Luận văn Thạc sĩ Khoa học lịch sử: Chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines từ năm 1898 đến năm 1946
lượt xem 4
download
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là: Làm rõ chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines và những tác động của việc thực hiện chính sách này đối với các chủ thể có liên quan từ năm 1898 đến năm 1946. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lịch sử: Chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines từ năm 1898 đến năm 1946
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN –––––––––––––––––––––––––––––– NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THẢO CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA MỸ Ở PHILIPPINES TỪ NĂM 1898 ĐẾN NĂM 1946 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ HÀ NỘI – 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THẢO CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA MỸ Ở PHILIPPINES TỪ NĂM 1898 ĐẾN NĂM 1946 Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới Mã số : 60 22 03 11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Chủ tịch Hội đồng PGS.TS TRẦN THIỆN THANH GS.TS. NGUYỄN VĂN KIM HÀ NỘI – 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Trần Thiện Thanh. Các tài liệu, số liệu trích dẫn trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Phƣơng Thảo
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: .................................................................................2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................5 4. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn ....................................................................6 5. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu ......................................................6 6. Nguồn tài liệu......................................................................................................6 7. Ý nghĩa khoa học của luận văn ...........................................................................7 8. Đóng góp của luận văn .......................................................................................7 9. Bố cục của luận văn ............................................................................................7 Chương 1: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA MỸ Ở PHILIPPINES THỜI KỲ 1898 - 1946 ...............................................9 1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực..............................................................................9 1.1.1. Bối cảnh quốc tế ...........................................................................................9 1.1.2. Bối cảnh khu vực.........................................................................................12 1.2. Tình hình nƣớc Mỹ ..........................................................................................14 1.3. Tình hình Philippines và chính sách cai trị của Mỹ ở Philippines ..............18 1.3.1. Tình hình Philippines trước khi Mỹ xâm nhập ...........................................18 1.3.2. Sự xâm nhập và chính sách cai trị của Mỹ ở Philippines ..........................21 Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................................29 Chương 2: KINH TẾ PHILIPPINES DƢỚI SỰ CAI TRỊ CỦA MỸ TỪ NĂM 1898 ĐẾN NĂM 1946 ...................................................................................30 2.1. Chính sách nông nghiệp...................................................................................30 2.1.1. Chính sách ruộng đất ..................................................................................31 2.1.2. Chính sách nông nghiệp thương phẩm .......................................................37 2.2. Chính sách công nghiệp ...................................................................................40 2.3. Chính sách thủ công nghiệp ...........................................................................44 2.4. Chính sách thƣơng mại ....................................................................................46
