quan liêu và các tiêu cực xã hội,
làm suy yếu Đảng; Nguy cơ về bảo
vệ độc lập, chủ quyền đất nước,
nhất là chủ quyền biển đảo trước âm
mưu, thủ đoạn các nước lớn.
Nội dung thảo luận: Em hiểu như
thế nào về những âm mưu, thủ đoạn
của kẻ thù đang sử dụng để chống
phá Đảng và Nhà nước ta hiện nay?
Em phải làm gì trước những âm
87
NỘI DUNG CHÍNH HOẠT ĐỘNG CỦA GIẢNG VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI HỌC
mưu, thủ đoạn đó? Qua đó xây
dựng một tình huống cụ thể về âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch đang sử dụng để chống phá
Đảng và Nhà nước ta để cho toàn
dân nhận thức được đó là một âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các
thế lực thù địch.
- Nhóm trưởng tiến hành Nhóm 4:
Chủ đề thảo luận: Trong những tiếp nhận chủ đề thảo
năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có luận triển khai cho nhóm
rất nhiều các biện pháp phòng, của mình thảo luận.
chống chiến lược "Diễn biến hòa - Thư ký ghi chép lại
bình", Bạo loạn lật đổ của các thế toàn bộ nội dung thảo
lực thù địch. luận của nhóm, từ tiến
Nội dung thảo luận: Theo em, các trình đã thảo luận rút ra
biện pháp đấy là gì? Em phải làm nội dung bài học.
gì để thực hiện các biện pháp - Lựa chọn và xây dựng
ấy?Hãy xây dựng một tiểu phẩm kịch bản, lời thoại để tiến
ngắn về biện pháp phòng chống hành diễn xuất.
chiến lược “Diễn biến hòa bình”, - Phân vai để diễn xuất
Bạo loạn lật đổ để quần chúng nhân
dân có thể thực hiện được.
Hoạt động 3: Giảng viên tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả - GV: yêu cầu các nhóm lần lượt trình bày nội dung của nhóm đã thảo luận và thực hiện diễn xuất theo kịch bản và lời thoại đã được chuẩn bị. - Nhóm trưởng phân lên thành viên công trình bày báo cáo kết quả thảo luận của nhóm mình trước trung đội,
88
NỘI DUNG CHÍNH HOẠT ĐỘNG CỦA GIẢNG VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI HỌC
+ Khuyến khích ý tưởng sáng tạo + Tổ chức cho người học phản biện các ý kiến của các nhóm khác nhau.
thông qua kịch bản, lời thoại để tiến hành diễn xuất - Các nhóm khác theo dõi tiến trình báo cáo và diễn xuất để có những phản biện về nội dung của nhóm đang trình bày.
1. Khái niệm “Diễn biến hòa bình” “Diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã Hoạt động 4: Kết luận của giảng viên về phần báo cáo sản phẩm của các nhóm. - Giảng viên nhận xét: + Nội dung báo cáo và phần diễn xuất của các nhóm. + Về tinh thần thái độ làm việc của thành viên các nhóm. + Về phần tranh luận của các nhóm. + Bổ sung, tổng kết (có thể cho điểm các nhóm) - Giảng viên rút ra kết luận gắn với nội dung bài học. Qua phần thảo luận và diễn xuất của các nhóm, chúng ta đi đến khái quát vậy thế nào là “diễn biến hòa bình”? - GV sử dụng thuyết trình, giảng giải để NH hiểu về khái niệm diễn biến hòa bình. - GV sử dụng kết với trình chiếu kèm các hình ảnh minh họa Người học chú ý lắng nghe, nghi chép nội dung theo ý hiểu của mình, phần nào chưa rõ, chưa hiểu có thể đặt câu hỏi để GV trả lời. - NH nghe giảng, trả lời câu hỏi và ghi chép nội dung kiến thức mới.
89
NỘI DUNG CHÍNH HOẠT ĐỘNG CỦA GIẢNG VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI HỌC
- NH nghe giảng, trả lời câu hỏi và ghi chép nội dung kiến thức mới.
- GV phát vấn: Qua phần thảo luận và diễn xuất, vậy Bạo loạn lật đổ là gì? - GV sử dụng thuyết trình, giảng giải để NH hiểu về khái niệm Bạo loạn lật đổ. - GV sử dụng kết với trình chiếu kèm các hình ảnh minh họa
hội chủ nghĩa từ bên trong bằng biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến hành. 2. Khái niệm Bạo loạn lật đổ: Bạo loạn lật đổ là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức do lực lượng phản động, hay lực lượng li khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến hành, gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc lật đổ chính quyền ở địa phương hay Trung ương.
3. Âm mưu, thủ đoạn
của chiến lược "Diễn
biến hoà bình" đối với
- Người học chú ý lắng Việt Nam
nghe, suy nghĩ, nghiên
cứu giáo trình để trả lời
câu hỏi mà GV nêu ra.
- GV trình chiếu slide kết hợp sử dụng thuyết trình và nêu vấn đề: + Qua đoạn phim tư liệu các em xem lúc ban đầu, cùng với phần trình bày nội dung báo cáo của các nhóm, kết hợp với các hình ảnh minh họa trên slide của thầy, theo em: có những âm mưu và thủ đoạn nào của chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam?
90
NỘI DUNG CHÍNH HOẠT ĐỘNG CỦA GIẢNG VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI HỌC
- Ghi chép nội dung theo - Âm mưu:
ý hiểu của mình, phần + Thực hiện âm mưu - GV gọi NH trả lời, nhận xét và thuyết trình, giảng giải để NH hiểu về âm mưu và thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam. - GV sử dụng thuyết trình giảng giải các nội dung: + Thứ nhất là về âm mưu: Chủ nào chưa rõ, chưa hiểu có xoá bỏ vai trò lãnh đạo nghĩa đế quốc cùng các thế lực thù thể đặt câu hỏi để GV trả của Đảng Cộng sản địch luôn coi Việt Nam là một trọng lời. Việt Nam. điểm trong chiến lược "Diễn biến hoà
+ Xoá bỏ chế độ xã hội bình" để chống phá chủ nghĩa xã hội.
chủ nghĩa ở Việt Nam,
+ Lái nước ta đi theo
con đường chủ nghĩa tư
bản và lệ thuộc vào chủ
nghĩa đế quốc.
+ Bao vây cấm vận về
kinh tế.
- Thủ đoạn
+ Thủ đoạn chống
phá về chính trị.
+ Thứ hai là về thủ đoạn: - Ghi chép nội dung theo * Thủ đoạn chống phá về chính trị. ý hiểu của mình, phần - Mục tiêu: Các thế lực thù địch nào chưa rõ, chưa hiểu có
kích động đòi thực hiện chế độ "đa thể đặt câu hỏi để GV trả
nguyên chính trị, đa Đảng đối lập", lời.
"tự do hoá"mọi mặt đời sống xã hội,
91
NỘI DUNG CHÍNH HOẠT ĐỘNG CỦA GIẢNG VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI HỌC
từng bước xoá bỏ vai trò lãnh đạo + Thủ đoạn chống
của Đảng Cộng sản Việt Nam, chế phá về kinh tế.
độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Nghe giảng và ghi chép * Thủ đoạn chống phá về kinh tế.
nội dung theo ý hiểu của - Mục tiêu: Chúng muốn chuyển
mình hoá nền kinh tế thị trường định
+ Thủ đoạn chống phá hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
về tư tưởng - văn hoá. dần dần theo quỹ đạo kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa.
*Thủ đoạn chống phá về tư tưởng -
văn hoá.
- Mục tiêu: Chúng thực hiện nhiều
hoạt động nhằm xoá bỏ chủ nghĩa
+ Thủ đoạn chống Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
phá trong lĩnh vực nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc
tôn giáo - dân tộc. dân tộc Việt Nam.
* Thủ đoạn chống phá trong lĩnh
- Nghe giảng và ghi chép vực tôn giáo - dân tộc.
nội dung theo ý hiểu của + Thủ đoạn chống - Mục tiêu: Gây mất ổn định xã hội và
mình phá trên lĩnh vực làm chệch hướng chế độ chủ nghĩa xã
quốc phòng, an ninh. hội ở Việt Nam
* Thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực
quốc phòng, an ninh.
- Mục tiêu: Kích động đòi phủ nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng trong lĩnh
+ Thủ đoạn chống phá vực quốc phòng, an ninh. Đặc biệt
trên lĩnh vực đối ngoại. là đối với lực lượng vũ trang nhân
dân.
92
NỘI DUNG CHÍNH HOẠT ĐỘNG CỦA GIẢNG VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI HỌC
* Thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực đối
ngoại.
- Mục tiêu: Hướng Việt Nam đi
theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
3. Củng cố, luyện tập
- GV chốt kiến thức cơ bản về “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ, các
âm mưu và thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch mà
NH cần lĩnh hội, vận dụng vào thực tiễn xã hội để có thái độ kiên quyết đấu tranh
làm thất bại các âm mưu “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ của kẻ địch, bảo
vệ thành quả cách mạng Việt Nam.
- NH lắng nghe, ghi nhớ và phản hồi ý kiến (nếu có)
4. Đánh giá
- GV: Kiểm tra, đánh giá kết quả (Sử dụng Test bằng phiếu học tập)
- NH hiểu được kiến thức bài học và vận dụng được kiến thức đó vào làm
được bài test dưới dạng trắc nghiệm qua phiếu học tập
5. Hoạt động nối tiếp
- Nhiệm vụ học tập ở nhà: Nghiên cứu giáo trình ôn lại kiến thức bài cũ và
chuẩn bị nội dung bài tiếp theo.
93
3.1.2. Thiết kế bài giảng thực nghiệm số 2
PHÒNG CHỐNG ĐỊCH TIẾN CÔNG HOẢ LỰC
BẰNG VŨ KHÍ CÔNG NGHỆ CAO
(Tiết 1: Giảng phần 1, 2)
I. Mục tiêu bài học
Kiến thức:
- Hiểu được nội dung cơ bản về khái niệm, đặc điểm, tính năng, tác dụng
của vũ khí công nghệ cao.
- Phân tích được những nguyên tắc, yêu cầu và mức độ nguy hiểm của vũ
khí công nghệ cao.
Kĩ năng:
- Đánh giá được hậu quả của sử dụng vũ khí công nghệ cao.
- Tuyên truyền về tác hại, biện pháp phòng, chống vũ khí công nghệ cao
Thái độ:
- Tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng vào nghệ thuật quân sự
Việt Nam. Không ngừng học tập và rèn luyện những kỹ năng quân sự để đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ khi Tổ quốc cần.
- Tích cực học tập và nghiên cứu các cuộc chiến tranh gần đây ở trên thế
giới để góp phần bổ sung vào Nghệ thuật quân sự Việt Nam, chống lại chiến
tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao của kẻ thù.
II. Tài liệu và phương tiện dạy học
- Giáo trình Giáo dục quốc phòng - an ninh tập 1 (Bộ GD&ĐT) tái bản năm 2014.
Dùng cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng.
- Sử dụng máy chiếu, mô hình học cụ, phim tài liệu.
III. Phương pháp dạy học
Chủ yếu sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai cùng với một số phương pháp khác như thuyết trình, vấn đáp, nêu vấn
đề, tình huống…
IV. Tiến trình dạy học
1. Thủ tục lên lớp
- Nhận người học kiểm tra quân số, vật chất bảo đảm, điều chỉnh vị trí ngồi của
người học, báo cáo cấp trên (nếu có).
94
- Phổ biến quy chế lớp học, kiểm tra bài cũ (nếu có), nêu đầu bài, phổ biến ý
định giảng dạy.
2. Thực hành giảng dạy
HOẠT ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG CỦA NỘI DUNG CHÍNH GIẢNG VIÊN NGƯỜI HỌC
Hoạt động 1: Giới thiệu bài
- GV sử dụng phương trực quan - Người học xem phim
cho NH xem phim tài liệu giới tư liệu, suy nghĩ về
thiệu về các loại vũ khí công nghệ những vấn đề phản ánh
cao (thời gian: 3 phút) trong phim, ghi nhớ đã
- GV thuyết trình và nêu vấn đề: trả lời các câu hỏi do
+ Những hình ảnh xuất hiện GV nêu ra.
trong video mà các em vừa xem
đã cho thấy sức mạnh của vũ khí
công nghệ cao sử dụng trong
chiến tranh, sức công phá của
chúng rất rộng lớn nếu con người
sử dụng không đúng mục đích sẽ
gây ra những tác hại, hậu quả lớn
như chiến tranh sẽ bùng nổ.
+ Để hiểu hơn về sức mạnh của vũ
khí công nghệ cao và có các biện
pháp để phòng chống địch tiến
công hỏa lực bằng vũ khí công
nghệ cao, chúng ta cùng nghiên
cứu bài mới: B2: Phòng chống địch
tiến công hỏa lực bằng vũ
khí công nghệ cao
Hoạt động 2: Tìm hiểu về khái
niệm vũ khí công nghệ cao, đặc
điểm của vũ khí công nghệ cao;
95
HOẠT ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG CỦA NỘI DUNG CHÍNH GIẢNG VIÊN NGƯỜI HỌC
Thủ đoạn đánh phá và khả năng
sử dụng vũ khí công nghệ cao
của địch:
- Người học chia thành các nhóm theo sự phân công của GV: + Tiến hành bầu nhóm trưởng, thư ký và phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm. + Xây ý tưởng cho kịch bản, lời thoại và lựa chọn người diễn.
- GV: Tổ chức hoạt động thảo luận nhóm kết hợp với đóng vai. - GV: + Chia Trung đội thành 4 nhóm theo vị trí ngồi. + GV nêu tình huống và câu hỏi cho các nhóm tiến hành thảo luận, xây dựng kịch bản, lời thoại để đóng vai. + Yêu cầu người học suy nghĩ đề xuất ý tưởng để trình bày sản phẩm nhóm nhằm phát huy năng lực bản thân. + Thời gian chuẩn bị cho mỗi nhóm là: 8 phút + Thời gian báo cáo kết quả cùng diễn xuất: không quá 4 phút - Nội dung và yêu cầu của các
nhóm như sau:
- Nhóm trưởng tiến Nhóm 1:
Quan sát phim tài liệu giới thiệu hành tiếp nhận chủ đề
về các loại vũ khí công nghệ cao, thảo luận triển khai cho
Chủ đề thảo luận: Vũ khí công nhóm của mình thảo
nghệ cao là gì? Đặc điểm nổi bật luận.
của của vũ khí công nghệ cao là - Thư ký ghi chép lại
gì? Từ những đặc điểm đó, với toàn bộ nội dung thảo
cương vị là một người chỉ huy luận của nhóm, từ tiến
96
HOẠT ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG CỦA NỘI DUNG CHÍNH GIẢNG VIÊN NGƯỜI HỌC
hãy xây dựng một phương án tác trình đã thảo luận rút ra
chiến sử dụng vũ khí công nghệ nội dung bài học.
cao để đánh địch hiệu quả khi - Lựa chọn và xây dựng
chiến tranh tương lai nếu xảy ra. kịch bản, lời thoại để
tiến hành diễn xuất.
- Phân vai để diễn xuất
- Nhóm trưởng tiến Nhóm 2:
Xem phim tài liệu về những loại hành tiếp nhận chủ đề
vũ khí đã được Mỹ sử dụng trong thảo luận triển khai cho
chiến tranh Việt Nam. nhóm của mình thảo
Chủ đề thảo luận: Trong giai luận.
đoạn hiện nay, nếu xảy ra chiến - Thư ký ghi chép lại
tranh liệu quân địch có sử dụng toàn bộ nội dung thảo
vũ khí công nghệ cao không? Vì luận của nhóm, từ tiến
sao? Đánh giá điểm mạnh và yếu trình đã thảo luận rút ra
của các loại vũ khí công nghệ nội dung bài học.
cao? Từ những điểm mạnh và - Lựa chọn và xây dựng
điểm yếu của vũ khí công nghệ kịch bản, lời thoại để
cao đó, trên cương vị là một tiến hành diễn xuất.
người chỉ huy, hãy xây dựng - Phân vai để diễn xuất
phương án luyện tập cho đơn vị
mình sử dụng các loại vũ khí
được biên chế để đánh trả các
loại vũ khí công nghệ cao của
địch một cách hiệu quả nếu chiến
tranh xảy ra.
- Nhóm trưởng tiến Nhóm 3:
hành tiếp nhận chủ đề
thảo luận triển khai cho
97
HOẠT ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG CỦA NỘI DUNG CHÍNH GIẢNG VIÊN NGƯỜI HỌC
Xem phim tư liệu về kinh nhóm của mình thảo
nghiệm phòng, chống vũ khí công luận.
nghệ cao. - Thư ký ghi chép lại
Chủ đề thảo luận: Các biện pháp toàn bộ nội dung thảo
phòng, chống vũ khí công nghệ luận của nhóm, từ tiến
cao của ông cha ta trong chiến trình đã thảo luận rút ra
tranh là gì? Biện pháp nào là hiệu nội dung bài học.
quả nhất với địa hình, thời tiết và - Lựa chọn và xây dựng
khí hậu ở nước ta? Em có đề xuất kịch bản, lời thoại để
biện pháp nào khác khi biết đặc tiến hành diễn xuất.
điểm của vũ khí công nghệ cao? - Phân vai để diễn xuất
Qua đó hãy xây dựng một tình
huống để đơn vị mình phòng
tránh được vũ khí công nghệ cao
của địch khi chiến tranh tương lai
nếu xảy ra.
- Nhóm trưởng tiến
hành tiếp nhận chủ đề
thảo luận triển khai cho
nhóm của mình thảo
luận.
- Thư ký ghi chép lại
toàn bộ nội dung thảo
luận của nhóm, từ tiến
trình đã thảo luận rút ra
nội dung bài học.
- Lựa chọn và xây dựng
kịch bản, lời thoại để
tiến hành diễn xuất. Nhóm 4: Xem phim tư liệu về kinh nghiệm đánh trả vũ khí công nghệ cao. Chủ đề thảo luận: Nếu chiến tranh tương lai nếu xảy ra đối với Việt Nam, khi địch sử dụng vũ khí công nghệ cao là chủ yếu thì chúng ta phải có những biện pháp nào để đánh trả lại các loại vũ khí công nghệ cao của địch? Theo các em biện pháp nào là hữu hiệu nhất để đánh thắng được các loại vũ khí công nghệ cao của địch? Từ
98
HOẠT ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG CỦA NỘI DUNG CHÍNH GIẢNG VIÊN NGƯỜI HỌC
- Phân vai để diễn xuất
đó trên cương vị là một người chỉ huy, được giao nhiệm vụ đánh một đơn vị địch có sử dụng vũ khí công nghệ cao, đồng chí hãy lên kế hoạch tác chiến đánh đơn vị địch một cách hiệu quả để giành thế chủ động.
thảo
Hoạt động 3: Giảng viên tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả - GV: yêu cầu các nhóm lần lượt trình bày nội dung của nhóm đã thảo luận và thực hiện diễn xuất theo kịch bản và lời thoại đã được chuẩn bị. + Khuyến khích ý tưởng sáng tạo + Tổ chức cho người học phản biện các ý kiến của các nhóm khác nhau.
- Nhóm trưởng phân công thành viên lên trình bày báo cáo kết quả luận của nhóm mình trước trung đội, thông qua kịch bản, lời thoại để tiến hành diễn xuất - Các nhóm khác theo dõi tiến trình báo cáo và diễn xuất để có những phản biện về nội dung của nhóm đang trình bày.
Hoạt động 4: Kết luận của giảng viên về phần báo cáo sản phẩm của các nhóm. - Giảng viên nhận xét: + Nội dung báo cáo và phần diễn xuất của các nhóm.
99
HOẠT ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG CỦA NỘI DUNG CHÍNH GIẢNG VIÊN NGƯỜI HỌC
1. Khái niệm vũ khí
công nghệ cao
Vũ khí công nghệ cao là
vũ khí được nghiên cứu,
thiết kế, chế tạo dựa trên
những thành tựu của
cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện
- NH nghe giảng, nghiên cứu giáo trình và trả lời câu hỏi; ghi chép nội dung kiến thức mới. đại, có sự nhảy vọt về
chất lượng và tính năng
kĩ, chiến thuật. + Về tinh thần thái độ làm việc của thành viên các nhóm. + Về phần tranh luận của các nhóm. + Bổ sung, tổng kết (có thể cho điểm các nhóm) - Giảng viên rút ra kết luận gắn với nội dung bài học. Qua việc xem phim tư liệu, phần thảo luận và diễn xuất của các nhóm, chúng ta đi đến khái quát vậy em hiểu thế nào là vũ khí công nghệ cao? - GV sử dụng thuyết trình, giảng giải để NH hiểu về khái niệm diễn biến hòa bình. - GV sử dụng kết với trình chiếu kèm các hình ảnh minh họa
- NH nghe giảng, 2. Đặc điểm của vũ khí
nghiên cứu Giáo trình công nghệ cao:
để trả lời câu hỏi và ghi - Hiệu suất của vũ khí,
chép nội dung kiến của phương tiện tăng gấp
bài học. nhiều lần so với vũ khí, - GV phát vấn: Vũ khí công nghệ cao có những đặc điểm gì? - GV sử dụng thuyết trình, giảng giải để NH hiểu về khái niệm Bạo loạn lật đổ. phương tiện thông
thường; hàm lượng tri
100
HOẠT ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG CỦA NỘI DUNG CHÍNH GIẢNG VIÊN NGƯỜI HỌC
thức, kỹ năng tự động - GV sử dụng kết với trình
chiếu kèm các hình ảnh minh hỏa cao, tính cạnh tranh
họa. cao, được nâng cấp liên
tục, giá thành giảm.
- NH nghe giảng, ghi - Vũ khí CNC hay còn
nhớ và ghi chép nội gọi là vũ khí (thông
GV giảng giải: dung kiến của bài học. minh), vũ khí (tinh khôn)
- Vũ khí CNC bao gồm nhiều bao gồm nhiều chủng
chủng loại khác nhau như: loại khác nhau.
+ Vũ khí hủy diệt lớn (hạt nhân, hóa
học, sinh học).
+ Vũ khí được chế tạo dựa trên
những nguyên lý kỹ thuật mới
(vũ khí chùm tia, vũ khí la ze, vũ
khí chùm hạt, pháo điện từ…). - Thế kỷ XXI, vũ khí
“thông minh” dựa trên cơ - NH nghe giảng, ghi sở tri thức sẽ trở lên phổ nhớ và ghi chép nội biến. dung kiến của bài học. - Điển hình là:
+ Đạn pháo, đạn cối điều khiển
bằng la ze, ra đa bằng hồng
ngoại.
+ Bom mìn (thông minh) kết hợp
với các thiết bị trinh thám để tiêu
diệt mục tiêu.
+ Tên lửa “thông minh” có thể tự
phân tích, phán đoán và ra quyết
định tiến công tiêu diệt.
101
HOẠT ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG CỦA NỘI DUNG CHÍNH GIẢNG VIÊN NGƯỜI HỌC
+ Súng “thông minh” do máy
tính điều khiển có thể tự động
nhận biết chủ nhân, có nhiều khả
năng tác chiến khác nhau, vừa có
thể bắn đạn thông thường hoặc
phóng lựu đạn.
+ Xe tăng “thông minh” có thể
vượt qua các chướng ngại vật,
nhận biết các đặc trưng khác
nhau của mục tiêu, mức độ uy
hiếp của mục tiêu và điều khiển
vũ khí tiến công mục tiêu, nhờ
đó có hỏa lực và sức đột kích rất
mạnh.
3. Thủ đoạn đánh phá và khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao của địch a. Thủ đoạn đánh phá - Tiến công hoả lực bằng vũ khí công nghệ cao là phương thức tiến hành chiến tranh kiểu mới đồng thời là biện pháp tác chiến của địch.
- Giảng viên trình chiếu slide kết hợp thuyết trình và vấn đáp: + Theo em có những thủ đoạn đánh phá nào bằng vũ khí công nghệ cao? - GV nghe ý kiến trả lời của NH, chốt lại kiến thức: - GV giảng giải: + Chiến tranh tương lai (nếu xảy ra) đối với đất nước ta, địch sẽ sử - NH nghe giảng, nghiên cứu Giáo trình để trả lời câu hỏi và ghi chép nội dung kiến của bài học. - NH nghe giảng, ghi nhớ và ghi chép nội
102
HOẠT ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG CỦA NỘI DUNG CHÍNH GIẢNG VIÊN NGƯỜI HỌC
trong chiến
dung kiến của bài học theo ý hiểu. - NH nghe giảng, ghi nhớ nội dung kiến của bài học theo ý hiểu.
b. Khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao của địch dụng phương thức tiến công hoả lực bằng vũ khí công nghệ cao là chủ yếu và từ nhiều phương hướng. - GV trình chiếu slide kết hợp giảng giải: + Thực tế trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc đã khai thác các thành tựu khoa học và công nghệ mới nhất để chế tạo các kiểu vũ khí hiện đại hòng giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh như công nghệ hồng ngoại, công nghệ nhìn đêm, công nghệ gây nhiễu. Nhiều loại vũ khí “thông minh” ra đời và được sử dụng lần đầu tiên tranh Việt Nam... Tuy nhiên, cuộc chiến tranh Việt Nam đã chứng kiến sự thất bại thảm hại của địch trong việc sử dụng các loại vũ khí hiện đại nhất lúc đó trước trí thông minh, sự sáng tạo và lòng dũng cảm vô song của con người Việt Nam. - GV vấn đáp: Theo em khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao như thế nào qua cuộc chiến tranh cục bộ gần đây?
103
HOẠT ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG CỦA NỘI DUNG CHÍNH GIẢNG VIÊN NGƯỜI HỌC
- GV nghe câu trả lời, phân tích bổ sung và đưa ra kết luận, chốt kiến thức cơ bản
- Nghiên cứu, khảo sát một số cuộc chiến tranh cục bộ gần đây, địch sử dụng vũ khí công nghệ cao ngày càng nhiều (vùng Vịnh lần thứ nhất vũ khí công nghệ cao 10%, chiến dịch Con Cáo sa mạc 50%, Nam Tư 90%).
- SV nghe giảng, nghiên cứu Giáo trình và bằng kiến thức thực tiễn trả lời câu hỏi do GV nêu ra. - Ghi chép những nội dung chính của bài.
3. Củng cố, luyện tập
- GV chốt kiến thức cơ bản về vũ khí công nghệ cao, đặc điểm của vũ khí
công nghệ cao; thủ đoạn đánh phá và khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao của
địch mà NH cần lĩnh hội, vận dụng vào thực tiễn xã hội để có thái độ lên án đối với
những hành vi lợi dụng vũ khí công nghệ cao để gây ra chiến tranh.
- NH lắng nghe, ghi nhớ và phản hồi ý kiến (nếu có).
4. Đánh giá
- GV: Kiểm tra, đánh giá kết quả (Sử dụng Test bằng phiếu học tập)
- NH hiểu được kiến thức bài học và vận dụng được kiến thức đó vào làm
được bài test dưới dạng trắc nghiệm qua phiếu học tập
5. Hoạt động nối tiếp
- Nhiệm vụ học tập ở nhà: Nghiên cứu giáo trình ôn lại kiến thức bài cũ và
chuẩn bị nội dung bài tiếp theo.
3.2. Thực nghiệm sư phạm
3.2.1. Giới thiệu khái quát về quá trình thực nghiệm
3.2.1.1. Giả thuyết thực nghiệm
104
Thực nghiệm việc sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh tại Trung tâm Giáo
dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên, NH sẽ hứng thú với nội dung
bài giảng, tích cực chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức, làm chủ tri thức, biết
vận dụng tri thức bài học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc .
3.2.1.2. Mục đích của thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm được tiến hành nhằm mục đích về tính hiệu quả và tính
khả thi về quy trình sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh, qua đó chứng minh cho
giả thuyết khoa học đã đề ra.
3.2.1.3. Nguyên tắc tiến hành thực nghiệm
Đảm bảo về chất lượng kiểm tra khoa học, khách quan, tôn trọng chương trình,
giáo trình môn Công tác quốc phòng, an ninh.
Đảm bảo tính đa dạng ở các đối tượng người học và trình độ nghiệp vụ của
giảng viên dạy thực nghiệm.
3.2.1.4. Nội dung thực nghiệm
Giảng dạy hai bài trong chương trình môn Công tác quốc phòng, an ninh bậc
Đại học và Cao đẳng.
3.2.1.5. Phương pháp thực nghiệm
Việc thực nghiệm được tiến hành ở đối tượng người học là NH đào tạo trình
độ đại học. Quá trình thực nghiệm tác giả tiến hành theo hình thức song song. Trong
đó tương ứng với các phương án thực nghiệm có hai trung đội đối chứng và hai
trung đội thực nghiệm. Ở hai trung đội thực nghiệm, các bài dạy được tiến hành
theo cách thức, quy trình mà tác giả đã đề xuất. Còn ở hai trung đội đối chứng giảng
viên vẫn dạy bình thường theo bài giảng cũ do Khoa Giáo viên đã phê duyệt.
Kết thúc mỗi bài thực nghiệm, tác giả tổ chức kiểm tra ở cả hai trung đội thực
nghiệm và đối chứng với cùng một đề trong cùng một thời gian. Kết quả bài kiểm
tra được phân tích và xử lí bằng phương pháp tính tỷ lệ phần trăm. Sau mỗi bài thực
nghiệm, tác giả có tổ chức toạ đàm, phỏng vấn lãnh đạo Khoa Giáo viên, giảng viên
105
và người học để kịp thời bổ sung, chỉnh lí các yêu cầu cho phù hợp, hạn chế các yếu
tố sai sót.
3.2.1.6. Tổ chức thực nghiệm
* Thời gian thực nghiệm
Căn cứ vào mục đích, nội dung thực nghiệm, căn cứ vào kế hoạch giảng dạy
của Trung tâm và quỹ thời gian làm luận văn của mình, tác giả xác định thời gian
thực nghiệm là tuần 1 và tuần 2 khóa K28-CN1 năm học 2019 - 2020.
Việc dạy thực nghiệm được tiến hành trong điều kiện bình thường theo kế hoạch
giảng dạy của Trung tâm, không làm đảo lộn hoạt động của Trung tâm.
* Cơ sở và đối tượng thực nghiệm
Cơ sở thực nghiệm:
Cơ sở thực nghiệm là Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học
Thái Nguyên.
Đối tượng thực nghiệm:
Đối tượng thực nghiệm mà tác giả lựa chọn là NH trường Đại học Kỹ thuật Công
nghiệp - Đại học Thái Nguyên. Tác giả lựa chọn hai trung đội thực nghiệm và 2 trung
đội đối chứng, Các trung đội thực nghiệm và các trung đội đối chứng được lựa chọn
theo nguyên tắc:
Có quân số người học bằng nhau, kết quả học tập và trình độ không có sự
chênh lệch đáng kể (cùng là sinh viên của trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp,
đào tạo chung một chuyên ngành).
Tổng quân số người học là 168 người, trong đó: Trung đội thực nghiệm là
trung đội 1 và trung đội 2 có 84 người học, Trung đội đối chứng là trung đội 3 và
trung đội 4 có 84 người học.
Môi trường sống, học tập và rèn luyện của người học là như nhau (cùng ở nội
trú trong ký túc xá của Trung tâm).
* Chọn bài thực nghiệm
Bài B1: Phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam.
Bài B2: Phòng chống địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao.
106
* Tiến hành thực nghiệm
Bước 1: Kiểm tra các điều kiện để thực nghiệm.
Kiểm tra sự chuẩn bị cho quá trình thực nghiệm, kiểm tra về sự chuẩn bị bài
giảng, trang thiết bị đồ dùng dạy học phục vụ quá trình lên lớp.
Bước 2: Tiến hành thực nghiệm.
Tác giả tiến hành giảng dạy theo phương án thực nghiệm ở trung đội thực
nghiệm và giảng dạy bình thường ở trung đội đối chứng với cùng một bài.
Trong quá trình lên lớp tác giả trực tiếp giảng dạy trung đội đối chứng và trung
đội thực nghiệm, với mục đích đánh giá quá trình triển khai thực nghiệm.
Bước 3: Kiểm tra đánh giá kết quả thực nghiệm.
Sau khi lên lớp xong nội dung mỗi bài thực nghiệm, tác giả tiến hành kiểm tra
người học theo hình thức trắc nghiệm kết hợp với tự luận cả ở trung đội thực nghiệm
và trung đội đối chứng. Các trung đội này cùng bài kiểm tra như nhau và thực hiện
bài kiểm tra trong một lượng thời gian như nhau. Mục đích của kiểm tra là đánh giá
kết quả nhận thức của người học ở các trung đội thực nghiệm và các trung đội đối
chứng.
3.2.2. Kết quả thực nghiệm
Sau khi hoàn thành chương trình giảng dạy ở trung đội thực nghiệm và trung
đội đối chứng với hai kiểu giảng dạy khác nhau, tác giả cho người học ở cả hai
trung đội làm bài kiểm tra thời gian 45 phút, sau đó tác giả đánh giá kết quả học tập
của người học bằng cách dùng thang chấm điểm 10. Thang chấm điểm chia làm 4
mức từ cao xuống thấp, tương đương với 4 loại: giỏi, khá, trung bình và không đạt.
Loại giỏi: Từ điểm 9 đến điểm 10.
Loại khá: Từ điểm 7 đến điểm 8.
Loại trung bình: Từ điểm 5 đến điểm 6.
Loại không đạt: Các điểm dưới 5.
Dưới đây là bảng kết quả kiểm tra của NH trung đội đối chứng và trung đội
thực nghiệm ở lần thực nghiệm đầu tiên sau khi dạy bài B1, tác giả thu được kết quả
học tập của hai trung đội như sau:
Bảng 3.1: Kết quả kiểm tra 1 tiết của trung đội thực nghiệm
107
và trung đội đối chứng (lần 1)
Phân Giỏi Khá Trung bình Không đạt
loại (9-10) (8-9) (5-6) (<5)
Số Tỷ Số Tỷ Số Tỷ Số Tỷ
Trung đội lượng lệ % lượng lệ % lượng lệ % lượng lệ %
Trung đội 18 21,4% 54 64,3% 12 14,3% 0 0% Thực nghiệm
Trung đội 4 4,8% 36 42,8% 44 52,4% 0 0% Đối chứng
(Nguồn: Số liệu điều tra khi thực hiện đề tài)
Căn cứ vào kết quả kiểm tra của NH được sắp xếp theo các mức tăng hay giảm,
chiếm tỷ lệ bao nhiêu phần trăm (%) so với tổng quân số của trung đội để đánh giá
vai trò, tác dụng của việc sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương
pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN. Kết quả kiểm tra tại bảng 3.1 cho
thấy:
Tỷ lệ NH đạt điểm trung bình ở cả hai trung đội vẫn còn nhiều. Cụ thể: Trung
đội 1,2 chiếm (14,3%), trung đội 3,4 chiếm (52,4%). Như vậy, tỷ lệ NH đạt điểm
trung bình ở trung đội đối chứng cao hơn nhiều so với trung đội thực nghiệm.
Tỷ lệ NH đạt điểm khá ở trung đội 1,2 chiếm (64,3%), cao hơn so với trung
đội 3,4 (42,8%).
Tỷ lệ NH đạt điểm giỏi ở trung đội 1,2 chiếm (21,4%), cao hơn nhiều so với
trung đội 3,4 (4,8%).
Như vậy, quá trình thực nghiệm lần thứ nhất cho thấy, tỷ lệ NH đạt điểm khá,
giỏi ở trung đội thực nghiệm cao hơn trung đội đối chứng, tỷ lệ đạt điểm trung bình
của trung đội thực nghiệm đã giảm so với tổng quân số của trung đội. Để đạt được
kết quả như trên là do đã vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn
ở trung đội thực nghiệm, còn ở trung đội đối chứng thì không. Kết quả học tập và
mức độ hứng thú tham gia tích cực vào bài giảng ở trung đội thực nghiệm cao hơn
so với trung đội đối chứng. Tuy nhiên để đảm bảo tính khách quan, tác giả tiếp tục
108
tiến hành thực nghiệm lần thứ hai sau khi tiếp thu ý kiến đóng góp của giảng viên
trong Khoa và phản hồi bước đầu của người học.
Dưới đây là bảng kết quả kiểm tra của NH trung đội đối chứng và trung đội
thực nghiệm ở lần thực nghiệm thứ hai sau khi dạy bài B2, tác giả thu được kết quả
học tập của hai trung đội như sau:
Bảng 3.2: Kết quả kiểm tra 1 tiết của trung đội thực nghiệm và trung đội đối
chứng (lần 2)
Phân Giỏi Khá Trung bình Không đạt
loại (9-10) (8-9) (5-6) (<5)
Số Tỷ Số Tỷ Số Tỷ Số Tỷ
Trung đội lượng lệ % lượng lệ % lượng lệ % lượng lệ %
Trung đội 22 26,2% 56 66,7% 6 7,1% 0 0% Thực nghiệm
Trung đội 6 7,2% 38 45,2% 40 47,6% 0 0% Đối chứng
(Nguồn: Số liệu điều tra khi thực hiện đề tài)
Kết quả kiểm tra nội dung bài của người học sau lần thực nghiệm thứ hai được
thể hiện ở bảng 3.2, cụ thể:
Tỷ lệ người học đạt điểm trung bình của trung đội thực nghiệm đã giảm hơn
nhiều so với lần thực nghiệm thứ nhất chiếm (7,1%), tỷ lệ người học đạt kết quả
điểm trung bình của trung đội đối chứng còn cao chiếm (47,6%).
Tỷ lệ người học đạt điểm khá của trung đội thực nghiệm đã tăng so với lần
thực nghiệm thứ nhất (66,7%), trong khi đó trung đội đối chứng là (45,2%).
Tỷ lệ người học đạt điểm giỏi ở trung đội thực nghiệm cao hơn trung đội đối
chứng, cụ thể là ở trung đội thực nghiệm có (26,2%), trung đội đối chứng chỉ có
(7,2%). Điều này cho thấy ở lần thực nghiệm thứ hai này số người học đạt điểm giỏi
ở trung đội đối chứng không thay đổi nhiều so với lần thực nghiệm thứ nhất, nhưng
ở trung đội thực nghiệm thì tỷ lệ người học đạt điểm giỏi lại tăng lên một cách đáng
kể trong lần thực nghiệm thứ hai này.
109
Như vậy, đến lần thực nghiệm thứ hai này, kết quả học tập và rèn luyện của
trung đội thực nghiệm đã cao hơn hẳn so với trung đội đối trứng. Đặc biệt ở trung
đội thực nghiệm, số người học đạt điểm giỏi, khá không chỉ tăng lên, mà số người
học đạt điểm trung bình cũng giảm nhiều. Điều này chứng tỏ việc sử dụng kết hợp
phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn Công
tác quốc phòng, an ninh đã thực sự có hiệu quả, nhận thức của người học đã có sự
chuyển biến tích cực, chất lượng học tập và rèn luyện của người học được nâng lên
một cách rõ rệt.
3.2.3. Kết luận chung về thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm sư phạm là một bước không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu
đề tài khoa học nói chung và chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học bộ
môn lý luận chính trị nói riêng. Tiến hành quá trình thực nghiệm mới đem lại các
kết quả từ đó khẳng định tính hiệu quả, khả thi của việc sử dụng kết hợp phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN ở
Trung tâm GDQP&AN - Đại học Thái Nguyên. Thông qua việc sử dụng kết hợp
giữa hai phương pháp này, người học chủ động hơn, tích cực hơn, say mê và tạo ra
hứng thú học tập nhiều hơn. Đó là đòn bảy quyết định đến chất lượng và hiệu quả
học tập của môn học.
Việc sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai
đã tạo ra một động lực tinh thần và trí tuệ để tích cực hoạt động nhận thức của NH.
Giờ học diễn ra nhẹ nhàng thoải mái, phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi của NH.
Người học từ chỗ là đối tượng thụ động đã thực sự trở thành một chủ thể tích cực
và tự giác của hoạt động học, tự mình chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng bằng chính hoạt
động của mình, bằng sự hợp tác với các thành viên khác và với thầy. Vì vậy, giờ
học sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai theo
phương án thực nghiệm không chỉ giúp NH lĩnh hội tri thức và kỹ năng với chất
lượng cao hơn, vững chắc hơn so với phương án cũ, mà nó còn giúp cho NH hình
thành và phát triển các kỹ năng sống tương đối hoàn thiện. Điều đó giúp cho NH
vững vàng trước khó khăn, thử thách, luôn yêu đời và luôn làm chủ được cuộc sống
của mình. Cũng vì lẽ đó, mà tại các giờ học này đã thu hút được sực say mê và hứng
thú học tập của NH.
110
Các kết quả thu được từ thực nghiệm và những ý kiến của các GV Khoa đã
cho chúng ta khá nhiều dẫn liệu để bổ sung và chỉnh lý quy trình, cũng như kĩ thuật
tổ chức dạy học theo hướng sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai. Vì vậy, cho tới thời điểm này, tác giả có thể khẳng định
rằng: sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai, quy
trình và kĩ thuật đó hoàn toàn mang tính khả thi và có tính hiệu lực cao.
111
Tiểu kết chương 3
Để tiến hành thực nghiệm, tác giả đã nghiên cứu, thiết kế 2 giáo án thực nghiệm,
thực hiện trong 8 tiết học. Để so sánh kết quả thực nghiệm, tác giả đã giảng dạy nội
dung trên với trung đội thực nghiệm. Kết quả thực nghiệm cho thấy đa số người học
hứng thú với việc sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai trong dạy học. Giờ học diễn ra sôi nổi, hào hứng, người học tích cực hoạt
động để lĩnh hội tri thức. Qua thống kê chất lượng bài làm kiểm tra cho thấy kết quả
học tập của trung đội thực nghiệm cao hơn trung đội đối chứng.
Sau khi thực nghiệm sư phạm tác giả khẳng định tính đúng đắn của việc kết
hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn
CTQP-AN. Trong suốt quá trình thực nghiệm, tác giả đã chứng minh sự lựa chọn
trên đem lại hiệu quả cao hơn so với sử dụng các phương pháp truyền thụ kiến thức
một chiều. Việc tổ chức cho người học học tập theo quy trình mà tác giả đã đề xuất
là thích hợp, góp phần thay đổi phương pháp dạy học môn CTQP-AN theo hướng
tích cực hoá hoạt động nhận thức của người học. Biến quá trình dạy học thành quá
trình người học chủ động, tích cực, hứng thú lĩnh hội tri thức khoa học.
Từ những kết quả nghiên cứu trên một lần nữa tác giả khẳng định việc kết hợp
phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-
AN là một sự lựa chọn phù hợp cho quá trình dạy học ở nước ta hiện nay. Kết quả
thực nghiệm cũng cho thấy quy trình sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai như đã đề xuất góp phần nâng cao chất lượng dạy học
môn CTQP-AN. Sự kết hợp này đã phát huy mạnh mẽ tính chủ động, tích cực của
người học trong quá trình lĩnh hội tri thức. Điều này đã khẳng định tính khả thi của
giả thuyết khoa học của đề tài.
112
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu:
1. Trong xu hướng phát triển của giáo dục hiện đại, người ta nghiên cứu sử
dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai nhằm giúp
người học chủ động trong học tập, lĩnh hội kiến thức và kỹ năng hoạt động. Sử dụng
kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai thuộc về nhóm
“phương pháp tích cực” người học tìm tòi kiến thức, hình thành thói quen học tập
theo phương pháp nghiên cứu sáng tạo. Sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp đóng vai góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn CTQP-
AN. Bởi đây là một trong những phương pháp dạy học có nhiều ưu điểm vượt trội
so với các phương pháp dạy học khác, đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay.
2. Kế thừa và phát triển về đổi mới phương pháp hiện đại, luận văn đã góp
phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về dạy học như: Phương pháp dạy học,
phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai, ý nghĩa của việc sử dụng kết
hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai nhằm nâng cao chất
lượng trong dạy học môn CTQP-AN nhằm xác lập cơ sở lý luận cho đề tài.
3. Kết quả khảo sát về thực trạng việc sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp đóng vai của giảng viên trong quá trình dạy học môn CTQP-
AN bước đầu đã khái quát được bức tranh tổng thể về tình hình dạy học môn học
này ở Trung tâm. Giảng viên còn gặp nhiều khó khăn trong việc vận dụng các
phương pháp dạy học. Đặc biệt là sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai. Giảng viên chưa biết tổ chức cho người học sử dụng kết hợp
phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai theo một quy trình hợp lý.
Vì vậy, chất lượng, hiệu quả dạy học môn CTQP-AN chưa cao.
4. Quy trình tổ chức dạy học theo hướng sử dụng kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai là sự kết hợp hữu cơ giữa quy trình dạy của
thầy và quy trình tự học của trò. Nó là một trật tự tuyến tính gồm các giai đoạn,
các bước và các thao tác dạy và học từ khi bắt đầu cho tới khi kết thúc. Với cách
113
thức, quy trình này việc dạy học giúp cho người học tự giác, tích cực và tự lực
chiếm lĩnh tri thức.
5. Kết quả thực nghiệm sư phạm đã chứng minh tính hiệu quả, tính khả thi của
cách thức, quy trình mà tác giả đã đề xuất. Việc tổ chức cho người học thảo luận
nhóm và đóng vai đã giúp cho người học một mặt nắm vững và vận dụng tri thức
tốt hơn trong cuộc sống. Mặt khác người học làm chủ được bản thân, có khả năng
thích ứng, biết cách ứng xử đúng các chuẩn mực hành vi đạo đức đối với bản thân,
bạn bè, gia đình và cộng đồng đáp ứng được sự phát triển của xã hội ngày nay. Các
kết quả thực nghiệm cũng chứng minh và khẳng định tính đúng đắn của giả thuyết
khoa học mà đề tài đã đề ra.
2. Kiến nghị
* Đối với công tác quản lý và chỉ đạo chuyên môn
Cần nhận thức đúng về vai trò của việc giáo dục cảnh giác cách mạng thông
qua môn CTQP-AN là vô cùng quan trọng và cần thiết. Giúp người học hình thành
những chuẩn hành hành vi thói quen đạo đức cách mạng.
Ban Giám đốc cần quan tâm, chỉ đạo giảng viên đổi mới phương pháp dạy học
ở Trung tâm nói chung, môn CTQP-AN nói riêng theo hướng giờ học diễn ra nhẹ
nhàng, thoải mái, người học tích cực chủ động tìm ra kiến thức mới, rèn luyện cho
các em kỹ năng, thói quen thực hiện các hành vi đạo đức theo chuẩn mực đã học.
Cần mở các chuyên đề bồi dưỡng cho giảng viên hệ thống các phương pháp
tổ chức dạy học, bồi dưỡng cho họ lý luận dạy học.
Tăng cường cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học môn CTQP-AN.
Để sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai
đạt hiệu quả cao trong qúa trình dạy học đòi hỏi phải có sự chuẩn bị hết sức công
phu, chu đáo của giảng viên và người học về đồ dùng dạy học. Mỗi một tình huống
nêu ra trong bài học hoàn toàn khác nhau, đòi hỏi người học tham gia trình diễn
phải “hoá trang” và sử dụng các dụng cụ khác nhau để phù hợp với nội dung tình
huống đó. Vì vậy, Trung tâm cần tăng cường các loại đồ dùng dạy học môn CTQP-
AN. Bên cạnh đó cần khuyến khích giảng viên và người học tự làm đồ dùng dạy
học và sưu tầm tư liệu phục vụ cho môn học. Thư viện Trung tâm có đủ giáo trình
cũng như một số đầu sách tham khảo có liên quan đến môn CTQP-AN để giảng
114
viên tự học, tự nâng cao trình độ chuyên môn của mình. Người học có thể tìm hiểu
sâu hơn về môn CTQP-AN nói riêng và chương trình GDQP&AN nói chung.
* Đối với giảng viên
Cần nhận thức đúng về vai trò, vị trí của việc sử dụng kết hợp phương pháp
thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong quá trình dạy học môn CTQP-AN.
Thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng theo tinh thần của Bộ trưởng BGD & ĐT
“Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” tự nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của mình để nâng cao chất lượng giảng dạy môn CTQP-
AN”.
Quy trình tổ chức cho người học sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai là khả thi, có thể dễ dàng áp dụng vào quá trình dạy học
môn CTQP-AN nói riêng và vận dụng dạy tốt chương trình GDQP&AN nói chung.
115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Babanxki. Iu. K. (1981), Tích cực hóa quá trình dạy học, Nxb Cục đào tạo và
bồi dưỡng, Bộ giáo dục.
2. Bernd Meier, Nguyễn Văn Cường (2018), Lý luận dạy học hiện đại: Cơ sở đổi
mới mục tiêu, Nội dung và phương pháp dạy học, Nxb Đại học Sư phạm.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Giáo trình Giáo dục Quốc phòng và An ninh
(tập 1).
4. Vũ Thị Bốn (2017), Vận dụng phương pháp đóng vai trong dạy học phần Công
dân với pháp luật ở trường THPT Lương Tài 2, Luận văn thạc sĩ Khoa học
giáo dục, Đại học Sư phạm Hà Nội
5. Nguyễn Văn Cường (2005), Phát triển năng lực thông qua phương pháp và
phương tiện dạy học mới, Tài liệu hội thảo tập huấn, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Dự án phát triển giáo dục THPT, Hà Nội
6. Quang Dương (1995), Phương pháp dạy học trong trường chuyên nghiệp và
đại học, Viện nghiên cứu giáo dục và đào tạo phía nam.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương lần thứ hai khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29 - QĐ/ TW Hội nghị Trung
ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
10. Đổi mới giảng dạy, nghiên cứu tâm lý học và giáo dục (1995), Khoa tâm lý học,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
11. Đinh Văn Đức, Dương Thị Thúy Nga (2011), Phương pháp dạy học GDCD ở
trường THPT, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
12. B.P.Exipop (1977), Những cơ sở lý luận dạy học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức (1994), Lý luận dạy học đại học, Trường đại học
Sư phạm Hà Nội.
14. Trần Duy Hưng (2000), Mô hình phương pháp dạy học theo nhóm nhỏ”, Tạp
chí Nghiên cứu giáo dục, số 4, tr.9-10
116
15. I.F.Kharlamop (1979), Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào,
tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. J.A.Kômenxki (1991), Thiên đường của trái tim, Nxb Ngoại văn.
17. Nguyễn Kỳ (1995), Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm trung tâm,
Nxb Giáo dục.
18. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2018), Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong
dạy học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ thông Hàm Long,
thành phố Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Khoa học giáo dục, Thái Nguyên
19. V.I.Lênin (1970), Bàn về giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Hồ Chí Minh Với các lực lượng vũ trang nhân dân (1975), Nxb QĐND, Hà Nội.
21. Hồ Chí Minh (1977), Về vấn đề học tập, Nxb Sự thật, Hà Nội.
22. Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục (1995), Nxb QĐND, Hà Nội.
23. Những cơ sở lý luận dạy học (1977), tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội
24. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường,
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
25. Hoàng Phê (1992), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng
26. Vũ Thị Hồng Quế (2009), Quy trình kết hợp phương pháp đóng vai với thảo
luận nhóm trong dạy học môn đạo đức ở bậc tiểu học, Luận văn thạc sĩ Khoa
học giáo dục, Đại học Vinh
27. Robert J.Marzand, Debra J.Pickering, Jane E.Pollock (2011), “Các phương
pháp dạy học hiệu quả” (Người dịch: Nguyễn Hồng Vân), Nxb Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội
28. Robert Slavin (1995), “Dạy học theo nhóm nhỏ, lý thuyết nghiên cứu và thực
hành” Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Lưu Thu Thủy (2013), Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia giáo dục đạo đức công dân,
giáo dục phổ thông Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam.
30. Nguyễn Thị Toan (2013), Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy
học môn GDCD ở phổ thông, Tạp chí Giáo dục, số 312, kì 2, tháng 6/2013
31. Từ điển bách khoa Việt Nam (2003), Nxb Từ điển bách khoa.
32. Từ điển Tiếng Việt, (2008), Nxb Đà Nẵng.
33. Phan Thị Hồng Vinh (2007), PPDH Giáo dục học, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
117
34. Phạm Viết Vượng, (2000), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
35. M.N Xcatkin (1965), Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong
dạy học, Nxb Giáo dục
36. www.academia.edu/4035694/26109576/ Tác giả Lê Thị Ngọc Thương đã biên
dịch từ tài liệu “Role Play as a Teaching Method: A Practical Guide” (Hướng
dẫn thực hành: đóng vai như một phương pháp dạy học) của tiến sĩ Kanokwan
Manorom và Zoë Pollock.
118
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
TRUNG TÂM GIÁO DỤC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
NAM
KHOA GIÁO VIÊN
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2020
PHIẾU ĐIỀU TRA GIẢNG VIÊN VỀ THỰC TRẠNG DẠY HỌC MÔN
CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM
Xin đồng chí cho biết một số thông tin về cá nhân:
Họ tên: ..............................................................................................
Đơn vị công tác.................................................................................
Số năm công tác................................................................................
Trình độ đào tạo................................................................................
Xin đồng chí vui lòng cho biết ý kiến của mình về những vấn đề sau:
Đánh dấu X vào câu trả lời mà đồng chí cho là đúng:
1. Đồng chí quan niệm như thế nào về kết hợp phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN:
Là phương pháp chia nhóm diễn kịch cho NH xem.
Là việc sử dụng hài hòa phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai trong quá trình dạy học, để hai phương pháp hòa quyện, hỗ trợ cho nhau
trong cùng một hoạt động, giúp NH chiếm lĩnh tri thức của nội dung môn học.
Là cách tổ chức cho NH thành từng nhóm vui chơi.
Là cách chia NH thành từng nhóm diễn lại các động tác có thật trong
cuộc sống.
2. Đồng chí có ý kiến gì về mức độ cần thiết của việc kết hợp phương pháp
thảo luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN ở Trung
tâm?
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết
3. Việc sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN ở Trung tâm có ý nghĩa như thế nào?
Nâng cao hiệu bài giảng.
Người học hứng thú học tập.
Giờ học sinh động, NH chủ động hơn trong việc chiếm lĩnh tri thức.
NH có điều kiện trải nghiệm, tích lũy kinh nghiệm sống cho hoạt động
xã hội sau này.
Giờ học ồn ào, kém hiệu quả.
Giảng viên phải đầu tư cho bài học nhiều hơn, công phu hơn.
4. Đồng chí có thường xuyên sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN ở Trung tâm không?
Thường xuyên.
Thỉnh thoảng.
Không tổ chức.
Xin cảm ơn ý kiến của các đồng chí!
Phụ lục 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
KHOA GIÁO VIÊN
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2020
PHIẾU ĐIỀU TRA NGƯỜI HỌC VỀ THỰC TRẠNG DẠY HỌC MÔN
CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM
Em cho biết một số thông tin về cá nhân:
Họ tên: ..............................................................................................
Trung đội: .................................................................................
Trường: ................................................................................
Trình độ đào tạo................................................................................
Em vui lòng cho biết ý kiến của mình về những vấn đề sau:
Đánh dấu X vào câu trả lời mà em cho là đúng:
1. Em quan niệm như thế nào về kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN:
Là phương pháp chia nhóm diễn kịch cho NH xem.
Là việc sử dụng hài hòa phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
đóng vai trong quá trình dạy học, để hai phương pháp hòa quyện, hỗ trợ cho nhau
trong cùng một hoạt động, giúp NH chiếm lĩnh tri thức của nội dung môn học.
Là cách tổ chức cho NH thành từng nhóm vui chơi.
Là cách chia NH thành từng nhóm diễn lại các động tác có thật trong
cuộc sống.
2. Em có ý kiến gì về mức độ cần thiết của việc kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN ở Trung tâm?
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết
3. Giảng viên có thường xuyên sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp đóng vai trong dạy học môn CTQP-AN ở Trung tâm không?
Thường xuyên.
Thỉnh thoảng.
Không tổ chức.
Xin cảm ơn ý kiến của các em!
Phụ lục 3
TRUNG TÂM GIÁO DỤC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
KHOA GIÁO VIÊN
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2020
ĐỀ KIỂM TRA MÔN CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH
(Thời gian làm bài 45 phút)
I. Phần trắc nghiệm
(Khoanh tròn vào một đáp án đúng)
TT
Câu hỏi
Câu 1 Nội dung nào dưới đây là một trong những âm mưu của chiến lược "DBHB"?
Là biết sử dụng mọi thủ đoạn chống phá Việt Nam.
A
Là tiến công kẻ thù trên mọi lĩnh vực.
B
Là cuộc chiến tranh không có tiếng súng .
C
Là coi Việt Nam là một trọng điểm.
D
Nội dung nào dưới đây là một trong những âm mưu của chiến lược
Câu 2
"DBHB"?
Là xóa bỏ nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
A
Là xóa bỏ về chính trị tinh thần chiến đấu của nhân dân.
B
Là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN.
C
Là xóa bỏ tinh thần chiến đấu của nhân dân.
D
Nội dung nào dưới đây là một trong những âm mưu của chiến lược
Câu 3
"DBHB"?
Là biết sử dụng mọi thủ đoạn chống phá Việt Nam.
A
Là tiến công của kẻ thù trên mọi lĩnh vực.
B
Là cuộc chiến tranh không sử dụng súng .
C
Là bao vây cấm vận kinh tế.
D
Có mấy quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong phòng chống chiến lược
Câu 4
"DBHB"?
1 quan điểm.
A
3 quan điểm.
B
4 quan điểm.
C
Câu hỏi
TT
5 quan điểm.
D
Có mấy phương châm chỉ đạo của Đảng ta trong phòng chống chiến
Câu 5
lược "DBHB"?
2 phương châm.
A
3 phương châm.
B
4 phương châm.
C
5 phương châm.
D
Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong phòng chống chiến lược "DBHB"
Câu 6
là quan điểm nào?
Là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go, quyết liệt…
A
Là cuộc đấu tranh bền bỉ.
B
Là cuộc đấu tranh không khoan nhượng.
C
Là cuộc đấu tranh dài ngày liên tục.
D
Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong phòng chống chiến lược
Câu 7
"DBHB"là quan điểm nào?
Cấp bách trong giai đoạn hiện nay....
A
Cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ …
B
Cấp bách trong thực hiện nhiệm vụ.....
C
Cấp bách hàng đầu trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.....
D
Nội dung nào dưới đây là một trong những thủ đoạn của chiến lược
Câu 8
"DBHB"?
Là thủ đoạn biết sử dụng mọi thủ đoạn chống phá Việt Nam.
A
Là thủ đoạn tiến công của kẻ thù trên mọi lĩnh vực.
B
Là thủ đoạn của cuộc chiến tranh không có súng .
C
Là thủ đoạn chống phá về chính trị.
D
Nội dung nào dưới đây là một trong những thủ đoạn của chiến lược
Câu 9
"DBHB"?
Là chống phá về nhận thức nhân dân.
A
Là chống phá về ý chí đánh giặc của lực lượng vũ trang .
B
Là thủ đoạn chống phá về kinh tế.
C
Là chống phá về sức mạnh chính trị và tiềm lực kinh tế của đất nước.
D
Câu hỏi
TT
Nội dung nào dưới đây là một trong những thủ đoạn của chiến lược "DBHB"? Là thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Là thủ đoạn chống phá về nhận thức nhân dân. Là chống phá về ý chí đánh giặc của lực lượng vũ trang . Là thủ đoạn chống phá về chính trị và tiềm lực kinh tế của đất nước.
Câu 10 A B C D
Nội dung nào dưới đây là một trong những thủ đoạn của chiến lược "DBHB"? Là thủ đoạn chống phá về nhận thức nhân dân. Là thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa. Là thủ đoạn chống phá về ý chí đánh giặc của lực lượng vũ trang . Là thủ đoạn chống phá về tiềm lực kinh tế của đất nước.
Câu 11 A B C D
Nội dung nào dưới đây là một trong những thủ đoạn của chiến lược "DBHB"? Là thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực đối ngoại. Là thủ đoạn chống phá về nhận thức của quân đội nhân dân. Là thủ đoạn chống phá về ý chí đánh giặc của lực lượng vũ trang . Là thủ đoạn chống phá về tiềm lực kinh tế xã hội.
Câu 12 A B C D
Thủ đoạn chống phá về kinh tế trong chiến lược "DBHB" là gì?
Câu 13 A B C
D
Chuyển hóa nền kinh tế thị trường theo con đường phát triển tiêu cực. Chuyển hóa nền kinh tế thị trường theo hướng đa cực. Chuyển hóa nền kinh tế thị trường theo nhiều hướng khác nhau. Chuyển hóa nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam dần theo tư bản chủ nghĩa.
Có mấy thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc trong chiến lược "DBHB"?
3 thủ đoạn. 4 thủ đoạn. 5 thủ đoạn. 6 thủ đoạn.
Câu 14 A B C D
Có mấy hình thức bạo loạn do chủ nghĩa đế quốc tiến hành?
2 hình thức.
Câu 15 A
Câu hỏi
TT
B
3 hình thức
C
4 hình thức.
D
5 hình thức.
Câu
Thủ đoạn chống phá về chính trị của chủ nghĩa đế quốc là nội dung
16
nào?
Là thực hiện đa nguyên chế độ để chống phá.
A
Là thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
B
Là thực hiện đa nguyên có tổ chức chống phá.
C
Là thực hiện đa nguyên về văn hóa xã hội.
D
Câu
Hình thức bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc tiến hành ở Việt
17
Nam?
Bạo loạn về chính trị.
A
Bạo loạn về sự tập chung của nhân dân.
B
Bạo loạn về hoạt động của lực lượng vũ trang .
C
Bạo loạn về nhiều lĩnh vực khác nhau.
D
Câu
Hình thức bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc tiến hành ở Việt
18
Nam?
Bạo loạn chính trị kết hợp với vũ trang.
A
Bạo loạn về sự tập chung của nhân dân.
B
Bạo loạn về hoạt động của các tổ chức phản động.
C
Bạo loạn về quân sự tiến công.
D
Câu
Nội dung nào dưới đây nằm trong khái niệm của chiến lược "DBHB
19
"?
"DBHB" là chiến lược nguy hiểm của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
A
" DBHB" là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
B
" DBHB" là chiến lược quan trọng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
C
" DBHB" là chiến lược cần thiết của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
D
Mục đích của chiến lược "DBHB" là gì?
Câu 20
Nhằm lật đổ chế độ chính trị của tất cả các nước.
A
Nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước trung lập.
B
Nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước lớn.
C
Nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ.
D
Câu hỏi
TT
Câu
Chiến lược "DBHB" do đối tượng nào tiến hành?
21
Do chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động trong nước tiến hành.
A
Do chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế tiến hành.
B
Do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến hành.
C
Do một số phần tử cực đoan, thoái hóa biến chất tiến hành.
D
Câu 22
Trong khái niệm của bạo loạn lật đổ xác định hình thức chống phá như thế nào?
Là hành động chống phá bằng bạo lực một cách tự phát.
A
Là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức.
B
Là hành động chống phá bằng hành động kích động có tổ chức.
C
Là hành động chống phá một cách manh động có tổ chức.
D
Câu
Khi tiến hành bạo loạn lật đổ các thế lực thù địch thường kích động
23
những phần tử nào?
Là những phần tử quá khích.
A
Là học sinh, sinh viên.
B
Là cán bộ lãnh đạo.
C
Là những người bất mãn.
D
Câu
Hãy xác định quy mô của bạo loạn lật đổ có thể diễn ra như thế nào?
24
Ở nhiều mức độ, quy mô rộng lớn.
A
Ở nhiều mức độ, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn.
B
Ở nhiều mức độ, quy mô rất nhỏ.
C
Ở nhiều mức độ, quy mô vừa phải.
D
Câu
Phạm vi xảy ra bạo loạn lật đổ có thể diễn ra như thế nào?
25
Có thể diễn ra ở nhiều nơi, khu vực của đất nước.
A
Có thể diễn ra ở nhiều nơi, một vùng của đất nước.
B
Có thể diễn ra ở một tỉnh của đất nước.
C
Có thể diễn ra ở nhiều nơi, nhiều vùng của đất nước.
D
Câu 26
Chủ nghĩa đế quốc tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm mục đích gì?
A
Nhằm phá hoại làm suy yếu từ bên ngoài các nước XHCN.
Câu hỏi
TT
Nhằm phá hoại làm suy yếu từ bên trong các nước XHCN.
B
Nhằm phá hoại làm suy yếu từ bên trong và bên ngoài các nước XHCN.
C
Nhằm phá hoại làm suy yếu lực lượng vũ trang các nước XHCN.
D
Câu
Nội dung nào dưới đây thuộc âm mưu trong chiến lược "DBHB”?
27
Xóa bỏ đội ngũ lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
A
Xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
B
Xóa bỏ nền văn hóa của Việt Nam.
C
Xóa bỏ hệ thống pháp luật của Việt Nam.
D
Câu
Mục tiêu của chiến lược "DBHB" chống phá cách mạng nước ta hiện
28
nay là gì?
Chống phá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
A
Chống phá toàn diện ở các thành phần kinh tế.
B
Chống phá toàn diện ở các tổ chức chính trị.
C
Chống phá toàn diện ở các lực lượng vũ trang.
D
Câu
Nội dung nào dưới đây thuộc khái niệm của chiến lược "DBHB"?
29
Kích động các mâu thuẫn trong xã hội tạo ra các lực lượng chính trị …
A
Kích động các mâu thuẫn trong xã hội tạo ra các lực lượng phản động ...
B
Kích động các mâu thuẫn trong xã hội tạo ra các lực lượng chống đối ...
C
Kích động các mâu thuẫn trong xã hội tạo ra các lực lượng bất mãn...
D
Câu
Các thế lực thù địch đã tận dụng những sơ hở nào để chống phá cách
30
mạng Việt Nam về chính trị?
Trong việc giáo dục, tuyên truyền của Đảng và Nhà nước ta.
A
Trong đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước ta.
B
Trong chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta.
C
Trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước.
D
II. Phần tự luận
Những âm mưu chủ yếu mà các thế lực thù địch đang sử dụng để chống phá
Đảng, Nhà nước ta hiện nay là gì? Hãy làm sáng tỏ những âm mưu đó. Bản thân
phải làm gì để phòng chống được những âm mưu đó.
(Giảng viên coi thi không giải thích gì thêm!)
Phụ lục 4
TRUNG TÂM GIÁO DỤC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUỐC PHÒNG VÀ AN
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NINH
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2020