Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Góp phần Nghiên cứu đa dạng các loài thuộc họ Lan (Orchidaceae Juss.) nhằm đề xuất giải pháp quản lý, bảo tồn đối với một số loài Lan chủ yếu tại Khu bảo tồn thiên nhiên Đakrông - Quảng Trị
lượt xem 2
download
Mục tiêu của đề tài là xây dựng danh lục các loài Lan của Khu BTTN Đakrông (mỗi loài ít nhất có 1 tiêu bản đảm bảo - Mẫu nghiên cứu) và đánh giá tính đa dạng sinh học của họ Lan ở Khu BTTN Đakrông; đánh giá sự phân bố của các loài Lan trong khu vực nghiên cứu; đánh giá tình trạng bảo tồn của một số loài Lan chủ yếu (loài bị đe dọa tuyệt chủng) tại Khu BTTN Đakrông; đề xuất một số giải pháp quản lý bảo tồn hệ Lan tại Khu BTTN Đakrông tỉnh Quảng Trị.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Góp phần Nghiên cứu đa dạng các loài thuộc họ Lan (Orchidaceae Juss.) nhằm đề xuất giải pháp quản lý, bảo tồn đối với một số loài Lan chủ yếu tại Khu bảo tồn thiên nhiên Đakrông - Quảng Trị
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN MẠNH HÙNG GÓP PHẦN NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG CÁC LOÀI THUỘC HỌ LAN (ORCHIDACEAE JUSS.) NHẰM ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ, BẢO TỒN ĐỐI VỚI MỘT SỐ LOÀI LAN CHỦ YẾU TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN ĐAKRÔNG - QUẢNG TRỊ LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội, năm 2008
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN MẠNH HÙNG GÓP PHẦN NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG CÁC LOÀI THUỘC HỌ LAN (ORCHIDACEAE JUSS.) NHẰM ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ, BẢO TỒN ĐỐI VỚI MỘT SỐ LOÀI LAN CHỦ YẾU TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN ĐAKRÔNG - QUẢNG TRỊ Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60-62-60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TIẾN HIỆP Hà Nội, năm 2008
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Trong số các họ thực vật của Việt Nam thì họ Lan (Orchidaceae Juss.) là họ đa dạng nhất về ba phương diện là: thành phần loài, nguồn gen, sinh thái. Về thành phần loài và nguồn gen, các nhà thực vật đã thống kê được 897 loài thuộc 152 chi. Con số này mới chiếm khoảng 78- 80% trong tổng số 1.000 - 1.100 loài dự đoán ở đây [1]. Hệ Lan của Việt Nam có 10 chi giàu loài nhất là: Dendrobium, Bulbophyllum, Eria, Liparis, Habenaria, Oberomia, Coelogyne, Cymbidium, Calanthe, và Cleisostoma, mỗi chi có từ 20 tới 107 loài. Số loài của 10 chi đó chiếm 49,9% tổng số loài Lan đã biết ở Việt Nam. Lan cũng rất đa dạng về sinh thái và thường được chia thành 3 nhóm chính: nhóm loài sống bì sinh trên cây (Phong lan), sống trên đất (Địa Lan) và sống trên đá (Thạch lan).Về mặt giá trị sử dụng thì Lan là nhóm thực vật rất có ý nghĩa kinh tế và khoa học, hầu hết các loài Lan có hoa đẹp dùng làm cảnh và là nguồn nguyên liệu để lai tạo ra nhiều loài lai có ý nghĩa kinh tế; nhiều loài dùng làm dược liệu quí như: Lan Kim tuyến (Anoectochilus spp.), Hoàng Thảo (Dendrobium spp.), Lan một lá (Nervillia sp.) và nhiều chi khác như: Bletilla, Cymbidium, Eulophia, Flickingeria, Goodyera, Habenaria, Ludisia, Peristylus và Rhomboda. Tất cả các loài Lan hoang dại đều được xếp trong danh lục đỏ thế giới và hầu hết đều nằm trong các nhóm khác nhau của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã (CITES) [7]. Chương trình môi trường của Liên hợp quốc - Trung tâm theo dõi bảo tồn thế giới ( UNEP- WCMC- World Conservation Monitoring Centre) đã có khuyến cáo Việt Nam cần phải bảo vệ và sử dụng bền vững 100 loài Lan quí nằm trong các cấp bậc bảo tồn khác nhau từ hiếm tới gần tuyệt chủng [25]. Chính những điều nêu trên đã khẳng định vai trò và giá trị nổi bật của các loài Lan đối với thế giới thực vật và con người. Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã thành lập hệ thống các Vườn quốc gia và Khu bảo tồn thiên
- 2 nhiên rộng khắp trên cả nước song tình trạng suy thoái đa dạng sinh học vẫn là mối lo ngại của các nhà khoa học và toàn xã hội [4], trong đó, họ Lan có số loài bị đe doạ cao nhất, có số loài tuyệt chủng cao nhất. Khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Đakrông thuộc vùng Trung Trường Sơn nổi tiếng với kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới như một vùng đất giàu có về đa dạng sinh vật và còn đầy bí ẩn, cần được tiếp tục khám phá. Nghiên cứu tính đa dạng thực vật ở Khu BTTN Đakrông nói chung và nghiên cứu đa dạng các loài họ Lan nói riêng có một ý nghĩa quan trọng, là cơ sở để đánh giá tài nguyên sinh học trong vùng, chỉ ra được quy luật phân bố của chúng cũng như mối quan hệ với các hệ thực vật ở các vùng lân cận, từ đó xây dựng các biện pháp quản lý, bảo vệ và khai thác thích ứng. Hiện nay, theo thống kê thì KBTTN Đakrông có khoảng 1.053 loài thực vật bậc cao có mạch, trong đó họ Lan có 35 loài [11]. Nằm trong khu vực được đánh giá là có tính đa dạng sinh học cao, nhưng so với hệ Lan của VGQ Cúc Phương có 56 chi và 109 loài [19] và VQG Bạch Mã có 70 chi với 180 loài [9] thì con số 35 loài Lan của Khu BTTN Đakrông chắc chắn là chưa phải là con số thực [11] . Để góp phần kiểm kê số lượng loài Lan có thực tại khu BTTN Đakrông, đánh giá tình trạng bảo tồn và đề xuất các giải pháp quản lý, bảo tồn bền vững tính đa dạng của chúng tại khu BTTN Đakrông, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Góp phần Nghiên cứu đa dạng các loài thuộc họ Lan (Orchidaceae Juss.) nhằm đề xuất giải pháp quản lý, bảo tồn đối với một số loài Lan chủ yếu tại Khu bảo tồn thiên nhiên Đakrông - Quảng Trị"
- 3 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Nghiên cứu về Lan ở trong nước và vùng lân cận Hệ Lan của Việt Nam rất đa dạng về mặt địa lý thực vật, các đại diện đều gặp trong cả 6 tiểu vùng địa lý thực vật khác nhau của Việt Nam: Tây Tạng - Vân Nam, Nam Trung Hoa, Bắc Đông Dương, Trung Trường Sơn, Nam Trường Sơn, Nam Đông Dương [1], từ độ cao mực nước biển lên tới các độ cao của các đỉnh Phan Si Pang, Chu Yang Sinh, Ngọc Linh. Hệ Lan của Việt Nam cũng rất đa dạng về môi trường sống và thường được chia thành 3 nhóm chính: nhóm loài sống bám trên cây (Phong lan), sống trên đất (Địa Lan) và sống bám trên đá (Thạch lan). Tuy nhiên cũng có loài sống cả trên đá và đất hay trên đất và bì sinh v.v…Trong nghiên cứu thành phần loài Lan của Việt Nam và khu vực liền kề có rất nhiều công trình nghiên cứu, trong số đó chúng tôi chỉ đề cập đến một số công trình Tiêu biểu. Ngay từ năm 1790, khi nghiên cứu hệ thực vật Nam Bộ, Joanis Loureiro đã công bố 5 chi: Aerides, Galeola, Phaius, Renanthera và Thrixspermun thuộc họ Lan của Việt Nam. Các chi này hiện vần còn nguyên giá trị khoa học [22]. Muộn hơn trên 100 năm, phải kể đến công trình lớn “Thực vật chí Đông dương” (Flore Générale de l’Indochine) do Lecomte chủ biên. Công trình này đã và đang được các nhà nghiên cứu Thực vật Việt Nam và thế giới đang sử dụng. Trong công trình này, Gagnepain đã mô tả 485 loài thuộc 96 chi Lan của Đông Dương [21]. Sau đó, năm 1992, Seidenfaden đã công bố 800 loài thuộc 140 chi Lan ở Đông Dương trong cuốn sách “Lan Đông Dương” (The Orchids of Indochina) [24]. Đây là 2 công trình lớn liên quan đến nghiên cứu Lan của Việt Nam và Đông Dương. Các năm sau đó cũng có một vài công trình nghiên cứu có liên quan đến họ Lan của Việt Nam. Như “The Genus Paphiopedilum” của Phillip Cribb có đề cập mô tả đến 11 loài và 2 thứ lan hài ở Việt Nam [20]. Hay “Các chi họ Lan (Orchidaceae) của Thái Lan, Lào,
- 4 Campuchia và Việt Nam” (Orchid Genera of Thailand, Laos, Cambodia and Vietnam) của A.Schuiteman E.F. de Vogel xuất bản năm 2000 có đưa ra thông số các loài Lan của Việt Nam hiện có khoảng 751 loài thuộc 142 chi Lan [23]. Một công trình lớn phải kể đến là “Cây Cỏ Việt Nam” của GS. Phạm Hoàng Hộ tái bản năm 2000 đã mô tả 799 loài thuộc 142 chi Lan của Việt Nam [8]. Trong khoảng từ năm 1984 đến nay, một loạt các công trình của GS. L. V.Averyanov được công bố liên quan tới nghiên cứu Lan Việt Nam, đặc biệt là phát hiện những loài Lan mới đối với khoa học, các loài Lan có nguy cơ bị đe dọa và các loài mới bổ sung cho hệ thực vật Việt Nam. Tuy nhiên đó chỉ là các công trình được công bố dưới dạng các bài báo khoa học. Ngay từ năm 1990 ông đã nêu lên danh lục về Lan Việt Nam với các tên khoa học cập nhật [15]. Tới năm 1994, ông công bố cuốn sách “Identification guide to Vietnamese orchids (Orchidaceae Juss.)”. Trong công trình này ông đã mô tả một số loài mới và kiểm kê được 718 loài thuộc 132 chi Lan của Việt Nam [16]. Đây là công trình nghiên cứu lớn đầu tiên về Lan của Việt Nam trong giai đoạn mới. Năm 2003 trong “Trích yếu được cập nhật hóa về các loài Lan của Việt Nam” (Updated checklist of the orchids of Vietnam) thì Leonid V.Averyanov và Anna L.Averyanova mới lên danh lục mới, kiểm kê được 897 loài thuộc 152 chi Lan đã biết ở Việt Nam [1]. Trong công trình này, ông đã nêu lên tên khoa học chính xác cũng như số lượng của các chi và loài trong họ Lan của Việt Nam dựa trên các mẫu vật đã thu được và thời gian nghiên cứu liên tục tại Việt Nam. Con số này mới chiếm khoảng 75 - 80% trong tổng số 1000 - 1100 loài dự đoán [1]. Điều này được chứng minh bằng sự phát hiện một chi mới và 17 loài Lan mới cho khoa học từ những nghiên cứu về hệ thực vật Việt Nam trong thời gian từ năm 2000 tới 2004 và góp phần khẳng định Việt Nam là trung tâm đa dạng và đặc hữu Lan quan trọng ở vùng Đông Nam Á [18]. Hệ Lan của Việt Nam có 10 chi giàu loài nhất là:
- 5 Dendrobium, Bulbophyllum, Eria, Habenaria, Coelogyne, Liparis, Oberomia, Cymbidium, Calanthe, và Cleisostoma. Mỗi chi có từ 20 tới 107 loài. Số loài của 10 chi đó chiếm 49,9% tổng số loài Lan đã biết ở Việt Nam [1]. Bên cạnh đó, một công trình chuyên khảo về “Lan hài Việt Nam” đã mô tả 18 loài mọc tự nhiên, 4 loài lai tự nhiên , còn 5 loài lai tự nhiên khác vẫn chưa khẳng định chắc chắn đã được liên tục công bố bằng tiếng Anh và tiếng việt vào các năm 2003- 2004 [17]. Gần đây nhất Nguyễn Tiến Bân và cộng sự đã công bố họ Lan của Việt Nam trong “Danh lục các loài Thực vật Việt Nam” tập 3 và thống kê được 865 loài thuộc 154 chi Lan ở Việt Nam. Rất tiếc trong danh lục Lan Việt Nam, các tác giả chưa nêu lên được các mẫu nghiên cứu cho mỗi loài. Bên cạnh những công trình lớn kể trên, tại Việt Nam cũng xuất hiện một số công trình nghiên cứu về thành phần Lan của các khu vực khác nhau. Năm 1990, Nguyễn Thiện Tịch & Lê Công Kiệt đã liệt kê 29 loài thuộc 16 chi trong “Ghi nhận một số loài Lan tại Daklak”, trong đó, có loài Arides crassifolia lần đầu tiên ghi nhận cho Việt Nam. Từ năm 1992 – 1999, Nguyễn Thiện Tịch đã ghi nhận thêm 33 loài Lan mới cho Việt Nam trong công trình “Tìm Hiểu Hoa Lan”, trong đó có 7 loài được đề nghị là mới cho khoa học. Đến năm 2001, Nguyễn Thiện Tịch, trong công trình Lan Việt Nam đã kế thừa các công trình trước đây của tác giả về kỹ thuật trồng Lan, mô tả các loài Lan mới, phổ biến kiến thức hoa Lan và cây cảnh để viết nên công trình. Công trình “Lan Việt Nam” không chỉ trình bày những hiểu biết khoa học chuyên sâu về Lan mà còn phổ biến những kiến thức về trồng và chăm sóc Lan. Đây là công trình không chỉ dành riêng cho các nhà nghiên cứu về Lan, mà nó còn là tài liệu có giá trị cho các nhà kinh doanh hoa Lan, các nhà sưu tầm Lan [12]. Gần đây nhất cũng đã có hai công trình nghiên cứu sâu về khu hệ Lan của Vườn QG Cúc Phương và Vườn QG Bạch Mã. Tại các công trình
- 6 này đã thống kê VGQ Cúc Phương có 56 chi và 109 loài [19] và VQG Bạch Mã có 70 chi với 180 loài [9]. Nét nổi bật của 2 công trình này là các tác giả đã nêu lên được Danh lục các loài Lan với tên khoa học theo đúng luật Danh pháp quốc tế, mỗi loài có nêu lên mẫu vật nghiên cứu làm bằng chứng và đánh giá tình trạng bảo tồn. Các công trình nêu trên rất có ý nghĩa và được sử dụng làm tài liệu tham khảo để giải quyết những nội dung của đề tài nghiên cứu. 1.2. Nghiên cứu về bảo tồn đa dạng sinh học. Vấn đề đa dạng sinh học và bảo tồn đã trở thành một chiến lược trên toàn thế giới. Nhiều tổ chức quốc tế đã ra đời để hướng dẫn, giúp đỡ và tổ chức việc đánh giá, bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học, đó là Hiệp hội quốc tế bảo vệ thiên nhiên (IUCN), Chương trình môi trường Liên hợp quốc (UNEP), Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (WWF), Viện Tài nguyên di truyền quốc tế (IPGRI),…Nhu cầu cơ bản và sự sống còn của con người phụ thuộc vào tài nguyên của trái đất, nếu những tài nguyên đó bị giảm sút thì cuộc sống của chúng ta và con cháu của chúng ta sẽ bị đe doạ. Vì vậy loài người muốn tồn tại lâu dài trên trái đất này thì phải có một dạng phát triển mới và phải có cách sống mới, chúng ta đã quá lạm dụng tài nguyên của trái đất mà không nghĩ đến tương lai, nên ngày nay loài người đang đứng trước hiểm hoạ. Để tránh sự huỷ hoại tài nguyên chúng ta phải tôn trọng trái đất và sống một cách bền vững, dù muộn còn hơn không. Hội nghị thượng đỉnh bàn về vấn đề môi trường và đa dạng sinh học đã được tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil) tháng 6/1992, 150 nước đã ký vào Công ước về đa dạng sinh học và bảo vệ chúng. Từ đó nhiều hội thảo được tổ chức để thảo luận và nhiều cuốn sách mang tính chất chỉ dẫn ra đời. Năm 1990 WWF đã cho xuất bản cuốn sách Tầm quan trọng của đa dạng sinh học (The importance of biological diversity) hay IUCN, UNEP và WWF đưa ra
- 7 Chiến lược bảo tồn toàn cầu (World conservation strategy); Wri, IUCN và WWF đưa ra chiến lược sinh vật toàn cầu (Global biological strategy). Năm 1991 Wri, Wcu, WB, WWF xuất bản cuốn Bảo tồn đa dạng sinh học toàn cầu (Conserving the World's biological diversity) còn IUCN, UNEP, WWF xuất bản cuốn Hãy quan tâm tới trái đất (Caring for the earth). Cùng năm, Wri, IUCN và UNEP xuất bản cuốn Chiến lược đa dạng sinh học và chương trình hành động. Tất cả các cuốn sách đó nhằm hướng dẫn và đề ra các phương pháp để bảo tồn đa dạng sinh học, làm nền tảng cho công tác bảo tồn và phát triển trong tương lai. Năm 1992 - 1995 WCMC công bố một cuốn sách tổng hợp Đánh giá đa dạng sinh học toàn cầu (Global biodiversity assessment) với các tư liệu về đa dạng sinh học của các nhóm sinh vật khác nhau ở các vùng khác nhau trên toàn thế giới làm cơ sở cho việc bảo tồn chúng có hiệu quả. Bên cạnh đó, hàng ngàn những công trình khoa học và các tác phẩm khác lần lượt được đời và hàng ngàn cuộc hội thảo khác nhau được tổ chức nhằm thảo luận về quan điểm, về phương pháp luận cũng như thông báo các kết quả đã đạt được trong nghiên cứu về đa dạng sinh học và bảo tồn trên toàn thế giới. Nhiều tổ chức quốc tế hay khu vực được nhóm họp tạo thành mạng lưới phục vụ cho việc đánh giá bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học. Năm 1966, IUCN đã công bố Sách Đỏ thế giới (Red Data Book) trong đó có phần thực vật. Tài liệu này đã gây được sự chú ý của các chuyên gia, các chính phủ và các tổ chức phi chính phủ. Sau đó nhiều nước, nhiều vùng cũng đã xây dựng Sách Đỏ của mình hay những tập hướng dẫn ghi chép các loài hiếm và nguy cơ tuyệt chủng cao. Một tác phẩm được chú ý tới nhiều và được dịch ra nhiều thứ tiếng là “Sách Đỏ - Thiên nhiên hoang dã đang bị nguy hiểm” của D. Fisher, H. Simon và D. Vinsent (1976).
- 8 Sách Đỏ (Red Data Book), Danh mục Đỏ (Red List) được xem là những tài liệu có tính chất quốc gia và mang ý nghĩa quốc tế, công bố các loài động thực vật thuộc loại quí hiếm ở mỗi nước và trên toàn thế giới đang bị đe doạ giảm sút số lượng hoặc đã có nguy cơ bị tuyệt chủng cần được bảo vệ, phục hồi và phát triển. Đây là cơ sở khoa học, tạo cơ sở pháp lý cho việc đề xuất, quyết định các biện pháp bảo vệ, phục hồi đối với từng đối tượng thuộc loại này, đồng thời cũng là căn cứ để xử lý các hành vi phá hoại thiên nhiên, gây tác hại cho sự tồn tại, phát triển của các loài sinh vật cần được bảo vệ trong hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên sinh vật ở mỗi nước... Tại Việt Nam, vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và bảo tồn các loài Động , Thực vật hoang dã có nguy cơ bị tuyệt chủng đã và đang được nhà nước quan tâm. Điều đó thể hiện ở việc trên 100 Vườn Quốc Gia, Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên và khu Lịch sử, văn hoá và môi trường với tổng diện tích xấp xỉ 2,5 triệu hecta đã được thành lập [4]. Bên cạnh đó Việt Nam đã tham gia vào nhiều các công ước Quốc tế về Bảo tồn đa dạng sinh học. Với các hoạt động nêu trên, hầu hết các loài động thực vật đang có nguy cơ bị tiêu diệt của Việt Nam đã được bảo vệ tốt hơn, ý thức bảo vệ thiên nhiên của các cộng đồng địa phương cũng đã được nâng lên rõ rệt. Cùng với sự phát triển của đất nước, công tác bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học đã được Đảng và Nhà nước rất chú trọng. Chỉ thị 36/CT-TW ngày 25/6/1998 về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đã ghi rõ: “Mở rộng diện tích các khu bảo tồn động thực vật hoang dã, các vườn quốc gia, bảo vệ đa dạng sinh học”. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra phương hướng, nội dung cụ thể về nhiệm vụ quản lý và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học.
- 9 Để bảo tồn tài nguyên của đất nước, ngay từ năm 1991, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng được ban hành và đến năm 1993 thì Luật Bảo vệ Môi trường ra đời. Tiếp đó một loạt văn bản pháp quy được ban hành để bảo vệ các loài quý hiếm: Nghị định số 18/HĐBT qui định danh mục động vật, thực vật rừng quý hiếm và chế độ bảo vệ (1992); Chỉ thị số 130/TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc quản lý bảo vệ động vật, thực vật rừng quý hiếm (1993); Chỉ thị 283/TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện biện pháp cấp bách để quản lý gỗ quý hiếm (1993); Nghị định 48/CP sửa đổi và bổ sung danh mục động vật, thực vật rừng quý hiếm được ban hành theo Nghị định 18/HĐBT (2002), sau đó 4 năm, Nghị định 32/2006/NĐ-CP được ban hành trên cơ sở sửa đổi và bổ sung của NĐ 48/CP. Nghị định 32/2006/NĐ-CP thay thế Nghị định số 18/HĐBT ngày 17 tháng 01 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng quy định danh mục động vật, thực vật rừng quý hiếm và chế độ quản lý bảo vệ và Nghị định số 48/2002/NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung danh mục thực vật, động vật hoang dã quý hiếm ban hành kèm theo Nghị định số 18/HĐBT. Đây là công cụ pháp luật của nhà nước nhằm hạn chế, răn đe các hành vi khai thác các loài động thực vật rừng, trong đó có các loài Lan có nguy cơ đe doạ cao. Trong nhóm IA của danh mục đã liệt kê tất cả các loài Lan kim tuyến (Anoectochilus spp.), các loài Lan hài (Paphiopedilum spp.). Trong nhóm IIA, danh mục thực vật của Nghị định đề cập 2 loài cần được bảo vệ: Thạch học (Dendrobium nobile), Lan một lá (Nervilia sp.) [6] Năm 1996, với sự nỗ lực của các nhà khoa học, Sách Đỏ Việt Nam (Phần thực vật) đã được xuất bản, trong đó đã thống kê 356 loài từ thực vật bậc thấp đến thực vật bậc cao ( bao bồm 35 loài của họ Lan) thuộc loại quý hiếm của Việt Nam cần được bảo vệ. Tới năm 2007, Sách đỏ Việt Nam (Phần thực vật) được chỉnh sửa và bổ sung được tái bản lần thứ hai, trong đó có dẫn
- 10 68 loài Lan cần được bảo vệ. Các loài thực vật nói chung và các loài Lan nói riêng đã được đánh giá tình trạng bảo tồn theo các tiêu chuẩn của Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) năm 1994. Các loài được đánh giá tình trạng bảo tồn theo các cấp bậc như sau: - Các cấp đánh giá chính: 1. Tuyệt chủng (Extinct) - EX) 2. Tuyệt chủng ngoài thiên nhiên ( Extinct in the wild) - EW 3. Rất nguy cấp ( Critically Endangered) - CR 4. Nguy cấp ( Endangered) - EN 5. Sẽ nguy cấp ( Vunerable) - VU 6. Ít nguy cấp (Lower risk) - LR 7. Thiếu dẫn liệu (Data deficient) - DD 8. Không đánh giá ( Not evaluated) - NE 1.3. Nghiên cứu đa dạng sinh học ở Khu bảo tồn thiên nhiên Đakrông Nghiên cứu về đa dạng sinh học nói chung và đa dạng Thực vật nói riêng tại Khu BTTN Đakrông còn rất ít. Trong thời kỳ Pháp thuộc, một số nhà thực vật học người Pháp đã tiến hành thu mẫu vật tại một số địa điểm thuộc đường quốc lộ số 9 để thu thập dẫn liệu phục vụ cho việc xuất bản “Thực vật chí Đông Dương”. Khu bảo tồn thiên nhiên Đakrông được chính thức thành lập từ tháng 7 năm 2002 trên phạm vi huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị, cho tới nay đã có một số nghiên cứu được công bố, phát hiện loài mới bổ sung cho hệ thực vật của Khu bảo tồn. Đó là công trình của Viện điều tra quy hoạch rừng Kết quả điều tra thực vật được 597 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 118 họ, 366 chi và trong đó họ Lan chỉ có 13 loài [14]. Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường - Đại học quốc gia Hà Nội (CRES) phối hợp với Viện sinh thái tài nguyên sinh vật. Kết quả điều tra thực vật được 1.053 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 130 họ, 528 chi và trong đó họ Lan chỉ có 35
- 11 loài [11]. Gần đây nhất là công trình nghiên cứu của Nguyễn Long Kết quả điều tra được với 04 ngành có 145 họ, 641 chi, 1.412 loài và trong đó họ Lan có 41 loài [10]. Trong các nghiên cứu trên chưa có một nghiên cứu nào nghiên cứu cụ thể về khu hệ Lan của Khu BTTN Đakrông. Đề tài sẽ hướng những nghiên cứu tiếp theo tập trung vào các nội dung: kiểm kê chính xác thành phần các loài lan; nghiên cứu đặc điểm sinh thái, sinh học, tình trạng bảo tồn của một số loài Lan bị đe dọa tuyệt chủng, đặc biệt là các loài nằm trong sách đỏ Việt Nam và nghị định số 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30 tháng 3 năm 2006 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm. Kết quả của những nghiên cứu trên chắc chắn sẽ làm phong phú thêm sự hiểu biết về Lan ở Khu bảo tồn thiên nhiên Đakrông nói riêng và Lan Việt Nam nói chung, đề xuất các biện pháp cụ thể để bảo tồn và phát triển bền vững hệ Lan tại Khu bảo tồn thiên nhiên Đakrông, góp sức vào công cuộc bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam và thế giới.
- 12 CHƯƠNG 2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI KBTTN ĐAKRÔNG 2.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1. Vị trí địa lý Khu bảo tồn thiên nhiên Đakrông nằm về phía Nam huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị, có toạ độ địa lý: Từ 16023' đến 16009' Vĩ độ Bắc. Từ 106052' đến 107009' Kinh độ Đông. - Phía Bắc giáp huyện Cam Lộ và Triệu Phong. - Phía Nam giáp huyện A Lưới (Thừa Thiên - Huế). - Phía Tây giáp sông Đakrông và đường Hồ Chí Minh. - Phía Đông giáp huyện Phong Điền (Thừa Thiên - Huế). Khu bảo tồn bao gồm một phần diện tích của 8 xã là: Hải Phúc, Ba Lòng, Triệu Nguyên, Tà Long, Húc Nghì, A Bung, Đakrông và Ba Nang, đều thuộc vùng núi huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị, tổng diện tích tự nhiên 37.640 ha. 2.1.2. Địa hình địa mạo Nhìn chung, địa hình khu bảo tồn thiên nhiên Đakrông bị chia cắt khá mạnh, do lịch sử kiến tạo địa chất và tạo sơn hình thành. Chúng có đặc điểm chung là: núi thấp, dốc ngắn, bị chia cắt sâu và độ dốc khá lớn. Có 5 kiểu địa hình chính như sau: - Kiểu địa hình núi trung bình (N2). - Kiểu địa hình núi thấp (N3). - Kiểu địa hình đồi (Đ). - Địa hình thấp thoải. - Kiểu địa hình thung lũng và đồng bằng ven sông Đakrông.
- 13 2.1.3. Khí hậu Khu bảo tồn thiên nhiên Đakrông nằm trong miền khí hậu Đông Trường Sơn. Vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa Đông còn tương đối lạnh. Do địa hình của dãy Trường Sơn ảnh hưởng mạnh đến hoàn lưu khí quyển nên đã tạo ra sự khác biệt lớn trong phân hoá khí hậu của khu vực. Theo kết quả quan trắc khí tượng trong nhiều năm của các đài khí tượng Khe Sanh cho thấy: Bảng 2.1: Số liệu quan trắc tại Khe Sanh 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm T 18.1 19.0 21.8 24.5 25.7 25.8 25.3 24.7 24.2 22.8 20.5 18.2 22.3 R 19.0 18.8 29.7 87.5 157.4 225.7 185.2 294.2 373.5 446.2 192.9 62.6 2079.0 T 6.6 7.2 9.4 10.2 9.0 7.0 7.4 6.2 7.0 6.1 4.8 5.3 7.2 U 90 90 85 81 80 85 83 89 90 90 90 91 87 480 240 440 220 400 200 360 180 320 160 280 140 R(mm) NhiÖt ®é 240 120 R (mm) 200 100 T 160 80 120 60 80 40 40 20 0 0 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Th¸ng Hình 2.1: Biểu đồ Gauusel-Walter - Chế độ nhiệt: Nhiệt độ trung bình năm bình quân từ 22 - 230C, tương đương với tổng nhiệt năng từ 8300-85000C. Mùa mưa, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. Nhiệt độ trung bình trong các tháng mùa mưa (từ tháng
- 14 10 đến tháng 3) giảm xuống dưới 250C, và nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất xuống dưới 150C (Khe Sanh 15,10C, A lưới 13,80C). Ngược lại, trong mùa khô (từ tháng 4 đến tháng 9), do có sự hoạt động của gió Tây nên thời tiết rất nóng và khô, nhiệt độ trung bình lên trên 250C. Tháng nóng nhất là tháng 6, 7 nhiệt độ trung bình lên tới 29 0C. Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối lên tới 39 - 400C. Độ ẩm trong các tháng này có thể xuống dưới 30%. - Chế độ mưa ẩm: Đây là vùng có lượng mưa rất lớn, trung bình hàng năm tổng lượng mưa đạt tới 2500 - 3000 mm, trong đó 90% tập trung trong mùa mưa. Hai tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 10, 11 và thường xảy ra lũ lụt. Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 9. Độ ẩm không khí trung bình vùng đạt 85 - 87%; trong mùa mưa độ ẩm lên tới 90%. - Gió Tây khô nóng: Đây là vùng chịu ảnh hưởng của gió Tây khô nóng. Hoạt động của gió Tây thường gây nên hạn hán trong thời kỳ đầu và giữa mùa hè (tháng 5 - 7). Trong những tháng này nhiệt độ tối cao có thể vượt quá 390C và độ ẩm thấp xuống dưới 30%. - Mưa bão: Hai tháng nhiều bão nhất là tháng 9 và tháng 10. Bão thường kèm mưa lớn lụt lội gây thiệt hại khá nghiêm trọng. 2.1.4. Thuỷ văn Nhìn chung, hệ thống sông suối trong khu bảo tồn khá dày đặc nhưng các sông suối thường ngắn, dốc, lắm ghềnh thác, cửa sông hẹp, nên mùa mưa lượng nước sông thường dâng cao. Còn vào mùa khô lưu lượng nước của các con sông giảm xuống. Vì vậy, nước triều thường chảy ngược lên nguồn xa cửa sông đến 15 - 20 km gây ảnh hưởng mặn đối với ruộng đồng hai bên bờ sông. Trong đó, sông Đakrông là một nhánh lớn nhất của sông Thạch Hãn bao kín gần như cả 3 mặt của khu bảo tồn phía Nam, phía Tây và phía Bắc. Do sự phân bố lượng mưa không đều trong năm và cũng do rừng trong vùng phía Bắc khu bảo tồn bị tàn phá nhiều, đã tạo nên những cực đoan về
- 15 dòng chảy trong năm. Môđun dòng chảy toàn vùng là 70 m3/s/km2, trong đó mô đun dòng chảy mùa lũ là 150 m3/s/km2, mùa cạn là 25 m3/s/km2. Vì vậy, hàng năm vào mùa mưa thường xảy ra lũ lụt, xói lở, giao thông đường thuỷ bị ách tắc và vào mùa khô lại thường xảy ra hạn hán, thiếu nước tưới tiêu. 2.1.5. Địa chất - Hầu hết các núi thấp và trung bình trong khu bảo tồn được cấu tạo bởi các loại đá Macma Bazơ và trung tính có nguồn gốc núi lửa chạy suốt từ Cồn Tiên, Dốc Miếu đến Hướng Hoá, Khe Sanh, Lao Bảo và các khu phụ cận xuống gần A Lưới. Điển hình là các loại đá Forfirit, Anđezit, Diorit, các loại đá này có màu phớt lục, nâu đỏ hoặc màu tím hồng. - Các núi thấp và đồi cao vùng ĐaKrông, Mò ó, Triệu Nguyên, Ba Lòng, Hải Phúc được cấu tạo chủ yếu bởi các loại đá trầm tích và biến chất có kết cấu hạt mịn như phiến thạch sét, phylit, sa phiến thạch, mica, bột kết,... có tuổi Ocdovic - Silua. 2.1.6. Thổ nhưỡng Khu bảo tồn thiên nhiên Đakrông gồm các loại đất chính như sau: - Đất Felarit có mùn trên núi trung bình (FH) - Nhóm đất Feralit đỏ và phát triển ở vùng đồi núi thấp (F). - Đất Feralit đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch sét (Fs). - Đất Feralit nâu đỏ phát triển trên đá Macma Bazơ và trung tính (Fk). - Đất dốc tụ và đất phù sa sông suối trong các thung lũng (DL). 2.1.7. Rừng và thực vật rừng 2.1.7.1. Thảm thực vật rừng: Thảm thực vật rừng Đakrông được chia thành các kiểu rừng chính và phụ dưới đây:
- 16 Bảng 2.2: Diện tích các thảm thực vật rừng khu bảo tồn Đakrông Diện Tỷ lệ TT Kiểu thảm tích % Rừng kín thường xanh chủ yếu cây lá rộng á nhiệt 1 5.000,0 13,3 đới núi thấp 2 Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới 4.300.0 11,4 (Kiểu phụ thứ sinh nhân tác) rừng kín thường xanh 3 13.714,0 36,4 nhiệt đới ẩm phục hồi sau khai thác (Kiểu phụ thứ sinh nhân tác) rừng kín thường xanh 4 4.791,0 12,8 mưa ẩm nhiệt đới phục hồi sau nương rẫy (Kiểu phụ thứ sinh nhân tác) rừng hỗn giao Tre - 5 8.025,0 21,3 Nứa - gỗ phục hồi sau nương rẫy và khai thác kiệt 6 Trảng cỏ cây bụi thứ sinh nhân tác 1.660,0 4,4 7 Núi đá không cây 150,0 0,4 Tổng diện tích 37.640,0 100 2.1.7.2. Hệ thực vật rừng: a. Thành phần loài và tính đa dạng của hệ thực vật: Qua điều tra bước đầu, trong khu vực khảo sát đã thống kê được 1.412 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 641 chi, 145 họ. Trong đó thì thực vật Hạt kín (Angiospermae) vẫn chiếm đa số, sau đó là Khuyết thực vật (Pteridophyta) rồi đến thực vật hạt trần (Gymnospermae) [10]. 2.1.8. Khu hệ động vật 2.1.8.1. Khu hệ thú: Kết quả khảo sát đã ghi nhận 67 loài Thú, trong 10 bộ, 25 họ. Trong tổng số 67 loài có 20 loài được ghi trong sách đỏ Thế Giới (IUCN, 1996) và 16 loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam (Anon, 1992) [11].
- 17 2.1.8.2. Khu hệ chim: Đã ghi nhận 193 loài, trong 16 Bộ, và 37 Họ, trong đó có 20 loài được ghi trong sách đỏ Thế Giới (Collar et al., 1994), đây là những loài bị đe doạ mang tính toàn cầu; 19 loài ghi trong sách đỏ Việt Nam (Anon, 1992), gồm 4 loài đặc hữu cho Việt Nam và 4 loài đặc hữu cho Việt Nam và Lào [11]. 2.1.8.3. Khu hệ bò sát, ếch nhái: Đã nghi nhận tổng số 49 loài bò sát và ếch nhái, trong đó: Bò sát có 2 bộ, 13 họ, 32 loài; ếch nhái có 1 bộ, 5 họ, 17 loài, trong đó mang nhiều yếu tố chuyển tiếp khu Bắc Trường Sơn và Nam Trường Sơn. Có 14 loài quý hiếm, đặc hữu có giá trị kinh tế cao, gồm có 13 loài bò sát và 1 loài ếch nhái (chiếm 32% tổng số loài có trong khu vực) [11]. 2.1.8.4. Khu hệ bướm: Đã xác định được tổng số 210 loài bướm cho khu vực Đakrông thuộc 9 họ [11]. 2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 2.2.1. Dân số, dân tộc Vùng đệm của khu bảo tồn Đakrông có 4.144 hộ; 23.172 khẩu, phân bố trong 10 xã. Số nhân khẩu trong một hộ khá cao, bình quân 6 người/hộ. Mật độ dân số trung bình trong khu vực 27,6 người/km2, song sự phân bố dân cư rất không đồng đều theo địa bàn từng xã. Tại các xã gần thị trấn, ven đường quốc lộ hay các đường dân sinh lớn thì dân số thường tập trung khá đông đúc, ngược lại ở vùng cao, vùng xa, dân cư thường rất thưa thớt. Tỷ lệ tăng dân số trung bình trong giai đoạn 2002 - 2005 là 1,89%; tuy có giảm dần trong những năm gần đây, nhưng tỉ lệ vẫn còn cao. Trong vùng có 3 dân tộc cùng chung sống, trong đó dân tộc Vân Kiều chiếm đại đa số (42,9%), dân tộc Kinh (28,6%) và dân tộc Pa Kô (28,5%).
- 18 Hầu hết đồng bào dân tộc vẫn sống dựa vào nương rẫy là chính, diện tích đất canh tác rất ít, đời sống của đồng bào các dân tộc nhìn chung còn khá nghèo nàn và lạc hậu. 2.2.2. Lao động và sự phân bố lao động trong khu vực Toàn khu vực có 10.507 lao động, chiếm 45% dân số, trong đó nam có 5.214 lao động (chiếm 49,6%), nữ có 5.293 lao động (chiếm 50,4%). Lao động tập trung chủ yếu ở khối sản xuất nông nghiệp (chiếm 93%), đây là nguồn lao động dồi dào có thể huy động vào việc sản xuất lâm nghiệp, xây dựng khu bảo tồn và phát triển lâm nghiệp xã hội. 2.2.3. Các hoạt động kinh tế trong khu vực - Sản xuất Nông nghiệp: + Trồng trọt: Diện tích đất đai dành cho sản xuất nông nghiệp là 5.624 ha chiếm có 4,6% tổng diện tích tự nhiên. Các loài cây trồng chính là lúa và các cây hoa màu như Ngô, Khoai, Sắn, Lạc,… Do phương thức quảng canh vẫn là chủ yếu, năng suất cây trồng hoàn toàn phụ thuộc vào thời tiết, chưa chủ động được tưới tiêu và đầu tư phân bón thấp nên năng suất cây trồng thấp và không ổn định. Do đó bình quân lương thực đầu người chỉ khoảng 18,5 kg/người/tháng. Vì vậy, số hộ đói nghèo của 10 xã vùng đệm lên tới 2.488 hộ (theo tiêu chí mới) chiếm 60% số hộ; số hộ trung bình và khá 1.656 hộ (chiếm 40%). + Chăn nuôi: Tổng đàn gia cầm, gia súc toàn huyện có 5.282 con trâu; 4.011 con bò, 10.893 con lợn, 3.465 con dê và 53.140 con gia cầm (Theo niên giám thống kê 2007). - Sản xuất Lâm nghiệp Trong khu vực hiện nay có Lâm trường Hướng Hóa với 98 cán bộ công nhân viên làm công tác sản xuất lâm nghiệp (chủ yếu là khai thác nhựa
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 370 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 412 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 542 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 299 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 342 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 319 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 235 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 246 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn