intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu các tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến – huyện Kim Bôi - tỉnh Hòa Bình

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:113

28
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này góp phần xây dựng các luận cứ khoa học giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn ĐDSH và sinh kế của người dân sống trong và cạnh VQG, KBTTN ở Việt Nam nói chung và ở KBTTN Thượng Tiến nói riêng. Đồng thời, nghiên cứu cũng góp phần cung cấp cơ sở thực tiễn quan trọng cho công tác quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên rừng trên cơ sở cộng đồng địa phương. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu các tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến – huyện Kim Bôi - tỉnh Hòa Bình

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ---------------------------------- ĐỖ THỊ HƯỜNG NGHIÊN CỨU CÁC TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI DÂN ĐỊA PHƯƠNG ĐẾN TÀI NGUYÊN RỪNG TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN THƯỢNG TIẾN – HUYỆN KIM BÔI -TỈNH HÒA BÌNH LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội 2010
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ “Tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học đóng vai trò quan trọng trong sự tiến hóa, duy trì hệ thống tự nhiên và phát triển kinh tế xã hội. Đa dạng sinh học ở nhiều quốc gia trên thế giới đang bị suy giảm nghiêm trọng bởi các hoạt động của con người. Các khu bảo tồn thiên nhiên( KBTTN) đóng vai trò chủ chốt trong bảo tồn đa dạng sinh học và đáp ứng các mục tiêu đa dạng của cộng đồng” [24]. Trong vài thập kỷ qua, để đối phó với các nguy cơ suy giảm đa dạng sinh học ngày càng tăng, hệ thống các vườn quốc gia( VQG) và khu bảo tồn( KBT) đã dần được hình thành. Hiện nay trên thế giới có hơn 100.000 KBTTN chiếm 11,7% diện tích đất liền toàn thế giới. VQG chiếm số lượng và diện tích lớn nhất, tiếp đến là các KBT loài và sinh cảnh [24]. Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện một hệ thống quản lý phù hợp trên thực tế nhằm hiện thực hóa các lợi ích tiềm năng mà KBTTN có thể đem lại vẫn còn là thách thức lớn tại rất nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Những mối đe dọa chính tới KBTTN thường xuất phát từ mâu thuẫn giữa mục tiêu bảo tồn và sinh kế của người dân sống trong và bên ngoài ranh giới KBTTN. Khi những mâu thuẫn này chưa được xác định và giải quyết, thì những vấn đề cơ bản của bảo tồn khó có thể giải quyết được. Thực tế cho thấy, việc thành lập các KBTTN đã làm mất đi nguồn sống của phần lớn các cộng đồng dân cư sống trong và gần các KBT và hậu quả là lâu nay vẫn tồn tại tình trạng người dân khai thác trái phép các tài nguyên thiên nhiên [59]. Đa số người dân sống trong và gần các VQG, KBT là người nghèo, dân trí thấp, họ cho rằng việc thành lập các KBT, VQG không đem lại lợi ích gì cho họ, mà chỉ bị thiệt thòi vì không được tự do khai thác một phần tài nguyên thiên nhiên như trước nữa [37]. Thêm vào đó, các nguồn thu nhập của người dân ngày càng bị hạn chế do diện tích canh tác bị thu hẹp, giảm các nguồn thu từ rừng… mà họ chưa có bất cứ nguồn sinh kế nào thay thế. Điều đó dẫn đến tác động của người dân tới các tài nguyên rừng ở các VQG, KBT là điều không thể tránh khỏi. KBTTN Thượng Tiến được thành lập theo quyết định số 1242/QĐ-UB ngày 09 tháng 10 năm 2000 của UBND Tỉnh Hoà Bình. Đây là một trong những KBTTN
  3. 2 đa lợi ích lớn nhất của tỉnh Hoà Bình tính đến thời điểm hiện nay. KBTTN Thượng Tiến nằm trong khu vực có địa hình gồm nhiều dãy núi lớn, nhỏ, hình vòng cung tạo nên một lưu vực tương đối khép kín; đây là vùng thượng nguồn cung cấp nước cho vùng hạ lưu thuộc hai huyện Kim Bôi và huyện Lạc Thuỷ tỉnh Hoà Bình. Giá trị sinh thái và kinh tế của KBTTN Thượng Tiến đã được khẳng định. Tuy nhiên, hiện nay người dân sinh sống ở vùng đệm KBT thậm chí ngay trong vùng lõi đã và đang từng ngày, từng giờ tác động tới tài nguyên rừng của khu bảo tồn dưới các hình thức và mức độ tác động khác nhau. Một câu hỏi lớn đặt ra cho các KBT nói chung và KBTTN Thượng Tiến nói riêng là: Làm thế nào để hài hòa được mục tiêu bảo tồn với nhu cầu cuộc sống của người dân sống trong và cạnh các KBT? Để góp phần giải đáp cho câu hỏi trên luận văn tiến hành: “Nghiên cứu các tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến – huyện Kim Bôi – tỉnh Hòa Bình”.
  4. 3 Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Ở nước ngoài 1.1.1. Hiện trạng quản lý các VQG và khu bảo tồn thiên nhiên và những mẫu thuẫn phát sinh Theo định nghĩa của IUCN đã khẳng định bảo tồn đa dạng sinh học là mục tiêu cơ bản của KBTTN: “Khu bảo tồn thiên nhiên là một khu vực trên đất liền hoặc trên biển được khoanh vùng để bảo vệ đa dạng sinh học, các tài nguyên thiên nhiên và văn hoá đi kèm, được quản lý bằng các công cụ pháp luật hoặc các hình thức quản lý có hiệu quả khác” (IUCN 1994 )[24]. Công ước ĐDSH (1992) xác định các KBTTN là công cụ hữu hiệu và có vai trò quan trọng trong bảo tồn đa dạng sinh học “tại chỗ”. Tại điều 8 “Bảo tồn tại chỗ” của Công ước có các mục qui đinh rõ các nước tham gia công ước ĐDSH có trách nhiệm thành lập hệ thống KBTTN, xây dựng các hướng dẫn lựa chọn, thành lập và quản lý các KBTTN, và quản lý các tài nguyên sinh học bên trong các K BTTN để bảo tồn và sử dụng bền vững [16]. Nguồn gốc của KBTTN “hiện đại” có từ thế kỷ thứ 19. VQG Yellowstone là VQG đầu tiên trên thế giới, được thành lập tại Mỹ năm 1872. VQG này nằm trên vùng đất do người Crow và người Shoshone sinh sống trên cơ sở sử dụng bạo lực ép buộc hai cộng đồng tộc người này phải rời bỏ mảnh đất của họ. Nhiều KBT TN và VQG được thành lập sau đó ở các nước khác nhau trên thế giới cũng sử dụng phương thức quản lý theo mô hình này, có nghĩa là ngăn cấm người dân địa phương thâm nhập vào KBTTN và VQG và tiếp cận tài nguyên trong đó. Điều đó dẫn đến những hiệu quả tất yếu là làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa CĐĐP và KBT và mục đích bảo tồn tài nguyên đã không đạt được [24]. Phần lớn các KBT đều được thiết lập vì mục đích Quốc gia, mà ít nghĩ đến các nhu cầu và mong muốn của người dân địa phương. Dựa trên mô hình của Hoa Kỳ, phương thức quản lý của nhiều VQG và KBT chủ yếu bao gồm việc ngăn cấm người dân địa phương xâm nhập vào KBT và khai thác TNR. Phương thức này gọi là biện pháp "Rào và phạt". Tại các nước Đông Nam Châu Á phương thức này tỏ ra
  5. 4 không thích hợp vì để duy trì sự đa dạng sinh học thì người dân địa phương bị mất quyền tiếp cận với nguồn TNR, trong khi sự phụ thuộc của họ vào TNR là rất lớn [46]. Các mô hình ở Đông Nam Châu Á đã chỉ ra rằng: Nỗ lực của các cơ quan Chính phủ nhằm đưa dân chúng ra khỏi các KBT đã không mang lại kết quả như mong muốn trên cả phương diện quản lý TNR và kinh tế xã hội (KT-XH). Việc đưa người dân vốn quen sống trên địa bàn của họ đến một nơi mới chẳng khác nào "bắt cá khỏi nước" và khi đó lực lượng khác có thể xâm lấn và khai thác TNR mà không có người bảo vệ. Người dân địa phương có nhiều kiến thức cổ truyền về việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các thể chế cộng đồng đã tỏ ra có hiệu quả trong việc quản lý các nguồn tài nguyên này[46]. Trước những bất cập trong công tác bảo tồn ở các VQG, KBT trên thế giới, từ những năm đầu của thập kỷ 80 nhiều dự án nghiên cứu, hội thảo quốc tế với sự đóng góp của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu về bảo tồn đã đề xuất những thay đổi trong chiến lược bảo tồn. Một chiến lược bảo tồn mới dần được hình thành và khẳng định tính ưu việt, đó là liên kết quản lý KBTTN và VQG với các hoạt động sinh kế của người dân địa phương, cần thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở tôn trọng nền văn hoá trong quá trình xây dựng các quyết định. Nhiều kết quả nghiên cứu trên thế giới và kinh nghiệm thực tiễn của các KBT và VQG khẳng định rằng để quản lý thành công cần dựa trên mô hình quản lý gắn bảo tồn đa dạng sinh học với bảo tồn văn hoá của người dân địa phương. Ở VQG Kakadu (Australia), những người thổ dân chẳng những được chung sống với VQG một cách hợp pháp mà họ còn được thừa nhận là chủ hợp pháp của VQG và được tham gia quản lý VQG thông qua các đại diện của họ trong ban quản lý. Tại VQG Wasur (Indonesia) vẫn tồn tại 13 làng bản với cuộc sống gắn với săn bắn cổ truyền [40]. 1.1.2. Những nghiên cứu về mối quan hệ giữa cộng đồng người dân vào tài nguyên rừng trong các VQG, KBTTN. Bink Man W. (1988) trong nghiên cứu của mình thực hiện tại làng Ban Pong, tỉnh S. Risaket, Thái Lan chỉ ra rằng các tầng lớp nghèo phải phụ thuộc vào rừng để
  6. 5 chăn thả gia súc và thu hái tài nguyên lâm sản như: củi đun và hoa quả trong rừng. Tuy nhiên đây là một minh hoạ rất cần thiết của người dân địa phương tham gia vào việc lập kế hoạch và thiết kế các dự án phát triển (FAO, 1996) [43]. Năm 1986, trong tác phẩm “Lâm nghiệp xã hội và hành động của cộng đồng” các tác giả Dorji, D.C. Chavada, B. Thinley và Wangchuks cho rằng: Rừng chủ yếu là nguồn cung cấp gỗ xây dựng và làm hàng rào, cung cấp củi, nơi chăn thả và chuồng trại cho gia súc. Chúng cũng cung cấp một phần lớn những yêu cầu về thức ăn gia súc, lợi tức, công ăn việc làm và đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đất và nước trên vùng đất dốc (FAO, 1996) [60]. Ở Nepal, đã có một số mô hình thành công về chương trình bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH) theo hướng toàn cầu. Tuy nhiên, do sự ảnh hưởng của cuộc xung đột vũ trang trong gần một thập kỷ đã tác động xấu đến các hoạt động bảo tồn và động vật hoang dã. Chính vì vậy, một số nghiên cứu về đánh giá tác động của những hoạt động này đến bảo tồn đa dạng sinh học tại VQG Bardia và vùng đệm phía tây Nepal đã được thực hiện. Nghiên cứu đã khẳng định, 73% người dân địa phương sống trong khu vực phụ thuộc vào nông nghiệp, nguồn chất đốt và thức ăn [74]. Ở Ấn Độ, diện tích đất lâm nghiệp đứng thứ hai sau diện tích đất nông nghiệp, và là nơi ước tính có 275 triệu người dân địa phương ở các vùng nông thôn phụ thuộc vào rừng (ít nhất là một phần sinh kế của họ). Một nghiên cứu về lâm nghiệp cộng đồng bên ngoài khu rừng đặc dụng đã chỉ ra rằng các khu rừng không chỉ cung cấp tiềm năng to lớn để xoá đói giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế nông thôn ở Ấn Độ mà vẫn hỗ trợ tốt mục tiêu quan trọng là bảo tồn [84]. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển đã trở thành vấn đề nổi lên trong các cuộc hội thảo, diễn đàn khoa học trong những năm gần đây. Vào tháng 6 năm 1992, tại Hội nghị Liên hiệp quốc về Môi trường và Phát triển bền vững ở Rio De Janeiro, vấn đề này đã chính thức được công nhận [60, tr 6]. 1.1.3. Vai trò của người dân trong việc thực hiện các chiến lược bảo tồn Theo Gadgil và VP. Vartok năm 1976 trong tác phẩm: “Những lùm cây thiêng miền Tây dãy Ghats ở Ấn Độ” cho rằng: Người dân địa phương ở Ấn Độ đã
  7. 6 bảo vệ được các đám rừng từ dưới 0,5 ha đến 10 ha dưới dạng lùm cây thiêng để thờ các vị thần của lùm cây. Việc thờ cúng tại những lùm cây thiêng đó được hình thành từ các xã hội chuyên về săn bắn và hái lượm. Việc lấy ra bất cứ sản phẩm nào đều bị cấm kỵ. Với nạn phá rừng ngày càng tăng, những lùm cây đó đã trở thành những di sản còn lại của rừng tự nhiên và do đó đã trở nên quan trọng trong việc thu lượm một số sản phẩm như: Cây thuốc, lá rụng, gỗ khô…Việc khai thác gỗ đã bị cấm nhưng đôi khi vẫn xảy ra tình trạng khai thác gỗ trộm (FAO, 1996) [43]. Ở Philippines, chiến lược Quốc gia về bảo tồn ĐDSH nêu rõ rằng: "Điều chủ chốt dẫn đến thắng lợi cho bảo tồn ĐDSH là phải bảo đảm rằng các cộng đồng địa phương, những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi mọi quyết định về chính sách liên quan đến môi trường, sẽ tham gia vào quá trình lập kế hoạch và quản lý đối với bảo tồn ĐDSH" (Denr và TCSD, 1994) [46]. Ở Indonesia, kế hoạch hành động ĐDSH ghi nhận rằng "Việc tăng cường sự tham gia của công chúng, đặc biệt là cộng đồng sinh sống bên trong và phụ thuộc vào các vùng có tính đa dạng sinh học cao, là mục tiêu chính của kế hoạch hành động và là điều kiện tiên quyết đối với việc thực hiện kế hoạch (Bappenas, 1993) (dẫn theo Lê Sỹ Trung, 2005) [46]. Ở Thái Lan, một thử nghiệm của Dự án “Quản lý rừng bền vững thông qua sự cộng tác” thực hiện tại Khu bảo tồn động vật hoang dã Phu Kheio, tỉnh Chaiyaphum ở Đông Bắc Thái Lan. Kết quả chỉ ra rằng, điều căn bản để quản lý bền vững tài nguyên là phải thu hút sự tham gia của các bên liên quan và đặc biệt là phải bao gồm cả phát triển cộng đồng địa phương bằng các hoạt động làm tăng thu nhập của họ [60]. Cũng ở Thái Lan, hệ thống quản lý khu bảo vệ trước đây đã nhấn mạnh các quyền sở hữu và kiểm soát rừng của Nhà nước mà không chú ý tới ảnh hưởng giữa con người và các nguồn tài nguyên, đã dẫn tới những thất bại vì tỉ lệ phá rừng hàng năm vẫn ở mức cao 2,6%. Một nghiên cứu tại vùng đệm của KBT động vật hoang dã Phu Kheio, Đông Bắc Thái Lan đã giới thiệu một cách tiếp cận mới để quản lý chúng trên cơ sở thu hút sự tham gia của người dân địa phương trong tiến trình. Kết
  8. 7 quả thảo luận ở đây cũng đã khẳng định rằng, có một cơ hội để tạo ra một sự hiểu biết tốt hơn giữa người dân nông thôn về tầm quan trọng của trồng rừng và bảo tồn thiên nhiên sẽ dẫn đến một cách quản lý tốt hơn các nguồn tài nguyên trong tương lai [73]. Về chính sách lâm nghiệp, Sheppherd G(1986) cho rằng đối với cộng đồng dân cư sống trong và gần các KBTTN, một giải pháp đề nghị là cho phép người dân địa phương củng cố quyền lợi của họ theo cách hiểu của các hệ quản lý nông nghiệp hiện đại, bằng cách trồng cây, cho và nhận đất, nhà nước cần xác định rõ các quyền lợi chính trị của dân trên mảnh đất mà họ nhận với mục đích tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập và giảm tác động đến tài nguyên rừng [42]. Theo Poffenberger, M. và McGean, B( 1993) trong báo cáo: “Liên minh cộng đồng: đồng quản lý rừng ở Thái Lan” đã có nghiên cứu điểm tại VQG Dang Yai nằm ở đông bắc và khu phòng hộ Nam Sa ở phía bắc Thái Lan. Tại Dang Yai người dân đã chứng minh được khả năng của họ trong việc tự tổ chức các hoạt động bảo tồn đồng thời phối hợp với cục lâm nghiệp Hoàng gia xây dựng hệ thống quản lý rừng đảm bảo ổn định về môi trường sinh thái đồng thời phục vụ lợi ích của người dân trong khu vực. Tại Nam Sa cộng đồng người dân cũng rất thành công trong công tác quản lý rừng phòng hộ. Họ khẳng định nếu chính phủ có chính sách khuyến khích và chuyển giao quyền lực cho họ thì chắc chắn họ sẽ thành công trong việc kiểm soát tài nguyên rừng [42]. Dilmour D.A. (1999) lại cho rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tính kém hiệu quả của các chương trình, dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên là chưa giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa các cá nhân trong cộng đồng, giữa lợi ích cộng đồng địa phương với lợi ích quốc gia. Do đó chưa phát huy được năng lực nội sinh của các cộng đồng cho quản lý tài nguyên. Vì vậy, quản lý tài nguyên cần phát triển theo hướng kết hợp giữa hoạt động bảo tồn và phát triển tài nguyên với hoạt động sản xuất để cải thiện chất lượng cuộc sống người dân, thống nhất lợi ích của người dân với lợi ích quốc gia trong hoạt động bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng [42].
  9. 8 Theo Nick Salafky và các đồng sự( trong Biodiversity Support Program Washington, DC, USA, 2000) cho rằng vào những năm 90 của thế kỷ trước, các nhà bảo tồn bắt đầu phát triển một cách tiếp cận mới nhằm đáp ứng nhu cầu về lợi ích kinh tế và bảo tồn. Những cách tiếp cận này dựa vào việc thực hiện các hoạt động sinh kế độc lập và có mối liên hệ trực tiếp với bảo tồn. Đặc điểm cơ bản của chiến lược này là mối liên hệ giữa ĐDSH và con người xung quanh. Các chủ thể địa phương có cơ hội hưởng lợi ích trực tiếp từ ĐDSH và như vậy sẽ có thể hạn chế được các tác nhân gây hại từ bên ngoài đối với ĐDSH. Sinh kế sẽ giúp cho bảo tồn ĐDSH chứ không phải cạnh tranh với nhau. Hơn nữa chiến lược này công nhận vai trò của người dân địa phương trong bảo tồn ĐDSH. Cũng trong chiến lược này, các nhà bảo tồn có thể giúp cho người dân địa phương khai thác sử dụng LSNG hoặc phát triển du lịch sinh thái [42]. Tổ chức bảo tồn động thực vật hoang dã quốc tế (WWF) 2001 đã đưa ra một thông điệp chung rất đơn giản: “Hoạt động bảo tồn phải đề cập đến vấn đề xóa đói giảm nghèo như là một phần quan trọng của chính sách bảo tồn tài nguyên rừng [42]” Theo nguyên tắc 22 trong công bố của liên hợp quốc về môi trường và phát triển họp tại Rio De Janeiro từ 3/6 đến 14/6/1992 cho biết: “ Nhân dân bản xứ và những cộng đồng của họ và các cộng đồng khác ở địa phương có vai trò quan trọng trong quản lý và phát triển môi trường vì sự hiểu biết và tập tục truyền thống của họ. Các quốc gia nên công nhận và ủng hộ thích đáng bản sắc văn hoá và những mối quan tâm của họ, khiến họ tham gia có hiệu quả vào việc thực hiện một sự phát triển lâu bền” 1.2. Ở trong nước 1.2.1. Các chính sách liên quan tới công tác bảo tồn và quyền lợi của người dân khi tham gia vào hoạt động bảo tồn các VQG, KBTTN Trải qua hơn bốn thập kỷ hình thành và phát triển, đến nay hệ thống KBTTN của Việt Nam gồm 164 khu rừng đặc dụng (bao gồm 30 Vườn Quốc gia, 69 khu dự trữ thiên nhiên, 45 khu Bảo vệ cảnh quan, 20 khu nghiên cứu thực nghiệm khoa học) và 03 khu bảo tồn biển chứa đựng các hệ sinh thái, cảnh quan đặc trưng với giá
  10. 9 trị đa dạng sinh học tiêu biểu cho hệ sinh thái trên cạn, đất ngập nước và trên biển đã và đang được xây dựng trên khắp các vùng, miền cả nước [24]. Cùng với sự ra đời của hàng loạt các VQG và KBTTN rải đều từ VQG Hoàng Liên Sơn hùng vĩ ở vùng núi phía Bắc cho đến VQG ngập nước U Minh Thượng thì hệ thống các thể chế, chính sách về công tác bảo tồn cũng được thiết lập. Trước tiên là Luật BV và PTR ban hành ngày 12/08/1991 và được sửa đổi ngày 03/12/2004. Theo đó, rừng đặc dụng bao gồm: + Vườn quốc gia + Khu bảo tồn thiên nhiên gồm: Khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài, sinh cảnh + Khu bảo vệ cảnh quan gồm: Khu rừng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh + Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ban hành ngày 11/01/2001 đã đề cập đến việc Ban quản lý các khu bảo vệ được xây dựng các quy định về phạm vi sử dụng rừng đối với người dân địa phương sinh sống trong các KBT. Gần đây nhất, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/08/2006 về việc ban hành Quy chế quản lý rừng, thay thế quyết định số 08/2001/QĐ-TTg. Theo điều 14 chương II của quy chế quản lý rừng cho biết: Trong VQG và KBTTN được chia thành các phân khu chức năng sau đây: a) Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: - Là khu vực có diện tích vừa đủ để bảo vệ nguyên vẹn hệ sinh thái tự nhiên như mẫu chuẩn sinh thái quốc gia, được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để theo dõi diễn biến tự nhiên của rừng và hệ sinh thái. - Đối với rừng đặc dụng ở vùng đất ngập nước, phạm vi và quy mô của phân khu bảo vệ nghiêm ngặt được xác định theo mục tiêu, đối tượng, tiêu chí bảo tồn và điều kiện thuỷ văn. b) Phân khu phục hồi sinh thái Là khu vực được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để khôi phục các hệ sinh thái rừng thông qua việc thực hiện một số hoạt động lâm sinh cần thiết.
  11. 10 c) Phân khu dịch vụ - hành chính Là khu vực để xây dựng các công trình làm việc và sinh hoạt của ban quản lý, các cơ sở nghiên cứu - thí nghiệm, dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí. Cũng theo điều 24 của quy chế này đã ghi rõ: Vùng đệm là vùng rừng, vùng đất hoặc vùng đất có mặt nước nằm liền kề với VQG và KBTTN; bao gồm toàn bộ hoặc một phần các xã, phường, thị trấn nằm sát ranh giới với VQG và KBTTN. Vùng đệm được xác lập nhằm ngăn chặn, giảm nhẹ sự xâm hại của con người tới VQG và KBTTN. Ban quản lý khu rừng đặc dụng tổ chức cho cộng đồng dân cư vùng đệm tham gia các hoạt động bảo vệ, bảo tồn, sử dụng hợp lý lâm sản và các tài nguyên tự nhiên, các dịch vụ du lịch sinh thái để góp phần nâng cao thu nhập và gắn sinh kế của người dân với các hoạt động của khu rừng đặc dụng. Theo điều 23 trong quy chế quản lý rừng đã nêu rõ : 1. Việc ổn định đời sống dân cư sống trong các khu rừng đặc dụng thực hiện theo quy định tại Điều 54 của Luật Bảo vệ và phát triển rừng. 2. Diện tích rừng sản xuất nằm xen kẽ trong rừng đặc dụng được bảo vệ, phát triển và sử dụng theo quy định tại Chương IV Quy chế này. 3. Diện tích đất ở, ruộng, vườn và nương rẫy cố định của dân cư sống trong rừng đặc dụng không tính vào diện tích rừng đặc dụng nhưng phải được thể hiện trên bản đồ, cắm mốc ranh giới rõ ràng trên thực địa và quản lý theo quy định của pháp luật về đất đai. Trong quyết định số 192/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ phê duyệt chiến lược quản lý hệ thống KBTTN Việt Nam đến năm 2010 đã chỉ rõ : - Kế hoạch quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động bảo tồn thiên nhiên phải tham khảo đầy đủ nguyện vọng về kinh tế và thu hút sự tham gia của các cộng đồng dân cư sống xung quanh KBTTN. - Làm rõ mối quan hệ giữa vùng đệm và khu bảo tồn thiên nhiên bằng các giải pháp xây dựng Qui chế hoạt động và nguyên tắc phối hợp giữa vùng đệm với khu bảo tồn thiên nhiên. Qui định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia quản lý
  12. 11 vùng đệm, đặc biệt đối với cộng đồng các dân tộc trên mỗi địa phương có khu bảo tồn thiên nhiên. Tiếp theo là chỉ thị số 08/2006/CT- TTg ngày 08/3/2003 về tăng cường các biện pháp cấp bách ngăn chặn tình trạng chặt phá, đốt rừng, khai thác rừng trái phép. Nghị định số 109/2003/ NĐ- CP ngày 23/9/2003 về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước. Quyết định số 62/2005/QĐ- BNN ngày 12/10/2005 quy định tiêu chí phân loại rừng đặc dụng. Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2001 – 2010. Như vậy, Việt Nam đã và đang trong quá trình đổi mới công tác quản lý rừng dưới sự đồng thuận của các hộ gia đình( HGĐ) và các tổ chức địa phương (Barney 2005). Chính phủ ngày càng trao cho người dân địa phương nhiều quyền hơn trong công tác quản lý rừng. Tuy nhiên trong môi trường biến động hiện nay, việc nhận thức về quyền của người dân địa phương vẫn còn hạn chế, các cơ quan nhà nước còn ít quan tâm đến kiến thức và quan điểm của địa phương trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như việc phân cấp quản lý. Thách thức được đặt ra là làm thế nào để các bên tham gia hiểu rõ hơn về quan điểm của các cộng đồng dân cư sống trong hoặc gần khu bảo tồn. Bên cạnh đó, việc xác định rõ năng lực của địa phương trong công tác quản lý rừng đặc biệt là quản lý các khu rừng đặc dụng nhằm đảm bảo việc ra quyết định đạt hiệu quả cao là hết sức cần thiết. 1.2.2. Các thành quả nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn Theo Donovan D., Rambo A.T, Fox J., Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên (1997), đã đề cập đến các sản phẩm từ rừng và sức ép của người dân địa phương vào rừng. Tác giả đã chỉ ra rằng: Diện tích rừng già ở miền núi phía Bắc Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng do việc khai thác gỗ, củi và các lâm sản khác như: tre nứa, nấm, cây dược liệu, động vật hoang dã và được xem như là nguồn sinh kế chủ yếu của người dân miền núi [20, tr 1-2].
  13. 12 Đánh giá hiệu quả của công tác bảo vệ các KBT ở Việt Nam, Nguyễn Bá Thụ (1997) đã nhận định: Công tác này phụ thuộc rất nhiều vào việc giải quyết những vấn đề tồn tại trên vùng đệm gồm nâng cao đời sống của nhân dân vùng đệm, chuyển đổi hoặc thay thế tập quán dùng củi, gỗ bừa bãi lãng phí của người dân sống trên vùng đệm; nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác nông lâm nghiệp, đẩy mạnh thâm canh, nâng cao năng suất cây trồng, nhanh chóng từ bỏ lối canh tác du canh, quảng canh, nâng cao trình độ hiểu biết về bảo tồn, sử dụng hợp lý và bền vững tài nguyên cho người dân địa phương [42]. D.A. Gilmour và Nguyễn Văn Sản (1999), đã thực hiện một nghiên cứu về quản lý vùng đệm tại 3 VQG: Ba Vì, Bạch Mã và Cát Tiên. Kết quả nghiên cứu đã phản ánh khá rõ nét thực trạng vùng đệm ở Việt nam như: Tình hình KT-XH, tình trạng bảo tồn tại các VQG và vùng đệm; hoạt động phát triển trong các vùng đệm; tổ chức, thể chế cho quản lý vùng đệm [19]. Việc xây dựng vùng đệm Kỳ Thượng ở KBTTN Kẻ Gỗ được Võ Quý và Đồng Nguyên Thụy nghiên cứu trong đề tài KT02 – 08 – 1992. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng để có thể bảo vệ được rừng thì điều cần thiết phải cộng tác với nhân dân địa phương, động viên họ bảo vệ rừng và nâng cao chất lượng cuộc sống của họ bằng cách giúp họ nâng cao năng suất lúa với giống mới phù hợp với địa phương, thực hiện nông lâm kết hợp, tổ chức trồng cây ăn quả, nuôi ong, xây dựng thủy điện nhỏ cho gia đình…Huấn luyện nhân dân cách xây dựng và quản lý vùng đệm, sử dụng bền vững tài nguyên rừng (TNR), giảm bớt sức ép lên rừng [36]. Báo cáo tại hội thảo quốc gia năm 1999 với chủ đề: Để cuộc sống và môi trường của người dân miền núi được bền vững, tác giả Võ Quý cho rằng để duy trì cuộc sống, nhiều người sinh sống trong các KBT buộc phải khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở đây mà đáng ra họ phải góp phần bảo vệ. Vì vậy, để giải quyết mâu thuẫn nói trên phải chú ý đến vấn đề KT-XH phức tạp mà chủ yếu là tìm cách hữu hiệu để cải thiện mức sống của người dân, nhất là những người dân nghèo, đồng thời phải nâng cao nhận thức của họ về bảo vệ thiên nhiên và môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, kể cả đất và rừng mà họ có trách nhiệm bảo vệ
  14. 13 và họ được quyền quyết định cách sử dụng tốt nhất cho cuộc sống của họ và cho cả cộng đồng. Về quan hệ đồng tác trên cơ sở cộng đồng trong vùng đệm các KBTTN, Lê Quý An (2001) đã khẳng định quản lý và phát triển vùng đệm trên cơ sở cộng đồng là phát huy lợi thế của cộng đồng, hạn chế tác động tiêu cực trong các hoạt động bảo tồn. Cộng đồng còn có thể phát huy những mặt hay của phong tục, tập quán trong mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng, trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên để xây dựng nề nếp của cuộc sống lành mạnh về mặt môi trường, góp sức cho việc bảo tồn [1]. Nguyễn Thị Phương (2003) khi “Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương vùng đệm đến tài nguyên rừng VQG Ba Vì- Hà Tây” đã vận dụng phần mềm SPSS trong việc tổng hợp và xử lý số liệu về hình thức tác động và các nguyên nhân tác động và chỉ ra rằng: Cộng đồng ở đây sống chủ yếu bằng nghề nông nhưng diện tích đất nông nghiệp rất ít và năng suất lúa thấp. Vì vậy, để giải quyết nhu cầu cuộc sống hàng ngày họ tác động tới tài nguyên rừng dưới nhiều hình thức như: sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hoá, khai thác sản phẩm với mục đích tiêu dùng, chăn thả gia súc….trong đó hình thức sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hoá cho tỷ trọng thu nhập cao nhất trong cơ cấu thu nhập của cộng đồng (36,4%). Tuy nhiên, đề tài chưa đánh giá được mức độ tác động tới tài nguyên rừng của các dân tộc, các nhóm hộ khác nhau [32]. Hoàng Quốc Xạ (2005) đã có sự kết hợp tốt giữa phân tích định tính và định lượng trong việc xác định các hình thức tác động và nguyên nhân tác động khi nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương đến TNR tại vùng đệm VQG Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ. Các giải pháp được tác giả đưa ra tuy bao hàm nhiều lĩnh vực song chưa dựa trên các yếu tố đã được phân tích cụ thể tại khu vực nghiên cứu và chưa thể hiện được tính khả thi của các giải pháp đưa ra [73]. Ngô Ngọc Tuyên (2007) đã lượng hoá tốt và thể hiện sinh động ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất đển tổng thu nhập của hộ gia đình cũng như mối quan hệ giữa tổng thu nhập với các nhân tố trong khai thác TNR thông qua việc thực hiện
  15. 14 nghiên cứu tác động của người dân địa phương đến TNR tại KBTTN Na Hang, Tuyên Quang. Tác giả đã lựa chọn 4 dân tộc chính trong khu vực, mỗi dân tộc 30 HGĐ để phỏng vấn, nhưng chưa chỉ ra cho người đọc cách thức và nguyên tắc chọn mẫu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, để giải quyết nhu cầu cuộc sống hàng ngày người dân đã tác động tới TNR dưới nhiều hình thức song “sử dụng tài nguyên rừng” là hình thức có tác động bất lợi nhất, các dân tộc khác nhau thì mức độ tác động cũng khác nhau. Nghiên cứu đã sử dụng hàm Cobb-Douglas để phân tích ảnh hưởng của các yếu tố đến thu nhập của HGĐ, tuy nhiên phân tích mới dừng lại ở 3 yếu tố nguồn lực mà chưa phân tích đến các yếu tố hiệu quả [60]. Năm 2001, Đỗ Anh Tuân thực hiện một nghiên cứu điểm tại KBTTN Pù mát cho đề tài ảnh hưởng của bảo tồn tới sinh kế của các CĐĐP và thái độ của họ về các chính sách bảo tồn. Tác giả chủ yếu đánh giá sự thay đổi sinh kế của người dân địa phương do sự ảnh hưởng của KBT và mức độ chấp nhận của cộng đồng thông qua việc phân tích mối quan hệ giữa cộng đồng và tài nguyên. Nghiên cứu cho rằng hầu hết người dân địa phương vẫn còn sử dụng TNR một cách bất hợp pháp. Tại thời điểm nghiên cứu, trung bình, 34% tổng thu nhập hàng năm của một hộ gia đình trong vùng đệm và 62% tổng thu nhập của một hộ gia đình (HGĐ) trong vùng bảo vệ nghiêm ngặt là từ rừng. Việc thành lập KBTTN (năm 1997) đã làm giảm 30% - 71,4% diện tích đất và khoảng 50% thu nhập từ rừng của người dân địa phương. Mặc dù đã có một vài chương trình hỗ trợ được thực hiện tại KBTTN, nhưng chúng chưa bù lại được những mất mát do thành lập KBTTN [63]. Nguyễn Bá Ngãi và cộng sự ( 2002) dưới sự hỗ trợ của chương trình hỗ trợ lâm nghiệp xã hội, trung tâm đào tạo Lâm nghiệp xã hội đã thực hiện một nghiên cứu về khả năng thu hút các cộng đồng địa phương vào quản lý và sử dụng đất lâm nghiệp tại khu phục hồi sinh thái (PHST). Các tác giả cho rằng hệ thống chính sách hiện nay là đầy đủ để có thể thu hút CĐĐP vào quản lý, sử dụng các khu rừng đặc dụng, không thể loại trừ cộng đồng ra khỏi quyền hưởng lợi từ VQG và đề xuất mô hình quản lý đất đai trong khu PHST của VQG Ba Vì [28].
  16. 15 Khuất Thị Lan Anh (2009) khi: “Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương đến tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ - tỉnh Bắc Kan” đã nghiên cứu các yếu tố kinh tế và xã hội chi phối các hình thức và mức độ tác động bất lợi của người dân địa phương tới tài nguyên rừng. Đề tài đã phần nào lượng hóa được mức độ tác động của người dân tới KBT như: Sử dụng tài nguyên rừng, khai thác các sản phẩm rừng, sử dụng đất rừng để chăn thả gia súc, tác động đến TNR do các nguyên nhân rủi ro, các hoạt động khai thác vàng…Tuy nhiên đề tài chưa đi sâu nghiên cứu các tác động tích cực của người dân. Thêm vào đó, các giải pháp đưa ra còn chung chung, chỉ mang tính chất định hướng, chưa đi sâu vào các giải pháp mang tính khả thi đối với địa phương [3]. Trần Ngọc Thể (2009) khi: “Nghiên cứu tác động của người dân địa phương tới tài nguyên rừng tại VQG Ba Bể - tỉnh Bắc Kan”đã đưa ra 1 hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu tác động của người dân tới các KBT. Ngoài ra đề tài còn lượng hóa được mức độ tác động của người dân tới tài nguyên rừng ở VQG Ba Bể bằng cách phân tích các yếu tố sản xuất ảnh hưởng tới tổng thu nhập của các HGĐ thông qua hàm Cobb Douglas (hàm sản xuất có độ co giãn không đổi). Nghiên cứu đã đưa 7 biến sản xuất (diện tích đất, số lao động chính, phân bón, đầu tư bằng công, khai thác gỗ, chăn thả gia súc, số khẩu), 11 biến hiệu quả (Học vấn chủ hộ, độ cao, loại kinh tế hộ, mức độ gần rừng, dân tộc DT1T, dân tộc DT2T, mức độ thuận tiện giao thông, khả năng tiếp cận thị trường, tỷ lệ LĐC/số khẩu, số lần đốt nương rẫy, sử dụng giống) vào mô hình để phân tích, kết quả cho 4 biến sản xuất và 6 biến hiệu quả tồn tại trong mô hình. Kết quả cho thấy: Tồn tại mối quan hệ rất chặt giữa tổng thu nhập từ rừng với 4 yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất và 6 yếu tố hiệu quả với hệ số xác định R2 =0.93( F=14.601, Sig.F=0.000); và 93% biến động của thu nhập được giải thích bởi các yếu tố này [43]. Đây là 1 nghiên cứu mẫu có ý nghĩa tham khảo rất tốt. Tuy nhiên, đề tài chỉ tập trung phân tích các tác động bất lợi của người dân địa phương tới tài nguyên rừng( TNR) của VQG Ba Bể mà chưa quan tâm tới những tác động tích cực của người dân, trong khi đó sự tham
  17. 16 gia của người dân theo hướng tích cực là phần không thể thiếu đối với công tác bảo tồn ở bất kỳ VQG nào. 1.2.3. Những nghiên cứu tại khu bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến KBTTN Thượng Tiến từ khi thành lập đến nay chưa có một nghiên cứu cụ thể nào về tác động của người dân tới TNR của khu bảo tồn. Một số nghiên cứu mới chỉ đề cập đến giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học có sự tham gia của người dân. Theo Nguyễn Minh Thanh (2004) khi: “ Nghiên cứu một số giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học có người dân tham gia tại xã Thượng Tiến thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến – tỉnh Hòa Bình” đã chỉ ra những tác động chính của người dân tới KBT như: Khai thác gỗ, củi, săn bắt động vật hoang dã, khai thác LSNG, chăn thả gia súc….Đồng thời tác giả cũng đề xuất một số giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học có sự tham gia của người dân [42]. Tuy nhiên đề tài chưa đi sâu phân tích các tác động của người dân theo từng nhóm hộ và chưa định lượng được mức độ tác động tới Khu bảo tồn. Ngoài ra, các tác giả khác đã tiến hành nghiên cứu bảo tồn một số loài động thực vật ở Khu bảo tồn Thượng Tiến như: Nguyễn Thị Bích Ngọc (2005), Nguyễn Văn Giáp (2008), Lưu Quang Vinh (2009)…. 1.3. Những kết luận rút ra phục vụ cho nghiên cứu Như vậy, Mối quan hệ giữa cộng đồng người dân với công tác bảo tồn ở các khu rừng đặc dụng đã và đang được nghiên cứu dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Một số nghiên cứu đã xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn khá đầy đủ cũng như đã lượng hóa được hình thức và mức độ tác động của cộng đồng người dân tới tài nguyên rừng của một số khu rừng đặc dụng. Các nghiên cứu khác lại tập trung vào phân tích mức độ phụ thuộc của người dân vào TNR. Tuy nhiên, cách tiếp cận của các nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở khía cạnh phân tích các tác động bất lợi mà chưa đề cập tới các tác động tích cực từ phía người dân trong công tác bảo tồn. Ngoài ra các nghiên cứu chỉ đưa ra các giải pháp chung chung, mang tính chất định hướng, chưa giải quyết các mâu thuẫn phát sinh từ thực tế.
  18. 17 Hiện nay, số lượng khu rừng đặc dụng của nước ta ngày càng tăng lên( 164 khu rừng đặc dụng – theo thống kê của IUCN)[24], trong khi đó mỗi khu rừng đặc dụng lại có đặc trưng về quy mô, sinh thái, phân bố dân cư, tình hình kinh tế, xã hội, phong tục tập quán….khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa cộng đồng người dân với các khu rừng đặc dụng nhằm đề xuất các giải pháp thu hút người dân tham gia công tác bảo tồn ở mỗi VQG, KBTTN trên phạm vi cả nước là việc cần thiết.
  19. 18 Chương 2: MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu 2.1.1. Mục tiêu tổng quát Nghiên cứu góp phần xây dựng các luận cứ khoa học giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn ĐDSH và sinh kế của người dân sống trong và cạnh VQG, KBTTN ở Việt Nam nói chung và ở KBTTN Thượng Tiến nói riêng. Đồng thời, nghiên cứu cũng góp phần cung cấp cơ sở thực tiễn quan trọng cho công tác quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên rừng trên cơ sở cộng đồng địa phương. 2.1.2. Mục tiêu cụ thể - Xác định được các hình thức và mức độ tác động của người dân vào TNR tại KBTTN Thượng Tiến – huyện Kim Bôi - tỉnh Hoà Bình. - Xác định được các nguyên nhân dẫn tới tác động tích cực và bất lợi của người dân địa phương tới TNR. - Đề xuất các giải pháp phát huy tác động tích cực và giảm thiểu tác động bất lợi nhằm thu hút người dân tham gia quản lý, bảo vệ và sử dụng bền vững TNR tại KBT Thượng Tiến - huyện Kim Bôi - tỉnh Hoà Bình. 2.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những tác động tích cực và bất lợi của cộng đồng người dân sống ở PK bảo vệ nghiêm ngặt, PKPHST và vùng đệm của KBTTN Thượng Tiến - huyện Kim Bôi - tỉnh Hoà Bình. 2.3. Phạm vi nghiên cứu - Luận văn tập trung vào việc xác định các tác động tích cực và bất lợi của cộng đồng người dân vào TNR tại KBTTN Thượng Tiến - huyện Kim Bôi - tỉnh Hoà Bình. - Cộng đồng người dân sống ở bên trong KBT và vùng đệm là đối tượng chính của luận văn.
  20. 19 - Luận văn tập trung phân tích các nguyên nhân nội tại của các cộng đồng sống ở PK bảo vệ nghiêm ngặt, PKPHST và vùng đệm của KBT và các nguyên nhân bên ngoài gây ra các tác động tích cực và bất lợi tới KBT. - Do cộng đồng người dân sống ở trong KBT và vùng đệm của KBTTN Thượng Tiến chủ yếu là dân tộc Mường nên yếu tố dân tộc không ảnh hưởng tới việc phân chia các tác động của người dân tới KBT. - Luận văn tập trung vào các tác động tích cực và bất lợi tới TNR ở KBT của các HGĐ Khá, Trung bình và Nghèo ( kế thừa kết quả phân loại hộ gia đình của địa phương)(xem phụ lục 03). 2.4. Nội dung nghiên cứu - Xác định và phân tích các tác động tích cực và bất lợi của cộng đồng người dân tới TNR ở KBTTN Thượng Tiến – huyện Kim Bôi - tỉnh Hoà Bình. - Phân tích các nguyên nhân dẫn tới các tác động tích cực và bất lợi của người dân địa phương tới TNR. - Đề xuất các giải pháp phát huy các tác động tích cực và giảm thiểu các tác động bất lợi tới TNR và thu hút người dân tham gia quản lý, bảo vệ và sử dụng bền vững TNR. 2.5. Quan điểm và Phương pháp nghiên cứu 2.5.1. Quan điểm và phương pháp luận nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành dựa vào các quan điểm sau đây: Lý luận về lý thuyết hệ thống; Quan điểm sinh thái nhân văn; Quan điểm bảo tồn – phát triển; Tiếp cận có sự tham gia. 2.5.1.1. Lý luận về lý thuyết hệ thống Lý thuyết hệ thống được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong các ngành khoa học giúp cho sự hiểu biết và giải thích các mối quan hệ tương hỗ. Cơ sở lý thuyết hệ thống được L.vonbertanlanfy đề xướng vào đầu thế kỷ XX và nó được sử dụng như một cơ sở để giải quyết các vấn đề phức tạp và tổng hợp.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2