intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Quy hoạch kinh doanh rừng theo tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững tại Lâm trường Yên Sơn - huyện Yên Sơn - tỉnh Tuyên Quang

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:120

18
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài này nghiên cứu điều tra đánh giá được tiềm năng điều kiện cơ bản và ảnh hưởng của nó đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Lâm trường. Phân tích đánh giá các yếu tố kinh tế - kỹ thuật ảnh hưởng đến quản lý rừng bền vững của Lâm trường làm cơ sở xây dựng phương án kinh doanh rừng bền vững. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Quy hoạch kinh doanh rừng theo tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững tại Lâm trường Yên Sơn - huyện Yên Sơn - tỉnh Tuyên Quang

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ------------------------------------------------------- NGUYỄN TIẾN THÀNH QUY HOẠCH KINH DOANH RỪNG THEO TIÊU CHUẨN QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG TẠI LÂM TRƯỜNG YÊN SƠN HUYỆN YÊN SƠN TỈNH TUYÊN QUANG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Tây – 2007
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ------------------------------------------------------ NGUYỄN TIẾN THÀNH QUY HOẠCH KINH DOANH RỪNG THEO TIÊU CHUẨN QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG TẠI LÂM TRƯỜNG YÊN SƠN HUYỆN YÊN SƠN TỈNH TUYÊN QUANG Chuyên ngành: LÂM HỌC Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn: PGS.TS VŨ NHÂM Hà Tây – 2007
  3. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Rừng có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Ngoài việc cung cấp lâm đặc sản, rừng còn có vai trò bảo vệ môi trường, duy trì cân bằng sinh thái, bảo tồn nguồn gen cũng như các tác dụng khác nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Tuy nhiên, hiện nay trên thế giới tài nguyên rừng ngày càng cạn kiệt. Theo thống kê của tổ chức FAO, trong mấy chục năm gần đây trên thế giới đã có trên 200 triệu ha rừng tự nhiên bị mất, trong khi đó phần lớn diện tích rừng còn lại bị thoái hoá nghiêm trọng cả về đa dạng sinh học và chức năng sinh thái [36]. Ở Việt Nam, từ năm 1943 đến năm 1990 diện tích rừng suy giảm nhanh chóng từ 14,3 triệu ha với độ che phủ là 43% xuống còn 9,18 triệu ha, độ che phủ rừng là 27,2%. Theo kết quả kiểm kê rừng của Chính phủ năm 2005 thì diện tích rừng nước ta đã tăng lên là 12,28 triệu ha với độ che phủ là 36,7% [4]. Nguyên nhân chủ yếu là do công tác quản lý sử dụng tài nguyên rừng nước ta còn yếu kém, chậm đổi mới, việc quy hoạch, lập kế hoạch, xác định các phương án kinh doanh rừng còn mang tính chủ quan, lấy mục tiêu sử dụng làm đối tượng để đề xuất các giải pháp kinh doanh lợi dụng rừng mà không quan tâm đến tiềm năng và khả năng cung cấp của rừng đối với nhu cầu kinh tế - xã hội - môi trường. Trong những năm gần đây, với đường lối đổi mới, ngành Lâm nghiệp nước ta đã và đang dần hoàn thiện cơ cấu quản lý, tổ chức và sử dụng tài nguyên rừng. Các phương án kinh doanh lợi dụng rừng đã có hiệu quả hơn, bền vững hơn, các giá trị về sinh thái, xã hội, môi trường và đa dạng sinh học đã được đặt ngang hàng với giá trị kinh tế. Đặc biệt, các phương án kinh doanh rừng ở nước ta đang được tiếp cận với tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững của Hội đồng quản trị rừng thế giới. Hiện nay, ở Việt Nam tiêu chuẩn quốc gia về quản lý rừng bền vững đã được tổ công tác FSC Việt Nam biên soạn trên cơ sở điều chỉnh bổ sung những tiêu chuẩn và tiêu chí quản lý rừng của FSC quốc tế, có sử dụng ý kiến đóng góp của các nhà quản lý sản xuất
  4. 2 lâm nghiệp trong nước và quốc tế, để vừa đảm bảo những tiêu chuẩn quốc tế, vừa phù hợp với điều kiện Việt Nam. Mặc dù đã có hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về quản lý rừng bền vững, nhưng việc triển khai thực hiện bộ hệ thống tiêu chuẩn này trên toàn quốc chỉ mới bắt đầu được thực hiện. Nguyên nhân là do hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về quản lý rừng bền vững mới được tiếp cận, còn quá ít các nghiên cứu, các mô hình sử dụng hệ thống tiêu chí này trong quản lý sản xuất ở nước ta. Mặt khác, các cơ chế quản lý trong nước chưa thay đổi kịp với yêu cầu của QLRBV nên thực hiện các tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững đối với Lâm trường, Công ty lâm nghiệp, các Ban quản lý rừng,… còn rất ít, nội dung thực hiện còn sơ sài, không thống nhất. Vì vậy, những nghiên cứu cụ thể về việc sử dụng các tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững cho các đơn vị sản xuất kinh doanh rừng ở nước ta đang là yêu cầu cấp thiết. Để góp phần vào sự nghiệp quản lý, bảo vệ và phát triển rừng theo quan điểm bền vững, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn quản lý sản xuất kinh doanh rừng theo Bộ tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững của hội đồng quản trị rừng (FSC) trên địa bàn Lâm trường Yên Sơn, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, chúng tôi thực hiện đề tài: “Quy hoạch kinh doanh rừng theo tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững tại Lâm trường Yên Sơn - huyện Yên Sơn - tỉnh Tuyên Quang”.
  5. 3 Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Quy hoạch lâm nghiệp 1.1.1. Trên thế giới Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp, ngành sản xuất gỗ cũng phát triển mạnh mẽ và dần tách khỏi vỏ bọc nền kinh tế địa phương phong kiến và bước vào thời đại kinh tế tư bản chủ nghĩa. Thực tế sản xuất lâm nghiệp đã không còn bó hẹp trong sản xuất gỗ đơn thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm bảo đảm thu hoạch lợi nhuận lâu dài của các chủ rừng. Đến thế kỷ 18, phạm vi quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc “Khoanh nuôi chặt luân chuyển” có nghĩa là đem trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên chia đều cho từng năm của chu kỳ khai thác và tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc theo diện tích. Phương thức này phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai thác ngắn. Mặc dù, quy hoạch lâm nghiệp trong giai đoạn này mới chỉ giải quyết được những vấn đề khiêm tốn như vậy, nhưng quy hoạch lâm nghiệp đã hình thành môn học ở một số nước, đầu tiên ở Đức và Áo rồi đến các nước khác ở Châu Âu. Sau cách mạng công nghiệp, vào thế kỷ 19 phương thức kinh doanh rừng chồi được thay bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai thác dài. Phương thức “Khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho phương thức “Chia đều” của Hartig. Hartig đã chia chu kỳ khai thác thành nhiều thời kỳ lợi dụng và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm. Sau đó phương pháp “Bình quân thu hoạch” ra đời. Quan điểm phương pháp là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời vẫn đảm bảo thu hoạch liên tục trong chu kỳ sau. Đến cuối thế kỷ 19 xuất hiện
  6. 4 phương pháp “Lâm phần kinh tế” của Judeich, phương pháp này khác với phương pháp “Bình quân thu hoạch” về căn bản. Judeich cho rằng lâm phần nào thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ được đưa vào diện khai thác. Hai phương pháp “Bình quân thu hoạch” và “Lâm phần kinh tế” chính là tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác nhau. Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và sau này là phương pháp “Cấp tuổi” chịu ảnh hưởng của “Lý luận rừng tiêu chuẩn”, có nghĩa là rừng phải có kết cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích, trữ lượng và vị trí các cấp tuổi cao đưa vào diện tích khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng này được dùng phổ biến ở những nước có tài nguyên rừng phong phú. Còn phương pháp “Lâm phần kinh tế” và hiện nay là phương pháp “Lâm phần” không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần tiến hành phân tích xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh. Cũng từ phương pháp này còn phát triển thành “Phương pháp kinh doanh lô” và “Phương pháp kiểm tra”. 1.1.2. Trong nước Quy hoạch lâm nghiệp áp dụng ở nước ta ngay từ thời Pháp thuộc với việc xây dựng các phương án quy hoạch rừng chồi, sản xuất củi... Từ năm 1955 – 1957 nước ta mới tiến hành mô tả để ước lượng tài nguyên rừng. Năm 1958 – 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền Bắc và đến năm 1960 – 1964, công tác quy hoạch lâm nghiệp mới được áp dụng ở miền Bắc. Từ năm 1965 – 1990, công tác quy hoạch lâm nghiệp mới tiến hành sơ thám, mô tả để ước lượng tài nguyên rừng và chỉ dừng ở việc cải tiến phương pháp quy hoạch để phù hợp với trình độ và thực tế tài nguyên rừng nước ta. Từ năm 1990 đến nay, công tác quy hoạch đã thực sự được coi trọng nhằm bảo vệ tài nguyên rừng hiện có, phát triển vốn rừng và đưa nghề rừng trở thành một ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Vì vậy, công tác quy hoạch sản xuất lâm nghiệp ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Ngày 8/7/1999,
  7. 5 Chính phủ ban hành Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 về việc ban hành các Quy chế đầu tư và xây dựng, thì phần lớn các phương án quy hoạch lâm nghiệp đều thuộc quy hoạch tổng thể. Nhưng do đặc thù ngành lâm nghiệp (địa bàn rộng, địa hình chia cắt phức tạp, tư liệu sản xuất là đồi núi và sinh vật sống,…) nên các phương án quy hoạch có những đặc thù riêng biệt, không theo khuôn mẫu quy định như điều 23, 24 trong Nghị định 52. Các công trình quy hoạch lâm nghiệp lâu nay vẫn được gọi là “Các công trình quy hoạch và chuẩn bị đầu tư”. Căn cứ vào mức độ và tính chất quy hoạch có thể phân chia thành các loại sau: - Quy hoạch sơ bộ: Xây dựng các kế hoạch dài hạn mang tính chiến lược, trong đó đánh giá tình hình hoạt động và dự báo xu thế phát triển chung của ngành trên phạm vi thế giới, quốc gia hay lãnh thổ. Đây chính là những nội dung cơ bản mang tích chất định hướng cho quy hoạch phát triển ngành trong cả thời kỳ quy hoạch, làm cơ sở cho việc triển khai các bước tiếp theo. - Quy hoạch tổng thể: Nhằm đánh giá chính xác tiềm năng thông qua các yếu tố cần thiết cho mục tiêu phát triển ngành. Quy hoạch tổng thể là cơ sở cho việc lập kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn và hoàn thiện các cơ chế chính sách, tổ chức quản lý sản xuất ngành lâm nghiệp. Quy hoạch phát triển bao gồm các công trình mang tính chất chuyên ngành và các công trình đòi hỏi sự phối hợp liên ngành nhằm tránh sự chồng chéo, hạn chế lẫn nhau giữa các ngành. - Quy hoạch chi tiết: Là những dự án đầu tư được xây dựng cho từng công trình cụ thể, khi được cấp thẩm quyền phê duyệt sẽ được ghi vào kế hoạch chuẩn bị đầu tư. Theo các cấp quản lý, quy hoạch lâm nghiệp được chia thành các cấp sau: - Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất kinh doanh: Bao gồm quy hoạch tổng công ty lâm nghiệp, công ty lâm nghiệp, lâm trường, các khu rừng phòng hộ, bảo tồn,… Các nội dung quy hoạch lâm nghiệp cho các
  8. 6 cấp quản lý sản xuất kinh doanh là khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi đơn vị và thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất lâm nghiêp. - Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ: Ở nước ta, các cấp quản lý lãnh thổ bao gồm các đơn vị quản lý hành chính: Từ toàn quốc tới tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương); huyện (thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, quận) và xã (phường). Để phát triển, mỗi đơn vị đều phải xây dựng phương án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển các ngành sản xuất và quy hoạch dân cư, phát triển xã hội,… Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh rừng như các lâm trường, quy hoạch lâm nghiệp luôn giữ vai trò rất quan trọng, nó là kế hoạch, phương án thực hiện kinh doanh trong một thời gian nhất định. Hiện nay, tất cả các lâm trường đều đã và đang thực hiện quy hoạch lâm nghiệp bằng cách xây dựng phương án kinh doanh rừng đơn giản theo Chỉ thị số 15/LS-CNR ngày 19/7/1989 của Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) về công tác xây dựng phương án quy hoạch rừng đơn giản cho các lâm trường [3]. Bản quy định này được áp dụng cho các đơn vị chưa đủ điều kiện xây dựng phương án quy hoạch rừng hoàn chỉnh. Các bước thực hiện cơ bản như sau: - Thu thập tài liệu cơ bản (bản đồ, tài nguyên, một số quy luật lâm sinh và những thông số cơ bản về tăng trưởng quần thể, cấu trúc, khả năng tái sinh.., dân số và lao động tại chỗ). - Xác định các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh (chỉ tiêu về khai thác, nuôi dưỡng, làm giàu rừng, trồng rừng, các chỉ tiêu sản xuất nông nghiệp và nông lâm kết hợp). - Xác định các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội cho đơn vị quy hoạch. - Kế hoạch hóa phương án quy hoạch rừng. Song song với việc tiến hành áp dụng các công tác quy hoạch lâm nghiệp trong thực tiễn sản xuất, môn quy hoạch cũng được đưa vào giảng dạy ở các trường đại học. Trước năm 1975, bài giảng của môn học này ở miền Bắc
  9. 7 chủ yếu dựa vào giáo trình Điều tra thiết kế quy hoạch rừng dịch từ giáo trình của Trung Quốc và ở miền Nam là giáo trình Điều chế rừng của nước ngoài. Nội dung của giáo trình chủ yếu phục vụ cho việc tổ chức sản xuất kinh doanh và tổ chức rừng đồng tuổi, ít loài cây chưa phù hợp với điều kiện tài nguyên rừng nước ta, có một bộ phận rất lớn rừng tự nhiên khác tuổi, nhiều loài cây. Đồng thời mới chỉ dừng lại ở tổ chức kinh doanh rừng chưa giải quyết sâu sắc về tổ chức và quản lý rừng. 1.2. Quản lý rừng bền vững 1.2.1. Quan điểm về quản lý rừng bền vững Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà khoa học trên thế giới và trong nước có sự quan tâm đặc biệt như vấn đề sử dụng đất đai, tài nguyên rừng bền vững. Nghiên cứu về hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường của vấn đề sử dụng đất đai, tài nguyên rừng của mỗi quốc gia đều phụ thuộc cách nhìn nhận và trình độ quản lý, trình độ tiếp cận khoa học kỹ thuật của nhân loại. Quan điểm về sử dụng đất đai, tài nguyên rừng bền vững đã được nhiều đề tài ở các quốc gia khác nhau đề cập tới, việc đưa ra một quan điểm thống nhất là một điều khó có thể thực hiện, nhưng các khái niệm cho thấy những điểm giống nhau khi nói đến quản lý sử dụng đất đai tài nguyên rừng bền vững đều được thể hiện ở ba vấn đề: Kinh tế, xã hội và môi trường. Do sự khác biệt nhau về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và các nhu cầu của con người ở các quốc gia, vùng lãnh thổ nên công tác quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững cũng gặp những khó khăn, phức tạp và đa dạng cho mỗi vùng sinh thái khác nhau. Nhưng cuối cùng người ta cũng đã cố gắng đưa ra một định nghĩa về QLRBV nhằm diễn đạt bản chất của nó, đồng thời để từ đó xây dựng nên những nguyên tắc cơ bản trong công tác QLRBV. Khái niệm về QLRBV đã được hình thành từ đầu thế kỷ 18. Ban đầu chỉ chú trọng đến khai thác, sử dụng gỗ được lâu dài, liên tục. Cùng với sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và phát triển kinh tế - xã hội QLRBV đã chuyển từ quản lý kinh doanh gỗ sang quản lý kinh doanh nhiều mặt tài
  10. 8 nguyên rừng, quản lý hệ thống sinh thái rừng và cuối cùng là QLRBV trên cơ sở các tiêu chuẩn, tiêu chí được xác lập chặt chẽ, toàn diện về các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường. QLRBV là việc đóng góp của công tác lâm nghiệp đối với sự phát triển. Sự phát triển đó phải mang lại lợi ích kinh tế, môi trường và xã hội, có thể cân bằng giữa nhu cầu hiện tại và tương lai. QLRBV hiện nay được xem như tổng hợp của hoạt động sản xuất bao gồm bảo vệ nguồn nước, đất và các khu văn hóa cũng như cây rừng cho gỗ [26]. Chẳng hạn theo Tổ chức Gỗ nhiệt đới (ITTO) thì “Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý đất rừng cố định để đạt được một hoặc nhiều mục tiêu được xác định rõ ràng của công tác quản lý trong vấn đề sản xuất liên tục của các lâm phần và dịch vụ rừng mà không làm giảm đi đáng kể những giá trị vốn có và khả năng sản xuất sau này của rừng và không gây ra những ảnh hưởng tiêu cực thái quá đến môi trường vật chất và xã hội" [17]. Còn theo hiệp ước Helsinki thì “Quản lý rừng bền vững là sự quản lý rừng và đất rừng một cách hợp lý để duy trì tính đa dạng sinh học, năng suất, khả năng tái sinh, sức sống của rừng, đồng thời duy trì tiềm năng thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội và sinh thái của chúng trong hiện tại cũng như trong tương lai, ở cấp địa phương, quốc gia và toàn cầu và không gây ra những tác hại đối với các hệ sinh thái khác”. Vấn đề đặt ra với việc QLRBV là như thế nào, đó là công tác quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên rừng nhằm ngăn chặn tình trạng mất rừng do khai thác sử dụng quá mức, mà trong đó việc khai thác lợi dụng tài nguyên rừng không mâu thuẫn với việc đảm bảo vốn rừng, đảm bảo chức năng tái sản xuất của rừng, đồng thời phát huy được vai trò chức năng phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái bền vững của rừng đối với con người và thiên nhiên. Định nghĩa về QLRBV của Ủy ban Quốc tế về môi trường và phát triển được đưa ra vào năm 1987 được chấp nhận rộng rãi. Đó là: "QLRBV là việc đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng tới khả năng tái tạo để đáp ứng nhu cầu tương lai".
  11. 9 Mặc dầu có sự diễn đạt khác nhau về ngôn từ, nhưng các khái niệm QLRBV đều có chung ý nghĩa như sau: "QLRBV là quá trình quản lý rừng để đạt được 1 hay nhiều mục tiêu cụ thể đồng thời xem xét đến việc phát triển sản xuất dịch vụ và sản phẩm lâm nghiệp, đồng thời không làm giảm giá trị hiện có và ảnh hưởng đến năng suất sau này, cũng như không gây ra các tác động xấu đến môi trường tự nhiên và xã hội" [26]. Các định nghĩa trên, nhìn chung tương đối dài dòng nhưng có chung một số vấn đề sau: - Quản lý rừng ổn định bằng các biện pháp phù hợp nhằm đạt các mục tiêu đề ra (sản xuất gỗ nguyên liệu, gỗ gia dụng, lâm sản ngoài gỗ,…, phòng hộ môi trường, bảo vệ đầu nguồn, bảo vệ chống cát bay, chống sạt lở đất…, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn loài, bảo tồn các hệ sinh thái…). - Đảm bảo sự bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường. 1.2.2. Quản lý rừng bền vững trên thế giới Trên thế giới, lịch sử QLRBV được hình thành từ rất sớm. Vào đầu thế kỷ 18, các Nhà lâm học Đức như Hartig, GL [40], Heyer, F [41]… đã đề xuất ra nguyên tắc sử dụng lâu bền đối với rừng thuần loài đều tuổi. Vào thời điểm này các nhà khoa học người Pháp (Gournand, 1922) và người Thuỵ Sỹ (H. Biolley) cũng đã đề ra phương pháp kiểm tra, điều chỉnh sản lượng đối với rừng đồng tuổi khai thác chọn [39]. Trong giai đoạn đầu của thế kỷ 20, hệ thống quản lý rừng đã tập trung ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển [25]. Trong thời kỳ này, vai trò sự tham gia của cộng đồng trong quản lý rừng không được chú ý. Mặc dù trong các quy định pháp luật thì rừng là tài sản của toàn dân. Song, trên thực tế người dân không hề được hưởng lợi từ rừng, vì vậy người dân cũng không hề quan tâm đến vấn đề xây dựng và bảo vệ vốn rừng. Họ chỉ biết khai thác rừng để lấy lâm sản và lấy đất canh tác phục vụ cho nhu cầu sống của chính họ. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp, nhu cầu lâm sản ngày càng tăng nên tình trạng khai thác quá mức đối với tài nguyên
  12. 10 rừng trong giai đoạn này cũng trở thành nguyên nhân quan trọng của tình trạng suy thoái tài nguyên rừng. Bước sang giai đoạn từ giữa thế kỷ 20 trở lại đây, khi tài nguyên rừng ở nhiều quốc gia đã bị giảm sút nghiêm trọng, môi trường sinh thái và cuộc sống của đồng bào miền núi bị đe doạ thì phương thức quản lý tập trung như trước đây không còn thích hợp nữa. Người ta đã tìm mọi cách cứu vãn tình trạng suy thoái rừng thông qua việc ban bố một số chính sách nhằm động viên và thu hút người dân tham gia quản lý và sử dụng tài nguyên rừng. Phương thức quản lý rừng cộng đồng (hay lâm nghiệp cộng đồng) xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ và dần dần biến thái thành các hình thức quản lý khác nhau như lâm nghiệp trang trại, lâm nghiệp xã hội (Nêpan, Thái Lan, Philippin,...) [30]. Năm 1967 – 1969 FAO đã quan tâm đến phát triển nông lâm kết hợp và đi đến thống nhất: Áp dụng biện pháp nông lâm kết hợp là phương thức tốt nhất để sử dụng đất rừng nhiệt đới một cách hợp lí, tổng hợp và nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm và sử dụng lao động dư thừa đồng thời thiết lập cân bằng sinh thái [38]. Tuy nhiên, suy thoái tài nguyên rừng nghiêm trọng vẫn tiếp tục diễn ra trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển. Theo thống kê của FAO (2003), trong giai đoạn 1990 – 1995 ở các nước đang phát triển đã có hơn 65 triệu ha rừng bị mất. Tính đến năm 2000, diện tích rừng của toàn thế giới, kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng chỉ còn 3.869,455 triệu ha, tỷ lệ che phủ chỉ chiếm 29,6% lãnh thổ [16]. Đối phó với tình trạng trên, ngăn chặn tình trạng mất rừng, bảo vệ và phát triển vốn rừng trên quan điểm quản lý sử dụng bền vững tài nguyên rừng, cộng đồng quốc tế đã thành lập nhiều tổ chức, triệu tập nhiều hội nghị, đề suất và cam kết nhiều công ước bảo vệ và phát triển rừng như: Chiến lược bảo tồn quốc tế (1980, điều chỉnh năm 1991); Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế (ITO năm 1983); Chương trình hành động của tổ chức Nông lương (FAO) liên hợp quốc (TFAP năm 1985); Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển (UNCED, Riodejaneiro, 1992); Công ước về buôn
  13. 11 bán động thực vật quý hiếm (CITES); Công ước về đa dạng sinh học (CBD, 1992); Công ước về thay đổi khí hậu toàn cầu (CGCC, 1994); Công ước về chống sa mạc hóa (CCD, 1996); Hiệp định quốc tế về gỗ nhiệt đới (ITTA, 1997) [16]. Hiện nay, trên thế giới đã có các bộ tiêu chuẩn quản lý bền vững cấp quốc gia (Canada, Thụy Điển, Malaysia, Indonesia...) và cấp quốc tế của tiến trình Helsinki, tiến trình Montreal. Hội đồng quản tị rừng (FSC) và Tổ chức gỗ nhiệt đới đã có bộ tiêu chuẩn quản lý rừng của (C&I) được vận dụng ở nhiều nước trên thế giới và các tổ chức cấp chứng chỉ rừng đều dùng bộ tiêu chuẩn này để đánh giá quản lý rừng và công nhận chứng chỉ rừng [17]. Các nước trong khu vực Đông Nam Á đã họp hội nghị lần thứ 18 tại Hà Nội, tháng 9/1998 thoả thuận về đề nghị của Malaysia xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số vùng ASEAN về quản lý rừng bền vững (viết tắt là C&I ASEAN). Thực chất C&I ASEAN cũng giống như C&I của ITTO, bao gồm 7 tiêu chí và cũng chia làm 2 cấp quản lý là cấp quốc gia và cấp đơn vị quản [15]. Theo thống kê quản lý rừng của bản tin quản lý rừng, năm thứ 3, bản số 5, tháng 5 năm 2006, số quốc gia với các khu rừng được công nhận FSC là 81 quốc gia với tổng diện tích các khu rừng được cấp chứng chỉ FSC là 73.980.356 ha [1]. Trong đó những cánh rừng đầu tiên ở Đông Dương được nhận chứng chỉ FSC vào ngày 29 tháng 2 năm 2006 là hai khu rừng tự nhiên ở Trung Lào [2]. 1.2.3. Quản lý rừng bền vững ở Việt Nam Công tác quản lý sử dụng tài nguyên rừng ở Việt Nam từ trước tới nay được chia thành 3 thời kỳ theo quá trình phát triển của lịch sử cũng như quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước như sau. - Thời kỳ trước năm 1945 Trong thời kỳ này toàn bộ rừng nước ta là rừng tự nhiên đã được chia theo các chức năng để quản lý sử dụng.
  14. 12  Rừng chưa quản lý: Là những diện tích rừng ở những vùng núi hiểm trở, dân cư thưa thớt. Nhà nước thực dân chưa có khả năng quản lý, người dân được tự do sử dụng lâm sản, đốt nương làm rẫy. Việc khai thác lâm sản đang ở mức tự cung tự cấp, lâm sản chưa trở thành hàng hóa.  Rừng mở để kinh doanh: Là những diện tích rừng ở vùng có dân cư và đường giao thông thuận lợi cho vận chuyển lâm sản. Những diện tích rừng này được chia thành các đơn vị như khu, từ khu được chia thành các lô khai thác gọi là cúp và theo chu kỳ sản lượng do hạt trưởng lâm nghiệp quản lý, đấu thầu khai thác.  Rừng cấm: Là những diện tích rừng sau khai thác, cần được bảo vệ để tái sinh trong cả chu kỳ theo vòng quay điều chế, cũng có thể là khu rừng có tác dụng đặc biệt cần được bảo vệ [24]. Nhìn chung trong thời kỳ trước 1945 tài nguyên rừng Việt Nam còn phong phú, nhu cầu lâm sản nói chung của con người còn thấp, rừng bị khai thác lợi dụng tự do, không có sự can thiệp của cộng đồng. Mức độ tác động của con người vào tài nguyên rừng còn ít, tài nguyên rừng còn phong phú và đa dạng, vấn đề QLRBV chưa được đặt ra [24]. - Thời kỳ từ năm 1946 – 1990 Trong thời kỳ này, với sự ra đời của ngành Lâm nghiệp các hoạt động của ngành đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Ngay sau hoà bình lập lại, toàn bộ diện tích rừng và đất rừng ở miền Bắc được quy hoạch vào các lâm trường quốc doanh. Nhiệm vụ chủ yếu là khai thác lâm sản để phục vụ cho nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế và của nhân dân. Nhiệm vụ xây dựng và phát triển vốn rừng tuy có đặt ra nhưng chưa được các đơn vị sản xuất kinh doanh lâm nghiệp quan tâm đúng mức. Bên cạnh đó dân số tăng nhanh kéo theo tình trạng chặt phá rừng tự nhiên lấy đất sử dụng canh tác nông nghiệp, lấy các sản phẩm gỗ, củi và các lâm sản khác ngày càng diễn ra nghiêm trọng hơn đã làm cho tài nguyên rừng nước ta bị tàn phá một cách nặng nề.
  15. 13 Giai đoạn từ 1946 - 1960 công tác bảo vệ rừng chủ yếu là khoanh nuôi bảo vệ, hướng dẫn nông dân miền núi sản xuất trên nương rẫy, ổn định công tác định canh định cư, khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Giai đoạn 1961 - 1975 QLBVR được đẩy mạnh, khoanh nuôi tái sinh rừng gắn chặt với công tác định canh định cư. Công tác khai thác rừng đã chú ý đến thực hiện theo quy trình, quy phạm, đảm bảo xúc tiến tái sinh tự nhiên. Nhìn chung công tác QLBVR được thống nhất quản lý từ Trung ương đến địa phương. Giai đoạn 1976 - 1989 bảo vệ rừng gắn liền với việc tu bổ, khoanh nuôi, trồng cây gây rừng phát triển tài nguyên rừng. Nội dung hoạt động quản lý bảo vệ rừng là từng bước tham mưu cho Ngành và nhà Nước, gắn chặt công tác quản lý bảo vệ với việc đầu tư nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ vào việc xây dựng hệ thống rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất. Tranh thủ sự giúp đỡ hợp tác quốc tế với nhiều nước trong việc triển khai công tác quản lý bảo vệ rừng [24]. - Thời kỳ từ năm 1991 đến nay. Trong giai đoạn này ngành sản xuất lâm nghiệp nước ta cũng có sự chuyển đổi cơ chế với các nét đặc trưng: Chuyển đổi cơ chế từ nền Lâm nghiệp Nhà nước sang Lâm nghiệp xã hội, gắn với định hướng phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Hệ thống và tính chất quản lý ngành cũng đã có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu quản lý tài nguyên rừng tổng hợp, đa ngành, đa mục tiêu; Hàng loạt các chủ trương, chính sách mới được ban hành, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của ngành Lâm nghiệp nói chung và vấn đề quản lý tài nguyên rừng bền vững nói riêng. Đứng trước thực trạng như vậy, Đảng và Nhà nước đã liên tục ban hành các văn bản pháp quy nhằm phát triển ngành lâm nghiệp theo hướng ổn định bền vững: - Luật Bảo vệ và Phát triển rừng sửa đổi (2004) [28].
  16. 14 - Luật Đất đai sửa đổi năm 2003 bổ sung Luật Đất đai ban hành trước đây (1998, 2001) [29]. - Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp [13]. - Nghị định số 139/2004-NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản [8]. Trong đó quy định mức phạt cụ thể và hình thức xử lý đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. - Nghị định số 48/2002/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung danh mục thực vật, động vật hoang dã quý hiếm ban hành kèm theo Nghị định số 18/HĐBT ngày 17/1/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định danh mục thực vật, động vật rừng quý hiếm và chế độ quản lý, bảo vệ [10]. Trong đó quy định 16 loài thực vật (nhóm IA), 56 loài động vật (nhóm IB) nghiêm cấm khai thác sử dụng và 26 loài thực vật (nhóm IIA), 51 loài động vật (nhóm IIB) hạn chế khai thác sử dụng. - Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11 tháng 01 năm 2001 về việc ban hành quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất là rừng tự nhiên [11]. Trong đó quy định về phân loại, về tổ chức quản lý, về bảo vệ, xây dựng và sử dụng các loại rừng nói trên. Riêng đối với rừng sản xuất quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của chủ rừng, điều kiện đưa rừng vào sản xuất kinh doanh, đối tượng rừng đưa vào khai thác, các thủ tục tiến hành khai thác. Song song với việc ban hành các văn bản pháp quy trên, ngành lâm nghiệp nước ta cũng tham gia nhiều hoạt động hướng tới QLRBV như: - Hưởng ứng phong trào Quốc tế “Rừng vì con người”, tháng 6/1997 Bộ NN&PTNT đã ký cam kết bảo tồn ít nhất 10% diện tích rừng gồm các hệ sinh
  17. 15 thái rừng hiện có và cùng cộng động đồng Quốc tế, Việt Nam sẽ tham gia thị trường lâm sản bằng các sản phẩm được dán nhãn là khai thác hợp pháp trong các khu rừng đã được cấp chứng chỉ trong khối AFTA và WTO [10]. - Ngay sau khi Việt Nam gia nhập khối ASEAN (1995), nhu cầu hợp tác về QLRBV trong khối đã trở thành một trong các nội dung chính trong các cuộc họp thường niên. Qua nhiều cuộc thảo luận nhằm xây dựng hệ thống tiêu chuẩn QLRBV cho ASEAN và đẩy mạnh việc thực hiện QLRBV trong mỗi nước thành viên. Việt Nam nổi lên là nước có nhu cầu cấp thiết phải quản lý rừng bền vững khi nguồn tài nguyên rừng trong nước đã trở nên cạn kiệt. - Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 12/1998 hội thảo Quốc gia về QLRBV do Bộ NN & PTNT, WWF Đông Dương, Đại sứ quán Vương quốc Hà Lan tại Hà Nội và Hội đồng quản trị rừng quốc tế (FSC) đồng tài trợ đã được tổ chức tại thành phó Hồ Chí Minh. Tham gia hội thảo gồm đại diện các cơ quan có liên quan như Văn phòng Chính phủ, các bộ ngành, các cục, vụ, viện, trường, sở, chi cục, công ty, lâm trường, xí nghiệp, đại diện Hội lâm nghiệp, Hội nông dân, Hôi phụ nữ và nhiều nhà khoa học trong các lĩnh vực lâm nghiệp, kinh tế, xã hội, dân tộc miền núi, môi trường. Trong hội thảo có nhiều báo cáo, thảo luận về khái niệm QLRBV, đánh giá hiện trạng về rừng và quản lý sản xuất lâm nghiệp tại Việt Nam. Kết quả hội thảo đã thống nhất thành lập Tổ công tác quốc gia về QLRBV và CCR (NWG) và đề xuất chương trình hoạt động trong 5 năm đầu tiên [5]. - Những năm sau đó, hoạt động xây dựng bộ tiêu chuẩn Việt Nam về quản lý rừng bền vững diễn ra rất sôi nổi. Nhà nước cũng đã cung cấp ngân sách nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho QLRBV ở nước ta như: Vũ Nhâm (2001 – 2004), thực hiện đề tài nghiên cứu “hướng dẫn tổ chức đánh giá rừng theo tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững quốc gia” [27]; Hỗ trợ kinh phí cho 10 lâm trường thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ký cam kết thực hiện phương án QLRBV; Nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động
  18. 16 QLRBV và cấp chứng chỉ rừng ở nước ta, đến tháng 6 năm 2006 Viện quản lý rừng bền vững được thành lập. - Hướng tới mục tiêu thực hiện QLRBV, Viện quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng cùng với các chuyên gia hàng đầu trong và ngoài nước đã nhóm họp nhằm xây dựng Bộ tiêu chuẩn QLRBV cho Việt Nam, đến nay đã hoàn thành phiên bản. Những tiêu chuẩn, tiêu chí này dựa trên cơ sở điều chỉnh, bổ sung những tiêu chuẩn, tiêu chí của FSC quốc tế, có sử dụng nhiều ý kiến đóng góp của các nhà quản lý và các nhà khoa học lâm nghiệp trong nước và quốc tế để đảm bảo những tiêu chuẩn quốc tế vừa phù hợp với điều kiện Việt Nam và được ban giám đốc FSC quốc tế phê duyệt [36]. Do những tiêu chuẩn và tiêu chi áp dụng chung trong toàn quốc, đồng thời phải phù hợp với tiêu chuẩn tiêu chí quốc tế nên việc áp dụng không thể phù hợp với mọi trường hợp và mọi điều kiện của từng địa phương. Vì vậy, khi áp dụng các tiêu chuẩn, tiêu chí cần có sự mềm dẻo trong một phạm vi nhất định nào đó, vừa được các tổ chức chứng chỉ rừng quốc tế FSC và FSC quốc gia chấp nhận. Bộ tiêu chuẩn quốc gia quản lý rừng bền vững nước ta được tóm tắt như sau: 1) Tuân theo pháp luật quốc gia về tiêu chuẩn FSC Việt Nam 2) Quyền và trách nhiệm sử dụng đất 3) Quyền của người dân sở tại 4) Quan hệ cộng đồng và quyền công nhân 5) Những lợi ích từ rừng 6) Tác động môi trường 7) Kế hoạch quản lý 8) Giám sát và đánh giá 9) Duy trì các khu rừng có giá trị bảo tồn cao 10) Rừng trồng
  19. 17 - Bên cạnh những nỗ lực của Chính phủ và Bộ NN&PTNT cũng đã có nhiều tổ chức và dự án quốc tế hỗ trợ quá trình hưóng tới QLRBV ở Việt Nam. Tiêu biểu là Chương trình Hỗ trợ Quản lý và Sử dụng rừng bền vững (GTZ) với các hoạt động: Lập bản đồ và phân vùng chức năng rừng trong môi trường quy hoạch quản lý rừng tự nhiên của các lâm trường quốc doanh (tháng 11 năm 2006) với hoạt động [37]; Tổ chức hội thảo xây dựng kế hoạch và thực hiện quản lý rừng bền vững (tháng 5 năm 2007) [18]; Hướng dẫn xây dựng Phương án quản lý rừng tại các Lâm trường điểm [19]. Mặc dù còn khá mới mẻ song QLRBV và CCR cũng rất được quan tâm. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau:: - Phạm Đức Lân và Lê Huy Cường (1998): Quản lý sử dụng tài nguyên rừng trên lưu vực sông Sê San [23]. - Hồ Viết Sắc (1998): Quản lý bảo vệ rừng khộp ở Easup - Đắc Lắc [31]. - Đỗ Đình Sâm (1998): Du canh với vấn đề QLRBV ở Việt Nam [32]. - Lại Hữu Hoàn (2003): Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững tại xã Hương Lộc, huyện Nam Động, tỉnh Thừa Thiên - Huế [20]. - Lê Văn Hùng (2004): Nghiên cứu cơ sở và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy hoạch quản lý rừng bền vững tại lâm trường Ba Rền - công ty lâm nghiệp Long Đại - tỉnh Quảng Bình [21]. - Nhữ Văn Kỳ (2005): Nghiên cứu một số giải pháp quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững tại khu vực rừng phòng hộ hồ Cấm Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang [22]. Những nghiên cứu trên có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần hướng tới QLRBV của các địa phương nói riêng, của các quốc gia nói chung và thể hiện được sự cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong vấn đề QLRBV. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những nghiên cứu mang tính chất về cơ sở lý luận chưa phân tích được các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý sử dụng
  20. 18 tài nguyên rừng bền vững và bước đầu đưa các nghiên cứu áp dụng vào một số địa phương. Mặc dù tổ chức FSC Việt Nam vẫn chưa thống nhất tiêu chuẩn, tiêu chí cho QLRBV ở Việt Nam, nhưng hiện nay tổ chức này đã đưa ra được dự thảo 10 tiêu chuẩn QLRBV và mới đây nhất là dự thảo 9c. Dự thảo này đã tương đối hoàn chỉnh và tương đối phù hợp với điều kiện Việt Nam. Nói đến QLRBV chúng ta nên nói đến quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững theo 10 tiêu chuẩn quản lý rừng của FSC. Thế nhưng, đến nay vẫn chưa có nghiên cứu cụ thể nào để áp dụng 10 tiêu chuẩn này vào kinh doanh rừng bền vững ở Việt Nam. Vì vậy, đề tài này sẽ nghiên cứu quy hoạch kinh doanh rừng theo tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững cho Lâm trường Yên Sơn, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang với hy vọng áp dụng lồng ghép các tiêu chuẩn QLRBV vào các hoạt động kinh doanh rừng của Lâm trường Yên Sơn góp phần quản lý rừng bền vững.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
30=>0