intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật tạo cây Cọc rào (Jatropha curcas L.) từ hạt và giâm hom

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:70

21
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm xác định được thời vụ thu hái, kỹ thuật bảo quản hạt Cọc rào nhằm giữ được tỷ lệ nảy mầm trong thời gian dài; xác định được các biện pháp tạo cây con bằng hạt như: xử lý nảy mầm, giá thể gieo ươm làm cơ sở khoa học cho việc tạo cây giống cung cấp cho trồng Cọc rào với quy mô lớn; xác định được biện pháp kỹ thuật tạo cây hom như chọn loại, nồng độ hormon, thời vụ, giá thể giâm hom, tuổi cây mẹ, kích thước, loại hom.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật tạo cây Cọc rào (Jatropha curcas L.) từ hạt và giâm hom

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP TRIỆU MINH ĐỨC NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT TẠO CÂY CỌC RÀO (JATROPHA CURCAS L.) TỪ HẠT VÀ GIÂM HOM Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60 62 60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Cán bộ hướng dẫn: TS. Phạm Văn Tuấn HÀ NỘI, 2008
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Giống là một trong những khâu quan trọng của trồng rừng thâm canh kể cả cho rừng kinh tế, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và trồng cây phân tán. Không có giống được cải thiện theo mục tiêu kinh doanh thì không thể đưa năng suất rừng lên cao. Do đó, công tác giống đóng một vai trò rất quan trọng, không thể thiếu được trong kinh doanh rừng nhằm phục hồi, tái tạo giúp cho sản xuất kinh doanh rừng được ổn định, phát triển bền vững, sớm đưa rừng phát huy các giá trị kinh tế - xã hội và tác dụng phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái. Nhân giống là bước cuối cùng của một chương trình cải thiện giống. Để giữ được những đặc tính tốt của cây giống, dùng phương pháp nhân giống sinh dưỡng, trong đó giâm hom là phương thức nhân giống được dùng rộng rãi cho một số loài cây rừng, vì cây hom giữ được đặc tính di truyền quí của cây mẹ, có hệ số nhân giống cao, giá thành hợp lý, cho sản phẩm đồng đều về mặt chất lượng, phù hợp trồng rừng với qui mô lớn. Nhân giống bằng hom là một trong những công cụ có hiệu quả trong chọn giống cây trồng, vì nó dựa trên cơ sở phân bào nguyên nhiễm nên duy trì được những tính trạng tốt từ đời trước cho đời sau. Tuy nhiên, nhân giống bằng hom chỉ là một công cụ của chọn giống, nó chỉ phát huy tác dụng tốt khi giống đã qua chọn lọc, khảo nghiệm cẩn thận, được chứng minh là hơn giống đại trà [13]. Ở Việt Nam cây Cọc rào (Jatropha curcas L.) phân bố rộng khắp các tỉnh trong cả nước, kể cả những vùng đất xấu, sỏi sạn như ở Tây Bắc tới vùng đất khô hạn ít mưa ở Miền Trung như Nghệ An, Hà Tĩnh đến Quảng Bình, Quảng Trị, Ninh Thuận, Bình Thuận, …. Theo kết quả kiểm kê đất đai toàn quốc năm 2005, nước ta còn 4,3 triệu ha đất đồi núi chưa sử dụng, diện tích này có thể phù hợp cho gây trồng và phát triển cây Cọc rào. Hạt Cọc rào chứa từ 31-37% dầu, được sử dụng để sản xuất diesel sinh học dùng cho các động cơ. Các chất chiết tách từ cây Cọc rào được sử dụng làm thuốc chữa bệnh như: tiêu viêm, cầm máu, sát trùng, trị ngứa, lành vết thương, chữa trĩ, mụn cơm, phong thấp, đau tim, đau răng. Ngoài ra trong
  3. 2 hạt Cọc rào chứa nhiều protein, nếu khử hết các độc tố, khô dầu Cọc rào được sử dụng làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy sản,.. Với việc trồng cây Cọc rào, sẽ tăng nguồn thu nhập cho người sản xuất nông lâm nghiệp, đặc biệt người dân miền núi, đồng thời đáp ứng được chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc, sản xuất nhiên liệu tái sinh thay thế dần nhiên liệu hoá thạch, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu của đất nước. Trồng cây Cọc rào chủ yếu là lấy dầu trong hạt, do đó sản lượng hạt trên một đơn vị diện tích và hàm lượng dầu trong hạt là yếu tố quan trọng nhất, quyết định đến hiệu quả kinh tế của việc trồng loài cây này. Cây Cọc rào được nhập vào nước ta khoảng 70 năm trước, chủ yếu được trồng hoang dại nên có nhiều xuất xứ và biến dị khác nhau. Vì vậy, thu thập và khảo nghiệm các xuất xứ trong nước để tìm ra một số xuất xứ có năng suất hạt và hàm lượng dầu cao là việc làm cần thiết. Mặt khác, hiện một số nước đã có một số giống có chất lượng tốt nên có thể nhập các xuất xứ này về khảo nghiệm và trồng tại nước ta là một hướng đi có thể rút ngắn được thời gian mà vẫn đem lại hiệu quả cao. Khi đã chọn được giống tốt thì phương pháp nhân chúng theo qui mô lớn để có thể cung cấp đủ giống cho sản xuất là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, vì vậy việc tìm ra biện pháp nhân giống đại trà là yêu cầu của đề tài và cũng là yêu cầu của thực tiễn sản xuất [15]. Phát triển nhiên liệu sinh học từ cây Cọc rào ở Việt Nam đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cụ thể hoá bằng Đề án “Nghiên cứu, phát triển và sử dụng sản phẩm cây Cọc rào (Jatropha curcas L.) ở Việt Nam giai đoạn 2008-2015 và tầm nhìn đến 2025”. Theo kế hoạch thì đến năm 2015 diện tích trồng khoảng 300.000ha cây Cọc rào [1]. Tuy nhiên, đây là một loài cây mới được đưa vào trồng ở Việt Nam vì vậy, công tác khảo nghiệm, chọn tạo giống là rất quan trọng. Ở Việt Nam, cây Cọc rào mọc hoang dại nhiều nơi, qua nghiên cứu và phân tích cho thấy nhiều xuất xứ có năng suất và hàm lượng dầu trong hạt thấp, song cũng có một số ít xuất xứ bước đầu phân tích cho hàm lượng dầu trong hạt trên 40%. Trong khi đó, các giống Cọc rào có năng suất và hàm lượng dầu trong hạt cao trên và sinh trưởng
  4. 3 tốt ở điều kiện Việt Nam lại chủ yếu được nhập từ Trung Quốc, Inđônêxia, Thái Lan, Malaixia, Brazil, Mexico,... Do vậy nếu chỉ trông chờ vào nguồn giống từ nước ngoài sẽ không chủ động được nguồn giống, giá nhập cao, thủ tục phức tạp và không kiểm soát được chất lượng giống. Mặt khác, do những hiểu biết về các biện pháp kỹ thuật áp dụng đối với cây Cọc rào ở Việt Nam còn là mới mẻ, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và kiến thức bản địa của người dân địa phương, bởi vậy nghiên cứu về kỹ thuật trồng và các biện pháp chọn, tạo giống là vấn đề rất có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Vì thế cần có những nghiên cứu để tránh sự lãng phí nguồn giống tốt được nhập từ các nước, nhằm tìm ra một số biện pháp kỹ thuật cho thu hái, bảo quản, xử lý nảy mầm,…để nhân nhanh giống, kịp thời cung cấp giống cho trồng rừng cung cấp nguyên liệu sản xuất nhiên liệu sinh học. Để khắc phục tồn tại trên, đề tài “Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật tạo cây Cọc rào (Jatropha curcas L.) từ hạt và giâm hom” được thực hiện.
  5. 4 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐẾ NGHIÊN CỨU 1.1. Giới thiệu về cây Cọc rào 1.1.1. Nguồn gốc Cây Cọc rào có lịch sử 70 triệu năm, nguồn gốc từ Mexico và Trung Mỹ (nơi duy nhất có hóa thạch của cây này), được người Bồ Đào Nha đưa đến Cape Verde, rồi sang Châu Phi, Châu Á, sau đó được trồng và trở thành cây bản địa ở nhiều nước trên thế giới (Dehgan and Webster, 1979). Cọc rào thuộc chi Jatropha, họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Họ Thầu dầu có khoảng 8000 loài, với 321 chi. Tên chi Jatropha có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, iatrós có nghĩa là bác sỹ và trophé có nghĩa là thực phẩm để ám chỉ công dụng chữa bệnh của cây này. Theo Correll (1982), curcas là tên gọi thông thường của Cọc rào ở các nước Malabar, Ấn Độ [37]. Cọc rào còn có nhiều tên gọi khác nhau: Physic nut, Pureging nut (Anh); Pourghere, Pignon d’Inde (Pháp); Purgueira (Bồ Đào Nha); Fagiola d'India (Itali); Subudam (Thái Lan); Jarak budeg (Indonesia); Makaen (Tanzania); Pienoncillo (Mêhico); Mundabi-assu (Brazil); Ma phong, Tiểu đồng tử, Thạch đồng, Đồng du, Giả hoa sinh (Trung quốc)... Ở Việt Nam cây Cọc rào được gọi bằng nhiều tên như: Sán sùng (Tày), Cọc rào, Cọc giậu, Cây li, Ba đậu nam, Dầu mè…[15]. 1.1.2. Phân bố Theo Burkill (1966), người Bồ Đào Nha đã mang cây Cọc rào vào Châu Á cho đến khi người Hà Lan sở hữu và người Mã Lai gọi là dầu Hà Lan (Dutch castor oil). Người Java còn gọi là Chinese castor oil. Cọc rào được quan tâm ở nhiều nước Châu Phi cũng như các nước phương Đông và cây “castor oil” cho thấy có khả năng cho dầu, nó cũng được biết đến như là cây “làm hàng rào cho dầu” [28]. Merril cho biết Cọc rào có ở Philippines trước năm 1750. Ngày nay, được trồng ở nhiều nước và đang được sử dụng rộng rãi làm hàng rào quanh vườn cây ở Châu Âu, Châu Phi, Ấn Độ, Inđônêxia, Philippin, Trung Quốc, Việt Nam, một số đảo Thái Bình Dương
  6. 5 và Úc. Trong suốt nửa đầu thế kỷ 20, ở Cape Verde, Cọc rào đã góp phần quan trọng vào nền kinh tế, hạt được xuất khẩu đến Lisbon để lấy dầu và sản xuất xà phòng. Gần đây do nguồn nhiên liệu hoá thạch dần cạn kiệt và giá dầu mỏ thế giới tăng vọt, mặt khác diesel sinh học vừa có khả năng cạnh tranh, vừa có thể tái tạo và thân thiện với môi trường, nên đã dấy lên cơn sốt trồng cây Cọc rào trên phạm vi toàn cầu, nhất là ở các nước Ấn Độ, Trung Quốc và nhiều nước Châu Á, Châu Phi để sản xuất diesel sinh học thay thế một phần dầu diesel hóa thạch [15], [37]. Cọc rào có phân bố ở độ cao so với mực nước biển từ 7 - 1600m, thường thấy ở những vùng từ 10-500m với nhiệt độ trung bình năm giao động từ 200 đến 280C, lượng mưa trung bình năm từ 520-2000 mm. Tuy nhiên, cây này có thể sống tốt ở các vùng đất cằn cỗi, dất xấu, dốc, khô hạn trừ đất ngập nước, đọng nước [15], [37]. 1.1.3. Đặc điểm thực vật học Cọc rào là cây gỗ nhỏ hoặc cây bụi, có thể cao tới 5m. Cành cây có nhựa mủ. Thông thường, có 5 rễ được tạo ra khi hạt nẩy mầm, một rễ chính và 4 rễ phụ. Lá mọc so le, có 5-7 thùy với chiều dài và rộng từ 6-15cm. Phiến lá dạng giấy lụa. Cụm hoa nụ ở các cành. Hoa đơn tính, đực cái cùng gốc, đôi khi có hoa lưỡng tính. Bộ nhị 10, xếp thành 2 vòng riêng biệt, mỗi vòng 5, tạo thành cột đơn gần nhau. Bộ nhụy có 3 vòi nhụy, dính với nhau ở khoảng 2/3 chiều dài, phần trên rời nhau và núm nhụy rẽ đôi. Cây Cọc rào thụ phấn nhờ côn trùng (Dehgan và Webster 1979) [33]. Heller 1992, đã quan sát nhiều lần sâu bọ tới và thụ phấn cho hoa. Heller cũng đã phát hiện ở Senegal, nhị hoa mở muộn hơn nhụy hoa trên cùng một nhóm hoa, nhờ cơ chế này, đã thúc đẩy quá trình thụ phấn chéo. Sau khi thụ phấn, một quả hình bầu dục có 3 ô được hình thành. Vỏ quả ngoài màu xanh cho tới khi hạt chín ở bên trong. Hạt thường có chiều dài 2cm, rộng 1cm. Wiehr (1930) và Droit (1932) đã mô tả chi tiết vi phẫu hạt. Singh (1970) đã mô tả vi phẫu của quả. Gupta (1985) đã nghiên cứu tỉ mỉ về giải phẩu các bộ phận của cây và Cọc rào là một loài lưỡng bội với công thức bộ gen là 2n = 22 nhiễm sắc thể [37]. 1.1.4. Giá trị sử dụng
  7. 6 Sản xuất nhiên liệu sinh học Châu Âu đã tiến hành nghiên cứu về dầu diesel sinh học từ những năm 1970. Đến nay, có 6 nhà máy trên toàn thế giới sản xuất được 4 triệu tấn diesel sinh học mỗi năm, trong đó Đức là nước sản xuất diesel sinh học lớn nhất, đạt 415.000 tấn/năm. Ở Hoa Kỳ, sản xuất dầu diesel sinh học được bắt đầu từ những năm 80 và đến đầu năm 90, việc sản xuất mới được tiến hành [15]. Những năm cuối của thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, sản xuất nhiên liệu sinh học đã trở thành một ngành công nghiệp. EU, Mỹ, Brazil, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật … là những nước đi tiên phong trong lĩnh vực này, đến nay việc phát triển nhiên liệu sinh học được phát triển ở nhiều nước trên thế giới: Châu Âu: Đức, Anh, Pháp, Italia, Hà Lan,..; Châu Mỹ: Mỹ, Brasil, Mexico, Cuba, Venezuena, Argentina, Chi lê, Paraguay; Châu Á: Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Inđônêxia, Thái Lan, Philipin,…Châu Phi: Ghana, Mali, Mozambique, Madagascar, Zimbabwe, Guinea, Ethiopia, Egypt, Namibia, Senegal, South Africa, Sudan, Tanzania, Uganda, Zambia; Một số nước đã có Luật sử dụng nhiên liệu sinh học và có chính sách miễn giảm thuế đối với cá nhân, tổ chức sản xuất nhiên liệu sinh học. Những ngày gần đây Hiệp hội các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC đã không tăng sản lượng khai thác vì thế giá dầu thế giới luôn có những kỷ lục mới. Gần đây nhất là ở ngưỡng 148 USD/thùng và dự báo đến đầu năm 2009 giá dầu mỏ có thể lập kỷ lục ở mức 200 USD/thùng. Trong khi đó theo dự báo của Bộ năng lượng mỹ và Uỷ ban năng lượng thế giới với nhu cầu tiêu thụ như hiện nay thì thời hạn có thể khai thác nguồn năng lượng hoá thạch toàn cầu không dài, với dầu mỏ còn khoảng 39 năm, khí thiên nhiên khoảng 60 năm, than đá còn 111 năm [15]. Vì vậy, sản xuất nhiên liệu sinh học thay thế nhiên liệu hoá thạch đang là chiều hướng phát triển nhiên liệu của thế giới. Hạt Cọc rào có hàm lượng dầu từ 31-37%, dầu sau khi ép tinh chế, được sử dụng làm nhiên liệu thay thế diesel hoá thạch dùng cho các động cơ tĩnh và được sử dụng rộng rãi ở các vùng nông thôn để bơm nước tưới đồng ruộng, nghiền nông sản, phát điện. Các động cơ sử dụng loại dầu này chỉ đòi hỏi những cải biến nhỏ.
  8. 7 Dầu Cọc rào có thể thay thế dầu hoả dùng trong các hộ gia đình để thắp sáng và đun nấu. Dầu Cọc rào đã được sử dụng thay nhiên liệu từ nhiều năm qua. Metyl este Jatropha (JME) là diesel sinh học đã được Daimler Chrysler thử nghiệm với xe Mercedes-benz C-Class ở Ấn Độ năm 2004, chạy bằng JME được hơn 5.900 km có kết quả tương tự diesel hóa thạch. Dầu Cọc rào cũng được thử nghiệm ở Indonesia thông qua một chương trình thử nghiệm 8 ngày với 3.200 km của 3 chiếc xe chạy bằng dầu Cọc rào từ Atambua, East Nusa Tenggara tới Jakarta. Theo kết quả thử nghiệm, động cơ diesel chạy bằng dầu Cọc rào so với khi chạy bằng diesel hoá thạch cho thấy dầu từ hạt Cọc rào có đặc tính vận hành tốt, chỉ cần các cải biến nhỏ trong hệ thống đánh lửa hoặc tính toán thành phần hoá học thích hợp giúp cho điểm chớp cháy ban đầu của dầu Cọc rào cao hơn. Khí thải của dầu Cọc rào so với diesel hoá thạch không khác nhau đáng kể về lượng khí và hàm lượng CO. Tuy nhiên, ưu điểm hơn là không thấy có SO2 trong lượng khí thải động cơ chạy bằng dầu Cọc rào, trong khi khí thải của động cơ chạy bằng diesel hoá thạch có hàm lượng SO2 là 125 ppm [15]. Làm thuốc chữa bệnh Các chất chiết tách được trong hạt Cọc rào gồm Tecpen, Flavon, Coumarin, Lipit, Sterol và alkaloit. Phần sử dụng để làm dược liệu gồm lá, vỏ cây, hạt và rễ. Rễ có thể làm thuốc tiêu viêm, cầm máu, sát trùng, trị ngứa, dầu từ hạt có thể làm thuốc nhuận tràng, nhựa từ vỏ cây có thể chữa viêm chân răng, làm lành vết thương, chữa trĩ, mụn cơm, nước sắc từ lá dùng để chữa trị bệnh phong thấp, đau tim, đau răng. Theo tài liệu của Viện Lâm nghiệp Vân Nam Trung Quốc, có 3 chất độc chủ yếu trong hạt Cọc rào, gồm Curcin, dầu hạt và phorbol este. Các bộ phận khác có hoạt tính sinh học đã được dùng để làm thuốc trị bệnh trong nhiều năm nay. Một vài chất khác có thể chống u ác tính và kháng vi khuẩn HIV. Cọc rào cũng có thể diệt một số động vật nhuyễn thể, sâu và vi khuẩn, được sử dụng để chữa các bệnh như Pyricularia Oryzae Cav, Pestalotia Funerea, Rizoctonia Solani Kula. Sử dụng
  9. 8 Curcin nồng độ từ 5g/ml có thể ngăn chặn sự phát triển của nấm. Nhựa cây Cọc rào có chứa alkaloit có tên là Jatrophira có khả năng chống lại tế bào ung thư, ngoài ra có thể chữa bệnh ngoài da, thấp khớp. Cành non được bào chế thành chất làm trắng răng, lá được dùng để chữa bệnh trĩ. Rễ cây được dùng làm thuốc chữa rắn cắn. Bài thuốc Đông y gia truyền ở Việt Nam cũng cho biết Cọc rào là một dược liệu quý, chữa được rất nhiều bệnh. Các bộ phận của cây đều có giá trị sử dụng làm thuốc. Lá tươi sắc nước chữa viêm loét dạ dày, người dân tộc Thái dùng lá gội đầu để trị gàu và làm tóc đen, mượt hoặc ăn sống để chữa đau lưng. Lá Cọc rào và măng tre giã nát để đắp làm lành vết thương. Lá non được thu hái và sơ chế thành dạng khô hoặc bột dùng trong các bài thuốc chữa các bệnh ung thư dạ dày, gan, phổi. Rễ khô sắc nước uống chữa các bệnh phong tê thấp. Nhựa cây tươi chữa bệnh tưa lưỡi trẻ em hoặc ngâm với rượu để uống chữa sâu răng [15]. Làm phân bón và thức ăn chăn nuôi Hạt Cọc rào chứa nhiều protein, 100g hạt có 18,2g protein. Nếu khử hết các độc tố, khô dầu Cọc rào sạch được sử dụng làm nguyên liệu giàu protein để sản xuất thức ăn giàu đạm cho gia súc, gia cầm, thủy sản, trở thành sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Thành phần amino axit trong khô dầu Cọc rào rất phong phú. Theo J. Martinez-Herrera và cộng sự, các thành phần amino axit của các mẫu khô dầu từ Castillo de Teayo (1), Pueblillo (2), Coatzacoalcos (3) và Yuatepec (4) giống nhau và được so sánh với các số liệu đã công bố của các giống J.curcas khác nhau (Cape Verde và Nicaragua - Makkar và cộng sự, 1997). Các kết quả đã chứng minh rằng thành phần amino axit không bị ảnh hưởng của điều kiện khí hậu và không có sự khác biệt giữa các hạt của loài Cọc rào có độc tố hay không có độc tố. Các hàm lượng amino axit cơ bản, ngoại trừ lysin, đều cao hơn các mức đề xướng của FAO/WHO. Theo tài liệu nghiên cứu của một số nước khi phân tích hàm lượng dinh dưỡng trong khô dầu Cọc rào cho thấy hàm lượng đạm 4,44%, lân 2,09%, kali 1,65%, độ ẩm 4,58% (Nguồn: TKM, Malaysia); Một nghiên cứu khác của Viện phân tích Nhật
  10. 9 Bản cho thấy hàm lượng đạm 5,7-6,46%, lân 2,5-2,7%, kali 0,9-1,0%, canxi 0,6- 0,7%, magiê 1,26-1,34%. Năm 2007, Trường Đại học Thành Tây đã phân tích hàm lượng các chất dinh dưỡng trong khô dầu Cọc rào và so sánh với một số khô dầu khác, kết quả như sau: Bảng 1.1. So sánh hàm lượng dinh dưỡng trong một số loại khô dầu Loại khô dầu Khô dầu Khô dầu Khô dầu Khô dầu Khô dầu Cọc rào lạc nhân đậu tương cọ dầu ngô Chỉ tiêu Nước tổng (%) 30,7 - - - - Protein (%) 39,91 45,4 42,5 17,5 11,0 Xơ (%) 21,41 53,0 59,0 11,2 72,0 Tro (%) 4,86 - - - - Chất béo (%) 28,61 70,0 74,0 85,0 - Nitơ (N) (%) 4,78 - - - - Đồng (Cu) (mg/kg) 15,05 - 24,28 - - Sắt (Fe) (mg/kg) 174,89 778,29 506,78 - - Phốt pho (P) (%) 0,50 5,3 6,7 7,0 5,7 Canxi (Ca) (%) 0,60 1,7 2,6 3,5 0,5 Magie (Mg) (%) 0,21 2,01 - - - Mangan (Mn) (mg/kg) 0,33 35,83 20,10 - - Nguồn: Trường Đại học Thành Tây, 2007. Bảo vệ môi trường Cây Cọc rào hấp thụ nhiều CO2 trong không khí. Theo tính toán sơ bộ, một cây Cọc rào có khả năng hấp thụ 100g CO2/ngày trong không khí, tính ra mỗi cây có khả năng hấp thụ 30kg CO2/năm, mỗi ha có thể hấp thụ 48 tấn CO2/năm, góp phần giảm thiểu khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Trồng cây Cọc rào, có thể tạo che phủ tốt với tuổi thọ dài (30-50 năm), bộ rễ sâu, khối lượng lá rụng hàng năm lớn, góp phần chống xói mòn, tăng khả năng giữ nước, nâng cao độ che phủ của đất, cải tạo vùng đất xấu, đất sa mạc hoá, đất bãi thải khai thác khoáng sản.
  11. 10 Cây Cọc rào còn là cây chống cháy tốt, có thể trồng làm đường băng cản lửa, bảo vệ rừng, nhất là với các rừng dễ cháy và làm vành đai cản lửa ở các Vườn quốc gia. Với những đặc tính vượt trội, Cọc rào được coi là một cây “vệ sĩ sinh thái”, góp phần bảo vệ môi trường cực kỳ hiệu quả. 1.2. Nghiên cứu về cây Cọc rào 1.2.1 Trên thế giới Trồng Cọc rào Yêu cầu trồng rừng ngày càng gia tăng, trong đó hạt giống là vấn đề quan trọng hàng đầu vì "Hạt giống là tư liệu sản xuất đặc biệt của công tác trồng rừng bởi nó là tư liệu sống” [4]. Hàng năm mỗi nước cần có một lượng lớn hạt giống của các loài cây khác nhau, kể cả các loài bản địa và ngoại lai. Theo kế hoạch trồng rừng năm 1983-1984, Indonesia cần 12.410 kg hạt thông nhựa, 500 kg hạt các loài keo và 200 kg hạt bạch đàn (Eucalyptus urophylla). Năm 1990, Nêpal phải thực hiện một chương trình trồng rừng khoảng 300.000 ha, đã cần tới hàng nghìn tấn hạt giống. Theo Budowski (1987), Cọc rào là một trong những loài cây thường được trồng làm hàng rào, nó được tìm thấy ở phần lớn các vùng của Elsanvador. Nó cũng là một trong những cây trồng chính làm hàng rào ở Upper Guinea (Diallo, 1994). Ở Mali, có hàng trăm kilomet hàng rào Jatropha và cũng được trồng khá phổ biến ở Burkina Faso (Zan, 1985). Gần đây ở Cape Verde, Cọc rào còn được trồng ở những vùng đất khô cằn để cải thiện độ xói mòn đất. Trong thử nghiệm ở Nepal khi bón phân xanh cho lúa bằng lá, vỏ quả Cọc rào đã làm năng suất lúa tăng thêm 11% [37]. Theo kế hoạch của Bộ năng lượng Ấn Độ, đến năm 2013, pha trộn 13 triệu tấn nhiên liệu từ Cọc rào với nhiên liệu hoá thạch nhập từ nước ngoài, nghĩa là lượng nhiên liệu từ cây này gấp 1000 lần lượng nhiên liệu sản xuất năm 2006. Trong giai đoạn đầu, dự kiến trồng 40.000 ha, giai đoạn 2 mở rộng phạm vi trồng trong cả nước với 33 triệu ha sẵn sàng để trồng cây Cọc rào [67]. Nhà khoa học Robert Manurung cho biết một công ty đang xúc tiến bao tiêu sản phẩm 1 triệu ha Cọc rào với nông dân 3 tỉnh Papua, Klimantan, và Nusa
  12. 11 Tenggara. Mới đây 1 công ty của Hà Lan đã đặt mua 1 triệu tấn dầu Cọc rào nguyên chất của Indonesia. Uỷ ban Quốc gia về nghiên cứu phát triển nhiên liệu sinh học của nước này đã trình Chính phủ dành 5 triệu ha đồi trọc để trồng cây Cọc rào, mía và sắn để sản xuất nhiên liệu sinh học. Hiện nay Indonesia đã trồng được 20 ngàn ha Cọc rào và đã quyết định đầu tư 10 triệu ha đất để trồng cây này [68]. Trung Quốc đang lập kế hoạch trồng 80.000 mẫu ở Tứ Xuyên và hy vọng có 1 triệu ha trong vòng 4 năm tới. Năm 2007, Trung Quốc đã công bố kế hoạch trồng 70.000 mẫu tại Quảng Tây và 10.000 mẫu ở Vân Nam. Đến năm 2010 Trung Quốc sẽ trồng 13 triệu cây này và công ty D1 OIL của Anh liên doanh với công ty Chinese Chua Technology Company Ltd đầu tư trồng 2 triệu ha và xây dựng các nhà máy chế biến diesel sinh học cho thị trường nước này. Năm 2006, Trường Đại học Tứ Xuyên đã đầu tư 120.000 USD cho nghiên cứu về năng lượng sinh học [68]. Từ năm 2004 tại huyện San Sai, Chiang Mai Thái Lan, một dự án sản xuất diesel sinh học đã được khởi công. Tính từ tháng 6/2004 đến 6/2005 các trạm sản xuất diesel sinh học ở đây đã cung cấp hơn 490.000 lít diesel loại B2 và B5 cho các xe ô tô chạy thử nghiệm. Hiện nay công suất của Trạm San Sai đã đạt 250.000 lít/tháng. Đến nay đã có hàng nghìn xe ô tô, chủ yếu là xe taxi sử dụng nhiên liệu này. Đến cuối 2006 cả Thái Lan mới có 10 trạm sản xuất diesel sinh học với tổng công suất khoảng 160.000 lít/ngày. Năm 2007 Bộ Năng lượng Thái Lan dự kiến xây dựng 4 nhà máy sản xuất diesel sinh học nâng công suất lên 1,7 triệu lít/ngày. Nước này đề ra mục tiêu đến 2011 lượng diesel sinh học đạt 3% (tương đương 2,4 triệu lít/ngày) và năm 2012 đạt tỷ lệ 10% (8,5 triệu lít/ngày) [68]. Tại Philippin, tập đoàn Philippin National Oil Co-Alternative Fuel Corp (PNOC-AFC) là đơn vị đứng ra tổ chức trồng Cọc rào. Tập đoàn này đã thuê 500 ha đất của quân đội để làm vườn ươm ở Fort Magsaysay, Nueva Ecija. Ở Mindanao, tập đoàn này đang tìm kiếm khoảng 12 triệu ha để làm Trung tâm trồng Cọc rào. Ngân hàng đất Philipin đã thỏa thuận cung cấp cho PNOC-AFC từ 5-10 tỷ peso đầu tư cho chương trình. Mục tiêu trước mắt của Chính phủ là dành 1 triệu ha đất để trồng cây Cọc rào. Tuy vậy, vấn đề còn tồn tại ở quốc gia này là chưa có giống cho
  13. 12 năng suất và hàm lượng dầu trong hạt cao, các giống địa phương có hàm lượng dầu từ 28-32%. Vì vậy cần phải nhập khẩu giống tốt từ bên ngoài [68]. Tại Singapore, tháng 3/2007 tập doàn Van Der Horst Biodiessel JVC đã đầu tư xây dựng một nhà máy chế biến biodiesel từ dầu Cọc rào và các loại dầu khác có công suất 200.000 tấn/năm với số vốn khoảng 26,3 triệu USD. Công ty này cũng đầu tư trồng cây này tại Campuchia, Indonessia, Ấn Độ, Lào và Việt Nam [68]. Thu hái hạt giống và sản lượng hạt Theo Praveen Rao. Dr. V 2008, trong tài liệu “Jatropha curcas L. các lựa chọn kỹ thuật nông nghiệp và chỉ tiêu kinh tế để sản xuất thức ăn gia súc”, và trong một “công trình nghiên cứu và phát triển Jatropha curcas ở Indonesia”, chỉ ra rằng thời điểm bắt đầu thu hái Cọc rào khi vỏ quả có màu vàng. Quả xanh (màu xanh thẫm) có hàm lượng dầu là 20,7%, Quả màu vàng có hàm lượng dầu là 30,3%. Quả chín (vỏ quả từ màu vàng sang màu đen hoặc màu nâu thẫm) có hàm lượng dầu là 31,5-35%. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu về thời vụ thu hái quả Cọc rào của Nuss và cộng sự, 2008, khi vỏ quả bắt đầu chuyển sang màu đen là lúc thu hái cho hàm lượng dầu cao nhất [14], [52]. Theo Matsuno và cộng sự (1985), ở Paraguay sản lượng hạt tính trên ha/năm của cây Cọc rào trồng từ tuổi thứ 3 đến tuổi thứ 8 dao động từ 100 kg đến 4.000 kg, trong đó ở tuổi thứ 7 là 3.000 kg và tuổi thứ 8 là 5.000 kg. Sản lượng hạt cây 1 năm tuổi ở Thái Lan là 794 kg/ha (Stienswat và cộng sự, 1986). Cây ở tuổi thứ 3 tại Ấn Độ cho sản lượng hạt là 1.733kg/ha/năm (Bhay Mal, 1985). Theo nhiều tác giả sản lượng hạt ở các vùng trồng thuộc các nước Nicaragua, Mali, Thái Lan… dao động từ 2.146 đến 5.100 kg/ha/năm [14]. Bảo quản hạt giống Về vấn đề bảo quản hạt giống, năm 1958 Holms và Buszewicz đã đưa ra định nghĩa: "Bảo quản là giữ gìn những hạt giống trong thời gian từ khi thu hái đến khi gieo ươm". Khoảng thời gian mà hạt còn sống người ta gọi là tuổi thọ hạt giống. Tuổi thọ hạt giống trong tự nhiên chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố (nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng…) và được gọi là tuổi thọ tự nhiên. Kéo dài tuổi thọ tự nhiên của hạt
  14. 13 giống bằng các phương pháp cất trữ, bảo quản…là nhiệm vụ của nhà nghiên cứu nhằm phục vụ cho mục đích trồng rừng và nhiều mục đích khác. Cho đến nay, thế giới đã thành công trong việc bảo quản nhiều loại hạt giống, đặc biệt là các loại hạt có dầu như ở Thái Lan hạt Pinus kesiya và Pinus merkusii giữ được tỷ lệ sống cao trong 4 năm nếu được bảo quản trong điều kiện hàm lượng nước
  15. 14 hoá học của các hạt đã lưu trữ trong 3 năm thì thấy các hạt này có hàm ẩm là 6,2% [5]. Một khảo sát khác của Kobilke (1989), nghiên cứu sức sống và hàm lượng dầu của hạt cây Cọc rào sau thu hái trong khoảng thời gian từ 1 đến 24 tháng, với điều kiện bảo quản bình thường. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hạt Cọc rào sau 15 tháng bảo quản thì tỷ lệ nảy mầm giảm xuống dưới 50%. Nguyên nhân chính của sự giảm tuổi thọ hạt giống phụ thuộc vào hàm lượng nước trong hạt và nhiệt độ khi bảo quản [37], [38]. Còn Praveen Rao.Dr.V 2008, đã xác định hàm lượng nước cho bảo quản hạt cây Cọc rào là 7% [52]. Nghiên cứu về chọn giống và nhân giống sinh dưỡng Trong lâm nghiệp, nhân giống sinh dưỡng cho cây rừng đã được sử dụng trên 100 năm nay. Ngay từ năm 1840, Marrier de Boisdyver (người Pháp) đã ghép 10.000 cây Thông đen. Năm 1883, Venlinski A.H công bố công trình nhân giống một số loài cây lá kim và cây lá rộng thường xanh bằng hom. Ở Pháp năm 1969, Trung tâm lâm nghiệp nhiệt đới bắt đầu chương trình nhân giống cho các loài Bạch đàn, năm 1973 mới có 1 ha rừng trồng bằng cây hom thì đến năm 1986 đã có khoảng 24.000 ha trồng bằng cây hom, các rừng này đạt tăng trưởng bình quân 35 m3/ha/năm [20]. Theo D.A Komisarov (1964) khi nghiên cứu giâm hom với nhiều loài cây đã cho rằng đường kính và chiều dài của hom ảnh hưởng đến tỷ lệ ra rễ của hom giâm. Từ kết quả nghiên cứu, hom có kích thước lớn tốt hơn hom có kích thước nhỏ. Tuy nhiên, hom cắt từ cây có đường kính nhỏ khả năng phát sinh rễ thấp, hom cắt từ cây lớn ra rễ cũng không tốt. Điều kiện chiếu sáng cho cây mẹ lấy cành cũng ảnh hưởng đến khả năng ra rễ của hom giâm, thí nghiệm tổng hợp về ảnh hưởng của ánh sáng, độ ẩm không khí và độ ẩm đất đến tỷ lệ ra rễ của hom cây Sồi 1 tuổi và thấy rằng: hom lấy từ cây trồng ở nơi có ánh sáng tán xạ yếu, độ ẩm không khí và độ ẩm đất cao có tỷ lệ ra rễ cao 64-92%, trong lúc hom cắt từ cây trồng từ nơi có ánh sáng mạnh, độ ẩm không khí và độ ẩm đất thấp chỉ có tỷ lệ ra rễ 44-68%, còn đối với cây 18 tuổi, dù mọc ở điều kiện nào thì cũng không ra rễ. Từ đó tác giả nhận định là các
  16. 15 điều kiện cây trồng có ảnh hưởng đến tỷ lệ ra rễ của hom lấy từ cây non, song không có ảnh hưởng đến tỷ lệ ra rễ của hom lấy từ cây lớn tuổi. Cũng theo Komisarov thì ánh sáng tự nhiên cần thiết cho ra rễ, còn ánh sáng đỏ và ánh sáng xanh làm giảm tỷ lệ ra rễ của hom giâm của một số loài cây ưa sáng. Nhu cầu về nhiệt cho ra rễ của hom các loài thực vật biến động trong một phạm vi rộng và phụ thuộc vào đặc điểm sinh thái của chúng. Nhiệt độ thích hợp cho ra rễ còn phụ thuộc vào mức độ hóa gỗ của hom, hom hóa gỗ yếu ra rễ tốt hơn trong điều kiện nhiệt độ thấp (20-220C) so với khi ở nhiệt độ cao (270C – 300C). Các loài cây họ Dầu như: Shorea. bracteolata và Hopca odonata ... ra rễ tốt nhất ở nhiệt độ không khí 28- 320C [6]. Tewari 1993, thời gian chiếu sáng có ảnh hưởng tới tỷ lệ ra rễ của hom giâm. Ánh sáng tán xạ cần thiết cho hom và độ sáng thích hợp khoảng 40-50% ánh sáng toàn phần, ánh sáng đầy đủ thời gian ra rễ ngắn hơn và tỷ lệ ra rễ cũng cao hơn [59]. Đến nay nhiều tác giả cho rằng xác định lịch nhân giống bằng hom là không nên, bởi vì bắt đầu thời kỳ dinh dưỡng, nhiệt độ sinh trưởng và phát triển chồi ở các loài là rất khác nhau trong từng năm. Các loài cây nhiệt đới cần nhiệt độ không khí trong nhà giâm hom thích hợp cho ra rễ là 280C – 330C và nhiệt độ giá thể thích hợp là 25- 300C (Longman, 1993) [46]. Trong lúc các loài cây vùng lạnh, cần nhiệt độ không khí trong nhà giâm hom thích hợp là 230C - 270C, nhiệt độ giá thể thích hợp là 22- 240C. Nói chung nhiệt độ không khí trong nhà giâm hom nên cao hơn nhiệt độ giá thể là 2-3oC (Dansin, 1983) [31]. Đối với cây Cọc rào biện pháp giâm hom đã được người dân ở nhiều nước trên thế giới sử dụng, phương thức sử dụng phổ biến là chặt cành của cây mẹ để trồng. Cho tới nay kỹ thuật này vẫn đang được duy trì do đặc tính dễ trồng, dễ sống của loài cây này. Việc sử dụng chất hormon sinh trưởng để nhân nhanh và duy trì nguồn giống những cây Cọc rào có đặc tính tốt như sai quả, hàm lượng dầu cao đã được nhiều nước sử dụng ở trên thế giới trong một số năm trở lại đây. Phương pháp này được sử dụng phổ biến ở các nước Ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Trung Quốc, Singapore, các nước châu Mỹ, châu Phi [37].
  17. 16 Ở Indonesia cây Cọc rào được mọi người biết rộng rãi, tuy vậy loài cây này không được trồng và sử dụng một cách tốt nhất, mới chỉ được trồng bằng các nguồn giống địa phương. Do vậy từ năm 2005-2007, Indonesia đã tiến hành công tác cải thiện giống cây Cọc rào. Các bước chọn giống được Trung tâm nghiên cứu và phát triển cây trồng trang trại của Indonesia (ICERD) xác định là: Chọn các cây ưu việt, phát triển nghiên cứu kỹ thuật trồng, chế biến sau thu hoạch và kinh tế-xã hội [14]. Gần đây nhất vào năm 2008, Praveen Rao V, khi nghiên cứu ảnh hưởng của IBA đến ra rễ của hom thân Cọc rào cho thấy với nồng độ 100 mg/l tỷ lệ ra rễ đều đạt 100% trong khi đó kết quả của đối chứng là 64% Trồng bằng cây hom tác giả đề nghị lưu ý đến đặc tính của hom như chiều dài, đường kính và tuổi cây lấy hom, tuổi cành, vị trí lấy hom, cách thức bảo quản, xử lý hom… tác giả cũng nêu lên những ưu và nhược điểm của việc trồng bằng cây hạt và cây hom. Kết quả nhân giống bằng nuôi cấy mô cây Cọc rào mới có thông báo ban đầu về nuôi cấy đỉnh sinh trưởng trong bình thí nghiệm. Khi nhân giống bằng mô tác giả gợi ý cần quan tâm các nội dung sau: hệ số nhân hom, tỷ lệ thành cây, thời gian trồng thích hợp, đồng dạng về kích thước và hình dạng, nhân nhanh, cây không sâu bệnh….[52]. 1.2.2. Ở Việt nam Trồng Cọc rào Trước năm 2005, ở các địa phương trong cả nước cây Cọc rào chủ yếu được trồng làm hàng rào xung quanh nhà, vườn nhà với mục đích bảo vệ. Người dân thường dùng nhựa Cọc rào để chữa một số bệnh: tưa lưỡi, mụn nhọt, sát trùng vết thương,.. và việc sử dụng này hoàn toàn theo kinh nghiệm bản địa. Những hiểu biết về loài cây này còn rất hạn chế, chưa có nghiên cứu về trồng đại trà, kỹ thuật trồng, kỹ thuật gieo ươm, thu hái, bảo quản, chọn và nhân giống. Đến cuối năm 2007 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt “Đề án trồng và sử dụng sản phẩm từ cây Cọc rào” tại Quyết định số 1842/QĐ-BNN-LN. Theo lộ trình của Đề án đến năm 2015 trồng khoảng 300.000 ha và đến 2025 sẽ nâng lên 500.000ha cho nghiên cứu khảo nghiệm chọn tạo giống và bước đầu thử nghiệm sản xuất dầu diesel sinh học từ cây này [1]. Để cụ thể hoá, sau khi có đề án được phê duyệt, hàng loạt doanh
  18. 17 nghiệp trong và ngoài nước cùng nhau thúc đẩy các dự án đầu tư trồng và xây dựng nhà máy chế biến dầu từ cây Cọc rào như Trường Đại học Thành Tây đang phối hợp với Công ty TNHH Núi Đầu Lạng Sơn trồng 2300 ha trong tổng số 200000ha của dự án, phối hợp với công ty cổ phần Minh Sơn trồng 60.000ha tại Sơn La và Nghệ An, trước mắt đã xây dựng được mô hình ở hai nơi, mỗi nơi 50ha. Tập đoàn Megastar dự kiến trồng 500.000ha tại 8 tỉnh phía bắc từ Nghệ An trở ra. Công ty Jatropha Việt Nam trồng ở Hoà Bình, Bắc Giang, Quảng Ninh. Công ty Sài Gòn Măng đen, Công ty năng lượng xanh, Tập đoàn Eco-carbon liên kết với nhiều đơn vị như Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Phân viện hoá học hợp chất thiên nhiên thành phố Hồ Chí Minh để trồng Cọc rào tại các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Úc, Đức, Pháp, Trung Quốc… cũng đang tìm các đối tác của Việt Nam để đầu tư, liên doanh sản xuất nhiên liệu sinh học bằng cây Cọc rào. Nghiên cứu về hạt giống Thu hái hạt giống phải được tiến hành sau khi hạt thành thục, thu hái quá sớm sẽ ảnh hưởng đến chất lượng hạt, quá muộn sau khi hạt rụng bay đi khó thu hái. Quá trình thành thục của hạt là toàn bộ quá trình phát dục của tế bào trứng thụ tinh gồm rễ phôi, thân phôi, mầm phôi và lá mầm. Khi trong hạt tích luỹ chất dinh dưỡng nhất định có khả năng nảy mầm được gọi là thành thục sinh lý. Khi hạt có khả năng nảy mầm, quả và hạt thể hiện đặc trưng chín được gọi là thành thục hình thái. Hạt thành thục hình thái có hàm lượng nước thấp, chất dinh dưỡng kết keo, hô hấp thấp, vỏ chắc, cứng rất dễ cất trữ. Do vậy trong sản xuất kinh doanh hạt giống thường lấy thành thục hình thái làm tiêu chí xác định thời kỳ thu hái hạt giống. Đối với những loài có thời kỳ hạt rụng kéo dài cũng có thể kéo dài thời kỳ thu hoạch nhưng quá muộn sẽ ảnh hưởng đến phẩm chất hạt. Đối với những loài cây có thời kỳ chín và rơi rụng ngắn có thể thu hái nhanh gọn khi có 5-10% quả chín hình thái. Kỹ thuật thu hái hạt giống đã được người dân sử dụng suốt hàng nghìn đời nay và trở thành những kinh nghiệm, kiến thức bản địa của hầu hết bà con nông dân.
  19. 18 Tìm hiểu quá trình chín của hạt và nhận biết hạt chín là cơ sở của việc xác định thời điểm thu hái. Căn cứ vào đặc tính hạt và mục đích cất trữ hạt mà có nhiều phương pháp cất trữ hạt giống khác nhau. Một số phương pháp đơn giản, chi phí thấp đã được và đang được dùng phổ biến hiện nay là phương pháp cất trữ khô và cất trữ ẩm. Dù áp dụng phương pháp nào thì hạt giống đều phải sạch, hàm lượng nước xác định. Đối với những hạt có hàm lượng nước quá cao, phải tiến hành xử lý khô cho phù hợp với tiêu chuẩn. Để phòng trừ sâu bệnh hại, trước khi nhập kho phải xử lý khử trùng. Với những loại hạt có hàm lượng nước an toàn thấp như cây lá Kim (Coniferales), Hoè (Sophora japonica), Keo lá tràm (Acacia auriculiformis), Keo lai (A.mangium x A.auriculiformis), các loại Muồng (Cassia)...thường sử dụng phương pháp bảo quản khô. Với những loại hạt có hàm lượng nước an toàn cao như Mỡ (Manglietia glauca), Bồ đề (Styrax tonkinensis), Sở (Camellia sasanqua), …thường xử dụng phương pháp bảo quản ẩm [4]. Để bảo quản lâu dài nguồn hạt giống, việc nghiên cứu thăm dò kỹ thuật mới vẫn không ngừng, dùng đạm dung dịch bảo quản trong nhiệt độ siêu thấp (-1960C) đã được nhiều nghiên cứu chứng minh, rất nhiều hạt, phấn hoa, mô phân sinh, chồi, mô sẹo và tế bào thực vật đều có thể bảo quản thành công trong đạm dịch thể ở nhiệt độ siêu thấp mà không ảnh hưởng đến sức sống. Dùng phương pháp này còn có thể bảo quản phấn hoa rất có hiệu quả. Nhưng việc nghiên cứu này cũng chỉ mới bắt đầu. Nghiên cứu bảo quản hạt giống đối với hạt cây Cọc rào còn chưa được đề cặp nhiều, một số tài liệu viết dưới dạng báo cáo tổng kết kinh nghiệm. Một số nghiên cứu thì chưa đi sâu về cách thức bảo quản hạt giống mà mới chỉ đề cập đến vấn đề bảo quản nói chung. Cho đến năm 2007, khi nghiên cứu bảo quản hạt giống cây Cọc rào Lê Quốc Huy và cộng sự mới có kết luận lần đầu tiên ở Việt Nam: Hạt Cọc rào sau thu hái 1 tháng có tỷ lệ nảy mầm 98%, sau 3 tháng còn 85% và đến tháng thứ 13 tỷ lệ nảy mầm chỉ còn 31% [3]. Lê Võ Đình Tường 2007, khi xử lý nảy mầm
  20. 19 hạt giống Cọc rào cho kết quả, có sự nảy mầm khác nhau giữa các vùng sinh thái thu thập [24]. Năm 2008, khi nghiên cứu bảo quản hạt Cọc rào, trong luận văn tốt nghiệp, sinh viên Nguyễn Thị Huyền có kết luận sau 4 tháng bảo quản hàm lượng nước trong hạt Cọc rào giảm tới 4,77% với bảo quản thông thường, giảm 3,83% với bảo quản kín và giảm 3,13% với bảo quản khô lạnh [5]. Nghiên cứu về giâm hom Giâm hom cây rừng Từ lâu trong sản xuất Nông - Lâm nghiệp, người dân Việt Nam đã biết sử dụng các phương pháp nhân giống sinh dưỡng như chiết, ghép các loài cây ăn quả, cây cảnh. Nông dân đã biết trồng cây bằng hom cho các loài Tre, Trúc, Mía, Sắn… nhưng với các loài cây rừng nhân giống bằng hom mới được chú ý từ những năm 1975 trở lại đây. Lần đầu tiên vào năm 1976, những thực hiện về nhân giống hom với một số loài Thông và Bạch đàn được tiến hành tại trung tâm nghiên cứu cây có sợi Phù Ninh - Phú Thọ, đây là các nghiên cứu rất sơ khai, song đã mở đầu cho các nghiên cứu thực nghiệm tiếp sau này ở Việt nam [20]. Những năm 1983 – 1989, các thực nghiệm về nhân giống bằng hom được tiến hành tại Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, đối tượng nghiên cứu là loài Mỡ (Manglietia glauca), Lát hoa (Chukrasia tabularis), Bạch đàn (Eucalyptus) (Nguyễn Ngọc Tân 1983; Phạm Văn tuấn 1989). Nội dung nghiên cứu tập trung vào đặc điểm cấu tạo giải phẫu của hom, ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm môi trường và xử lý các chất kích thíc ra rễ đến tỷ lệ sống và ra rễ của hom. Cũng trong thời gian này phân viện Lâm nghiệp phía Nam cũng có một số thực nghiệm giâm hom cho một số loài cây họ dầu (Dipterocoarpaceae), … Nhưng nhìn chung các thí nghiệm còn hết sức giản đơn, mang tính chất định tính vì không được bố trí theo các nguyên tắc của thống kê toán học. Những năm 1990 trở lại đây, Lê Đình Khả và cộng sự đã nghiên cứu giâm hom cho Keo lá tràm, Keo tai tượng, Keo lai, Phi lao … đã đạt kết quả cao, các thí
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD


ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2