intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu giải pháp trồng rừng phòng hộ ven bờ sông và kênh rạch tại khu vực huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:117

18
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài đi sâu vào tìm hiểu tình trạng sạt lở đất, nguyên nhân và tìm ra giải pháp để hạn chế tình trạng trên, tiến tới một mô hình quản lý sử dụng rừng và canh tác đất ven sông một cách hiệu quả, bền vững. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của luận văn này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu giải pháp trồng rừng phòng hộ ven bờ sông và kênh rạch tại khu vực huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ------------------ ĐỖ THỊ DUYÊN NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP TRỒNG RỪNG PHÒNG HỘ VEN BỜ SÔNG VÀ KÊNH RẠCH TẠI KHU VỰC HUYỆN TIÊN YÊN, TỈNH QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI - 2010
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Đất là một nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng đối với sự tồn tại của con người và thiên nhiên. Hiện nay, nguồn tài nguyên này đang bị suy giảm nghiêm trọng cả về diện tích và chất lượng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do rừng bị tàn phá nặng nề. Như chúng ta đã biết mất rừng dẫn đến mất đất, nguồn nước bị suy giảm và ngược lại không có đất thì không có rừng. Hiện nay, sạt đất, trượt lở đất đã và đang trở thành một trong những vấn đề hết sức cấp bách của suy thoái môi trường trên thế giới và ở Việt Nam. Trong năm 2010 biến đổi khí hậu đã tác động mạnh mẽ đến nhiều nước trên thế giới như lũ lụt ở Afpakistan, cháy rừng ở Nga và sạt lở đất ở Trung Quốc. Biến đổi khí hậu đã tác động trực tiếp tới đời sống nhân dân gây những thiệt hại to lớn về người và của, trong đó phải kể đến sạt lở đất. Sạt lở đất không chỉ diễn ra nghiêm trọng ở đất đồi núi mà nó còn ngày càng diễn biến phức tạp ở bờ biển, bờ sông. Làm thế nào để hạn chế tình trạng trên là câu hỏi lớn đang đặt ra cho các nhà quản lý và những chuyên gia về môi trường hiện nay. Theo thống kê, các bờ sông Mã (Thanh Hoá), sông Hồng (Hà Nam), sông Tích (Hà Nội), các sông thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, sông Yên (Đà Nẵng), các sông của tỉnh Quảng Ninh,… đang xảy ra hiện tượng sạt lở nặng làm mất nhiều diện tích đất canh tác và đe doạ đến tính mạng của người dân sống ven bờ, trong đó phải kể đến sông Tiên Yên của Quảng Ninh. Tiên Yên là một huyện miền núi với 3/4 diện tích là đồi núi, có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống như Dao, Tày, Sán chỉ, Sán dìu, Kinh,... Trong những năm gần đây tốc độ tàn phá rừng tăng nhanh, những cánh rừng tự nhiên bị khai thác trắng, thay vào đó là những khu rừng sản xuất với khả năng phòng hộ không cao. Mặt khác, Tiên Yên là một trong ba khu vực có lượng mưa hàng năm lớn nhất trong cả nước. Trong một vài năm trở lại đây đã xuất hiện nhiều trận lũ lớn trên các hệ thống sông thuộc các huyện miền núi Ba Chẽ, Tiên Yên, và Đầm Hà của tỉnh Quảng Ninh. Các trận lũ quét xảy ra cường độ và tần suất lớn làm cho quá trình
  3. 2 xói lở bờ sông, bờ đê càng xảy ra mạnh mẽ hơn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống dân sinh kinh tế xã hội của khu vực, nhất là những hộ sống ở những nơi mất rừng phòng hộ ven bờ sông. Vì vậy, cần có nghiên cứu đánh giá để tìm ra biện pháp thích hợp hạn chế tình trạng trên. Bên cạnh việc bảo vệ, trồng rừng phòng hộ đầu nguồn thì một giải pháp quan trọng được quan tâm hiện nay đó là giải pháp trồng rừng phòng hộ ven bờ do giá thành hạ, thân thiện với môi trường, hoà nhập với nền sinh thái cảnh quan và gần gũi với nền văn hoá bản địa của các cộng đồng địa phương. Hơn nữa, các đai rừng phòng hộ còn cho các giá trị kinh tế kết hợp góp phần ổn định dân sinh kinh tế trong khu vực. Tác giả thực hiện đề tài: “Nghiên cứu giải pháp trồng rừng phòng hộ ven bờ sông và kênh rạch tại khu vực huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh”. Đề tài đi sâu vào tìm hiểu tình trạng sạt lở đất, nguyên nhân và tìm ra giải pháp để hạn chế tình trạng trên, tiến tới một mô hình quản lý sử dụng rừng và canh tác đất ven sông một cách hiệu quả, bền vững.
  4. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Lược sử vấn đề nghiên cứu trên thế giới 1.1.1. Khái niệm về vùng đệm ven bờ Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về vùng đệm ven bờ sông, song một số khái niệm được sử dụng nhiều, đó là: Theo Cục bảo tồn tài nguyên thiên nhiên Mỹ (NRCS Planning & Design Manual) thì vùng đệm ven bờ được hiểu là khu vực có nhiều cây xanh, ở đó luôn có cây bụi thảm tươi và các thảm thực vật khác trải dài, dọc theo hai bờ sông suối. Hay đó là vùng đất nằm sát về hai phía bờ sông - nơi được quản lý bảo vệ để duy trì tính nguyên vẹn của dòng nước và giảm tốc độ ô nhiễm, đồng thời cung cấp thức ăn, môi trường sống, điều hoà nhiệt độ cho các loài thuỷ sinh và động vật hoang dã. Theo Julia C.Klapporth và James E.Jonhson (2000) thì khu vực ven bờ là khu đất trực tiếp nằm kề sát với sông suối, hồ hay các diện tích mặt nước. Ranh giới giữa vùng ven bờ và vùng đất phía trên gần kề thường thoải và khó nhận biết. Dù vậy, nó được phân biệt bởi vị trí cao thấp khác nhau, vùng ven bờ ẩm hơn và dễ bị ngập lụt - nơi thu hút đặc biệt bởi sự tập hợp nhiều cây và con ở đó nhờ có sự tác động qua lại giữa các yếu tố đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu, thuỷ văn, thảm thực vật và sự quan tâm của cộng đồng. Rừng ven bờ được nuôi dưỡng bởi nhiều quy luật tự nhiên quan trọng như: đặc điểm sinh vật học, các chức năng sinh thái học,… và quan trọng hơn là các lợi ích của xã hội. 1.1.2. Một số nghiên cứu về hệ sinh thái rừng phòng hộ ven bờ Theo NRCS Planning & Design Manual thì các vai trò của rừng phòng hộ ven bờ là: - Có khả năng lọc chất dinh dưỡng, chất lắng cạn, các chất ô nhiễm khác rất hiệu quả. Đồng thời, nó có thể ngăn chặn hay làm giảm tối đa sự rửa trôi đất xuống dòng chảy do mưa gây ra; - Làm ổn định dòng chảy, bảo vệ hai bên bờ sông suối và giảm tối đa xói mòn đất nhằm góp phần duy trì cảnh quan sinh thái hai bên bờ sông;
  5. 4 - Duy trì được sự ổn định nhiệt độ nước sông suối - vai trò này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với sự sống của nhiều loài cá và các loài động vật khác; - Thu hút nhiều loài chim, thú hoang dã, là môi trường sống và là hành lang di trú cho nhiều loài sinh vật. Tuy nhiên, để có được vai trò trên, NRCS Planning & Design Manual đã đưa ra một số khuyến nghị về vùng đệm ven bờ như sau: - Không nên để nước chảy thành khe, rãnh qua vùng đệm ven bờ. - Vùng phòng hộ ven bờ cần thiết phải được khoanh vùng bảo vệ, ngăn cấm việc chăn thả vật nuôi tuỳ tiện trong đó. - Trong quy hoạch rừng phòng hộ thì trước hết chúng ta cần phải ưu tiên những thảm thực vật tự nhiên ven bờ. Những loài cây được trồng gần sông, suối cũng có thể được sử dụng trong rừng phòng hộ ven bờ. Một nghiên cứu khác của Cục bảo vệ môi trường Mỹ (U.S. EPA) (2005) lại rất quan tâm đến khả năng chuyển hoá và khử Nitơ của vùng đệm ven bờ. Theo Vitouse et al. (1997) và Swakhamer et al. (2004), Nitơ là một nhân tố rất quan trọng trong các hệ sinh thái dưới nước, vùng ẩm ướt, chúng thường tồn tại ở dạng NO3-, NH4+, song nếu nồng độ Nitơ quá lớn sẽ là căn nguyên gây ô nhiễm, suy thoái môi trường nước đồng thời làm suy giảm đa dạng sinh học và ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người. Nhưng thật kỳ diệu khi các nghiên cứu về lĩnh vực này đều chứng tỏ được khả năng chuyển hoá Nitơ rất hiệu quả của vùng đệm ven bờ. Vậy, vấn đề đặt ra là: liệu có mối quan hệ chặt chẽ giữa đặc điểm và vai trò của vùng đệm ven bờ? Độ rộng bao nhiêu là đủ? Cấu trúc của vùng đệm như thế nào để cho hiệu quả tối ưu nhất?... Để làm sáng tỏ cho vấn đề này, hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều các nghiên cứu về đặc điểm rừng ven bờ được ghi nhận mà điển hình là các nghiên cứu sau: Theo NRCS Planning & Design Manual, độ rộng của hệ sinh thái rừng ven bờ có thể biến đổi linh hoạt tuỳ thuộc vào vị trí mà dòng sông chảy qua, và tiềm năng xói mòn và độ dốc của vùng đất tại đó. Ngoài ra, độ rộng này còn tuỳ thuộc vào nhu cầu về hoàn cảnh môi trường sống, độ rộng hành lang di chuyển của các
  6. 5 loài động thực vật, các loài thuỷ sinh đang sống ở đó. Theo nghiên cứu của NRCS Planning & Design Manual, phần lớn các chất lắng cặn bị giữ lại ngay trong khoảng 25% đầu tiên của độ rộng vùng đệm. Độ rộng tối thiểu của vùng đệm phải là 7,6m cho khả năng lọc chất lắng cặn, dinh dưỡng, sỏi, đá. Song, để thảm thực vật vùng đệm có thể hấp phụ, sàng lọc được thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hoá học và các hợp chất khó hoà tan khác thì độ rộng cần thiết của thảm thực vật ven bờ phải lớn hơn 30m. Kết luận này cũng trùng với kết quả nghiên cứu của Wenger Fowler (2000). Trên quan điểm của NRCS Planning & Design Manual, thì độ rộng vùng đệm ven bờ nói chung cho các trường hợp chỉ nên thiết kế vừa đủ cho việc thực hiện các chức năng của nó, do đó độ rộng tối thiểu là 7,6m và độ rộng được khuyến nghị là 61m. Nghiên cứu của Jocobs (1985) và Lowrance (1992) đều xác nhận rằng, có tới > 85% nitrat và > 78% lượng amoni được khử nếu độ rộng vùng đệm khoảng 30- 50m. Barling và Moore (1994) đã nhấn mạnh hiệu quả ngăn chặn - khử thuốc bảo vệ thực vật, chất hoá học, các hợp chất khó hoà tan, chất độc hại,... là không cao nếu thiết kế vùng đệm ven bờ nhỏ hơn 30m. Khi nghiên cứu trên các loại rừng ven bờ khác nhau thì Parkin et al. (2003) và Lynch et al. (1985) đều thống nhất rằng, hiệu quả đó sẽ gấp 2-3 lần nếu vùng đệm ven bờ là rừng trưởng thành hoặc rừng già. NRCS Planning & Design Manual nghiên cứu quan hệ giữa các kiểu thảm thực vật với hiệu quả của chúng, đã chỉ ra được sự khác nhau về mức độ hiệu quả của các kiểu thảm thực vật: cỏ, cây bụi và cây gỗ, mỗi kiểu thực vật đều có những ưu nhược điểm riêng. Vì vậy, mô hình rừng phòng hộ ven bờ tối ưu là sự kết hợp hài hoà của các kiểu thảm thực vật này. Những nghiên cứu của Fisrwg (1998), NRCS Planning & Design Manual (2002), Welch (1991), Schult et al. (1995),… đều cho rằng, việc phục hồi và thành lập hệ sinh thái rừng ven bờ là biện pháp tối ưu nhất trong bảo vệ chất lượng nước cũng như trong quản lý lưu vực bền vững. Vì tiềm năng biến đổi và hấp phụ các
  7. 6 chất dinh dưỡng, các chất lắng cặn,… đặc biệt của thảm thực vật nhờ hệ thống rễ cây và quá trình sinh lý phức tạp của chúng (Trần Thị Thanh Hương, 2008). Hầu hết các nghiên cứu đều thống nhất chung là xây dựng mô hình vùng đệm ven bờ với ba vùng chiến lược: - Vùng trong cùng, có thể là đất nông nghiệp hoặc rừng trồng đặc trưng bởi đồng cỏ bảo vệ ở dưới; - Tiếp sau đó là vùng cây bụi thảm tươi; - Vùng ngoài cùng, ven sông suối là vùng cây rừng-cây phòng hộ chính ven bờ. 1.1.3. Nghiên cứu về phục hồi rừng Việc nghiên cứu phục hồi rừng trên thế giới được bắt đầu từ rất sớm. Năm 1930, Richard P. W. đã có những nghiên cứu đầu tiên về diễn thế tái sinh phục hồi rừng, qua đó ông cho rằng, trong mỗi ô dạng bản các cây tái sinh tự nhiên có dạng phân bố cụm hoặc đều và thế hệ cây tái sinh có tổ thành giống hoặc không giống lớp cây tầng cao. Đây là những nghiên cứu mở đầu rất quan trọng cho khoa học phục hồi rừng, song nó chưa chỉ ra được những giải pháp cụ thể để phục hồi rừng. Tuy nhiên, khoa học nghiên cứu về phục hồi rừng mới thực sự phát triển vào những năm 1950 trở lại đây. Điển hình là các nghiên cứu của Barnard (1950), Smith (1952) ở Malaysia và nghiên cứu của Lamprecht ở Venezuela (1954). Những kết quả nghiên cứu đó đều đi đến thống nhất rằng: cần lợi dụng triệt để thảm thực vật hiện có với các điều kiện lập địa khác nhằm duy trì tái sinh tự nhiên kết hợp với trồng bổ sung để phục hồi lại cấu trúc rừng gần giống ban đầu (Đặng Xuân Quý, 2005). Khi nghiên cứu về rừng nhiệt đới châu Á, Van Steenis (1956) đã đưa ra kết luận: tái sinh vệt thích hợp với những cây ưa sáng mọc nhanh, vòng đời ngắn; cây tái sinh phân tán, liên tục phù hợp với các loài ban đầu chịu bóng hoặc những loài ưa bóng (Nguyễn Thị Ngọc, 2003). Khi nghiên cứu về những khu rừng nương rẫy bị bỏ hoang ở Brazil, Weidelt (1968) cho thấy, sự phát triển của các khu rừng thứ sinh có xu hướng tiến đến giá trị ban đầu của rừng nguyên sinh về số lượng và thành phần loài. Tuy nhiên, nghiên
  8. 7 cứu này chưa đề cập đến các biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình đó diễn ra nhanh và hiệu quả (Nguyễn Văn Thao, 2003). Năm 1975, khi phân tích sự phát triển của thảm thực vật thứ sinh, Whitimore đã nhấn mạnh: khoảng thời gian để các khu rừng tái sinh hạt đạt được tới trạng thái là rừng nguyên sinh có thể tới hàng trăm năm. Các khu rừng thuần loài được tạo thành bởi những loài mà hạt của chúng có thể nảy mầm và trụ được trên các khu đất trống vào thời điểm thích hợp và cần lợi dụng lớp cây chồi, xử lý thực bì theo băng rạch tránh phát trắng để sớm tạo hoàn cảnh rừng. Đặc biệt các, các nghiên cứu về kỹ thuật làm giàu rừng cũng tương đối phát triển, từ năm 1965 đã nghiên cứu và đưa khái niệm làm giàu rừng là bổ sung các loài cây có giá trị kinh tế vào những nơi rừng đã phục hồi nhưng thiếu hụt loài cây có giá trị. Đến năm 1989 Han Lamprecht và Aubreulle đã bổ sung thêm rằng, làm giàu rừng là lựa chọn tối ưu nhất cho lâm phần ban đầu không đủ loài cây tái sinh có giá trị kinh tế, từ đó đã xây dựng hoàn chỉnh phương pháp làm giàu rừng theo rạch (Bùi Thị Vân, 2005). Năm 1996, các nghiên cứu của Fedlmaner đã chỉ ra rằng, các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình tái sinh phục hồi rừng chủ yếu là: điều kiện lập địa, thành phần loài, nguồn cây mẹ gieo giống,… Song đó mới chỉ là nghiên cứu tổng hợp mà chưa chỉ ra được nhân tố nào ảnh hưởng mạnh mẽ nhất, biện pháp khắc phục như thế nào (Trần Thị Thanh Hương, 2008). Các nghiên cứu trên, tuy ở những khía cạnh khác nhau song đều có ý nghĩa lớn lao, đặt nền móng cho khoa học phục hồi rừng ngày nay. 1.1.4. Một số nghiên cứu về trồng rừng phòng hộ ven bờ 1.1.4.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng Lịch sử nghiên cứu cấu trúc rừng và các hệ thực vật trên thế giới đã có từ lâu. Những nghiên cứu về cấu trúc rừng làm cơ sở hoàn thiện các giải pháp lâm sinh, phục vụ cho yêu cầu kinh doanh rừng vào đầu thế kỷ XX đã được chú ý nhiều và phương pháp nghiên cứu mô tả định tính chuyển dần sang mô tả định lượng cùng với sự phát triển của toán thống kê và tin học. Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu về các quy luật phân bố và quy luật tương quan giữa các đại lượng đo đếm như: quy
  9. 8 luật phân bố giữa số cây và cấp kính, phân bố số cây theo chiều cao, quy luật tương quan giữa đường kính và chiều cao,… a. Nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng nói chung Nghiên cứu định lượng các mối quan hệ, cấu trúc ở rừng nhiệt đới được Rollet (1971) thực hiện công phu. Các mối quan hệ như H/D1.3, Dt/D1.3,… được biểu diễn bằng các hàm hồi qui; phân bố đường kính tán, đường kính thân cây dưới các dạng phân bố sác xuất. Rừng mưa nhiệt đới được nghiên cứu sâu rộng bởi Richards (1952), Catinot (1965, 1979) và Plandy J. (1978),… Cấu trúc hình thành rừng được biểu diễn bằng các phẫu diện đồ, các nhân tố cấu trúc sinh thái được mô tả, phân loại theo các khái niệm: Dạng sống, tầng phiến (Võ Đại Hải, 1996). Việc nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng được nhiều tác giả nghiên cứu có kết quả. Trong đó việc mô hình hoá cấu trúc đường kính ngang ngực được nhiều người quan tâm nghiên cứu và biểu diễn theo các dạng phân bố xác suất khác nhau. Có thể dùng hàm Weibull để mô hình hoá cấu trúc rừng theo mô hình hoá cấu trúc rừng theo mô hình của Schumacher và Coile với lâm phần hỗn giao khác tuổi. Phân bố N/D11.3 hầu hết là phân bố giảm Meyer (1934), Pordan (1949) mô tả phân bố N/D1.3 rừng tự nhiên bằng phương trình Meyer: N=k.e-d (Võ Đại Hải, 1996). Các nghiên cứu về quy luật cấu trúc của tác giả như Parde (1961), Bestram (1972), Rollet (1979), Bennet, Brukhart, Hempen (1969) đưa ra những kết luận quan trọng và cho rằng phân bố N/D1.3 của rừng thuần loài đều tuổi thường có đường cong lệch trái. Khi tuổi của lâm phần càng tăng thì độ lệch phân bố càng giảm và tiệm cận phân bố chuẩn, đồng thời khi tuổi tăng lên thì phạm vi phân bố càng rộng và đường cong phân bố càng bẹt (Võ Đại Hải, 1996). b. Nghiên cứu cấu trúc rừng phòng hộ Cấu trúc và mạng lưới đai rừng chắn gió, bảo vệ đường xá, làng mạc, đồng ruộng,… đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như: Zakharop P.X. (1981), Xobolep C.C. (1960, 1961, 1962), Xirotkin lu.D. (1988),… Các tác giả cho biết: muốn nâng cao hiệu quả của các đai rừng chắn gió phải căn cứ vào mục tiêu và đối tượng mà lựa chọn cấu trúc đai rừng kín hay thưa cũng như việc phối trí mạng lưới
  10. 9 đai rừng. Những nghiên cứu này đã góp phần nâng cao năng suất cây trồng ở những nơi có điều kiện khí hậu khắc nghiệt như gió, nắng…(Võ Đại Hải, 1996). Công trình nghiên cứu của Mortranev A.A. (1960, 1973) và Marveev P.N. (1973) là những công trình lớn nhất đề cập tới cấu trúc rừng phòng hộ đầu nguồn nước [29]. Với trang thiết bị tạo mưa nhân tạo, các tác giả đã nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố cấu trúc tới khả năng điều tiết nước, bảo vệ đất của rừng như: cấu trúc tổ thành loài, cấu trúc tuổi, cấu trúc tầng thứ và độ tàn che. Những nghiên cứu này đã đặt cơ sở khoa học cho việc xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn cũng như việc xác định các biện pháp kỹ thuật lâm sinh tác động vào rừng ôn đới. Lui Wenvao và các cộng sự (1992) nghiên cứu cấu trúc rừng phòng hộ ở tỉnh Yunnan (Trung Quốc). Nghiên cứu này chú ý nhiều đến vai trò của tầng mặt đất và cấu trúc tấng thứ, bổ sung cho hạn chế nghiên cứu của Mortranev A.A. (1960, 1973) và Marveev P.N. (1973) (Võ Đại Hải, 1996), (Nguyễn Văn Tú, 2002). 1.2. Lược sử vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam 1.2.1. Một số nghiên cứu về hệ sinh thái rừng phòng hộ ven bờ Việc nghiên cứu về rừng phòng hộ ven bờ cũng như các giải pháp phục hồi hệ sinh thái rừng phòng hộ ven bờ vẫn còn là khá mới ở Việt Nam. Tuy nhiên, vào những năm 70 của thế kỷ XX đã bước đầu có một số công trình nghiên cứu về thuỷ văn rừng đề cập đến vấn đề này, một trong những nghiên cứu điển hình đó là: Nghiên cứu của Bùi Ngạnh, Nguyễn Danh Mô (1977) và Nguyễn Ngọc Đích (1985) về sự biến đổi dòng chảy mặt thành của một số dạng rừng khác nhau. Các tác giả đã đề xuất những mô hình bố trí đai rừng giữ nước trong vùng đất dốc và ven lưu vực sông. Mặt khác, khi nghiên cứu về rừng phòng hộ ở các triền sông, Lê Đăng Giảng và Nguyễn Hoài Thu (1981) đã đề nghị: cần thiết phải thiết kế rừng phòng hộ ở các triền sông sao cho phát huy tối đa khả năng giữ nước của nó, song đề tài chưa đưa ra được một số mô hình hay biện pháp cụ thể nào cho rừng phòng hộ ở các triền sông.
  11. 10 Tác giả Vũ Anh Tuấn (2004), với luận án tiến sĩ : “Nghiên cứu biến động của lớp phủ thực vật đến quá trình xói mòn trên lưu vực sông” đã đánh giá lớp phủ thực vật, đặt biệt độ che phủ của rừng ven bờ có quan hệ rất chặt tới xói mòn lưu vực. Đồng thời tác giả đã đề xuất theo dõi, quản lý xói mòn trên các lưu vực sông bằng ảnh vệ tinh. Năm 2005, với luận văn Thạc sĩ khoa học Lâm nghiệp: “Nghiên cứu đặc điểm vùng bán ngập của một số hồ trọng điểm ở miền Bắc Việt Nam và đề xuất giải pháp trồng rừng phòng hộ ven hồ”, Âu Văn Bảy đã phân tích điều kiện lập địa và đề xuất được mô hình trồng rừng ven hồ. Song đề tài chưa đề cập đến các giải pháp kinh tế xã hội nên tính thuyết phục không cao. Nghiên cứu của GS. Phạm Song, Phó trưởng Ban thường trực Ban chỉ đạo Quốc gia về cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường, chỉ ra rằng: 1ha rừng ven bờ, về mùa lũ sẽ ngăn cản tối đa lượng đất đá đổ xuống dòng sông là không đáng kể. Nhưng nếu 1ha thảm thực vật rừng này bị suy giảm thì về mùa lũ lượng đất, đá đổ xuống dòng sông có thể lên đến 150 tấn/năm gấp 1500 lần… Vì vậy, nếu không có biện pháp phục hồi rừng phòng hộ ven bờ sông suối thì kết quả là dòng sông đó sẽ bị ô nhiễm và dần bị lấp đầy (Bộ Tài nguyên và Môi trường Ban sông Cầu, 2000) (Trần Thị Thanh Hương, 2008). Năm 2008, Trần Thị Thanh Hương với đề tài tốt nghiệp: “Nghiên cứu một số biện pháp phục hồi hệ sinh thái rừng phòng hộ ven bờ sông Cầu tại xã Dương Quang, thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn” đã đề xuất một số biện pháp phục hồi rừng ven bờ. Tác giả đưa ra biện pháp khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung ở các trạng thái còn tính chất đất rừng và trồng mới ở đất canh tác nông nghiệp ven bờ sông. 1.2.2. Nghiên cứu về phục hồi rừng Những nghiên cứu về biện pháp phục hồi rừng đã diễn ra từ những năm 1950, đặc biệt là năm 1961. Nhưng phải tới những năm 90 mới thực sự có các công trình nghiên cứu chuyên sâu về phục hồi và diễn thế rừng ở Việt Nam. Một số công trình nghiên cứu tiên phong phải kể đến là:
  12. 11 Năm 1993, khi nghiên cứu giải pháp phục hồi hệ sinh thái rừng ở miền Nam Việt Nam, nơi rừng bị nhiễm chất độc màu da cam, Thái Văn Trừng đã kết luận rằng, để phục hồi loại rừng này cần thiết phải qua hai bước là: trồng loài cây có khả năng tổng hợp Nitơ tự nhiên để giải phóng đất, sau đó chặt bỏ lớp cây này rồi trồng cây có giá trị. Đỗ Quang Tiệp (1993), khi nghiên cứu rừng tái sinh tự nhiên dưới tán rừng khộng ở Easup- ĐăcLăk, đã đưa ra kết luận: độ tàn che của rừng, thảm mục, độ dày đặc của thảm tươi, điều kiện lập địa là những nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến số lượng và chất lượng cây tái sinh (Trần Thị Thanh Hương, 2008). Nguyễn Ngọc Lung (1995) và Nguyễn Luyện (1992) đều cho rằng, hiệu quả phục hồi rừng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện tự nhiên, đặc tính sinh vật học của các loài, điều kiện kinh tế xã hội của khu vực đó (Nguyễn Ngọc Lung, 1995). Vũ Xuân Đê (1999) đã nghiên cứu và cho rằng: cần thiết phải hỗ trợ tái sinh tự nhiên bằng tái sinh nhân tạo vì tiêu chuẩn cơ bản để xét đối tượng làm giàu rừng tái sinh tự nhiên không đủ khả năng đảm bảo cho rừng phục hồi với chất lượng cao. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều tập trung tìm hiểu quy luật của quá trính diễn thế tái sinh phục hồi rừng. Những kết quả này sẽ là cơ sở khoa học nhằm xác định các biện pháp phục hồi rừng. Song, để phục hồi rừng có hiệu quả rất cần thiết phải có quy trình quy phạm cụ thể. Do vậy QPN (Quy phạm ngành) 14-92, kèm theo QĐ 200 QĐ-KT (Quy định - Kỹ thuật) năm 1993 về quy trình quy phạm các biện pháp kỹ thuật lâm sinh phục hồi rừng đã lần lượt được ban hành. Gần đây, QPN 21-98 đã bổ sung thêm các tiêu chuẩn mang tính lượng hoá nhằm xác định đối tượng, biện pháp, thời gian và kết quả đạt được của hoạt động phục hồi rừng. Một số kỹ thuật lâm sinh cho phục hồi rừng thứ sinh nghèo chủ yếu hiện nay là: - Kỹ thuật phục hồi rừng bằng khoanh nuôi bảo vệ (KNBV): là giải pháp tận dụng triệt để khả năng tái sinh và diễn thế rừng tự nhiên để tạo lại rừng, thông qua các biện pháp ngăn chặn có tính chất hành chính với các tác động có hại từ bên ngoài; chặt phá, chăn thả, đốt rừng,…
  13. 12 - Kỹ thuật xúc tiến tái sinh tự nhiên: là một biện pháp phục hồi rừng dựa vào năng lực tái sinh tự nhiên của rừng nghèo hiện có (hạt hoặc chồi) là chính, thông qua kỹ thuật người ta có thể trồng bổ sung mật độ và tổ thành cây tái sinh để đảm bảo rừng được phục hồi tốt, đáp ứng các mục tiêu đề ra. - Kỹ thuật phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh (KNXTTS) kết hợp làm giàu rừng: là giải pháp lợi dụng triệt để khả năng tái sinh, diễn thế tự nhiên để phục hồi rừng thông qua các biện pháp bảo vệ, biện pháp kỹ thuật lâm sinh và trồng bổ sung cần thiết. - Kỹ thuật làm giàu rừng: là biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm cải thiện tỷ lệ cây mục đích ở rừng thứ sinh nghèo (hoặc tỷ lệ cây tốt ở rừng trồng) mà không loại bỏ thảm thực vật rừng cũ và các cây non mục đích có sẵn. 1.2.3. Một số nghiên cứu về trồng rừng phòng hộ ven bờ 1.2.3.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu cấu trúc rừng tập trung vào 2 đối tượng chủ yếu, đó là rừng sản xuất và rừng phòng hộ. a. Nghiên cứu cấu trúc rừng sản xuất phục vụ kinh doanh Để phục vụ kinh doanh rừng, trong những năm qua nhiều nhà khoa học trong nước đã tập trung nghiên cứu nhiều mặt đặc điểm cấu trúc của rừng tự nhiên và rừng trồng. Khởi đầu là các công trình có tính chất tổng quan về phân loại, tìm hiểu bước đầu về rừng hỗn loài, và từ những năm 1970 trở lại đây nhờ sự phát triển mạnh mẽ của lâm sinh học định lượng, đã từng bước mô phỏng các hệ sinh thái rừng từ đơn giản đến phức tạp bằng các mô hình phục vụ kinh doanh rừng có cơ sở khoa học và đạt hiệu quả cao. Có thể kể ra hàng loạt các tác giả: Đồng Sỹ Hiền (1974) đã dùng họ đường cong Pearson để biểu diễn số cây theo cỡ kính ở rừng tự nhiên; Nguyễn Hải Tuất (1975, 1990) đã ứng dụng phân bố khoảng cách và quá trình Poisson vào nghiên cứu cấu trúc quần thể rừng,… (Võ Đại Hải, 1996). Nhiều tác giả đã tập trung nghiên cứu, định lượng các nhân tố cấu trúc và xây dựng các mô hình cấu trúc chuẩn để phục vụ cho khai thác - nuôi dưỡng rừng, vạch ra phương hướng và phương pháp điều chế: Nguyễn Văn Trương (1973, 1983,
  14. 13 1984) đã nghiên cứu phương pháp thống kê xây dựng cấu trúc 3 chiều rừng gỗ hỗn loài và đề xuất mô hình cấu trúc mẫu định lượng bằng toán học; Nguyễn Hồng Quân (1975, 1981) đã sử dụng hàm mũ kiểu Meyer để phân cấp các lâm phần chặt chọn trên cơ sở thay đổi hệ số góc của phương trình khi hoàn cảnh thay đổi, và mới đây được Lê Minh Trung (1991) vận dụng để xây dựng cấu trúc mẫu trên 3 cấp năng suất cho rừng tự nhiên hỗn loài cao nguyên Đắc Nông; Vũ Đình Phương (1987, 1988) đã vận dụng phương pháp toán học để phân chia cấu trúc tầng thứ, trên cơ sở đó xây dựng mô hình rừng có năng suất cao,… (Võ Đại Hải, 1996). Những công trình nghiên cứu trên đã đặt cơ sở khoa học cho kinh doanh rừng sản xuất ở nước ta. Về tác dụng phòng hộ của các nhân tố cấu trúc rừng chưa được các tác giả chú ý và nghiên cứu. b. Nghiên cứu về cấu trúc rừng phòng hộ Cho tới nay những nghiên cứu về cấu trúc rừng phòng hộ ở nước ta còn rất ít ỏi và mới chỉ được đề cập ở một vài khía cạnh nhỏ. Công trình nghiên cứu của Bùi Ngạnh, Nguyễn Danh Mô (1977) là công trình nghiên cứu đầu tiên ở nước ta đề cập tới cấu trúc rừng phòng hộ nguồn nước (độ tàn che, tổ thành loài) với một số quan điểm và phương pháp nghiên cứu tiến bộ, có cơ sở khoa học và ý nghĩa thực tiễn lớn. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề phải đi sâu thêm như các sơ sở và dẫn liệu của việc đánh giá khả năng điều tiết nước, giữ đất của lớp thảm tươi, một số nội dung nghiên cứu về thuỷ văn và cấu trúc rừng chưa được đề cập đầy đủ và mang nhiều tính mô phỏng. Công trình nghiên cứu của Vũ Văn Mễ, Nguyễn Thanh Đạm (1990) đã xây dựng phương thức trồng rừng phòng hộ - kinh tế ở vùng khô hạn, trong đó hai vấn đề trọng tâm được xem xét là tổ thành loài cây trồng và kết cấu đai rừng phòng hộ. Đây là công trình đề cập nhiều tới việc phối hợp các loài cây phòng hộ kinh tế, đặc biệt là về xây dựng mạng lưới đai rừng phòng hộ, có ý nghĩa lớn trong việc xây dựng các đai rừng cải thiện điều kiện khí hậu, đất đai. Tuy vậy, phần đánh giá tác dụng phòng hộ của các đai rừng chưa được chú trọng một cách đúng mức.
  15. 14 Ngoài các công trình nghiên cứu trên còn có một số ít các công trình khác đề cập tới cấu trúc rừng phòng hộ ở các mức độ khác nhau như công trình của Trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp Phù Ninh (1992, 1993) của Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải (1993, 1994), của Lâm Phúc Cố (1995) và của Vũ Văn Mễ (1995). Năm 1996, Võ Đại Hải làm luận án Phó tiến sỹ khoa học nông nghiệp “Nghiên cứu cac dạng cấu trúc hợp lý cho rừng phòng hộ đầu nguồn ở Việt Nam”. Tác giả đã dùng các phương trình dự báo xói mòn của Wischmeier W.H. – Smith D.D. của một số dạng cấu trúc rừng ở nước ta. Phương trình Wischmeier W.H. – Smith D.D. và hệ số thảm thực vật (C) mà đề tài xác định được có thể sử dụng và tham khảo để dự báo xói mòn cho một số vùng sinh khí hậu ở nước ta cũng như việc xác định các phương thức trồng cây hoặc kiểu cấu trúc cần thiết của thảm thực vật ở các vùng xung yếu khác nhau. Năm 2002, Nguyễn Văn Tú nghiên cứu cấu trúc các trạng thái rừng và tình hình tái sinh rừng trên núi đá vối - Đa Phúc - Yên Thuỷ - Hoà Bình. Tác giả đã đưa ra các biện pháp kỹ thuật lâm sinh thích hợp để bảo tồn và phát triển rừng. 1.2.3.2. Nghiên cứu về kỹ thuật trồng rừng phòng hộ Nghiên cứu về giải pháp kỹ thuật trồng rừng phòng hộ ở Việt Nam có Cẩm nang ngành Lâm nghiệp, chương rừng phòng hộ đầu nguồn và rừng phòng hộ ven biển (2006) đã phân tích vai trò, chức năng và phân loại rừng phòng hộ; nêu nên hiện trạng rừng phòng hộ ở Việt Nam và định hướng quy hoạch phát triển đến năm 2010, đưa ra giải pháp kỹ thuật trồng rừng phòng hộ; khung pháp lý và thể chế chính sách quản lý rừng phòng hộ; rút ra một số bài học thực tiễn quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn và phòng hộ chống cát bay, xói lở ven biển. Một số giải pháp kỹ thuật trồng rừng phòng hộ ở Việt Nam: 1. Rừng phòng hộ đầu nguồn - Về kỹ thuật trồng rừng Về nguyên tắc trồng rừng phòng hộ đầu nguồn cũng giống như trồng rừng nói chung, tuy nhiên có một số điểm khác biệt đáng chú ý sau đây:
  16. 15 Xử lý thực bì: Không phát dọn toàn diện mà thường chỉ xử lý cục bộ ở những khu vực đào hố trồng cây hay xử lý theo rạch. Thực bì phát dọn không đốt mà tập trung thành đống nhỏ xếp ngang theo đường đồng mức. Cây bụi, cây tái sinh có trên đất rừng cần phải giữ lại để nuôi dưỡng, tạo rừng hỗn loài, đa tầng. Làm đất chỉ tiến hành cục bộ bằng phương pháp đào hố. Những nơi áp dụng cơ giới cần chú ý làm đất theo đường đồng mức. Tiêu chuẩn cây con đem trồng, đặc biệt là cây bản địa phải lớn hơn so với trồng rừng bình thường để nhanh chóng tạo lập hoàn cảnh rừng và phát huy chức năng phòng hộ. Phương thức trồng rừng: hỗn giao theo hàng, theo đám, theo băng (thuần loài trên diện hẹp), có thể hỗn giao giữa cây phòng hộ chính với cây phù trợ hoặc giữa các cây phòng hộ với nhau. Ở những nơi đất đã bị thoái hoá lâu ngày, tầng đất mỏng có thể áp dụng trồng rừng theo 2 bước: Bước 1: Gieo cây cải tạo và che phủ đất như Cốt khí, Đậu triều, Muồng hoa pháo,…Thời gian kéo dài khoảng 1-3 năm tuỳ tình hình cụ thể; Bước 2: Trồng rừng như đã mô tả ở trên. Mật độ trồng rừng: thường dày hơn so với trồng rừng kinh tế để rừng nhanh khép tán và phát huy chức năng phòng hộ. Kỹ thuật trồng: Khi trồng cần chú ý tạo mặt bằng cục bộ ở hố trồng cây, phần phía dưới dốc nên đắp gờ cao hơn phía trên dốc một chút để giữ nước cho cây. Chăm sóc và nuôi dưỡng rừng trồng phòng hộ: Những năm đầu chỉ làm cỏ và xới đất cục bộ quanh gốc cây, không phát luỗng cây bụi kể cả những cây không có giá trị kinh tế. Làm vệ sinh rừng bằng cách loại bỏ những cây sâu bệnh, dây leo. Không áp dụng các biện pháp tỉa cành. Khi rừng trồng đã lớn, các loài cây tái sinh dần dần xuất hiện, cần chú ý tạo điều kiện để những cây này phát triển, dẫn dắt rừng theo hướng hỗn loài, nhiều tầng, độ che phủ cao. - Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng phòng hộ có trồng bổ sung Đối với những vùng núi xa xôi, điều kiện trồng rừng khó khăn thì phương thức này tỏ ra rất có hiệu quả. Có thể áp dụng các điều khoản thích hợp trong Quy
  17. 16 phạm phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung QPN 21-98. Có 2 mức độ tác động thấp và cao gắn với các biện pháp kỹ thuật cụ thể sau đây. Mức độ tác động thấp: Quản lý bảo vệ là chính, bao gồm các nội dung: Cấm chăn thả đại gia súc; đối với các loại rừng dễ cháy cần có biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng; bảo vệ chống chặt phá cây mẹ gieo giống, cây tái sinh; được phép trồng bổ sung cây công nghiệp lâu năm, cây lấy quả, cây đặc sản có độ tán che phủ như cây rừng do dân tự bỏ vốn đầu tư hoặc vay vốn để đầu tư trồng bổ sung. Mức độ tác động cao: Những nơi có điều kiện cho phép, ngoài các biện pháp tác động thấp trên đây có thể áp dụng thêm các kỹ thuật sau đây tuỳ điều kiện cụ thể: Phát dọn dây leo tạo điều kiện cho cây tái sinh phát triển; cuốc xới đất theo rạch hoặc theo đám để giữ hạt và tạo điều kiện cho hạt nảy mầm; tra dặm hạt hoặc trồng bổ sung các loài cây mục đích phòng hộ (cây gỗ, cây đặc sản) ở các khoảng trống lớn hoặc xen kẽ trong tán rừng; sửa lại gốc chồi và tỉa chồi: Tuỳ loài cây để lại gốc chồi có độ cao thích hợp, mặt cắt phải nhẵn, có độ nghiêng để thoát nước, không bị toác, bong vỏ; phát dọn, vun xới xung quanh cây mục đích phòng hộ và cây trồng bổ sung, mỗi năm1-2 lần trong 2-3 năm đầu; chặt bỏ cây cong queo, sâu bệnh. Đối với rừng tre nứa: không lấy măng trong giai đoạn khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh. Chặt và tận dụng hết các cây bị sâu bệnh, gẫy dập, cụt ngọn. 2. Rừng phòng hộ chống cát bay ven biển - Trồng các giải rừng phòng hộ xung yếu sát bờ biển, trên đất cát mới bồi ven biển: Đây là dạng đất cát mới bồi ven biển, mới hình thành, có độ phì tương đối khá nhất. Chúng ta cần tranh thủ trồng ngay các giải rừng phòng hộ để kịp thời chặn cát bay, khởi đầu di chuyển từ bờ biển vào đất liền. Cây phi lao rất thích hợp trên dạng đất này. Mật độ trồng rừng phi lao phòng hộ ở đây 5.000 cây/ha (cây trong hàng cách nhau 1m, hàng cách hàng 2m chạy song song với bờ biển ). Trồng bằng cây con rễ trần, 8 tháng tuổi, cây có chiều cao 70-80 cm. Trồng vào những ngày mưa, trong đầu mùa mưa. Kích thước hố đào 40x40 cm sâu 50cm.
  18. 17 Nếu có điều kiện, bón 0,5kg phân chuồng hoai cho một hố. Bề dầy của giải rừng phi lao trồng tối thiểu là 100m và giải cần được trồng liên tục chạy song song với bờ biển. Chăm sóc rừng lần 1 sau khi trồng 3 tháng. Rừng phi lao trồng phòng hộ trên dạng đất này, cho năng xuất gỗ khá cao từ 5 – 10 m3/ha/năm. Khi rừng phi lao trồng phòng hộ đến tuổi thành thục (20 tuổi), có thể khai thác tận dụng, theo phương thức các ô rừng khai thác có diện tích hẹp 0,5ha, nằm đan xen nhau, để giải rừng không có một đoạn nào bị đứt quãng, luôn luôn tạo thành một giải rừng khép kín. Trong giải rừng phòng hộ này, cũng có thể trồng xen một số cây bạch đàn Urophylla, keo lưỡi liềm, hoặc keo lai để nâng cao giá trị kinh tế của rừng, nhưng tỷ lệ trồng xen không nên vượt quá 30%. Trồng xen theo hàng, theo cây nằm ở phần phía sau của giải rừng phòng hộ. - Trồng rừng phi lao với mật độ dầy để cố định các cồn cát di động và bán di động: Đây là dạng đất cát có nhiều khó khăn nhất khi trồng rừng phòng hộ chống cát bay, cố định các cồn cát di động và bán di động vì chúng có độ phì thấp nhất trong các loại đất cát ven biển, mặt khác cát bay theo gió với tốc độ khá mạnh, làm trốc rễ, dập nát lá, vỏ cây và vùi lấp cây trồng. Ngay cây phi lao là cây duy nhất có thể sử dụng để trồng rừng phòng hộ cố định các cồn cát di động, nhưng lá và chồi non của nó cũng bị tổn thương do sự va đập mạnh của các hạt cát bay. Vì những lý do trên mà rừng phi lao trồng trên các cồn cát di động và bán di động có mật độ rất cao 10.000 cây/ha. Trồng bằng cây con rễ trần 12 tháng tuổi với chiều cao của cây 90-100 cm. Hố trồng đào sâu tới 50-60 cm và có bón phân hữu cơ (phân chuồng hoai) khoảng 1kg phân/1 hố. Ở các nơi gió mạnh, xung yếu, còn phải phủ cả cỏ, hoặc lá cây trên mặt đất. Thậm chí còn phải trồng cả các loài cỏ chịu hạn cùng với phi lao, để nhanh chóng có tác dụng cản cát bay. Thời vụ trồng: các ngày mưa trong đầu mùa mưa. Trồng xuôi theo hướng gió chính thổi tới. Cây con trồng có đủ tiêu chuẩn để chịu được hạn, như: Cây con đã đủ 12 tháng tuổi, hoặc hơn. Cây có chiều cao từ 120-150 cm. Cây đã mộc hoá đều, cứng
  19. 18 thân cứng ngọn. Hệ rễ phát triển bình thường, rễ cọc mọc thẳng (không bị uốn cong) và có nốt sần cộng sinh. Trồng sâu là biện pháp kỹ thuật đặc biệt cho vùng cát. Nếu cây cao 1,2 m phải trồng 1/2-1/3 thân cây lút vào cát, nghĩa là khoảng 50-70 cm thân và cành cây phi lao được chôn vào cát, cùng với toàn bộ rễ của cây phi lao sẽ nằm ở độ sâu 80- 100 cm. Như vậy nếu cây phi lao đem trồng có chiều cao 1,5m thì có thể phải trồng sâu tới 1m (100cm). Bởi vì ở độ sâu này, độ ẩm của đất cát mới tăng lên đạt 1- 1,5%, vượt quá ngưỡng độ ẩm cây héo của đất cát, vào mùa mưa độ ẩm của đất cát ở độ sâu này mới tăng lên 2-3,7% (GS.Lâm Công Định -1991). Độn đáy hố với lớp lá phi lao hay phế thải nông nghiệp dày để chống hạn, cùng với 1kg phân chuồng hoai cho 1 hố, để nâng cao độ phì của đất cát và giữ độ ẩm cho đất cát. Để giảm bớt giá thành trồng rừng phi lao ở vùng đất cát khô hạn, có thể trồng với mật độ 4.000 cây/ha ở chân cồn, giảm dần tới 3.500 cây/ha ở sườn cồn, lên tới đỉnh cồn mật độ còn 3.000 cây/ha (Lâm Công Định 1991). Rừng phòng hộ cố định các cồn cát di động, chỉ được khai thác lợi dụng các cây chết hoặc già cỗi, với mức độ khai thác mỗi lần không quá 15% tổng số cây trên một ha và phải khai thác xen kẽ, không được khai thác trên diện tích rộng vượt quá 50m2. Đai rừng phòng hộ chính được sắp xếp vuông góc hoặc gần vuông góc với hướng gió hại, đai có bề rộng 50m, trên đó trồng 15 hàng cây, ở giữa trồng 3 hàng cây phi lao, 2 bên đai rừng, mỗi bên trồng 3 hàng cây keo lá liềm và ngoài cùng trồng 3 hàng cây keo chịu hạn (A.torulosa). Khoảng cách giữa các đai rừng chính từ 100-120 m, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể ở từng khu vực. Đai rừng phòng hộ phụ rộng 15m, trong đó được trồng 4 hàng cây. Ởgiữa đai trồng 2 hàng cây phi lao, 2 bên đai, mỗi bên trồng thêm 1 hàng cây keo chịu hạn. Đai rừng phòng hộ phụ được bố trí trồng vuông góc với các đai rừng chính, tạo thành các ô vuông khép kín, theo dạng ô cờ (không đắp các bờ cát). Mỗi cạnh có chiều dài 100-120m, phần ô bên trong, sau khi chặn được nạn cát bay, tiến hành canh tác nông nghiệp, các cây trồng chịu hạn như dưa gang, bí, cà, lạc, khoai lang v.v...
  20. 19 Mỗi hố trồng cây lâm nghiệp, có kích thước 40x40 cm, sâu 50 cm. Bón 1 kg phân chuồng hoai cho 1 hố + 70 gam Supe lân. Tiêu chuẩn cây con đem trồng: Phi lao 8 tháng tuổi, chiều cao 70-80 cm. Keo lá tràm 4 tháng tuổi, chiều cao 35-40 cm. Keo chịu hạn 4 tháng tuổi, chiều cao 35- 40 cm. Thời vụ: Trồng vào các ngày mưa trong mùa mưa (tỉnh Bình Thuận trồng trong tháng 9 tháng 10, tỉnh Hà Tĩnh trồng từ tháng 9 đến hết tháng 12. Việc khai thác lợi dụng các đai rừng phòng hộ này cũng tương tự như các đai rừng phòng hộ trên các bờ ruộng, theo dạng ô cờ, canh tác nông nghiệp đã trình bày ở phần trên. 3. Rừng phòng hộ chống sóng, xói lở bờ biển - Gây trồng rừng phòng hộ chống sóng, xói lở ven biển và cố định bãi bồi Bề rộng đai rừng phòng hộ chống sóng biển và xói lở, cố định bãi bồi: Những nghiên cứu về nội dung này còn rất hạn chế ở Việt Nam nên các hướng dẫn kỹ thuật còn ở mức độ rất tổng quát. Ở Việt Nam đã có 1 số quy định thành văn bản: Hướng dẫn phân cấp phòng hộ đê biển của Viện Điều tra quy hoạch rừng (1997) phục vụ chương trình 327 đã tạm quy định: Đối với đê cửa sông, rừng phòng hộ rộng 40-80m. Đối với đê trực tiếp biển, rừng phòng hộ rộng 120-200m. Quy chế quản lý Rừng đặc dụng, Rừng phòng hộ, Rừng sản xuất là rừng tự nhiên (Quyết định 08) tại Điều 22 khoản 3 đã quy định “Rừng phòng hộ chắn sóng ven biển phải có ít nhất 1 đai rừng rộng tối thiểu 30m gồm nhiều hàng cây khép tán, các đai rừng có cửa so le. Qua nghiên cứu phần tổng quan trên nhận thấy, trên thế giới đã có những nghiên cứu khá đầy đủ về rừng phòng hộ ven bờ sông suối, cũng như các biện pháp trồng, phục hồi rừng ven bờ sông. Tuy nhiên, ở Việt Nam các nghiên cứu này chưa nhiều và chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, việc nghiên cứu của đề tài sẽ là rất cần thiết trong quản lý lưu vực bền vững ở Việt Nam hiện nay.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2