intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Bước đầu nghiên cứu tư tưởng Donghak và ảnh hưởng của nó ở Triều Tiên nửa cuối thế kỷ XIX

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:97

30
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn được chia thành 3 chương như sau: Bối cảnh lịch sử bán đảo Korea thế kỷ XIX; SuUn Choi Jae U và nội dung tư tưởng Donghak; ảnh hưởng của tư tưởng Donghak đối với cuộc cách mạng nông dân Donghak cuối thế kỷ XIX.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Bước đầu nghiên cứu tư tưởng Donghak và ảnh hưởng của nó ở Triều Tiên nửa cuối thế kỷ XIX

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN - - - - - - - - - - - - ĐÀO VŨ VŨ BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG DONGHAK (ĐÔNG HỌC) VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ Ở TRIỀU TIÊN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Chuyên ngành: Châu Á học HÀ NỘI - 2009
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN - - - - - - - - - - - - ĐÀO VŨ VŨ BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG DONGHAK (ĐÔNG HỌC) VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ Ở TRIỀU TIÊN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC Chuyên ngành: Châu Á học Mã số: 60 31 50 Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Đình Chỉnh HÀ NỘI - 2009
  3. MỤC LỤC Phần mở đầu 01 Phần nội dung 13 Chương 1 BỐI CẢNH LỊCH SỬ BÁN ĐẢO KOREA CUỐI THẾ KỶ XIX 13 1.1. Vài nét về tình chính trị, xã hội trước khi xuất hiện tư tưởngg Donghak 13 1.2. Vài nét về tư tưởng học thuật. tôn giáo 23 Tiểu kết chương 1 32 Chương 2 SUUN CHOI JAE U VÀ NỘI DUNG CỦA TƯ TƯỞNGG DONGHAK 35 2. 1. Cuộc đời và sự nghiệp của SuUn Choi Jae U 35 2.2. Hai tác phẩm chính của tư tưởng Donghak 37 2. 3. Nội dungcơ bản của tư tưởng Donghak 48 2.4. Tư tưởng Donghak mang đậm tính chất văn hóa Korea 60 Tiểu kết chương 2 67 Chương 3 ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG DONGHAK TỚI XÃ HỘI JOSEON 69 NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX 69 3.1. Phong trào cách mạng nông dân Donghak 76 3. 2. Các tôn giáo bắt nguồn từ tư tưởng Donghak 79 3. 3. Khơi nguồn ý tưởng về ‘KOREA HỌC’ 81 Tiểu kết chương 3 Phần kết luận 82 Danh mục Tài Liệu Tham Khảo 86
  4. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Trước năm 1948, vùng bán đảo Korea là một quốc gia thống nhất. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, bán đảo Korea đã mang nhiều tên gọi khác nhau. Những tên gọi ấy có thể là một quốc hiệu của một quốc gia thống nhất hay chia thành các quốc gia cát cứ tồn tại cùng thời trên vùng bán đảo. Chẳng hạn, nhà nước Joseon cổ (고조선) tương truyền ra đời năm 2333 TCN là một vương quốc hùng mạnh và sau đó trở thành một nhà nước liên minh thống nhất phát triển qua ba giai đoạn từ Joseon Dangun (조선단군) đến Wiman Joseon (위만조선). Tương tự, bước vào thời kỳ Tam quốc, trên vùng bán đảo Korea lại xuất hiện ba quốc gia cát cứ: Goguryo (고구려), Shilla (신라) và PaekJe (백제). Sự xuất hiện của các quốc gia trên đã làm cho tình hình bán đảo trở nên phức tạp và đã dẫn tới những cuộc thôn tính lẫn nhau nhằm tranh giành quyền thống trị. Cuối cùng, nhà nước Shilla đã thống nhất vùng bán đảo và trở thành vương quốc cường thịnh từ thế kỷ VII đến thế kỷ X. Sự sụp đổ của nhà nước Shilla vào đầu thế kỷ X đã kết thúc thời kỳ cổ đại, đồng thời cũng mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử trên vùng bán đảo Korea - giai đoạn phong kiến. Nhà nước Goryo (고려, 918-1392) không chỉ là nhà nước phong kiến đầu tiên xuất hiện, vừa đại diện cho một phương thức sản xuất mới vào thời điểm đó vừa sớm trở thành một vương quốc hùng mạnh, để lại nhiều thành tựu văn hoá, văn minh rực rỡ trên vùng bán đảo. Trong lịch sử thời Goryo không thể không nhắc đến công sức lao động và sự sáng tạo tuyệt vời của các nghệ nhân Korea trong việc sáng chế ra bản khắc in bộ kinh phật Tripitaka (Đại tạng kinh - 팔만대장경) hiện còn được lưu giữ tại Haein-sa (Hải Ấn tự - 해인사) gần Daegu ngày nay. Trong lịch sử bán đảo Korea, không thể không kể đến vị trí lịch sử của triều đại Joseon (조선, 1392-1910). Joseon không chỉ là triều đại tồn tại lâu 1
  5. dài nhất trong lịch sử trung đại mà còn đưa dân tộc Korea vượt qua những biến cố, thăng trầm của lịch sử trước sự bành trướng xâm thực của các cường quốc phương Tây và Nhật Bản. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, trong tiến trình lịch sử Korea vào giai đoạn Joseon, một trong những thành tựu quan trọng trong lĩnh vực tư tưởng triết học mang đậm bản sắc của người Korea để lại là tư tưởng Donghak và những ảnh hưởng của nó diễn ra trên vùng bán đảo vào nửa cuối thế kỷ XIX. Với nhiều lý do khác nhau, tư tưởng Donghak (동학) của Choi Jae U (Thôi Tế Ngu, 최제우, 1824-1864) đã có sức cảm hoá mạnh mẽ, thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tại các vùng nông thôn trên bán đảo Korea lúc bấy giờ. Có thể thấy, tư tưởng này xuất hiện vào thời buổi lịch sử đặc biệt - thời kỳ mà triều đại phong kiến Joseon đang trong giai đoạn suy yếu khủng hoảng. Mặt khác, tư tưởng Donghak cùng cuộc cách mạng nông dân Donghak là một trong những sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu bước phát triển của lịch sử vùng bán đảo Korea, nhất là đánh dấu sự tiếp xúc văn hóa của vùng bán đảo với văn hóa phương Tây vào cuối thế kỷ XIX. Có thể thấy, tư tưởng Donghak đã góp phần bổ sung và tiếp tục phát triển nền triết học độc đáo và đang ngày càng được thế giới công nhận của Hàn Quốc. Đặc biệt là sau Đại hội Triết học thế giới lần thứ 09, được tổ chức lần đầu tiên tại một nước châu Á là Hàn Quốc vào tháng 08 năm 2008. Sự kiện này đánh dấu mối quan tâm của thế giới về các nền triết học khác ngoài Trung Quốc và Ấn Độ. Thực tế lịch sử cho thấy, sau khi tư tưởng này trở thành một học thuyết với tư cách là tôn giáo, nó đã có sức cổ vũ mạnh mẽ cho cuộc khởi nghĩa của nông dân và sau đó trở thành một phong trào nông dân rộng lớn lôi cuốn hàng vạn người tham gia chống lại ách thống trị của chính quyền phong kiến và sự xâm thực của đế quốc Nhật Bản. Lịch sử Hàn Quốc gọi đó là cuộc cách mạng nông dân Donghak. Đoạn văn sau đây cho chúng ta thấy mầm mống của một phong trào giải phóng dân tộc đã được hình thành cùng với sự xuất hiện của tư tưởng 2
  6. Choi Jae U: “Từ năm 1863, Choi Jae U đã thiết lập các cơ sở của giáo đoàn tại nhiều nơi ở tỉnh Kyungsang, rồi nhiều người có danh tiếng tụ tập ở đâu cùng đàm đạo. Trong quá trình ấy, SuUn trở thành cha của dân chúng và được cho là nhân vật có đôi bàn tay cứu rỗi thần kỳ. Tin vào Donghak là chữa được bệnh và có thể làm đất nước an bình – lời đồn đại lan nhanh như gió thổi khiến chỉ trong vòng 3 năm Donghak đã mở rộng trên phạm vi toàn quốc” [32, 231]. Ngày 01 tháng 12 năm 1905, giáo chủ thứ 3 của Donghak là ƯiAm Sơng Sa (Sôn Byơng Hy, 의암 성사 – 손병희) đã tuyên bố Donghak là “Chondogyo” (Thiên đạo giáo, 천도교). Năm 1923, tổ chức tôn giáo “SuUn gyo” (SuUn giáo, 수운교) ra đời. Với tư cách là cội nguồn của một số tôn giáo bản địa, tư tưởng Donghak đã và đang đóng vai trò quan trọng trong xã hội, cũng như trong tâm thức của người dân trên vùng bán đảo Korea nói chung và trong xã hội Hàn Quốc hiện đại ngày nay. Với mục tiêu tìm hiểu về đất nước và con người vùng bán đảo Korea, đồng thời cũng nhằm mục đích tiếp tục theo đuổi chủ đề nghiên cứu của mình trong luận văn cử nhân, trên cơ sở của các tài liệu đã sưu tầm được, chúng tôi đã chọn hướng nghiên cứu cho luận văn cao học của mình với tiêu đề: “Bước đầu nghiên cứu tư tưởng Donghak và ảnh hưởng của nó ở Triều Tiên nửa cuối thế kỷ XIX”. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Cũng như Việt Nam, bán đảo Korea trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ đầy biến động của lịch sử. Trước hết có thể thấy, thời kỳ này chính quyền nhà nước phong kiến Joseon đang bước vào giai đoạn suy yếu khủng hoảng với những mâu thuẫn nội bộ khá sâu sắc. Các dòng họ thông gia trong hoàng gia mà điển hình là dòng họ Kim gốc AnDong (An Đông Kim thị, 안동김씨) và dòng họ Jo gốc PhungYang (Phong Nhưỡng Triệu thị, 풍양조씨) thay nhau thao túng quyền lực của Nhà vua, phá vỡ chính sách ThangPyong (Thang Bình thuyết – 탕평책, chính sách công bằng) được vua 3
  7. SukJong (Túc Tông, 숙종) ban hành trước đó. Sự tập trung quyền lực vào tay một số dòng họ lớn trong hoàng gia đã làm cho tình hình chính trị trở nên rối ren và chính những người nông dân đã phải gánh những hậu quả nghiêm trọng của sự rối ren này. Tình trạng mua quan, bán tước, hối lộ, tham nhũng trong hàng ngũ quan lại của hoàng gia diễn ra khá phổ biến. Trong xã hội, tầng lớp yangban (Lưỡng ban, 양반) trước đó vốn là tầng lớp quan lại cao quý của triều đình Joseon đến thời điểm này không còn gây nhiều ảnh hưởng tới xã hội khiến địa vị trở nên mờ nhạt, thậm chí nhiều người bị sa sút, không còn đủ sức duy trì nổi phẩm giá và uy quyền của mình như những thời kỳ đầu, được gọi là “lưỡng ban khánh kiệt”. Trước sự lũng đoạn của các dòng họ thông gia hoàng tộc và triều đình, nhiều nông dân bị phá sản, tình trạng phiêu tán của nông dân tăng lên nhanh chóng. Nhiều cuộc nổi loạn của nông dân đã diễn ra, điển hình là các cuộc nổi loạn của Hong Kyong Rae (Hồng Cảnh Lai - 홍경래) - một lưỡng ban thất thế ở khu vực Bình An đạo, hoặc Jinju Min Ran (Tấn Châu dân loạn - 진주민란) nổ ra năm 1862 do Liễu Kế Xuân lãnh đạo ở Jinju. Mặc dù còn mang tính tự phát và sau đó bị thất bại nhưng là một đòn tấn công vào xã hội yangban bị lung lay trước sự thao túng chủa các dòng họ thông gia hoàng tộc. Về học thuật tư tưởng, xã hội Triều Tiên thời gian này đã xuất hiện nhiều trường phái học thuật lớn, ngoài trường phái Silhak (Thực học, 실학) xuất hiện từ những thế kỷ trước đó, đến thời điểm này Công giáo đã được truyền vào bán đảo Korea và ngày càng có xu hướng phát triển. Chẳng hạn, dưới triều vua CheolJong (Triết Tông - 철종, 1849-1963), số dân theo Công giáo đã lên tới 20.000 cùng với nhiều kinh sách được xuất bản. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, xã hội Joseon là xã hội mang đậm nét Nho giáo, và chính bởi đặc điểm này mà Công giáo với giáo lý tự do bình đẳng của nó có thể nhanh chóng có chỗ đứng trong xã hội Joseon vốn đang chịu sự ràng buộc trong các khuôn hổ 4
  8. cố định của xã hội Nho giáo. Tuy vậy, khi mới du nhập vào xã hội Korea, Công giáo mới chủ yếu gây được ảnh hưởng trong tầng lớp bình dân thành thị và địa bàn chủ yếu là khu vực Seoul cùng một số vùng lân cận mà chưa hề có chỗ đứng trong xã hội nông thôn. Trong khi đó, tại nhiều vùng nông thôn tư tưởng Donghak do Choi Jae U khởi xướng đã nhanh chóng phát triển trong khu vực nông thôn và có ảnh hưởng sâu rộng trong nông dân: “Donghak không chỉ là một phong trào tôn giáo mà còn là một phong trào xã hội, một phong trào liên quan trước tiên với giới nông dân và với việc cải thiện hoàn cảnh sinh sống của dân làng. Donghak cổ vũ tinh thần dân tộc bằng việc dân tộc phải được củng cố và người dân phải được bảo đảm có kế sinh nhai và Donghak kêu gọi sự cải tổ triệt tiêu sự thối nát đè nặng lên chính quyền…” [10, 375]. Từ những cơ sở nhận thức nêu trên, đối chiếu với các hệ tư tưởng triết học khác cùng thời tồn tại trên bán đảo, chúng tôi xác định hướng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là bước đầu tìm hiểu và nghiên cứu có tính chất hệ thống về nội dung tư tưởng của SuUn Choi Jae U và ảnh hưởng của tư tưởng này trong xã hội Korea thời điểm đó, đồng thời cũng nêu ra một số nhận xét về những thành tựu đã đạt được và sự hạn chế của tư tưởng này trong nửa cuối thế kỷ XIX trên vùng bán đảo Korea.Về phạm vi nghiên cứu: Như đã nêu trong tiêu đề của luận văn, nội dung nghiên cứu chủ yếu của luận văn được thể hiện bởi hai vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất là, luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề cơ bản của tư tưởng Donghak do SuUn Choi Jae U sáng lập với tư cách là một nhà tư tưởng học thuật ở bán đảo Korea thế kỷ XIX, nên hướng chủ yếu của luận văn sẽ được thể hiện qua việc nghiên cứu về các nội dung cơ bản của học thuyết mà SuUn Choi Jae U nêu ra cũng như giới thiệu một vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của nhà tư tưởng học thuật này. Thứ hai, Donghak với tư cách là một học thuyết tôn giáo chủ trương bình 5
  9. đẳng cho tất cả mọi con người vượt lên trên địa vị xã hội và địa vị giai cấp, học thuyết này đã nhanh chóng chiếm được sự ủng hộ của những người nông dân vốn đang trực tiếp hứng chụ sự bóc lột của tầng lớp Yangban. Mặc dù sau cái chết của SuUn Choi Jae U, tư tưởng Donghak vốn đã được nuôi dưỡng trong quần chúng nông dân đã trở thành phong trào cách mạng của nghĩa quân Donghak vào những năm cuối thế kỷ XIX. Tuy vậy do giới hạn của đề tài cũng như một số yếu tố khác nên nội dung của luận văn chỉ tập trung nghiên cứu tưởng Donghak của SuUn Choi Jae U dưới góc độ giới thiệu tư tưởng mà không nghiên cứu tới sự phát triển tư tưởng của SuUn mà không để tâm vào các đóng góp của HaeWol Choi Si Hyong (해월 최시형, đệ tử thứ nhất của SuUn Choi Jae U) cùng các tôn giáo như SuUn giáo hay Thiên đạo giáo vốn bắt nguồn từ tư tưởng Donghak. Chính vì vậy mà về mặt tài liệu, hai tác phẩm của SuUn Choi Jae U sẽ là tài liệu được khai thác chính trong phần nội dung đặc biệt ở chương 2 của luận văn. Đó là hai cuốn sách: DongKyongDaeJeon (동경대전 - Đông Kinh Đại Toàn) được viết bằng chữ Hán, và cuốn YongDamYuSa (용담유사 - Long Đàm Di Từ) được viết bằng chữ Hangul. Thứ ba, trên cơ sở các nguồn tài liệu đã sưu tầm được (gồm các nguồn tài liệu tiếng Hàn, tiếng Việt ở Việt Nam và Hàn Quốc), đề tài sẽ tập trung làm rõ và hệ thống lại về quá trình nghiên cứu tư tưởng Donghak và ảnh hưởng của nó tới xã hội Korea nửa cuối thế kỷ XIX, cũng như bước đầu nêu ra một số nhận xét về những giá trị tư tưởng của học thuyết này. Mặc dù vậy, luận văn chắc chắn còn nhiều hạn chế khi chưa có điều kiện tiếp xúc, khảo sát và tìm hiểu được lập trường cũng như quan điểm nghiên cứu về tư tưởng Donghak của các nhà nghiên cứu tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên. 3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp được sử dụng chủ yếu trong luận văn là phương pháp mô tả lịch sử, phương pháp liên ngành và tổng hợp. Trong đó, phương pháp mô tả 6
  10. lịch sử và phương pháp liên ngành sẽ giúp cho đề tài luận văn hệ thống được nội dung, trình bày và phân tích những vấn đề cơ bản của tư tưởng học thuyết Donghak qua hai tác phẩm “Đông Kinh Đại Toàn” và “Long Đàm Di Từ”. Bên cạnh đó, phương pháp liên ngành và phương pháp tổng hợp còn giúp cho đề tài xử lý cũng như sắp xếp các nguồn tài liệu phục vụ cho các bước nghiên cứu được thuận tiện hơn. Trên cơ sở nêu và phân tích những nội dung cơ bản của đề tài, đề tài sẽ đưa ra một số nhận xét về quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Donghak cũng như những ảnh hưởng của nó đối với cuộc cách mạng của nông dân trên bán đảo Korea trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Về công tác sưu tầm tài liệu, nhìn chung tài liệu được sử dụng chủ yếu trong luận văn là nguồn tài liệu xuất bản tại Hàn Quốc và được viết bằng tiếng Hàn Quốc. Hai cuốn sách của SuUn Choi Jae U là “Đông Kinh Đại Toàn” và “Long Đàm Di Từ” như đề cập ở trên, một được viết bằng chữ Hán, một được viết bằng chữ Hangul. Chính vì vậy, chúng tôi sử dụng các tài liệu của các nhà nghiên cứu Hàn Quốc đã biên dịch qua tiếng Hàn hiện đại trong quá trình nghiên cứu. Sau công tác thu thập tài liệu là quá trình biên dịch. Luận văn sử dụng các biên dịch từ tiếng Hangul qua tiếng Việt của hai tác phẩm chính – “Đông Kinh Đại Toàn” và “Long Đàm Di Từ”. “Đông Kinh Đại Toàn” đã được học viên dịch ra tiếng Việt và xuất bản năm 2008. 4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Như đã nêu, “Bước đầu nghiên cứu tư tưởng Donghak và ảnh hưởng của nó vào nửa cuối thế kỷ XIX ở bán đảo Korea” là một chủ đề khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Đây là chủ đề khoa học lớn đề cập đến sự hình thành và phát triển của một học thuyết tôn giáo do SuUn Choi Jae U khởi xướng và sau đó là sự ảnh hưởng sâu rộng của nó trong xã hội Korea. Chủ đề khoa học này được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau của nhiều ngành khoa 7
  11. học: lịch sử, triết học, xã hội học, chính trị học đã cho công bố các bài nghiên cứu, bài báo, các ấn phẩm… Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, trên một phương diện nào đó, các nghiên cứu mới dừng lại ở mức độ nhất định mà chưa đi sâu phân tích một cách có hệ thống về nội dung tư tưởng. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy một số hướng nghiên cứu liên quan đến chủ đề như sau: 4.1. Tại Hàn Quốc Trước hết có thể thấy, các nhà xuất bản tôn giáo ở Hàn Quốc thường tập trung vào khai thác hai cuốn sách do SuUn Choi Jae U viết là “Đông Kinh Đại Toàn” và “Long Đàm Di Từ” vốn được coi như kinh điển của tổ chức tôn giáo Thiên chủ. Các cuốn sách này thường đưa cả phần chữ Hán và chữ Hangul cổ, sau đó có phần phân tích, chú giải ở dưới. Bởi tư tưởng Donghak là cội rễ của một số tôn giáo hiện tồn tại Hàn Quốc, nên việc tư tưởng này trở thành đối tượng nghiên cứu của các tôn giáo tiếp nối là điều dễ hiểu. Tuy nhiên các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở phạm trù niềm tin hoặc tôn giáo nên chúng thường đi theo hướng vừa kiến giải vừa “ca tụng”, có khi bao gồm cả mục tiêu nâng cao uy tín của tôn giáo mình nên phần lớn mặc dù có tính hệ thống nhưng thiếu tính khách quan khoa học và cũng mới dừng lại ở mức độ nhất định. Các nhà ngôn ngữ học Hàn Quốc luôn coi hai tác phẩm của SuUn Choi Jae U như tài liệu quý về chữ Hangul thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tương tự, các nhà xã hội học, chính trị học thường luận giải về các vấn đề như: chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng Donghak, tư tưởng Donghak với sinh mệnh con người; tư tưởng Donghak và xã hội “thị Thiên chủ”... Về mặt triết học, các học giả thường tập trung nghiên cứu các khái niệm xuất hiện trong tư tưởng Donghak như: thần Trời, thị Thiên chủ, chú văn, thần dược, các phạm trù như nhân sinh quan, thần luận. Các nghiên cứu về Donghak ngày càng tăng về mặt số lượng nhưng các hướng nghiên cứu chính về Donghak một mặt cũng chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội Hàn Quốc hiện đại: “vào những năm 1970 có khoảng 102 tài liệu 8
  12. nghiên cứu về Donghak được công bố, chính thức mở đầu cho việc nghiên cứu về SuUn Choi Jae U và tư tưởng Donghak. Sang những năm 1980 thì số lượng công trình nghiên cứu đã lên tới con số kỷ lục là 209 công trình. Tương tự, những năm 1990 có 165 công trình nghiên cứu được công bố. Vào thập niên 80 và 90, khối xã hội học và chính trị học cũng bắt đầu quan tâm tới Donghak. Điều này không phải không có mối quan hệ với các phong trào vận động dân chủ trong những năm 1980 tại Hàn Quốc” [26, 64]. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về tư tưởng Donghak của SuUn Choi Jae Uchưa đạt được nhiều thành quả. Một mặt bởi tính chất “phức hợp” của tư tưởng này mà các nhà nghiên cứu khó giải mã được các nội dung của nó. Mặt khác, trong xã hội Hàn Quốc, tư tưởng Donghak vẫn chưa là một trào lưu tư tưởng chiếm giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của người dân Hàn nên nó chưa được đánh giá cao trong hệ thống tư tưởng truyền thống Hàn Quốc. Chẳng hạn: “Qua những năm 1980, một hướng nghiên cứu mới về tư tưởng Donghak với các cuộc thảo luận đã mở ra. Nhưng có một sực thực là các nghiên cứu mặc dù tăng về lượng nhưng các tranh luận về tư tưởng Donghak không có chiều sâu nên không phát triển rộng được. Điều này cho thấy các nghiên cứu sâu về tư tưởng Donghak vẫn chưa được tiến hành”[26, 64]. “Năm 1994 kỷ niệm 100 năm cuộc cách mạng nông dân Donghak , đã có nhiều nghiên cứu về Donghak theo hướng nghiên cứu tư tưởng. Có một số đầu sách như: “Tư tưởng Donghak và cách mạng nông dân Donghak” (Sin Il Chơl, 1991), “Tư tưởng Donghak và cách mạng nông dân Giáp Ngọ” (Sin Bok Ryong, 1991), “Nghiên cứu về Donghak và chiến tranh nông dân Giáp Ngọ” (Sin Yong Ha, 1993). Ngoài ra có Kim Ji Ha đi theo hướng nghiên cứu các ảnh hưởng của tư tưởng triết học Donghak trên lĩnh vực xã hội với cuốn “Câu chuyện Donghak” (1993). Tới cuối những năm 1990 đã có 2 học hội Donghak được thành lập. Thứ 9
  13. nhất là “Học hội Donghak Hàn Quốc” do khoa lịch sử của Đại học Dong Guk ở tỉnh Kyong Ju (nơi SuUn Choi Jae U ra đời) với một Trung tâm nghiên cứu do vị giáo sư có tên là Choi Hyo Sik thành lập. Tháng 12 năm 1997, Học hội đã xuất bản cuốn “Nghiên cứu Donghak” và “Tuyển tập nghiên cứu Donghak”. Tại Khoa Quốc sử (Lịch sử Hàn Quốc) của Đại học nữ sinh Sang Myong với hiệu trưởng là giáo sư Lee Hyon Hee cũng đã thành lập một hiệp hội Donghak. Hiệp hội này vào tháng 01 năm 2000 đã tổ chức buổi semina và xuất bản cuốn tổng hợp các bài nghiên cứu về Donghak có tên “Dong Hak Hak Bo” [26 - 44, 45, 46, 47]. Dựa vào nội dung dưới đây, chúng ta có thể biết được tình hình nhận định về tư tưởng này trong giới học thuật Hàn Quốc: Cuốn “Giáo chủ Donghak SuUn Choi Jae U” của học giả Yun Seok San có viết như sau: “„Donghak bên trong khắc phục những mâu thuẫn thể chế Nho giáo, bên ngoài phê phán các thế lực xâm lược ngoại bang‟ là những kiến giải đầu tiên và thông thường nhất trong việc nghiên cứu Donghak . ... Chính vì vậy mà hầu hết các luận điểm về Donghak đều chưa thoát khỏi phạm vi của „một cuộc cách mạng cải cách‟ hay „tư tưởng của chủ nghĩa dân tộc” [29, 14]. Trong những năm gần đây, tại Hàn Quốc tiếp tục xuất hiện một số sách nghiên cứu về Donghak có nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu. Trước hết phải nhắc tới cuốn “Chiến tranh nông dân Donghak – Ký sự lịch sử” do Trung tâm nghiên cứu các vấn đề lịch sử xuất bản năm 1993 tại Nxb YoGang. Tương tự, cuốn “DongHak 1 – Cuộc đời và tư tưởng SuUn” của tác giả Sam Am Fyo Young Sam; Nxb Thông Namu - 2004 là tác phẩm của học giả dành trọn cuộc đời để lần theo dấu vết của SuUn Choi Jae U và nghiên cứu về Donghak. Liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài còn có cuốn “Các phong trào đấu tranh tôn giáo của Hàn Quốc” của Noh Gil Myung xuất bản năm 2006 tại Nxb GoryoDaehakgyo Chulfanbu. Trong cuốn sách này, Donghak được phân 10
  14. tích trong mối tương quan với các tôn giáo khác trên bán đảo Korea nên chưa được tập trung nghiên cứu sâu sắc trên phương diện tư tưởng. Với tính chất của một nghiên cứu cấp luận văn thạc sỹ, học viên tham khảo các nguồn tài liệu này trong việc dựng nên bức tranh tổng hợp về tình hình văn hóa, kinh tế, chính trị xã hội Joseon cuối thế kỷ XIX và cuộc cách mạng nông dân Donghak, thông qua đó tìm ra các mối liên hệ giữa tư tưởng Donghak và cách mạng nông dân cũng như các nguyên nhân về mặt xã hội khiến phong trào cách mạng nông dân Donghak nổ ra. 4.2. Tại Việt Nam Việt Nam và Hàn Quốc có mối quan hệ ngoại giao từ khá sớm. Nhưng do những biến cố lịch sử mà hai nước mới tái thiết quan hệ ngoại giao vào tháng 12 năm 1992. Tuy nhiên đối với người Việt Nam, việc nghiên cứu về Donghak nói riêng và lịch sử Korea nói chung vẫn còn là một điều mới mẻ. Cho đến nay những tài liệu tìm thấy ở Việt Nam có liên quan đến Donghak mới chỉ xuất hiện ở một vài tác phẩm sử học. Chẳng hạn cuốn “Đại cương lịch sử thế giới cận đại” của Vũ Dương Ninh và Nguyễn Văn Hồng (tập 2) Nxb Giáo Dục có đề cập đến cuộc khởi nghĩa nông dân Giáp Ngọ (1894) trên vùng bán đảo Korea. Tương tự, cuốn “Hàn Quốc- Lịch sử và văn hoá” của Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Đình Hãng, Lê Đình Chỉnh; Nxb Văn hoá Thông tin 1996 cũng đưa ra khái quát nội dung về tư tưởng Donghak và cuộc cách mạng nông dân Donghak cuối thế kỷ XIX. Tuy mới chỉ là những thông tin được đề cập trong các cuốn lịch sử và nội dung còn khá cơ bản nhưng những cuốn sử nêu trên cũng là nguồn tham khảo có liên quan đến đề tài. Như vậy, trên cơ sở kết quả nghiên cứu của các tác giả, nhất là các nguồn tài liệu nghiên cứu của Hàn Quốc, chúng tôi xác định hướng nghiên cứu của mình là từ góc độ tổng hợp các nguồn tư liệu, nhất là hai tác phẩm của chính nhà tư tưởng SuUn để lại, tập trung đi sâu phân tích về tư tưởng của SuUn và sau đó là những ảnh hưởng của tư tưởng này đến cuộc cách mạng nông dân ở 11
  15. bán đảo Korea. Qua đó chúng tôi cũng nêu lên một số những nhận xét bước đầu về vai trò của tư tưởng này đối với xã hội Korea trong lịch sử cũng như hiện tại. 5. Đóng góp của luận văn Với tính chất là nghiên cứu bước đầu về tư tưởng Donghak, luận văn tập trung vào việc phân tích các khái niệm cơ bản như “Thiên chủ”, “thị Thiên chủ”, “bất nhiên kỳ nhiên” trong tư tưởng này. Để hiểu rõ hơn về tư tưởng Donghak này, bối cảnh gia đình của SuUn cũng như hai tác phẩm chính của ông cũng sẽ được giới thiệu. Một đóng góp nữa là hình ảnh tổng thể về xã hội Joseon với các mâu thuẫn xã hội trong bối cảnh quốc tế đầy biến động cuối thế kỷ XIX. Bên cạnh đó, luận văn hệ thống tiến trình, diễn biến của cách mạng nông dân Donghak cùng một số ảnh hưởng khác của tư tưởng trên bán đảo Korea như: sự hình thành của các tôn giáo bản địa mới trên nền tư tưởng Donghak. Mặt khác, với đặc tính là người nghiên cứu nước ngoài, học viên cũng cố gắng đưa ra các đặc trưng của tư tưởng Donghak, kết nối với hệ thống tư tưởng truyền thống của người Korea nhằm đưa ra một góc nhìn về người Korea. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn được chia thành 3 chương như sau: Chƣơng 1: Bối cảnh lịch sử bán đảo Korea thế kỷ XIX 1.1. Vài nét về chính trị xã hội trước khi xuất hiện tư tưởng Donghak 1.2. Vài nét về tư tưởng học thuật và tôn giáo Tiểu kết Chƣơng 2: SuUn Choi Jae U và nội dung tƣ tƣởng Donghak 2.1. Cuộc đời sự nghiệp của SuUn Choi Jae U 2.2. Hai tác phẩm chính của tư tưởng Donghak 2.3. Khái lược nội dung tư tưởng Donghak 12
  16. 2.4. Tư tưởng Donghak mang đậm tính chất văn hóa Korea Tiểu kết Chƣơng 3: Ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Donghak đối với cuộc cách mạng nông dân Donghak cuối thế kỷ XIX. 3.1. Phong trào cách mạng nông dân Donghak 3. 2. Các tôn giáo bắt nguồn từ tư tưởng Donghak 3. 3. Khơi nguồn ý tưởng về „KOREA HỌC‟ 13
  17. PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG I BỐI CẢNH LỊCH SỬ BÁN ĐẢO KOREA THẾ KỶ XIX 1.1. Vài nét về tình chính trị, xã hội Joseon trước khi xuất hiện tư tưởng Donghak Nhà nước Joseon do Lee Seong Gye (Lý Thành Quế - 이성계) sáng lập vào năm 1392. Lee Seong Gye vốn đại diện cho lực lượng mới nổi lên vào cuối triều đại Koryo. Trong thực tế, ông không phải là người thuộc dòng họ nổi tiếng và có lịch sử lâu đời ở vùng bán đảo Korea. Ông tiến thân được là nhờ vào sự thành công của mình trên con đường binh nghiệp, nhất là chiếm được sự ủng hộ của các bậc “khai quốc công thần” (Gaeguk Gongsin- 개국공신) cuối triều đại Koryo như Jeong Do Jeon (Trịnh Đạo Truyền - 정도전) và Jo Jun (Triệu Lăng - 조준). Lee Seong Gye đã thành công trong việc thiết lập một triều đại mới, lấy Hanyang (Hán Dương, 한양: Seoul) làm kinh đô và mở ra một giai đoạn lịch sử mới trên vùng bán đảo, cũng từ đó kinh đô Hanyang trở thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của Korea. Thời kỳ đầu mới thành lập, trên danh nghĩa vua là người nắm quyền điều hành đất nước nhưng Lee Seong Gye không phải là người nắm thực quyền. Quyền lực triều đình chủ yếu nằm trong tay các bậc “khai quốc công thần”. Vì vậy, mọi quyết định của quốc gia đều do các bậc khai quốc công thần trong tổ chức Top‟yonguisasa (Đô Bình Nghị Sứ Ty - 도평귀사사) soạn thảo, sau đó Nhà vua chỉ việc phê chuẩn và đưa chúng vào thực hiện. Sự thao túng quyền lực của các bậc khai quốc công thần lấn sát quyền lực Nhà vua đã dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng. Năm 1400, sau khi kế vị ngai vàng, Lee Bang Won (Lý Phương Viễn, 이방원) đã thực hiện một cuộc tảo thanh trong hoàng gia, trừ khử Jeong Do Jeon và loại bỏ nhiều thế lực chống đối Nhà vua. Để hạn chế sự lạm quyền của các công thần, vua Lee Bang Won (이방원) còn cho đổi 14
  18. Đô Bình Nghị Sứ Ty thành Nghị Chính phủ, quyền điều hành đất nước vua chủ yếu giao cho các Lục Tào (sáu bộ) đảm nhiệm. Trong lịch sử triều đại Joseon, thời kỳ hoàng kim nhất của vương triều này là thời kỳ do vua SeJong (Thế Tông, 세종) trị vì từ năm 1418-1450. Để chấn hưng đất nước, xây dựng một triều đại mạnh, sau khi nắm thực quyền, vua SeJong đã thành lập Chiphyonjon (Tập Hiền Điện, 집현전) nhằm thu hút nhân tài trong nước. Chính sách “chiêu hiền đãi sĩ” đúng đắn của Nhà vua đã nhanh chóng quy tụ được nhiều học giả nổi tiếng trong nước về Tập Hiền Điện để nghiên cứu và học tập, tập trung trí tuệ cùng hoàng gia xây dựng đất nước. Do có sự quan tâm sâu sắc và sự hợp tác chặt chẽ giữa Nhà vua và các học giả trong Tập Hiền Điện mà nhiều công trình văn hoá, khoa học, kĩ thuật dưới thời vua SeJong đã ra đời. Tuy vậy sự tồn tại của Tập Hiền Điện cũng không được lâu dài. Năm 1456, vua SeJo (Thế Tổ, 세조) sau khi lên ngôi đã ra lệnh giải tán Tập Hiền Điện và tiến hành một cuộc thanh trừng nhằm loại bỏ nhiều viên quan đại thần có tư tưởng chống đối. Các nhà nghiên cứu gọi sự kiện này là “Tử lục thần” tức là sự kiện sáu quan đại thần bị xử tử gồm: Seong Sam Mun (Thành Tam Vấn, 송삼문); Park P‟aeng Nyon (Phác Bành Niên, 박평년), Ha Wi Ji (Hà Vĩ Địa, 하위지), Lee Gae (Lý Khải, 이개), Yu Eung Bu (Du Ứng Phù, 유응부) và Yu Seong Won (Liễu Thọ Viên, 유성원). Ngoài ra, vua SeJo còn cho biên soạn một bộ luật mới là Kinh Quốc Đại Điển (경국대전) nhằm xác định chức năng và cơ cấu của triều đình Joseon. Trong triều đình Joseon, các bậc khai quốc công thần đều là những người nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng. Tuy nhiên từ nửa cuối thế kỷ XV, trên sân khấu chính trị Joseon đã xuất hiện một tầng lớp trí thức mới - tầng lớp Sarim (Sĩ Lâm, 사림), họ là những người đỗ đạt từ các Seowon (서원, Trường Tư) có gốc gác từ các vùng thôn quê. Tầng lớp trí thức này là những nhà Nho vốn coi trọng học vấn thâm sâu về kinh điển Trung Quốc nên họ có nền tảng học 15
  19. vấn chắc chắn về lý tưởng và đạo đức khác xa với nền học vấn của các bậc khai quốc công thần ở kinh đô. Sau khi vua SeongJong (성종, Thành Tông) lên ngôi (1469-1494), nhiều Sarim đã được Nhà vua bổ nhiệm vào các chức vụ quan trọng trong các tổ chức như Ngự Sử Đài (Osadae, 오사대) hoặc Hoằng Văn Quán (Hoangmun‟gwan, 황문관) trong triều đình. Cách dụng thần này đã ngăn chặn sự bành trướng quyền lực của tầng lớp công thần. Sự xuất hiện của tầng lớp Sarim trong hoàng gia chính là nguyên nhân dẫn đến các cuộc thanh trừng trí thức, lịch sử Korea gọi đó là các vụ “sĩ hoạ”. Vụ sĩ hoạ đầu tiên nổ ra vào năm Mậu Ngọ (Mậu Ngọ sĩ hoạ) dưới triều vua Yonsan‟gun (Yến Sơn Quân, 연산군, 1494-1506) và sau đó là triều vua JungJong (Trung Tông, 중종, 1506-1544), liên tiếp xảy ra 4 cuộc thanh trừng trí thức. Nguyên nhân các cuộc thanh trừng trên có khác nhau, nhưng chủ đề chính xuyên suốt từ vụ thứ nhất đến vụ cuối cùng là cuộc đấu tranh dành quyền lực giữa phái công thần và phái Sarim. Kết quả các Sarim đều bị thất bại và phải chịu những hậu quả nặng nề và đều là những nạn nhân của các đợt thanh trừng. Mặc dù phải chịu nhiều tổn thất to lớn, nhưng các Sarim có nền tảng vững chắc trong các trường tư, hương ước và nông trang của họ trên nhiều địa phương trong nước, họ cũng từng bước khắc phục hậu quả và tiếp tục khẳng định vị thế của họ trên sân khấu chính trị ở Joseon. Bước vào nửa cuối thế kỷ XVI, cùng với sự phát triển của xã hội và sự phục hồi vị thế của tầng lớp Sarim, cùng với nhiều chuyển biến của đời sống chính trị, xã hội đòi hỏi cần phải có sự bổ sung thêm quan chức vào bộ máy chính quyền để lãnh đạo đất nước. Tuy nhiên việc tuyển chọn quan lại bổ sung vào bộ máy chính quyền ở Joseon vào thời gian này không phải là việc làm đơn giản mà trái lại đã trở thành vấn đề khó khăn, phức tạp khi số lượng quan lại trong bộ máy chính quyền đã được sắp đặt cố định và khó có thể thay đổi vị trí của quan lại trong một thời gian dài. Việc nhiều người thuộc tầng lớp yangban cùng tranh chấp một số vị trí nhất định trong bộ máy chính quyền tất 16
  20. yếu dẫn đến mâu thuẫn giữa các phe phái trong nội bộ hoàng gia. Lịch sử Korea gọi hiện tượng này là hiện tượng “Đảng tranh” (당쟁). Vụ đảng tranh lớn nhất trong triều đình Joseon diễn ra xoay quanh nhân vật có chức quan JeonLang (전랑) - một chức quan tầm trung bình trong Bộ Nhân sự (이조). Kết quả, cuộc đảng tranh đã dẫn tới mâu thuẫn nội bộ và cuối cùng trong triều đình đã xuất hiện hai phái đối lập: phái Đông Đảng (Dongin, 동인) và phái Tây Đảng (Seoin, 서인). Trong thời kỳ đầu, phái Đông đảng chiếm ưu thế trong hoàng gia, lấn át phái Tây đảng. Tuy nhiên sau đó nội bộ phái Đông đảng cũng có sự phân hoá thành hai phái nhỏ: phái Bắc và phái Nam. Từ năm 1623 dưới thời vua InJo (Nhân Tổ, 인조), phái Tây đảng đã nắm ưu thế chính trị trong triều đình và sau đó phái này cũng có sự rạn nứt chia thành 2 phái nhỏ: phái Noron (Lão luận, 노론) và phái Soron (Thiếu luận, 소론). Sự xung khắc giữa các phe phái kéo dài trong triều đình Joseon đã xuất hiện một số dòng họ lớn nắm giữ nhiều quyền lực lớn trong triều đình. Điển hình là các dòng họ theo phái Noron thay nhau nắm quyền lực chính trị trong triều đình từ đời này qua đời khác. Như đã nêu ở trên, từ hai thế kỷ trước đó (thế kỷ XIV, XV), giới trí thức Sarim đã nhiều lần chiếm địa vị trong hoàng gia, nhưng họ đều bị phái công thần lấn át. Bước sang nửa cuối thế kỷ XVI, Tính lý học (성리학, Tân Nho giáo) đã được công nhận về phương diện triết học và các giá trị xã hội của nó. Tuy nhiên về tình hình chính trị thời kỳ này, quyền lực chủ yếu nằm trong tay một vài dòng họ lớn, vì vậy nhiều trí thức Nho giáo đã từ bỏ quyền lực chính trị về ở ẩn dật tại các vùng nông thôn. Nhiều người tìm cách cáo quan về quê mở trường tư dạy học. Vì lẽ đó, những năm cuối thế kỷ XVII, số trường tư ở Joseon tăng lên khá nhanh, khoảng gần 300 trường được thiết lập dưới triều vua SukJong (Túc Tông, 숙종, 1674-1720). Sự lũng đoạn quyền lực của các dòng họ lớn trong triều đình, nhất là sự lũng đoạn của phái Lão luận đã gây ra 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0