intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông sử dụng tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên - Văn Bàn, tỉnh Lào Cai

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:70

19
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm đánh giá sự đa dạng tài nguyên cây thuốc, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông ở trong khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên - Văn Bàn, tỉnh Lào Cai. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của luận văn này!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông sử dụng tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên - Văn Bàn, tỉnh Lào Cai

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI TRẦN VĂN HẢI NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC ĐƯỢC ĐỒNG BÀO DÂN TỘC H’MÔNG SỬ DỤNG TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN HOÀNG LIÊN – VĂN BÀN, TỈNH LÀO CAI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI - 2011
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI TRẦN VĂN HẢI NGHIÊN CỨU NGUỒN TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC ĐƯỢC ĐỒNG BÀO DÂN TỘC H’MÔNG SỬ DỤNG TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN HOÀNG LIÊN – VĂN BÀN, TỈNH SƠN LA CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG MÃ SỐ: 60.62.68 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ THỊ XUYẾN HÀ NỘI – 2011
  3. 1 M Ở ĐẦU Trong cuộc sống ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển những vấn đề về sức khỏe con người ngày càng được quan tâm hơn bao giờ hết. Khoa học ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng được tăng lên, càng muốn hướng tới một cuộc sống mà ở đó có sự phát triển bền vững. Những sản phẩm được con người ưu tiên sử dụng là những sản phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên. Việt Nam là nước có truyền thống lịch sử lâu dài với hơn bốn nghìn năm dựng nước, giữ nước, xây dựng và phát triển. Trong thời gian dựng nước và giữ nước đó rất nhiều những bài học, kinh nghiệm dân gian đã được người dân đúc rút thành những kinh nghiệm và truyền từ đời này qua đời khác. Một trong những sản phẩm bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của con người được người dân hết sức quan tâm đó là việc sử dụng những cây cỏ làm thuốc để chữa bệnh. Từ thủa xa xưa cho đến ngày nay đồng bào các dân tộc anh em trên đất nước ta đã không ngừng tìm tòi nghiên cứu, sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc chữa bệnh. Cùng với kinh nghiệm cổ truyền của dân tộc, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã minh chứng cơ sở khoa học của những cây thuốc qua thành phần hóa học, tác dụng kháng khuẩn … chúng ta càng thấy rõ tác dụng của nó. Các cây thuốc phân bố rộng và đa dạng, số loài cây thuốc được ghi nhận vào năm 2007 là 3948 loài trong hệ thực vật Việt Nam[17]. Bên cạnh đó cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội một cách nhanh chóng thì chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn khi môi trường ngày càng ô nhiễm, thiên tai xảy ra liên tiếp cùng với nó là sự xuất hiện của nhiều loại bệnh tật mới mà thuốc tây vẫn chưa có thuốc đặc trị. Vì vậy, ngày nay tất cả các nước trên thế giới đang hết sức quan tâm tới việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên cây thuốc. Cũng như nhiều Khu bảo tồn thiên nhiên và Vườn quốc gia khác trong nước, Khu bảo tồn thiên thiên Hoàng Liên – Văn Bàn, tỉnh Lào Cai có hệ thực vật nói chung, tài nguyên cây thuốc nói riêng đang bị suy giảm cả về số lượng cũng như chất lượng [41]. Tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên – Văn Bàn cho đến nay các công trình nghiên cứu về cây thuốc vẫn chưa được quan tâm và chú ý nhiều. Xuất phát từ vấn đề trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông ở khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên- Văn Bàn, tỉnh Lào Cai làm cơ sở cho công tác bảo tồn” để hoàn thiện nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình.
  4. 2 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế giới Ngay từ khi loài người xuất hiện, con người đã biết sử dụng các loài thực vật để phục vụ cuộc sống của mình như cây làm thức ăn, nhà ở, cây làm thuốc, đầu độc chim, thú…Từ những kinh nghiệm đó, dần dần hình thành một khoa học gọi là Thực vật dân tộc học. Khoa học này nghiên cứu các mối quan hệ giữa các dân tộc khác nhau với các loài cây cỏ phục vụ cho cuộc sống của họ. Mỗi quốc gia đều có những nền y học cổ truyền riêng, đặc biệt trong đó có những kinh nghiệm tìm kiếm và sử dụng những cây thuốc để phòng và trị bệnh ở người, vật nuôi. Những ghi chép đầu tiên về cây thuốc được tìm thấy cách đây hơn 5 ngàn năm, đó là những nét khắc trên đất sét của người Sumeria, thuộc Mesopotamia cổ xưa (là Irắc ngày nay), đề cập đến sử dụng cây carum và cây húng tây. Cũng thời gian này, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc cũng bắt đầu hình thành và phát triển ở Trung Quốc và Ấn Độ. Tuy nhiên, nhiều bằng chứng khảo cổ học cho thấy kinh nghiệm sử dụng cây thuốc xuất hiện từ rất lâu đời. Rễ của cây Thục Quỳ (Althea officinalis), cây Lan Dạ Hương (Hyacinthus sp) và cây Cỏ thi (Achillea millefolium) được cất giữ quanh bộ xương người có niên đại vào thời kỳ đồ đá ở Irắc. Cho đến nay giá trị làm thuốc của ba loài thực vật kể trên vẫn được thừa nhận. Điều này cho thấy, trên thực tế, thực vật được dùng làm thuốc xuất hiện trước khi có sự ghi chép của sử sách. Sử dụng cây thuốc được các quốc gia trên thế giới tiến hành ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển của dân tộc đó. Trung Quốc là một trong những quốc gia có nền y học cổ truyền rất phát triển. Trong cuốn sách “Thần Nông bản thảo”, 365 vị thuốc có giá trị đã được Vua Thần Nông (3320 – 3080 trước Công nguyên) thống kê lại. Trong đó, nhiều bài thuốc vẫn được sử dụng cho tới ngày nay như cây Gai mèo (Cannabis sp) để chống nôn, cây Đại Phong Tử (Hydnocarpus kurzii) làm thuốc chữa bệnh phong. Vào thời Tam Quốc, danh y Hoa Đà, sử dụng Đàn hương, Tử đinh hương để chế hương nang (túi thơm) để phòng chống và chữa trị bệnh lao phổi và bệnh lỵ. Ông còn dùng hoa Cúc, Kim ngân phơi khô cho vào chiếc gối (hương chẩm) để điều trị chứng đau đầu, mất ngủ, cao huyết áp. Từ thời
  5. 3 nhà Hán (năm 168 trước Công nguyên) trong cuốn sách “Thủ hậu bị cấp phương” tác giả đã kê 52 đơn thuốc chữa bệnh từ các loại cây cỏ. Giữa thế kỷ XVI, Lý Thời Trân đã thống kê 12.000 vị thuốc trong tập “Bản thảo cương mục”. Ở Ấn Độ, nền y học cổ truyền được hình thành cách đây hơn 3000 năm. Chủ trương của người Ấn là ngừa bệnh là chính, nếu phải điều trị bệnh thì các liệu pháp tự nhiên chủ yếu thông qua thực phẩm và thảo mộc sẽ giúp loại bỏ gốc rễ căn bệnh. Bộ sử thi Vedas được viết vào năm 1.500 TCN và cuốn Charaka samhita được các thầy thuốc Charaka bổ sung tiếp vào bộ sử thi Vedas, trình bày cụ thể 350 loài thảo dược. Ấn Độ là quốc gia rất phát triển về nghiên cứu thảo dược như tổng hợp chất hữu cơ, tách chiết chứng minh cấu trúc, sàng lọc sinh học, thử nghiệm độc tính, và nghiên cứu tác dụng hóa học của các chất tới cơ thể con người. Hiện nay, chính phủ khuyến khích sử dụng công nghệ cao trong trồng cây thuốc. Hầu hết các viện nghiên cứu dược của Ấn Độ đã tham gia vào nghiên cứu chuyển hóa các loại thuốc và hợp chất có hoạt tính từ thực vật. Những hiểu biết về thảo mộc của người Hy Lạp và Roma gắn liền với nền văn minh phát triển từ rất sớm của họ. Người Hy Lạp cổ xưa chịu ảnh hưởng của người Babylon, Ai Cập, Ấn Độ. Hippocrat (460 – 377 TCN) là thầy thuốc nổi tiếng người Hy Lạp được mệnh danh là cha đẻ của y học hiện đại khi ông là người đưa ra quan niệm “Hãy để thức ăn của bạn là thuốc và thuốc chính là thức ăn của bạn”. Ở Châu Âu, vào thời Trung cổ, các kiến thức về cây thuốc chủ yếu được các thầy tu sưu tầm và nghiên cứu. Họ trồng cây thuốc và dịch các tài liệu về thảo mộc bằng tiếng Ả rập. Vào năm 1649, Nicolas Culpeper đã viết cuốn sách “A Physical Directory”, sau đó vài năm, ông lại xuất bản cuốn “The English Physician”. Đây là cuốn dược điển có giá trị và là một trong những cuốn sách hướng dẫn đầu tiên dành cho nhiều đối tượng sử dụng, người không chuyên có thể sử dụng để làm cẩm nang chăm sóc sức khỏe. Cho đến nay, cuốn sách này vẫn được tham khảo và trích dẫn rộng rãi. Thầy lang và những bài thuốc cổ truyền từ thực vật đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe của hàng triệu người. Tỷ lệ người làm nghề thuốc cổ truyền và các bác sĩ được đào tạo ở các trường Đại học có liên quan tới toàn bộ dân số của các
  6. 4 nước châu Phi. Ước tính số lượng thầy lang ở Tanzanmia có khoảng 30.000 – 40.000 người, trong đó, bác sĩ làm nghề y chỉ có khoảng 600 người. Tương tự ở Malawi có khoảng gần 20.000 người làm nghề thuốc cổ truyền nhưng số lượng bác sĩ rất ít. Nền y học cổ truyền ở các quốc gia Châu Phi có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng. Cùng với phương thức chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa học trên thế giới tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế và các hợp chất hóa học trong cây có tác dụng chữa bệnh, đúc rút thành những cuốn sách có giá trị. Các nhà khoa học công nhận rằng hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng sinh, đó là khả năng miễn dịch tự nhiên của thực vật. Tác dụng kháng khuẩn do các hợp chất tự nhiên có mặt phổ biến trong thực vật như phenolic, antoxy, các dẫn xuất quino, ancaloid, flavonoid, saponin, … Cho đến nay, nhiều hợp chất tự nhiên đã được giải mã về cấu trúc, những hợp chất này được chiết xuất từ cây cỏ để làm thuốc. Dựa vào cấu trúc được giải mã, người ta có thể tổng hợp nên các chất nhân tạo để chữa bệnh. Gotthall (1950) đã phân lập được chất Glucosid barbaloid từ cây Lô hội (Aloe vera), chất này có tác dụng với vi khuẩn lao ở người và vi khuẩn Baccilus subtilis. Lucas và Lewis (1994) đã chiết xuất một hoạt chất có tác dụng với các loài vi khuẩn gây bệnh tả, lị, mụn nhọt từ Kim ngân (Lonicera sp). Từ cây Hoàng Liên (Coptis teeta), người ta đã chiết xuất được berberin. Trong lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) có các hợp chất sulfua, sapoin và chất đắng. Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập được một hoạt chất Odorin ít độc đối với động vật bậc cao nhưng lại có tác dụng kháng khuẩn. Hạt của cây Hẹ cũng có chứa chất Alcaloid có tác dụng kháng khuẩn gram+ và gram-, nấm. Reserpin và Serpentin là chất hạ huyết áp được chiết xuất từ cây Ba gạc (Rauvolfa spp.). Đặc biệt, Vinblastin và Vincristin vừa có tác dụng hạ huyết áp vừa có tác dụng làm thuốc chống ung thư, được chiết xuất từ cây Dừa cạn. Digitalin được chiết xuất từ cây Dương địa hoàng (Digitalis spp.), strophatin được chiết xuất từ cây Sừng dê (Strophanthus spp) để làm thuốc trợ tim. Từ những thành tựu nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính của các hợp chất tự nhiên, nhiều loại thuốc có tác dụng chữa bệnh cao đã ra đời bằng tổng hợp hoặc bán tổng hợp.
  7. 5 Dược lý hiện đại chủ yếu tập trung vào các hợp chất tự nhiên có hoạt tính chữa bệnh trong khi các nhà nghiên cứu về thảo mộc cho rằng tác dụng chữa bệnh của cây thuốc là do sự kết hợp của nhiều thành phần có trong cây thuốc. Chẳng hạn như chất khoáng, vitamin, tinh dầum glycosid và nhiều chất khác đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường hoặc hỗ trợ các đặc tính chữa bệnh của cây thuốc, bảo vệ cơ thể của các tác nhân gây độc. Trong khi đó, các hợ chất được phân lập và tổng hợn có khả năng chữa bệnh hiệu quả nhưng vì thiếu đi các hợp chất tự nhiên khác nên chúng có khả năng gây độc đối với cơ thể. Trước đây, việc sử dụng thảo dược để chữa bệnh thường bị hiểu lầm với phép thuật và mê tín dị đoan. Ngày nay, khoa học hiện đại đã chứng minh được khả năng chữa bệnh của thảo mộc. Vì vậy, thế giới ngày càng quan tâm tới cây thuốc cũng như phương pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền. Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO), có trên 20.000 loài thực vật bậc cao có mạch và ngành thực vật bậc thấp được sử dụng trực tiếp làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất tự nhiên để làm thuốc. Trong đó, vùng nhiệt đới Châu Mỹ có hơn 1.900 loài, vùng nhiệt đới Châu Á có khoảng 6.500 loài thực vật có hoa được dùng làm thuốc. Mức độ sử dụng thuốc thảo dược ngày càng cao. Khoảng 80% dân số ở các quốc gia đang phát triển sử dụng các phương pháp y học cổ truyền để chăm sóc sức khỏe, trong đó chủ yếu là cây cỏ. Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới, có nền y học dân tộc phát triển nên trong số cây thuốc đã biết hiện nay có tới 80% số loài (khoảng trên 4.000 loài) là được sử dụng theo kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc ở đất nước này. Ở Ghana, Mali, Nigeria và Zambia, 60% trẻ em có triệu chứng sốt rét ban đầu được điều trị tại chỗ bằng thảo dược. Tỷ lệ dân số tin tưởng vào hiệu quả sử dụng thảo dược và các biện pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền cũng đang tăng nhanh ở các quốc gia phát triển. Ở Châu Âu, Bắc Mỹ, và một số nước khác, ít nhất 50% dân số sử dụng thực phẩm bổ sung hay thuốc thay thế từ thảo mộc. Ở Đức, 90% dân số sử dụng các phương thuốc có nguồn gốc thiên nhiên để chăm sóc sức khỏe. Ở Anh, chi phí hàng năm cho các loại thuốc thay thế từ thảo mộc là 230 triệu đôla.
  8. 6 Theo số liệu của trung tâm thương mại quốc tế từ năm 1976, các nước công nghiệp phát triển đã nhập khẩu hơn 300 triệu USD và đến năm 1980 con số này đã tăng lên 551 triệu USD. Chỉ tính riêng 12 loại dược liệu có nhu cầu sử dụng cao ở Mỹ là Bạch quả, Sâm Triều Tiên, Tỏi, Valeriana officinalis, … từ năm 1998 đã đạt doanh số bán lẻ là 552 triệu USD. Đến năm 2003, thị trường thảo dược toàn cầu đã vượt mức 60 tỷ USD hàng năm và con số này vẫn tiếp tục tăng. Tuy nhu cầu sử dụng cây thuốc của con người trong việc chăm sóc sức khỏe ngày một tăng, nhưng nguồn tài nguyên thực vật đang bị suy giảm. Nhiều loài thực vật đã bị tuyệt chủng hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng do các hoạt động trực tiếp và gián tiếp của con người. Theo tổ chức Bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên (IUCN) cho biết, trong tổng số 43.000 loài thực vật mà cơ quan này lưu giữ thông tin có tới 30.000 loài được coi là đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác nhau. Trong đó có nhiều loài là cây thuốc quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Chẳng hạn như ở Bangladesh, một số cây thuốc quý như Tylophora indicia (để chữa hen), Zannia indicia (thuốc tẩy xổ)…trước đây mọc rất phổ biến, nay đã trở nên hiếm hoi. Loài Ba gạc (Rauvolfila serpentina) vốn mọc rất tự nhiên ở Ấn Độ, Bangladesh, Thái Lan…mỗi năm có thể khai thác hàng ngàn tấn nguyên liệu xuất khẩu sang thị trường Âu, Mỹ làm thuốc chữa cao huyết áp. Tuy nhiên, do bị khai thác liên tục nhiều năm nên nguồn gốc cây thuốc này đã bị cạn kiệt. Vì vậy một số bang ở Ấn Độ đã đình chỉ khai thác loài Ba gạc này. Ở Trung Quốc, loài Dioscorea sp đã từng có trữ lượng lớn và từng được khai thác tới 30.000 tấn, nhưng hiện nay số lượng bị giảm đi rất nhiều, có loài đã phải trồng lại. Một vài loài cây thuốc dân tộc quý như Fritillaria cirrhosa làm thuốc ho, phân bổ nhiều ở vùng Tây bắc tỉnh Tứ Xuyên nay chỉ còn phân bố ở 1 đến 2 điểm với số lượng ít ỏi. Nguyên nhân gây nên sự suy giảm nghiêm trọng về mặt số lượng của các loài cây thuốc trước hết là do sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên dược liệu và do môi trường sống của chúng bị hủy diệt bở các hoạt động của con người. Đặc biệt, ở các vùng rừng nhiệt đới và Á nhiệt đới là nơi có mức độ đa dạng sinh học cao của thế giới nhưng lại bị tàn phá nhiều nhất. Theo số liệu của tổ chức Nông Lương
  9. 7 (FAO) của Liên hợp quốc, trong vòng 40 năm (1940 – 1980), diện tích của các loại rừng kể trên đã bị thu hẹp tới 44%, ước tình khoảng 75.000 hecta rừng bị phá hủy. Tiềm năng chữa bệnh của nhiều loài thảo dược đang ngày càng được khám phá, vì thế vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và bảo tồn cây thuốc nói riêng đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia nhằm phục vụ cho mục đích chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của con người. 1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam Nền y học cổ truyền của Việt Nam đã có từ rất lâu đời, nhiều phương thuốc bào chế từ cây thuốc được áp dụng chữa bệnh trong dân gian. Những kinh nghiệm này đã được ghi chép thành những cuốn sách có giá trị và lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Với lợi thế về khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm, Việt Nam có nguồn tài nguyên thực vật phong phú. Ước tính, nước ta có khoảng 12.000 loài thực vật bậc cao có mạch, 800 loài rêu, 600 loài nấm và hơn 2.000 loài tảo [9], [15], [16]. Có khoảng trên 3.000 loài thực vật bậc cao dùng làm thuốc. Trong cuốn sách “Nam Dược Thần Hiệu” và “Hông Nghĩa Giác Tư Y Thư” của Tuệ Tĩnh đã mô tả hơn 630 vị thuốc, 50 đơn thuốc chữa các loại bệnh trong đó 37 đơn thuốc chữa bệnh thương hàn. Hai cuốn sách này được xem là những cuốn sách xuất hiện sớm nhất về cây thuốc Việt Nam. Đến thế kỷ 18, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã xuất bản bộ sách lớn “Y Tông Tâm Tĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển đã mô tả khá chi tiết vệ thực vật, các đặc tính chữa bệnh [57]. Thời kỳ Pháp thuộc (1884 – 1945), nền y học cổ truyền của Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của dược học phương Tây. Các phương thức chữa bệnh mới được mang đến qua quá trình khai thác thuộc địa, họ đã gián tiếp thúc đẩy quá trình nghiên cứu thực vật của Việt Nam nói chung và nghiên cứu cây thuốc nói riêng. Đặc biệt bộ sách “Thực vật chí đại cương Đông Dương” của Lecomte xuất bản cuối thể kỷ XVIII đầu thể kỷ XIX đã mô tả và phân loại hơn 7.000 loài thực vật [48]. Đến năm 1952 tác giả tái bản lại cuốn sách, bổ sung và đặt tên mới là “Những cây thuốc của Campuchia, Lào và Việt Nam” gồm 4 tập, 1.050 trang và thống kê khoảng 1.480 loài thực vật. Tuy nhiên cuốn sách này chưa hoàn thiện về mô tả, phân bố, thành phần hóa học và dược lý của các loại thảo mộc.
  10. 8 Phạm Hoàng Hộ và Nguyễn Văn Dương đã xuất bản bộ sách “Cây cỏ Việt Nam” vào năm 1980 đã giới thiệu được công dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật [16]. Đỗ Tất Lợi (1995) đã xuất bản bộ sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” và tái bản vào năm 2000 [21]. Công trình này thống kê gần 800 loài cây, con và vị thuốc, trong đó nhiều loài thực vật đã được mô tả về mặt cấu tạo, phân bố, cách thu hái và chế biến, thành phần hóa học, công dụng và liều dùng. Cuốn sách từ điển cây thuốc Việt Nam, do Võ Văn Chi (1991) biên soạn đã mô tả được 3.200 loài cây thuốc, trong đó thực vật có hoa là 2.500 loài thuộc 1.050 chi, được xếp và 230 họ thực vật theo hệ thống của Takhtajan [8]. Tác giả đã trình bày về cách nhận biết, các bộ phận được sử dụng, nơi sống và thu hái, thành phần hóa học, tính vị và tác dụng, công dụng của các loài thực vật [9]. Đến năm 2000, Võ Văn Chi và Trần Hợp tiếp tục giới thiệu cuốn sách “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” mô tả khoảng 6.000 loài thực vật bậc cao có mạch với các đặc điểm hình thái, sinh thái, phân bố và công dụng [10]. Trần Đình Lý (1995) và cộng sự đã xuất bản cuốn sách “1900 loài cây có ích” [20]. Trong số các loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam có 76 loài cho nhựa thơm, 160 loài có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 chứa tanin, 500 loài cây gỗ có giá trị cao, 400 loài tre nứa, 40 loài song mây. Trong số các nhóm thực vật này, rất nhiều loài có công dụng làm thuốc. Cũng trong năm này, Vương Thừa Ân cho ra đời cuốn “Thuốc quý quanh ta” [1]. Nhiều cuốn sách có giá trị về tài nguyên cây thuốc được các nhà khoa học của Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam biên soạn. Trong đó, đáng chú ý là những cuốn sách “Tài nguyên thực vật có tinh dầu ở Việt Nam” của tác giả Lã Đình Mỡi và cộng sự (2001 – 2002) các tác giả đã trình bày giá trị sử dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật có tinh dầu của Việt Nam [22]. Năm 2005, Lã Đình Mỡi và cộng sự giới thiệu tiếp công trình “Những cây chứa các hợp chất có hoạt tính sinh học” đây được coi là những ghi chép đầu tiên, có hệ thống và tương đối hoàn chỉnh về nguồn tài nguyên thực vật có chứa các chất có hoạt tính sinh học được sử dụng làm thuốc ở nước ta [23].
  11. 9 Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) đã công bố bộ sách “Cẩm nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật hạt kín ở Việt Nam” [4]. Cuốn sách đã trình bày đầy đủ các thông tin về tên khoa học, tên thường gọi, nhận dạng, phân bố, dạng sống – sinh thái và công dụng. Bộ sách này rất có ý nghĩa cho việc tra cứu danh pháp các loài thực vật. Trong những năm qua, nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách đầu tư cho công tác điều tra, nghiên cứu về cây thuốc và kế thừa nền y học cổ truyền, phục vụ cho nhu cầu chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Các ngành Y tế, Lâm nghiệp và Sinh học đã tiến hành nhiều đợt điều tra cơ bản, đặc biệt là chương trình điều tra nghiên cứu cây thuốc của Viện Dược liệu – Bộ Y tế đã tiến hành trên phạm vi toàn quốc. Đến nay ở nước ta có khoảng 3.948 loài cây thuốc được ghi nhận, thuộc 307 họ của 9 ngành thực vật bậc cao và bậc thấp, bao gồm cả nấm. 1.3. Tình hình nghiên cứu tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Các dân tộc thiểu số nói chung, do đời sống gắn liền với khai thác sử dụng thực vật nên có nhiều kinh nghiệm và tri thức quý trong quá trình chế biến, sử dụng thực vật; đặc biệt là các kinh nghiệm sử dụng cây thuốc. Tuy nhiên, các tri thức và kinh nghiệm dân tộc thường được sử dụng và lưu truyền trong một phạm vi hẹp (dân tộc, dòng họ, gia đình), vì vậy không được phát huy để phục vụ cho xã hội và có nguy cơ thất thoát rất cao. Nhận thức được tầm quan trọng này, trong khoảng 10 năm trở lại đây, nghiên cứu cây thuốc dân tộc được đặc biệt quan tâm tại một số cơ sở của nước ta và đã thu được nhiều kết quả khả quan. Kết quả điều tra được ghi nhận từ các kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc ở các địa phương trong cả nước. Các nhà khoa học thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về trí thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đặc biệt là các nghiên cứu về y học cổ truyền của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc trong những năm gần đây như: Điều tra nghiên cứu về tri thức bản địa và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của đồng bào Thái tại Mai Châu – Hòa Bình của tác giả Nguyễn Tiến Bân và cộng sự vào năm 2001; Nghiên cứu và ứng dụng thành công
  12. 10 tri thức sử dụng cây Ngấy (Rubus cochinchinesis) của đồng bào dân tộc trong việc chữa trị u tiền liệt tuyến của tác giả Lưu Đàm Cư và cộng sự (2002). Năm 2001, Nguyễn Thị Phương Thảo và cộng sự đã điều tra đánh giá về tài nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng các loài thực vật làm thuốc của một số cộng đồng dân tộc Dao, Tày và Hoa tại Yên Tử - Quảng Ninh và đã thu thập được 362 loài thực vật làm thuốc. Năm 2005, tác giả và cộng sự thực hiện đề tài “Nghiên cứu tác động kinh tế - dân sinh của các cộng đồng dân tộc vào tài nguyên thực vật và ảnh hưởng của nó tới đa dạng sinh học tại Chiềng Yên – Mộc Châu – Sơn La”. Kết quả đã thống kê được 209 loài cây thuốc do người Mường sử dụng và 176 cây thuốc được người Dao sử dụng [26]. Nhiều công trình điều tra về thành phần loài và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc thiểu số ở nước ta đã được tiến hành trong những năm vừa qua. Nhiều nghiên cứu về cây thuốc đã được phòng Thực vật dân tộc học thuộc Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật thực hiện với các công đồng dân tộc thiểu số như: H’ Mông, Dao, Tu Dí, Mường … tại một số tỉnh chủ yếu ở Tây bắc. Ngoài ra còn nhiều các nghiên cứu của nhiều tác giả như: Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự . . . Kết quả của các nghiên cứu trên cho thấy các dân tộc nước ta có nhiều tri thức quý giá và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc độc đáo để phòng và chữa bệnh. Nhiều bài thuốc dân tộc có hiệu quả chữa trị cao đã được thu thập và đưa vào nghiên cứu thực nghiệm. Đồng thời, đã phát hiện nhiều loài cây thuốc mới; đặc biệt là các công dụng mới của nhiều loài cây thuốc. Như vậy, nghiên cứu cây thuốc truyền thống của các dân tộc thiểu số đã góp phần sử dụng hiệu quả hơn nguồn tài nguyên cây thuốc ở nước ta. Cùng với việc điều tra thành phần loài, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các cộng đồng thiểu số; nghiên cứu sàng lọc các bài thuốc dân tộc sử dụng rộng rãi góp phần chăm sóc sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế xã hội được chú trọng nghiên cứu trong những năm gần đây. Từ kinh nghiệm truyền thống của các dân tộc đã có những nghiên cứu và sản xuất thành công các loại thuốc chữa bệnh cho người dân. Có thể nhận thấy, nghiên cứu cây thuốc dân tộc không chỉ góp phần sử dụng bền vững nguồn tài nguyên cây thuốc của đất nước, mà còn là cơ sở để sản xuất các
  13. 11 loại dược phẩm mới để điều trị các bệnh hiểm nghèo. Đây thực sự là hướng nghiên cứu có triển vọng lớn trong tương lai. 1.4. Tình hình nghiên cứu tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc ở Khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên – Văn Bàn tỉnh Lào Cai. Tại khu BTTN HL – VB, tỉnh Lào Cai đời sống của nhiều người dân nơi đây còn gặp rất nhiều khó khăn. Cuộc sống nơi đây vẫn mang tính tự cung tự cấp, trong những năm trở lại đây do chính sách của đảng và nhà nước có sự điều chỉnh và quan tâm nhiều đến bà con vùng cao nên đời sống của họ đã phần nào bớt đi được những khó khăn. Cuộc sống nơi những vùng núi cao cũng đã bắt buộc họ phải sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, trong cuộc sống mỗi khi ốm đau người dân nơi đây vẫn vào rừng tìm kiếm những loài cây trong rừng về làm thuốc. Trải qua bao thế hệ, những kinh nghiệm đó đã ngày càng được người dân nơi đây tích lũy. Sự hiểu biết về các loài cây thuốc của người dân nơi đây được thể hiện thông qua việc sử dụng chúng trong việc trị bệnh cho người ốm, việc thu hái, địa điểm thu hái cũng như cách thức chế biến chúng. Khu BTTN HL –VB, tỉnh Lào Cai là một khu bảo tồn mới được UBND tỉnh Lào Cai phê duyệt năm 2007 nên tại đây vấn đề nghiên cứu về tài nguyên thực vật nói chung và tài nguyên cây thuốc nói riêng vẫn chưa được chú trọng. Mới đây, một số chương trình dự án đang được tỉnh cũng như các cơ quan chức năng khác đầu tư và thực hiện, đặc biệt là các chương trình nghiên cứu về sự đa dạng thành phần loài, các nhóm loài. Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào về vấn đề tài nguyên cây thuốc mà được đồng bào dân tộc H’Mông nơi đây sử dụng. Dưới sự hướng dẫn của các thây cô tại Viện Sinh thái Tài nguyên và Sinh vật tôi đã mạnh dạn nghiên cứu để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp cao học của mình.
  14. 12 CHƯƠNG 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu của đề tài 2.1.1. Mục tiêu tổng quát Đánh giá sự đa dạng tài nguyên cây thuốc, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông ở trong khu BTTN HL - VB, tỉnh Lào Cai. 2.1.2. Mục tiêu cụ thể - Tập hợp và hệ thống các loài thực vật được đồng bào dân tộc H’Mông ở khu BTTN HL - VB, tỉnh Lào Cai sử dụng làm thuốc. Đưa ra các giải pháp bảo tồn một số loài cây có giá trị. - Đánh giá mức độ đa dạng về thành phần các taxon, các bệnh chữa trị, các bộ phận sử dụng và dạng sống của những loài thực vật được đồng bào dân tộc H’Mông ở khu BTTN HL - VB, tỉnh Lào Cai sử dụng làm thuốc. 2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Các loài thực vật bậc cao có mạch được đồng bào dân tộc H’Mông ở khu BTTN HL-VB, tỉnh Lao Cai sử dụng làm thuốc. Một số ông lang, bà mế có kinh nghiệm sử dụng các bài thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông ở khu BTTN HL-VB đang được lưu truyền và sử dụng. Thời gian thực hiện: Từ tháng 12 năm 2010 đến tháng 8 năm 2011. 2.3. Nội dung nghiên cứu 2.3.1. Đa dạng loài: Thu thập và xử lý mẫu vật, xác định tên, xây dựng danh lục và phân tích đánh giá đa dạng các loài thực vật được đồng bào dân tộc H’Mông ở khu BTTN HL - VB, tỉnh Lào Cai sử dụng làm thuốc. 2.3.2. Sự phân bố các loài cây thuốc theo môi trường sống. 2.3.3. Xây dựng bản đồ phân bố các loài cây thuốc có giá trị cần được bảo vệ.
  15. 13 2.3.4. Vấn đề sử dụng cây thuốc: Đa dạng về công dụng chữa trị của các loài cây thuốc, bộ phận của cây được sử dụng làm thuốc. Một số bài thuốc chữa bệnh của các ông lang, bà mế. 2.4. Phưng pháp nghiên cứu 2.4.1. Điều tra thực địa theo tuyến: Điều tra khảo sát sơ bộ sau đó ta tiến hành chọn tuyến điều tra. Tuyến được chọn phải đảm bảo yêu cầu phải chạy qua các sinh cảnh đặc trưng cho khu bảo tồn. Trên mỗi tuyến cắt ngang chọn các ô tiêu chuẩn là những điểm chốt đặc trưng nhất để nghiên cứu đa dạng tài nguyên cây thuốc (Theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997). Trên mỗi tuyến, tiến hành điều tra các loài cây thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông sử dụng trong phạm vi 10 m mỗi bên. Mỗi loài lấy 5 - 6 tiêu bản. - Các tuyến điều tra thực địa: + Xã Liêm Phú: Tuyến đi đỉnh Bách Tán Đài Loan. + Xã Nậm Xây: Tuyến đi Nậm Giòi Pèng; tuyến đi Thủy điện Nọi 2 - hầm thủy điện. + Xã Nậm Xé: Tuyến đi Đỉnh Khau Co; tuyến đi đỉnh Cột Cờ; tuyến đi Ngầm 2, Nậm Si Tan; tuyến đi Nậm Si Tan, khe Rừng xanh; tuyến đi Nậm Mu; tuyến đi Khe Đá Mài; tuyến đi Thủy điện Nậm Khóa 3. - Các ông Lang bà mế đã phỏng vấn Ông Lý A Thường, bản Tu Thượng, Xã Nậm Xé. Ông Sùng A Tinh, bản Tu Hạ, xã Nậm Xây. Ông Mùa A Lua, Bản Giàng Dúa Chải, xã Nậm Xây. Ông Lý A Chu, Bản Bản Mới, xã Nậm Xây. 2.4.2. Thu thập số liệu, tài liệu: Tiến hành thu thập số liệu từ các nguồn thông tin đáng tin cây như các báo cáo khoa học của khu bảo tồn, kỷ yếu, tạp chí khoa học, internet, ….
  16. 14 Sử dụng phương pháp phỏng vấn nhanh có sự tham gia của người dân (PRA): Phỏng vấn các ông Lang, bà Mế, các cán bộ làm công tác quản lý tại khu bảo tồn và cộng đồng dân cư địa phương thông qua bảng hỏi đã được xây dựng sẵn. để sưu tầm và phát hiện các bài thuốc, cây thuốc sử dụng theo kinh nghiệm dân gian. Mỗi cây thuốc, bài thuốc nều có mẫu thu và ghi chép các thông tin cần thiết nhất công dụng, bộ phận sử dụng, cách sử dụng của cây. 2.4.3. Xử lý số liệu. - Phương pháp chuyên gia: Dựa vào kinh nghiệm của các chuyên gia đặc biệt là các vật đề như xác định tên khoa học các mẫu đã thu hái. - Phương pháp xử lý mẫu vật, chỉnh lý tên khoa học (theo Nguyễn Nghĩa thìn, 1997). Các tiêu bản tươi được thu thập ngoài thực địa tiếp tục xử lý trong phòng thí nghiệm tại Phòng Thực vật, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật. Các mẫu sau khi sấy khô được ngâm tẩm bằng dung dịch cồn chứa 0,3-0,5% HgCl2 để diệt khuẩn và chống côn trùng phá hại. Các mẫu tiêu bản được sây khô, ép khẳng, trình bày và khâu trên giấy bìa cứng kích thứoc 28 cm x 42 cm. - Xác định tên khoa học, kiểm tra, chỉnh lý tên theo các tài liệu chính là các tập Thực vật chí Việt Nam, Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam. - Xây dựng danh lục: Điều chỉnh khối lượng họ, chi theo hệ thống của bộ Sách “Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam”. Danh lục được xây dựng theo nguyên tắc sự phát triển của các ngành thực vật từ Lá thông đến thực vật Mộc lan. Trong mỗi ngành các họ, chi loài được xếp theo vần ABC. Riêng ngành Mộc lan do khối lượng lớn nên chia thành 2 lớp Mộc lan và lớp Hành. Sau đó cũng xếp tương tự như trên. Trên cơ sở danh lục thực vật, căn cứ vào Sách đỏ Việt Nam, 2007; Danh lục các loài thực vật quý hiếm của IUCN, 2009; Nghị định số 32 của chính phủ về các loài động thực vật quý hiếm để lập danh sách các loài quí hiếm ở khu BTTN HL - VB. Danh lục ngoài tên khoa học, tên Việt Nam của các loài còn có các thông tin khác như dạng sống, công dụng, môi trường sống, bộ phận sử dụng làm thuốc theo mẫu.
  17. 15 Bảng danh lục các loài thực vật làm thuốc (mẫu) TT Tên Tên Công Bộ phận Cách Dạng Môi trường khoa học Việt dụng dùng dùng sống sống Na m 1 2 3 - Đánh giá tính đa dạng của các loài cây thuốc, về tần số sử dụng các bộ phận, về số lượng các bộ phận sử dụng làm thuốc, nhóm bệnh,... - Bản đồ phân bố các loài thực vật quý hiếm: Căn cứ vào các điểm đã phát hiện được cây thuốc ngoài thực địa (đã được xác định vị trí bằng GPS và đánh dấu vào bản đồ điều tra), đánh dấu điểm phân bố của loài trên bản đồ (theo Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006). - Xác định các loài quí hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt: Trên cơ sở danh lục thực vật, lập danh sách các loài quí hiếm ở khu BTTN HL – VB, tỉnh Lào Cai. Các loài được xác định quí hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt dựa vào tiêu chí của các công trình sau: - Sách đỏ Việt Nam, 2007; - Danh lục các loài thực vật quý hiếm của IUCN, 2004; - Nghị định số 32 của chính phủ về các loài động thực vật quý hiếm để. - Đánh giá tính đa dạng của các loài cây thuốc, về dạng sống của các loài cây thuốc, mô trường sống của các loài cây thuốc, về tần số sử dụng các bộ phận, về số lượng các bộ phận sử dụng làm thuốc (theo Viện Dược liệu). - Các nhóm bệnh được phân chia theo tài liệu của Lê Trần Đức (1995) “Cây thuốc Việt Nam trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu”. Chi tiết như sau: - Nhóm 1: Bệnh ngoại cảm (gồm Cảm mạo phát sốt ớn lạnh, nghẹt mũi, Cảm cúm hơi sốt sợ lạnh, đau mỏi, Cảm gió lạnh, rét run, Cảm nóng rét nắng mưa thời khí hỗn tạp, Cảm về mùa hè nôn đầy, Cảm cúm mùa hè sốt dai đau mình, Cảm nắng
  18. 16 hay sốt nóng đơn thuần, Nóng rét qua lại, Sốt rét cơn, Sốt dị ứng, phát ngứa sưng phù, Bệnh ôn nhiệt sốt hè thu, Trúng gió méo mồm lệch mắt, Trúng phong thấp hôn mê co cứng, Trùng phong hàn hôn mê quyết lạnh). - Nhóm 2: Bệnh về hô hấp (Ngạt mũi, sổ mũi, hắt hơi, Viêm mũi dị ứng, Ho, viêm họng, Ho đờm, Ho khan, viêm phế quản, Viêm phổi, sưng phổi, Hen phế quản, Hen suyễn, Suyễn thở, Ho lao). - Nhóm 3: Bệnh về huyết mạch (gồm Các loại chảy máu, Huyết áp cao, Huyếp áp thấp, Hạ đường huyết, Mạch máu xơ cứng (tắc mạch, giãn mạch), Đau tim). - Nhóm 4: Bệnh về tâm thần (gồm Khó ngủ hồi hộp, Ngủ lờ mờ không sâu, dễ tỉnh, Điên cuồng, Tinh thần phân liệt (sấu uất), Động kinh, Kinh giản). - Nhóm 5: Bệnh về tiêu hoá (Nghẹn nuốt khó, Nấc cụt, Ợ, Nôn oẹ, Nôn mửa, Đau bụng không tiêu, Đau bụng lạnh dạ, Nóng ruột chán cơn, Táo bón, Ỉa chảy phân loãng, sống phân, Ỉa xối ra nước không dứt, Lỵ mới phát, Lỵ ra máu, có sốt, Lỵ mạn tính, Thổ tả, Đau bụng giun quấy, Trục giun, Ngộ độc, Đau dạ dày, Viêm đại tràng mạn tính, Lòi dom và trĩ mới phát). - Nhóm 6: Bệnh về tiết niệu và gan thận (gồm Tiểu tiện không thông, Đái buốt, đái đục, Đái dưỡng trấp, Đái ra cát sỏi, phủ thũng, viêm cầu thận cấp, Thấp thũng, Viêm gán, truyền nhiễm, sưng gan (Áp-xe), Viêm gan mạn tính, Xơ gan mạn tính, Xơ gan cổ trướng, Viêm túi mật, sỏi mật, Đái tháo nhạt không rõ nguyên nhân, Đái tháo đường, Viêm tiền liệt tuyến, Vô niệu do nhiễm độc hay uất hoả). - Nhóm 7: Bệnh về sinh dục (gồm Thận hư, tinh yếu, Di mộng tiết hoạt tinh, Liệt dương). - Nhóm 8: Bệnh suy nhược không đau (gồm Cơ thể hư nhược, Tinh thần suy nhược, Tự ra mồ hôi khi ra gió, Ra mồ hôi ở tay chân, Bốc nóng giữa đỉnh đầu). - Nhóm 9: Các bệnh đau nhức (Đau đầu chóng mặt, Đau đầu ê ẩm, nặng đầu, Đau đầu như búa bổ, Đau nửa đầu liền với mắt, Mắt đau sưng đỏ, Đau mắt trắng, mặt mờ, Đau răng, viêm lợi, Đau ngang lưng (thần kinh hông), Phong thấp, Tê thấp, Thấp thở, Phong nhiệt nhức nhói, Đầu gối sưng đau, Tê phù, Đau lưng trên, bà vai, cánh tay, Nổi hạch, viêm hạch, lao hạch, Viêm tinh hoàn (sa đì), Bại liệt nửa người, Xuất huyết dạng thấp (Thấp cơ).
  19. 17 - Nhóm 10: Bệnh ngoài da (gồm Đơn độc sưng tấy, Mụn nhọt, Lở ngứa các loài, Thuốc dùng ngoài đối với từng loại lở ngứa, Lở nấm, Tổ đỉa, Chín mé, Hắc lào, Lở chàm, Ghẻ, Lang ben, lang trắng, Mụn cóc, Bước cổ, Phong hủi, lở cùi, Tràng nhạc hay lao hạch). - Nhóm 11: Bệnh ngoại thương (gồm Bị thương, bị ngã, Bị thương chảy máu, Bị bỏng, Rắn cắn). - Nhóm 12: Bệnh phụ nữ (gồm Kinh không đều, thấy sớm kỳ, Kinh thấy chậm kỳ, Kinh loạn kỳ, Kinh nguyệt gián đoạn thất thường, Kinh bế, Rong kinh, Băng huyết nhẹ do cơ năng; Khí hư, bạch đới, Viêm phần phụ, Viêm âm hộ, âm đạo sưng đau, Sa sinh dục (sa dạ con), U xơ tử cung, Mót đái do viêm các cơ quan sinh dục, Vô kinh do giảm chức năng buồng trứng, Tắc tia sữa, Viêm tuyến vú, U xơ tuyến vú, Áp xe vú, Nhọt vú, Vú bị lở, đứt cổ gà, Nôn nghén, Động thai, Phòng sẩy thai, Sau khi đẻ say máu; Sau khi đẻ cảm sốt, Sau khi đẻ phù nề). - Nhóm 13: Bệnh trẻ em (gồm Ợ, nấc cụt, trớ sữa; Ói sữa; Trẻ ỉa chảy phọt toé ra nước; Ỉa chảy phân loãng, Ỉa phân sống; Cam tích; Cam tướt; cam lỵ; còi xương; Suy dinh dưỡng; Cam thũng; Quai bị; Ho gà; Sởi; Thủy đậu, Sốt bại liệt, Viêm màng não B và di chứng, Sổ xuất huyết do muỗi, Sưng amidan, Viêm tai, Thấp tim, Đái dầm, Thoát vị thừng tinh, Lở chàm, Chốc đầu – mô đầu, Rôm rảy, tưa lưỡi, Lở mồm).
  20. 18 CHƯƠNG 3 ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ VÀ XÃ HỘI KHU BTTN HL – VB, TỈNH LÀO CAI 3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu 3.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới, diện tích 3.1.1.1. Vị trí địa lý Xã Nậm Xé; Nậm Xây và một phần xã Liêm Phú thuộc vùng trung tâm của dãy Hoàng Liên Sơn về phía Nam tỉnh Lào Cai, Tây Bắc Việt Nam (nằm trong tọa độ khoảng 21024’ vĩ độ Bắc và 103057’ đến 1040 kinh độ đông). 3.1.1.2. Ranh giới khu bảo tồn Hoàng Liên – Văn Bàn Phía Đông giáp các xã Nậm Chày, Dần Thàng, Minh Lương, Thẩm Dương, Khánh Yên Trung thuộc huyện Văn Bàn. Phía Tây giáp huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu. Phía Nam giáp huyện Mù Cang Chải tỉnh Yên Bái. Phía Bắc giáp huyện Sapa tỉnh Lào Cai. Hai xã nằm cách thị trấn Khánh Yên – Văn Bàn 25-30 km có quốc lộ 279 chạy qua và là nơi có ranh giới kéo dài nằm kề với hai tỉnh Lai Châu và Yên Bái. 3.1.2. Địa chất, địa hình Địa hình của hai xã vùng cao nằm kề nhau; phía Bắc có những triền dốc hướng Đông của dãy núi chạy khoảng hơn 10 km từ khối núi Phan-xi-păng của vườn quốc gia Hoàng Liên kề bên đến phía Bắc; phía Nam đến sông Nậm Chấn; Những triền dốc phía Nam có dãy núi hẹp tách biệt; Địa hình thuộc khối nâng kiến tạo mạnh và rất phức tạp. Phần lớn địa hình là đồi núi cao xen lẫn các thung lũng và hệ thống khe suối đan xen, mức độ chia cắt mạnh, nhiều nơi tạo thành vách đứng. Độ cao trung bình từ 700-2913 m. Độ dốc trung bình 20 – 500 và chủ yếu là địa hình đồi núi cao, địa hình thung lũng chiếm tỷ lệ ít. Về mặt địa chất mang tính đặc trưng của dãy Hoàng Liên Sơn. Các dông núi chủ yếu là đá cứng và măcma silicat cổ cuối kỷ Palacosoic – đầu kỷ Mesozoic, đá măcma silicat (Dovzikov và et al, 1965). Những vận động kiến tạo kỷ thứ ba đã nâng những khối đá này lên cao như hiện nay và quá trình xói mòn sau đó đã tạo
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2