- 2.5. Chính sách đầu tƣ ............................................................................................50 Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................................53 Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA MỸ Ở PHILIPPINES THỜI KỲ 1898 - 1946.............................................................................. 54 3.1. Đặc điểm của chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines ...............................54 3.2. Tác động đối với Philippines và Mỹ ...............................................................56 3.2.1. Tác động đối với Philippines ......................................................................56 3.2.2.Tác động đối với Mỹ ....................................................................................61 3.2.3. Tác động đối với quan hệ Mỹ - Philippines ................................................65 3.3. So sánh chế độ cai trị của Mỹ với Tây Ban Nha và các nước thực dân khác ..................................................................................................................67 Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................................71 KẾT LUẬN ..............................................................................................................72 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................74 PHỤ LỤC
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Philippines một quốc gia hải đảo với 7.107 hòn đảo lớn nhỏ, gồm ba vùng địa lý: Luzon, Visayas và Mindanao. Nằm ở phía Đông Nam của Châu Á, Philippines có vị trí thuận lợi nằm ở ngã ba đường, nơi tiếp giáp giữa châu Á và châu Úc, án ngữ con đường thương mại biển. Do vậy, từ lâu Philippines đã trở thành mục tiêu xâm nhập của các nước tư bản phương Tây. Trước khi chịu sự thống trị của thực dân phương Tây, Philippines còn ở giai đoạn kinh tế - xã hội lạc hậu, với nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, chưa có một chính quyền trung ương thống nhất nên hầu như không có khả năng chống cự lại sự xâm lược từ bên ngoài. Vì những lí do đó mà 400 năm Philippines bị ngoại bang đô hộ, lúc đầu là Tây Ban Nha, tiếp đó là Mỹ, và trong chiến tranh thế giới thứ hai thì bị Nhật chiếm đóng. Đến nửa cuối thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản phát triển lên đến đỉnh cao là chủ nghĩa đế quốc, bên cạnh những thành tựu rực rỡ, sự phát triển không đều về kinh tế dẫn đến mâu thuẫn không thể điều hòa được giữa các nước tư bản về địa vị phát triển kinh tế và nhu cầu thị trường, thuộc địa. Mỹ là một ―tư bản trẻ‖, có nền kinh tế phát triển vươn lên đứng đầu thế giới tư bản. Trong bối cảnh thị trường trên thế giới hầu như đã được các nước ―tư bản già‖ phân chia xong, để giải quyết nhu cầu thuộc địa, thị trường, Mỹ đã áp dụng quan điểm ―thực lực‖ nhằm chia lại thị trường thế giới. Năm 1898, vịnh Manila là nơi diễn ra trận chiến trong cuộc chiến tranh đế quốc đầu tiên, cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Tây Ban Nha ở mặt trận châu Á - Thái Bình Dương. Sau thất bại của Tây Ban Nha, Philippines trở thành ―thuộc địa kiểu mới” đầu tiên của Mỹ tại Đông Nam Á. Đây là lần đầu tiên Mỹ thực hiện ―chủ nghĩa thực dân mới” ở một quốc gia ngoài châu Mỹ. Cho dù phương thức cai trị của Mỹ ở Philippines thuộc địa có nhiều điểm khác so với các nước thực dân khác nhưng mục đích thì giống nhau, cuối cùng vẫn là bóc lột, tìm lợi nhuận về kinh tế. Kinh tế Philippines chịu ảnh hưởng hoàn toàn vào Mỹ, phát triển thiếu cân đối. Song, không thể phủ nhận là sự thống trị của Mỹ ở Philippines đã ảnh hưởng mạnh 1
- mẽ và lâu dài đến định hướng, con đường phát triển cũng như tạo cơ sở để Philippines hội nhập với thế giới. Với mục đích tìm câu trả lời cho các câu hỏi: Một là, Mỹ đã thực hiện chính sách kinh tế như thế nào ở Philippines giai đoạn từ 1898 – 1946? Hai là, việc thực hiện các chính sách đó có đặc điểm gì và có tác động như thế nào đối với bản thân hai nước Mỹ và Philippines? Ba là, những chính sách đó có điểm tương đồng và khác biệt ra sao đối với chính sách của Tây Ban Nha trước đó cũng như đối với chính sách của một số nước thực dân khác? Cùng với sự yêu thích của bản thân, tôi quyết định chọn vấn đề: “Chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines từ năm 1898 đến năm 1946” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp cao học của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: Trong phạm vi những công trình nghiên cứu tôi có cơ hội tiếp cận, tôi xin nêu một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu sau: Tài liệu nghiên cứu tiếng Việt Tác giả A.A.Gube với tác phẩm ― Nước cộng hòa Philippines năm 1898 và đế quốc Mỹ‖ (1933), với nguồn tài liệu phong phú, tin cậy, tác giả đã nêu bật những toan tính của Mỹ đối với cuộc cách mạng Philippines. Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu phân tích chính sách cai trị của Mỹ ở quần đảo này. Nghiên cứu về Philippines thời kỳ này còn phải kể đến G.I.Lêvinsơn với tác phẩm ―Philippines giữa hai cuộc chiến tranh thế giới”, (1958). Tác phẩm viết về những phương pháp bóc lột của tư bản Mỹ, qua đó, cho người đọc thấy được âm mưu của đế quốc Mỹ ở thuộc địa. Tuy nhiên, về phần kinh tế thì chưa được tác giả đề cập nhiều. Cuốn ―Philippines dưới ách thống trị của đô la Mỹ‖ (1961) của E.S.Tơrôtski, nêu bật chính sách của Mỹ và những thay đổi kinh tế của Philippines kể từ khi Mỹ cai trị Philippines. Với những số liệu đa dạng, chính xác, đáng tin cậy, tác giả đã đem đến cho người đọc một cái nhìn tổng quát, xuyên suốt trong thời kỳ lịch sử từ đầu thế kỷ XX cho đến những năm 1950. Tác phẩm ―Nền nông nghiệp Philippines” (1975) của tác giả Ô.G.Barưshicôva 2
- nói về nền nông nghiệp Philippines dưới thời thống trị của thực dân Tây Ban Nha để từ đó người đọc có sự so sánh với chính sách cai trị của Mỹ sau này. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ tập trung đi sâu vào thành phần kinh tế nông nghiệp thời kỳ Philippines là thuộc địa của Tây Ban Nha chứ không phải toàn bộ nền kinh tế nên chưa phân tích được những thay đổi của toàn bộ nền kinh tế Philippines thời thuộc Mỹ một cách toàn diện và sâu sắc. D.E.G.Hall với công trình ―Lịch sử Đông Nam Á” bản dịch sang tiếng Việt được NXB CTQG ấn hành vào năm 1997, đã giúp cho người đọc có cái nhìn bao quát về Đông Nam Á từ thời cổ đại đến thời hiện đại. Về lịch sử Philippines thời cận đại, tác giả nêu một cách khái quát quá trình từ xâm nhập đến xâm lược của Mỹ vào quần đảo này với những chính sách cai trị rất tự do, hoàn toàn trái ngược với Tây Ban Nha trước đó. Đây là một công trình nghiên cứu tổng thể về Đông Nam Á nên chính sách về kinh tế của Mỹ ở Philippines chưa được đề cập đến một cách sâu sắc. Những nghiên cứu của Viện nghiên cứu Đông Nam Á (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) cũng góp phần quan trọng vào việc tìm hiểu lịch sử, văn hoá của các nước Đông Nam Á nói chung và lịch sử của từng quốc gia nói riêng. Bộ sách “ Tìm hiểu lịch sử - văn hóa Philippines” xuất bản tập I năm 1996 và tập II năm 2001. Tác phẩm không chỉ đề cập đến đất nước, con người, phong tục, tập quán, ngôn ngữ, văn học, tôn giáo mà còn trình bày về lịch sử, kinh tế Philippines. Trong đó có việc thành lập chính phủ Cộng hòa Philippines với vấn đề cụ thể như ―Cộng hòa Philippines: Lịch sử lập hiến và cơ quan lập pháp‖, những chính sách đối ngoại của chính phủ Cộng hòa…Song, đây là tác phẩm của nhiều tác giả nên tính hệ thống chưa được thể hiện rõ nét. Ngoài ra, vấn đề này còn được đề cập sơ lược trong các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước: Flield (1963), ―Đông Nam Á trong chính sách của Hoa Kỳ‖; G.Ruđencô (1963), ―Chủ nghĩa thực dân cũ và mới‖; Nguyễn Tấn Chấn (1973), ―Âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ đối với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở philippines năm 1898‖; Minh Đức (1999), ―Cuộc cách mạng 3
- Philippines (1896 – 1898), ý nghĩa và bài học‖; Cao Minh Chơng (1990), ―Cộng hòa Philippin‖, (1995), Cuộc chiến tranh Philippines – Mỹ (1899 – 1903), Nghiên cứu Đông Nam Á số 3/1998, ―Một số nét về Philippines”, (2007), ―Lịch sử Philippines‖; Quang Thị Ngọc Huyền (2004), Quan hệ Mỹ - Philippines; Viện nghiên cứu Đông Nam Á, ―25 năm nghiên cứu các nước Đông Nam Á‖; Trần Khánh (2011), ―So sánh chế độ cai trị của Mỹ và Tây Ban Nha ở Philippines dưới thời thuộc địa”; Trần Thiện Thanh (2011), Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Philippines; Dương Quang Hiệp, Vị trí chiến lược của Philippines trong chính sách đối ngoại của Mỹ giai đoạn 1898 – 1991, Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 10/2014. Tuy nhiên, về kinh tế của Philippines thời kỳ thuộc địa của Mỹ không được đề cập nhiều, nếu có thì cũng hết sức khái lược, các chính sách cai trị về kinh tế chưa được phân tích một cách hệ thống, đặc biệt là dưới góc độ so sánh với chính sách kinh tế của Tây Ban Nha ở Philippines và một số nước thực dân khác. Tài liệu nghiên cứu tiếng nước ngoài Những nghiên cứu nước ngoài có thể kể đến các tác phẩm như: Theodore Frech (1965), Between two Empire, The Ordeal of the Philippines 1929 – 1946; Golay, Frank (1966), The United States and the Philippines 1929 – 1946; Salamanca (1968), The Filipino Reaction to American Rule; Teodoro A.Agoncilino (1970), History of the Filipino people; Valdepenas Viecente B.Bautista Geemloon (1977), The Emmergence of the Philippines Economy; Glenn Anthony May (1980), Social Engineering in the Philippines; Timber David,G.Changeless Land (1991),Community and change in Philippines politics; William (1992), The Philippines: Colonialism, Collaboration and Resistance; Hotl, Elizabeth Kary (2002), Coloniziny Filipinas Niniteenth – Century Representations of the Philippines in the Western Historiography; Yoshihiro Chiba (2005), Cigar – Maker in American Colonial: Survial During Structural Depressions in the 1920s; Pomeroy; Katheleen Nadeau (2008), The history of the Philippines... Các tác phẩm trên có đề cập đến kinh tế Phipippines thời thuộc địa, các thành phần kinh tế của Philippines thuộc địa, sự thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với thuộc địa 4
- Philippines. Nhưng hầu hết các tác phẩm trên đều đề cập sơ lược hoặc đi sâu phân tích một thành phần kinh tế nhất định chưa làm nổi bật được chính sách kinh tế của Mỹ đối với Philippines nói chung trong toàn bộ nền kinh tế của Philippines. Tựu chung lại, trong phạm vi những công trình nghiên cứu tôi tiếp cận được về lịch sử Philippines giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, hầu hết đều tập trung nghiên cứu về chính sách thống trị của Mỹ nói chung và văn hoá của Philippines ở thế kỷ này chứ chưa có nhiều nghiên cứu mang tính chuyên khảo về vấn đề kinh tế Philippines, đặc biệt là nghiên cứu so sánh với chính sách kinh tế của Tây Ban Nha ở Philippines trước đó và một số nước thực dân khác. Tuy nhiên, đây là nguồn tài liệu tham khảo quý giá để tôi hoàn thành bản luận văn này. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Luận văn tập trung nghiên cứu về chính sách kinh tế của Mỹ đối với Philippines từ năm 1898 đến năm 1946. - Luận văn tập trung vào các vấn đề sau: + Những yếu tố tác động đến chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines; + Những nội dung cụ thể trong chính sách cai trị về kinh tế của Mỹ ở Philippines thời kỳ 1898 đến 1946; + Những tác động của chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines đối với nền kinh tế của hai nước. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: nghiên cứu về những sự kiện diễn ra trên quần đảo Philippines là chủ yếu, nhưng không tách biệt mà gắn với bối cảnh quốc tế và khu vực tại Đông Nam Á, Châu Á Thái Bình Dương và Châu Mỹ. - Về thời gian: mở đầu bằng sự thất bại của thực dân Tây Ban Nha, Mỹ thế chân Tây Ban Nha thực hiện chính sách thực dân kiểu mới ở Philippines. Và kết thúc bằng sự kiện Mỹ trao trả độc lập cho Philippines vào năm 1946. - Về nội dung nghiên cứu: luận văn phân tích chính sách cai trị về kinh tế của Mỹ ở Philippines để từ đó thấy được những thay đổi trong nền kinh tế Philippines 5
- và tác động của việc thực hiện chính sách này đối với Mỹ, Philippines và một số chủ thể khác có liên quan. 4. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn 4.1. Mục tiêu - Làm rõ chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines và những tác động của việc thực hiện chính sách này đối với các chủ thể có liên quan từ năm 1898 đến năm 1946. 4.2. Nhiệm vụ - Làm nổi bật những yếu tố tác động đến chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines từ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX. - Đi sâu phân tích chính sách về kinh tế Mỹ thực hiện ở Philippines giai đoạn 1898 – 1946. - Phân tích, đánh giá những tác động của chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines. So sánh với chính sách cai trị của một số nước thực dân khác, đặc biệt là Tây Ban Nha. 5. Hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Hướng tiếp cận Luận văn giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu trên cơ sở hướng tiếp cận lịch sử và logic. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Luận văn chủ yếu sử dụng hai phương pháp chính là phương pháp lịch sử và phương pháp logic nhằm khôi phục lại lịch sử một cách rõ nét nhất. - Bên cạnh đó luận văn cũng áp dụng một số phương pháp khác như: phân tích, so sánh, thống kê, phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế…nhằm đạt hiệu quả tối ưu nhất. 6. Nguồn tài liệu Để hoàn thành luận văn tác giả đã sử dụng các nguồn tài liệu sau: - Tư liệu gốc: Các văn bản, các điều luật của Mỹ ban hành ở Philippines trong thời kỳ 1898 – 1946. - Tư liệu nghiên cứu: Các sách đã xuất bản, các bài tạp chí nghiên cứu có liên quan đến đề tài. 6
- - Tư liệu khác: Một số website trên mạng internet như: https://www.whitehouse.gov/, www.statistic, http://www.nationsonline.org, https://www.fas.org, ... 7. Ý nghĩa khoa học của luận văn Đây không phải vấn đề nghiên cứu hoàn toàn mới ở Việt Nam, nhưng nghiên cứu này góp phần làm rõ thêm về những chính sách cai trị của Mỹ ở Philippines thời thuộc địa, đặc biệt đi sâu vào nội dung chính sách về kinh tế, những hệ quả và ảnh hưởng đến giai đoạn sau này khi Philippines giành được độc lập và xây dựng phát triển đất nước. Bên cạnh đó, góp phần lý giải mối ―quan hệ đặc biệt‖ giữa hai nước về mọi mặt sau khi Philippines được trao trả độc lập. 8. Đóng góp của luận văn - Luận văn cung cấp tư liệu cho việc nghiên cứu và học tập lịch sử Philippines, về chủ nghĩa thực dân thời cận, hiện đại. 9. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, bố cục của đề tài gồm ba chương như sau: Chương 1: Các yếu tố tác động đến chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines thời kỳ 1898 – 1946 Sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản khiến nhu cầu tìm kiếm thị trường thuộc địa trở nên bức thiết. Sự phát triển của nền kinh tế Mỹ cùng với vị trí chiến lược của Philippines thôi thúc Mỹ giành quyền kiểm soát Philippines từ Tây Ban Nha. Bối cảnh quốc tế và khu vực đem lại những thời cơ và thách thức buộc Mỹ phải điều chỉnh chính sách đối với thuộc địa cho phù hợp với hoàn cảnh. Chƣơng 2: Kinh tế Philippines dƣới sự cai trị của Mỹ từ năm 1898 đến năm 1946 Chương này đề cập đến những nội dung cơ bản trong chính sách kinh tế của Mỹ đối với Philippines và hệ quả của việc thực hiện chính sách đó đối với Philippines. Đó là sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế, sự du nhập mạnh mẽ quan hệ sản xuất mới tư bản chủ nghĩa, sự xuất hiện và phát triển của các giai tầng mới trong xã hội… 7
- Chƣơng 3: Một số nhận xét về chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines thời kỳ 1898 - 1946 Từ việc phân tích chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines giai đoạn 1898 – 1946, chương này rút ra một số nhận xét về đặc điểm và tác động của chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines. Cùng với đó, có sự so sánh với chính sách của Tây Ban Nha trước đó ở Philippines và chính sách của một số nước thực dân khác cùng thời, để thấy được điểm giống và khác giữa chủ nghĩa thực dân cũ và mới. 8
- Chương 1 CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA MỸ Ở PHILIPPINES THỜI KỲ 1898 - 1946 1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực 1.1.1. Bối cảnh quốc tế Thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì các nước thực dân đã có mặt ở khắp các khu vực và việc phân chia ảnh hưởng về cơ bản đã hoàn thành. Theo đó, thực dân Anh đứng đầu thế giới tư bản về hệ thống thuộc địa, thuộc địa của Anh trải dài khắp các châu lục trên thế giới. Ở châu Á, Anh chiếm được Ấn Độ - một vùng đất rộng lớn, giàu có, chiếm Miến Điện, Mã Lai, can thiệp vào Trung Quốc, chia Afghanistan, Iran với Nga. Ở châu Phi, Anh chiếm Nam Phi, Nigeria, Ai Cập, Sudan…Sau Anh là Pháp, với việc chiếm được các vùng đất giàu có và rộng lớn, ở châu Á, Pháp chiếm được ba nước Đông Dương, can thiệp vào Trung Quốc. Ở châu Phi, Pháp cũng chiếm được Angieri, Maroc, Tuynidi, Ghine… Có thể nói, cho đến thời điểm này các quốc gia ở châu Á, châu Phi và Mỹ La tinh về cơ bản đã trở thành thuộc địa của Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hà Lan, thế giới không còn một vùng ―đất trống‖. Trong bối cảnh đó, nhu cầu tìm kiếm thuộc địa và thị trường lại càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Các nước tư bản trẻ như Mỹ, Đức, Nhật Bản ra đời muộn hơn nhưng có nền kinh tế phát triển vượt bậc, còn các nước thực dân như Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha…từng một thời phát triển rực rỡ về mọi mặt thì ngày càng phát triển chậm chạp, trở nên lạc hậu, lỗi thời. Vị trí số một và hai trong thế giới tư bản không còn là Anh, Pháp mà được thay thế bằng Mỹ và Đức. Một thực tế rằng, những nước thực dân ―già‖ lại nắm giữ quá nhiều thị trường, thuộc địa còn các nước đế quốc mới nổi có nền kinh tế, chính trị, quân sự phát triển mạnh mẽ thì không có hoặc có quá ít thuộc địa. Điều đó khiến những nước này quyết tâm phân chia lại thị trường thế giới cho phù hợp với tương quan lực lượng mới trong thế giới tư bản. Những cuộc chiến tranh đế quốc đầu tiên bắt đầu nổ ra, tiêu biểu là chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha năm 1898. Và sau đó là hàng loạt các cuộc chiến tranh 9
- khác như: Chiến tranh Anh – Boer (1899 – 1902), Anh chiếm Nam Phi; chiến tranh Nga – Nhật (1904 – 1905) giành ảnh hưởng ở Triều Tiên và Mãn Châu… Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra năm 1914, với thắng lợi thuộc về phe Hiệp ước. Trật tự thế giới mới được hình thành – Trật tự Versailles – Washington, việc phân chia ảnh hưởng và thị trường, thuộc địa có lợi cho các nước thắng trận. Các nước bại trận phải bồi thường chiến phí hết sức nặng nề, phải cắt phần thuộc địa của mình cho các nước thắng trận. Điều này làm gia tăng mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản. Giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, chủ nghĩa tư bản phát triển vượt bậc cùng với đó là những mâu thuẫn không thể dung hòa trong nội bộ các nước tư bản. Sự phát triển không đều và khủng hoảng là những căn bệnh kinh niên của chủ nghĩa tư bản. Khủng hoảng thừa 1929 – 1933 bùng nổ ở Mỹ sau đó lan ra toàn bộ hệ thống tư bản đã chấm dứt thời kỳ ổn định tạm thời của chủ nghĩa tư bản. Những hậu quả nặng nề về mọi mặt từ cuộc khủng hoảng khiến cho những mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản ngày càng gay gắt. Để giải quyết hậu quả của cuộc khủng hoảng thừa, trên thế giới xuất hiện hai con đường: cải cách kinh tế, xã hội đối với các nước có nhiều thị trường thuộc địa tiêu biểu như Anh, Pháp, Mỹ. Phát xít hóa bộ máy chính quyền là cách mà các nước không có hoặc có quá ít thị trường thuộc địa chọn. Tiêu biểu cho con đường thứ hai là Đức, Ý, Nhật, các nước này luôn tìm cách phá vỡ trật tự Versailles – Washington nhằm thiết lập một trật tự thế giới mới có lợi cho mình. Có thể nói “Quan hệ giữa các cường quốc tư bản trong thập niên 30 của thế kỷ XX chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành hai khối đế quốc đối lập nhau giữa một bên là Anh, Pháp, Mỹ với một bên là Đức, Italia, Nhật Bản và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã phá vỡ hệ thống thỏa hiệp tạm thời Versailles – Washington , dẫn đến sự hình thành các lò lửa chiến tranh báo hiệu một cuộc chiến tranh thế giới mới nhằm chia lại thị trường thế giới đang đến gần” [ 59; tr.32]. Cuối những năm 30 của thế kỷ XX, thế giới hình thành hai trục đối lập nhau, một do phe phát xít Đức, Ý, Nhật cầm đầu, một phe tư bản dân chủ do Anh, Pháp, Mỹ cầm đầu. Hai phe này mâu thuẫn với nhau về thị trường thuộc địa và cùng mâu 10
- thuẫn với Liên Xô xã hội chủ nghĩa. Quan hệ quốc tế vô cùng căng thẳng, nguy cơ chiến tranh là không thể tránh khỏi. Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945) là kết cục của những mẫu thuẫn không thể dung hòa được của chủ nghĩa tư bản. Kết thúc chiến tranh, thắng lợi thuộc về phe Đồng Minh dân chủ và các lực lượng tiến bộ chống phát xít. Một trật tự thế giới mới được hình thành thay thế cho trât tự Versailles – Washington đó là Trật tự hai cực Yalta. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thế giới phân chia thành hai cực, một bên là các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu, một bên là các nước tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu, cuộc Chiến tranh Lạnh được phát động. Cùng với đó, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa bùng lên mạnh mẽ, đe dọa đến sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân. Tất cả các sự kiện trên tác động mạnh mẽ đến các nước ở khu vực Đông Nam Á. Để duy trì sự ảnh hưởng, chính sách cai trị của chủ nghĩa thực dân ở khu vực này cũng có những thay đổi cho phù hợp với quan hệ quốc tế. Bối cảnh thế giới đã tác động đến tham vọng bành trướng ra bên ngoài của giai cấp tư sản Mỹ. Ngay từ đầu thế kỷ XIX, giới cầm quyền Mỹ đã bắt tay vào công cuộc hoạch định chính sách thuộc địa. Mở đầu bằng việc mua lại vùng đất Louisiana năm 1803, tiếp đến chiếm vùng Florida thuộc Tây Ban Nha vào năm 1819. Những năm 1846 – 1848, Mỹ gây chiến tranh với Mexico mà kết quả là Mỹ sở hữu một vùng đất rộng lớn sau này là các bang Texas, California, Nevada, Arizona, Iowa. Năm 1867, mua vùng Alasca của Nga. Năm 1892, chia đảo Samoa với Đức. Năm 1898, thôn tính quần đảo Hawaii. Để mở đường sang châu Á, Philippines trở thành mục tiêu hàng đầu của Mỹ. Việc giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha năm 1898, giúp Mỹ có được Phililippines. Với Mỹ, tầm quan trọng của thuộc địa Philippines ngoài vị trí chiến lược thì việc khai thác nguồn lợi về kinh tế cũng là mục tiêu quan trọng. Chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines luôn thay đổi theo từng thời kỳ và chịu tác động của bối cảnh quốc tế. Việc sử dụng hình thức cai trị ―thực dân mới‖ để cai trị thuộc địa Philippines thể hiện tính linh hoạt của Mỹ trước những biến đổi 11
- của tình hình thế giới. Mỹ duy trì sự bóc lột ở Philippines về tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân công giá rẻ, biến Philippines thành nơi đầu tư và tiêu thụ nguồn hàng dư thừa từ nền công nghiệp Mỹ, khiến kinh tế Philippines hòa nhập vào hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, chính sách kinh tế của Mỹ ở Philippines theo hướng ưu tiên trồng các loại cây công nghiệp phục vụ chiến tranh như đay và gai dầu…tư bản Mỹ cũng tăng cường đâu tư xây dựng các nhà máy sơ chế các mặt hàng phục vụ xuất khẩu. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933, Philippines cũng giống như hầu hết các nước thuộc địa, phụ thuộc khác, trở thành nơi trút gánh nặng của tư bản Mỹ. Chính sách cai trị của Mỹ đối với Philippines tập trung vào việc tăng cường bóc lột tô thuế, giảm lương công nhân và kéo dài thời gian làm việc của họ để giảm bớt gánh nặng khủng hoảng. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ một mặt trao trả độc lập cho Philippines vào năm 1946, một mặt biến Philippines trở thành ―đồng minh truyền thống‖ – mối quan hệ đặc biệt kéo dài trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh đến nay. Mỹ tăng cường đầu tư về kinh tế xây dựng các căn cứ quân sự lớn ở Philippines, Philippines là nơi cung cấp nhu yếu phẩm, lực lượng lính đánh thuê cho Mỹ trong các trận đánh lớn. Điều này đươc thể hiện rõ nét trong cuộc chiến tranh Triều Tiên (1953), và chiến tranh Việt Nam (1954 – 1975). 1.1.2. Bối cảnh khu vực Cho đến cuối thế kỷ XIX, hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á đã bị biến thành thuộc địa, phụ thuộc của chủ nghĩa thực dân phương Tây (trừ Siem vẫn giữ được nền độc lập trên danh nghĩa). Số phận của các nước này đã thay đổi, từ những quốc gia phong kiến độc lập trở thành các nước thuộc địa, phụ thuộc tư bản phương Tây. Bồ Đào Nha là nước thực dân đầu tiên đến khu vực Đông Nam Á, việc chiếm Malacca năm 1511 mở đầu cho công cuộc xâm lược của chủ nghĩa thực dân vào khu vực này. Tiếp đến là Hà Lan chiếm Indonesia, Tây Ban Nha chiếm Philippines, Pháp chiếm ba nước Đông Dương, Miến Điện và Mã Lai cũng chịu chung số phận thuộc địa. 12
- Có thể nói, khu vực Đông Nam Á thu hút sự chú ý của chủ nghĩa thực dân nhất. Bởi, nơi đây có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, dân số đông đúc, và một điểm quan trọng là vị trí thuận lợi của khu vực này có thể làm bàn đạp tấn công sang thị trường Trung Hoa rộng lớn. Sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản dẫn đến mâu thuẫn giữa các nước tư bản mới nổi có nền kinh tế phát triển năng động nhưng có quá ít hoặc không có thị trường thuộc địa với các nước thực dân ―già‖ kinh tế trì trệ, lạc hậu nhưng lại nắm giữ quá nhiều thuộc địa. Các nước thực dân ―già‖ không còn đủ sức để duy trì sự thống trị thuộc địa như trước nữa, đành phải ―nhượng lại‖ cho các nước thực dân mới có năng lực hơn. Điển hình là trường hợp của Tây Ban Nha ―nhượng‖ cho Mỹ quần đảo Philippines với giá 20 triệu đô la (USD). Sự xâm nhập và cai trị của chủ nghĩa thực dân ở Đông Nam Á, về mặt khách quan đã tạo nên những thay đổi lớn về kinh tế xã hội của khu vực này. Sự du nhập của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cùng với sự xuất hiện của các giai tầng mới ngày càng trưởng thành về ý thức hệ, đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử quan trọng là thức tỉnh và lãnh đạo dân tộc giành lại độc lập tự do. Phong trào giải phóng dân tộc của tầng lớp trí thức tiểu tư sản bùng nổ mạnh mẽ nhưng thất bại. Trong lúc con đường giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa đang khủng hoảng về đường lối lãnh đạo thì Cách mạng tháng Mười dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản đã thành công ở Nga ( tháng 10/1917) mở ra con đường cứu nước mới cho các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc. Thắng lợi của cuộc cách mạng ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc tại các nước thuộc địa ở Đông Nam Á. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), các nước thắng trận cũng như bại trận đều trút gánh nặng lên thuộc địa, làm cho mâu thuẫn dân tộc càng thêm gay gắt. Phong trào đấu tranh của nhân dân thuộc địa chống thực dân, đế quốc diễn ra trên quy mô rộng lớn. Từ sau cách mạng Tháng Mười ở Nga thành công phong trào đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa, phụ thuộc bùng nổ mạnh mẽ khiến các nước đế quốc không thể cai trị thuộc địa như cũ được nữa. Mỹ buộc phải nới lỏng sự kiểm soát và 13
- áp dụng quyền tự trị rộng rãi hơn cho Philippines. Cho phép thành lập Liên bang Philippines. Năm 1935, Hiến pháp Philippines tự trị được Tổng thống Mỹ phê chuẩn, Philippines có được địa vị Thịnh vượng chung dưới thời Tổng thống Manuel Quezon. Các chính sách về kinh tế thời kỳ này có phần bớt khắt khe hơn. Chính phủ tự trị tiến hành cải cách đất đai và chuẩn bị các kế hoạch để tiến tới độc lập, nhưng sau đó bị gián đoạn bởi Chiến tranh thế giới thứ hai. Thời điểm gần kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai là thời cơ để các nước thuộc địa đứng dậy đấu tranh đòi lại độc lập. Cách mạng giải phóng dân tộc thành công ở một số nước, tiêu biểu là Cách mạng tháng Tám (tháng 8/1945) ở Việt Nam và sau đó lan rộng ra toàn bộ khu vực Đông Nam Á. Tình hình đó đe dọa đến sự tồn vong của hệ thống thuộc địa của thực dân phương Tây tại khu vực này. Điều này đòi hỏi các nước thực dân phải đưa ra các chính sách cai trị phù hợp để tiếp tục duy trì ảnh hưởng của mình tại thuộc địa. Trước cơn bão đấu tranh giành độc lập của các nước trong khu vực, ngày 4/7/1946, Mỹ chính thức công nhận nền độc lập của Philippines trong nhiệm kỳ Tổng thống Manuel Roxas. 1.2. Tình hình nƣớc Mỹ Thế kỷ XIX, nền kinh tế Mỹ phát triển mạnh mẽ ―là nước đi đầu trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cuối thế kỷ XIX, nền kinh tế Mỹ có những bước phát triển vượt bậc, nhanh chóng vượt qua nước Anh tư sản” [7; tr.96]. Không có nước nào có nền kinh tế phát triển nhanh chóng như Mỹ ―Khoảng 30 năm sau cuộc nội chiến (1861 – 1865), từ một nước nông nghiệp có nền kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào châu Âu, chỉ trong một thời gian ngắn, Mỹ đã vươn lên trở thành một cường quốc công – nông nghiệp hàng đầu thế giới. Sản lượng công nghiệp Mỹ năm 1894 bằng 50% sản lượng công nghiệp các nước Tây Âu gộp lại, gấp hai lần Anh. Cuối thế kỷ XIX, sản xuất gang thép, máy móc của Mỹ đã chiếm hàng đầu thế giới‖ [35; tr.256]. Mỹ vươn lên vị trí đứng đầu trong thế giới tư bản.Với những thành tựu vượt bậc về kinh tế, giai cấp tư sản Mỹ đặt mục tiêu mở rộng ảnh hưởng ra bên ngoài để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng. Để giải quyết nhu cầu đó, giới cầm quyền Mỹ đã sớm đưa ra những quan 14
- điểm mới về vấn đề mở rộng, bành trướng lãnh thổ ―Mỹ ngay từ những thập niên cuối của thế kỷ XIX đã đưa ra thuyết “định mệnh lịch sử” hay “số mệnh hiển nhiên”, trong đó cho rằng, người Mỹ phải chiếm lấy các vùng đất châu Á cả biển và đất liền nếu như muốn tồn tại lâu dài và tiếp tục phát triển. Muốn thực hiện được điều đó, Mỹ phải có lực lượng hải quân mạnh. Đây thực ra là sự nối dài của học thuyết Monroe 1 đưa ra từ 1823‖ [54; tr.47]. Nội dung học thuyết này cũng được thể hiện trong quan điểm của giới chính trị, quân sự, một số thương gia và một bộ phận công chức Mỹ những giai đoạn sau đó. Thượng nghị sĩ Platt cho rằng ―Bất cứ sự bành trướng nào của chúng tôi về mặt lãnh thổ đều hoàn toàn phù hợp với những quy luật phát triển là những quy luật không thể khắc phục được‖ [37; tr.14]. Từ vị thế hiện tại của Anh, Đô đốc hải quân Mahan cho rằng sức mạnh hải quân chính là vấn đề mấu chốt đối với Mỹ. Mahan viết bài đăng trên các tạp chí kêu gọi nước Mỹ chú ý tới các đặc điểm chiến lược của vùng biển Caribean. Mahan cũng xếp Cuba, Eo Panama và Hawaii là một hệ thống và cho rằng hệ thống đó có ý nghĩa sống còn đối với nền an ninh Mỹ [62; tr.83]. Xuất phát từ tư tưởng của Mahan, một quan điểm mới được hình thành là quan điểm ―thực lực‖. Mỹ áp dụng thuyết ―định mệnh‖ kết hợp với quan điểm ―thực lực‖ ở khu vực Mỹ Latinh và sau đó mở rộng ra thế giới mà trước hết là ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Philippines [54; tr.48]. Có thể nói học thuyết Monroe là mốc đánh dấu sự chuyển hướng trong chính sách đối ngoại của Mỹ, chuyển từ chủ nghĩa ―_trung lập_‖ sang ―_chủ nghĩa bành trướng_‖ mà mục tiêu trước hết là khu vực Mỹ Latinh.“ Có thể xem đây là mốc khởi đầu cho những tham vọng toàn cầu của Mỹ” [24; tr.28]. Học thuyết Monroe là nền tảng cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ trong những giai đoạn sau. Mặc dầu, Mỹ giành được ảnh hưởng ở khu vực Mỹ Latinh nhưng hệ thống 1 Nội dung của học thuyết Monroe năm 1823 được đưa ra trên các phương diện sau: +Mỹ phải quan tâm đến các tranh chấp ở khu vực Mỹ Latinh. +Vì lí do an ninh của mình, Mỹ sẽ có hành động can thiệp vào các cuộc xung đột hoặc chiến tranh giữa các nước Mỹ Latinh với nhau hoặc giữa các nước này với các nước ngoài châu Mỹ. Mỹ cũng sẽ tham gia vào các cuộc tranh chấp chính trị, kinh tế ở châu Mỹ. +Mỹ tự cho rằng phải có trách nhiệm bảo vệ an ninh của cả châu lục khỏi sự nhòm ngó từ bên ngoài. Tuyên bố khẩu hiệu nổi tiếng ―châu Mỹ là của châu Mỹ‖ nhưng thực chất là ―Châu Mỹ của người Mỹ‖. 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 300 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 321 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn