intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật PCR trong chẩn đoán viêm âm đạo, cổ tử cung do Chlamydia trachomatis tại Bệnh viện Đại học Y Thái Bình

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:61

100
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận văn nhằm chuẩn hóa được quy trình kỹ thuật thực hiện phản ứng PCR phát hiện vi khuẩn Chlamydia trachomatis; xác định được tỷ lệ nhiễm Chlamydia trachomatis ở bệnh nhân viêm âm đạo, cổ tử cung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật PCR trong chẩn đoán viêm âm đạo, cổ tử cung do Chlamydia trachomatis tại Bệnh viện Đại học Y Thái Bình

  1. MỞ ĐẦU Hiện nay, một trong các vấn đề  nóng bỏng về  chăm sóc sức khỏe sinh sản  mà  các nước trên thế  giới đang đối mặt là bệnh lây truyền qua đường tình dục.  Viêm đường sinh dục do  Chlamydia trachomatis  được coi là bệnh  lây truyền qua  đường tình dục đứng đầu trên thế  giới. Nhiễm  Chlamydia trachomatis thường gây  viêm niệu đạo, viêm cổ  tử  cung. Tuy nhiên nêu không điêu tri co thê dân đên cac ́ ̀ ̣ ́ ̉ ̃ ́ ́  ́ ưng nh biên ch ́ ư viêm phần phụ, đau vùng chậu mãn tính, thai ngoài tử cung, vô sinh  do tổn thương ống dẫn trứng, viêm mào tinh đòi hỏi phải chăm sóc y tế với phí tổn   cao.  Tổ  chức  Y tế  thế  giới   ước  tính hàng năm có  khoảng 90 triệu  ca  nhiễm   Chlamydia trachomatis  được phát hiện mới [34]. Bệnh do   Chlamydia trachomatis  hay gặp ở những người trẻ tuổi, trong độ tuổi sinh đẻ. Các nghiên cứu mới đây cho thấy, tỷ  lệ  mắc bệnh này đang tăng lên. Tại   Châu Âu từ  năm 1996­2003, số  bệnh nhân nhiễm  Chlamydia trachomatis  đã tăng  gấp đôi, tại Hoa Kỳ con số này cũng tăng 14% trong giai đoạn 2000­2005 [15, 18]. Ở   Việt   Nam   trong   khoảng   vài   năm   gần   đây   vấn   đề   nhiễm   khuẩn   do   Chlamydia trachomatis  mới được chú ý. Một vài nghiên cứu đưa ra tỷ  lệ  khoảng  30% các trường hợp đến khám phụ  khoa có tiết dịch đường âm đạo bất thường là  do Chlamydia trachomatis. Nguy hiểm nhất của nhiễm  Chlamydia trachomatis qua  đường sinh dục là có tới 75% nữ giới và 50% nam giới mắc bệnh mà không có triệu  chứng, người bệnh hoàn toàn không biết mình nhiễm vi khuẩn [2,9]. Để   chẩn   đoán   nhiễm  Chlamydia   trachomatis  người   ta   thường   dùng   xét  nghiệm   nuôi   cấy­   tiêu   chuẩn  vàng  để   chẩn   đoán   xác   định   nhiễm  Chlamydia  trachomatis. Tuy nhiên xét nghiệm này có hạn chế  là phải bảo đảm vi khuẩn còn   sống trong quá trình vận chuyển đến phòng xét nghiệm, thời gian xét nghiệm dài. Khuếch   đại   acid  nucleic   (nucleic   acid   amplification   tests   –  NAATs)   là   kỹ  thuật sinh học phân tử đã được ứng dụng rộng rãi trong y học để  phát hiện sự tồn   1
  2. tại   của   các   vi   sinh   vật   trong   các   mẫu   bệnh   phẩm.   Phản   ứng   chuỗi   trùng   hợp  (Polymerase Chain Reaction– PCR) là một NAATs có độ  nhạy và độ  đặc hiệu rất  cao, nhiều nghiên cứu đã xem PCR là một tiêu chuẩn vàng để  khảo sát giá trị  của  các xét nghiệm chẩn đoán khác. Đối với bệnh nhiễm   Chlamydia trachomatis, xét  nghiệm này cho phép xác định sự  tồn tại của vi khuẩn trong dịch âm đạo, tử  cung  của bệnh nhân.  Với mong muốn đóng góp vào công tác chăm sóc sức khỏe nói chung và công  tác chăm sóc sức khỏe sinh sản nói riêng, chúng tôi thực hiện đề  tài “Nghiên cưu ́  ứng dụng kỹ thuật PCR trong chẩn đoán viêm âm đạo, cổ tử cung do Chlamydia   trachomatis tại Bệnh viện Đại học Y Thái Bình” với mục tiêu: ­ Chuẩn hóa được quy trình kỹ thuật thực hiện phản  ứng PCR phát hiện vi   khuẩn Chlamydia trachomatis. ̣   được  tỷ  lê nhiêm Chlamydia trachomatis  ­  Xác đinh ̣ ̃ ở  bệnh nhân viêm âm   đạo, cô t ̉ ử cung. 2
  3. Chương 1: TỔNG QUAN 1.1. Vi khuẩn Chlamydia trachomatis. Chlamydia   trachomatis  thuộc   chi  Chlamydia,   họ  Chlamydiaceae,   lớp  Chlamydiae, ngành Chlamydiae, giới Bacteria [2, 9]. Về hình thái khi quan sát dưới kính hiển vi quang học, vi khuẩn có hình cầu   hoặc   hình   bầu   dục,   kích   thước   khác   nhau,   là   vi   khuẩn   Gram   âm   có   màng   là   lipopolisaccharide. Vì thiếu một số enzyme tổng hợp các hợp chất cao năng sử dụng  cho tế bào, vi khuẩn này phải ký sinh nội bào bắt buộc, không có khả năng sống sót   bên ngoài tế bào.  Hệ   gen   của  Chlamydia   trachomatis  gồm   phân   tử   DNA   dài   1.042.519  nucleotide với 894 trình tự mã hóa cho protein. Hình 1.1. Cấu trúc hệ gen của vi khuẩn Chlamydia trachomatis (   Theo   Deborah   Dean   et   al.,   (2009)   Predicting   Phenotype   and   Emerging   Strains   among Chlamydia trachomatis Infections, CDC Home Vol. 15.(9)) Chlamydia trachomatis (C.trachomatis) chứa 7 đến 10 bản sao của plasmid có   kích thước 7.5 kb. Trình tự nucleotide của plasmid là trình tự  bảo thủ cao (có dưới   1% nucleotide thay thế), chứa 8 khung đọc mở  (Open Reading Frame) mã hoá các   3
  4. gen và các kháng nguyên. Mặc dù chức năng của plasmid còn chưa xác định hết  nhưng trình tự nucleotide và sự có mặt của plasmid trong tế bào chứng tỏ nó có vai  trò quan trọng đối với vi khuẩn C.trachomatis.  C.trachomatis được chia thành 15 loại tuýp huyết thanh khác nhau bao gồm:  Tuýp huyết thanh (A­K), L1, L2, L3, Ba, Da, Ia và L2a. Trong đó tuýp A, B, Ba và C   gây bệnh mắt hột. Tuýp D, E, F, G, H, I, J và K gây bệnh viêm đường sinh dục.  Tuýp L1, L2 và L3 gây bệnh lympho hạt, một bệnh viêm hạch bạch huyết hoa liễu   ở bẹn [2,9].   Chu kỳ  phát triển của  C.trachomatis  trong bào tương tế  bào kéo dài 48­72  giờ [34]. Vòng đời của C.trachomatis gồm 2 giai đoạn: Thể cơ bản và thể lưới. ­ Thể  cơ  bản (Elementary Body­ EB) là những tế  bào tròn có đường kính  khoảng 0.3 m, nhân đậm. Thể này xâm nhập vào các tế bào theo kiểu thực bào. ­   Thể   lưới   (Reticulate   Body­   RB):   Sau   khi   xâm   nhập   vào   tế   bào  C.trachomatis chuyển hóa nhờ tế bào và tạo thành thể lưới (đường kính 1 m), sinh  sản theo hình thức phân đôi kiểu trực phân khoảng 2­3 giờ một lần. Sau đó thể lưới   lại chuyển thành thể  cơ  bản và giải phóng khỏi tế  bào thông qua hinh th ̀ ưc ngo ́ ại   tiêt bào (exocytosis). Thông th ́ ường mỗi thể  lưới giải phóng 100­1000 thể  cơ  bản  rồi tiếp tục xâm nhập vào các tế bào mới. 4
  5. Hình 1.2. Chu kỳ vòng đời của vi khuẩn C.trachomatis (theo Yvonne Pannekoek).  Đường truyền bệnh: Vi khuẩn C.trachomatis là vi khuẩn ký sinh nội bào bắt buộc, không có khả  năng sống sót ngoài tế bào nên đường truyền chủ yếu là đường tình dục hoặc lây từ  mẹ sang con khi người mẹ mang thai bị nhiễm C.trachomatis. Khả năng gây bệnh: C.trachomatis có khả  năng gây nên 2 bệnh chính  ở  người: Bệnh mắt hột và   bệnh nhiễm trùng sinh dục tiết niệu, trong đó bệnh sinh dục tiết niệu do nhiều tuýp   (D, E, F, G, H, I, J và K) gây ra, tăng nhanh số lượng người mắc. Trẻ   sơ   sinh   có   thể   bị   mắc   bệnh   viêm   kết   mạc   hoặc   viêm   phổi   do   C.trachomatis nếu bị lây từ mẹ. Ở phụ nữ Có tới 75% phụ nữ không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng  và triệu chứng  nếu   có   cũng   không   điển   hình   [3],   nên   việc   chẩn   đoán   và   sàng   lọc   nhiễm  C.trachomatis  đơn thuần dựa vào triệu chứng lâm sàng hoàn toàn không khả  thi.  Cho đến khi có biểu hiện viêm vùng chậu hoặc khi bệnh nhân khám vô sinh phát   5
  6. hiện có tổn thương  ống dẫn trứng thì C.trachomatis  đã gây biến chứng khó phục  hồi. Vì vậy cần thiết phải có những phương pháp chẩn đoán chính xác và phù hợp  giúp phát hiện C.trachomatis nhằm ngăn chặn những hậu quả mà nó gây ra. Ở  nữ  giới, vi khuẩn  C.trachomatis  có thể  gây viêm âm đao, cổ  tử  cung và  niệu đạo. Các biến chứng thường gặp  ở  bênh nhân nhiêm  ̣ ̣ ́   ̃ C.trachomatis man tinh bao gôm: ̀ ­ Tắc vòi trứng  ở phụ  nữ: Một trong những nguyên nhân gây tắc vòi trứng  là do viễm nhiễm  ở vòi trứng, buồng trứng, dây chằng quanh tử  cung vòi trứng do  C.trachomatis.  ­ Chửa ngoài tử  cung: Nguyên nhân viêm nhiễm vòi trứng do C.trachomatis  khiến phôi thai tắc ngay tại điểm hẹp. Phôi thai lớn dần lên, đến một mức nào đó   sẽ phá vỡ các mạch máu nơi nó đậu lại trên vòi trứng, gây chảy máu dữ dội trong ổ  bụng, có thể làm thai phụ tử vong nhanh chóng. Nhiều thống kê cho thấy có tới 9%   phụ nữ nhiễm C.trachomatis bị chửa ngoài tử cung. ­  Viêm   vùng   chậu:  Phần   lớn,   viêm   vùng   chậu   do   vi   khuẩn   lậu   và  C.trachomatis gây ra. Viêm vùng chậu là một bệnh thầm lặng,  nhiều tác giả thống  kê   cho  thấy   có   tới   40%   phụ   nữ   nhiễm  C.trachomatis  bị   viêm   nhiễm   vùng  tiểu  khung, trong số đó có 20% bị vô sinh làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng cuộc   sống. ­ C.trachomatis có thể kết hợp cùng với HPV (Human papilloma virus) – một  virus gây u nhú có khả năng đưa đến ung thư cổ tử cung. Ở nam giới Ở  nam giới triệu chứng lâm sàng của nhiễm   C.trachomatis  càng mờ  nhạt  hơn, biểu hiện đầu tiên là viêm niệu đạo có mủ  mà giới chuyên khoa gọi là viêm  niệu đạo không do lậu, sau đó có thể  dẫn đến viêm mào tinh hoàn. Tại túi tinh, vi   khuẩn gây độc cho tinh trùng, làm giảm số  lượng tinh trùng, đời sống tinh trùng   ngắn lại, chất lượng giảm xuống. Đây chính là lý do gây vô sinh nam. 6
  7. Tuy nhiên, vì C.trachomatis lây qua đường tình dục nên nam giới nhiễm bệnh   nếu không được phát hiện và điều trị sẽ là nguồn tái nhiễm cho bạn tình. Ngoài ra,   một số nghiên cứu còn cho thấy C.trachomatis ở nam giới có khả năng bám vào tinh  trùng   và   theo   tinh   trùng   đi   qua   cổ   tử   cung   lên   ống   dẫn   trứng,   giúp   phát   tán   C.trachomatis trong vòi trứng của phụ nữ. 1.2. Các xét nghiệm chẩn đoán vi khuẩn Chlamydia trachomatis [32] 1.2.1. Nuôi cấy Để phát hiện C.trachomatis, người ta có thể dùng biện pháp nuôi cấy để chờ  vi khuẩn gia tăng số lượng. C.trachomatis không phát triển ngoài tế bào sống được  nên không thể nuôi cấy theo phương pháp thường dùng mà phải tiến hành nuôi cấy  trên các tế bào như McCoy hoặc Hela 229, tế bào nhau thai...  ­ Đối với bệnh mắt hột, người ta lấy nang bằng cách nạo các nang rồi cấy   vào các tế bào nhau thai người để phát hiện các hạt vùi trong nguyên sinh chất của  tế bào. ­ Đối với bệnh viêm sinh dục– tiết niệu: lấy mủ  chất tiết niệu đạo (nam  giới); chất tiết cổ tử cung, âm đạo (nữ  giới) nuôi cấy trong môi trường có chứa tế  bào McCoy hoặc Hela 229  ở 370C­ 5% CO2. Quan sát tính chất xâm nhiễm sau 48  giờ  nuôi cấy va phat hiên  ̀ ́ ̣ C.trachomatis bằng kỹ  thuật miễn dịch huỳnh quang:  ủ  với   kháng   thể   đánh   dấu   huỳnh   quang   đặc   hiệu   cho   kháng   nguyên   vỏ  lipopolysaccharide   (LPS)   hoặc   protein   màng   (major   outer   membrane   protein­  MOMP). Xét nghiệm này được đánh giá là tiêu chuẩn vàng trong nhóm xét nghiệm vì  có độ  đặc hiệu rất cao (100%), cho phép lưu giữ  vi khuẩn làm kháng sinh đồ  phát   hiện chủng kháng thuốc. Nhược điểm của phương pháp này là đòi hỏi thời gian dài,  phải bảo đảm vi khuẩn còn sống trong quá trình vận chuyển đến phòng thí nghiệm,  đội ngũ cán bộ  thành thạo về  nuôi cấy tế  bào. Bên cạnh đó xét nghiệm này có độ  nhạy   thấp   (70­85%),   thấp   hơn   so   với   khuếch   đại   nucleic   acid   (nucleic   acid   amplification tests– NAATs) [32].   7
  8. 1.2.2. Kỹ thuật miễn dịch gắn enzyme (enzyme immunoassays– EIAs) Phương pháp này dựa trên phản  ứng hóa miễn dịch giúp phát hiện kháng  nguyên LPS của C.trachomatis bằng kháng thể  đơn dòng hoặc đa dòng được đánh  dấu bằng enzyme, phức hợp kháng nguyên ­ kháng thể sẽ hoạt hóa enzyme chuyển  cơ  chất không màu thành có màu, phát hiện được bằng phản  ứng tạo màu hay đo   bằng quang phổ kế. Khi mẫu xét nghiệm được thêm vào màng, kháng nguyên của C.trachomatis   sẽ gắn với kháng thể được phủ sẵn trên màng. Sau đó bổ sung kháng thể đặc hiệu   với  C.trachomatis  liên kết với kháng nguyên đã được bắt giữ  bởi kháng thể  trên  màng. Dung dịch enzyme được thêm vào sẽ  liên kết với kháng thể  đặc hiệu của   C.trachomatis. Bước tiếp theo là rửa để  loại bỏ  các thành phần không gắn với  màng. Bổ  sung cơ chất đặc hiệu với enzyme vào màng. Nếu có kháng nguyên, cơ  chất phản ứng với enzyme tạo sự thay đổi màu sắc phát hiện và đo được bằng máy  quang phổ kế.  Xét nghiệm này có hiệu quả với quy mô sàng lọc lớn, không đòi hỏi vi khuẩn  còn sống, rẻ tiền hơn nuôi cấy và yêu cầu kỹ  năng xét nghiệm vừa phải. Tuy vậy  nó có nhược điểm là không sử dụng được với nhiều loại mẫu lấy từ đại tràng, cơ  quan hô hấp và âm đạo do giảm độ nhạy và độ đặc hiệu với các mẫu này, được sử  dụng sàng lọc quần thể có tỷ lệ dương tính thấp (≤ 5%) [32]. Xét nghiệm này có độ  nhạy thấp hơn NAATs và độ đặc hiệu thấp hơn nuôi cấy tế bào. 1.2.3. Kỹ  thuật kháng thể  huỳnh quang trực tiếp (direct fluorescent antibody­   DFA) Phương pháp này sử dụng kháng thể đơn dòng hay đa dòng đặc hiệu được đánh  dấu huỳnh quang để phát hiện trực tiếp kháng nguyên vỏ LPS hay kháng nguyên mã  hóa protein màng MOMP. Mẫu bệnh phẩm được thu thập, mẫu được đánh dấu tên và địa chỉ  bệnh nhân.   Sau đó, mẫu được phết nhẹ nhàng lên lam kinh và đ ́ ược cố định ngay lập tức bằng   methanol. Sau khi được làm khô trong không khí từ 2 đến 3 phút, lam kính được vận   8
  9. chuyển đến phòng thí nghiệm, nhuộm băng kháng th ̀ ể  đánh dấu huỳnh quang đặc  hiệu với  C.trachomatis. Kháng thể  liên kết đặc hiệu với   C.trachomatis  có trong  mẫu. Tiếp đó là bước rửa để  loại bỏ  những kháng thể  không liên kết. Quan sát  dưới kính hiển vi huỳnh quang, mẫu dương tính  C.trachomatis  dạng cơ  bản màu  xanh táo tương phản với màu đỏ đất của tế bào.   Xét nghiệm áp dụng được cho nhiều loại mẫu khác nhau, không yêu cầu vi   khuẩn còn sống, đòi hỏi kỹ năng xét nghiệm vừa phải, thích hợp chẩn đoán trên các  đối tượng có nguy cơ cao. Sự thành công của kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang phụ  thuộc   vào   nhiều   yếu   tố:   Có   kháng   thể   đánh   dấu   huỳnh   quang   đặc   hiệu   với  C.trachomatis, đủ  kháng thể để  kết hợp, kính hiển vi huỳnh quang chất lượng tốt.   Kỹ thuật này không thích hợp cho số lượng mẫu lớn và đối tượng có nguy cơ thấp,  độ nhạy thấp hơn NAATs và độ đặc hiệu thấp hơn nuôi cấy tế bào [32]. 1.2.4. Kỹ thuật khuếch đại nucleic acid (nucleic acid amplification tests– NAATs). NAATs là kỹ thuật sinh học phân tử đã được ứng dụng rộng rãi trong y học   để phát hiện sự tồn tại của các vi sinh vật trong các mẫu bệnh phẩm, độ nhạy trên  90%, độ đặc hiệu tương đương với nuôi cấy tế bào. Ky thuât NAATs co  ̃ ̣ ́ưu điêm la ̉ ̀  ́ ̉ ́ ụng ở nhưng n co thê ap d ̃ ơi không có khả năng nuôi cấy, xét nghiệm không đòi hỏi  vi khuẩn còn sống, thời gian xét nghiệm ngắn (trong 1 ngày).  Phản ứng chuỗi trùng hợp (Polymerase Chain Reaction– PCR) là xét nghiệm  có độ  nhạy và độ  đặc hiệu cao thích hợp cho sự  phát hiện  C.trachomatis  [21].  Nhiều nghiên cứu đã xem PCR là một tiêu chuẩn vàng để  khảo sát giá trị  của các  xét nghiệm chẩn đoán khác. Đối với bệnh nhiễm  C.trachomatis, xét nghiệm này cho  phép xác định sự  tồn tại của vi khuẩn trong dịch quêt cô t ́ ̉ ử  cung hoăc trong mâu ̣ ̃  nươc tiêu c ́ ̉ ủa bệnh nhân với các cặp mồi trên plasmid, trên gen mã hóa protein   màng hoặc trên rRNA. Tuy nhiên, xét nghiệm này có thể  giảm độ  nhạy do sự  có  mặt các chất ức chế có trong mẫu hoặc không đủ độ nhạy để  phát hiện mẫu chứa  quá ít dạng cơ bản của vi khuẩn C. trachomatis. Do vậy có thể tạo ra sản phẩm âm  tính  giả.   Theo  Saiki  và   cộng  sự   (1985)   [23],   để   phát  hiện   25  ng  DNA   trên  gel   9
  10. agarose nhuộm ethidium bromide sau 35 chu kỳ khuếch đại từ 10 phân tử ban đầu ở  mẫu cần hiệu quả khuếch đại cao hơn 90%. Nested PCR là kỹ  thuật sử  dụng hai cặp mồi thay vì một cặp mồi như  kỹ  thuật PCR cổ điển. Cặp mồi thứ hai được thiết kế nằm trong đoạn gen mà cặp mồi   thứ nhất khuếch đại. Quá trình chạy PCR lần đầu không khác gì PCR thông thường.  Sản phẩm của phản ứng PCR lần đầu sẽ làm khuôn cho phản ứng PCR lần thứ hai   cùng với cặp mồi thứ  hai. Kết quả sau hai lần PCR thu được sản phẩm đặc hiệu  hơn nhiều. Kỹ  thuật này có độ  nhạy rất  cao, có thể  phát hiện vi khuẩn  ở  mật độ  rất thấp mà các phương pháp thông thường khó có thể phát hiện được (1­5 ký sinh  trùng/1 µl máu). Đây được xem là “tiêu chuẩn vàng” mới trong phát hiện vi khuẩn   trong các mẫu bệnh phẩm do độ  nhạy và độ  đặc hiệu cao của nó. Theo Pamela  Cribb và cộng sự (2002) [22], xét nghiệm này có thể phát hiện DNA tương ứng với  nhỏ hơn 10 dạng cơ bản (EB) của vi khuẩn  C.trachomatis trong hỗn hợp phản ứng,  cho phép phát hiện kết quả  âm tính giả  và đáp  ứng được với sự  thay đổi  ở  các   phòng thí nghiệm khác nhau. Mẫu được xử  lý để  tách DNA của C.trachomatis. Các thành phần của phản  ứng PCR được thiết lập gồm primer, dNTP, Taq polimerase, MgCl 2. Các primer liên  kết với DNA đích đặc hiệu của C.trachomatis. Enzym Taq polymerase kéo dài mỗi  trình tự DNA sử dụng các nucleotide tự do để tạo trình tự DNA bổ sung. Quá trình   khuếch đại này xảy ra khi hỗn hợp phản ứng được ủ trong máy luân nhiệt. Mỗi chu  kỳ làm tăng số lượng DNA đích theo hàm mũ. Sau khi khuếch đại, sản phẩm lần 1  được sử  dụng làm khuôn cho phản  ứng PCR lần 2. Sau phản  ứng PCR lần 2, sản   phẩm được điên di trên gel agarose 1%, nhuôm ethidium bromide va phân tich trên hê ̣ ̣ ̀ ́ ̣  ̣ ̉ thông chup anh gel .  ́ Xét nghiệm này có thể phát hiện vi khuẩn C.trachomatis trên mẫu nước tiểu  (độ nhạy của mẫu này thấp hơn mẫu dịch phết), nhiều loại mẫu lấy từ đại tràng,  cơ quan hô hấp và âm đạo.  Xét nghiệm này độ nhạy trên 90%, độ đặc hiệu tương đương với nuôi cấy  tế  bào, co ́ ưu điêm la co thê ap d ̉ ̀ ́ ̉ ́ ụng  ở  nhưng n ̃ ơi không có khả  năng nuôi cấy,   10
  11. không đòi hỏi vi khuẩn còn sống, thời gian xét nghiệm ngắn (trong 1 ngày) [13, 17].   Nhược điểm của xét nghiệm này là yếu tố  ngoại nhiễm cao, tuy vậy có thể  tránh  bằng cách sử  dụng đầu côn lọc và dùng enzyme uracil­ N­ glycosylase trong phản   ứng. 1.3. Các nghiên cứu về Chlamydia trachomatis trên thế giới và trong nước 1.3.1. Các nghiên cứu trên thế giới Số người  nhiễm trên  100.000 Năm Hình 1.3. Tỷ lệ nhiễm Chlamydia trachomatis ở một số nước Châu Âu Theo ECDC năm 2009 [15], tỷ  lệ  dương tính C.trachomatis  ở  một số  nước  Châu Âu thay đổi từ  năm 1998 đến năm 2007.  Ở  Thụy Điển và Phần Lan, nơi   những nghiên cứu được tiến hành từ  đầu những năm 90, tỷ  lệ  này giảm  ở  đầu  những năm 90 (tương tự  với tỷ lệ các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác ở  Châu Âu) do sự thay đổi thói quen sinh hoạt tình dục và mối lo từ hiểm họa AIDS.   Tỷ lệ này tăng lên từ năm 1995. Tại Anh và Đan Mạch, tỷ lệ này tăng dần theo mỗi  năm, nguyên nhân có thể do không được nghiên cứu từ đầu những năm 90, sử dụng  các chẩn đoán có độ  nhạy cao hơn, đối tượng nghiên cứu nằm trong các nhóm có  nguy cơ cao. 11
  12. Theo một nghiên cứu về  tỷ  lệ  nhiễm vi khuẩn này tại Châu Âu [20] cho   thấy: Phần Lan  Nghiên cứu 298 phụ  nữ  tuổi từ  18 đến 40, từ  năm 1977 đến năm 1980 tại  một trung tâm y tế  sinh viên tại Đại học Helsinki. Những phụ  nữ  trên được chăm  sóc y tế về các biện pháp tránh thai, vấn đề nội tiết và vô sinh hoặc đã được kiểm   tra   dịch   phết  cổ   tử   cung   định  kỳ   (đối   với   bệnh   nhân   có   triệu   chứng).   Các   xét   nghiệm được sử  dụng là nuôi cấy dịch niệu đạo và dịch phết cổ  tử  cung. Bỏ  qua   mô tả về cách lựa chọn, tỷ lệ đáp ứng, lý do đáp ứng và loại trừ. Tỷ lệ dương tính   C.trachomatis là 6%.  Thụy Điển  Nghiên cứu thứ nhất (Persson  et al., 1991) liên quan đến 306 phụ nữ tuổi từ  12 đến 25 (trung bình 22 tuổi) tại một phòng khám thai từ  năm 1989 và 1990. Nuôi  cấy được sử dụng làm phương pháp xét nghiệm, tỷ lệ dương tính C.trachomatis là  6%. Nghiên cứu thứ hai (Svensson  et al., 1994) đã so sánh hai nhóm phụ nữ nghiên  cứu vào năm 1991­ 1992. Nhóm A bao gồm 751 học sinh trung học với độ  tuổi 16  đến 20 năm (trung bình 18 tuổi). Các tỷ  lệ  đáp  ứng là 77%. Nhóm B bao gồm 619   phụ nữ đến khám tại phòng khám kế hoạch hóa gia đình thanh thiếu niên và độ tuổi   phù hợp với nhóm A. Cả  hai nhóm đã được thử  nghiệm bằng cách sử  dụng xét  nghiệm EIA. Tỷ lệ dương tính C.trachomatis là 2% trong nhóm A và 6% trong nhóm  B.  Vương quốc Anh  Nghiên cứu được tiến hành đầu tiên (Smith  et al., 1991) liên quan đến 197   phụ  nữ  tuổi từ  19 đến 58 (trung bình 30 tuổi) tại một phòng khám soi cổ  tử  cung.  Nghiên cứu cho thấy không có sự  khác biệt giữa phụ  nữ  có dịch phết cổ  tử  cung   bình thường và bất thường. Bệnh phẩm dịch phết cổ tử cung được sử dụng để nuôi  cấy. Tỷ  lệ  dương tính  C.trachomatis  là 12%. Nghiên cứu thứ  hai (Thompson và  Wallace, 1994) liên quan đến 287 phụ nữ từ 15 tuổi đến 40. Các mẫu dịch phết cổ  12
  13. tử cung đã được xét nghiệm bằng kỹ thuật DFA. Tỷ lệ nhiễm C.trachomatis ở phụ  nữ nhỏ hơn 30 tuổi là 3.5% (5/145). Tỷ lệ dương tính C.trachomatis chung là 1.7%.  Nghiên cứu thứ  ba (Hopwood và Mallinson, năm 1999) đánh giá trên các phụ nữ 16   đến 25 tuổi bằng xét nghiệm DFA. Tỷ lệ nhiễm  C.trachomatis là 3.9%. Nghiên cứu  thứ  tư  (Kirkwood   et al., 1999) nghiên cứu phụ  nữ  độ  tuổi nhỏ  hơn 20 tại phòng  khám kế hoạch hóa gia đình. Các mẫu được kiểm tra bằng kỹ thuật PCR. Cỡ mẫu  là 97 với 65 phụ  nữ  đến từ  thành phố. Tỷ  lệ  nhiễm vi khu ẩn này  ở  phụ  nữ  thành  phố là 3% và thị trấn nông thôn 12.5%. Tỷ lệ dương tính  C.trachomatis tổng thể là  6.2%. Sự phổ biến của C.trachomatis phụ nữ không có triệu chứng ở Châu Âu dao  động từ  1.7 đến 17% tùy thuộc vào bối cảnh và quốc gia. Tỷ  lệ  dương tính   C.  trachomatis là 6% ở phụ nữ sử dụng biện pháp tránh thai và 4% với đối tượng phụ  nữ xét nghiệm dịch phết cổ tử cung [15].  James   B.   Mahony  và   cộng   sự   (1992)   nghiên   cứu   tỷ   lệ   dương   tính  C.trachomatis  ở  nam giới  ở  những địa điểm  được  lựa  chọn  tại Hoa  Kỳ  [18]. Sự  sàng lọc phụ thuộc một phần vào chi phí sàng lọc C.trachomatis cũng như phương  pháp sàng lọc. Sàng lọc ở những địa điểm có tỷ lệ nam giới dương tính cao sẽ nâng  cao chất lượng  chương trình kiểm soát  C.trachomatis.  Đánh giá  các  chương trình  sàng lọc vi khuẩn này trong số  những người đàn ông không có triệu chứng tại các  phòng khám  từ  năm 1995 đến tháng 6 năm 2007, thông qua PubMed  thu được kết  quả:  Tỷ  lệ  dương tính  trung bình  tổng thể  là  5.1%.  Mức  cao  nhất  được  quan sát  thấy  ở  nam giới  thử  nghiệm tại  các  cơ  sở  giam giữ  trẻ  vị  thành niên  (7.9%)  và  người lớn (6.8%), ở  người da đen (6.7%), 15­19 tuổi (6.1%) và 20­24 tuổi (6.5%).  Tỷ lệ nhiễm C.trachomatis trên nam giới cao ở những địa điểm nhất định. C.trachomatis là bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhất ở Canada  [27]. Có gần 63.000 trường hợp nhiễm C.trachomatis được báo cáo vào năm 2004,  con số cao nhất kể  từ  khi vi khuẩn này  được đề  cập vào năm 1990. Tỷ  lệ nhiễm  C.trachomatis ở Canada đã tăng hơn 70% từ năm 1997. Tuy nhiên, những con số này  đánh giá thấp gánh nặng thực sự của bệnh như một số bệnh nhiễm trùng (40% đến  13
  14. 70% các bệnh nhiễm trùng) là không có triệu chứng nên không bị phát hiện. Có một  sự khác biệt giới tính trong tỷ lệ nhiễm C.trachomatis, phụ nữ  chiếm hơn hai phần  ba các trường hợp được báo cáo vào năm 2004. Trong khi số lượng các bệnh nhiễm  trùng C.trachomatis báo cáo  ở  phụ  nữ cao hơn nam giới, tỷ  lệ  lây nhiễm đang gia  tăng nhanh hơn ở nam giới. Từ năm 1997, tỷ lệ ở nam giới nhiều hơn gấp đôi, từ 59  đến 129.5 trên 100.000 người, trong khi tỷ lệ  ở phụ nữ tăng ít hơn một nửa, từ 168  đến  263  trên 100.000.  Sự  chênh lệch  giới tính  có thể  một phần là  do số  phụ  nữ  được sàng lọc vi khuẩn C.trachomatis lớn hơn. Việc cải thiện công nghệ chẩn đoán  có thể sử  dụng mẫu nước tiểu để  xét nghiệm dự  đoán sẽ  làm tăng số  lượng đàn  ông kiểm tra. Tỷ lệ  thanh thiếu niên nhiễm C.trachomatis cũng không tương xứng,  gần 70% của tất cả các trường hợp được báo cáo xảy ra ở tuổi từ 15 đến 24 trong  nghiên cứu. Trong năm 2004, tỷ lệ nhiễm trong thanh thiếu niên từ 15 đến 19 tuổi là  847 trên 100.000. Tỷ lệ là 1.087 trên 100.000 trong độ tuổi 20­24. Các vùng lãnh thổ  phía Bắc nói riêng phải chịu tỷ lệ nhiễm C.trachomatis cao, trung bình năm 2003 là  gần 8  lần so với  toàn  quốc.  Nunavut  có  tỷ  lệ  nhiễm  C.trachomatis  cao nhất  ở  Canada  vào năm 2003  (2.520  trên 100.000)  trên  13 lần  mức trung bình  toàn  quốc  [27]. Năm 2004 ở Trinidad và Tobago bằng phương pháp nested multiplex PCR với  các cặp mồi HO1, HO3, Chlam5/Chlam3, KL1/KL2 và Gon 5/Gon 3, các tác giả  đã   phát hiện đồng thời hai loại vi khuẩn lậu và C.trachomatis trong mẫu nước tiểu của  phụ  nữ  mang thai [19]. Các mẫu nước tiểu được thu thập từ  tháng 3 đến tháng 9  năm 2004 từ  273 phụ nữ mang thai khỏe mạnh  ở các phòng khám tư  nhân và bệnh  viện. Tất cả phụ nữ mang thai có mặt trong phòng khám tại thời điểm lấy mẫu đã   được mời tham gia. 15­20 ml mẫu nước tiểu đầu dòng được thu thập, bảo quản ở  4°C, vận chuyển đến phòng thí nghiệm trong vòng 24 giờ, và bảo quản ở ­20°C cho   đến  khi  DNA   được  tách  chiết  (trong  vòng  hai  tháng).  DNA  từ  nước  tiểu   được  chuẩn bị  bằng cách sử  dụng Chelex 100 (Sigma Chemical Co, St Louis, Hoa Kỳ).   Phản  ứng PCR thứ  nhất và nested multiplex PCR được tối  ưu hóa  ở  các nồng độ  MgCl2  1.5;   2   và   3   mM,   ở   nhiệt   độ   thay   đổi   từ   45°C   đến   65°C   (sử   dụng   máy  Gradient   Master   Cycler   Eppendorf)   với   mồi   phát   hiện   vi   khuẩn   lậu   hoặc  14
  15. C.trachomatis. Để tránh nhiễm, sử dụng bốn phòng riêng biệt, một để pha mix, một  để  chuẩn bị mẫu và PCR lần 1, một tạo phản  ứng nested PCR và một phòng điện  di.   Sản   phẩm   khuếch   đại   được   điện   di   trên   gel   agarose   2%,   nhuộm   ethidium   bromide và quan sát. Phản  ứng PCR đầu tiên dùng 0.2 mM mỗi loại dNTP; 3 mM   MgCl2; 0.5 pmol/µl mỗi mồi HO1, HO3, Chlam5 (5'­CATTATGT­CGGAGTCTG­ AGC­   3’),   Chlam3   (5'­GGATGACTCAAGGAATAGT­CG­   3’),   1   µl   Internal  Amplification Control (IAC), 0.4 pmol/µl mồi IAC (5'­TGTTTGACAGCTTATCAT),  5 µl DNA mẫu, 0.5 U Taq polymerase, và nước khử ion đến 25 µl với chu trình nhiệt  94°C/15s, 60°C/30s, 72°C/60s, 40 chu kỳ. Phản  ứng nested PCR chứa 0.2 mM m ỗi   loại   dNTP;   2   mM   MgCl2;   0.5   pmol/µl   mỗi   mồi   KL1,   KL2,   Gon5   (5'­GTTCT­ TGACGCTCC­ATATCG­   3’)   và   Gon3   (5'­ACGAGGCAT­TGAAGCAAAGC­   3’);  0.4 pmol/µl IAC; 1 µl sản phẩm PCR lần 1; 0.5 U Taq polymerase, nước khử  ion   đến 25 µl, chu trình nhiệt 94°C/15s, 58.5°C/30s,72°C/30s, 40 chu kỳ. Kết quả ở PCR  lần 1 là 21 mẫu dương tính C.trachomatis và 1 mẫu nhiễm cả C.trachomatis và lậu.  Kết quả phản ứng nested multiplex PCR thu được mẫu dương tính C.trachomatis là  57 mẫu  (20.9%), trong đó 5 mẫu nhiễm cả  hai loại vi khuẩn trên.   Kết quả  này  chứng tỏ  multiplex nested PCR có độ nhạy và độ  đặc hiệu cao hơn hẳn phản  ứng   PCR đơn.  Farhad B. Hashemi, Babak Pourakbari và Javad Zaeimi Yazdi [16] nghiên cứu  tổng cộng 123 phụ  nữ  đã kết hôn (tuổi từ  20­55) với triệu chứng viêm cổ  tử  cung  đến khám tại phòng khám sản phụ  khoa của bệnh viện Mirza Kouchek Khan  ở  Tehran, Iran, từ giữa tháng 12/2004 đến tháng 6/2005, chủ yếu do đau vùng chậu và  (hoặc) tiết dịch âm đạo. Tất cả  những phụ  nữ  điều trị  kháng sinh trong vòng ba   tuần trước khi đến khám được loại trừ  khỏi nghiên cứu. Người tham gia đồng ý   hoàn thành một bảng câu hỏi về  nhân khẩu học và lịch sử  bệnh lây truyền qua  đường tình dục trước khi kiểm tra cổ  tử  cung. Sau khi loại bỏ  chất nhầy c ổ  tử  cung, mẫu dịch cổ  tử  cung được thu thập, lưu trữ   ở  ­20°C. DNA chiết xuất bằng  DIAtom Prep100 kit (IsoGene Inc, Moscow, Nga) và bảo quản tại  ­20°C cho đến khi  sử dụng. Phản  ứng PCR khuếch đại đoạn 377 bp của cryptic plasmid với chu trình   nhiệt: 94°C/3.5 phút; (94°C/30s, 52°C/30s, 72°C/3 phút) x 30 chu kỳ trong 25  μl đệm  15
  16. phản ứng PCR (bao gồm 10 mmol/l Tris, pH 8,3; 50 mmol/l KCl; 2.5 mmol/l MgCl 2  và 0.1% gelatin); 0.2 mmol/l mỗi loại dNTP; 2.5 U   Taq  DNA polymerase, và 0.5  μmol/µl   mỗi   loại   mồi   BP1   (5’­AACCGTTTTTAATAGTGGCA­3’)   và   BP2   (5’­ TTCTGGCCAAGAATTATCC­3’). Tỷ  lệ  nhiễm trùng sinh dục  do  C.trachomatis  trên phụ  nữ  đã kết hôn  ở  Iran là 17% (cao hơn tỷ  lệ 7% báo cáo tại nước này vào   đầu những năm 1980). Mặc dù các bệnh nhân trong nghiên cứu không phải là đại  diện chung dân số (bao gồm cả phụ nữ không có triệu chứng), hiện tại tỷ lệ nhiễm   C.trachomatis cao hơn so với tỷ lệ 4­11% tại Slovenia, Hà Lan, Colombia, Canada,  và Hoa Kỳ. Sự  khác biệt tỷ  lệ  trong nghiên cứu này so với gần đây báo cáo từ  Tehran có thể  liên quan đến sự  cải thiện độ  nhạy của xét nghiệm cũng như  đối   tượng bệnh nhân và các mẫu phân tích. Kết quả cần được khẳng định bởi cỡ mẫu  lớn hơn.  Theo các công trình nghiên cứu của Gaydos CA, Svensson LO [20], tần suất   nhiễm C.trachomatis cao gặp  ở đối tượng trẻ  dưới 25 tuổi, có lẽ  do nam nữ  thanh   niên các nước Châu Âu thường có quan hệ tình dục tự do ngoài hôn nhân, vì vậy họ  dễ  mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong đó có nhiễm C.trachomatis.  Tỷ  lệ  nhiễm vi khuẩn này  ở  người lớn tại Nam Thái Bình Dương là 73%, Papua   New Guinea là 20%, Nhật Bản 7%, Senegan 7%. Một nghiên cứu của Achchhe L Patel và cộng sự [11] trường đại học y khoa  Indiana,  Ấn Độ  sử  dụng các phương pháp phát hiện vi khuẩn  C.trachomatis  như  Roche Amplicor test, DFA và PCR. Trong suốt quá trình nghiên cứu (2003–2009), tỷ  lệ bệnh nhân nhiễm C.trachomatis dao động từ 24.0% đến 30.0%. Các phụ nữ hành  nghề mại dâm ở Surat, Ấn Độ, có tỷ lệ dương tính (xét nghiệm bằng PACE2 test) là   8.5%, trong khi  ở  Ahmedabad, tỷ  lệ  này tăng gấp  đôi. Tỷ  lệ  bệnh nhân nhiễm  C.trachomatis trong quần thể nghiên cứu ở thủ đô của Ấn Độ  chỉ chiếm 4.0% mặc  dù tỷ lệ mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục là 36.5%. Tỷ lệ này tương tự với   các nghiên cứu trên bệnh nhân ở Azerbaijan 3.1% và Bangladesh 3.4%. Tỷ lệ nhiễm   cao được đề  cập  ở  Manila 23.3%, Cebu, Philippines 37.0% và 14.0%  ở  Nicaragoa  [11] .  16
  17. Anahita Jenab và cộng sự (năm 2008) [12] nghiên cứu giá trị  chẩn đoán PCR   và ELISA  trên vi khuẩn  C.trachomatis  ở  phụ  nữ  không có triệu chứng và triệu  chứng tại Isfahan, Iran nhằm xác định sự  hiện diện của   C.trachomatis bằng phản  ứng chuỗi trùng hợp polymerase (PCR) và ELISA. Mẫu được thu thập sau khi có sự  đồng   ý   bằng   văn   bản   từ   80   bệnh   nhân   khám   phụ   khoa   tại   bệnh   viện   Shahid   Beheshti ở Isfahan, Iran. Bệnh phẩm được thu thập từ 80 phụ nữ, 22 người trong số  họ không có triệu chứng và 58 người có triệu chứng. 58 phụ nữ có triệu chứng khác  nhau, từ 20­60 tuổi (có nghĩa là 36.3 ± 8.8 năm) và 22 phụ nữ không có triệu chứng  khác nhau, từ 19 đến 56 tuổi (40 ± 10.5 năm). Tất cả các phụ nữ này được kiểm tra  lâm sàng kỹ lưỡng. Độ tuổi trung bình của phụ nữ ở cả hai nhóm là 37.5 ± 9.4 năm.   Những người đã dùng kháng sinh trong vòng 4 tuần qua được loại trừ  khỏi nghiên  cứu. Các mẫu đã được kiểm tra bằng phương pháp PCR được thiết kế để phát hiện  C.trachomatis  bằng   cặp   mồi   KL1,   KL2   trên   cryptic   plasmid   của   vi   khuẩn   này.  Huyết thanh IgG và IgA kháng thể  kháng  C.trachomatis  sử  dụng phát hiện bằng  phương pháp ELISA. Một tăm bông chứa dịch phết cổ tử cung của mỗi bệnh nhân   được đặt vào một lọ nhựa 15 ml có chứa 5 ml dung dịch đệm (PBS) vô trùng và lưu  trữ ở ­70ºC cho đến khi tách chiết DNA. Ngoài ra, 5ml máu ngoại vi được thu thập  từ  mỗi bệnh nhân để  điều tra huyết thanh học. Kit ELISA được sử  dụng trong   nghiên cứu rất cụ  thể  để  phát  hiện  C.trachomatis  và không có bất kỳ  phản  ứng  chéo nào với các các loài khác của Chlamydia. Do đó, nó chỉ cho phép phát hiện các  kháng thể kháng C.trachomatis trong mẫu, tức là IgG, IgA. Phát hiện C.trachomatis  bằng phương pháp PCR: Để  phát hiện sự  hiện diện của C.trachomatis trong mẫu  dich phết cổ  tử  cung, đoạn gen 241 bp trên plasmid vi khuẩn đã được khuếch đại  nhờ   cặp   mồi   KL1   (5’­TCCGGAGCGAGTACGAAGA­3’)   và   KL2   (5’­ AATCAATGCCCGGGATT GGT­3’). Phản ứng PCR được thực hiện trên 5 μl chiết  xuất DNA mẫu trong một hỗn hợp phản ứng cuối cùng là 25 μl. Hỗn hợp phản ứng  cuối cùng có 3 mM MgCl2, 0.28 mM dNTP, 16 pmol của mỗi loại mồi và 1 U Taq  polymerase. Chu trình nhiệt đã được thực hiện như  sau: (94ºC/1 phút, 55ºC/1 phút,  72ºC/1 phút) × 40 chu kỳ, 72ºC trong 8 phút. Các sản phẩm PCR được phân tích   bằng điện di trên gel agarose 1.5%. Kết quả: tỷ  lệ   nhiễm  C.trachomatis  khi xét  nghiệm bằng phương pháp PCR là 27.2% ở phụ nữ không có triệu chứng và 18.9%  17
  18. trên đối tượng có triệu chứng. Kiểm tra huyết thanh học được thực hiện trên tất cả  các mẫu cho kết quả nhiễm C.trachomatis là 29.4% và 17.6% tương ứng [12].  Theo CDC, số các trường hợp chẩn đoán đã gia tăng đến 19%  ở  đàn ông và  25% ở phụ nữ giữa năm 2008 và 2009. Theo một điều tra mới đây với quy mô lớn,  các bệnh gây nên bởi C.trachomatis có thể có một vai trò quan trọng trong nguy cơ  sinh non. Hơn 4000 phụ nữ có thai đã tham dự  vào điều tra này bằng bảng câu hỏi   và lấy mẫu nước tiểu xét nghiệm  C.trachomatis  bằng kỹ  thuật sinh học phân tử  (PCR). Kết quả  có 4% các phụ  nữ  dương tính với vi khuẩn này [15]. Mặc dầu có   tính đến những yếu tố khác (tuổi dưới 21, nhiều bạn tình), nhưng nguy cơ sinh non,   sinh con từ  35 tuần thai nghén  ở các trường hợp nhiễm trùng do C.trachomatis cao  gấp đôi. Vì vậy, điều tra phát hiện các phụ  nữ có nguy cơ  và sử dụng thuốc kháng  sinh thích hợp trong thời kỳ thai nghén sẽ  cho phép làm giảm nguy cơ này.  Nhiễm  C.trachomatis có xu hướng ngày càng tăng, tỷ lệ phát hiện tại Mỹ năm 1987 là 50.8   ca (trong 100.000 dân); đến năm 2007 là 370.2 ca. Chi phí dành cho điều trị khoảng 3   tỷ USD/năm [18]. Hầu hết các phương pháp khuếch đại phát  hiện  C.trachomatis  trong mẫu  dịch niệu đạo, cổ tử cung và nước tiểu đã chứng minh là có độ nhạy cao hơn so với   nuôi cấy tế  bào hoặc các phương pháp phát hiện kháng nguyên (Black 1997). Các   phương pháp hiện đang có sẵn, chẳng hạn như Amplicor CT PCR, Roche phát hiện  sản   phẩm   khuếch  đại   bằng   cách   sử   dụng  peroxidase   (HRP).   Các   phương   pháp  thương mại có lợi thế  quan trọng, nhưng chi phí cao, không thích hợp với nhiều  phòng thí nghiệm. Một số phương pháp khuếch đại phi thương mại cũng được mô  tả. Hầu hết bao gồm một phản ứng PCR đơn có sản phẩm được phân tích dựa vào  sản   phẩm   điện   di   trên   gel   agarose   và   nhuộm   với   ethidium   bromide.   Tuy   nhiên   phương pháp này giảm độ  nhạy do các chất  ức chế  có trong các mẫu lâm sàng.   Ngay cả  trong trường hợp không có chất  ức chế, phản  ứng PCR có thể  không đủ  nhạy để phát hiện mẫu có chứa số lượng quá ít thể cơ bản (EB) của C.trachomatis.  Theo nghiên cứu của Pamela Cribb, Juan Pablo Scapini và Esteban Serra [22],  phản ứng nested PCR sử dụng hai cặp oligonucleotides (KL5/KL6 và KL1/KL2) làm  18
  19. mồi có trình tự bổ sung với các đoạn nằm trên cryptic plasmid của  C.trachomatis và  sau hai vòng khuếch đại tạo ra một sản phẩm cuối cùng 241 bp. Ban đầu, phản ứng  đầu tiên đã được chuẩn bị  trong thể  tích cuối cùng 50 µl có chứa 10 mM Tris (pH   9,0), 50 mM KCl, 3.5 mM MgCl2, 5 nmol mỗi loại dNTP, 20 pmol mỗi mồi KL5 (5­ TTGCCTTAACCCCACCATT­3) và KL6 (5­CGTCCTTCCTAAAAGAG­CTA­3) và  1.25 U Taq polymerase (Promega). Sau 35 chu kỳ bao gồm 1 phút  ở  94ºC, 1 phút  ở  55°C, và 1 phút ở 72°C và một bước kéo dài trong 7 phút ở 72°C; 1 µl sản phẩm của  phản  ứng PCR đầu tiên đã được chuyển sang một  ống phản  ứng thứ hai với cùng  thành  phần  ngoại  trừ   mồi   là   20  pmol  mỗi   loại  mồi   KL1  (5­TCCGGAGCGAG­ TTACTAAGA­3) và KL2 (5­ATCAATGCCCGGGATTGGT­ 3) đã được thêm vào  hỗn hợp phản  ứng, và 35 chu kỳ  mới được thực hiện. Các sản phẩm được phân  tích bởi điện di trên gel agarose và nhuộm ethidium bromide. Độ  nhạy của nested   PCR được xác định bằng cách sử dụng số lượng DNA của  C.trachomatis giảm dần.  Khảo nghiệm đã có thể phát hiện DNA tương ứng với một EB trong phản ứng. Tuy   nhiên, độ  nhạy theo thử  nghiệm lâm sàng có thể  thấp hơn do chất  ức chế PCR bị  loại bỏ không hoàn toàn trong quá trình tách chiết DNA. Các kết quả độ nhạy trong   thực nghiệm khác nhau dao động từ  1 đến 10 thể  cơ  bản (EB) mỗi phản  ứng. Để  tìm những điều kiện tốt nhất cho các xét nghiệm, thử  nghiệm nồng độ  khác nhau   cho các thành phần của phản ứng, khối lượng và số chu kỳ khuếch đại. Kết quả tối  ưu đạt được với phản ứng PCR đầu tiên trong 30 µl thể tích cuối cùng, có chứa 2.5  nmol dNTP mỗi loại, KL5/KL6 6 pmol mỗi mồi và 25 chu kỳ, tiếp theo với 50 µl   của hỗn hợp phản ứng thứ hai và 35 chu kỳ. Cuối cùng, để xác định xem phản ứng   có là một thử nghiệm chung xác định C.trachomatis hay không, các thí nghiệm tiến  hành bằng cách sử dụng các mẫu khác để xét nghiệm. Kiểm tra cho thấy độ  nhạy   tương tự đối với mẫu nước tiểu, dịch niệu đạo, dịch nhày mũi họng, và bệnh phẩm   từ mắt. Kết quả cho thấy nested PCR đối với phát hiện của C.trachomatis trong các  mẫu lâm sàng là rất nhạy, có thể  phát hiện ít hơn 10 EB mỗi phản  ứng trong các  mẫu sinh học khác nhau; loại bỏ đến mức thấp nhất việc phát hiện các kết quả âm  tính giả bằng cách sử dụng một kiểm soát nội bộ khuếch đại; đủ mạnh để đối phó  với các điều kiện thay đổi trong các phòng thí nghiệm khác nhau.  19
  20. 1.3.2. Các nghiên cứu trong nước Tại Thành phố Hồ Chí Minh, một số nghiên cứu trong cộng đồng cho thấy tỷ  lệ nhiễm C.trachomatis  ở phụ nữ thay đổi từ 18% đến 32.5%, trong đó một số yếu   tố nguy cơ được nhận diện như số bạn tình, độ tuổi bắt đầu quan hệ tình dục, tiền  căn bệnh phụ khoa. Năm 1995, khảo sát tỷ  lệ  hiện mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục  được Vụ Sức Khỏe Bà Mẹ Trẻ Em và Kế Hoạch Hóa Gia Đình của Bộ Y Tế thực   hiện ở Việt Nam [29]. Đối tượng là các phụ nữ đến khám tại Trung Tâm Sức Khỏe   Bà Mẹ Trẻ  Em và Kế  Hoạch Hóa Gia Đình thành phố  Hồ Chí Minh trong 10 tuần  gồm 812 phụ nữ ở độ tuổi 15 đến 39. Chẩn đoán bệnh lậu dựa trên nuôi cấy và xác   nhận bằng một xét nghiệm kháng thể  đơn dòng đặc hiệu cho   N.gonorrhoea. Sự  hiện diện của C.trachomatis được xác định bằng kỹ  thuật ELISA phát hiện kháng  nguyên (IDEIA) trong bệnh phẩm nội mạc cổ tử cung. TPHA được thực hiện cho   tất cả  các mẫu máu để  tìm bệnh giang mai. Tỷ lệ bệnh lây truyền qua đường tình   dục phát hiện được ở giang mai 0.5%, lậu 0.7% và C.trachomatis 2.5%. Một nghiên cứu cắt ngang về  nhiễm HIV và các yếu tố  nguy cơ   ở  phụ  nữ  mại  dâm   tại  phía   nam  Việt   Nam   đã   được   Nguyễn   Thị   Thanh   Thủy,   Võ   Tuyết  Nhung, Nguyễn Văn Thục, Trương Xuân Liên và Hạ Bá Khiêm thực hiện vào 1995­ 1996 [24]. Tổng cộng 968 phụ nữ mại dâm ở thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và   An Giang được làm xét nghiệm. Các xét nghiệm bệnh lây truyền qua đường tình  dục   được   thực   hiện   là:   nuôi   cấy   để   phân   lập   N.gonorrhoeae,   ELISA   (Sanofi,  Organon) để  phát hiện nhiễm HIV được xác nhận bằng Western Blot, TPHA cho  giang mai, DIF cho C.trachomatis và ELISA HBsAg cho HBV. Tỷ lệ hiện mắc của   các bệnh lây truyền qua đường tình dục được phát hiện là 40.4% cho giang mai,   3.3% cho lậu, 5.8% cho C.trachomatis, 5.2% cho HIV và 9% cho HBV. Trong thời gian từ tháng 2/1998 đến 3/1999, các tác giả đã khảo sát 415 phụ  nữ từ 15­49 tuổi có gia đình đang sống tại huyện Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh   [3]. Các đối tượng được chọn một cách ngẫu nhiên, nếu có đủ  điều kiện nghiên   cứu thì lập danh sách theo phương pháp ngẫu nhiên đơn, sau đó gửi thư  mời đối   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2