intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý rừng bền vững tại xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:88

14
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận văn là tìm hiểu và đánh giá thực trạng quản lý bảo vệ và sử dụng tài nguyên rừng có sự tham gia tại tại xã Hòa thắng – huyện Bắc Bình – tỉnh Bình Thuận. Xác định các đặc điểm tự nhiên và xã hội thúc đẩy hoặc cản trở các hoạt động liên quan đến tài nguyên rừng tại xã Hòa Thắng – huyện Bắc Bình – tỉnh Bình Thuận. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý rừng bền vững tại xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP HỒ THIỆN ĐANG NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT MỘT SỐ NGUYÊN TẮC VÀ GIẢI PHÁP ĐỒNG QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG TẠI XÃ HÒA THẮNG, HUYỆN BẮC BÌNH, TỈNH BÌNH THUẬN CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC MÃ SỐ: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI VIỆT HẢI Hà nội, 2011
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP HỒ THIỆN ĐANG NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT MỘT SỐ NGUYÊN TẮC VÀ GIẢI PHÁP ĐỒNG QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG TẠI XÃ HÒA THẮNG, HUYỆN BẮC BÌNH, TỈNH BÌNH THUẬN LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội, 2011
  3. 1 Chương 1 GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 1.1. Đặt vấn đề Trải qua các giai đoạn lịch sử tiến hoá dài, nhận thức của con người về rừng ngày càng tốt hơn, rừng cần được quản lý tốt để cung cấp ổn định lâu dài cho con người các lợi ích kinh tế, các lợi ích môi trường và các lợi ích xã hội. Vấn đề mà toàn thế giới và từng quốc gia đều có sự quan tâm đặc biệt là làm thế nào để quản lý rừng cho tốt để đảm bảo bền vững việc cung cấp tối ưu về 3 mặt kinh tế, xã hội và môi trường, trong đó các giá trị môi trường của rừng đối với con người là không thể thay thế được. Một định nghĩa về QLBVR có thể được sử dụng như sau: "QLBVR là quá trình quản lý những lâm phận ổn định nhằm đạt được một hoặc nhiều hơn những mục tiêu quản lý đề ra một cách rõ ràng như đảm bảo sản xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ rừng mong muốn mà không làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất tương lai và không gây ra những tác động không mong muốn đối với môi trường tự nhiên và xã hội" (ITTO, 2002). Sự xuống cấp của tài nguyên thiên nhiên và môi trường đang là một vấn đề toàn cầu. Tác động của chúng ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ lên đời sống của người dân ở các cấp độ khác nhau, từ khu vực cho đến từng cộng đồng và từng nông hộ. Thật vậy, hầu hết người nghèo ở mọi nơi đều có cuộc sống phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên và các tiến trình chức năng của hệ sinh thái. Người dân trong các cộng đồng địa phương vừa là tác nhân, vừa là nạn nhân của sự xuống cấp cơ sở tài nguyên mà họ phụ thuộc, điều này đặc biệt đúng đối với người nghèo trong các cộng đồng đang có sự chuyển đổi từ nền kinh tế tự túc tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa. Chính vì thế, kinh tế hộ và cuộc sống của họ có thể bị ảnh hưởng bởi bất kỳ một biến động nào từ tài nguyên thiên nhiên. Sự phụ thuộc đời sống người dân vào tài nguyên rừng cũng đồng nghĩa với việc quản lý tài nguyên rừng cần phải có sự tham gia của cộng đồng .
  4. 2 Từ trước tới nay, việc xây dựng các khu rừng đặc dụng và rừng phòng hộ cũng như xây dựng kế hoạch quản lý và hoạt động vẫn thường sử dụng cách tiếp cận từ trên xuống, chưa quan tâm đến người dân sống trong và gần các khu rừng này. Điều này đã đặt người dân vào vai trò là người ngoài cuộc trong công tác bảo tồn thiên nhiên. Tiềm năng to lớn của người dân về lực lượng, về những hiểu biết và kinh nghiệm lâu đời trong quản lý, sử dụng tài nguyên chưa được khai thác ứng dụng. Trong khi đó, bảo tồn thiên nhiên thường mâu thuẫn với những lợi ích của người dân vốn sinh sống phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên rừng. Nhiều nơi, thay vì tham gia quản lý bảo vệ tài nguyên, người dân đã đối đầu với lực lượng quản lý bảo vệ rừng của chính quyền. Để giảm các áp lực đối với các khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, chia sẻ gánh nặng đối với chính quyền các cấp trong tình trạng trên thì việc tham gia của người dân trong công tác quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên là rất cần thiết. Sự tham gia của người dân không chỉ dừng lại ở mức thụ động, mà cần phải nâng cao hơn nữa, như được chuyển giao quyền lực, chủ động tham gia, tiến tới đồng quản lý tài nguyên rừng. Từ đó mới đánh giá đúng đắn vai trò của người dân trong công tác bảo tồn tài nguyên thiên nhiên về quản lý, sử dụng và chia sẻ lợi ích. Trên cơ sở đó, người dân mới thực sự tự nguyện tham gia vào công tác bảo tồn, cũng như những hiểu biết và kinh nghiệm của họ mới được ứng dụng ngay trên mảnh đất hàng ngày mà họ đang sinh sống. Xu hướng này cũng rất phù hợp với tinh thần của Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ về ban hành quy chế dân chủ ở cấp xã và chiến lược bảo tồn thiên nhiên đến năm 2010. 1.2. Vấn đề nghiên cứu Từ các bối cảnh lịch sử ra đời của LNXH, việc nghiên cứu về lâm nghiệp có sự tham gia ở từng giai đoạn thời điểm, địa phương, tổ chức lâm nghiệp nhất định, có sự tồn tại khách quan và chủ quan. Do đó, việc nghiên cứu LNXH không thể dừng lại ở tại một thời điểm, một đơn vị địa phương nào mà nó luôn là đề tài mới, mang tính nóng bỏng của các đơn vị hay địa phương có rừng trong mọi thời điểm khác nhau.
  5. 3 Hoà Thắng là xã trung du nằm ven biển của huyện Bắc Bình, với tổng diện tích tự nhiên 23.653,45 ha. Bao gồm 11.216 ha đất lâm nghiệp: Đối tượng rừng phòng hộ 7.743 ha, rừng sản xuất 3.473 ha, đất nông nghiệp và phi nông nghiệp 12.437,45 ha (thổ cư, quốc phòng, cơ quan, trường học,...) nằm trong vùng có chế độ khí hậu mang tính đặc trưng của vùng Duyên Hải Trung bộ. Việc phát triển LNXH tại đây có những thuận lợi sau (BQL Lê Hồng Phong, 2006): - Các chương trình, dự án hỗ trợ đầu tư cho lâm nghiệp trong vùng ngày càng nhiều, như: Dự án PAM 4304, 327, 661 bằng vốn ngân sách của địa phương. - Các tổ chức, cá nhân đã tham gia thuê, nhận khoán đất lâm nghiệp để trồng, chăm sóc và bảo vệ trên địa bàn 1.422,93 ha, gồm 9 công ty và 64 hộ. - Diện tích đất hoang hóa, không sản xuất nông nghiệp cần cải tạo bằng phương pháp trồng lại rừng còn gần 10.000 ha. - Các khu vực giao khoán bảo vệ rừng được thành lập từng nhóm hộ 3 – 5 người, có trang bị các công cụ hỗ trợ, được sự giám sát chỉ đạo của cán bộ quản lý bảo vệ rừng của BQL rừng phòng hộ và xây dựng nhà ở kiên cố. - Chính quyền địa phương (xã, huyện, tỉnh) đã có quan tâm tới việc hỗ trợ giống cây trồng phân tán hàng năm theo chương trình 661, sự nghiệp lâm nghiệp bằng vốn ngân sách tỉnh, huyện. - Rừng phát triển tốt so với các thời điểm trước đây, đây là nguồn lợi lâu dài của chủ rừng, vì thế họ sẽ quan tâm và có biện pháp quản lý tốt. Có diện tích đất lâm nghiệp rộng lớn, chưa khai thác hết tiềm năng, đây là diện tích có khả năng xây dựng và tạo lập các mô hình trang trại nông lâm nghiệp. Với các lý do đó và để làm sáng tỏ thêm các vấn đề nêu trên, việc thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý rừng bền vững tại xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận" là một yêu cầu nhằm đánh giá tình hình quản lý bảo vệ rừng thực tại của địa phương và đưa ra giải pháp quản lý bảo vệ rừng bền vững trong tương lai.
  6. 4 1.3 . Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: (i) các tổ chức, cá nhân đang tham gia hoạt động sản xuất lâm nghiệp trên lâm phận quản lý của BQL rừng phòng hộ Lê Hồng Phong, và (ii) tài nguyên rừng và đất rừng trong lâm phận của BQL. - Phạm vi nghiên cứu + Về không gian: Để đề tài mang tính chất tập trung, đề tài được thực hiện trong phạm vi xã Hòa Thắng. Đây là xã có diện tích đất lâm nghiệp nằm trong lâm phần BQL rừng phòng hộ Lê Hồng Phong nhiều nhất, có người dân sống gần rừng và tham gia vào nghề rừng nhiều nhất so với các xã khác. + Về thời gian: Nghiên cứu được bắt đầu từ tháng 8 năm 2010 đến hết tháng 10 năm 2011. Chỉ thu thập các số liệu liên quan từ năm 2004 đến hết năm 2010 (năm 2011 chưa hết năm nên chưa có cơ sở thu thập).
  7. 5 Chương 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Tổng quan về các vấn đề nghiên cứu 2.1.1. Sơ lược về sự hình thành và phát triển LNXH tại Việt Nam Từ những năm 1970 trở lại đây, ở một số nước trong khu vực châu Á đã bắt đầu xuất hiện những xu thế mới trong việc quản lý và sử dụng tài nguyên rừng, đó là [25]: - Xu thế phi tập trung hoá trong việc quản lý sử dụng tài nguyên rừng thông qua việc phân cấp trong quản lý, sử dụng, cho phép nhiều thành phần kinh tế tham gia vào quản lý tài nguyên rừng, vai trò của người dân và cộng đồng địa phương được nâng cao. - Xu thế chuyển từ khai thác, lợi dụng gỗ sang sử dụng tổng hợp, đa dạng hoá sản phẩm theo phương thức sử dụng tổng hợp tài nguyên rừng . - Xu thế phát triển từ đơn ngành lâm nghiệp sang phát triển đa ngành theo hướng phát triển nông thôn tổng hợp . - Xu thế quốc tế hoá trong việc phối hợp, liên kết các hoạt động lâm nghiệp. Theo FAO (1978): ”LNXH là tất cả những hình thức hoạt động mà trong đó người dân địa phương liên kết chặt chẽ với hoạt động lâm nghiệp”. Chúng ta nên hiểu rộng ra LNXH là một nghề mà tất cả hoạt động liên quan chặt chẽ đến mọi cộng đồng, đa thành phần trong việc quản lý và bảo vệ rừng. Trong đó việc huy động người dân địa phương tham gia trồng rừng, bảo vệ rừng, yêu nghề rừng là một tác nhân thành công của mô hình lâm nghiệp xã hội [25]. LNXH được hình thành mang một số đặc điểm sau: (1) Phi tập trung hóa, phân cấp trong quản lý tài nguyên rừng; (2) Người dân chủ động tham gia vào các hoạt động phát triển, quản lý tài nguyên rừng; (3) Sử dụng tổng hợp các sản phẩm
  8. 6 từ rừng; (4) Phát triển lâm nghiệp đa ngành theo hướng phát triển nông thôn tổng hợp; (5) Các hoạt động lâm nghiệp xã hội mang tính quốc tế hóa [25]. Các đối tượng Lâm nghiệp xã hội có sự tham gia của nhiều thành phần xã hội: (1) Cộng đồng địa phương, bao gồm: cá nhân và hộ gia đình nông dân, chủ trang trại nông lâm nghiệp, các nhóm có cùng sở thích, cộng đồng thôn bản, hợp tác xã nông nghiệp, trường học, xí nghiệp, các tổ chức quần chúng: hội phụ nữ, hội nông dân, quân đội; (2) Tổ chức chính phủ và phi chính phủ, Lâm trường quốc doanh, Hạt kiểm lâm, Trung tâm và các trạm khuyền lâm nông, Các dự án phát triển lâm nghiệp và nông thôn, Ngân hàng và hệ thống tín dụng [20]. Ở Việt Nam có hai hình thức quản lý rừng cộng đồng phù hợp với định nghĩa của FAO như sau [28]: - Thứ nhất là quản lý rừng cộng đồng Đây là hình thức mà mọi thành viên của cộng đồng tham gia quản lý và ăn chia sản phẩm hoặc hưởng lợi từ những khu rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của cộng đồng hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng. Trên thực tế, mặc nhiên cộng đồng đang tự tổ chức quản lý sử dụng và hưởng lợi từ những khu rừng đó. Như vậy, thực chất “quản lý rừng cộng đồng” là cộng đồng dân cư thôn quản lý rừng thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng, được hình thành chủ yếu thông qua chính sách giao đất, giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn. - Thứ hai là quản lý rừng dựa vào cộng đồng Đây là hình thức cộng đồng tham gia quản lý các khu rừng không thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu chung của họ mà thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của các thành phần kinh tế khác nhưng có quan hệ trực tiếp đến đời sống, đến việc làm, thu hoạch sản phẩm, thu nhập hay các lợi ích khác của cộng đồng (thuỷ lợi nhỏ, nước sinh hoạt…). Hình thức này có thể chia thành hai đối tượng: Rừng của hộ gia đình, cá nhân là thành viên trong cộng đồng. Cộng đồng tham gia quản lý với tính chất hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ lợi ích cùng nhau
  9. 7 trên cơ sở tự nguyện (tạo thêm sức mạnh để bảo vệ rừng, hỗ trợ hoặc đổi công cho nhau trong các hoạt động lâm nghiệp…). Rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của các tổ chức nhà nước (các ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng, các lâm trường, công ty lâm nghiệp nhà nước, các trạm trại…) và các tổ chức tư nhân khác. Cộng đồng tham gia các hoạt động lâm nghiệp như bảo vệ, khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh, phục hồi rừng, trồng rừng với tư cách là người làm thuê thông qua các hợp đồng khoán và hưởng lợi theo các cam kết trong hợp đồng. Bản thân thuật ngữ “cộng đồng” cũng đã được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Trong các tài liệu liên quan đến quản lý TNTN, cộng đồng thường được hiểu là “một nhóm người chia sẻ những lợi ích, mối quan tâm, hay các mối liên hệ chức năng hay đạo đức” (Pomeroy và Carlos, 1996; dẫn theo R. Sarou [13]). Bên cạnh đó, cũng có những cách hiểu khác nhau về cách tiếp cận “quản lý TNR dựa vào cộng đồng”. Chính vì thế, việc xây dựng một lý thuyết chung dựa trên các công trình nghiên cứu hành động đã được nhiều tổ chức quốc tế quan tâm phát triển trong hơn một thập kỷ qua. Cơ sở của việc thiết kế các hệ thống quản lý tài nguyên, trong đó có quản lý rừng dựa vào cộng đồng là sự xem xét các định chế quản lý của con người có phù hợp với các hệ thống tự nhiên sinh học của môi trường hay không. Trong đề tài, chúng tôi sử dụng khái niệm quản lý TNR dựa vào cộng đồng theo ý nghĩa này để xây dựng khung phân tích. Từ thời kỳ đổ i mới 1986 đến nay, nghề rừng nước ta đã có những chuyển biến đáng kể về định hướng chiến lược và chính sách phát triển lâm nghiệp. Từ những văn bản và qui phạm pháp luật đã ban hành cũng như trên thực tế đã thể hiện rõ những quyết tâm chuyển đổi lâm nghiệp từ một ngành kinh tế có nhiệm vụ khai thác tài nguyên rừng là chính sang xây dựng ngành lâm nghiệp với nhiệm vụ cơ bản là xây dựng và phát triển vốn rừng; đẩy mạnh sản xuất lâm sản và phát triển các dịch vụ lâm nghiệp trên cơ sở vốn rừng và tài nguyên rừng được quản lý một cách bền vững.
  10. 8 Trên thực tế, các cơ quan nhà nước ở cấp Trung ương đã ban hành hàng trăm văn bản qui phạm pháp luật liên quan đến chính sách lâm nghiệp (CSLN). Từ năm 1993 đến nay, Chính phủ đã liên tục hoạch định và tổ chức thực thi 2 chương trình quốc gia lớn về khôi phục và phát triển rừng, đó là: Chương trình 327 và Dự án 661, với mục tiêu quyết tâm nâng cao độ che phủ rừng của toàn quốc đạt trên 43% vào năm 2010 [35], [37]. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định về phê duyệt Chiến lược Phát triển lâm nghiệp đến năm 2020. Về tổng thể, nước ta đã hình thành một hệ thống chính sách lâm nghiệp được trình bày ở các Nghị quyết của Đảng và các văn bản qui phạm pháp luật của nhà nước. Đẩy mạnh phát triển lâm nghiệp xã hội là cách lựa chọn hợp lý để xây dựng hệ thống chính sách phát triển lâm nghiệp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Cần khẳng định “xã hội hoá lâm nghiệp, có chính sách bảo đảm cho người làm rừng sống được bằng nghề rừng, kết hợp lâm nghiệp với nông nghiệp” là phương hướng cơ bản để xây dựng hệ thống CSLN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, vì: Phát triển lâm nghiệp xã hội phù hợp với thực tiễn cơ cấu dân số, phân bố dân cư và trình độ kinh tế -xã hội, phù hợp với ý kiến, nguyện vọng của gần 30 triệu cư dân sống ở vùng gần rừng; Có khả năng sử dụng và phát huy được mọi nguồn lực của người dân; Trên thực tế đã được nhân dân, nhất là nhân dân sống gần rừng đón nhận, thực hiện và đã xây dựng được những mô hình quản lý rừng có hiệu quả, có tác động tích cực đến PTLNBV (Trần Đức Viên, 2005 [21]). + Tuy vậy, cần nhận rõ những điểm yếu kém về phát triển rừng và lâm nghiệp bền vững ở nước ta trong giai đoạn mới, đó là: (1) Nhận thức của xã hội về vai trò, lợi ích của rừng và nghề rừng còn rất khác nhau; (2) Sự tham gia của người dân trong quá trình phát triển lâm nghiệp còn thấp.Vai trò và tác động của rừng và nghề rừng đối với xoá đói giảm nghèo, phát triển nông thôn miền núi còn thấp; Trình độ xã hội hoá lâm nghiệp chưa đạt được các mục tiêu mong muốn; (3) Tốc độ tăng trưởng và đóng góp của ngành lâm nghiệp còn rất thấp; (4) Cơ cấu rừng và cơ cấu kinh tế lâm nghiệp chưa phù hợp với yêu cầu của đất nước và chuyển dịch cơ cấu lâm nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá đất nước đang còn chậm [25].
  11. 9 + Thực trạng yếu kém: Mặc dù độ che phủ rừng đang dần dần tăng lên, nhưng chất lượng rừng chưa có những cải thiện rõ rệt. Sức sản xuất, năng lực phòng hộ của rừng tự nhiên và rừng trồng còn quá thấp; Công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng còn nhiêu bất cập. Hiệu lực của công tác quản lý nhà nước về tài nguyên rừng chưa cao. Càng xuống cấp dưới, càng đi vào những vùng lãnh thổ có nhiều rừng, các yếu kém về quản lý nhà nước đối với rừng càng bộc lộ rõ ràng [25]. 2.1.2. Các vấn đề liên quan đến quản lý rừng có sự tham gia và đồng quản lý rừng Quản lý rừng có sự tham gia đã được nhiều tác giả nghiên cứu, nhưng có lẽ vấn đề quan trọng nhất có thể là những cách hiểu khác nhau về khái niệm “tham gia” (Chambers, 1991; dẫn theo Bùi Việt Hải, 2007 [7]). Đây là một khái niệm được diễn dịch một cách rất mềm dẻo. Trong những ý kiến thảo luận về sự tham gia trong quản lý tài nguyên thiên nhiên (TNTN), cần phân biệt giữa các mức độ và loại hình tham gia. Có hai trường hợp cực đoan có thể xẩy ra liên quan đến khái niệm này: (1) Sự tham gia có thể được xem là một phương thức hay phương tiện để tạo điều kiện thực hiện một biện pháp quản lý đã được các cơ quan bên ngoài ấn định trước; (2) Sự tham gia được xem là mục đích; phát huy sự tham gia là một phương thức phát huy nội lực của các cộng đồng địa phương để bảo vệ cơ sở tài nguyên của họ. Trong thực tế, mức độ và hình thức tham gia bị chi phối bởi bối cảnh xã hội, nhưng điều quan trọng khi đánh giá mức độ tham gia là ý nghĩa cơ bản của nó: người dân phải tham gia vào các quyết định chi phối đến đời sống của họ (Bùi Việt Hải, 2007 [7]). Việc sử dụng phổ biến cụm từ “sự tham gia” phản ánh những quan điểm khác nhau về mục tiêu và phương thức. Trong nhiều trường hợp, “sự tham gia” ít khi được định nghĩa rõ ràng và do đó trở nên ít có ý nghĩa khi thực thi các hoạt động quản lý rừng. Sự suy diễn phong phú các nội dung khác nhau về sự tham gia đã dẫn tới những định nghĩa phức tạp về các “kiểu tham gia” . Nói chung, sự phân biệt các kiểu tham gia dựa trên mức độ kiểm soát tiến trình lập quyết định về tài
  12. 10 nguyên giữa những người trong cuộc (hay đối tượng hưởng lợi) và người ngoài cuộc (hay người khởi xướng) [7]. (1) Sự tham gia thường được hiểu ở cấp độ cơ bản và đơn giản nhất, đó là sự cung cấp thông tin tham vấn khi một cơ quan hay tổ chức tiến hành để lấy ý kiến của các thành viên trong một cộng đồng trước khi đưa ra các quyết định hay triển khai các hoạt động có ảnh hưởng đến người dân địa phương. (2) Ở một mức cao hơn, sự tham gia được hiểu là việc tham gia vào thực thi các hoạt động khác nhau, một số nông dân được hợp đồng trồng rừng hay giao khoán quản lý bảo vệ rừng (QLBVR). Một lần nữa, ở đây, người dân không có quyền quyết định trồng rừng như thế nào, hoặc QLBVR ra sao, mặc dù họ có thể có quyền ký hay không ký các hợp đồng này; ở đây, sự tham gia dừng lại ở mức độ đóng góp sức lao động. (3) Cao hơn nữa, sự tham gia được thể hiện ở mức độ người dân tham gia vào việc lập kế hoạch cùng với các cơ quan phát triển từ bên ngoài, đóng góp nhân lực và kinh phí cho các hoạt động phát triển ở địa phương vì lợi ích của mình và giám sát tiến trình. Nhiều hoạt động của chương trình 145/TTg đã được thực hiện thành công theo hướng này. (4) Sau cùng, ở mức cao nhất, sự tham gia thường được hiểu như là một chuẩn mực, trong đó người dân chủ động, tích cực đưa ra các phương án phát triển. Trong trường hợp này, các cơ quan bên ngoài tham gia vào hoạt động của cộng đồng mà không phải là các cộng đồng tham gia vào công việc của họ. Bốn cấp độ trên đây của cách tiếp cận “có sự tham gia” có thể được vận dụng trong từng tình huống cụ thể. Do đó, ý tưởng cho rằng mọi sự tham gia đều đồng nghĩa với “tốt” và mọi hoạt động thiếu sự tham gia đều đồng nghĩa với “không tốt” có vẻ cực đoan. Tuy nhiên, trong thực tế, nó có thể ẩn dấu một cách thức làm cho các hoạt động dựa trên sự điều khiển được tiến hành thuận lợi và dễ được chấp nhận.
  13. 11 Mặc dù sự phân loại các ý tưởng có vẻ đơn giản về sự tham gia, có thể hữu ích cho việc tìm hiểu bản chất của vấn đề, nó cũng có một số nhược điểm gây trở ngại cho việc phát triển các hệ thống quản lý rừng có sự tham gia (Pimbert, Gujja và Shah, 1996; dẫn theo Hoàng Hữu Cải, 2001). Thứ nhất, nó giả định rằng mức độ tham gia có thể được xác định ngay từ đầu khi lập kế hoạch, tiến hành thiết kế hệ thống giám sát và đánh giá có sự tham gia, và giữ bất biến trong tiến trình đó. Thứ hai, nó phân biệt một cách giản đơn “người trong” và “người ngoài”. Điều này làm lu mờ một thực tế là các thành viên ở cả hai nhóm cũng có những mức độ tham gia khác nhau. Khi xem xét tất cả các thành viên của cộng đồng là người trong cuộc, các dự án dễ có xu hướng đồng nhất, người có nhiều đất với người không có đất, phụ nữ và nam giới, nông dân khá giàu và nông dân nghèo. Đối với việc giám sát, điều này có nghĩa là khi sự tham gia được giả định là chỉ báo của sự phát triển. Thứ ba, vì sự phân loại ít nhiều mang tính chất phán đoán, nhiều tác giả đã đưa ra các thuật ngữ như tham gia bắt buộc hay sự tham gia được điều khiển. Tuy nhiên trong thực tế, không phải mọi người đều mong muốn, có thể và cam kết sẽ tham gia như nhau trong một tiến trình. Trong thực tế, bối cảnh chính sách và xã hội địa phương có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ và hình thức tham gia của các nhóm nông dân khác nhau. Do đó, khả năng đạt được sự tham gia hoàn toàn trong tiến trình lập kế hoạch, giám sát và đánh giá chỉ là một tình trạng phi thực tế (Hoàng Hữu Cải, 2001) [2]. Trong sự phát triển của lý thuyết về sự tham gia trong quản lý môi trường và TNTN, cần nhấn mạnh một xu thế: bản thân các vấn đề về quản lý TNTN nói chung và TNR nói riêng là một tiến trình xã hội (Myint, 2003; dẫn theo Nguyễn Thị Kim Tài, 2006 [18]). Tuy nhiên, hành động của con người trong các cộng đồng ở trong hay gần rừng bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên của các hệ sinh thái đồng thời các quy luật do con người tạo ra. Do đó, để phân tích tương tác giữa cộng đồng với môi trường và tài nguyên theo các khía cạnh định chế - môi trường, cần xem môi trường và cộng đồng như là tác nhân hành động hơn là nhân tố trong quản lý tài nguyên.
  14. 12 Trong bối cảnh của quản lý và bảo tồn TNR có sự tham gia, nhiều câu hỏi quan trọng được đặt ra chung quanh các vấn đề “ai tham gia” và họ tham gia như thế nào? Việc phân tích sự tham gia trước hết được bắt đầu bằng cách xác định những “người tham gia”, những “cá nhân” hay “nhóm liên quan” nào tham gia vào hệ thống quản lý và bảo tồn TNR? Vai trò của họ là gì? Những người này tham gia với động cơ nào? Liệu các mối quan tâm nào của họ sẽ được lưu ý và hệ thống quản lý có sự tham gia có giúp giải quyết các mối quan tâm của họ ra sao? Sự tham gia thực tế xảy ra ở địa phương như thế nào? Không phải tất cả các câu hỏi này đều có câu trả lời rõ ràng. Tuy nhiên, nếu các bên tham gia không xem xét chúng một cách thận trọng, sự tham gia sẽ mất đi ý nghĩa của nó (Bùi Việt Hải, 2007 [7]). Sự thừa nhận vai trò của người dân địa phương được thể hiện trong chính sách giao đất lâm nghiệp và giao khoán quản lý bảo vệ rừng. Các chính sách này giải quyết một vấn đề rất cơ bản của quản lý bền vững: một khi quyền sử dụng đất và quyền tiếp cận tài nguyên rừng của người dân được xác lập, các hệ thống quản lý rừng bền vững dựa trên cơ sở cộng đồng địa phương được quan tâm phát triển. Tuy nhiên, trong tiến trình triển khai thực hiện còn nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu cụ thể (dẫn theo R. Sarou, 2004 [10]) như sau: (1) Mối quan hệ giữa các cộng đồng và môi trường tài nguyên mà họ đang phụ thuộc cần phải được xem xét ở nhiều góc độ, không gian và thời gian khác nhau. Rừng và các giá trị văn hóa của từng dân tộc sinh sống trong vùng thường gắn bó chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, việc bảo vệ rừng mang lại các lợi ích ở một phạm vi không gian rộng lớn hơn. Do đó, kết hợp giữa các hoạt động bảo tồn tài nguyên và phát triển đời sống người dân là một vấn đề phức tạp. (2) Các hệ thống quản lý và phát triển rừng được đặt trên cơ sở nâng cao nhận thức của người dân. Điều này đòi hỏi những hoạt động trao đổi thảo luận với cộng đồng làm cho họ thấy được những giá trị đích thực của rừng, những truyền thống tốt đẹp của từng dân tộc gắn bó với tài nguyên rừng và những vấn đề bức bách đang đặt ra cho cộng đồng để họ cùng nhau suy nghĩ và bàn bạc giải quyết vấn đề quản lý bảo vệ rừng.
  15. 13 (3) Sự tham gia tích cực và chủ động của các cộng đồng không phải tự nhiên mà có. Để góp phần tham gia phát triển nông thôn một cách nhanh chóng và có hiệu quả, các nhà nghiên cứu, cán bộ khuyến nông-khuyến lâm và các cơ quan quản lý tài nguyên rừng ở địa phương đã và đang hoạt động rất tích cực trong việc tìm hiểu các giải pháp tốt nhất và phù hợp nhất cho từng địa phương mà họ đang công tác, nhằm giúp người dân ổn định cuộc sống của họ, đồng thời tự nâng cao kiến thức và năng lực của các bên liên quan (nhà nghiên cứu và cán bộ khuyến nông khuyến lâm và cán bộ quản lý). Nói cách khác, tiến trình thúc đẩy sự tham gia của người dân đòi hỏi phải tạo ra một môi trường học tập để các bên tham gia cùng có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và ý kiến của mình với nhau. Tuy nhiên, không phải tất cả các chương trình hay dự án liên quan đến sự tham gia đều thành công, và lâm nghiệp xã hội nói chung hay lâm nghiệp cộng đồng nói riêng không phải là một thứ thuốc bách bệnh (Bùi Việt Hải, 2007 [7]). Một nghiên cứu của Viên Ngọc Nam (1996) [11] về vai trò của nông hộ trong sự tham gia quản lý tài nguyên rừng ngập mặn tại huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy rằng, đây là một trường hợp điển hình trong đó một chương trình tái tạo rừng rộng lớn đã được thực hiện, nhằm khôi phục hệ sinh thái rừng ngập mặn sau chiến tranh. Nhưng trong giai đoạn về sau, việc bảo vệ khu rừng này đã gặp không ít khó khăn. Vì những năm trước nay, rừng được bảo vệ bởi những đơn vị của nhà nước, người dân địa phương không được huy động để tham gia dù một phần vào trong những hoạt động lâm nghiệp và họ không hiểu về những lợi ích của tài nguyên rừng ngập mặn đối với đời sống của họ. Người dân sống trong khu vực rừng ngập mặn vẫn thường chặt phá rừng trái phép. Từ đó, các mâu thuẫn xảy ra giữa người dân địa phương và những tổ chức quốc doanh. Đây là lý do chính dẫn đến rừng ngập mặn Cần Giờ vẫn còn bị phá huỷ. Từ các phân tích quản lý rừng có sự tham gia chúng ta có thể đưa ra khái niệm về đồng quản lý như sau :
  16. 14 Có nhiều khái niệm về đồng quản lý nhưng các khái niệm đều tập trung vào việc chia sẻ quyền lực nhị nguyên giữa nhà nước và những người sử dụng tài nguyên địa phương (hoặc bản địa) và phạm vi của các thoả thuận có thể xảy ra ( Pinkerton, 1989; Berkes et al,1991; Berkes, 1994).Chúng bao gồm: hệ thống tài nguyên được xác định rõ và bối cảnh với quy mô nhỏ, lợi ích được chia sẻ bởi một bộ phận của các thực thể xã hội, quyền sở hữu rõ ràng, tiếp cận các biện pháp quản lý thích nghi, cam kết một quá trình lâu dài và có xây dựng thể chế; có sự đào tạo nguồn lực ; sự hiện diện của các lãnh đạo chủ chốt hoặc các nhà quản lý, sự cởi mở của người tham gia để nắm lấy đa số kiến thức và môi trường chính sách hỗ trợ (Armitage et al, 2009). 2.2. Hoạt động LNXH và vận dụng đồng quản lý tại Việt Nam 2.2.1. Một số mô hình hoạt động LNXH ở nước ta + Mô hình bảo vệ tài nguyên rừng tại Vườn quốc gia Cát Bà Ban Quản lý Vườn thông qua các dự án đã giúp đỡ kinh phí cho nhân dân sống trong khu vực của Vườn, đặc biệt là xã Việt Hải. Việc giao đất, giao rừng cho đối tượng khuyến khích cũng được thực hiện. Ban Quản lý khoán rừng cho dân để làm kinh tế. Nhân dân được khuyến khích trồng rừng làm kinh tế, trồng các loại cây ăn quả. Đồng thời, với số tiền mà Vườn thu được từ khách du lịch đã hỗ trợ một phần cho xã. Ban Quản lý Vườn kết hợp với các dự án tổ chức các đợt tuyên truyền, mời quần chúng nhân dân đến tham dự để giải thích cho người dân hiểu về giá trị của tài nguyên rừng, biển, việc bảo tồn và khai thác bền vững những giá trị tài nguyên này. Phương thức tuyên truyền là thông qua hình ảnh, các buổi chiếu phim và giao lưu. Tại xã Việt Hải, thông qua các đợt tuyên truyền, cán bộ đã hướng dẫn phát triển du lịch tại xã. Người dân làm các dịch vụ ăn, uống, nghỉ trọ, hướng dẫn du lịch. Các hoạt động này diễn ra rất tốt và hiệu quả. Điều này tác động mạnh mẽ đến đời sống nhân dân của xã. Qua những hoạt động này mà một phần đời sống của nhân dân được nâng cao.
  17. 15 Các tổ bảo vệ nhân dân cũng được thành lập, kết hợp làm việc với Hạt Kiểm lâm, thường xuyên đi tuần tra canh gác với Hạt kiểm lâm của Vườn, đạt được hiệu quả cao. Những người trong tổ bảo vệ được hưởng một phần lương, tuy nhiên điều này phụ thuộc vào kinh phí nhà nước cấp cho Vườn (phối hợp quản lý và bảo tồn, WB, 6-2002). + Phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở các vùng đệm Các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên được thiết lập ở các vùng hoang vu, hẻo lánh nên các vùng đệm của vườn quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên nói chung đất rộng, người thưa. Nhiều xã ở vùng đệm có diện tích đất nông, lâm nghiệp bình quân mỗi hộ hơn một ha. Đất đai tại các vùng đệm của Vườn quốc gia Pù Mát (Nghệ An), Cúc Phương (khu vực thuộc tỉnh Hòa Bình), Tam Đảo (khu vực thuộc tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên), Chư Mom Rây (Kon Tum), Kon Ka Kinh (Gia Lai), Chư Yang Sinh (Đắk Lắk), Nam Cát Tiên (Bình Phước, Lâm Đồng, Đồng Nai),... đều khá màu mỡ (CPSE, 1998). Hiện nay, nguồn tài chính cho các vùng đệm được cấp từ: các dự án xây dựng vùng đệm đã được duyệt dự án đầu tư, nguồn kinh phí của dự án ODA, các chương trình quốc gia, chương trình của địa phương và nguồn ngân sách cấp xã ở các vùng đệm. Trong đó, nguồn vốn của các dự án vùng đệm là nguồn đầu tư trực tiếp, được xây dựng với mục tiêu đáp ứng cả yêu cầu bảo tồn và phát triển. Ngân sách cấp xã của vùng đệm giống như ở các xã khác để đảm bảo cho các hoạt động như: chi phí thường xuyên cho UBND xã, giáo dục, y tế... Hiện nay, ngân sách cấp xã chủ yếu để trả lương cho bộ máy quản lý ở xã, nguồn chi thường xuyên này có ảnh hưởng trực tiếp đến các VQG, khu BTTN về việc đảm bảo an ninh, thừa hành pháp luật trong bảo vệ rừng ở vùng đệm và vùng lõi (CPSE, 1998 - 1999). Về lâm nghiệp, vườn rừng của các hộ và các bản đang phát triển và khá đa dạng. Riêng năm 2001, phối hợp với các đoàn thể Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Vườn quốc gia Pù Mát đã thiết lập được 2.164 ha vườn hộ và vườn rừng. Ở Hà Giang, vườn rừng thường là chè - bạch đàn hoặc chè - mỡ. Ở Bắc Giang, vườn rừng ở trên đỉnh đồi bao gồm các loại cây đa dụng như trám, dẻ, tre, ...
  18. 16 Ở Lào Cai, vườn rừng thường là các loại cây lấy gỗ, bên dưới trồng song, mây và các loại cây làm thuốc như thảo quả, cam thảo; thỉnh thoảng đã có hộ trồng các cây thuốc quý như sâm, hoàng liên,... (CPSE, 1998- 1999). Nhiều vườn cây ăn quả, cây đặc sản cũng được hỗ trợ phát triển để đảm bảo thu nhập bền vững cho các gia đình (CPSE, 2002). Về nông nghiệp, nhiều ruộng bậc thang đã được xây dựng. Đồng bào đã chấm dứt tình trạng đốt rừng làm nương rẫy, đời sống được cải thiện. Hội Nông dân đã tích cực vận động nhân dân phòng dịch bệnh, nên gia súc ít bị chết bệnh hơn, các giống lợn siêu nạc bắt đầu phát triển. Tại vùng đệm của Vườn quốc gia Pù Mát, việc chăn thả trâu bò có quản lý đang phát triển theo sự quản lý các dòng họ và từng bước giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển đàn gia súc và bảo vệ rừng (CPSE, 1998). + Cộng đồng tham gia bảo tồn đa dạng sinh học Cân bằng sinh thái rừng được cộng đồng bảo vệ bao gồm toàn bộ các khâu duy trì và phát triển giống; cung cấp thức ăn, nơi cư trú; duy trì mối tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các sinh vật. Các cộng đồng tham gia phục hồi tài nguyên rừng theo nhiều hình thức và khá đa dạng. Nhiều cộng đồng đã kết hợp chăm sóc cây rừng, nâng cao độ phì của đất rừng để phát triển nông nghiệp. Ở các xã của huyện Sa Pa (tỉnh Lào Cai) trong vùng đệm của Vườn quốc gia Hoàng Liên Sơn - Sa Pa, đồng bào Mông, Dao đã chăm sóc cây rừng, bón phân cho đất rừng và trồng thảo quả dưới tán cây rừng (CPSE, 2002). Đồng bào nhiều nơi cũng tự nhân giống nhiều loại cây rừng để phục vụ đời sống của họ, ví dụ đồng bào ở xã Lục Sơn, Lục Nam, Bắc Giang đã nhân giống các loại dẻ, trám trong Khu Bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử (CPSE, 2002 - 2003). Ngoài ra, việc bảo tồn các loài hoang dã cũng giúp cho cải thiện chất lượng các loài thuần dưỡng. Nhìn chung, cộng đồng đã tham gia bảo vệ rừng một cách tự nguyện nhằm thực hiện tốt chính sách của Nhà nước và bảo vệ quyền lợi thiết thực của mình.
  19. 17 Đây là một nguyên nhân đã góp phần quan trọng làm cho Việt Nam hiện nay là một trong mười nước có mức đa dạng sinh học cao trên thế giới. Tuy nhiên, vẫn còn một số yếu tố hạn chế sự tham gia của cộng đồng trong công tác bảo vệ rừng: (1) Cộng đồng rất ít được tham gia vào lập kế hoạch tu bổ, giám sát các công trình thi công trong vườn quốc gia; (2) Sự hỗ trợ của các ngành, các cấp để cộng đồng bảo vệ vườn quốc gia còn hạn chế, ví dụ việc ngăn cấm bán các loại sản vật quý hiếm của rừng ở các khu vực xung quanh các vườn quốc gia nhiều nơi không được thực hiện; (3) Công nghệ và dụng cụ bảo vệ rừng của cộng đồng còn thiếu, nếu xảy ra hiện tượng cháy rừng thì cộng đồng chỉ có một công cụ duy nhất dùng để dập lửa là cành cây; (4) Giao thông là một vấn đề bức xúc trong vùng đệm (CPSE, 2001). 2.2.2. Thực hiện đồng quản lý ở nước ta Khái niệm đồng quản lý tài nguyên lần đầu tiên được đưa vào Việt Nam năm 1997 tại khoá tập huấn về “Kết hợp bảo tồn và phát triển” (Integrated Conservation and Developmnet - ICD) tổ chức tại Vườn quốc gia Cát Tiên, do Quỹ Quốc tế về bảo tồn thiên nhiên tài trợ. Sau đó, khái niệm này lại được giới thiệu trong một số các khoá tập huấn về bảo tồn thiên nhiên của các dự án được các tổ chức quốc tế tài trợ như: dự án LINC (Bảo tồn liên kết Hinnamno và Phong Nha - Kẻ Bàng), dự án PARC (Bảo tồn thiên nhiên trên quan điểm sinh thái nhân văn). Tại các khoá tập huấn này, đồng quản lý tài nguyên mới dừng lại ở khái niệm và lý thuyết cơ bản. Tuy chưa có những nghiên cứu đầy đủ, nhưng trong thực tế cho thấy, đồng quản lý các khu rừng là một trong những xu hướng phù hợp với điều kiện tự nhiên và xã hội về quản lý tài nguyên rừng ở nước ta. Một số dự án với nội dung đồng quản lý đang bắt đầu triển khai ở một số vùng. Dự án quản lý vùng chiến lược kết hợp với bảo tồn thiên nhiên (MOSAIC) do USAID/WWF tài trợ triển khai ở phía tây tỉnh Quảng Nam, trong đó có nội dung thử nghiệm đồng quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh, đang trong thời gian thử nghiệm cho giai đoạn tiếp theo. Một dự án nhỏ khác về đồng quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế, đang trong giai đoạn khởi động. Gần đây, cơ quan hợp tác phát
  20. 18 triển quốc tế của Nhật Bản (JICA) cũng hợp tác với Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà trong dự án “Nâng cao năng lực quản lý tài nguyên rừng dựa trên cộng đồng, 2010- 2014”. Mục tiêu của tất cả những dự án này đều nhằm vào việc xây dựng mô hình đồng quản lý khu bảo tồn giữa cộng đồng dân cư và các tổ chức, cơ quan liên quan (bao gồm cả tổ chức chính phủ và phi chính phủ). Tuy nhiên, các dự án trên cũng đều đang lúng túng vì chưa đưa ra được tiến trình, nguyên tắc và các giải pháp thích hợp để xây dựng kế hoạch đồng quản lý tài nguyên. Ngày 4/8/2003, một hội thảo về “ý tưởng thành lập khu bảo tồn thiên nhiên Phu Xai Lai Leng do cộng đồng quản lý” được tổ chức tại thành phố Vinh, Nghệ An. Hội thảo đề xuất một số vấn đề đồng quản lý khu bảo tồn. Song, hội thảo cũng chưa thống nhất được các nguyên tắc đồng quản lý và giải quyết triệt để vấn đề này [20]. Đặc biệt là mô hình Đồng quản lý rừng ngập mặn ở tỉnh Sóc Trăng với hơn 300 hộ, chủ yếu là đồng bào Khmer ở ấp Âu Thọ B, xã Vĩnh Hải, huyện Vĩnh Châu đã đem lại hiệu quả thiết thực, đó là việc người dân được thoải mái vào rừng phòng hộ ven biển kiếm củi và khai thác các nguồn lợi từ rừng phục vụ cho cuộc sống chứ không lén lút như trước đây. Điều đặc biệt là những người vào rừng được cấp thẻ. Đây là một nội dung chính trong việc đồng quản lý rừng thuộc dự án "Quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên ven biển tỉnh Sóc Trăng" do tổ chức Hợp tác Kỹ thuật của Cộng hòa Liên Bang Đức (GTZ) tài trợ. Việc đồng quản lý này đã mang lại nhiều kết quả khả quan trong việc trồng, bảo vệ rừng ngập mặn ven biển, đồng thời bảo đảm cuộc sống người dân ven rừng. Vào năm 1990, rừng tại đây gần như không còn nhiều. Sóng biển lấn đất từng ngày, nhiều nhà trôi theo dòng nước. Năm 2007, Dự án GTZ được thực hiện ở đây, giờ rừng đã xanh trở lại. Theo mô hình "đồng quản lý" của GTZ, rừng ở ấp Âu Thọ B hiện được phân thành 4 khu để quản lý. Trong đó, khu phòng hộ là rừng đước có 12 ha, được xác lập nhằm để bảo vệ tốt cho các loài thủy sản có nơi trú ngụ, sinh sản tự nhiên, duy trì tính đa dạng của hệ sinh thái rừng ngập mặn. Khu phục hồi bên trong là một
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2