Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu tính đa dạng sinh học côn trùng và đề xuất các giải pháp bảo tồn tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, Nghệ An
lượt xem 2
download
Mục tiêu của đề tài là đánh giá được mức độ phong phú và đa dạng tài nguyên côn trùng tại KBTTN Pù Huống về thành phần, phân bố, sinh thái và ý nghĩa của chúng; đưa ra được các biện pháp khoa học để quản lý, bảo tồn và phát triển tài nguyên côn trùng trong Khu bảo tồn; cung cấp cơ sở dữ liệu phục vụ các nghiên cứu tiếp theo tại Khu Bảo tồn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu tính đa dạng sinh học côn trùng và đề xuất các giải pháp bảo tồn tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, Nghệ An
- i LỜI CẢM ƠN Cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới PGS. TS. Nguyễn Thế Nhã, Chủ nhiệm Khoa QLTNR& MT – Đại học Lâm nghiệp, người đã hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Trong quá trình hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô Bộ môn Bảo vệ thực vật rừng, Khoa QLTNR&MT trong việc giám định mẫu, biên dịch tài liệu tham khảo cũng như tạo điều kiện thuận lợi về thời gian để tôi hoàn thành luận văn này. Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Nhân dịp này, tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn tới Ban Giám đốc, Cán bộ KBTTN Pù Huống, Ban Quản lý rừng phòng hộ Qùy Hợp, Ban Quản lý rừng phòng hộ Qùy Châu, Ban Quản lý rừng phòng hộ Quế Châu, Trạm Quản lý rừng phòng hộ Bình Chuẩn, UBND xã Nga My đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất cũng như đóng góp ý kiến quan trọng trong thực hiện luận văn này. Xin cảm ơn bạn bè, người thân đã động viên, chia sẻ, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn. Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn tới tất cả sự giúp đỡ quý báu đó. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2010 Bùi văn Bắc
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Đa dạng sinh học (ĐDSH), nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, đóng vai trò rất lớn đối với tự nhiên đời sống con người. Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác nhau, ĐDSH đang bị suy thoái nghiêm trọng. Các hệ sinh thái bị tác động và khai thác quá mức; diện tích rừng, nhất là rừng nhiệt đới thu hẹp một cách báo động. Tốc độ tuyệt chủng của các loài ngày một tăng. Hậu quả tất yếu dẫn đến là sẽ làm giảm, mất các chức năng của hệ sinh thái như điều hoà nước, chống xói mòn, làm sạch môi trường, đảm bảo vòng tuần hoàn vật chất và năng lượng trong tự nhiên, giảm thiểu thiên tai, các hậu quả cực đoan về khí hậu. Hệ quả cuối cùng của sự suy thoái này là hệ thống kinh tế bị suy giảm do mất đi các giá trị về tài nguyên thiên nhiên, môi trường, nhất là ở các nước đang và chậm phát triển, trong đó có Việt Nam. Trong tự nhiên, không một lớp động vật nào có thể sánh với lớp côn trùng ở mức độ phong phú đến kỳ lạ về thành phần loài. Chúng nằm trong số các nhóm đa dạng nhất của động vật trên hành tinh này bao gồm hơn một triệu loài được mô tả và đại diện cho hơn một nửa số loài của toàn bộ giới động vật được biết đến trên trái đất [35], [63]. Cùng với sự phong phú và đa dạng về thành phần loài, côn trùng cũng là nhóm động vật có số cá thể đông đúc nhất trên hành tinh chúng ta. Theo Thomas Eisner (1997) [58], lớp côn trùng có đến một tỷ tỷ (1018) cá thể và đại diện cho trên 90% của các dạng sống khác nhau trên hành tình này [40]. Côn trùng là một trong những nhóm động vật quan trọng nhất trong giới tự nhiên. Chúng ảnh hưởng tới cuộc sống và lợi ích của con người ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trong khi một số loài côn trùng được coi như là vật gây hại ảnh hưởng đến sinh kế và sức khỏe người dân thì số khác lại mang lại những lợi ích to lớn cho con người. Nhiều loài côn trùng là người bạn thân thiết của chúng ta trong việc nâng cao năng suất cây trồng và tạo ra những dòng tiến hoá mới thông qua việc thụ phấn cho các loài thực vật; một số lại cung cấp những nguồn thực phẩm giá trị như mật ong và sữa. Hiện nay, ở một số loài côn trùng, chúng ta cũng chưa biết hết giá trị của chúng. Tuy nhiên, các nhà khoa học đều khẳng định rằng côn trùng là thành phần chủ yếu của tự nhiên và là nhân tố chủ đạo tạo ra sự tuần hoàn vật chất trong
- 2 hệ sinh thái. Ở Trung Quốc chỉ 1% loài được mô tả là là gây hại nghiêm trọng. Còn lại phần lớn các loài côn trùng hoặc là không gây hại hoặc là mang lại lợi ích cho con người [50]. Việt Nam có lãnh thổ kéo dài, khí hậu nhiệt đới với nhiều hệ sinh thái khác nhau, là một trong những nước có tính ĐDSH côn trùng cao. Tuy nhiên do hậu quả của sự tăng trưởng kinh tế và gia tăng dân số, tài nguyên đa dạng côn trùng của Việt Nam đang phải đối mặt với sự thu hẹp môi trường sống, sự tuyệt chủng một số loài và sự suy giảm các loài thiên địch. Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này là do sự mở rộng diện tích nông nghiệp, thành thị hóa, công nghiệp, ô nhiễm, khai thác khoáng sản, du lịch, săn bắt, và thương mại hóa bất hợp pháp các loài nguy cấp. Để khai thác có hiệu quả các nguồn lợi của côn trùng như một nguồn tài nguyên sinh học và kiểm soát tốt những mặt có hại, hơn lúc nào hết, các chiến lược quốc gia, các hành động pháp lý, xây dựng năng lực hoạt động cần phải được thực hiện. Những nỗ lực này sẽ hướng tới mục tiêu bảo tồn tài nguyên ĐDSH côn trùng ở Việt Nam. Nằm cách 30 km về phía Bắc của dãy Trường Sơn, bị ngăn cách bởi thung lũng sông Cả và trải dài trên địa bàn các huyện Quế Phong, Quế Châu, Qùy Hợp, Tương Dương và Con Cuông, Khu Bảo tồn Thiên nhiên (KBTTN) Pù Huống có diện tích tự nhiên là 160.686 ha, trong đó vùng bảo tồn 49.806 ha và vùng đệm 110.880 ha. KBTTN Pù Huống là một kho tàng về các nguồn gen hoang dã, quý hiếm với 665 loài thực vật bậc cao có mạch đã được ghi nhận, trong đó có 63 loài có trong Sách Đỏ Việt Nam (SĐVN) năm 2000. Ngoài ra tại KBTTN Pù Huống đã ghi nhận được 291 loài thú với 45 loài có trong SĐVN năm 2000 [26]. Trên thực tế số lượng loài động, thực vật còn lớn hơn rất nhiều. Hiện nay, tại Khu Bảo tồn chưa có nghiên cứu nào về tài nguyên côn trùng nói chung, ĐDSH côn trùng nói riêng. Vì vậy việc “Nghiên cứu tính ĐDSH côn trùng và đề xuất các giải pháp quản lý, bảo tồn tại KBTTN Pù Huống, Nghệ An” sẽ góp phần cung cấp những thông tin cần thiết về khu hệ côn trùng Khu bảo tồn, là sơ sở khoa học quan trọng trong việc bảo tồn, phát triển không những tài nguyên côn trùng mà cho cả hệ sinh thái rừng nơi đây.
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Đa dạng sinh học và đa dạng sinh học côn trùng Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về ĐDSH. Theo Qũy Quốc Tế về Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) (1989) thì: “ĐDSH là sự phồn vinh của sự sống trên trái đất, là hàng triệu các loài thực vật, động vật và vi sinh vật, là những gen chứa đựng trong các loài và là những hệ sinh thái vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi trường” [25]. Theo Từ điển ĐDSH và phát triển bền vững (2001) [3], ĐDSH được định nghĩa như sau: “Thuật ngữ dùng để mô tả sự phong phú và đa dạng của giới tự nhiên. ĐDSH là sự phong phú của mọi cơ thể sống từ mọi nguồn, trong các hệ sinh thái trên đất liền, dưới biển và các hệ sinh thái dưới nước khác và mọi tổ hợp sinh thái mà chúng tạo nên. ĐDSH bao gồm sự đa dạng trong loài (đa dạng di truyền hay đa dạng gen), giữa các loài (đa dạng loài) và các hệ sinh thái (đa dạng hệ sinh thái). ĐDSH bao gồm các nguồn tài nguyên di truyền, các cơ thể hay các phần cơ thể, các quần thể hay các hợp phần sinh học khác của hệ sinh thái, hiện đang có giá trị sử dụng hay có tiềm năng sử dụng cho con người”. Như vậy, ĐDSH có ba mức độ: mức độ phân tử (gen), cơ thể và hệ sinh thái. Trong ba mức độ này, đa dạng sinh học loài (cơ thể) được quan tâm, nghiên cứu nhất. Một số phương pháp đánh giá ĐDSH loài [24]: - Lập bảng danh sách các loài: Kết thúc công tác đánh giá ĐDSH loài tại một địa điểm nào đấy là đưa ra các bảng danh sách các loài sinh vật có mặt với các thông tin về số lượng, mật độ. Cũng tại các bảng này cần có các cột ghi chú thêm ai (tác giả) ghi nhận, thời gian ghi nhận, quan sát hay thu mẫu, nơi gặp, tình trạng, phương pháp thu mẫu. Loài sinh vật được ghi nhận có thể là qua điều tra người dân địa phương, thợ săn...Muốn cho công tác điều tra thêm độ chính xác, cần có bộ ảnh mẫu và bộ mẫu thật. - Khảo sát theo các tuyến: Nội dung là tính số lượng cá thể gặp ở dọc tuyến điều tra đã được chọn.
- 4 - Khảo sát theo các điểm, ô tiêu chuẩn: Phương pháp này thường áp dụng với côn trùng, thủy sinh vật, sinh vật đất. - Xác định nơi ở, ổ sinh thái, sinh cảnh, hệ sinh thái: Mỗi loài, mỗi cá thể đều có nơi ở và ổ sinh thái riêng. Bất cứ một địa điểm nào cần được đánh giá đều bao gồm ít nhất là một và thông thường gồm nhiều hệ sinh thái. mỗi hệ sinh thái đều được đặc trưng bởi một quần xã sinh vật riêng. Do đó, khi cần đánh giá ĐDSH cần phân biệt các hệ sinh thái với các hiểu biết có trước về nơi ở và ổ sinh thái của các loài, các cá thể để lập kế hoạch quan sát và thu mẫu. - Bản đồ và máy định vị GPS: Trong công tác đánh giá ĐDSH, sử dụng các bản đồ với tỷ lệ thích hợp để ghi chú sự hiện diện của các loài là vô cùng quan trọng. Việc sử dụng bản đồ để đánh dấu các tuyến khảo sát, các ô tiêu chuẩn lấy mẫu cũng vậy. Máy định vị GPS giúp xác định chính xác nơi quan sát và thu mẫu. - Công thức đánh giá ĐDSH loài: Những chỉ số thường được sử dụng để đánh giá ĐDSH: Chỉ số đa dạng Fisher và chỉ số phong phú Margalef, chỉ số Shannon – Weiner, chỉ số simpson…Việc sử dụng các chỉ số này phụ thuộc vào mục đích, nội dung nghiên cứu: + Chỉ số đa dạng Fisher: N S = ln(1 ) Trong đó: S: Tổng số loài trong mẫu N: Tổng số lượng cá thể trong mẫu : Chỉ số đa dạng loài trong quần xã thấp khi đa dạng loài thấp và ngược lại + Chỉ số đa dạng Simpson dùng để tính sự đa dạng của quần xã như sau: S 2 D=1- (P ) I 1 i Trong đó: D: Chỉ số đa dạng của Simpson Pi: Tỷ lệ loài i trên tổng số các cá thể (pi=ni/N) S: Là tổng số loài
- 5 D biến thiên từ 0 đến (1-1/S) và D càng lớn có nghĩa là tính đa dạng của quần xã cao và ngược lại. Côn trùng là nhóm phong phú và đa dạng nhất trong giới động vật. Ước tính số lượng loài côn trùng đã được mô tả trên thế giới khác nhau từ khoảng 720.000 (tháng 5 năm 2000) tới 751.000 (Tangley 1997), 800.000 (Nieuwenhuys 1998, 2008), 948.000 (Brusca 2003), 950.000 (IUCN 2004) đến hơn 1.000.000 (Myers 2001a). Groombridge và Jenkins (2002) đã thống kê được 963.000 loài gồm côn trùng và các động vật nhiều chân khác. Ước tính tổng số lượng côn trùng rất khác nhau ở khắp nơi trên thế giới từ 2.000.000 (Nielsen và Mound, 2000), 5-6.000.000 (Raven và Yeates 2007) lên đến khoảng 8.000.000 (1995 Hammond, Groombridge và Jenkins 2002). Các tính toán dựa trên ngoại suy từ loài Coleoptera và Lepidoptera tại New Guinea bởi Novotny et al. (2002) có thể đạt tới một con số từ 3,7 triệu và 5.900.000 cho tổng số động vật chân đốt trên thế giới. Côn trùng không chỉ đa dạng về thành phần loài mà còn là nhóm có số lượng cá thể lớn, đông đúc nhất trên hành tinh chúng ta. Lớp côn trùng có đến một tỷ tỷ (108) cá thể, có nghĩa là trên 1 km2 bề mặt trái đất có tới 10 tỷ con sâu bọ sinh sống ở đó và nếu so với dân số loài người thì có khoảng 200 triệu con côn trùng cho bình quân 1 đầu người. Với tương quan như vậy, đã có người cho rằng sâu bọ mới chính là “chủ nhân” đích thực “thống trị” hành tinh xanh của chúng ta [27] Côn trùng là nhóm có dạng sống rất đa dạng: sinh vật rễ (gồm các côn trùng có quan hệ với rễ của thực vật như: các loài dế; sinh vật hoại sinh gồm những sinh vật ăn cặn bã hữu cơ phân hủy như ấu trùng bọ hung; sinh vật ăn phân; sinh vật ở hang và nhóm du động vật gồm các côn trùng có đặc tính luôn luôn di chuyển. Với sự đa dạng về thành phần loài, cũng như dạng sống, côn trùng có vai trò khác nhau đối với con người và sự sống trên hành tinh. Trong nhận thức của con người, sâu bọ luôn bị xem là những sinh vật có hại, gây nhiều phiền toái cho đời sống của họ. Trong lĩnh vực nông nghiệp, sâu bọ là mối đe dọa thường trực đến năng suất và phẩm chất của mùa màng cả trước và sau thu hoạch. Có thể kể đến một số loài sâu hại khét tiếng như: rầy nâu hại lúa, sâu tơ hại rau, ruồi đục quả, mọt
- 6 thóc, ngô....Với ngành lâm nghiệp cũng vậy, sâu bọ thường gây ra những tổn thất nặng nề cho rừng: sâu róm thông, các loài xén tóc, sâu hại keo, vòi voi hại măng...Chúng đục phá gỗ từ khi cây còn sống cho đến lúc khai thác, chế biến để làm nhà cửa, bàn ghế, vật dụng trong nhà. Riêng nhóm mối thường làm tổ trong đất nên được xem là hiểm họa thường trực đối với các công trình xây dựng, giao thông và thủy lợi. Bên cạnh những thiệt hại to lớn về vật chất nói trên, nhiều loài côn trùng: ruồi, muỗi, chấy, rận, rệp, bọ chét...là những sinh vật môi giới truyền dịch bệnh hiểm nghèo cho người và gia súc, là nỗi ám ảnh thường xuyên đến sinh mạng và sức khỏe của con người từ xưa tới nay. Những loài sâu bọ đáng ghét này không chỉ đe dọa tính mạng mà còn gây nhiều phiền toái cho cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày của con người. Có thể nói không có một nhóm sinh vật nào lại đeo bám dai dẳng và gây hại nhiều mặt cho con người như côn trùng. Chính vì vậy cuộc chiến chống lại những sinh vật có hại này đã trải qua hàng ngàn năm nay nhưng vẫn chưa có hồi kết. Tuy nhiên, sự quan tâm của con người đối với lớp động vật này không chỉ xuất phát từ mặt tác hại của chúng mà còn ở khía cạnh lợi ích to lớn do chúng mang lại cho con người và tự nhiên. Điều đó có thể thấy là côn trùng có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tăng năng suất cây trồng và tạo ra các dòng tiến hóa mới ở thực vật thượng đẳng thông qua việc tham gia vào quá trình thụ phấn cho cây. Quan trọng hơn với số lượng hết sức đông đảo, lại ăn được nhiều loại thức ăn: từ thực vật còn sống đến xác chết động thực vật, chất hữu mục nát, các sản phẩm bài tiết của động, thực vật, và ngày cả sâu bọ đồng loại, côn trùng đã đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tuần hoàn vật chất, năng lượng, góp phần tạo nên sự cân bằng sinh thái, đảm bảo sự phát triển bền vững của tự nhiên. Côn trùng còn cung cấp cho con người những sản phẩm quý không thể thay thế được đối với nhu cầu ăn, mặc, chế tạo hàng hóa của con người: mật, sáp ong, tinh dầu cà cuống, tơ tằm, nhựa cánh kiến. Nhiều loài côn trùng còn có giá trị làm thuốc cho con người: ong đen, dế cơm, bọ xít...Cuối cùng không thể không nói đến tài nguyên côn trùng như là một nguồn thực phẩm đầy tiềm năng cho con người. Từ thời thượng cổ loài người
- 7 đã biết thu bắt nhiều loài côn trùng làm thức ăn và cùng với tiến trình phát triển của nhân loại, lớp động vật nhỏ bé và đông đúc này đã trở thành một phần đáng kể trong thói quen ăn uống của con người ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ngày nay việc chăn nuôi, chế biến một số loài côn trùng như: tằm, dế, châu chấu, bọ muỗm, bọ dừa, cà cuống...đã trở thành một ngành kinh doanh thu hút sở thích ẩm thực của nhiều người. Có thể xem việc khai thác côn trùng làm thức ăn cho con người và vật nuôi là một hướng đi triển vọng và có ý nghĩa trong bối cảnh bùng nổ dân số, nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày một cạn kiệt và môi trường sống không ngừng bị hủy hoại do các hoạt động sản xuất quá mức của con người [27]. 1.2. Các nghiên cứu về ĐDSH côn trùng ở ngoài nước 1.2.1. Nghiên cứu về phân loại, thành phần loài côn trùng Côn trùng trở thành một ngành khoa học được bắt đầu từ Aistote (384 – 322 tr.CN). Ông được coi như người cha của lịch sử tự nhiên. Lần đầu tiên ông đã mô tả và sắp xếp thế giới động vật thành hai nhóm: nhóm có máu và nhóm không có máu. Ở nhóm thứ 2 cơ thể phân đốt, chia thành đầu, ngực và bụng. Thuộc nhóm này có côn trùng và ông ghép thêm cả đa túc, nhện, một phần giáp xác thấp và một số giun đốt. Một thời gian dài sau đó là những công trình của Aldrovandi (1522 – 1605), giáo sư ở Gymnasium thuộc Bologna bắt đầu được công bố. Trong đơn vị thống nhất có tính hệ thống thuật ngữ Insecta (côn trùng) bao gồm cả bọ cạp, nhện, giun đốt, sao biển…Trong tác phẩm của ông, một khối lượng lớn những quan sát về cách sinh sống và hình dạng các nhóm động vật này được đánh giá có giá trị đặc biệt trong khoa học. Th.Moufer (1550 – 1604) dựa theo bản thảo của Conrad Gesner ( 1516 – 1565) đã biên soạn thành một tài liệu và công bố năm 1634. Hệ thống phân loại của Moufet cũng tương tự như của Aldrovandi, chỉ có sự khác là sao biển đã không còn thuộc vào Insecta nữa. Năm 1710, tài liệu “Historia Insectorum” của John Ray (1628 – 1704) đã được Hội Hoàng gia Anh công bố. Aurivillius (1909) đã coi Ray như là nhà côn
- 8 trùng học đầu tiên và duy nhất trước Linne về hệ thống phân loại côn trùng. Ray đã đưa ra nhiều giống và mô tả nhiều loài nhưng còn rất khó hiểu, bởi thiếu một hệ thống thuật ngữ. Đến lúc này thì một loạt các nhóm động vật như nhện, mò, mạt, rận, chim, giun đất đã không còn xếp lẫn trong nhóm côn trùng. Carl von Linne (1707 – 1778) là người đã đặt nền móng cho một hệ thống phân loại hiện đại về côn trùng. Ngoài những cống hiến to lớn cho thực vật và động vật học, riêng với côn trùng ông đã phân chia chúng thành các bộ, giống, và loài. Bộ không cánh theo ông gồm cả nhện, giáp xác, và rết, nhưng ông cũng tách riêng giun và sao biển khỏi côn trùng. Sau thời kỳ Linne, số lượng các công trình nghiên cứu về côn trùng tăng lên ồ ạt, nhưng côn trùng học vẫn chỉ là một bộ phận của động vật học. Trong các công trình của mình Lamarck (1744 – 1892) đã có những đóng góp đáng kể cho môn côn trùng học, đặc biệt trên lĩnh vực phân loại côn trùng. (trích theo [21]) Tiếp theo đó nhiều nhà côn trùng học nổi tiếng trên thế giới đã đưa côn trùng học thành chuyên ngành sinh học độc lập, đó là Fabre (1823-1915), Keppri (1833 – 1908), Brandt (1879 – 1891), R.E. Snodgrass (1875 – 1962), H. Weber (1899 – 1956), Handlisch (1865 – 1957), Mactunov (1878 - 1938), Svanvich (1899 – 1957), Imms (1880 – 1949), Chauvin, Price, Iakhontov.... Cũng trong thời gian này, một loạt các loài côn trùng thuộc các bộ, họ đã được phát hiện và mô tả: Bộ Cánh cứng (Coleoptera): là bộ lớn nhất trong lớp côn trùng bao gồm các loài: Bọ hung, xén tóc, bổ củi, hổ trùng, hành trùng,...Các nhà khoa học ước lượng trên thế giới có khoảng 1.100.000 loài, trong đó đã mô tả được 360.000 – 400.000 loài [38]. Các loài thuộc bộ Cánh cứng sống ở khắp mọi nơi, ăn cả thực vật và động vật còn sống hoặc đã chết. Nhiều loài có ích, chúng ăn thịt các loài sâu hại. Bộ Cánh phấn (Lepidoptera): Là một trong những bộ có số lượng loài lớn trong lớp côn trùng bao gồm nhóm ngài (bướm đêm) và bướm ngày. Cơ thể và cánh, chân phủ đầy những lông vảy nhỏ như bụi phấn nên còn có tên là bộ Cánh phấn. Miệng vòi hút, hàm trên thoái hóa chỉ còn lại một ít dấu vết hoặc không còn.
- 9 Râu đầu có đủ các hình dạng: sợi chỉ, lông chim, dùi đục, dùi trống. Hiện nay có khoảng 180.000 loài bướm đã được mô tả (ước lượng có khoảng: 300.000-500.000 loài trên thế giới) [34], [55], [57]. Bộ Cánh màng (Hymenoptera): Bộ Cánh màng là một trong những bộ lớn nhất của lớp côn trùng với hơn 130.000 loài đã được mô tả. Bộ Cánh màng có nguồn gốc trong kỷ triat, các hóa thạch cổ nhất thuộc về họ Xyelidae [44]. Sự tiến hóa của nhóm này đã và đang được nghiên cứu sâu hơn bởi A. Rasnitsyn, MS Engel, G. Dlussky, và cộng sự. Bộ Cánh nửa (Hemiptera): Bao gồm những loài côn trùng được biết đến như là những loài đáng ghét nhất trong giới tự nhiên. Chúng có khoảng 80.000 loài có kích thước cơ thể biến đổi từ 1mm đến 15 mm. Râu đầu hình sợi chỉ có 5 đốt hoặc ít hơn. Miệng chích hút hơi dài.Vòi có phân đốt và mọc ra từ phần trước của đầu; có hai đôi cánh, cánh trước gần hai phần ba chiều dài được kitin hóa cứng, phần ngoài còn lại là dạng màng. Cánh sau là cánh màng ngắn hơn cánh trước. Phần lớn các loài sống trên cạn thuộc bộ này chích hút nhựa cây, một số loài hút máu các động vật và các côn trùng khác. Một số loài là vật trung gian truyền bệnh cây. Bộ này có nhiều loài sống ở dưới nước [47], [49], [46]. Bộ Hai cánh (Diptera): Ước lượng trên thế giới có khoảng 240.000 loài, trong đó đã mô tả được 152.956 loài (Thompson 2008). Bộ này gồm những loài có kích thước cơ thể bé nhỏ hoặc trung bình. Đặc điểm chủ yếu là miệng liếm hút hoặc chích hút hoặc cứa liếm. Đầu hình bán cầu có thể cử động được, có 2-3 mắt đơn. Râu đầu dài, chia nhiều đốt hoặc ngắn có 3 đốt, có một đôi cánh trước phát triển bằng chất màng, hệ thống mạch cánh đơn giản. Cánh sau thoái hóa thành dạng chùy thăng bằng [33], [37]. Bộ Cánh thẳng (Orthoptera): Bộ này bao gồm các loài: cào cào, châu chấu, sát sành.....Hiện nay có khoảng 24.380 loài đã được mô tả (Eades & Otte (2009). Các loài côn trùng thuộc Bộ này có kích thước thân thể từ trung bình đến lớn. Râu đầu hình sợi chỉ, hình lông cứng, hình kiếm, mắt kép phát triển, chân sau thường là
- 10 chân nhảy. Cánh trước là cánh da dài hẹp, một số loài cánh trước rất ngắn. Cánh sau là cánh màng rộng , hình tam giác [70] Bộ Cánh đều (Homoptera): Các loài côn trùng trong Bộ Cánh đều phần lớn là những loài gây hại. Hiện nay, trên thế giới, người ta đã điều tra và phát hiện được 45.000 loài; tính riêng ở Bắc Mỹ đã có 6.000 loài được mô tả. Bộ Cánh bằng (Isoptera): Trên thế giới ước lượng có khoảng 4.000 loài, trong đó đã mô tả được 2.600 -2.800 loài (trích theo [27]). Bộ Chuồn chuồn (Odonata): Theo Trueman & Rowe (2008) thì đã có 6.500 loài côn trùng của Bộ này đã được phát hiện và mô tả [54]. Bộ Bọ ngựa (Mantodea): Bọ ngựa là những loài ưa thích điều kiện ấm áp, chúng phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới (trích theo [20]). Đến nay, các nhà khoa học đã mô tả được 2.200 loài bọ ngựa thuộc 9 họ [42]. Các loài bọ ngựa có kích thước cơ thể khá lớn. Đầu hình tam giác cử động được, râu đầu hình lông cứng, miệng gặm nhai, ngực trước phát triển rất dài, chân trước là chân bắt mồi, bàn chân có 5 đốt. Nhiều loài côn trùng thuộc các bộ, họ khác đã được mô tả và đang tiếp tục được điều tra để bổ sung thêm cho danh lục loài côn trùng trên thế giới: Bộ gián (Blattodea) (3.684-4.000 loài được mô tả); bộ Bọ que (Phasmatodea) (2.500-3.300 loài ); bộ Cánh lưới (Neuroptera) (5000 loài); bọ Mecoptera (481 loài được mô tả)... [61], [31] 1.2.2. Nghiên cứu về giá trị, vai trò của ĐDSH côn trùng Các nghiên cứu về vai trò ĐDSH côn trùng trên thế giới tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: sinh thái, nông nghiệp, thực phẩm, văn hóa, nhân văn.... Những lợi ích của côn trùng mang lại cho con người Đối với hệ sinh thái, ĐDSH không chỉ có vai trò cung cấp thực phẩm cho con người mà vai trò quan trọng khác của nó trong hệ sinh thái là tạo ra các chu trình tuần hoàn vật chất năng lượng, ảnh hưởng lớn đến điều kiện tiểu khí hậu và chế độ thủy văn của địa phương. Bên cạnh đó, ĐDSH đóng vai trò tích cực trong việc khống chế các loài sinh vật gây hại, tham gia vào quá trình làm sạch các chất ô
- 11 nhiễm trong môi trường. Trong tổng số các loài côn trùng được mô tả trên thế giới, thì có hơn một nửa sử dụng nguồn thức ăn từ thực vật chủ yếu là mật và phấn hoa [32]. Bằng cách thu thập và ăn phấn hoa và mật, côn trùng có vai trò rất quan trọng trong quá trình thụ phấn của thực vật. Hiện có hơn 300 loài côn trùng thụ phấn đã được ghi nhận ở Trung Quốc [66]. Theo W. S. Robinson, R. Nowogrodski & R. A. Morse, tính riêng tại Mỹ [64], thì các loài bướm thụ phấn cho thực vật đã mang lợi khoảng 9 tỷ đô la trong tổng doanh thu kinh tế hàng năm ở Mỹ. Cây trồng nông nghiệp, đặc biệt là các loài cây ăn quả, cây tái sinh bằng hạt phụ thuộc nhiều vào các loài côn trùng thụ phấn. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, trong tổng số các loài thực vật lưỡng tính ở Trung Quốc có tới 85% là được thụ phấn nhờ côn trùng, 5% là do tự thụ phấn và 10 % còn lại là do gió. Các loài côn trùng ăn phấn hoa hoặc hút mật: ong, ong bắp cày, ruồi, bướm đêm và bướm, thường tập trung xung quanh khu vực có hoa và thụ phấn cho hầu hết trong số đó. Nhân tố trung gian này đã làm tăng sản lượng của nhiều loại cây trồng, rau, hoa quả và thậm chí cả cỏ [52]. Ngoài việc lợi dụng các loài côn trùng tự nhiên để thụ phấn cho cây trồng, con người còn biết thuần hóa, sử dụng các loài côn trùng: ong mật tham gia vào công việc này. Ở Trung Quốc, 70% sản lượng táo của Trung Quốc phụ thuộc vào sự thụ phấn của ong mật. Nhiều loài cây trồng nông nghiệp khác: bông, hoa hướng dương, lanh cũng tăng sản lượng và cải thiện chất lượng giống thông qua sự thụ phấn của ong mật. Việc sử dụng ong mật để thụ phấn đã làm tăng thu nhập hàng năm lên đến 19 tỷ đô la ở Mỹ và 2 tỷ rúp ở Liên Xô cũ [66]. Hầu hết các loài côn trùng trong thực tế không gây ra những thiệt hại rõ rệt, cũng như mang lại lợi ích rõ ràng cho con người. Một vài loài, bao gồm: Creophilus maxillosus, Thanatophilus lapponidus và Calliphora vomitoria nằm trong số những loài đầu tiên xâm thực trên xác động thực vật ở hệ sinh thái nông thôn. Những hoạt động của chúng góp phần quan trọng trong việc phân hủy và tạo ra các chu trình tuần hoàn vật chất là điều kiện cho các sinh vật sống khác đến định cư [68]. Các loài côn trùng là thức ăn quan trọng của nhiều nhóm động vật khác: động vật có vú, chim và cá nước ngọt, là mắt xích không thể thiếu trong nhiều chuỗi thức ăn trong
- 12 tự nhiên. Một số loài côn trùng là ký chủ quan trọng của nhiều loài thiên địch. You (1987) đã phát hiện ra loài Notiphila dorsopunctata, một loài cư trú trên hệ sinh thái đồng ruộng, (không gây thiệt hại cho lúa), là ký chủ quan trọng của loài Trachogramma japonicus, một ký sinh quan trọng tiêu diệt nhiều loài sâu hại lúa như: Tryporyza incertulas, Chilo infuscateelus, và Sogatella furcifera ở giai đoạn trứng. Theo DeBach 1974 khi nghiên cứu về đa dạng sinh học côn trùng ở Bắc Mỹ đã chỉ ra rằng: Trong tổng số 85.000 loài côn trùng ăn cỏ ở Bắc Mỹ chỉ có 1425 cần phải được kiểm soát, chiếm 1,7% tổng số. Phần còn lại (98,3%) chủ yếu là loài vô hại hoặc trung lập [39]. Tại Trung Quốc, có khoảng 1000 loài gây thiệt hại cho thực vật cũng như sức khoẻ con người. Nhưng chỉ chiếm 1% của tổng số ước tính 150.000 loài trong đất nước này [69]. Tóm lại những nghiên cứu chỉ ra rằng, mặc dù rất có nhiều côn trùng, một phần nhỏ trong số đó thực sự có hại. Phần lớn các loài có lợi hay vô hại đối với con người. Nhiều động vật ăn thịt và ký sinh là thiên địch của sâu hại và có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh sâu bệnh trong hệ sinh thái tự nhiên bằng cách tấn công và ăn thịt chúng. Các giá trị khác của ĐDSH côn trùng: cung cấp thực phẩm, dược liệu… Fenemore trong tác phẩm “Plant Pests and Their Control” cho rằng, loài người đã biết quản lý, sử dụng các loài côn trùng đặc biệt như ong mật cách đây hàng trăm năm [41]. Trong lịch sử, sự quan tâm chính trong quản lý sử dụng ong mật là sản xuất mật ong (được sử dụng như một chất làm ngọt trước khi có đường), và ở một mức độ thấp hơn là việc sử dụng sáp ong và các sản phẩm nhỏ khác. Ngoài ra mật ong kết hợp với sáp ong được sử dụng trong y học dân gian truyền thống [48]. Lụa tơ tằm tự nhiên từ kén của bướm tằm là mặt hàng ưa chuộng cho nhiều lứa tuổi khác nhau, biểu tượng của sự giàu có. Việc xuất khẩu tơ lụa hàng năm ở Trung Quốc là 50.000 tấn, tạo ra 3tỷ USD thu nhập [60]. Trong quá khứ, nhiều sản phẩm khác có nguồn gốc từ côn trùng là mặt hàng quan trọng trong nền kinh tế nội địa và thương mại quốc tế như: sen lắc, sáp trắng, phẩm son.. Ngoài ra nhiều loài côn trùng hoặc các sản phẩm của chúng đã được sử
- 13 dụng trong ngành y học cổ truyền của Trung Quốc: gián, dế cơm, bọ hung…[65]. Một giá trị khác dễ bị bỏ qua, đó là sử dụng côn trùng làm thực phẩm như một món ăn ngon và bổ dưỡng ở nhiều nước trên thế giới: Mexico, Trung Quốc [53]. Côn trùng là thực phẩm giàu Protein và là một thực đơn tốt cho người ăn kiêng [41]. Theo You có hơn 600 loài côn trùng có thể sử dụng làm thực phẩm tại Trung Quốc [66]. Những ảnh hưởng bất lợi của côn trùng đối với con người: Côn trùng có thể mang lại nhiều giá trị to lớn cho con người, nhưng đồng thời cũng là nhân tố gây ra những thiệt hại nhất định khi chúng cạnh tranh với các nguồn tài nguyên của con người. Tổ chức Nông lương (FAO) đã ước tính rằng khoảng 14% của tất cả thực phẩm được trồng trên thế giới bị mất là do côn trùng hại, 10% là do bệnh thực vật và 11% là do cỏ dại. Tại Mỹ, ngay cả với nền nông nghiệp phát triển cao, công nghệ kiểm soát dịch hiện đại, Cục Nông nghiệp Mỹ ước tính rằng thiệt hại từ dịch hại côn trùng tại Mỹ đạt tổng cộng 6,8 tỷ đồng mỗi năm trong thập kỷ 1950-1960. Thực trạng này cũng xảy ra ở nhiều nước trên thế giới [41]. Tại Trung Quốc, ví dụ, sự bùng nổ của châu chấu nâu Nilaparvata lugens vào năm 1991 gây thiệt hại 250.000.000 tấn gạo [43]. Các ổ dịch của sâu hại bông Heliothis armigera vào năm 1992 đã làm mất mát hơn 1,2 tỷ USD [36]. Một số loài côn trùng ăn thực vật có thể gián tiếp truyền bệnh. Nhiều bệnh virus thực vật chỉ có thể lây lan từ cây trồng thông qua vector truyền bệnh là côn trùng. Ngoài những tác động của côn trùng gây hại trong nông nghiệp và nghề làm vườn, một số loài côn trùng còn phương hại đến động vật sản xuất bằng cách giảm tốc độ tăng trưởng, giảm năng suất và thậm chí gây tử vong trong một số trường hợp. Cuối cùng, côn trùng gây hại ảnh hưởng đến sức khoẻ con người ở nhiều mức độ: gây khó chịu về thể chất, giảm sức khỏe tổng thể, truyền tải nhiều loại bệnh nguy hiểm. Sự lan truyền của một số bệnh như sốt rét và virus West Nile là một trong những mối quan tầm hàng đầu trong lĩnh vực y tế trong những thập kỷ 60 -70 và cả ngày nay [59].
- 14 1.2.3. Nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH côn trùng trên thế giới Việc nghiên cứu, tìm hiểu các nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH côn trùng đã được tiến hành ở nhiều nước trên thế giới. Tại Trung Quốc, các chuyên gia và các tổ chức khoa học đã chỉ ra 5 nguyên nhân chính làm suy giảm tài nguyên ĐDSH côn trùng Trung Quốc. Đó là: - Sự chia cắt sinh cảnh, nhiều diện tích rừng trên thế giới đặc biệt là rừng nhiệt đới bị phân chia thành các khu vực nhỏ và phân tán [56] - Sự suy thoái các vùng đất nhạy cảm do việc chăn thả quá mức kéo dài [67] - Khai thác quá mức dẫn đến sự tuyệt chủng của một số loài động, thực vật. - Sự phát triển ồ ạt công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Sự xuất hiện của nhiều loài ngoại lai xâm hại các loài bản địa Theo SiDa [12], nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH trong đó có ĐDSH côn trùng ở các nước đang phát triển chủ yếu là do sự nghèo đói và gia tăng dân số. 1.2.4. Nghiên cứu về các giải pháp bảo tồn ĐDSH côn trùng trên thế giới Bảo tồn ĐDSH là một vấn đề phức tạp và mang tính hệ thống. Mặc dù côn trùng phong phú về thành phần loài với số lượng cá thể lớn, nhưng chỉ là một trong nhiều nhóm khác nhau của sinh vật sống trên trái đất này hay nói cách khác: ở bất kỳ một hệ sinh thái nào, côn trùng cũng có mối liên hệ với các loài sinh vật khác. Do đó không thể bảo vệ các loài côn trùng như là một nhóm độc lập mà phải lấy toàn bộ hệ sinh thái là mục tiêu bảo tồn. Nhận xét: Ngày nay nghiên cứu về côn trùng nói chung và côn trùng rừng nói riêng đã có những bước tiến vượt bậc. Hiện tại trên thế giới có hơn 135 tạp chí chuyên khảo về côn trùng với đội ngũ đông đảo các nhà khoa học, không chỉ riêng các nhà côn trùng học, mà cả các nhà toán học, vật lý học, hóa học, công nghệ… cũng đi sâu vào nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của côn trùng [15]. Với sự phát triển mạnh mẽ và rộng lớn trong nghiên cứu côn trùng hiện nay, xu thế nghiên cứu về côn trùng trên thế giới đã chuyển theo những hướng chuyên môn hẹp từng bộ, giống và thậm chí từng loài. Những nghiên cứu liên tục được thể hiện ở các tạp chí côn trùng, báo cáo hội nghị côn trùng từng nước, từng khu vực trên thế giới, các
- 15 trang web. Những kết quả nghiên cứu của họ đã thực sự góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội ở mỗi quốc gia và toàn nhân loại. 1.3. Những nghiên cứu về ĐDSH côn trùng ở trong nước 1.3.1. Nghiên cứu về phân loại, thành phần loài côn trùng Nghiên cứu về phân loại côn trùng đầu tiên ở Việt Nam được biết đến là công trình nghiên cứu của Đoàn nghiên cứu tổng hợp của Pháp mang tên Mission Pavie đã tiến hành khảo sát ở Đông Dương trong 16 năm (1879 – 1895) xác định được 8 bộ, 85 họ và 1040 loài côn trùng. Phần lớn mẫu thu thập ở Lào, Campuchia, còn ở Việt Nam thì rất ít. Hầu hết các mẫu vật được lưu trữ ở các Viện bảo tàng Paris, London, Geneve và Stockholm. Năm 1972 – 1974, Bộ môn Điều tra sâu bệnh hại thuộc Cục Điều tra rừng (nay là Viện Điều tra Quy hoạch rừng) đã tiến hành điều tra côn trùng trên một số vùng rừng tự nhiên thuộc tỉnh Yên Bái, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Hòa Bình. Kết quả đã thu thập và phát hiện nhiều mẫu côn trùng và sâu bệnh hại ở các vùng điều tra, các mẫu này được lưu trữ ở bảo tàng của Viện, tuy nhiên do nhiều hạn chế nên số lượng các mẫu được giám định chưa nhiều, do đó cũng chưa đánh giá hết được giá trị của côn trùng, sâu bệnh rừng trong giai đoạn này. Theo báo cáo kết quả điều tra côn trùng và bệnh cây ở các tỉnh miền nam giai đoạn 1977 -1978 của Viện Bảo vệ thực vật, đã xác định được 1096 loài côn trùng trong đó: Bộ Chuồn chuồn có 4 loài, bộ Gián: 2 loài, bộ Bọ ngựa: 2 loài, bộ Cánh bằng: 1 loài, bộ Bọ que: 1 loài, bộ Cánh thẳng: 72 loài, bộ Cánh da: 1 loài, bộ Cánh giống: 121 loài, bộ Cánh nửa: 100 loài, bộ Cánh cứng: 232 loài, bộ Cánh phấn: 474 loài, bộ Cánh màng: 19 loài, bộ Hai cánh: 57 loài [29]. Cũng trong báo cáo này, nhiều loài côn trùng hại cây trồng ở miền Nam Việt Nam cũng đã được điều tra, phát hiện: côn trùng hại lúa có 84 loài, côn trùng hại ngô: 53 loài, côn trùng hại khoai lang: 30 loài… Kết quả điều tra côn trùng và bệnh hại cây ăn quả ở Việt Nam giai đoạn 1997 -1998 của Viện Bảo vệ thực vật đã điều tra được 421 loài côn trùng trên các cây ăn quả ở Việt Nam [30]. Trong đó bộ Chuồn chuồn có 1 loài; bộ Cánh thẳng: 19 loài,
- 16 bộ Bọ ngựa: 4 loài, bộ Cánh da: 3 loài, bộ Cánh tơ: 4 loài, bộ Cánh nửa: 56 loài, bộ Cánh đều: 29 loài… Trong chương trình Điều tra theo dõi diễn biến rừng toàn quốc từ năm 1996 – 2000, Bộ môn Điều tra sâu bệnh hại rừng thuộc Viện ĐTQH rừng đã tiến hành chuyên đề “Điều tra côn trùng rừng tự nhiên trên phạm vi 5 vùng (Bao gồm các vùng: Đông Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ)”. Kết quả là đã điều tra phát hiện được một số loài côn trùng rừng tự nhiên, phân bố của chúng theo các sinh cảnh rừng, đánh giá vai trò của các loài có ích và có hại đồng thời đề xuất các biện pháp bảo vệ. Tuy nhiên, kết quả điều tra mới chỉ dừng ở mức độ điều tra phát hiện thành phần côn trùng, và số lượng côn trùng phát hiện được còn tương đối ít (756 loài). Ngoài các báo cáo điều tra cơ bản côn trùng rừng trong các chu kỳ theo dõi diễn biến tài nguyên côn trùng rừng giai đoạn từ 1991 – 2005, còn có nhiều công trình nghiên cứu về côn trùng từ các dự án, chương trình của các tổ chức nghiên cứu trong và ngoài nước tiến hành ở Việt Nam. Các nghiên cứu về côn trùng trong đó có thể nói đến là công trình nghiên cứu về nhóm bướm ngày (Rhopalocera, Lepidoptera) ở Việt Nam của Alexander L. Monastyrskii; hướng dẫn tìm hiểu về các loài bướm Vườn Quốc gia Tam Đảo và các giá trị bảo tồn của chúng của Đặng Thị Đáp; các kết quả điều tra nghiên cứu về côn trùng của Viện Điều tra Quy hoạch rừng do các tác giả Nguyễn Văn Bích, Đặng Ngọc Anh, Nguyễn Trung Tín, Hà Văn Hoạch thực hiện; các kết quả điều tra nghiên cứu của Đỗ Mạnh Cương và cộng sự về Chuồn chuồn (Odonata); các kết quả điều tra nghiên cứu của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật về nhóm bướm ngày, cánh cứng, cánh nửa, bọ que, kiến… Nhìn chung các nhóm côn trùng gây hại ở một số cây trồng chủ yếu được nghiên cứu tương đối kỹ về tập tính, sinh thái… ngoài ra là một số nhóm côn trùng như nhóm bướm ngày, chuồn chuồn, cánh cứng hại gỗ, bọ xít… cũng đã được quan tâm nghiên cứu về tập tính sinh học và sinh thái của các loài này, còn lại phần lớn các bộ côn trùng khác mới chỉ dừng ở việc điều tra phát hiện và chưa được quan tâm nghiên cứu. 1.3.2. Nghiên cứu giá trị của ĐDSH côn trùng ở Việt Nam Các nghiên cứu về giá trị ĐDSH côn trùng ở Việt Nam còn ít, chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu thành phần, lợi dụng các loài côn trùng trong việc tiêu diệt
- 17 sâu hại: các loài ký sinh, bắt mồi ăn thịt… Nghiên cứu về nhóm này có một số hướng: Nghiên cứu thành phần loài thiên địch: Kết quả điều tra cơ bản côn trùng năm 1967 – 1968 của Viện Bảo vệ thực vật và nhóm điều tra cơ bản côn trùng Viện sinh học từ năm 1960 – 1970 đã xác định được một số loài thiên địch, tuy nhiên đó chỉ là con số ít ỏi. Cho đến nay, có 2 họ côn trùng được nghiên cứu nhiều là họ Bọ rùa Coccinellidae và họ Ong kí sinh Scelionidae. Họ Bọ rùa ở nước ta đã phát hiện được 246 loài với nhiều loài mới cho khoa học, trong đó có khoảng gần 200 loài là những bọ rùa sống theo kiểu bắt mồi ăn thịt [23]. Lê Xuân Huệ đã phát hiện được 221 loài thuộc họ Ong kí sinh Scelionidae, có nhiều loài mới cho khoa học [13]. Lê Khương Thúy công bố danh lục 75 loài côn trùng thuộc họ Carabidae. Vũ Quang Côn (1986) nghiên cứu thành phần kí sinh các loài bướm hại lúa từ 1976 – 1986 đã phát hiện được 59 loài thuộc 11 họ ong kí sinh [8]. Bùi tuấn Việt (1990) phát hiện được 9 loài ong cự kí sinh nhộng sâu hại lúa. Thành phần thiên địch trên một số cây trồng cũng được phát hiện. Theo Phạm văn Lầm, đã phát hiện ít nhất 332 loài thiên địch thuộc 13 bộ, 52 họ, 201 giống của lớp côn trùng, nấm và tuyến trùng [16]. Thành phần thiên địch trên đậu tương, trên bông và một số cây khác cũng đã và đang được nghiên cứu. Nghiên cứu vai trò của thiên địch trong hạn chế số lượng sâu hại chính: Vai trò tập hợp các thiên địch trong hạn chế số lượng sâu hại lúa có các công trình của L.M. Châu (1987, 1989), V.Q. Côn (1989, 1990), H.Q. Hùng (1984), P.V. Lầm (1985, 1995), P.V và nnk (1983, 1989, 1993, 1996…), Trần Ngọc Lân (2000)….Trích theo [11]…Các kết quả cho thấy vai trò kìm hãm số lượng sâu hại lúa của riêng từng loài thiên địch thường thì không lớn, song vai trò này của một tập hợp thiên địch đối với một loài sâu hại lúa nào đó trong từng lúc ở từng điều kiện cụ thể thì lại rất lớn và có ý nghĩa kìm hãm sâu hại phát triển. Vai trò của thiên địch trong hạn chế sâu hại bông được Trung tâm Nghiên cứu cây bông Nha Hố tiến hành tại các vùng bông ở miền Nam. Những nghiên cứu đã chỉ ra rằng ong mắt đỏ Trichogramma spp, bọ xít bắt mồi..là những thiên địch có
- 18 vai trò quan trọng trong hạn chế sự phát triển của sâu xanh Helicoverpa armigera, Anomis flava…hại bông Ngoài ra còn có các nghiên cứu về vai trò của thiên địch trong hạn chế sự phát triển của sâu hại đậu tương, rau họ hoa thập tự, đậu ăn quả, cây ăn quả có múi… Nguyễn Thế Nhã trong cuốn “Sử dụng côn trùng và vi sinh vật có ích” đã đề cập đến vai trò, ý nghĩa của ĐDSH côn trùng trong thực phẩm, dược liệu, nguyên liệu, giải trí, làm cảnh, phòng trừ sâu hại… Tác giả cũng đã trình bày về đặc tính sinh vật học, sinh thái học, cách sử dụng, gây nuôi một số loài đại diện trong các nhóm trên, đặc biệt là các loài côn trùng sử dụng trong phòng trừ sâu hại và thực phẩm. Đỗ Tất Lợi trong cuốn “Từ Điển cây thuốc Việt Nam” đã trình bày cách chế biến, sử dụng loài dế cơm và ong đen trong điều trị bệnh. 1.3.3. Nghiên cứu các nguyên nhân gây suy giảm ĐDSH côn trùng Côn trùng cùng với các nhóm sinh vật khác: chim, thú, bò sát, ếch nhái, thực vật....cùng tồn tại trong một hệ sinh thái và có liên quan mật thiết với nhau. Việc nghiên cứu các nguyên nhân gây suy giảm ĐDSH trong các hệ sinh thái đã được thực hiện nhiều và đó cũng là cơ sở để đánh giá các nguyên nhân gây suy giảm ĐDSH côn trùng. Kết quả của Chương trình bảo tồn ĐDSH Trung Trường Sơn đã chỉ ra 3 nhóm nguy cơ đe dọa và thách thức tài nguyên ĐDSH đó là: Sự suy giảm nguồn tài nguyên nhanh chóng; Thể chế, chính sách và thực thi pháp luật còn phức tạp với nhiệm vụ chưa rõ ràng, chồng chéo của các cơ quan quản lý; Thiếu sự tham gia của cộng đồng trong quản lý tài nguyên thiên nhiên; [6] Trong “Đề xuất Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn tại Việt Nam 2003 – 2010” đã đề cập đến một số nguyên nhân gây tổn thất ĐDSH đó là: chiến tranh, khai thác và sử dụng quá mức tài nguyên thiên nhiên, mở rộng đất làm nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, xây dựng cơ sở hạ tầng, trao đổi, buôn bán nhập nội các giống loài động, thực vật, cháy rừng và ô nhiễm môi trường, tập quán du canh.
- 19 Ngyên nhân sâu xa là do sự gia tăng dân số, di cư, sự nghèo đói, chính sách kinh tế, và hiệu lực thực thi pháp luật về môi trường. 1.3.4. Nghiên cứu các giải pháp bảo tồn ĐDSH côn trùng Nhìn chung việc nghiên cứu các giải pháp bảo tồn ĐDSH ở nước ta còn ít, mang tính cục bộ ở một số địa phương, khu bảo tồn. Lê Xuân Huệ trong Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài “Điều tra cơ bản ĐDSH, chim Vườn Quốc gia Pù Mát, tỉnh Nghệ An” đã đưa ra các biện pháp khai thác, sử dụng hợp lý một số loài côn trùng có ích: ong ruồi và ong khói và đề xuất nhân nuôi một số loài côn trùng cánh cứng, các loài bướm đẹp. Nguyễn Thị Đáp (2008) đã đề xuất đưa ra các mô hình nhân nuôi một số loài bướm ở Tam Đảo. Đây là một công trình rất công phu tuy nhiên mới chỉ tập trung vào một số loài có giá trị thẩm mỹ cao. 1.4. Tình hình nghiên cứu ĐDSH côn trùng tại các Khu bảo tồn, VQG ở Việt Nam Việc nghiên cứu ĐDSH côn trùng đã được thực hiện ở một số Vườn Quốc gia, Khu bảo tồn: VQG Cát Tiên, VQG Tam Đảo, VQG Xuân Sơn...Tại VQG Pù Mát (tiếp giáp KBTTN Pù Huống) cũng đã có nhiều cơ quan nghiên cứu, tổ chức quốc tế và trường đại học điều tra nghiên cứu ĐDSH côn trùng. Kết quả điều tra về bộ Cánh phấn của Alexander L. Monastyrskii và Nguyễn Văn Quảng năm 1998 đã phát hiện được 293 loài. Năm 2001, cũng 2 tác giả trên công bố bổ sung thêm 12 loài. Trong Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài “Điều tra cơ bản ĐDSH, chim Vườn Quốc gia Pù Mát, tỉnh Nghệ An” của Lê Xuân Huệ (2007) đã điều tra và thống kê được 1084 loài thuộc 64 họ của 7 bộ. Nhận xét chung: Các nghiên cứu về ĐDSH đã được thực hiện ở một số VQG, KBTTN...tuy nhiên chủ yếu mới dừng lại ở việc điều tra, phát hiện thành phần loài. Các nghiên cứu về đặc điểm phân bố, giá trị ĐDSH côn trùng và các giải pháp bảo tồn còn ít được chú ý. Tại KBTTN Pù Huống, chưa có một nghiên cứu nào về côn trùng.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 301 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 322 | 40
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào việc giáo dục y đức cho sinh viên ngành y ở Đà Nẵng hiện nay
26 p | 228 | 35
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu biến tính mùn cưa làm vật liệu hấp phụ chất màu hữu cơ trong nước
26 p | 192 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm tín hiệu thẩm mĩ thiên nhiên trong ca từ Trịnh Công Sơn
26 p | 204 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn