Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu khả năng hấp thụ CO2 rừng tự nhiên trạng thái IIB tại huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên
lượt xem 5
download
Nội dung chính của đề tài là nghiên cứu sinh khối rừng tự nhiên trạng thái IIB huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Nghiên cứu khả năng hấp thụ CO2 rừng tự nhiên trạng thái IIB huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Đề xuất một số ứng dụng trong việc xác định sinh khối và lượng CO2 hấp thụ trạng thái rừng IIB huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu khả năng hấp thụ CO2 rừng tự nhiên trạng thái IIB tại huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP --------------------------------------------- VŨ ANH TUẤN NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG HẤP THỤ CO2 RỪNG TỰ NHIÊN TRẠNG THÁI IIB TẠI HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Võ Đại Hải Hà Nội – 2011
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Trong vòng 1.000 năm qua, nhiệt độ bề mặt Trái đất có tăng, giảm không đáng kể và có thể nói là ổn định. Tuy nhiên, trong vòng 200 năm trở lại đây, đặc biệt là trong mấy chục năm vừa qua khi công nghiệp hoá phát triển, nhân loại bắt đầu khai thác than đá, dầu lửa, sử dụng các nhiên liệu hoá thạch,... Cùng với các hoạt động công nghiệp tăng lên, nhân loại bắt đầu thải vào bầu khí quyển một lượng khí CO2, nitơ ôxít, mêtan,... dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng nồng độ khí nhà kính trong khí quyển khiến cho nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên, gây ra hiện tượng biến đổi khí hậu tác động đến toàn bộ nhân loại như: Nước biển dâng, tăng nhiệt độ, tác động của các hiện tượng khí hậu cực đoan và thiên tai gây ra những hậu quả nghiêm trọng đến các nước trên thế giới, đây được coi là một trong thách thức của loài người trong thế kỷ 21. Theo tính toán của các nhà khoa học, khi nồng độ C02 trong khí quyển tăng gấp đôi, thì nhiệt độ bề mặt trái đất tăng lên khoảng 30C. Các số liệu nghiên cứu cho thấy nhiệt độ trái đất đã tăng 0,50C trong khoảng thời gian từ 1885-1940, do thay đổi của nồng độ C02 trong khí quyển từ 0,027% lên 0,035%. Từ năm 1958 đến 2003 lượng C02 trong khí quyển tăng lên 5%. Theo ước tính của các nhà khoa học, nếu toàn bộ sinh khối của rừng mưa nhiệt đới bị đốt trong vòng 50 năm tới thì lượng C02 thải ra cùng với lượng C02 không được hấp thụ từ rừng mưa sẽ làm tăng lượng C02 trong khí quyển gấp đôi hiện nay và nhiệt độ trái đất sẽ tăng lên 2 - 50 C, làm cho băng 2 cực tan dẫn đến những thay đổi đối với các hệ sinh thái ở dãy Himalaya, dãy Andes và mực nước biển sẽ dâng lên 1-3 m làm ngập các vùng thấp ven biển phía Nam của Bangladesh, đồng bằng sông Mêkông ở Việt Nam và một phần lớn diện tích các bang Florida và Louisiana của Mỹ, nhiều hòn đảo trên Thái Bình Dương sẽ biến mất trên bản đồ thế giới. Nhằm ngăn chặn phát thải khí nhà kính và giảm thiểu sự ấm lên toàn cầu và biến đổi khí hậu, tại hội nghị lần thứ 13 Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP13) diễn ra tại Bali, Indonesia vào tháng 12/2007, các bên đã thông qua kế hoạch hành động Bali (Bali Action Plan) trong đó có đề xuất lộ trình xây dựng và
- 2 đưa REDD (Chương trình giảm phát thải khí nhà kính từ nỗ lực giảm mất rừng và giảm suy thoái rừng tại các nước đang phát triển) trở thành một cơ chế chính thức thuộc hệ thống các biện pháp hạn chế biến đổi khí hậu trong tương lai. Việt Nam là một trong 9 quốc gia tham gia Chương trình hợp tác của Liên Hợp Quốc về REDD. Đây là cơ hội tạo thu nhập mới và bền vững cho các cộng đồng sống gần rừng và trong rừng thông qua các dự án nhằm ngăn chặn mất rừng và suy thoái rừng để tăng lượng dự trữ carbon trong rừng và sau đó bán các tín chỉ carbon trên thị trường carbon toàn cầu. Nghị định 99/2010/NĐ-CP về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng quy định: Hấp thụ và lưu giữ các bon của rừng, giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính là loại dịch vụ môi trường rừng được chi trả dịch vụ môi trường rừng. Việc quy định giá trị của rừng bao gồm cả giá trị kinh tế hàng hoá và giá trị môi trường của rừng là một bước chuyển có tính cách mạng trong quản lý rừng ở nước ta, phản ánh xu thế tất yếu của xã hội và hội nhập quốc tế. Việc định lượng khả năng hấp thụ carbon và tính toán giá trị thương mại carbon của rừng là một phần quan trọng trong định lượng giá trị môi trường của rừng. Rừng tự nhiên IIB chiếm một tỷ lệ lớn trong toàn bộ diện tích rừng tự nhiên ở nước ta. Do vậy, việc nghiên cứu sinh khối và khả năng hấp thụ C0 2 cho đối tượng rừng này là rất cần thiết trong tiến trình lượng hóa các giá trị môi trường rừng, chi trả dịch vụ môi trường rừng và hướng tới thị trường thương mại carbon trên thế giới. Tuy nhiên, cho tới nay lại chưa có nhiều nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon của trạng thái rừng này. Xuất phát từ những yêu cầu đó, đề tài: “Nghiên cứu khả năng hấp thụ CO2 rừng tự nhiên trạng thái IIB huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên” đặt ra là cần thiết và có ý nghĩa.
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Trên thế giới 1.1.1. Nghiên cứu về sinh khối và năng suất rừng Mặc dù rừng chỉ che phủ 21% diện tích bề mặt đất, nhưng sinh khối thực vật của nó chiếm đến 75% so với tổng sinh khối thực vật trên cạn và lượng tăng trưởng hàng năm chiếm 37%. Lượng carbon hấp thụ bởi rừng chiếm 47% tổng lượng carbon trên trái đất, nên việc chuyển đổi đất rừng thành các loại hình sử dụng đất khác có tác động mạnh mẽ đến chu trình carbon trên hành tinh. Các hoạt động lâm nghiệp và sự thay đổi phương thức sử dụng đất, đặc biệt là sự suy thoái rừng nhiệt đới là một nguyên nhân quan trọng làm tăng lượng CO2 trong khí quyển, ước tính khoảng 1,6 tỷ tấn/năm trong tổng số 6,3 tỷ tấn khí CO2/năm được phát thải ra do các hoạt động của con người. Do đó, rừng nhiệt đới và sự biến động của nó có ý nghĩa rất to lớn trong việc hạn chế quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu (Lasco, 2002) [22]. - Liebig, J (1862) lần đầu tiên đã định lượng về sự tác động của thực vật tới không khí và phát triển thành định luật "tối thiểu". Mitscherlich, E.A. (1954) đã phát triển luật tối thiểu của Liebig, J. thành luật "năng suất" [23]. - Dajoz (1971) đã tính toán năng suất sơ cấp của một số hệ sinh thái và thu được kết quả như sau: Mía ở châu Phi: 67 tấn/ha/năm; Rừng nhiệt đới thứ sinh ở Yangambi: 20 tấn/ha/năm; Savana cỏ Mỹ (Penisetum purpureum) châu Phi: 30 tấn/ha/năm; Đồng cỏ tự nhiên ở Fustuca (Đức): 10,5 - 15,5 tấn/ha/năm; Đồng cỏ tự nhiên Deschampia và Trifolium ở vùng ôn đới là 23,4 tấn/ha/năm; Còn sinh khối (Biomass) của Savana cỏ cao Andrôpgon (cỏ Ghine): 5.000 - 10.000 kg/ha/năm; Rừng thứ sinh 40 - 50 tuổi ở Ghana: 362.369 kg/ha/ năm (dẫn theo Dương Hữu Thời - 1992) [20]. Đáng chú ý là trong những năm gần đây các phương pháp nghiên cứu định lượng, xây dựng các mô hình dự báo sinh khối cây rừng đã được áp dụng thông qua các mối quan hệ giữa sinh khối cây với các nhân tố điều tra cơ bản, dễ đo đếm như
- 4 đường kính ngang ngực, chiều cao cây, giúp cho việc dự đoán sinh khối được nhanh hơn, đỡ tốn kém hơn. Công trình nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ thống về lượng carbon hấp thụ của rừng được thực hiện bởi Ilic (2000) và Mc Kenzie (2001). Theo Mc Kenzie (2001), carbon trong hệ sinh thái rừng thường tập trung ở bốn bộ phận chính: Thảm thực vật còn sống trên mặt đất, vật rơi rụng, rễ cây và đất rừng. Việc xác định lượng carbon trong rừng thường được thực hiện thông qua xác định sinh khối rừng [24]. Có nhiều phương pháp ước tính sinh khối cho cây bụi và cây tầng dưới trong hệ sinh thái cây gỗ (Catchpole và Wheeler, 1992). Các phương pháp bao gồm: (1)- Lấy mẫu toàn bộ cây (quadrats); (2)- phương pháp kẻ theo đường; (3)- phương pháp mục trắc; (4)- phương pháp lấy mẫu kép sử dụng tương quan. Các nhà sinh thái rừng đã dành sự quan tâm đặc biệt đến nghiên cứu sự khác nhau về sinh khối rừng ở các vùng sinh thái. Tuy nhiên, việc xác định đầy đủ sinh khối rừng không dễ dàng, đặc biệt là sinh khối của hệ rễ, trong đất rừng, nên việc làm sáng tỏ vấn đề trên đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn nữa mới đưa ra được những dẫn liệu mang tính thực tiễn và có sức thuyết phục cao. Hệ thống lại có 3 cách tiếp cận để xác định sinh khối rừng như sau: i) Tiếp cận thứ nhất dựa vào mối liên hệ giữa sinh khối rừng với kích thước của cây hoặc của từng bộ phận cây theo dạng hàm toán học nào đó. Hướng tiếp cận này được sử dụng phổ biến ở Bắc Mỹ và châu Âu (Whittaker, 1966 [25]; Tritton và Hornbeck, 1982; Smith và Brand, 1983). ii) Tiếp cận thứ hai để xác định sinh khối rừng là đo trực tiếp quá trình sinh lý điều khiển cân bằng carbon trong hệ sinh thái. Cách này bao gồm việc đo cường độ quang hợp và hô hấp cho từng thành phần trong hệ sinh thái rừng (lá, cành, thân, rễ), sau đó ngoại suy ra lượng CO2 tích luỹ trong toàn bộ hệ sinh thái. Các nhà sinh thái rừng thường sử dụng tiếp cận này để dự tính tổng sản lượng nguyên, hô hấp của hệ sinh thái và sinh khối hiện có của nhiều dạng rừng trồng hỗn giao ở Bắc Mỹ (Botkin và cộng sự, 1970; Woodwell và Botkin, 1970).
- 5 iii) Tiếp cận thứ ba được phát triển trong những năm gần đây với sự hỗ trợ của kỹ thuật vi khí tượng học (micrometeological techniques). Phương pháp phân tích hiệp phương sai dòng xoáy đã cho phép định lượng sự thay đổi của lượng CO2 theo mặt phẳng đứng của tán rừng. Căn cứ vào tốc độ gió, hướng gió, nhiệt độ, số liệu CO2 theo mặt phẳng đứng sẽ được sử dụng để dự đoán lượng carbon đi vào và đi ra khỏi hệ sinh thái rừng theo định kỳ từng giờ, từng ngày, từng năm. Kỹ thuật này đã áp dụng thành công ở rừng thứ sinh Harward - Massachusetts. Tổng lượng carbon tích luỹ dự đoán theo phương pháp phân tích hiệp phương sai dòng xoáy là 3,7 megagram/ha/năm. Tổng lượng carbon hô hấp của toàn bộ hệ sinh thái vào ban đêm là 7,4 megagram/ha/năm, nói lên rằng tổng lượng carbon đi vào hệ sinh thái là 11,1 megagram/ha/năm (Wofsy và cộng sự, 1993). 1.1.2. Nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon của rừng Trên cơ sở các phương pháp tiếp cận về sinh khối rừng nêu trên, các nhà khoa học đã nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon cho các đối tượng khác nhau và đã thu được các kết quả đáng kể. Để nghiên cứu lượng carbon hấp thụ, các mẫu thứ cấp đã được dùng để phân tích hàm lượng carbon theo phương pháp đốt cháy (Rayment và Higginsin, 1992). Mẫu thứ cấp được đốt cháy bằng oxi tinh khiết trong môi trường nhiệt độ cao và chuyển toàn bộ carbon thành carbonoxit, sau đó carbonoxit được tách ra bằng máy dò của dòng Heli tinh khiết. Các loại oxit khác (nitơ, lưu huỳnh,…) được tách ra từ dòng khí. Hàm lượng carbon được tính toán bằng phương pháp không tán sắc của vùng quang phổ hồng ngoại. Phân tích hàm lượng carbon bằng hai phương pháp phép sắc ký của dòng khí và quang phổ khối (Gifford, 2000). Sử dụng phương pháp đốt lò có thể phân tích được hàm lượng nitơ oxit cùng với hàm lượng carbonoxit và có thể phân tích thêm các loại khoáng để tăng thêm giá trị của số liệu. Các nhà khoa học đã cố gắng xác định quy mô của các vùng dự trữ carbon toàn cầu và sự đóng góp của rừng vào các vùng dự trữ cũng như những thay đổi về lượng carbon được dự trữ như: Bolin (1977); Post, Emanuel và cộng sự (1982);
- 6 Detwiler và Hall (1988); Brown, Hall và cộng sự (1996) [26], [27]; Dixon, Brown (1994) [28]; Malhi, Baldocchi (1999),... Năm 1980, Brown và cộng sự đã sử dụng công nghệ GIS dự tính lượng carbon trung bình trong rừng nhiệt đới châu Á là 144 tấn/ha trong phần sinh khối và 148 tấn/ha trong lớp đất mặt với độ sâu 1 m, tương đương 42 - 43 tỷ tấn carbon trong toàn châu lục. Năm 1991, Houghton R.A đã chứng minh lượng carbon trong rừng nhiệt đới châu Á là 40 - 250 tấn/ha, trong đó 50 - 120 tấn/ha ở phần thực vật và đất [27]. Năm 1995 Murdiyarso D. đã nghiên cứu và đưa ra dẫn liệu rừng Indonesia có lượng carbon hấp thụ từ 161 - 300 tấn/ha trong phần sinh khối trên mặt đất. Tại Thái Lan, Noonpragop K. đã xác định lượng carbon trong sinh khối trên mặt đất là 72 - 182 tấn/ha. Ở Malaysia lượng carbon trong rừng biến động từ 100 - 160 tấn/ha và tính cả trong sinh khối và đất là 90 - 780 tấn/ha (Abu Bakar, R). Năm 1999, một nghiên cứu về lượng phát thải carbon hàng năm và lượng carbon dự trữ trong sinh quyển được Malhi, Baldocchi thực hiện. Theo các tác giả này thì sự phát thải từ các hoạt động của con người (như đốt nhiên liệu hoá thạch,…) tạo ra 7,1 ± 1,1 Gt C/năm đi vào khí quyển, 46% còn lại trong khí quyển, trong khi đó 2,0 ± 0,8 Gt C/năm được chuyển vào đại dương; 1,8 ± 1,6 Gt C/năm được giữ trong bể trữ carbon trái đất. Tại Philippines, năm 1999 Lasco R. [22], cho thấy ở rừng tự nhiên thứ sinh có 86 - 201 tấn C/ha trong phần sinh khối trên mặt đất; ở rừng già còn số đó là 370 - 520 tấn sinh khối/ha (tương đương 185 - 260 tấn C/ha, lượng carbon ước chiếm 50% sinh khối). Nghiên cứu của Lasco năm 2003 cũng cho thấy rừng trồng thương mại cây mọc nhanh hấp thụ được 0,5 - 7,82 tấn C/ha/năm tuỳ theo loài cây và tuổi. Năm 2000, ở Indonesia Noordwijk đã nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon của các rừng thứ sinh, các hệ nông lâm kết hợp và thâm canh cây lâu năm trung bình là 2,5 tấn/ha/năm và đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa điều kiện xung quanh với loài cây: Khả năng tích luỹ carbon này biến động từ 0,5 - 12,5 tấn/ha/năm, rừng Quế 7 tuổi tích luỹ từ 4,49 - 7,19 kg C/ha,... Nhiều phương pháp tính lượng CO2 dự trữ đã được đưa ra như phương pháp
- 7 của Y. Morikawa đã tính khối lượng carbon chiếm 50% khối lượng sinh khối khô, từ lượng carbon suy ra lượng CO2. Phương pháp này đã được Trung tâm Hợp tác Quốc tế và xúc tiến Lâm nghiệp Nhật Bản (JIFPRO) áp dụng. Một phương pháp khác được tính theo Viện nghiên cứu Nissho Iwai - Nhật Bản (NIRI). Nghiên cứu sự biến động carbon sau khai thác rừng một số nhà khoa học đã cho thấy rằng: - Lượng sinh khối và các bon của rừng nhiệt đới châu Á bị giảm khoảng 22 - 67% sau khai thác (Lasco, 2003) [22]. - Tại Philippines, ngay sau khi khai thác lượng carbon bị mất là 50%, so với rừng thành thục trước khai thác ở Indonesia là 38 - 75% (Lasco, 2003) [22]. - Phương thức khai thác cũng có ảnh hưởng rõ rệt tới mức thiệt hại do khai thác hay lượng carbon bị giảm. Bằng việc áp dụng phương thức khai thác giảm thiểu (RIL) tác động ở Sabah (Malaysia) sau khai thác một năm, lượng sinh khối đã đạt 44 - 67% so với trước khai thác. Lượng carbon trong lâm phần sau khai thác theo RIL cao hơn lâm phần khai thác theo phương thức thông thường đến 88 tấn/ha (Putz F.E. & Pinard M.A, 1993). - Quá trình sinh trưởng của cây trồng cũng đồng thời là quá trình tích lũy carbon. Theo Noordwijk (2000), ở Indonesia khả năng tích lũy carbon ở rừng thứ sinh, các hệ thống nông lâm kết hợp và thâm canh cây lâu năm trung bình là 2,5 tấn/ha/năm và có sự biến động rất lớn trong các điều kiện khác nhau từ 0,5 - 12,5 tấn/ha/năm. 1.2. Ở Việt Nam 1.2.1. Các công trình nghiên cứu về sinh khối và năng suất rừng Ở Việt Nam, các vấn đề liên quan đến “Cơ chế phát triển sạch” (CDM), hấp thụ Carbon của rừng, đều là những vấn đề còn khá mới mẻ và mới được bắt đầu nghiên cứu trong những năm gần đây. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) ngày 16/11/1994 và Nghị định thư Kyoto vào ngày 25/9/2002, được đánh giá là một trong những nước tích cực tham gia vào Nghị định thư Kyoto sớm nhất (Hoàng Mạnh Hoà, 2004) [6].
- 8 So với những vấn đề nghiên cứu khác trong lĩnh vực lâm nghiệp, nghiên cứu về sinh khối rừng ở nước ta được tiến hành khá muộn (vào cuối thập kỷ 80), tuy nhiên cũng đạt được những kết quả nhất định. Nguyễn Hoàng Trí (1986) [17] với công trình “Góp phần nghiên cứu sinh khối và năng suất quần xã Đước Đôi (Rhizophora apiculata Bl) ở Cà Mau - Minh Hải đã áp dụng phương pháp “cây mẫu” để nghiên cứu năng suất, sinh khối một số quần xã rừng Đước đôi (Rhizophora apiculata) ven biển Minh Hải, đóng góp quan trọng về mặt lý luận và thực thiễn đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển nước ta. Hà Văn Tuế (1994) [18] cũng trên cơ sở áp dụng phương pháp “cây mẫu” của Newboul, P.J (1967) nghiên cứu năng suất, sinh khối một số quần xã rừng trồng nguyên liệu giấy tại vùng trung du tỉnh Vĩnh Phú. Công trình “Đánh giá sinh trưởng, tăng trưởng, sinh khối và năng suất rừng Thông ba lá (Pinus keysia Royle ex Gordon) vùng Đà Lạt - Lâm Đồng” của Lê Hồng Phúc (1996) [12] đã tìm ra quy luật tăng trưởng sinh khối, cấu trúc thành phần tăng trưởng sinh khối thân cây. Tỷ lệ sinh khối tươi, khô của các bộ phận thân, cành, lá, rễ, lượng rơi rụng, tổng sinh khối cá thể và quần thể rừng Thông ba lá. Bên cạnh đó, Nguyễn Ngọc Lung và Ngô Đình Quế cũng đã tiến hành nghiên cứu về động thái, kết cấu sinh khối và tổng sinh khối cho loài cây này. Vũ Văn Thông (1998) [16] khi tiến hành nghiên cứu cơ sở xác định sinh khối cây cá lẻ và lâm phần Keo lá tràm (Accia auriculiformis Cunn) tại tỉnh Thái Nguyên đã giải quyết được một số vấn đề thực tiễn đặt ra, trong đó đã nghiên cứu và xây dựng mô hình xác định sinh khối Keo lá tràm, lập các bảng tra sinh khối tạm thời phục vụ cho công tác điều tra kinh doanh rừng. Cũng với loài Keo lá tràm, Hoàng Văn Dưỡng (2000) [4] đã tìm ra quy luật quan hệ giữa các chỉ tiêu sinh khối với các chỉ tiêu biểu thị kích thước của cây, quan hệ giữa sinh khối tươi và sinh khối khô các bộ phận thân cây Keo lá tràm. Nghiên cứu cũng đã lập được biểu tra sinh khối và ứng dụng biểu xác định sinh khối cây cá lẻ và lâm phần Keo lá tràm. Đặng Trung Tấn (2001) [15] đã nghiên cứu sinh khối rừng Đước, kết quả đã
- 9 xác định được tổng sinh khối khô rừng Đước ở Cà Mau là 327 m3/ha, tăng trưởng sinh khối bình quân hàng năm là 9.500 kg/ha. Kể từ khi Cơ chế phát triển sạch được thông qua và thực sự trở thành một cơ hội mới cho ngành lâm nghiệp thì những nghiên cứu về sinh khối rừng ở nước ta bắt đầu nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học. Có thể kể đến một số kết quả sau: Theo Nguyễn Tuấn Dũng (2005) [5], rừng trồng Thông mã vĩ thuần loài 20 tuổi có tổng sinh khối tươi (trong cây và vật rơi rụng) là 321,7- 495,4 tấn/ha, tương đương với lượng sinh khối khô là 173,4 - 266,2 tấn. Rừng Keo lá tràm trồng thuần loài 15 tuổi có tổng sinh khối tươi (trong cây và trong vật rơi rụng) là 251,1 - 433,7 tấn/ha, tương đương với lượng sinh khối khô thân là 132,2- 223,4 tấn/ha. Vũ Tấn Phương (2006) [10] khi nghiên cứu về sinh khối cây bụi thảm tươi tại Đà Bắc - Hòa Bình; Hà Trung, Thạch Thành, Ngọc Lặc - Thanh Hóa cho kết quả: Sinh khối tươi biến động rất khác nhau giữa các loại thảm tươi cây bụi: Lau lách có sinh khối tươi cao nhất, khoảng 104 tấn/ha, tiếp đến là trảng cây bụi cao 2- 3 m có sinh khối tươi đạt khoảng 61 tấn/ha. Các loại cỏ như cỏ lá tre, cỏ tranh và cỏ chỉ (hoặc cỏ lông lợn) có sinh khối biến động khoảng 22 - 31 tấn/ha. Về sinh khối khô: Lau lách có sinh khối khô cao nhất, 40 tấn/ha; cây bụi cao 2 - 3 m là 27 tấn/ha; cây bụi cao dưới 2m và tế guột là 20 tấn/ha; cỏ lá tre 13 tấn/ha; cỏ tranh 10 tấn/ha; cỏ chỉ, cỏ lông lợn 8 tấn/ha. Võ Đại Hải và các cộng sự (2009) [7] khi nghiên cứu về sinh khối về 4 loại rừng trồng cho kết quả: Rừng trồng Thông mã vĩ từ 5-30 tuổi sinh khối từ 21,12 - 315,05 tấn/ha; rừng trồng Thông nhựa từ 5-45 tuổi có sinh khối từ 20,79-174,72 tấn/ha; rừng trồng Keo lai từ 1-7 tuổi có sinh khối từ 4,09 -138,13 tấn/ha; rừng trồng Bạch đàn urophylla từ 1-7 tuổi có sinh khối từ 5,67 - 117,92 tấn/ha; rừng trồng Mỡ từ 6-18 tuổi có sinh khối từ 35,08 - 110,44 tấn/ha; rừng trồng Keo lá tràm từ 2 - 12 tuổi có sinh khối từ 7,29 - 113,56 tấn/ha. Bên cạnh đó tác giả thiết lâp các phương trình tương quan giữa sinh khối với các nhân tố điều tra lâm phần: đường
- 10 kính D1.3, Hvn, N/ha, tuổi lâm phần A, mối quan hệ giữa sinh khối tươi và sinh khối khô, sinh khối trên mặt đất và dưới mặt đất theo các cấp đất. Đặng Thịnh Triều (2010) [21] khi nghiên cứu sinh khối của rừng trồng Thông mã vĩ và Thông nhựa đưa ra kết quả: tổng sinh khối của rừng trồng Thông mã vĩ từ 1-9 tuổi là: 20,6 – 313,43 tấn/ha, rừng trồng Thông nhựa là: 22,58 - 192,12 tấn/ha. Tác giả đã xây dựng bảng tra lượng sinh khối của cây cá thể Thông mã vĩ và Thông nhựa theo nhân tố điều tra D1.3 và Hvn theo từng cấp đất và chung cho các cấp đất. 1.2.2. Các công trình nghiên cứu về khả năng hấp thụ carbon của rừng Trong vài năm gần đây, có nhiều bài viết đề cập đến các thông tin về Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto và các nhận xét, ý kiến xung quanh vấn đề này như “CDM - Cơ hội mới cho ngành Lâm nghiệp” (Cao Lâm Anh, 2005) [1]; Tài liệu “Nghị định thư Kyoto, cơ chế phát triển sạch và vận hội mới - 4/2005” của Trung tâm Sinh thái & Môi trường rừng và tổ chức HWWQ, “Cơ chế phát triển sạch và cơ hội thương mại Carbon trong Lâm nghiệp” của Phạm Xuân Hoàn (2005) [8], "Hấp thụ carbon trong lâm nghiệp" của Phan Minh Sáng (2006) [14],… Trong các nghiên cứu này các tác giả đã khái quát toàn bộ thông tin về hoàn cảnh ra đời cũng như nội dung, mục tiêu của Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto và đặc biệt quan tâm đến “Cơ chế phát triển sạch” - một cơ hội thương mại lớn cho ngành Lâm nghiệp. Bên cạnh đó, một số công trình khác cũng đã chú ý đến xác định giá trị thương mại carbon cho rừng như “Thử nghiệm tính toán giá trị bằng tiền của rừng trồng trong cơ chế phát triển sạch” (Nguyễn Ngọc Lung, Nguyễn Tường Vân, 2004) [9]; “Nghiên cứu sinh khối và lượng carbon tích luỹ của một số trạng thái rừng trồng tại Núi Luốt - Trường Đại học Lâm nghiệp” (Nguyễn Tuấn Dũng, 2005) [5]; Phạm Quỳnh Anh, 2006) [2] “Nghiên cứu khả năng hấp thụ và giá trị thương mại Carbon của rừng Mỡ (Manglietia conifera Dandy) trồng thuần loài đều tuổi tại Tuyên Quang”,… Các nghiên cứu này mặc dù mới được triển khai trên quy mô nhỏ nhưng đã góp phần lượng hóa lượng C02 hấp thụ của 1 số loài cây trồng rừng của
- 11 nước ta, đặc biệt góp phần làm rõ hơn về cơ sở phương pháp luận xác định lượng C02 hấp thụ của rừng. Ngô Đình Quế (2005) [13] khi nghiên cứu, xây dựng các tiêu chí, chỉ tiêu trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch ở Việt Nam đã tiến hành đánh giá khả năng hấp thụ CO2 thực tế của một số loại rừng trồng ở Việt Nam gồm: Thông nhựa, Keo lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm và Bạch đàn Urô ở các tuổi khác nhau. Kết quả tính toán cho thấy khả năng hấp thụ CO2 của các lâm phần khác nhau tuỳ thuộc vào năng suất lâm phần đó ở các tuổi nhất định. Để tích luỹ khoảng 100 tấn CO 2/ha Thông nhựa phải đến tuổi 16 - 17, Thông mã vĩ và Thông 3 lá ở tuổi 10, Keo lai 4 - 5 tuổi, Keo tai tượng 5 - 6 tuổi, Bạch đàn uro ở tuổi 4-5. Kết quả nghiên cứu này rất có ý nghĩa nhằm làm cơ sở cho việc quy hoạch vùng trồng, xây dựng các dự án trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch. Tác giả đã xây dựng được các phương trình tương quan hồi quy - tuyến tính giữa lượng CO2 hấp thụ hàng năm với năng suất gỗ và năng suất sinh học, từ đó tính ra được khả năng hấp thụ CO2 thực tế ở nước ta đối với 5 loài cây trên. Tác giả cũng cho biết, với tổng diện tích là 123,95 ha sau khi trồng Keo lai 3 tuổi, Quế 17 tuổi, Thông 3 lá 15 tuổi, Keo lá tràm 12 tuổi thì sau khi trừ đi tổng lượng C của đường cơ sở, lượng C thực tế thu được qua việc trồng rừng theo dự án CDM là 7.553,6 tấn C hoặc 27.721,9 tấn CO2. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Dũng (2005) [5] tại Núi Luốt - trường Đại học Lâm nghiệp cho thấy rừng Thông mã vĩ thuần loài 20 tuổi có lượng carbon tích luỹ là 80,7 - 122 tấn/ha; giá trị tích luỹ carbon ước tính đạt 25,8 - 39,0 triệu VNĐ/ha. Rừng Keo lá tràm trồng thuần loài 15 tuổi có tổng lượng carbon tích luỹ là 62,5 - 103,1 tấn/ha; giá trị tích luỹ carbon ước tính đạt 20 - 33 triệu VNĐ/ha. Tác giả cũng đã xây dựng bảng tra lượng carbon tích luỹ của 2 trạng thái rừng trồng Keo lá tràm và Thông mã vĩ theo mật độ, D1,3 và H vút ngọn. Vũ Tấn Phương (2006) [10] tính toán trữ lượng carbon trong sinh khối thảm tươi cây bụi tại Hòa Bình và Thanh Hóa là 20 tấn/ha với lau lách, 14 tấn/ha với cây bụi cao 2-3 m, khoảng 10 tấn/ha với cây bụi dưới 2 m và tế guột, 6,6 tấn/ha với cỏ lá tre, 4,9 tấn/ha với cỏ tranh, cỏ chỉ/cỏ lông lợn là 3,9 tấn/ha. Đây là một kết quả
- 12 nghiên cứu rất quan trọng không những đóng góp về mặt phương pháp luận nghiên cứu sinh khối cây bụi thảm tươi mà còn là căn cứ khoa học để xây dựng kịch bản đường cơ sở cho các dự án trồng rừng CDM sau này. Nguyễn Ngọc Lung, Nguyễn Tường Vân đã sử dụng công thức tổng quát của quá trình quang hợp để tính ra hệ số chuyển đổi từ sinh khối khô sang CO2 đã hấp thụ là 1,630/1. Căn cứ vào biểu quá trình sinh trưởng và biểu Biomass các tác giả tính được 1 ha rừng thông 60 tuổi ở cấp đất III chứa đựng 707,75 tấn CO2. Một điểm khá chung của các công trình nghiên cứu về lượng carbon hấp thụ của rừng là hầu hết các tác giả thường thiết lập mối quan hệ giữa lượng carbon hấp thụ với các nhân tố điều tra cơ bản như đường kính, chiều cao vút ngọn, mật độ, tuổi,... cụ thể như Nguyễn Tuấn Dũng (2005) [5] đã lập phương trình cho 2 loài Thông mã vĩ và Keo lá tràm; Ngô Đình Quế (2005) [13] đã xây dựng mối quan hệ cho các loài Thông nhựa, Keo lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm, Bạch đàn Uro; Vũ Tấn Phương (2006) [11] xây dựng các phương trình quan hệ cho Keo lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm, Bạch đàn Urophylla, Quế. Đây là những cơ sở quan trọng cho việc xác định nhanh lượng carbon tích lũy của rừng trồng nước ta thông qua điều tra một số chỉ tiêu đơn giản, dễ đo đếm. Khả năng hấp thụ carbon của rừng tự nhiên cũng được quan tâm nghiên cứu. Vũ Tấn Phương (2006) [11] đã nghiên cứu trữ lượng carbon theo các trạng thái rừng cho biết: Rừng giàu có tổng trữ lượng carbon 694,9 - 733,9 tấn CO2/ha; rừng trung bình 539,6-577,8 tấn CO2/ha; rừng nghèo 387,0-478,9 tấn CO2/ha; rừng phục hồi 164,9 - 330,5 tấn CO2/ha và rừng tre nứa là 116,5 - 277,1 tấn CO2/ha. Phạm Tuấn Anh (2007) [3] trong nghiên cứu năng lực hấp thụ CO2 của rừng tự nhiên lá rộng thường xanh tại Tuy Đức - Đăk Nông đã tiếp cận theo từng loài cây trong rừng tự nhiên như Chò xót, Trâm,... Kết quả cho thấy tỷ lệ % lượng carbon tích lũy trong thân cây so với khối lượng tươi dao động từ 14,1 - 31,8%, lượng CO2 hấp thụ trong thân cây dao động khá lớn từ 20,6 kg (Trâm) - 3.493,1 kg (Dẻ). Nghiên cứu cũng đã xây dựng mối quan hệ giữa lượng CO2 hấp thụ với các nhân tố điều tra cây cá lẻ làm cơ sở dự báo lượng CO2 tích lũy theo các chỉ tiêu lâm phần.
- 13 Tác giả cũng đã lượng giá hấp thụ CO2 theo lâm phần: trạng thái rừng IIA, IIB 303.811 đồng/năm; rừng IIIA1 là 607.622 đồng/năm; trạng thái IIIA2 là 911.434 đồng/năm. Theo Hoàng Xuân Tý (2004) [19], nếu tăng trưởng rừng đạt 15 m3/ha/năm, tổng sinh khối tươi và chất hữu cơ của rừng sẽ đạt được xấp xỉ 10 tấn/ha/năm tương đương 15 tấn CO2/ha/năm, với giá thương mại cacbonic tháng 5/2004 biến động từ 3-5 USD/tấn CO2, thì một ha rừng như vậy có thể đem lại 45-75 USD (tương đương 675.000 - 1.120.000 đồng Việt Nam) mỗi năm. Võ Đại Hải và các cộng sự (2009) [7] khi nghiên cứu về khả năng hấp thụ carbon của 4 loại rừng trồng xác định lượng carbon hấp thụ toàn lâm phần được cấu thành từ 4 thành phần bao gồm: Tầng cây cao, tầng cây bụi + thảm tươi, vật rơi rụng và lượng carbon tích lũy trong đất. Từ đó cho kết quả sau: rừng trồng Thông mã vĩ từ 5-30 tuổi lượng carbon hấp thụ từ 37,04-179,42 tấn/ha; rừng trồng Thông nhựa từ 5-45 tuổi lượng carbon hấp thụ từ 51,37 -148,89 tấn/ha; rừng trồng Keo lai từ 1-7 tuổi lượng carbon hấp thụ từ 43,85 -108,82 tấn/ha; rừng trồng Bạch đàn urophylla từ 1-7 tuổi lượng carbon hấp thụ từ 35,5 - 95,64 tấn/ha; rừng trồng Mỡ từ 6-18 tuổi lượng carbon hấp thụ từ 55,93 - 112,40 tấn/ha; rừng trồng Keo lá tràm từ 2-12 tuổi lượng carbon hấp thụ từ 27,05 - 86,98 tấn/ha. Bên cạnh đó tác giả thiết lâp các phương trình tương quan giữa lượng carbon hấp thụ với các nhân tố điều tra lâm phần: đường kính D1.3, Hvn, mật độ N/ha, tuổi lâm phần A, mối quan hệ giữa sinh khối và lượng carbon hấp thụ, lượng carbon hấp thụ trên mặt đất và dưới mặt đất theo các cấp đất. Đặng Thịnh Triều (2010) [21] khi nghiên cứu khả năng cố định carbon của rừng trồng Thông mã vĩ và Thông nhựa đưa ra kết quả: tổng lượng carbon cố định của rừng trồng Thông mã vĩ từ 1 – 9 tuổi là: 33,32 – 178,68 tấn/ha, rừng trồng Thông nhựa là: 51,97 - 170,87 tấn/ha. Trong đó tổng lượng carbon cố định của rừng bao gồm: tầng cây cao, tầng cây bụi + thảm tươi, vật rơi rụng và lượng carbon tích lũy trong đất. Từ đó, tác giả đã xây dựng bảng tra lượng carbon cố định của cây cá thể Thông mã vĩ và Thông nhựa theo D1.3 và Hvn theo cấp đất.
- 14 1.3. Nhận xét và đánh giá chung Điểm qua các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước về các vấn đề có liên quan có thể rút ra một số nhận xét sau đây: - Ở trên thế giới vấn đề nghiên cứu năng suất sinh khối và lượng C02 hấp thụ của các kiểu thực vật nói chung và các kiểu rừng nói riêng đã được thực hiện từ rất lâu và chuyển dần từ các nghiên cứu định tính sang định lượng. Sự áp dụng công nghệ khoa học kỹ thuật hiện đại như GIS vào để nghiên cứu sinh khối và khả năng hấp thụ C02 của rừng được áp dụng rộng rãi. Các công trình nghiên cứu đã cung cấp cơ sở khoa học cũng như thực tiễn vững chắc cho việc lượng hóa giá trị môi trường của rừng đồng thời cung cấp phương pháp luận cho các nước đi sau. - Ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu sinh khối và khả năng hấp thụ CO2 của rừng được nghiên cứu khá muộn so với thế giới, tuy nhiên bước đầu cũng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong việc lượng hóa được sinh khối và khả năng hấp thụ C02 cho các dạng rừng trồng phổ biến của nước ta như: Thông nhựa, Thông đuôi ngựa, Mỡ, Keo các loại, Bạch đàn,… góp phần quan trọng trong việc định lượng giá trị môi trường rừng ở nước ta. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu sinh khối và khả năng hấp thụ C02 ở nước ta mới chỉ tập trung chủ yếu vào nghiên cứu cho đối tượng là rừng trồng, đối tượng rừng tự nhiên đặc biệt là rừng thứ sinh phục hồi sau khai thác kiệt vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức. Hiện nay, đối tượng rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên sau khai thác kiệt (trạng thái IIB) chiếm một tỷ trọng khá lớn so với tổng diện tích rừng tự nhiên của nước ta, do vậy, việc nghiên cứu sinh khối và khả năng hấp thụ C02 cho đối tượng rừng này là rất cần thiết trong tiến trình lượng hóa các giá trị môi trường rừng, chi trả dịch vụ môi trường rừng và hướng tới thị trường thương mại carbon trên thế giới. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, chính phủ đã ra nghị định số 99/2010/NĐ-CP về chi trả dịch vụ môi trường rừng, trong đó khả năng hấp thụ và lưu giữa CO2 của rừng cũng thuộc đối tượng được chi trả dịch vụ môi trường rừng. Với tất cả những lý do đó đề tài đặt ra là rất cần thiết và có ý nghĩa. .
- 15 Chương 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu - Xác đinh ̣ được sinh khố i và lươ ̣ng CO2 hấp thụ của rừng tự nhiên tra ̣ng thái IIB ta ̣i huyê ̣n Đinh ̣ Hóa, tin̉ h Thái Nguyên. - Đề xuất một số ứng dụng trong việc xác định sinh khối và lượng CO2 hấp thụ trạng thái rừng IIB tại huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. 2.2. Đối tượng nghiên cứu Rừng tự nhiên tra ̣ng thái IIB huyê ̣n Đinh ̣ Hóa tin̉ h Thái Nguyên. 2.3. Giới hạn nghiên cứu - Về nội dung: Đề tài chỉ nghiên cứu xác định sinh khối và lượng CO2 của tầng cây cao, cây bụi thảm tươi và vật rơi rụng trên mặt đất mà chưa có điều kiện xác định sinh khối và lượng CO2 của cành khô, thảm mục trong đất rừng. - Về địa điểm: Giới hạn trong phạm vi diện tích rừng trạng thái IIB thuộc 3 xã: Tân Thịnh, Phú Đình, Quý Kỳ, huyện Định Hóa của tỉnh Thái Nguyên. - Về thời gian: Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 9 năm 2010 đến tháng 8 năm 2011. 2.4. Nội dung nghiên cứu Để đạt được mục tiêu đề ra, đề tài tập trung nghiên cứu một số nội dung chủ yếu sau: - Nghiên cứu sinh khối rừng tự nhiên trạng thái IIB huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên - Nghiên cứu khả năng hấp thụ CO2 rừng tự nhiên trạng thái IIB huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. - Đề xuất một số ứng dụng trong việc xác định sinh khối và lượng CO2 hấp thụ trạng thái rừng IIB huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
- 16 2.5. Phương pháp nghiên cứu 2.5.1. Quan điểm và cách tiếp cận của đề tài Sinh khối và lượng CO2 hấp thụ của rừng là phần vật chất hữu cơ đã được tổng hợp bởi hệ thực vật trong rừng bao gồm tầng cây cao, tầng cây bụi thảm tươi, vật rơi rụng và phần vật chất hữu cơ có nguồn gốc từ thực vật ở trong đất rừng. Thành phần loài cây trong rừng tự nhiên là rất phức tạp, các cây có kích thước về đường kính và chiều cao là rất khác nhau nên việc nghiên cứu sinh khối, lượng CO2 hấp thụ cho từng loài cụ thể là gần như không thể thực hiện được. Do đó, cách tiếp cận theo cấp kính, cây tiêu chuẩn theo cấp kính đã được đưa ra trong đề tài. Cùng một trạng thái rừng IIB nhưng có thời gian phục hồi khác nhau, sự phân bố số cây theo cấp kính khác nhau, sinh trưởng trên các lập địa khác nhau thì sinh khối và lượng CO2 hấp thụ đạt được cũng khác nhau. Do đó, quan điểm của đề tài là lập các OTC đại diện, điển hình. Sơ đồ các bước nghiên cứu của đề tài được thể hiện qua sơ đồ 2.1.
- 17 Khảo sát khu vực nghiên cứu, Thu thập tài liệu, thông tin đã có lựa chọn địa điểm điều tra Lập OTC sơ cấp, nghiên cứu một số đặc điểm rừng IIb ở khu vực NC và xác định cây tiêu chuẩn Chặt hạ cây tiêu chuẩn Lập OTC thứ cấp Lấy mẫu thân, cành, lá, rễ xác định Lấy mẫu xác định sinh khối cây bụi, sinh khối tầng cây cao thảm tươi và vật rơi rụng Sấy mẫu xác định sinh khối khô Xác định lượng CO2 hấp thụ Phân tích và xử lý số liệu Đề xuất hướng ứng dụng Hình 2.1. Sơ đồ các bước tiến hành nghiên cứu của đề tài 2.5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 2.5.2.1. Phương pháp kế thừa số liệu, tài liệu - Các tài liệu, công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan tới việc xác định sinh khối và lượng CO2 hấp thụ của rừng.
- 18 - Tài liệu liên quan đến phương pháp xác định sinh khối và lượng CO2 hấp thụ của rừng, đă ̣c biê ̣t là rừng tự nhiên. - Tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của khu vực nghiên cứu. - Các thông tin, số liê ̣u, bản đồ hiện trạng tài nguyên rừng tự nhiên huyện Đinh ̣ Hoá. - Số liệu phục vụ đề tài được kế thừa 6 ô tiêu chuẩn tại huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên từ nguồn số liệu của khoa Lâm nghiệp, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 2.5.2.2. Phương pháp điều tra ngoại nghiệp Tổng diện tích rừng tự nhiên trạng thái IIB huyện Định Hóa là 1.957,6 ha trong đó có 3 xã có diện tích lớn nhất là Tân Thịnh, Quý Kỳ và Phú Đình (Nguồn: Chi cục kiểm lâm tỉnh Thái Nguyên). Bố trí 3 ô tiêu chuẩ n trên mỗi xã nghiên cứu. Diện tích mỗi ÔTC là 1000 m2 (40m x 25m). Tổng số ô tiêu chuẩn là 9 ô tiêu chuẩn, trong đó đề tài kế thừa số liệu 6 ô tiêu chuẩn của khoa Lâm nghiệp trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Trong mỗi ÔTC lập 5 ô thứ cấp (4 ô ở 4 góc và 1 ô ở giữa ÔTC) diện tích 25 m2 (5m x 5m) để điều tra cây bụi, thảm tươi. Ở trung tâm mỗi ô thứ cấp, lập 1 ô dạng bản diện tích 1m2 (1m x 1m) để điều tra vật rơi rụng. Sơ đồ bố trí thí nghiệm được thể hiện qua hình sau:
- 19 40 m 25 m 5m m 5m - Điều tra toàn diện tầng cây cao trong ÔTC, tiến hành đo đếm các chỉ tiêu sinh trưởng: + Đường kính ngang ngực (D1.3, cm) được đo bằng thước kẹp kính tại vị trí 1.3 m tất cả các cây có đường kính từ 6 cm trở lên (độ chính xác đến mm). + Chiều cao vút ngọn (Hvn, m) được đo bằng thước đo cao blumer, đo tất cả các cây có đường kính từ 6 cm trở lên. + Đường kính tán (Dt) được đo bằng thước dây. + Đánh giá chất lượng cây thông qua các chỉ tiêu hình thái theo 3 cấp: Tốt; trung bình, xấu. Kết quả được ghi vào biểu: . Biểu ...: Biểu điều tra tầng cây cao TT ô tiêu chuẩn:…………..; Diện tích OTC:………; Trạng thái:……….. Ngày điều tra:………………..; Người điều tra:…………………………. Độ dốc:…………; Hướng phơi:………………..; Độ tàn che:………….. Địa điểm lập OTC:…………………………….. D1,3 Hvn Hdc Dt TT Loài cây Phẩm chất (cm) (m) (cm) (m)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 370 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 412 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 542 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 299 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 342 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 319 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 235 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 246 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn