Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Lâm nghiệp cộng đồng tại tỉnh Quảng Trị và các hoạt động chủ yếu trong quản lý rừng cộng đồng tại thôn Làng Cát, xã Đakrông, huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị
lượt xem 3
download
Luận văn góp phần xây dựng các căn cứ khoa học hỗ trợ cộng đồng quản lý bền vững tài nguyên rừng được giao, cải thiện sinh kế của người dân sau khi nhận đất, nhận rừng; đề xuất các hoạt động quản lý rừng phù hợp điều kiện tài nguyên rừng, trình độ, phong tục tập quán và nguyện vọng của cộng đồng dân cư thôn Làng Cát, xã Đakrông, huyện Đakrông.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Lâm nghiệp cộng đồng tại tỉnh Quảng Trị và các hoạt động chủ yếu trong quản lý rừng cộng đồng tại thôn Làng Cát, xã Đakrông, huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ĐẶNG THỊ MẾN LÂM NGHIỆP CỘNG ĐỒNG TẠI TỈNH QUẢNG TRỊ VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU TRONG QUẢN LÝ RỪNG CỘNG ĐỒNG TẠI THÔN LÀNG CÁT, XÃ ĐAKRÔNG, HUYỆN ĐAKRÔNG TỈNH QUẢNG TRỊ LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội, 2011
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Quản lý tài nguyên rừng và đất rừng dựa vào cộng đồng là một phương thức quản lý rừng dựa vào kiến thức kinh nghiệm truyền thống và nguyện vọng của cộng đồng, hướng đến việc nâng cao năng lực và tăng cường sự hợp tác chia sẻ kinh nghiệm cho cộng đồng và bên liên quan, nhằm quản lý các nguồn tài nguyên bền vững và góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá của các cộng đồng dân tộc sống trong và gần rừng. Trong những năm trước đây dân số ít, nhu cầu sinh kế của người dân chưa lớn, chưa đa dạng vì thế nguồn tài nguyên rừng về cơ bản có thể đáp ứng được. Bên cạnh đó, trong các cộng đồng dân tộc thiểu số việc quản lý tài nguyên rừng có sự trợ giúp đắc lực của các định chế, luật tục truyền thống trong cộng đồng và trong một thời gian dài trước đây chúng đã phát huy hiệu quả tốt, do vậy mà tài nguyên rừng được bảo vệ một cách tương đối tốt. Nhưng hiện nay, nhu cầu của người dân tăng cao, sự phát triển mạnh về dân số, vấn đề di dân tự do, khai phá đất rừng để sản xuất làm suy giảm cả về số lượng và chất lượng tài nguyên rừng. Chính điều đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống, đến nhận thức, cách đối xử của người dân với tài nguyên rừng. Theo quyết định số 106/2006/QĐ -BNN về việc ban hành hướng dẫn quản lý rừng cộng đồng dân cư thôn thì khái niệm “Rừng cộng đồng” được hiểu là rừng được Nhà nước giao cho cộng đồng dân cư thôn để sử dụng rừng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Ở Việt Nam, rừng cộng đồng đã tồn tại lâu đời, nó gắn liền với sự sinh tồn và tín ngưỡng của cộng đồng dân cư sống gần rừng, cùng với việc thực hiện chính sách giao đất, giao rừng cho cộng đồng dân cư nhằm tạo điều kiện cho người dân phát triển kinh tế, thoát nghèo, gắn phát triển kinh tế với việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, bước đầu thực hiện giao rừng tự nhiên cho cộng đồng quản lý tại một số xã ở huyện Hướng Hoá và Đakrông nên có nhiều vấn đề
- 2 cần phải nghiên cứu để quản lý, giúp đỡ mới mang lại thành công. Những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn triển khai dự án lâm nghiệp cộng đồng sẽ giúp ích cho các địa phương thực hiện tốt việc giao đất, giao rừng trong thời gian tới. Việc thực hiện thành công công tác giao rừng cho cộng đồng là phát triển vốn rừng gắn với đời sống người dân bền vững. Tuy nhiên trên thực tế có nhiều địa phương sau khi cộng đồng được giao đất giao rừng, qua nhiều năm vẫn chưa có các biện pháp quản lý, bảo vệ hay tác động các biện pháp lâm sinh để phát triển rừng hay sử dụng rừng một cách hợp lý theo hướng bền vững. Do đó, nguồn tài nguyên rừng vẫn tiếp tục bị suy giảm và chưa trở thành nguồn lực đóng góp cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo tại địa phương. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này ngoài lý do nội lực của cộng đồng còn hạn chế là chính sách của Nhà nước về cơ chế hưởng lợi chưa được cụ thể và rõ ràng đối với chủ rừng cùng với sự thiếu những hướng dẫn quản lý rừng cho cộng đồng sau khi giao, chưa giúp họ thực hiện được các công việc thiết yếu như: Kế hoạch quản lý, xây dựng quy ước Bảo vệ và phát triển rừng; thiết lập quỹ Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng của thôn... Do vậy cộng đồng dân cư thôn sau khi nhận đất sẽ lúng túng và không thực hiện được các mục tiêu giao rừng cho cộng đồng của Nhà nước đó là: quản lý bền vững tài nguyên rừng và góp phần cải thiện cuộc sống cho người dân. Để góp phần xây dựng những tài liệu nhằm hướng dẫn các hoạt động trên, tôi tiến hành thực hiện đề tài: "Lâm nghiệp cộng đồng tại tỉnh Quảng Trị và các hoạt động chủ yếu trong quản lý rừng cộng đồng tại thôn Làng Cát, xã ĐaKrông , huyện ĐaKrông, tỉnh Quảng Trị "
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHỮNG NHẬN THỨC VỀ LÂM NGHIỆP CỘNG ĐỒNG 1.1. Trên thế giới: Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ) về các khía cạnh, về cải tiến chính sách, thể chế tiếp cận, phát triển công nghệ trên cơ sở kiến thức bản địa để phát triển quản lý rừng cộng đồng. Đây là những kinh nghiệm tốt có thể kế thừa và vận dụng một cách thích hợp vào điều kiện Việt Nam. Khái niệm cộng đồng thường được hiểu là nhóm người sống trên cùng một khu vực, thường cùng nhau chia sẽ các mục tiêu chung, các luật lệ xã hội chung, có thể có quan hệ gia đình với nhau (D'arcy Davis Case, 1990). Còn quản lý tài nguyên trên cơ sở cộng đồng là quản lý tài nguyên mà trong đó phát huy được năng lực nội sinh của cộng đồng cho hoạt động quản lý. Những giải pháp quản lý tài nguyên trên cơ sở cộng đồng luôn chứa đựng những sắc thái của phong tục, tập quán, ý thức tôn giáo, nhận thức, kiến thức của người dân, đặc điểm quan hệ gia đình, họ hàng, làng xóm, của chính sách, luật pháp v.v... Trong khi các nước công nghiệp phát triển đề cao vai trò của cá nhân, thì các nước đang phát triển mà đặc biệt là ở vùng Châu á - Thái Bình Dương, gia đình và cộng đồng được đánh giá cao. Trong nhiều trường hợp, quản lý tài nguyên thiên nhiên trên cơ sở cộng đồng đã đem lại những hiệu quả to lớn cho phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ) là những hoạt động không chỉ giới hạn trong việc trồng cây rừng ở trang trại, khu dân cư ở hay ven đường, mà còn đề cập đến cả tập quán du canh, việc sử dụng và quản lý rừng tự nhiên, việc tổ chức sản xuất và cung cấp các sản phẩm lâm sản từ rừng tự nhiên, từ rừng trồng hay nông lâm kết hợp. Lâm nghiệp cộng đồng cũng đề cập đến xây dựng kế hoạch quản lý rừng dựa trên nhu cầu của địa phương, tăng cường quản lý sử dụng các sản phẩm lâm nghiêp
- 4 để cải thiện mức sống của người dân theo một phương thức bền vững, đặc biệt là cải thiện điều kiện sống cho người nghèo (FAO, 2000). Don Gilmour và Fischer [10] cho rằng: “Quản lý rừng cộng đồng là các hoạt động kiểm soát và quản lý các nguồn tài nguyên rừng do người dân địa phương thực hiện, những người này sử dụng chúng cho các mục đích của cộng đồng và nó là một bộ phận hữu cơ của hệ thống canh tác” Quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng đó là hình thức quản lý các diện tích rừng của Nhà nước giao cho cộng đồng quản lý. Hình thức quản lý rừng cộng đồng đã xuất hiện từ rất lâu trong quá trình sản xuất nông lâm nghiệp của loài người. Tuy nhiên sự thống trị của chế độ thực dân của người Châu Âu diễn ra trên diện rộng và kéo dài cho tới thế kỷ 20 đã có những ảnh hưởng tiêu cực đối với hệ thống quản lý cây và rừng cổ truyền ở nhiều địa phương. Chính sách thực dân đã đập tan các hệ thống quản lý cổ truyền về tài nguyên ở các địa phương cùng với những nguồn kiến thức bản địa về tài nguyên và hệ sinh thái nơi đó. Trong thời gian hậu thuộc địa, nhiều nhà quản lý sử dụng rừng vẫn chịu ảnh hưởng của những lực lượng từ bên ngoài và cũng góp phần không nhỏ trong việc làm suy giảm tài nguyên rừng trên thế giới [16]. Một thực tế mà chúng ta có thể kết luận rằng, khi mà các cộng đồng dân cư không phải là nhân tố tham gia thực hiện quản lý rừng, họ không thấy được trách nhiệm và quyền hạn của mình trong việc quản lý tài nguyên rừng thì ở đó tài nguyên rừng bị suy giảm nghiêm trọng. Khi chính phủ của các quốc gia giao quyền quản lý những khu rừng và tạo cơ hội cho người dân, cộng đồng được hưởng lợi từ rừng, khi đó những vấn đề như đói nghèo, suy thoái tài nguyên dần dần được đẩy lùi và cộng đồng địa phương sẽ nhận ra trách nhiệm của chính họ trong việc bảo vệ và quản lý tài nguyên rừng, thúc đẩy cho sự phát triển của các cộng đồng dân cư sống phụ thuộc vào rừng. Tính đến thời điểm hiện nay LNCĐ đã trải qua ba giai đoạn: - Giai đoạn thứ nhất phần lớn những người bên ngoài cuộc xác định vấn đề và đề ra quyết định để giải quyết vấn đề đó. Kết quả đạt được đều không đáng khích lệ,
- 5 sự quan tâm của cộng đồng thường theo thời gian mà lắng xuống. Rất ít các cộng đồng tiếp tục các hoạt động sau khi những người ngoài cuộc rút lui, và tất nhiên tính bền vững không đạt được. - Giai đoạn thứ hai những người ngoài cuộc xác định vấn đề và đề ra phần lớn quyết định, nhưng họ đã bắt đầu tham khảo ý kiến của những người trong cộng đồng, thông qua các cuộc phỏng vấn. Kết quả là những người ngoài cuộc đã bắt đầu nhận thức được rằng những người trong cộng đồng có khá nhiều hiểu biết và thường có cách giải quyết vấn đề phù hợp và hiệu quả hơn. - Giai đoạn thứ ba những người ngoài cuộc chỉ là những người hỗ trợ và thúc đẩy, còn những người trong cộng đồng là những những tích cực xác định vấn đề và đề ra các giải pháp. Cách làm này đã mang lại những kết quả đáng khuyến khích làm cho người dân trong cộng đồng tự nhận thức được vấn đề và chủ động trong việc đề ra các giải pháp mà họ có thể thực hiện được. Thực tế trên thế giới cho thấy đã có rất nhiều các nghiên cứu về các khía cạnh cải tiến chính sách, thể chế, cách tiếp cận, áp dụng công nghệ trên cơ sở kiến thức bản địa để phát triển quản lý dựa vào rừng cộng đồng. Đây là những kinh nghiệm tốt có thể kế thừa và vận dụng vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Ở một số nước như Ấn Độ, Thái Lan đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác xây dựng các chương trình đồng quản lý các khu rừng bảo vệ. Các cộng đồng dân cư có đời sống phụ thuộc vào tài nguyên rừng thường rất thành thạo khi đóng vai trò là người bảo vệ hoặc tham gia quản lý khu bảo tồn. Với những đặc điểm độc đáo về kinh tế, văn hóa và thể chế truyền thống của cộng đồng người dân địa phương trong quản lý sử dụng tài nguyên đã mang lại những hiệu quả to lớn trong việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng. - Ấn Độ đã coi cộng đồng như một đối tác quản lý những vùng đất rừng của chính phủ. Chính phủ cho phép các cộng đồng được sử dụng tất cả những sản phẩm không phải là gỗ, còn việc phân chia quyền lợi cây gỗ thì có sự khác nhau giữa các bang theo một tỷ lệ hợp lý. Vấn đề cốt lõi nhất là các biện pháp thu hút người dân và lợi ích của người tham gia. Để tiến tới việc quản lý tài nguyên sở hữu công cộng
- 6 bền vững, chính phủ Ấn Độ cần dành ưu tiên cao cho việc sửa đổi chính sách và các sự yếu kém, sai sót của các luật lệ hiện hành cũng như hạn chế việc khuyến khích tiếp tục tư nhân hóa. Vào đầu những năm 1970, Chính phủ ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích phát triển lâm nghiệp làng bản để giảm sức ép đối với việc tàn phá rừng. Trong khoảng 15 năm, Chính phủ đã đầu tư khoảng 400 triệu USD cho chương trình cộng đồng. Mục đích của các chương trình lâm nghiệp xã hội tại Ấn Độ tập trung giải quyết một số vấn đề như: giúp đỡ dân nghèo và cố nông được quyền hưởng thụ các tài sản công cộng của thôn bản và đất đai của cơ quan lâm nghiệp, trên đó họ có thể trồng các loài cây rừng và các loài cỏ thích hợp; Tuyển chọn các biện pháp kỹ thuật có hiệu quả kinh tế cho từng khu sinh thái; Tổ chức các cộng đồng địa phương để tiến hành phát triển có hiệu quả công tác lâm nghiệp xã hội. Theo lịch sử ở Ấn Độ có nhiều loại rừng lăng miếu và chúng phục vụ nhiều mục đích tinh thần và tôn giáo. Những rừng này đều được các tổ chức tôn giáo hoặc nhóm cộng đồng địa phương quản lý, đồng thời người dân địa phương ở Ấn Độ đã bảo vệ được các đám rừng có diện tích từ 0.5 – 10 ha dưới dạng lùm cây thiêng để thờ các vị thần của lùm cây. Việc thờ cúng tại những lùm cây thiêng đó hình thành từ những xã hội chuyên săn bắt, hái lượm và việc lấy bất kỳ một sản phẩm nào ra đều là cấm kỵ và nó cũng đã góp phần vào việc duy trì và mở rộng tài nguyên rừng. - Tại Nepan việc quản lý và bảo vệ rừng cộng đồng trong đó có rừng và các tài sản khác thường gắn với các thôn bản nhỏ và hiu quạnh. Khi tìm hiểu tính chất của việc quản lý tài nguyên rừng ở cấp thôn bản thì thấy chúng đều có những nét chung và chúng thường có hiệu lực, đặc biệt là về mặt bảo vệ. Các chỉ tiêu về quy chế tổ chức, phần nào dựa trên sự thống nhất ý kiến của những người sử dụng là phần quan trọng nhất của tất cả những hệ thống quản lý rừng bản địa. Và những hệ thống quản lý rừng bản địa này chỉ mới được xây dựng từ năm 1950. Từ năm đó tới nay Chính phủ Nepan đã có một thay đổi mạnh mẽ về thái độ đối với rừng vùng đồi, đây là một sự chuyển biến sâu sắc do nạn tàn phá rừng ngày càng rõ nét và ảnh hưởng của nó tới đời sống nông thôn ngày nay. Đầu tiên là việc thi hành luật bảo vệ
- 7 phát triển rừng thông qua hệ thống pháp luật của Chính phủ, nhưng việc đó đã thất bại. Sau đó đã có nhiều thay đổi về chính sách, luật lệ chuyển việc quản lý rừng cho chính những người sử dụng chúng ở thôn bản. Arnold (1986) [16] đã trình bày những tiến bộ mà chính phủ Nepan đạt được khi tổ chức LNCĐ tại vùng đồi của Nepan thông qua dự án phát triển LNCĐ qua báo cáo “Quản lý tập thể rừng vùng đồi ở Nepan: Dự án phát triển lâm nghiệp cộng đồng” Mục tiêu của dự án này là tăng thêm nguồn cung cấp củi, thức ăn gia súc, cỏ và gỗ thông qua việc trao trách nhiệm rộng hơn về quản lý và bảo vệ rừng cho các cộng đồng địa phương. Tài liệu này có nói tới một sáng kiến của Nepan đã đưa ra một khuôn khổ có khả năng vận dụng được để phát triển các hệ quản lý rừng sản xuất địa phương thích hợp với các nhu cầu hiện nay, khuôn khổ đó xây dựng trên các truyền thống và phương thức địa phương để quản lý rừng cộng đồng. Số liệu điều tra cho thấy rằng rừng được ảnh hưởng tốt khi có sự quản lý tích cực của người sử dụng địa phương. Rừng được cải thiện rõ khi có sự kiểm tra thu hoạch của địa phương do các cộng đồng đề ra những quy định thời gian và các diện tích có hạn chế và các công cụ được phép sử dụng, ngược lại rừng tiếp tục bị thoái hóa khi chỉ có Chính phủ đề ra cách kiểm tra theo thường lệ như lệ phí mà người sử dụng phải trả và bài cây để chặt hạ. Mặc dù những kinh nghiệm của chương trình này đến nay vẫn còn hạn chế nhưng những việc đã làm được của chương trình này cũng coi là một sự khởi đầu đáng phấn khởi. Hobley (1987) LNCĐ không nên được định nghĩa bằng quy mô hoặc sản phẩm cuối cùng mà ở chỗ là quyền đề xuất quyết định nằm ở đâu. Sự tham gia và kiểm tra của dân trong việc thành lập, duy trì, hưởng lợi và phân phối các lợi ích là những lợi ích tiên quyết cho một chương trình LNCĐ đúng đắn. Kết quả điều tra cụ thể tại hai thôn bản của Nepan thông qua Dự án lâm nghiệp song phương giữa Nepan và Australia là dân bản luôn luôn coi rừng là tài sản sở hữu của cộng đồng, tuy nhiên LNCĐ muốn có được những thành công thì cần phải có sự thay đổi sâu sắc về mặt xã hội tại Nepan [23].
- 8 Theo Gilmour, D.A King, G.C và Hobley (1989) [16] đã mô tả hai kiểu động cơ khác nhau nhưng song song tồn tại bên nhau trong phát triển lâm nghiệp ở Nepan đó là: “Phát triển lâm nghiệp hướng về Trung Ương” và “Phát triển lâm nghiệp hướng về người dân”. Để nâng cao việc quản lý rừng công cộng có hiệu quả, một số chương trình của Chính phủ Nepan đã phát triển theo hình mẫu “hướng về rừng” để khắc phục hiện tượng tàn phá rừng do sự tác động cộng hưởng của chính sách lâm nghiệp không hoàn chỉnh, áp lực của dân số và sự ô nhiễm môi trường. Qua báo cáo của Leuschner, tác giả đã khẳng định rằng việc hợp tác giữa cư dân địa phương với cán bộ cấp huyện là rất quan trọng để thành công trong các dự án phát triển LNCĐ và nó có thể trở nên dễ dàng bằng cách thu hút các nhóm người dân đó vào việc lập kế hoạch phát triển địa phương. Tiêu chuẩn chính cho sự thành công của dự án LNCĐ đó chính là việc quan tâm đến sự thích nghi một hệ thống quản lý cộng đồng với các điều kiện và nhu cầu của người dân địa phương. Guha (1989), Rừng núi không yên ổn: Thay đổi sinh thái và sự chống đối của nông dân tại Himalaya [22] cách đây trên một trăm năm, tại vùng đồi Himalaya phong trào quần chúng “ôm giữ lấy cây” (chipko) như là một cố gắng nổi bật của người dân địa phương để cứu vãn tài nguyên rừng đang bị suy sụp và chống lại chính sách của Chính phủ đã cho phép những người ngoài cuộc tới chặt hạ cây cối theo mục đích thương mại của họ. Theo Basu, N.G (1987)[3] đề nghị chính phủ cần có một chính sách lâm nghiệp mới cùng với một cách nhìn mới để ngăn chặn quá trình phát triển đồi trọc và để lôi cuốn nhân dân tham gia vào phong trào tái sinh rừng. Theo Arnold (1992) LNCĐ là một thuật ngữ bao trùm hàng loạt các hoạt động gắn kết người dân nông thôn với trồng rừng cũng như quản lý bảo vệ các sản phẩm và lợi ích thu được từ rừng trồng và rừng tự nhiên. - Tại Indonesia, người dân ở vùng Kalimanta có tập quán canh tác du canh, lúc ban đầu du canh được tiến hành tại các khu rừng tự nhiên, sau đó các diện tích rừng thứ sinh cũng được sử dụng, từng bước các hộ gia đình đã bắt đầu đòi hỏi quyền được sở hữu nương rẫy và đất bỏ hóa. Với áp lực dân số ngày càng gia tăng những
- 9 quyền lợi đó được mở rộng cho thế hệ tiếp theo. Những nguồn lâm sản phụ như song mây, gỗ trầm hương và tổ ong đã có sự cạnh tranh và không thỏa hiệp về lợi ích giữa người dân địa phương và những người bên ngoài. Tại miền Nam và Tây Sumatra, các thành viên cộng đồng có quyền thu hái lâm sản và mở nương làm nông nghiệp trên đất rừng của làng, trong đó một số đám rừng được giữ lại và không ai được đụng chạm tới chúng [16]. - Tại Bolivia, mô hình phát triển quản lý tài nguyên rừng đều tập trung vào việc tổ chức các hợp tác xã lâm nghiệp, người ta đã tiến hành xây dựng thêm các xưởng cưa để tạo thêm lợi tức, kết hợp với việc quản lý rừng nhằm đạt được tính sản xuất bền vững. Mặc dầu cây rừng được tập thể quản lý, người ta vẫn cần có giấy phép khai thác do các nhà đương cục của chính phủ Bolivia cấp phát hàng năm. Cộng đồng dành lại những loài cây nhập nội và có giá trị cao đề xây dựng một quỹ tiết kiệm chỉ được dùng tới khi rất cần thiết [16]. - Tại Peru, Chương trình quản lý tài nguyên Selva Trung ương, năm 1980 được phát triển, chương trình này nhằm vào việc quản lý tài nguyên rừng đặc biệt là rừng đầu nguồn với mục tiêu là tạo ra nguồn công ăn việc làm và lợi tức bằng tiền cho các thành viên cộng đồng, đồng thời bảo tồn các rừng tự nhiên của cộng đồng được quản lý [16]. - Tại Braxin, việc nghiên cứu nhóm người Indieng Kapor tại miền đông Amazon, Braxin đã chứng minh rằng các nhóm bản địa đã xử lý hệ động thực vật và cuối cùng đã làm tăng được tính đa dạng sinh học. Điều đó góp phần vào việc duy trì và nâng cao khả năng cung ứng của rừng cho con người trong thời gian dài. - Tại Mexico sự tham gia của nông dân vào việc quản lý, bảo vệ và nâng cao tài nguyên rừng được thực hiện theo một chính sách có tên là “Kinh tế lâm nghiệp thôn xã” đã cho thấy sự tham gia trực tiếp của người dân địa phương đã là chìa khóa cho sự thành công của các chương trình mong muốn phát triển tài nguyên rừng cộng đồng. [16]. - Ở Nhật bản, không phải là cường điệu khi nói rằng văn hoá Nhật Bản phát triển trong mối quan hệ mật thiết của gỗ và rừng, tiêu biểu là những toà nhà bằng gỗ
- 10 đền "Horyn" và nhiều cây gỗ linh thiêng còn lại xung quanh những đền, miếu và điện thờ. Từ sự đam mê và quan tâm đến văn hoá, người Nhật đã học được cách cải tiến việc sử dụng bền vững và bảo tồn nguồn tài nguyên rừng rất lớn. Vì vậy, thực tế các mục tiêu chính trong luật pháp rừng và quản lý tài nguyên ở Nhật Bản đều được công bố rõ ràng để đẩy mạnh phát triển bền vững dựa trên cơ sở lợi ích cộng đồng ngay từ những năm 1800 [21] 1.2. Ở Việt Nam: Hiện nay, Việt Nam có những quan điểm khác nhau về LNCĐ và chưa có một định nghĩa chính thức nào được công nhận. Tuy nhiên, qua các cuộc hội thảo dường như mọi người đều thống nhất ở Việt Nam có hai hình thức quản lý rừng cộng đồng phù hợp với định nghĩa của FAO như sau: - Thứ nhất là quản lý rừng cộng đồng: Đây là hình thức mà mọi thành viên của cộng đồng tham gia quản lý và ăn chia sản phẩm hoặc hưởng lợi từ những khu rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của cộng đồng hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng. Rừng của cộng đồng là rừng của thôn đã được quản lý theo truyền thống trước đây (quản lý theo các luật tục truyền thống), rừng trồng của các hợp tác xã, rừng tự nhiên đã đuợc giao cho các hợp tác xã trước đây mà sau khi chuyển đổi hoặc giải thể, hợp tác xã đã giao lại cho các xã hoặc các thôn quản lý. Những diện tích rừng này có thể Nhà nước chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đã công nhận quyền sử dụng đất của cộng đồng, song trên thực tế, mặc nhiên cộng đồng đang tự tổ chức quản lý sử dụng và hưởng lợi từ những khu rừng đó. Như vậy, thực chất “quản lý rừng cộng đồng” là cộng đồng dân cư thôn quản lý rừng thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng, được hình thành chủ yếu thông qua chính sách giao đất, giao rừng cho cộng đồng thôn. Tóm lại hình thức quản lý này bao gồm các đối tượng chính sau: Cộng đồng trực tiếp quản lý những diện tích rừng hoặc những đám cây gỗ của họ từ lâu đời. Cộng đồng trực tiếp quản lý những khu rừng được Nhà nước giao. Các hoạt động
- 11 mang tính chất lâm nghiệp khác do cộng đồng tổ chức phục vụ lợi ích trực tiếp cho cộng đồng. Cũng cần nói thêm rằng theo Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, có quy định nếu cộng đồng được giao rừng tự nhiên thì cộng đồng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu khu rừng đó và được thực hiện thông qua chính sách hưởng lợi từ rừng, đương nhiên nếu cộng đồng quản lý rừng trồng được hình thành bằng nguồn vốn tự có của mình thì cộng đồng có quyền sở hữu khu rừng đó. - Thứ hai là quản lý rừng dựa vào cộng đồng: Đây là hình thức cộng đồng tham gia quản lý các khu rừng không thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu chung của họ mà thuộc quyền quản lý, sử dụng sở hữu của các thành phần kinh tế khác nhưng có quan hệ trực tiếp đến đời sống, đến việc làm, thu hoạch sản phẩm, thu nhập hay các lợi ích khác của cộng đồng (thuỷ lợi nhỏ, nước sinh hoạt…). Hình thức này có thể chia thành hai đối tượng: + Rừng của hộ gia đình, cá nhân là thành viên trong cộng đồng. Cộng đồng tham gia quản lý với tính chất hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ lợi ích cùng nhau trên cơ sở tự nguyện (tạo thêm sức mạnh để bảo vệ rừng, hỗ trợ hoặc đổi công cho nhau trong các hoạt động lâm nghiệp…). + Rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của các tổ chức nhà nước (các ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng, các lâm trường, công ty lâm nghiệp nhà nước, các trạm trại…) và các tổ chức tư nhân khác. Cộng đồng tham gia các hoạt động lâm nghiệp như bảo vệ, khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh, phục hồi rừng, trồng rừng với tư cách là người làm thuê thông qua các hợp đồng khoán và hưởng lợi theo các cam kết trong hợp đồng. Tại Hội thảo quốc gia “Những kinh nghiệm và tiềm năng của QLRCĐ ở Việt Nam” tổ chức tại Hà Nội vào tháng 6 năm 2000, phần lớn các đại biểu đã thống nhất hai hình thức quản lý trên đều thuộc LNCĐ hay cộng đồng tham gia quản lý rừng.
- 12 Từ sự phân tích trên cho thấy, LNCĐ và quản lý rừng cộng đồng là hai khái niệm khác nhau, thuật ngữ quản lý rừng cộng đồng được sử dụng với nghĩa hẹp hơn thuật ngữ lâm nghiệp cộng đồng. Thuật ngữ này được sử dụng khi đề cập đến việc quản lý những khu rừng của một cộng đồng dân cư, còn nói đến LNCĐ hay cộng đồng tham gia quản lý rừng chính là diễn tả hàng loạt các hoạt động gắn người dân trong cộng đồng dân cư thôn với rừng, cây, các sản phẩm của rừng và việc phân chia lợi ích từ rừng. Hay nói cách khác, LNCĐ là một hình thức quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng do cộng đồng dân cư thôn thực hiện bao gồm cả rừng của cộng đồng và rừng của các thành phần kinh tế khác. Với cách hiểu như vậy nên chấp nhận LNCĐ bao gồm cả quản lý rừng cộng đồng (cộng đồng quản lý rừng của cộng đồng) và quản lý rừng dựa vào cộng đồng (cộng đồng quản lý rừng của các chủ rừng khác). Khái niệm này vừa phù hợp với định nghĩa của FAO vừa phát huy được nhiều hơn sự đóng góp của cộng đồng vào quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng (Nguyễn Bá Ngãi, 2004). Lâm nghiệp cộng đồng là một quá trình Nhà nước giao rừng và đất rừng cho cộng đồng chủ động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, đất rừng theo hướng bền vững nhằm góp phần cải thiện điều kiện sinh kế của cộng đồng ngày một tốt hơn dưới sự hộ trợ tích cực của các tổ chức lâm nghiệp nhà nước Tính cộng đồng của các dân tộc Việt Nam đã là yếu tố quan trọng tạo nên cơ sở cho những thành quả đã đạt được trong công cuộc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, vấn đề phát huy vai trò của các cộng đồng để quản lý nguồn tài nguyên này là vấn đề vừa mang ý nghĩa phát huy truyền thống, vừa có thể tạo ra một cách quản lý tài nguyên có hiệu quả hơn, bền vững hơn, phù hợp với những xu hướng phát triển của thế giới [14]. Khi nghiên cứu kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên nhiều tác giả đã khẳng định tầm quan trọng của kiến thức bản địa trong quản lý tài nguyên thiên nhiên [20]. Chính những cộng đồng địa phương là những người hiểu biết sâu sắc nhất về tài nguyên thiên nhiên nơi họ sinh sống, về cách thức giải quyết những mối quan hệ kinh tế - xã hội trong cộng đồng
- 13 của họ. Họ biết, phát triển những loài cây trồng, vật nuôi cho hiệu quả cao và bền vững trong hoàn cảnh sinh thái của địa phương. Người ta nhận thấy rằng, sự tham gia của các cộng đồng góp phần làm giảm những mâu thuẫn về lợi ích trong sử dụng tài nguyên. Nghiên cứu ở vùng lòng hồ Hòa Bình cho thấy, thiếu sự tham gia của các cộng đồng đã không giải quyết hợp lý được mối quan hệ về lợi ích giữa quốc gia và cộng đồng dân cư địa phương. Sự thất bại của dự án 747 “ổn định dân cư phát triển kinh tế xã hội vùng chuyển dân sông Đà” trong những năm đầu triển khai và thực hiện dự án có một phần quan trọng là thiếu sự tham gia của cộng động trong việc xây dựng những giải pháp quản lý tài nguyên thiên nhiên. Bản thân những tranh chấp về tài nguyên giữa các cá thể trong cộng đồng cũng chỉ có thể giải quyết tốt trên cơ sở các luật tục, hương ước cũng như những mối quan hệ làng bản ở từng địa phương. Ngoài ra, một số chính sách Nhà nước có thể không được thực thi một cách triệt để, khi thiếu sự tham gia của các cộng đồng [30]. Những người dân địa phương là những người thực hiện và giám sát hiệu quả nhất các chương trình, dự án triển khai trên địa bàn của họ [9] . Ngày nay ở Việt Nam, quản lý tài nguyên trên cơ sở cộng đồng đã được nhận thức như một trong những giải pháp hiệu quả để quản lý tài nguyên thiên nhiên vùng cao. Đó là cách quản lý mà mọi thành viên cộng đồng đều được tham gia vào quá trình phân tích đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân và hình thành giải pháp để phát huy mọi nguồn lực của địa phương cho bảo vệ, phát triển và sự dụng tối ưu các nguồn tài nguyên thiên nhiên vì sự phồn thịnh của mỗi gia đình và cộng đồng. Tuy nhiên, các giải pháp để khuyến khích cộng đồng tham gia quản lý tài nguyên thiên nhiên ở mỗi hoàn cảnh cụ thể sẽ khác nhau. Nó phụ thuộc vào đặc điểm của nguồn tài nguyên hiện có, vào chính sách, luật pháp Nhà nước, vào những quy định của cộng đồng, làng xóm, những phong tục, tập quán, ý thức tôn giáo, nhận thức và kiến thức, kinh nghiệm và trình độ của người dân v.v.... Trong nhiều trường hợp ở nước ta, sự phụ thuộc này vẫn chưa được làm sáng tỏ đầy đủ. Đây là lý do vì sao việc nghiên cứu nhằm xây dựng giải pháp quản lý tài nguyên thiên nhiên
- 14 trên cơ sở cộng đồng ứng với mỗi nhóm dân tộc cùng toàn bộ phức hệ các điều kiện tồn tại của họ vẫn đang được đặt ra như một trong những nhiệm vụ cấp bách ở Việt Nam. Tính đến 31 tháng 12 năm 2007 [7][13] cả nước có 10.006 cộng đồng dân cư thôn, chủ yếu là các cộng đồng các đồng bào dân tộc ít người, đang quản lý và sử dụng 2.792.946,3 ha rừng và đất trống đồi trọc (gọi chung là đất lâm nghiệp) để xây dựng và phát triển rừng, trong đó: 1.916.169,2 ha đất có rừng (chiếm 68,6%) và 876.777,1 ha đất trống đồi trọc (chiếm 31,4%). Diện tích đất lâm nghiệp do cộng đồng quản lý nêu trên chiếm 17,20% diện tích đất quy hoạch cho mục đích lâm nghiệp trên toàn quốc (16,24 triệu ha); diện tích đất lâm nghiệp có rừng do cộng đồng quản lý chiếm 15% tổng diện tích rừng của cả nước (12.873.815 ha). Trong diện tích đất lâm nghiệp có rừng do cộng đồng quản lý và sử dụng thì rừng tự nhiên chiếm tuyệt đại đa số lên đến 96%, rừng trồng chỉ chiếm có 4%. Cộng đồng quản lý chủ yếu rừng phòng hộ, đặc dụng (71%), rừng sản xuất chỉ chiếm 29%. Cộng đồng quản lý và sử dụng đất lâm nghiệp nêu trên với 3 hình thức sau: - Thứ nhất, rừng và đất rừng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao cho cộng đồng quản lý, sử dụng ổn định lâu dài (có quyết định hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và rừng, sau đây gọi tắt là giao) với diện tích 1.643.251,2 ha tương đương 58,8% diện tích đất lâm nghiệp do cộng đồng quản lý và sử dụng. - Thứ hai, rừng và đất rừng do cộng đồng tự công nhận và quản lý từ lâu đời nhưng chưa được Nhà nước giao (chưa có bất kỳ một loại giấy tờ hợp pháp nào, gọi tắt là chưa giao) với diện tích 247.029,5 ha tương đương 8,9%. Đó là các khu rừng thiêng, rừng ma, rừng mó nước, những khu rừng cung cấp lâm sản truyền thống cho cộng đồng. - Thứ ba, rừng và đất rừng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp của các tổ chức nhà nước (Lâm trường, Ban quản lý rừng đặc dụng và rừng phòng hộ…) được các cộng đồng nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi và trồng mới theo hợp đồng khoán rừng
- 15 lâu năm, 50 năm, gọi tắt là nhận khoán với diện tích 902.662,7 ha tương đương 32,3% Ngoài ra, hiện nay còn có một hình thức hình thành rừng và đất rừng cộng đồng ở Việt Nam khác nữa đó là các hộ gia đình trong một thôn tự nguyện góp rừng và đất lâm nghiệp đã được giao của hộ gia đình trở thành rừng và đất rừng dưới hình thức quản lý của cộng đồng nhằm thực hiện các dự án do chính phủ hoặc nước ngoài hỗ trợ. Hình thức này ban đầu cũng được coi là hình thức quản lý rừng cộng đồng nhưng cộng đồng ở đây bao gồm những thành viên có rừng và đất rừng tham gia đóng góp tự nguyện. 1.2.1. Cơ sở pháp lý tác động đến quản lý rừng cộng đồng tại Việt Nam Tiến trình phát triển chính sách Lâm nghiệp cộng đồng ở Việt Nam [24]: - Trước năm 1954: Thừa nhận sự tồn tại của rừng cộng đồng. Lâm nghiệp thuộc địa, phong kiến thừa nhận rừng cộng đồng truyền thống. Quản lý rừng cộng đồng dựa trên các hương ước và luật tục truyền thống. - Giai đoạn 1954-1975: Không quan tâm đến rừng cộng đồng nhưng tôn trọng cộng đồng đang quản lý những khu rừng theo truyền thống. Miền bắc, thực hiện chính sách cải cách ruộng đất và hợp tác hóa, tập trung phát triển lâm nghiệp quốc doanh (Lâm trường quốc doanh) và lâm nghiệp tập thể (Hợp tác xã nông - lâm nghiệp). Mặc dù không quan tâm lâm nghiệp hộ gia đình và Lâm nghiệp cộng đồng, nhưng về cơ bản, Nhà nước vẫn tôn trọng cộng đồng vùng cao quản lý rừng theo phong tục truyền thống, lâm nghiệp hộ gia đình được xác định là kinh tế phụ. Trong khi đó, ở miền nam, giống thời kỳ trước năm 1954. - Giai đoạn 1976-1985: Tập trung và kế hoạch hóa cao độ lâm nghiệp quốc doanh và tập thể, rừng do cộng đồng quản lý bị thu hẹp. Sau giải phóng miền nam, thống nhất đất nước, Chính phủ chỉ chú ý phát triển 2 thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể (hợp tác xã). Lâm nghiệp quốc doanh và lâm nghiệp tập thể phát triển ở quy mô lớn theo cơ chế kế hoạch hóa, tập trung cao độ, LNCĐ và lâm nghiệp hộ gia đình không được khuyến khích phát triển. Tuy
- 16 nhiên, một số nơi ở vùng cao, vùng đồng bào dân tộc vẫn tồn tại các khu rừng do cộng đồng tự công nhận nhưng mức độ tự quản dần bị mai một và lỏng lẻo. Quyết định 184 của Hội đồng Bộ trưởng năm 1982 và Chỉ thị 29 của Ban bí thư năm 1983 về giao đất giao rừng cho các thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể, bắt đầu chú ý đến hợp đồng khoán rừng cho hộ gia đình. - Giai đoạn 1986-1992: Lần đầu tiên đề cập làng bản là chủ rừng hợp pháp đối với rừng truyền thống của làng bản. Năm 1986, Chính phủ bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới bằng việc thừa nhận 5 thành phần kinh tế. Năm 1988 và năm 1991 lần đầu tiên ra đời Luật đất đai và Luật BV&PTR cho phép giao đất, giao rừng cho tổ chức, cá nhân và hộ gia đình. Lâm nghiệp hộ gia đình được thừa nhận. Ngày 17/1/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ra Nghị định số 17/HTBT về việc thi hành Luật BV&PTR xác nhận làng, bản có rừng trước ngày ban hành Luật BV&PTR là chủ rừng hợp pháp. - Giai đoạn 1993-2002: Tăng cường quá trình phi tập trung hoá trong quản lý rừng, quan tâm đến xã hội hóa nghề rừng nhưng chính sách đối với LNCĐ chưa rõ ràng. Ở các địa phương thực hiện nhiều mô hình quản lý rừng cộng đồng nhưng ở mức độ tự phát hoặc mang tính chất thí điểm. Bộ NN&PTNT thành lập Tổ công tác Quốc gia về LNCĐ để triển khai một số nghiên cứu và tổ chức nhiều hội thảo quốc gia về LNCĐ. Nhiều chương trình, dự án quốc tế quan tâm đến phát triển LNCĐ. Nhưng về cơ bản LNCĐ chưa được thể chế hóa rõ ràng. Luật đất đai (sửa đổi) năm 1993, Nghị định 02/CP năm 1994 và Nghị định 163/CP năm 1999 về giao đất lâm nghiệp đều không quy định rõ ràng cho đối tượng cộng đồng. Luật Dân sự năm 1995 không quy định cộng đồng dân cư là một chủ thể kinh tế có tư cách pháp nhân. Trong giai đoạn này nhiều địa phương đã vận dụng một số văn bản của Nhà nước và của ngành cho phát triển LNCĐ như Nghị định 01/CP năm 1995 về giáo khoán đất lâm nghiệp, Nghị định số 29/CP năm 1998 về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Quyết định 245/1998/QĐ-TTg về việc thực hiện
- 17 trách nhiệm của nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp, Thông tư 56/TT năm 1999 của Bộ NN&PTNT về hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ phát triển rừng trong cộng đồng, Quyết định 08/2001/QĐ-TTg năm 2001 về quy chế quản lý 3 loại rừng, Quyết định 178/2001/QĐ-TTg năm 2001 về quyền hưởng lợi và nghĩa vụ khi tham gia quản lý rừng. - Từ 2003 đến nay: hình thành khung pháp lý cơ bản cho LNCĐ Theo Luật Đất đai mới năm 2003, cộng đồng dân cư thôn được Nhà nước giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp với tư cách là người sử dụng đất. Luật BV&PTR mới năm 2004 có một mục riêng quy định về giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn; quyền và nghĩa vụ của cộng đồng dân cư thôn được giao rừng. Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ về thi hành Luật đất đai (Nghị định 181) quy định cộng đồng dân cư thôn được giao đất rừng phòng hộ với các quyền chung như hộ gia đình và cá nhân được giao đất lâm nghiệp nhưng cộng đồng dân cư thôn không được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho quyền sử dụng đất; không được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử đụng đất. Luật Dân sự năm 2005 thừa nhận khái niệm sở hữu chung của cộng đồng. Theo đó, cộng đồng dân cư thôn có quyền sở hữu đối với tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên trong cộng đồng đóng góp và cùng quản lý, sử dụng theo thoả thuận vì lợi ích của cộng đồng. - Các Quyết định, Nghị định và thông tư của Bộ NN&PTNT: + Quyết định số 106/2006/QĐ-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc ban hành bản hướng dẫn quản lý rừng cộng đồng dân cư thôn. Trong đó có hướng dẫn cụ thể về các căn cứ, điều kiện và trình tự thủ tục giao rừng cho cộng đồng (chương II), quyền lợi và nghĩa vụ của cộng đồng được Nhà nước giao rừng (chương V), việc lập kế hoạch quản lý rừng cộng đồng, xây dựng quy ước bảo
- 18 vệ và phát triển rừng cộng đồng, xây dựng quỹ bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng, tổ chức quản lý và giám sát đánh giá việc thực hiện (Chương III,IV,VI,VII). + Thông tư số 38/2007/TT – BNN ngày 24/5/2007 của Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng dẫn trình tự, thủ tục giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư thôn. Cụ thể là ở mục II phần 5 có hướng dẫn trình tự, thủ tục giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn. Cộng đồng dân cư thôn tiến hành họp thôn để thông qua và thống nhất đơn đề nghị Nhà nước giao rừng cho cộng đồng, thông qua kế hoạch quản lý khu rừng sau khi được Nhà nước giao rừng. Cộng đồng dân cư thôn nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân xã, Ủy ban nhân dân xã sau khi nhận được hồ sơ của cộng đồng dân cư thôn có trách nhiệm thẩm tra điều kiện giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn, kiểm tra thực địa khu rừng dự kiện giao, xác nhận đơn của cộng đồng dân cư thôn và chuyển lên cơ quan chức năng cấp huyện. Cơ quan cấp huyện sau khi nhận được hồ sơ từ xã chuyển lên có trách nhiệm xác định đặc điểm khu rừng, lập tờ trình trình Ủy ban nhân dân huyện về việc giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn. Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét và quyết định giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn. Ủy ban nhân dân cấp xã và cộng đồng dân cư thôn có trách nhiệm thực hiện quyết định giao rừng. + Công văn số 2324/BNN-LN ngày 21/8/2007 của Cục Lâm nghiệp về hướng dẫn các chỉ tiêu kỹ thuật và thủ tục khai thác rừng cộng đồng. + Công văn số 787/CV- LNCĐ ngày 23 tháng 6 năm 2008 của Cục Lâm nghiệp về thí điểm áp dụng phân bố số cây theo cỡ kính mong muốn để lập và tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý rừng cộng đồng. Trong đó phụ lục 05 nêu rõ mô hình rừng mong muốn nhóm trạng thái rừng III. + Quyết định số 434/QĐ –QLR ngày 11/4/2007 của Cục trưởng Cục Lâm nghiệp ban hành bản hướng dẫn xây dựng quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã và Hướng dẫn giao rừng gắn với giao đất lâm nghiệp cho cộng đồng dân cư thôn. Trong đó nêu rõ nguyên tắc giao rừng cho cộng đồng; căn cứ vào điều kiện giao
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 300 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 321 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn