ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----o0o----
LÊ QUỐC VỤ ĐÌNH TÌNH QUANG KIẾN TRÚC VÀ ĐIÊU KHẮC Chuyên ngành: Khảo cổ học Mã số: 60 22 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: TS Lê Đình Phụng
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình tổng hợp và nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các tài liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, khách quan và
đƣợc trích nguồn rõ ràng. Những ý kiến khoa học chƣa từng đƣợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn
1
LÊ QUỐC VỤ
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................... 1
MỤC LỤC ............................................................................................... 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..................................................... 4
DANH MỤC PHỤ LỤC ......................................................................... 5
MỞ ĐẦU ................................................................................................. 9
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................. 9
2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................... 10
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ........................................................ 11
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................. 11
5. Kết quả và đóng góp của luận văn .................................................... 11
6. Bố cục luận văn ................................................................................. 12
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TƢ LIỆU .................................................... 13
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................. 13
1.2. Không gian, vị trí đình Tình Quang ............................................... 20
1.3. Nhân vật đƣợc thờ tại đình Tình Quang ........................................ 21
1.3.1. Tìm hiểu về Thành hoàng và Thành hoàng làng ........................ 21
1.3.2. Nhân vật đƣợc thờ tại đình Tình Quang ..................................... 23
1.4. Tiểu kết .......................................................................................... 28
Chƣơng 2: KIẾN TRÚC ĐÌNH TÌNH QUANG .................................. 30
2.1. Tìm hiểu về cảnh quan, không gian đình làng ............................... 30
2.2. Cảnh quan, không gian đình Tình Quang ...................................... 35
2.3. Kiến trúc đình Tình Quang ............................................................ 37
2.3.1. Một vài khái niệm về kiến trúc đình làng ................................... 37
2.3.2. Kiến trúc đình Tình Quang ......................................................... 41
2.3.2.1. Bố cục mặt bằng ....................................................................... 42
2
2.3.2.2. Hồ bán nguyệt (Ao đình) ......................................................... 45
2.3.2.3. Bình phong ............................................................................... 45
2.3.2.4. Nghi môn .................................................................................. 45
2.3.2.5. Nhà Tả vu, Hữu vu ................................................................... 48
2.3.2.6. Đại đình .................................................................................... 49
2.3.2.7. Hậu cung .................................................................................. 52
2.4. Tiểu kết .......................................................................................... 55
Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC, TRANG TRÍ VÀ ĐỊNH
HƢỚNG BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐÌNH TÌNH QUANG ........ 56
3.1. Vài nét về nghệ thuật điêu khắc, trang trí đình làng ...................... 56
3.1.1. Vài trò, vị trí của nghệ thuật điêu khắc, trang trí đình làng ........ 56
3.1.2. Kỹ thuật điêu khắc, trang trí đình làng ....................................... 59
3.2. Nghệ thuật điêu khắc, trang trí đình Tình Quang .......................... 63
3.2.1. Nghệ thuật trang trí trên đất nung, vôi vữa ................................. 63
3.2.2. Nghệ thuật điêu khắc, trang trí trên gỗ ....................................... 64
3.2.3. Một số hiện vật của đình Tình Quang ......................................... 70
3.3. Niên đại đình Tình Quang .............................................................. 73
3.3.1. Niên đại kiến trúc Đại đình ......................................................... 73
2.3.2. Niên đại các công trình khác ....................................................... 74
3.4. Định hƣớng bảo tồn, phát huy giá trị đình Tình Quang ................ 74
3.4.1. Những quy định về bảo tồn và phát huy giá trị di tích ............... 74
3.4.2. Những nguyên tắc cơ bản để bảo quản, tu bổ và phát huy giá trị
đình Tình Quang ................................................................................... 77
3.5. Tiểu kết .......................................................................................... 80
KẾT LUẬN ........................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 87
3
PHỤ LỤC .............................................................................................. 94
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CÁC CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
Bd. Bản dịch
DSVH Di sản văn hóa
KCH Khảo cổ học
KHXH Khoa học Xã hội
Nxb Nhà xuất bản
PGS Phó Giáo sƣ
TP HCM Thành phố Hồ Chí Minh
T/c Tạp chí
tr. Trang
TS Tiến sỹ
VHDT Văn hóa dân tộc
4
VHNT Văn hóa nghệ thuật
DANH MỤC PHỤ LỤC
BẢN ĐỒ, SƠ ĐỒ
Bản đồ 01: Thành phố Hà Nội [Nguồn: Tập bản đồ hành chính 63 tỉnh,
thành phố Việt Nam, Nxb Tài nguyên - Môi trƣờng và Bản đồ Việt
Nam, Hà Nội 2013]
Bản đồ 02: Quận Long Biên [Nguồn: Tập bản đồ hành chính 63 tỉnh,
thành phố Việt Nam, Nxb Tài nguyên - Môi trƣờng và Bản đồ Việt
Nam, Hà Nội 2013]
Sơ đồ 03: Khoanh vùng bảo vệ di tích, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản
văn hóa]
BẢN VẼ
Bản vẽ 01: Mặt bằng định vị các hạng mục công trình
Bản vẽ 02: Mặt đứng Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản vẽ 03: Mặt đứng Đại đình
Bản vẽ 04: Mặt bằng nền Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản vẽ 05: Mặt bằng nền Đại đình
Bản vẽ 06: Mặt đứng bên
Bản vẽ 07: Mặt cắt, năm 1992 [Nguồn Cục Di sản văn hóa]
Bản vẽ 08: Mặt cắt A - A
Bản vẽ 09: Mặt cắt B - B
Bản vẽ 10: Mặt cắt C - C
Bản vẽ 11: Mặt cắt D - D
Bản vẽ 12: Mặt cắt E - E
Bản vẽ 13: Chi tiết vì trục 4, 5, 6, 7
Bản vẽ 14: Chi tiết vì trục (C1 - C3’), (D1’ - D3), (C8 - C10’), (D - D10’)
5
Bản vẽ 15: Chi tiết vì trục G
Bản vẽ 16: Chi tiết vì trục H, K
Bản vẽ 17: Chi tiết vì nách 3, 4, 5, 6, 7, 8
Bản vẽ 18: Chi tiết vì trục 3, 8
BẢN ẢNH
Bản ảnh 01: Vị trí di tích đình Tình Quang chụp từ vệ tinh [Nguồn:
Google Earth 2015]
Bản ảnh 02: Ao đình, năm 2007
Bản ảnh 03: Hồ bán nguyệt (Ao đình)
Bản ảnh 04: Nghi môn
Bản ảnh 05: Toàn cảnh đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 06: Toàn cảnh đình
Bản ảnh 07: Mặt đứng Đại đình
Bản ảnh 08: Mặt bên Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 09: Mặt bên Đại đình, năm 2007
Bản ảnh 10: Chi tiết “Lƣỡng long chầu nhật” trên bờ nóc Đại đình
Bản ảnh 11: Chi tiết kìm nóc trên mái Đại đình
Bản ảnh 12: Bẩy hiên phía trƣớc Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di
sản văn hóa]
Bản ảnh 13: Bẩy hiên phía trƣớc Đại đình
Bản ảnh 14: Bẩy hiên phía sau Đại đình, năm 2008 [Nguồn: Lê Thu
Phƣơng]
Bản ảnh 15: Bẩy hiên góc Đại đình, năm 2008 [Nguồn: Lê Thu
Phƣơng]
Bản ảnh 16: Tả vu
Bản ảnh 17: Hữu vu
Bản ảnh 18: Hậu cung
6
Bản ảnh 19: Không gian Đại đình
Bản ảnh 20: Vì nóc, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 21: Trang trí trên cốn Đại đình, năm 1992 [Nguồn Cục Di sản
văn hóa]
Bản ảnh 22: Trang trí trên cốn Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản
văn hóa]
Bản ảnh 23: Mảng chạm hình chim phƣợng trên cốn, năm 1992
[Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 24: Mảng chạm tiên cƣỡi rồng, năm 1996 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]
Bản ảnh 25: Mảng chạm tiên cƣỡi rồng
Bản ảnh 26: Hệ thống đầu dƣ
Bản ảnh 27: Hệ thống đầu dƣ
Bản ảnh 28: Mảng chạm rồng, năm 1996 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]
Bản ảnh 29: Mảng chạm tiên cƣỡi rồng, năm 1996 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]
Bản ảnh 30: Mảng chạm hình ngƣời ở đuôi đầu dƣ, năm 2006 [Nguồn:
Vũ Văn Hòa]
Bản ảnh 31: Mảng chạm hình ngƣời ở đuôi đầu dƣ
Bản ảnh 32: Mảng chạm hình con nghê ở đuôi đầu dƣ, năm 2006
[Nguồn: Vũ Văn Hòa]
Bản ảnh 33: Mảng chạm hình con lân
Bản ảnh 34: Mảng chạm hình con rồng
Bản ảnh 35: Mảng chạm hình chim phƣợng, năm 2006 [Nguồn: Vũ
Văn Hòa]
Bản ảnh 36: Mảng chạm hình chim phƣợng
Bản ảnh 37: Mảng chạm mả táng hàm rồng
Bản ảnh 38: Trang trí trên vì nách Đại đình
Bản ảnh 39: Trang trí trên vì nách Đại đình
7
Bản ảnh 40: Trang trí trên vì nách Đại đình
Bản ảnh 41: Nền Đại đình [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 42: Nền Đại đình, năm 2007
Bản ảnh 43: Nền Đại đình
Bản ảnh 44: Bộ cửa Đại đình
Bản ảnh 45: Chân tảng cũ
Bản ảnh 46: Chân tảng mới
Bản ảnh 47: Gian thờ giữa Đại đình
Bản ảnh 48: Cửa võng Hậu cung
Bản ảnh 49: Cốn Hậu cung [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 50: Bài trí đồ thờ trong Hậu cung, năm 1992 [Nguồn: Cục Di
sản văn hóa]
Bản ảnh 51: Long đình
8
Bản ảnh 52: Ngựa thờ tại Đại đình
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cƣ dân nƣớc ta chủ yếu là nông dân, sinh sống trong các làng xã,
một đơn vị hành chính cơ bản của xã hội Việt Nam, đóng vai trò quan trọng
trọng lịch sử, văn hoá dân tộc. Thời Trung đại và Cận đại đã xuất hiện và tồn
tại ở hầu hết làng xã một sản phẩm văn hoá đặc sắc đó là các công trình tôn
giáo, tín ngƣỡng, mà nổi bật nhất là đình, chùa làng. Trải qua quá trình lịch
sử, đình, chùa làng và các di tích tôn giáo tín ngƣỡng khác của ngƣời Việt
chiếm một vị trí đặc biệt và quan trọng trong kho tàng di sản văn hoá Việt
Nam, là sản phẩm văn hoá vật thể đặc trƣng của ngƣời Việt và trong ký ức
của mỗi ngƣời dân Việt Nam cây đa, giếng nước, sân đình mãi mãi là hình
ảnh quê hƣơng với bao thân thƣơng và đầy ắp ký ức.
Trong công cuộc đƣa đất nƣớc tiến lên theo định hƣớng Xã hội Chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nƣớc ta chủ trƣơng xây dựng một
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Vì vậy, tìm hiểu,
nghiên cứu về đình làng là một trong những ngả đƣờng tìm về cội nguồn, về
bản sắc văn hoá dân tộc trong lịch sử.
1.2. Đình làng Việt hiện còn có sớm nhất là những đình làng của thế kỷ
XVI. Đình làng cùng với các công trình tôn giáo, tín ngƣỡng khác, nhƣ chùa,
đền, phủ… gắn bó mật thiết với nhau đã tạo thành cụm di tích không thể tách
rời, chi phối đời sống văn hóa làng xã. Đối với khảo cổ học nói riêng và đối
với khoa học lịch sử nói chung, đình làng là đối tƣợng nghiên cứu cần đƣợc
quan tâm.
Theo các nhà nghiên cứu, thế kỷ XVII là giai đoạn hƣng thịnh của kiến
trúc điêu khắc dân gian Việt, tiêu biểu nhất là nghệ thuật kiến trúc và điêu
9
khắc đình làng. Còn lại với chúng ta ngày nay, trong đó có những công trình
kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, làm rạng danh di sản kiến trúc cổ truyền của
dân tộc. Trong số đó, đình Tình Quang (Long Biên, Hà Nội) nổi lên nhƣ là
một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, đặc sắc. Đình Tình
Quang hiện còn giữ đƣợc đầy đủ các hạng mục kiến trúc cùng với các thành
phần, cấu kiện kiến trúc thế kỷ XVII, XVIII, XIX.
Với giá trị kiến trúc tiêu biểu, đặc sắc nhƣ vậy, nhƣng đình Tình
Quang, trừ một vài bài viết, hình ảnh mô tả một cách khái lƣợc về kiến trúc,
nghệ thuật điêu khắc, một khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Trƣờng Đại học
Văn hóa Hà Nội (2008) viết về đình Tình Quang còn lại tới nay vẫn chƣa có
một công trình khảo cứu đầy đủ, cụ thể và toàn diện về di tích này.
1.3. Đƣợc làm việc tại Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, tôi có mong muốn tìm hiểu về di tích kiến trúc cổ. Việc hiểu biết về
di tích kiến trúc cổ sẽ giúp tôi có nhận thức đúng đắn, sự trân trọng với những
di sản của ông cha để lại, từ đó có những định hƣớng tích cực cho việc bảo
tồn và phát huy giá trị di tích.
Từ những lý do đó, tôi chọn đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học, Chuyên
ngành Khảo cổ học là: Đình Tình Quang kiến trúc và điêu khắc.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Khảo tả, phân tích cụ thể về cảnh quan, môi trƣờng làng Tình
Quang xƣa; về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc ở đình Tình Quang.
2.2. Nhìn nhận, đánh giá lại một số vấn đề về kiến trúc cổ và điêu khắc,
trang trí thuộc phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII, XVIII, XIX.
2.3. Suy nghĩ, đánh giá về loại hình kiến trúc đình làng trong dòng phát
10
triển chung của kiến trúc Việt.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn đã đƣợc chỉ rõ trong tên đề tài:
đình Tình Quang kiến trúc và điêu khắc.
3.2. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của luận văn còn đƣợc mở rộng
làm cơ sở so sánh, khẳng định giá trị của đình Tình Quang trong hệ thống
kiến trúc đình Việt Nam.
Ngoài ra, để có thêm tƣ liệu đối sánh về các trang trí điêu khắc, tôi sẽ
sử dụng cả các tƣ liệu mỹ thuật cổ (điêu khắc và đồ họa) trên các chất liệu
khác. Đó là những đồ án trang trí trên đồ gốm, đồ sứ, đồ đá và gạch trang trí
kiến trúc có ghi niên đại chính xác của thế kỷ XVII, XVIII, XIX.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Sử dụng các phƣơng pháp của khảo cổ học trong khảo sát điền dã
thực địa là các thao tác lấy tƣ liệu bằng: đo, vẽ, chụp ảnh, rập thác bản hoa
văn và văn bia. Trong nghiên cứu là cách khảo tả, so sánh, phân tích và tổng
hợp về nghệ thuật, kết cấu kiến trúc và nghệ thuật trang trí.
4.2. Kết hợp liên ngành, nhƣ sử dụng các phƣơng pháp, thao tác của
Hán Nôm, nghệ thuật, kiến trúc.
4.3. Phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét,
nhìn nhận các sự việc, hiện tƣợng và sự kiện lịch sử.
5. Kết quả và đóng góp của luận văn
5.1. Hệ thống hoá tƣ liệu về đình Tình Quang.
5.2. Phân tích, nêu bật các giá trị về kiến trúc, điêu khắc trang trí của
đình Tình Quang.
5.3. Cung cấp tƣ liệu, thông tin và định ra niên đại khởi dựng của đình
Tình Quang.
5.4. Cung cấp tài liệu phục vụ cho công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy
11
giá trị di tích.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn
gồm 03 chƣơng:
- Chƣơng 1: Tổng quan tƣ liệu;
- Chƣơng 2: Kiến trúc đình Tình Quang;
- Chƣơng 3: Nghệ thuật điêu khắc, trang trí và định hƣớng bảo tồn, phát
huy giá trị đình Tình Quang.
Ngoài ra, trong luận văn còn các mục: Tài liệu tham khảo và Phụ lục.
Phần đầu của luận văn có Lời cam đoan, Mục lục, Danh mục các chữ viết tắt
12
và Danh mục phụ lục.
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TƢ LIỆU
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đình làng là một công trình kiến trúc đƣợc coi là lớn nhất của làng xã,
là một trung tâm văn hóa truyền thống của cộng đồng. Ngôi đình làng Việt là
một đối tƣợng của nhiều nhà nghiên cứu để tìm hiểu về văn hóa nghệ thuật
truyền thống của dân tộc và góp phần giới thiệu với công chúng những giá trị
văn hóa nghệ thuật của ông cha.
Vào những năm đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu của Học viện
nghiên cứu Viễn Đông thuộc Pháp là những ngƣời đầu tiên đã chú ý đến các
ngôi đình làng của ngƣời Việt.
Nghiên cứu dƣới góc độ nghệ thuật kiến trúc, Louis Bezacier trong
công trình L’Art Viêtnamien đã viết: Đình làng là trung tâm toàn bộ xã hội
Việt Nam thời cổ, cũng là nơi ít chịu ảnh hƣởng của phong cách kiến trúc
Trung Hoa nhất... Ngôi đình đã trở thành một trong những công trình có vẻ
oai nghiêm nhất trong phong cảnh Việt Nam [87].
Có thể thấy rằng, ở thời kỳ đầu, các nhà nghiên cứu chú trọng nhiều
hơn về vấn đề tôn giáo - tín ngƣỡng. Ngôi đình làng đƣợc nhìn nhận nhƣ là
một dấu vết đang phôi phai của chế độ quân chủ. Cho đến những năm 70 - 80
của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ thuộc Viện Mỹ thuật Việt
Nam đã tiếp nối việc nghiên cứu đình làng. Đó là các bài viết của Trần Lâm
Biền, Nguyễn Tiến Cảnh, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Du Chi, Trần Mạnh
Phú, Chu Quang Trứ, Thái Bá Vân… Ngôi đình làng đƣợc nhấn mạnh, ca
ngợi nhƣ một điểm sáng của nghệ thuật dân gian Việt. Trong thời kỳ này đã
xuất hiện một thuật ngữ khoa học mới điêu khắc đình làng. Các nghiên cứu
13
điền dã đó đã làm “sống lại” hàng loạt ngôi đình khắp các làng quê Việt Nam.
Cũng từ góc độ mỹ thuật, hai nhà nghiên cứu Nguyễn Quân và Phan Cẩm
Thƣợng đã góp một tiếng nói về nghệ thuật của ngƣời Việt với đình làng.
Thời kỳ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, với một loạt bài viết trên
Tạp chí Khảo cổ học và Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, cố PGS.TS Trịnh
Cao Tƣởng đã đi sâu hơn về nhiều vấn đề của đình làng nhƣ: Các tƣ liệu về
niên đại, đất dựng đình, mặt bằng tổng thể, cấu trúc bộ mái, kết cấu bên trong
ngôi đình với vấn đề dân tộc và hiện đại cùng hình tƣợng kiến trúc của ngôi
đình. Công trình khảo cứu về Đình Việt Nam của GS Hà Văn Tấn cùng các
cộng sự cũng là nguồn tài liệu mà những ngƣời đi sau muốn tìm hiểu, nghiên
cứu về đình đều lấy đó để làm tài liệu tham khảo.
Nhƣ vậy, đến thời kỳ này, các ngôi đình làng trên cả nƣớc, với niên đại
trải dài suốt từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX đã đƣợc phát hiện hoặc nhìn nhận
lại dƣới những góc độ khác nhau. Trong khoảng hơn một thế kỷ, có rất nhiều
nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc đã khảo cứu, tìm hiểu về ngôi đình làng
Việt, cũng từ đây đã nảy sinh nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau về lịch sử,
nguồn gốc của ngôi đình.
Theo Từ điển tiếng Việt, đình có nghĩa là: “Nhà công cộng của làng
thời trước, dùng làm nơi thờ thành hoàng và họp việc làng (thường là nhà to,
rộng nhất làng)” [46, tr. 324].
Trong nhận thức của nhiều ngƣời, khi nói đến ngôi đình, ngƣời ta nghĩ
ngay tới kiến trúc lớn nhất của làng xã, đồng thời, cũng có thể coi đây là một
kiến trúc bắt nguồn từ thời Tiền sử, Sơ sử của dân tộc. Nhiều nhà nghiên cứu
của thế kỷ XX đã cố công ngƣợc dòng lịch sử để tìm về nguồn gốc của ngôi
đình, họ đã tiếp cận từ góc độ các vị thần linh liên quan, trên cả phƣơng diện
so sánh kiến trúc với những ngôi nhà có nét tƣơng đồng của tộc ngƣời thiểu
14
số để gần nhƣ tin rằng ngôi đình của ngƣời Việt là một sản phẩm của sự vận
động tự thân dân tộc, là sự tổng hòa của nhiều dòng chảy văn hóa nhƣ: nhà
sàn, nhà rông (Tây Nguyên), nhà thuyền ven biển cùng nhiều yếu tố khác.
Nhiều nhà nghiên cứu của Học viện nghiên cứu Viễn Đông thuộc Pháp
đã liên hệ, so sánh và cho rằng có sự tƣơng đồng của đình làng Việt với
những kiến trúc công cộng khác của các dân tộc ít ngƣời ở Tây Nguyên và
vùng Đông Nam Á. Đồng quan điểm này, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn
Huyên cho rằng, đình làng giống kiểu thức nhà công cộng của cƣ dân Minang
Kabau (đảo Sumatra). Nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc cũng liên tƣởng
đình làng Việt với kiểu nhà sàn Malayo mà giáng dấp còn lƣu lại ở một tộc ít
ngƣời hiện còn sống ở phía Nam quần đảo Nhật Bản [45]. Cố PGS.TS Trịnh
Cao Tƣởng đã viết: “Hầu như tất cả những người nghiên cứu đình làng đều
có một dự cảm chung rằng: đình làng đã từng tồn tại trong nền văn hoá Việt
cổ từ hàng ngàn năm trước với tư cách là một căn nhà công cộng - nhà làng,
tương tự như nhà rông của đồng bào Bana” [68, tr. 41-51]. Nhƣng cũng theo
ông thì: “… chúng ta chưa có bất cứ một tư liệu khảo cổ học về đình hoặc là
một hình thức gạch nối giữa nhà làng và cái đình” [68, tr. 41-51]. Cố PGS
Nguyễn Du Chi có ý kiến: “Tuy nhiên, từ ngôi nhà sàn mái cong khắc trên
trống đồng Đông Sơn mà được nhiều nhà nghiên cứu coi như tiền thân xa xôi
của ngôi đình làng thời Mạc mà chúng ta còn thấy ngày nay là một dấu gạch
nối dài đòi hỏi những phát hiện tìm tòi của nhiều nhà khoa học nữa mới có
thể đi đến kết luận rõ ràng được” [17, tr.12].
Cũng có ngƣời suy luận theo một ngữ nghĩa của chữ đình là dừng lại,
cho rằng đình có xuất phát từ đình trạm. Hay nhƣ khi dời đô từ Hoa Lƣ ra
Thăng Long, nhà Lý đã bắt dân vùng ven sông Đáy cứ 10 dặm lại dựng một
đình cho vua nghỉ và kiến trúc này trở thành đình làng. Trong khi đó, PGS.TS
Trần Lâm Biền lại nhìn nhận ngôi đình làng nhƣ một sản phẩm của sự giao
15
thoa, hòa hợp giữa tƣ tƣởng Nho giáo và nhu cầu xã hội có tính dân giã để từ
đó định mốc niên đại ra đời của ngôi đình làng là vào cuối thế kỷ XV. Theo
ông, đình làng khởi nguyên là: “một nhà công cộng để nghỉ chân (đình
chạm)” rồi “có những ngôi đã trở thành kiến trúc công cộng của làng xã” [5,
tr. 38-43, 53].
Thực tế, trong lịch sử đã từng tồn tại nhiều loại đình khác nhau: “Tương
truyền, vào thời Đinh và Tiền Lê (968 - 980 và 980 - 1009), sứ giả các vùng và
các lân quốc thường đi thuyền về kinh đô, lên nghỉ tại Dịch Đình này trước khi
được vào bệ kiến. Tuy vậy, từ những căn cứ nêu trên cũng chỉ có thể suy luận
rằng Dịch Đình là tiền thân của kiến trúc Quán Sứ về sau” [33, tr. 2].
Văn bia chùa Linh Xứng, dựng năm 1126 có ghi: “Kế bên sông có cái
đình nhỏ. Thường thuyền bè qua lại đó để nghỉ ngơi” và cho đến nay, có lẽ
đây văn bản cổ Việt Nam đầu tiên có chữ đình (亭).
Một loại kiến trúc cũng đƣợc gọi là “đình” đƣợc đề cập tới là vào triều
Lý. Đại Việt sử ký toàn thƣ chép: “Bính Tý, [Đại Định] năm thứ 17 [1156].
Làm hành cung Ngự Thiên, điện Thụy Quang, gác Ánh vân, cửa Thanh Hòa,
thềm Nghi Phượng, gác Diện Phỳ, đình Thưởng Hoa, thềm Ngọc Hoa, hồ Kim
Liên, cầu Minh Nguyệt” [21, tr. 145].
Thƣởng Hoa đình này hẳn là tòa nhà để vua quan dừng chân nghỉ ngơi,
thƣởng thức vẻ đẹp của hoa và có lẽ nó cũng tƣơng tự nhƣ loại Lan đình đƣợc
Đại Việt sử ký toàn thƣ nhắc tới dƣới thời Trần: “Mậu Thìn, [Thiệu Long]
năm thứ 11 [1269]. Mùa Xuân, tháng giêng, ... xuống chiếu cho các vương
hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào trong điện và Lan đình. Vua cùng ăn uống
với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê
giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau.”.
Cũng Đại Việt sử ký toàn thƣ ghi sự kiện năm 1231: “Thượng hoàng
16
xuống chiếu rằng trong nước hễ chỗ nào có đình Trạm đều phải đắp tượng
phật để thờ. Trước đây, tục nước ta vì nóng bức, nên làm nhiều đình cho
người đi đường nghỉ chân, thường quét vôi trắng, gọi là đình Trạm. Thượng
hoàng khi còn hàn vi từng nghỉ ở đó...” [21, tr. 163].
Cƣơng Mục cũng ghi về sự kiện này nhƣng không gọi là đình Trạm mà
gọi là Dịch đình [52]. Nhƣ vậy, loại kiến trúc này cũng ít nhất phải có từ thời Lý.
Trịnh gia thế phả đã cung cấp cho chúng ta tên gọi một loại đình khác
đó là đình Mục Đồng. Theo sách này cho biết thì, thủa hàn vi Trịnh tổ thủa
nhỏ đi chăn trâu bao giờ cũng đóng vai trò thủ lĩnh trong đám trẻ mục đồng.
Có thể, nó cũng tƣơng tự nhƣ một dạng quán nghỉ giữa đồng, ven đƣờng,
vẫn còn đây đó tại các vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Đó thƣờng là
những ngôi nhà nhỏ, ba gian (có chái hoặc không chái), đƣợc dựng dƣới bóng
cây lớn, là nơi mọi ngƣời có thể dừng chân nghỉ ngơi tránh mƣa, nắng.
Rõ ràng Dịch đình, đình Trạm, Lan đình, Thƣởng Hoa đình hay đình
Mục Đồng là một loại kiến trúc hoàn toàn khác, không thể giống những ngôi
đình làng nhƣ ta vẫn thấy hiện nay. Thậm chí đình làng còn ngƣợc lại hẳn với
đình Trạm. “Trên một cái kẻ của đình làng Phù Lưu (Bắc Ninh) còn ghi:... kẻ
nào cho khách đi đường và bọn công thương trú ngụ (ở trong đình) thì xin
thần linh tru diệt” [78, tr. 82].
Sang thế kỷ XV, dƣới thời Lê sơ, một loại đình đƣợc nhà nƣớc cho
dựng ở kinh đô, dùng làm nơi niêm yết, ban bố chính lệnh: đình Quảng Văn.
Sách Cƣơng mục chép: “Tháng 10, mùa đông (năm Tân Hợi 1491) dựng đình
Quảng Văn. Trước đây, khi nào có chiếu lệnh của nhà vua ban ra, lúc ấy mới
đem treo bảng yết thị. Đến nay, dựng đình ở ngoài cửa Đại Hưng làm nơi
treo những pháp lệnh về việc chính trị. Khi đình ấy đã lạc thành, nhà vua đặt
tên cho là đình Quảng Văn”. Đại Việt sử ký toàn thƣ cũng ghi về sự việc này
17
và chú thích thêm: Quảng Văn nghĩa là truyền bá rộng: “Đình này ở trong
Long thành, phía trước Phụng Lâu, có ngòi Ngân Câu chảy quanh hai bên tả
hữu” [21].
Chúng ta chƣa thấy có nét tƣơng đồng giữa đình Quảng Văn với những
ngôi đình làng hiện nay. Tuy nhiên, những tƣ liệu khác cho phép chúng ta
nghĩ rằng đình làng đã xuất hiện dƣới thời Lê sơ (thế kỷ XV) - giai đoạn Nho
giáo đƣợc đề cao ở nƣớc ta. Đại Việt sử ký toàn thƣ chép sự kiện năm 1522:
“Bọn Hưng Hiền bốn người mang mộc, cầm giáo từ phường Phục Cổ đánh
thẳng vào Điện Thụy Quang. Vua bèn tránh ra đóng ở đình cũ xã Nhân Mục”
[21]. Điều này cũng phù hợp với tên một tấm bia ở đình Yên Mô (Ninh Bình)
có niên đại 1472: “Yên Mô xã đình bi ký” [78, tr. 83].
Thông qua các tài liệu, có thể thấy đƣợc trong lịch sử đã từng tồn tại
nhiều loại kiến trúc có tên gọi chung là đình: ngôi nhà vuông - Phƣơng đình;
kiến trúc có mái tròn - Viên đình; nhà trên mặt nƣớc - Thủy đình; nơi nhàn
tản - Hoa đình, Lƣơng đình; nhà che bia - Bi đình; cầu có mái - Kiều đình; rồi
Trạm đình, Quán đình, Dịch đình. Tất cả đều hàm nghĩa là một ngôi nhà, một
công trình, một đơn nguyên. Điểm khác nhau chỉ là về hình dáng và công
năng. Nếu nhìn nhận theo ngôn ngữ học thì tính từ chỉ rõ sự khác nhau của
các kiến trúc này thƣờng đứng trƣớc. Cấu trúc cũng cho thấy nguồn gốc
Trung Hoa của các kiến trúc đó. Nhƣng đình làng (hay hiểu một cách chính
xác hơn đình của làng) thì rõ ràng là một từ thuần Việt. Các ngôi đình làng
nên đƣợc hiểu là một kiến trúc độc lập, không có nguồn gốc từ bất kỳ một
công trình nào khác có cùng tên gọi. Nghĩa là đình làng là đình làng và kiến
trúc này chỉ là mƣợn tên chứ không hề có nguồn gốc Hán hay ngoại lai [38].
Nhƣ vậy, về nguồn gốc ra đời của ngôi đình làng còn nhiều ý kiến khác
nhau, nhƣng theo nhận xét của GS Hà Văn Tấn... “mặc dù còn thiếu chứng
cứ, ta tin rằng đình - ngôi nhà chung của làng xã đã xuất hiện từ lâu đời, nếu
18
không phải là thời Tiền sử thì cũng là thời Sơ sử của dân tộc. Tất nhiên là
thời đó, chưa được gọi là đình, một từ vay mượn của Trung Hoa” [55, tr. 20].
Tới cuối thế kỷ XV, cùng với sự phát triển của lịch sử, của ý thức hệ Nho
giáo, ngôi đình làng - sản phẩm kiến trúc thuần Việt nhất đã ra đời. Tuy
nhiên, dấu vết vật chất của loại hình kiến trúc này đến nay mới chỉ đƣợc tìm
thấy ở thế kỷ XVI và với niên đại “tu lý” năm 1531 khắc trên cột cái, đình
làng Thụy Phiêu (Ba Vì, Hà Tây cũ) hiện đƣợc coi là ngôi đình cổ nhất nƣớc
[74]. Ngoài đình làng Thụy Phiêu, hiện còn một số ngôi đình làng khác vẫn
bảo tồn đƣợc những yếu tố về mặt niên đại, phong cách nghệ thuật thế kỷ
XVI, cho phép chúng ta nghĩ rằng ở giai đoạn này, ngôi đình đã thành một
thực thể văn hoá của làng xã.
Nếu ở thế kỷ XVI, đình làng còn thƣa thớt thì sang những thế kỷ sau,
các ngôi đình làng đã xuất hiện ngày càng nhiều và giai đoạn cuối thế kỷ
XVII đƣợc coi là giai đoạn “bùng nổ” của những ngôi đình làng Việt và trở
thành một kiến trúc to lớn nhất trong mỗi làng quê của ngƣời Việt.
Thế kỷ XVIII, XIX và đầu XX, đình làng vẫn là những công trình to
lớn nhất của cả làng và ngày càng phát huy mạnh hơn chức năng ban đầu, đó
tụ hội họp của cộng đồng làng khi có việc chung. Nhiều ngôi đình làng ra đời
là sản phẩm do sự bảo trợ của tầng lớp tiểu thƣơng nhiều tiền của, nhƣ đình
làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), đình làng Lại Yên (Hoài Đức, Hà Tây
cũ). Cũng từ giai đoạn này, Thành hoàng đƣợc thờ trong Hậu cung bao kín,
cách biệt, tạo nên sự thâm nghiêm, xa cách dân thƣờng và thần nhƣ “thiêng”
hơn trong con mắt ngƣời dân.
Dƣới góc độ kiến trúc, từ thế kỷ XVIII, các công trình nhƣ Tiền tế, Tả
vu, Hữu vu dần xuất hiện, tạo cho mặt bằng tổng thể của ngôi đình càng ngày
càng phức tạp, theo xu hƣớng phân biệt tầng lớp. Bên cạnh đó, do hoàn cảnh
đặc biệt của dân tộc ta, nhiều ngôi đình làng (cũng nhƣ những di tích cổ
19
truyền khác), trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân đã trở thành những
cơ sở cách mạng, nơi nuôi giấu và phát động những phong trào đấu tranh yêu
nƣớc ở từng địa phƣơng. Điển hình trong số đó phải kể tới đình làng Đình
Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), đình Võ Liệt (Thanh Chƣơng, Nghệ An), đình
Liên Trì (Yên Thành, Nghệ An)... Những ngôi đình làng đó đã thành địa chỉ
đỏ, nơi giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng, uống nƣớc nhớ nguồn cho
các thế hệ con cháu mai sau…
1.2. Không gian, vị trí đình Tình Quang
Làng Tình Quang hiện nay thuộc phuờng Giang Biên, quận Long Biên,
thành phố Hà Nội. Phƣờng Giang Biên là một đơn vị hành chính đƣợc chuyển từ xã lên phƣờng (năm 2004) với diện tích trên 4km2 (trƣớc nữa là xã Giang
Biên thuộc huyện Gia Lâm). Nằm ở phía Đông Bắc của quận Long Biên,
phƣờng Giang Biên cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 10km về phía
Bắc, có vị trí địa lý phía Bắc giáp cầu Đuống và khu nhà máy Diêm Gỗ; phía
Tây giáp phƣờng Việt Hƣng; phía Đông giáp phƣờng Phúc Lợi; phía Nam
tiếp giáp sông Đuống.
Gia Lâm, vào thời Hùng Vƣơng, thuộc bộ Vũ Ninh của nƣớc Văn
Lang. Theo Đại Việt sử ký toàn thƣ, Gia Lâm đƣợc lập thành một quận và có
tên chính thức từ thời Lý. Đến thời Trần, quận Gia Lâm đƣợc đổi thành huyện
thuộc lộ Bắc Giang. Ở thời Lê thuộc phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc. Năm thứ 3,
niên hiệu Minh Mệnh (1822) thuộc phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh. Thời kỳ
Pháp thuộc, đây vẫn thuộc tỉnh Bắc Ninh, đến năm 1961 chính thức về Hà
Nội. Làng Tình Quang (nay là cụm dân cƣ Tình Quang) là một trong những
ngôi làng cổ có lịch sử tồn tại lâu đời của vùng đất Gia Lâm xƣa và nay là
quận Long Biên.
Tình Quang, có nghĩa là: Ánh sáng sau cơn mưa hay: Sau cơn mưa trời
20
lại sáng. Còn theo lời các cụ truyền lại thì tên Tình Quang có xuất xứ từ một
lần Công chúa Ngọc Hân về thăm quê ngoại ở Ninh Hiệp, khi qua đây thấy
trời hửng nắng nên đã đặt tên cho làng là Tình Quang.
Làng Tình Quang còn có tên Nôm là Kẻ Vịa, tức là chỉ làng quê vùng
ven sông nƣớc. Xƣa kia, sông Thiên Đức bắt nguồn từ sông Hồng, ở làng
Xuân Canh chảy qua Hoa Lâm, Yên Thƣờng (Đông Ngàn), Phù Ninh (Tiên
Du), làng Vịa, làng Tạnh, Cổ Bi, Siêu Loại (Gia Lâm) rồi đổ ra sông Lục
Đầu. Năm 1865, vua Tự Đức cho đào con sông Đuống để phân dòng nhằm
giảm áp lực nƣớc sông Hồng lên Thăng Long. Sông đào qua giữa làng Vịa
làm mất dòng sông Thiên Đức và chia làng Vịa ra làm hai khối, sau phát triển
thành hai làng là: làng Vịa lớn tức Tình Quang bên bờ Nam sông Đuống và
làng Vịa con tức là Cống Thôn hay còn gọi là làng Vịa Cống. Tình Quang tồn
tại nhƣ một xã độc lập, đến năm 1955 sát nhập cùng với xã Quán Tình thành
xã Giang Biên. Từ đó đến năm 2004, Tình Quang và Quán Tình là hai thôn
thuộc xã Giang Biên, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Nay, là cụm dân cƣ
Tình Quang, phƣờng Giang Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
1.3. Nhân vật được thờ tại đình Tình Quang
1.3.1. Tìm hiểu về Thành hoàng và Thành hoàng làng
Dƣới xã hội quân chủ phong kiến, đình làng đảm nhận hai chức năng chính: Nơi ban bố chính lệnh của triều đình và thờ cúng Thành hoàng. Tuy
nhiên, ngày nay, khi nghiên cứu sâu hơn, nhiều học giả đã thống nhất đình
làng có ba chức năng cơ bản: Đình làng là trung tâm văn hoá của cộng đồng cƣ
dân ở xã thôn; Đình làng là một trung tâm tín ngƣỡng (thờ cúng Thành hoàng);
Đình làng là trung tâm sinh hoạt chính trị, xã hội của làng. [74, tr. 33-38].
Thậm chí, khi triều đình không với tay đƣợc tới các làng xã, khi “phép
vua thua lệ làng” thì những chức năng trên vẫn tồn tại. Các nhà nghiên cứu
văn hóa dân gian đa số có ý kiến là không phải ngay từ đầu đình làng đã đƣợc
21
dựng lên để thờ Thành hoàng. Buổi đầu đình làng ra đời do nhu cầu cần nơi
cúng lễ để “năm tháng cầu khấn cho dân vinh, vật thịnh”, hay “đình giả dân
an định dã” (đình là nơi mà nhờ đó dân đƣợc yên định) [76, tr. 62-68, 73]. Có
tế lễ cầu khấn, sẽ có tổ chức hội hè, phân bổ công việc và thành phần dự họp
là các quan viên hƣơng lão, chức sắc trong thôn. Từ nơi hội họp đó, đình làng
đảm nhiệm chức năng quyền lực của làng (xử kiện, phạt vạ, đốc thúc sƣu
thuế) và khi chính quyền trung ƣơng tập quyền với tay xuống làng xã, việc
thờ phụng trong dân gian dần đi vào quỹ đạo của nhà nƣớc [76, tr. 62-68, 73].
Nhƣ vậy, buổi đầu đình làng chỉ là nơi diễn ra các hoạt động tế lễ, cầu phúc
của dân làng và gắn liền với nó là chức năng hành chính, quyền lực của làng
xã. Qua thời gian, đình làng mới đảm nhận thêm chức năng tôn giáo, tín
ngƣỡng [76, tr. 62-68].
Lần đầu tiên, khái niệm Thành hoàng ở nƣớc ta đƣợc nhắc đến trong
Việt điện u linh. Theo gốc gác Trung Hoa, Thành là bức tƣờng bao quanh
thành phố, hoàng là cái hào bao quanh bức tƣờng. Vì những lẽ đó, tác giả
Bình Nguyên Lộc cho rằng: “gọi thần của ta là thần Thành hoàng là sai. Ta
không có thành phố nào thời cổ, còn làng ta không hề có thành quách lớn nhỏ
bao giờ.” [45]. Những ý kiến nhận định của Bình Nguyên Lộc có phần chƣa
đúng, vì thực tế ở nƣớc ta, thần sông Tô Lịch cũng đã đƣợc Cao Biền rồi Lý
Thái Tổ tôn là thần phù trì thành Đại La - Thăng Long. Tiếp đó, vào thế kỷ
XV, năm 1449 Lê Nhân Tông bắt đầu thờ Đô Đại Thành hoàng, tức thần
Thành Hoàng kinh đô Thăng Long. Năm 1809, Nguyễn Ánh cho lập miếu
Thành Hoàng ở bờ phải kinh thành Huế, chính giữa thờ Đô Thành hoàng, trái
phải thờ Thành hoàng các trấn. Ngoài ra, các vua triều Nguyễn còn lập miếu
Thành hoàng ở các tỉnh và huyện [45, tr. 50].
Có thể thấy rằng những vị thần đƣợc thờ ở đình làng Việt, che chở cho
các làng Việt đều đƣợc gọi là Thành hoàng làng và đƣợc coi là những vị Phúc
22
thần. Đại đa số các Thành hoàng làng đều đƣợc các triều vua phong tƣớc, ban
sắc. Nhƣ vậy, bên cạnh mô hình Thành hoàng giống nhƣ Thành hoàng Trung
Hoa, là những vị thần phù trợ các thành trì, còn có Thành hoàng đƣợc thờ ở
đình làng nhƣ những vị thần của làng. “Rõ ràng trong Thành hoàng Việt Nam
có hai dòng khác biệt. Một dòng mang đậm gần nguyên xi mô hình Đường -
Minh: hệ thống Thành hoàng cả nước, tỉnh, huyện, đó là những vị thần vô
danh tối linh, không có thần tích nhân bản, thậm chí cũng không phải là một
thiên thần... Dòng thứ hai là Thành hoàng làng. Đó mới là dòng chủ thể phản
ánh bản chất tư duy tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam” [25, tr. 97].
Có thể thấy, khi đạo Nho phát triển mạnh dần từ thế kỷ XIV, sang thế
kỷ XV cùng với ý thức hệ học theo hình mẫu phong kiến phƣơng Bắc, hệ tƣ
tƣởng này đã tạo điều kiện thuận lợi để Thành hoàng đƣợc làng xã hóa theo tƣ
duy nông nghiệp. Các Thành hoàng đều là những thần linh bản địa, vƣợt qua
chức năng khởi thủy để mang một chức năng đa diện của tƣ duy dân dã Việt.
Tới việc phát hiện ra sắc mang niên đại Sùng Khang 1574 tại đình làng Tử
Dƣơng (Ứng Hòa - Hà Tây cũ) thì có thể thấy sang thế kỷ XVI, chức năng thờ
cúng Thành hoàng đã trở nên phổ biến trong các ngôi đình làng Việt.
1.3.2. Nhân vật được thờ tại đình Tình Quang
Nhƣ đã trình bày, tín ngƣỡng thờ Thành hoàng bắt nguồn từ Trung
Hoa, du nhập vào nƣớc ta từ rất sớm. Thành hoàng vốn là vị thần của thành
trì, đƣợc thờ ở các thành cổ, đô thị cổ của Trung Hoa. Ngƣời ta quan niệm đó
là vị thần lửa, luôn ngự trị trên các bức tƣờng thành vì thế phải thờ cúng ngài
để cầu mong cho thành không bị cháy. Lại cũng có ý kiến cho rằng: Thành
hoàng là vị thần ở cổng thành, bảo vệ bình an cho nhân dân phía trong thành.
Ở đâu có thành, đào hào, ở đó có Thành hoàng. Tín ngƣỡng này đƣợc truyền
sang Việt Nam và đã đƣợc các triều đình phong kiến phỏng theo. Ví dụ nhƣ
23
thần sông Tô Lịch đƣợc phong là Thành hoàng từ thế kỷ thứ IX, đến năm
1010 lại đƣợc Lý Thái Tổ phong là Quốc đô Thành hoàng Đại Vƣơng. Hay
nhƣ nhà Nguyễn khi rời đô vào Huế cũng lập đền thờ Thành hoàng.
Tuy nhiên, ảnh hƣởng của việc thờ thần cai quản thành trì này ở nƣớc
ta không thực sự sâu đậm và không kéo dài. Khi về đến các làng xã, tín
ngƣỡng này không còn giữ nguyên gốc mà có sự tiếp thu, tiếp biến văn hoá,
hay nói cách khác đây chính là dòng chủ thể đã đƣợc Việt hoá, phù hợp với
những đặc tính tâm lý tín ngƣỡng của cƣ dân bản địa. Ở mỗi làng đều có vị
thần riêng cai quản, bảo vệ và đƣợc suy tôn là Thành hoàng làng.
Thành hoàng làng trong tín ngƣỡng của ngƣời Việt cũng khá đa dạng
và phong phú. Đa dạng cả về bản chất, giới tính, nguồn gốc cũng nhƣ số
lƣợng. Có vị là thiên thần, có vị là nhân thần, nhiên thần. Đa số các vị thần là
Phúc thần nhƣng cũng có vị là Ác thần. Có làng trƣớc đây thờ một thần sau
đó thờ thêm nhiều thần, hoặc có thể thay thế bằng một vị thần khác. Điều này
đã tạo nên các lớp văn hoá tích hợp trong tín ngƣỡng cổ xƣa của ngƣời Việt.
Trở lại với các vị Thành hoàng đình Tình Quang, đình thờ ba vị Thành
hoàng, gồm: Lý Bí - Lý Nam Đế, Đinh Điền và Lý Chiêu Hoàng. Đó là
những nhân vật rất tiêu biểu trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc
ta. Về nguồn gốc, công trạng của các ngài, sử sách có ghi chép lại nhƣ sau:
Lý Bí - Lý Nam Đế (503 - 548): Theo Đại Việt sử ký toàn thƣ (Kỷ nhà
tiền Lý ghi): Vua họ Lý, húy là Bôn, ngƣời Thái Bình, phủ Hƣng Long. Tổ
tiên là ngƣời Bắc, cuối thời Tây Hán, khổ về việc đánh dẹp mới tránh sang đất
phƣơng Nam đƣợc 7 đời thì thành ngƣời Nam. Vua có tài văn võ, trƣớc làm
quan với nhà Lƣơng, gặp hoạn nạn trở về Thái Bình. Bấy giờ các thủ lĩnh tàn
bạo, hà khắc, ngƣời Lâm Ấp cƣớp biên giới, vua dấy binh đuổi đánh, xƣng
làm Nam đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên.
Sách Lịch sử Việt Nam, Tập 1, Nxb KHXH năm 1971, ghi tiếp về thân
24
thế, sự nghiệp của Lý Bí theo những nét chính mà Đại Việt sử ký toàn thƣ đã
nêu và diễn giải thêm: Lý Bí là ngƣời ở Hƣng Long (tỉnh Thái Bình), là ngƣời
có tài văn võ. Ông có ra làm quan với nhà Lƣơng ít lâu, lĩnh chức giám quân
(trông coi việc quân) ở Châu Đức (Hà Tĩnh). Yêu nƣớc thƣơng dân, bất bình
với bè lũ đô hộ, ông từ quan về quê. Từ đó ông chuyên chú vào việc chuẩn bị
khởi nghĩa, chống ách đô hộ nhà Lƣơng ở thế kỷ thứ VI. Trong nhiều năm
ông đặt quan hệ với hào kiệt các châu, chiêu tập hiền tài, tụ họp nghĩa binh
cùng họ bàn mƣu tính kế, chuẩn bị khởi nghĩa. Thủ lĩnh Triệu Túc cùng con
là Triệu Quang Phục, phục tài đức Lý Bí đem dân binh theo Lý Bí trƣớc tiên,
tiếp theo là Tinh Thiều, Phạm Tu, Lý Phục Man và rất nhiều hào kiệt các nơi
khác cũng cùng kết đồng chí.
Lƣơng thƣ và Trần thƣ (sử của nhà Lƣơng, nhà Trần) chép về Lý Bí có
ghi: “Liên kết với hào kiệt các châu đồng thời làm phản”.
Tháng Giêng năm 542, đánh đuổi Thứ sử nhà Lƣơng là Tiêu Tƣ, giải
phóng đất nƣớc. Mùa Xuân, tháng Giêng năm 544, Lý Bí tuyên bố dựng
nƣớc, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, ông lên ngôi Hoàng đế, xƣng là Nam Đế
(vua nƣớc Nam). Đặt niên hiệu là Đại Đức, đóng đô ở Long Biên. Ông cho tổ
chức triều đình riêng với hai ban Văn Võ. Phạm Tu vị tƣớng vừa chiến thắng
ngoại xâm đƣợc đứng bầu ban Võ. Tinh Thiều là một nhà Nho đƣợc cầm đầu
ban Văn. Ông cho xây dựng một ngôi chùa mới lấy tên là chùa Khai Quốc
(mở nƣớc). Nhớ ơn vị anh hùng tiền bối, Lý Nam Đế đã ban sắc phong thần
cho Bà Triệu.
Việc xƣng đế và dựng nƣớc độc lập Vạn Xuân của Lý Nam Đế đã nói
lên lòng tự tin vững chắc của nhân dân ta ở khả năng có thể tự mình vƣơn lên,
phát triển một cách độc lập. Đó là sự phủ định ngang nhiên quyền làm “Bá
chủ toàn thiên hạ” của hoàng đế phƣơng Bắc, vạch rõ sơn hà, cƣơng vực,
cũng là sự khẳng định dân tộc Việt Nam là một dân tộc, là chủ nhân của đất
25
nƣớc và vận mệnh của mình.
Năm 545, nhà Lƣơng tiếp tục sai Trần Bá Tiên đem quân sang xâm
lƣợc nƣớc ta, Lý Bí xây thành luỹ ở của sông Tô Lịch (Hà Nội) để chống giữ,
sau vì thế yếu nên ông lui về Gia Ninh (Bạch Hạc). Sau ông bị đau yếu luôn
nên giao binh quyền cho Triệu Quang Phục, ông mất ngày 20 tháng 3 năm
Mậu Thìn tức ngày 13 tháng 4 năm 548. Tƣởng nhớ công lao của Lý Nam Đế,
khắp nơi nhân dân ta đã lập đền thờ ông theo nghi lễ thờ vua. Riêng miền Bắc
có trên 200 ngôi đình, đền, miếu thờ Lý Nam Đế và các tƣớng của ông. Tại
đình Tình Quang, vào ngày sinh 12 tháng 9 và ngày mất 20 tháng 3 Âm lịch
hằng năm, nhân dân vẫn tổ chức lễ kỷ niệm vị anh hùng dân tộc gắn liền với
tên nƣớc “Vạn Xuân”, niềm tự hào bất diệt của con cháu muôn đời.
Với ngƣời dân Giang Biên, Lý Nam Đế không chỉ là ngƣời anh hùng có
công với nƣớc, ông sống mãi với dân làng còn vì một lẽ sâu xa hơn: Xƣa xã
này có ngƣời là Cao Dƣơng Công theo Lý Nam Đế vào động Khuất Liêu. Khi
về lập miếu thờ, lịch đại bao phong. Nhƣ vậy, ngƣời Giang Biên xƣa cũng đã
từng trực tiếp tham gia cuộc khởi nghĩa của Lý Bí và đã gắn bó với ông tới
những ngày cuối cùng ở động Khuất Liêu.
Đinh Điền (924 - 979): Là một trong những vị tƣớng giỏi của Đinh Bộ
Lĩnh, cùng với danh tƣớng Nguyễn Bặc đã giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 xứ
quân, thống nhất quốc gia, lập nên nƣớc Đại Cồ Việt. Cho đến hiện nay, các
tƣ liệu thành văn không ghi lại đƣợc nhiều về sự nghiệp chi tiết của ông.
Theo truyền thuyết dân gian thì Đinh Điền đã tử trận ở đây, nhân dân
Tình Quang lập đền thờ và sau đó đã suy tôn ông làm thành hoàng làng. Theo
điều tra hồi cố, ở phía sau đình trƣớc đây còn có lăng đá Đinh Điền nhƣng
đến nay đã không còn nữa.
Lý Chiêu Hoàng (1218 - 1278): Bên cạnh những Thành hoàng làng là
nam giới, ở đây còn là thờ một nhân vật là Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng
26
của triều Lý, vua nữ duy nhất trong lịch sử dân tộc.
Lý Chiêu Hoàng sinh năm 1216, có tên là Phật Kim, sau đổi thành
Thiên Hinh, hay còn gọi là công chúa Chiêu Thánh, là con gái thứ của vua Lý
Huệ Tông. Huệ Tông vì không có con trai nên đã xuống chiếu lập Phật Kim
làm thái tử và truyền ngôi cho Lý Chiêu Hoàng mới lên 8 tuổi.
Khoảng cuối tháng 10 năm Ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng nhƣờng
ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Mặc dù công lao, chiến tích không nhiều nhƣng
việc nhƣờng ngôi của Lý Chiêu Hoàng có thể coi là hành động đại nghĩa, hy
sinh lợi ích gia tộc, lợi ích cá nhân vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Nhà Trần lên
thay nhà Lý đã dần dần dẹp yên giặc giã, chỉnh đốn kỷ cƣơng, đƣa thiên hạ
sống trong cảnh thái bình thịnh trị, bà đƣợc trân trọng và đƣợc tôn làm Thành
hoàng ở nhiều nơi vì đã có công giúp dân xây dựng xóm làng. Theo nguồn dã
sử, sau khi từ bỏ triều đình, Lý Chiêu Hoàng đã về làng Tình Quang tu hành,
góp công tu bổ đình chùa, mua ruộng cấp đất cho dân nghèo. Nhớ ơn bà, nhân
dân Tình Quang đã thờ cúng và tôn bà là Thành hoàng của làng.
Trải qua các triều đại phong kiến trong lịch sử, ba vị Thành hoàng của
đình Tình Quang đƣợc phong tặng sắc phong là Thƣợng đẳng thần và vua ban
cho dân dựng miếu thờ, ban cho theo lễ quốc tế để nghi nhận công lao.
Hiện nay, trong đình còn lƣu giữ lại nhiều câu đối, đại tự với nội dung
ca ngợi công ơn của các vị Thành hoàng:
“Vạn Xuân kiến quốc, bát diệp sinh âm, kế thế hoàng gia thiên địa lập.
Đinh thống huân lao, Ái Châu tiết liệt, thần tâm tướng lược cổ kim
truyền”.
Dịch nghĩa:
Dựng nƣớc Vạn Xuân, tám đời sinh phận gái, tiếp nối nghiệp vua giữ
đất trời.
Công lao với nhà Đinh, tiết liệt đất Ái Châu, tƣớng giỏi lòng thiêng
27
truyền cổ kim.
Hoặc nhƣ : “Tam vị tôn thần nhị nam nhất nữ
Song thôn đồng xã vạn cổ thiên thu”
Dịch nghĩa: Ba vị đƣợc tôn thần hai nam một nữ
Hai thôn cùng một xã lƣu mãi ngàn thu.
1.4. Tiểu kết
Trong khoảng hơn một thế kỷ, đình làng Việt đã trở thành đối tƣợng
của nhiều nhà nghiên cứu. Ngôi đình trong các làng xã đƣợc nhấn mạnh, ca
ngợi nhƣ một điểm sáng của nghệ thuật dân gian Việt. Các nghiên cứu điền dã
đó đã làm “sống lại” hàng loạt các đình khắp các làng quê Việt Nam.
Bằng những nghiên cứu đó, các nhà khoa học đã thống nhất Dịch đình,
đình Trạm, Lan đình, Thƣởng hoa đình hay Đình Mục đồng là một loại kiến
trúc hoàn toàn khác, nó không thể giống những ngôi đình làng nhƣ ta vẫn thấy
hiện nay. Về nguồn gốc ra đời của ngôi đình làng, nhƣ ý kiến của GS Hà Văn
Tấn: “mặc dù còn thiếu chứng cứ, ta tin rằng đình - ngôi nhà chung của làng
xã đã xuất hiện từ lâu đời, nếu không phải là thời tiền sử thì cũng là thời sơ
sử của dân tộc. Tất nhiên là thời đó, chưa được gọi là đình, một từ vay mượn
của Trung Hoa” [55, tr. 20]. Tới cuối thế kỷ XV, cùng với sự phát triển của
lịch sử, của ý thức hệ Nho giáo, ngôi đình làng với tƣ cách là một thực thể
văn hóa của làng xã đã ra đời. Tuy nhiên, dấu vết vật chất của loại hình kiến
trúc này đến nay mới chỉ đƣợc tìm thấy ở thế kỷ XVI.
Không phải ngay từ đầu đình làng đã đƣợc dựng lên để thờ Thành
hoàng, buổi đầu đình làng chỉ là nơi diễn ra các hoạt động tế lễ, cầu phúc của
dân làng và gắn liền với nó là chức năng hành chính, quyền lực của làng xã.
Qua thời gian, đình làng mới đảm nhận thêm chức năng tôn giáo, tín ngƣỡng.
Thành hoàng đƣợc đƣa vào thờ trong đình nhƣ một vị Phúc thần.
Với giá trị lịch sử văn hóa nhƣ vậy, nhƣng cho tới nay, trừ một vài bài
28
viết, hình ảnh mô tả một cách khai lƣợc và một khóa luận tốt nghiệp của sinh
viên Trƣờng Đại học Văn hóa Hà Nội (2008) viết về lịch sử, kiến trúc đình
Tình Quang, còn lại tới nay vẫn chƣa có một công trình khảo cứu đầy đủ, cụ
29
thể và toàn diện về di tích này.
Chƣơng 2: KIẾN TRÚC ĐÌNH TÌNH QUANG
2.1. Tìm hiểu về cảnh quan, không gian đình làng
Trong nhận thức của mọi ngƣời, đình là nơi ngự của các vị Thành
hoàng làng đƣợc phong tƣớc vƣơng, vì thế chọn hƣớng đình cũng có phần
khắt khe hơn đối với các loại hình kiến trúc tôn giáo khác. Nếu nhƣ chùa có
thể quay hƣớng Tây, Nam, Bắc…, tùy theo tính chất riêng của từng ngôi
chùa, thì khởi đầu đình phần nhiều phải đạt đƣợc những chuẩn mực của đế
vƣơng, có nghĩa đứng ở vị trí quang đãng, cáo ráo, nơi có cây cối tốt tƣơi, có
hồ, ao hoặc dòng nƣớc tƣơng ứng (cũng nhƣ các loại hình công trình tôn giáo
tín ngƣỡng khác) những nguyên tắc phía trƣớc mặt phải thoáng đãng, cũng
nhƣ trƣớc mặt cung điện không có những kiến trúc cản trở tầm nhìn. Nhƣ vậy,
đình thƣờng ở bìa làng, nhìn ra đồng ruộng mênh mông. Vì đƣợc coi là biểu
tƣợng vƣơng/vua nên thế đất dựng đình nhiều khi đƣợc coi nhƣ nằm ở trên
đầu, lƣng của mảnh đất tụ hình linh vật nhƣ rồng, phƣợng, lân... Thế của đình
còn chú ý đến những đồi, gò ở phía xa chầu về. Sau lƣng có thế tựa, bất kể đó
là núi ở gần hoặc xa. Và, cũng chú ý đến Tả Thanh Long (Đông), Hữu Bạch
Hổ (Tây), một Âm, một Dƣơng, một cho đất, một cho trời để khẳng định về
hƣớng của thánh nhân. Đồng thời là sự hội tụ của trí tuệ chầu về cửa thánh,
nhằm tạo sức linh cho Thành hoàng làng.
Về mặt không gian, có thể coi đình làng là một kiến trúc lớn nhất của
làng (tuy khuôn viên có khi còn nhỏ hơn khuôn viên chùa), là một trung tâm
văn hóa ở làng quê. Nhƣ phần trên đã trình bày, chúng ta có thể thấy rằng,
nếu đi từ ngoài làng vào đến đình là đã đi qua nhiều không gian khác nhau. Ta
tạm coi đồng ruộng còn mang tính tự nhiên, đó là không gian thứ nhất. Đến
ven làng là bắt đầu tiếp xúc với không gian cƣ trú, tạm gọi là không gian nửa
30
tự nhiên nửa văn hóa. Vào làng là không gia thứ ba, tức không gian văn hóa,
nhà ở chứa đựng không gian văn hóa đậm đặc. Nhƣ thế, kiến trúc tôn giáo là
“trung tâm” trong không gian văn hóa đậm đặc. Ở những nơi này thƣờng tập
trung nhiều tinh hoa văn hóa nhất để ứng xử với các thần linh. Tuy nhiên,
trong mỗi loại hình kiến trúc có cách ứng xử khác nhau, mà một biểu hiện
ngay từ bên ngoài là cách sử dụng cây cối. Về nguyên tắc trong kiến trúc cổ
truyền của ngƣời Việt (theo tƣ liệu điền dã) thì kiến trúc không bao giờ cao
hơn cây cối, rõ ràng đó là một hiện tƣợng phản ánh khá rõ nét về tâm hồn
truyền thống của ngƣời Việt. Ngƣời ta muốn “hòa” kiến trúc vào tự nhiên
cũng nhƣ muốn “hòa” tâm hồn vào vũ trụ, ý thức này rất phù hợp với tinh
thần của Phật giáo muốn xóa bỏ tiểu ngã (Atman), tức cái cá nhân riêng biệt,
chỉ có ai tu thì ngƣời đó đƣợc hƣởng quả phúc, để nhập vào cái đại ngã
trƣờng tồn (Brahman) nhằm “tự độ độ tha, tự giác giác tha, không phân biệt
ngã nhân và tha nhân. Nhƣ thế có nghĩa là kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng chịu
ảnh hƣởng tƣ tƣởng này mà hòa quyện cùng tự nhiên, cũng có nghĩa cùng với
cây cối tạo nên một tổng thể kiến trúc truyền thống (cây cối ở đây đƣợc xem
nhƣ một phạm trù của kiến trúc). Tuy nhiên, ở các ngôi chùa, ngôi đền… thì
cây cối nhƣ muốn giải tỏa sự to lớn của kiến trúc, để cho con ngƣời khi tiếp
cận sẽ cảm thấy gần gũi mà không bị ám ảnh bởi tính áp chế, vì thế đƣợc gán
cho những sức linh nhất định. Còn với đình vốn xƣa hầu nhƣ không có cây
lớn ở trƣớc mặt, vì có thể đã xuất phát từ một ý nghĩa khác, nhằm tạo nên uy
thế của Thành hoàng làng (mang tƣớc vƣơng) đại diện tinh thần cho nhà vua,
cho chế độ quân chủ. Tinh thần chính là tạo cho đình có một không gian
thiêng liêng quang đãng, song cũng cần cây cối tốt tƣơi, chim muông hội tụ.
Để đạt đƣợc những yêu cầu đó, trƣớc đây ngƣời ta thƣờng trồng cây lớn ở
phía sau, cùng lắm là chỉ trồng ở hai bên mà thôi. Từ thế kỷ XVIII trở đi, đình
làng hội nhập mạnh hơn yếu tố đền thờ, đồng thời nâng cao hơn tính chất dân
31
gian, thì cây cối cũng đã đƣợc trồng ở phía trƣớc mặt nhƣ để lấy bóng mát
hay để tạo thế thiêng liêng. Nhƣ cây bàng (đình Thƣợng Cát, Bắc Từ Liêm,
Hà Nội), cây gạo (đình Tây Đằng, Ba Vì, Hà Tây cũ) để mang tính chất gắn
với thần ở đình.
Đình làng có thể ra đời muộn hơn các di tích tín ngƣỡng khác, cho nên
trƣớc hết, đình làng cũng chịu ảnh hƣởng chung của các tôn giáo tín ngƣỡng
trƣớc đó. Vào thế kỷ XVII và thế kỷ XVII, ngƣời ta thƣờng gặp những ngôi
đình quay về hƣớng Nam và một số đình khác quay về hƣớng Tây. Chỉ tới thế
kỷ XIX, hiện tƣợng chọn hƣớng ít nhiều đã có sự thay đổi, cũng nhƣ nhiều di
tích khác, đình lệ thuộc vào dòng sông hoặc đƣờng cái. Điều này có thể đƣợc
giải thích rằng ở giai đoạn từ thế kỷ XVIII trở đi, nền kinh tế tƣ nhân phát
triển mạnh, những ngƣời đóng góp trực tiếp cho việc hình thành những kiến
trúc này không hẳn chỉ còn là nông dân làng xã nữa mà một phần đáng kể lại
thuộc tầng lớp thƣơng nhân, chính từ những con thuyền xuôi ngƣợc và luồng
buôn bán theo đƣờng thủy, đƣờng bộ mà di tích phần nào bị lệ thuộc vào
mạch máu giao thông đó.
Trở lại với những hƣớng mang gốc cổ truyền, ngƣời ta nhận thấy rằng
những hƣớng này thƣờng gắn với yếu nghĩa xuất phát từ tâm linh về quan hệ
giữa thế gian và thiên nhiên vũ trụ, nó ít có tính thực dụng. Nhìn chung,
hƣớng của di tích đều có ý nghĩa của nó:
- Hƣớng Bắc: Đây là hƣớng giá rét về mùa đông và nóng về mùa hè. Ở
lĩnh vực tín ngƣỡng, đó là hƣớng mang nhiều sự hắc ám, ít nhiều gắn với quỷ
dữ. Vì thế kiến trúc của ngƣời Việt ít quay nhìn về hƣớng này. Tất nhiên,
trong thực tế vẫn có những ngôi chùa hoặc một di tích nào đó đƣợc chủ động
nhìn về hƣớng Bắc. Về cơ bản những di tích đó ít gắn với thế gian mà thƣờng
liên quan đến kiếp ngƣời đã qua, nhƣ một số chùa ở nghĩa trang để cầu siêu
32
độ cho những linh hồn ở thế giới bên dƣới.
- Hƣớng Đông: Những cƣ dân trong khu vực Đông Nam Á thƣờng
quan niệm đây là hƣớng của thần thánh (kể cả quan niệm của ngƣời Việt), vì
thế nhiều kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng của các cƣ dân phía Nam thƣờng quay
nhiều về hƣớng này để đón sinh lực vũ trụ (mà nhiều khi đồng nhất với ánh
sáng mặt trời). Nhƣng quan niệm của ngƣời Việt nặng tƣ duy nông nghiệp,
coi trọng yếu tố Âm, vì thế thần linh dù là ai thì yếu tố âm cũng là điều trọng
yếu, quyết định đến hạnh phúc no đủ về mọi mặt của các kiếp đời. Đặc biệt là
trong những kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời Việt, ít nhất
ở nông thôn, hiện tƣợng tƣờng bao kín xung quanh đƣợc xuất hiện rất muộn,
đồng thời, kiến trúc chủ yếu đƣợc bố trí theo lối nằm ngang, vì thế ánh sáng
ban mai có thể chiếu thẳng vào tận bàn thờ, theo đó mà ngƣời ta cho rằng hồn
thần linh dễ bị tán mà khó tụ, làm cho sức mạnh của thần bị hạn chế, dẫn đến
sự hỗ trợ cho con ngƣời cũng trở nên ít ỏi hoặc không còn… Có thể lấy ví dụ
cụ thể nhƣ đền Ngọc Sơn (Hoàn Kiếm, Hà Nội), đền có cầu Thê Húc chạy về
hƣớng Đông, mang ý nghĩa đón ánh sáng ban mai, nhƣng ngôi đền bên trong
đã không quay theo hƣớng này mà vẫn quay theo hƣớng Nam. Ở các kiến trúc
phía Nam nƣớc ta, nhƣ chùa của ngƣời Khơme hay tháp Chăm đều quay về
hƣớng Đông, nhƣng bàn thờ của họ lại nằm ở đầu hồi, kiến trúc lại có tƣờng
bao nhƣ gần kín, các cửa vào không để ánh sáng rọi vào bàn thờ, còn với tháp
Chăm thì ô cửa vào nơi thờ đƣợc làm nhô hẳn ra phía trƣớc tạo ra ở cửa chính
một kết cấu nghệ thuật cao, đồng thời trong lĩnh vực tâm linh, nó cũng cản trở
ánh sáng ban mai rọi thẳng vào trung tâm điện thờ. Những điều nhƣ nêu trên
khiến chúng ta có thể tạm hiểu đƣợc vì sao ở đồng bằng Bắc Bộ ngƣời xƣa rất
ít quan tâm đến hƣớng này cho ngôi đình.
- Hƣớng Tây: Đây là một trong hai hƣớng chính của các kiến trúc tôn
giáo tín ngƣỡng cổ truyền, cũng là một hƣớng bàn thờ ở mọi gia đình, vì
33
hƣớng này phù hợp với quy luật “đối đãi” của Âm Dƣơng. Quan niệm “đối
đãi” không phải nảy sinh riêng của ngƣời Việt, mà của nhiều cƣ dân trên thế
giới, Âm và Dƣơng tuy khác nhau nhƣng chỉ đƣợc xác nhận khi có nhau,
đồng thời phải có sự kết hợp với nhau mới tạo nên sự phát sinh phát triển, một
gốc gác tinh thần của mọi vụ mùa bội thu. Trong cách ngồi quay hƣớng Tây,
ngƣời ta còn cho rằng vị thần đã tụ hội đƣợc mọi sức linh của bốn phƣơng.
Vì, mặt thần là Dƣơng nhìn về hƣớng Tây mang yếu tố Âm của vũ trụ, tạo
thành một cặp Âm Dƣơng “đối đãi” giữa đại vũ trụ và tiểu ngã nhân thân,
lƣng thần là Âm quay về hƣớng Đông là dƣơng cũng tạo nên một cặp Âm
Dƣơng “đối đãi” tƣơng tự. Bên phải của thần là Dƣơng, hƣớng về phía Bắc
mang yếu tố Âm. Bên trái của thần là Âm, hƣớng về phía Nam là Dƣơng.
Nhƣ vậy, cả bốn phía đều là bốn cặp Âm Dƣơng “đối đãi” khác nhau… đã tạo
cho cách ngồi này thích hợp, khiến thần yên vị. Trong quan niệm của ngƣời
Việt, ở một khía cạnh nào đó, thần linh cũng đồng nhất với nguồn sinh lực vũ
trụ vô biên. Do đó, thần ngồi yên vị tại đình hoặc các di tích tín ngƣỡng khác
đã nhƣ một đảm bảo về mặt tinh thần cho mọi ƣớc vọng của ngƣời xƣa.
- Hƣớng Nam: Theo quan niệm của dân gian, thì: Lấy vợ hiền hòa, làm
nhà hướng Nam, đây là hƣớng thích hợp với những ngôi nhà ở Bắc Bộ, vì
ngôi nhà đƣợc mát mẻ vào mùa hè, ấp áp vào mùa đông. Đây cũng là một
hƣớng chứa đầy sinh lực, vì đó là hƣớng màu đỏ, mang đầy sinh khí trong vũ
trụ (hƣớng Nam màu đỏ, hƣớng Bắc màu đen, hƣớng Đông màu xanh lá cây,
hƣớng Tây màu trắng, Trung phƣơng màu vàng). Đối với đạo Phật, hƣớng
Nam là hƣớng của bát nhã, tức trí tuệ. Đạo Phật quan niệm rằng nhờ trí tuệ
mới diệt trừ đƣợc vô minh, tức ngu tối, mà ngu tối là mầm mống của tội ác.
Vì thế hƣớng Nam là hƣớng thiện tâm trên nền tảng trí tuệ.
Trong suốt nghìn năm Bắc thuộc và nghìn năm dƣới chế độ quân chủ
chuyên chế, ngƣời Việt đã ảnh hƣởng khá nhiều yếu tố văn hóa Trung Hoa,
34
mà ở lĩnh vực phƣơng hƣớng này, ngƣời Trung Hoa đã từng quan niệm:
Thánh nhân nam diện nhi thích thiên hạ, mà thánh nhân/thần linh/vua
chúa/ngƣời tài với trí tuệ cao có thể tác động lớn đền xã hội…; nam diện: Là
ngồi quay mặt về hƣớng Nam để biểu hiện quyền uy. Có nghĩa là thánh nhân
quay mặt về hƣớng Nam để nghe lời tâu bầy của thiên hạ… Ý thức của ngƣời
Việt muốn đƣợc thần thánh nghe thấy lời kêu cầu mà dùng pháp lực vô biên
để cứu vớt và hỗ trợ. Đó là một hƣớng phù hợp với ƣớc vọng truyền đời của
ngƣời xƣa.
2.2. Cảnh quan, không gian đình Tình Quang
Đình Tình Quang, hiện nay nằm bên ngoài đê sông Đuống, tọa lạc giữa
khu cƣ trú của cụm dân cƣ Tình Quang, trên một khu đất rộng rãi, bằng
phẳng. Từ khi đƣợc khởi dựng cho đến nay đã gắn bó mật thiết với con ngƣời
và mảnh đất nơi đây, một trong những ngôi làng Việt cổ truyền (làng lên phố)
thuộc địa phận quận Long Biên - cửa ngõ phía Bắc của thủ đô Hà Nội.
Hƣớng của đình Tình Quang quay về hƣớng Đông - Bắc. Đó là đặc
điểm khác biệt đối với những công trình kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng có niên
đại trƣớc thế kỷ XVIII. Khi nghiên cứu điểm khác biệt này, nhiều nhà nghiên
cứu về văn hóa cổ truyền đã đƣa ra những luận điểm, giải thích khác nhau. Có
quan điểm cho rằng: đình Tình Quang quay hƣớng Đông, có thể cũng có ý
nghĩa tƣơng tự nhƣ việc thờ Đức Thánh Chèm ở làng Chèm (Đông Ngạc, Bắc
Từ Liêm). Trong tƣ duy liên tƣởng của ngƣời xƣa, Thánh Chèm là một vị
thần chống lụt, Ngài có sức mạnh vô biên, biểu hiện qua thân hình khổng lồ,
Ngài đã khuất phục thủy quái ở khúc sông cong dòng, luôn xói nƣớc, ảnh
hƣởng tới sự bền vững của đê, nơi xung yếu để răn đe thuỷ quái, giữ yên lành
cho ruộng đồng, làng xóm.
Năm 1856, đời Tự Đức thứ 9, nhà vua cho cải tạo dòng sông Đuống để
thích ứng hơn với sự tiêu nƣớc lũ làm cho làng Vịa bị chia làm hai, làng Vịa
35
lớn (Tình Quang) nằm ở phía trong đê. Sau đó, tới đầu thế kỷ XX đê vỡ, đê
chính đƣợc chuyển lùi vào trong khiến đình bị nằm ngoài bãi, trong đê quai.
Sự kiện này nhƣ một gợi ý cho chúng ta suy nghĩ về hƣớng của đình Tình
Quang hiện nay.
Ngoài ra, một thực tế ở nhiều địa phƣơng cho thấy khi dân làng gặp
điều tai họa, ngƣời ta thƣờng thay đổi hƣớng đình vì cho rằng hƣớng của ngôi
đình quyết định tới phúc - họa của cả làng. Mặt khác, cũng từ thế kỷ XVIII về
sau, nền kinh tế tƣ nhân phi nông nghiệp có điều kiện phát triển, dần dần quan
niệm về phƣơng hƣớng đình, chùa theo lối cổ truyền cũng bị nhạt phai, ngƣời
ta chú ý nhiều đến huyết mạch giao thông nên di tích thƣờng hƣớng ra sông
và sau này hƣớng cả ra đƣờng cái. Từ đó có ngƣời ngờ rằng: Phải chăng đình
Tình Quang đã bị đổi hƣớng (gần nhƣ ngƣợc hẳn hƣớng của chùa) là để đáp
ứng nhu cầu tâm linh đƣơng thời, nhằm mong sự hỗ trợ của các vị Thành
hoàng cho nhân dân đƣợc yên bình? Điều này có lẽ cần đƣợc quan tâm và
nghiên cứu kỹ hơn nữa.
Phía trƣớc cửa đình là một ao lớn mang tƣ cách tụ thuỷ, tụ phúc. Ao
thấp mang ý nghĩa Âm, đình xây trên cao mang ý nghĩa Dƣơng. Hình thức
này tạo nên sự hòa hợp, Âm Dƣơng “đối đãi”, là sự cầu mong hạnh phúc
trƣờng tồn cho muôn đời con cháu.
Phía Nam đình giáp khu vực dân cƣ sinh sống, phía sau đình (phía Tây)
là khu vực nhà trẻ của cụm dân cƣ, đƣợc xây dựng trên đất của đình từ năm
1986. Bên phải là sân đình, hiện đang đƣợc sử dụng nhƣ một sân chơi thể
thao của thanh thiếu niên. Xung quanh khu vực đình chủ yếu trồng những loại
cây nhƣ: Cây đại, cây đa, cây cau, cây tre…
Trƣớc đây, tại khu vực đình còn có hai nhà bia hạ mã, lăng Đinh Điền,
xung quanh là những cây si, cây gạo.. vừa để lấy bóng mát vừa biểu hiện ý
nghĩa nhân ái, là nơi cho các linh hồn trú ngụ (thần cây đa, ma cây gạo). Đến
36
nay, do nhiều nguyên nhân mà quy mô tổng thể kiến trúc đã bị thu hẹp. Song,
vẫn có thể thấy đình nằm trong một quy mô lớn, bề thế, có không gian cảnh
quan thoáng rộng. Đình vẫn lƣu giữ đƣợc những giá trị văn hoá vật thể và phi
vật thể có giá trị. Và, vẫn là trung tâm sinh hoạt văn hoá, tín ngƣỡng, là niềm
tự hào sâu sắc thiêng liêng của cộng đồng nơi đây.
2.3. Kiến trúc đình Tình Quang
2.3.1. Một vài khái niệm về kiến trúc đình làng
“Một công trình kiến trúc hoàn chỉnh được tạo dựng bao giờ cũng có
hai phần cơ bản: Vật liệu xây dựng và kết cấu kiến trúc. Có thể nói vật liệu
xây dựng là cơ sở vật chất của kiến trúc còn kết cấu kiến trúc là bộ xương của
kiến trúc” [59, tr. 45-60]. Với nền “văn minh thực vật” (chữ của P Gourou),
vật liệu chủ yếu trong kiến trúc dân gian truyền thống của ngƣời Việt là các
loại thảo mộc - những nguyên liệu sẵn có xung quanh cuộc sống. Chúng có
thể khai thác dễ dàng, sơ chế đơn giản mà hiệu quả sử dụng cao. Bất kỳ một
công trình kiến trúc nào cũng gồm ba phần: Nền móng - thân - mái. Tuy
nhiên, kết cấu kiến trúc gỗ cổ truyền của ngƣời Việt là một dạng kiến trúc
không có móng tƣờng chịu lực. Toàn bộ công trình đƣợc dựng lên bằng liên
kết khung gỗ và đƣợc liên kết với nhau bởi các chốt mộng khít khao. Hệ
thống chịu lực chủ yếu trong các công trình kiến trúc cổ là hệ thống cột nâng
đỡ toàn bộ bộ mái kiến trúc. Vì thế, trong kiến trúc gỗ cổ truyền ngƣời Việt
chỉ quan tâm làm móng cục bộ (móng chỉ dùng để gia cố chân tảng chịu lực),
chú trọng nhiều đến phần nền. Nhƣ vậy, hệ khung liên kết bằng gỗ trở thành
yếu tố quan trọng, quyết định sự tồn tại, bền vững của công trình. Hệ khung
gỗ đó đƣợc hình thành bởi các cấu kiện cột - xà - kẻ, bẩy.
- Cột: Là những thân gỗ lớn, dài, đứng song hàng từng cặp trên chân
tảng đặt trên mặt nền. Hệ thống cột là cấu kiện chịu lực chính của kết cấu bộ
khung chịu lực, gánh chịu phần lớn tải trọng của hệ mái, làm xƣơng sống cho
37
mọi liên kết và tạo nên chiều cao của công trình; là thành phần duy nhất chịu
lực theo phƣơng thẳng đứng trong kết cấu bộ khung chịu lực, liên kết tất cả
các cấu kiện chịu lực theo phƣơng ngang trong hệ khung, nhận và truyền tải
trọng từ các cấu kiện đó xuống nền móng. Cột có tiết diện tròn hoặc vuông,
loại cột có tiết diện vuông chỉ mới xuất hiện trong kiến trúc truyền thống Bắc
bộ phổ biến dần từ nửa cuối thế kỷ XX.
Hình dáng của cột thƣờng đƣợc làm theo kiểu thƣợng thu hạ thách, đặc
biệt rõ nét ở loại cột tròn. Trên thân cột đƣợc tạo các lỗ mộng để có thể lắp
ghép, liên kết các cấu kiện khác. Khác với nhiều kiến trúc truyền thống khác
(nhƣ Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên), sử dụng cột bằng gỗ xẻ, ghép, quấn
vải, tẩm chất kết dính [42, tr. 14]... cột trong kiến trúc gỗ của ngƣời Việt là gỗ
nguyên cây. Cột là cấu kiện có tạo hình đơn giản nhất. Các cột tròn thƣờng có
phần đầu vuốt thon nhỏ, thân to dần, nhƣng phần chân khum cúp lại nhƣ quân
cờ. Dân gian gọi là hình “đòng đòng”, hay “đầu cán cân - chân quân cờ”,
theo công thức tƣơng đối 2/3 chiều cao phía trên thu nhỏ lại 1,5cm - 2cm/1m
chiều cao; 1/2 chiều cao phía dƣới chân cột thu nhỏ lại 2cm - 3cm; đoạn còn
lại tƣơng đối đều không thu. Tuy nhiên, trong thực tế do gia công bằng thủ
công nên ở nhiều công trình, công thức này không đƣợc chính xác hoàn toàn.
Từ thế kỷ XVIII, trên đỉnh cột còn có thêm đấu đầu cột để đỡ câu đầu, hình
thức này mất dần từ khoảng cuối thế kỷ XVIII. Các cột thƣờng không dựng
vuông góc với mặt nền mà theo thế “thượng thu - hạ thách” (đầu cột chụm
vào, chân hơi choãi rộng hơn tạo thế vững chãi).
Trong một bộ vì, căn cứ vào số lƣợng cột để xác định kiến trúc đó là
loại kiến trúc có mấy hàng chân. Số lƣợng cột trong một bộ vì lại tùy thuộc
vào số bƣớc cột trong hệ đó, theo công thức: số bƣớc cột + 1 = số cột. Các
bƣớc cột trong bộ vì (còn đƣợc gọi là lòng cột) đƣợc đặt tên từ giữa sang hai
bên là bƣớc giữa, bƣớc nách và bƣớc hiên. Kiến trúc truyền thống Việt ở Bắc
38
bộ có tối đa 5 bƣớc cột 6 hàng chân.
Một công trình kiến trúc cổ truyền thƣờng có các loại cột: cột cái, cột
quân, cột hiên, cột trốn. Tùy vào chiều rộng của lòng nhà mà các hàng cột có
thể nhiều hay ít.
- Cột cái: Là những cây cột có tiết diện và kích thƣớc lớn cao nhất,
đƣợc dựng thành hai hàng, theo mặt cắt dọc ở trung tâm của nội thất kiến trúc.
Nhiều vùng gọi tên loại cột này theo vị trí: cột lòng/hàng nhất. Cột cái có
công năng chủ yếu là nâng đỡ vì nóc, đồng thời, tạo nên các điểm liên kết
khung kết cấu theo chiều dọc kiến trúc.
- Cột quân (còn gọi là cột con, cột thành, cột lòng/hàng nhì): Với kích
thƣớc nhỏ và thấp hơn cột cái. Đảm nhiệm chức năng đỡ vì nách và tạo nên
các điểm liên kết ở một cao độ thấp hơn, tạo nên độ dốc cho bộ mái.
- Cột hiên: Với kích thƣớc nhỏ hơn, hoặc bằng cột quân. Công năng
chính là nâng đỡ mái hiên. Cấu kiện này giúp thỏa mãn nhu cầu mở rộng
thêm nội thất công trình. Cột hiên đƣa chân mái vƣơn ra rộng hơn. Tuy vậy,
khoảng cách từ cột quân ra cột hiên thƣờng không lớn hơn khoảng cách từ cột
quân vào cột cái.
- Cột trốn: là cột chân không chống thẳng xuống nền mà đƣợc kê, đặt
trên một cấu kiện khác. Cũng làm nhiệm vụ chịu lực, chống đỡ công trình
nhƣng nhiều khi nó có tác dụng mở rộng, tạo sự thông thoáng cho không gian
nội thất.
- Xà: Là những thân gỗ nằm song song với nền, làm nhiệm vụ liên kết
các cột của công trình để tạo nên hệ thống giằng vững chắc. Các loại xà liên
kết cột theo chiều dọc gọi là xà dọc; nối các cột theo chiều ngang công trình
có các loại xà ngang, xà nách, câu đầu, rƣờng (chúng tôi sẽ giải thích kỹ hơn
về từng loại xà này khi đi vào mô tả kết cấu kiến trúc cụ thể).
- Kẻ: Là những thân gỗ liên kết các cột cùng gian hay góc. Chúng đƣợc
39
đặt chéo, gác mộng ở đầu các cột. Mỗi một chiếc kẻ phải ăn mộng vào ít nhất
hai cây cột cùng hàng. Trên thân kẻ (cật kẻ) đỡ những thân gỗ nhỏ, nối nhau
chạy dọc mái, làm thành mặt phẳng của mái công trình. Phần đuôi kẻ gọi là
nghé kẻ.
- Bẩy: Là những thân gỗ đặt chéo, ăn mộng qua đầu các cột và gác một
điểm tựa duy nhất ở mộng trên đầu hàng ngoài cùng của công trình (cột quân
hoặc cột hiên), dùng sức nặng của mái trên đè xuống, bẩy lên đỡ chân mái
theo đúng nghĩa đòn bẩy. Phần đuôi bẩy (có tên gọi riêng là nghé bẩy) tỳ lực
vào dạ xà nách. Cấu kiện này thực hiện liên kết theo chiều thứ ba của không
gian trong kết cấu khung gỗ chịu lực và đƣợc coi là một đặc điểm riêng của
kiến trúc cổ truyền Việt, nhằm mở rộng diện tích công trình.
Tất cả các cấu kiện trên liên kết với nhau tạo thành một bộ vì. Bộ vì là
yếu tố cơ bản của kết cấu khung gỗ. Nó vừa là kết cấu chịu lực, nâng đỡ mái,
vừa là đơn vị tổ chức không gian công trình. Theo mặt cắt ngang, một bộ vì
đƣợc chia thành ba phần:
Vì nóc: Là liên kết các cấu kiện ở khoảng không gian giữa hai cột cái,
đỡ nóc và nửa mái phía trên. Khoảng không gian ấy có hình một tam giác cân,
giới hạn bởi câu đầu là cạnh đáy và hai cạnh kia là hai chiều dốc của mái
trƣớc, sau công trình. Câu đầu là cấu kiện liên kết hai đầu một cặp cột cái
trƣớc, sau công trình, theo mặt cắt ngang.
Vì nách (còn có tên là cốn khi là các con rƣờng hay ván gỗ dày xếp
chồng lên nhau): Là liên kết các cấu kiện ở khoảng không gian hình một tam
giác vuông, đƣợc tạo thành giữa cột cái và cột quân. Tam giác vuông này có
cạnh dài là xà nách (cấu kiện liên kết cột cái và cột quân theo mặt cắt ngang),
cạnh ngắn là độ dài hơn của cột cái so với cột quân và cạnh huyền là độ dài
mặt mái phần dƣới.
Hiên: Là liên kết các cấu kiện để đỡ phần đua vƣơn ra ở hàng hiên, tính
40
từ cột quân ra hết chân mái giọt gianh.
Hai bộ vì (một tổ hợp liên kết các cấu kiện theo mặt cắt ngang một kiến
trúc) liền sát nhau xác định 01 gian. Gian là một đơn vị tổ chức không gian
mặt bằng, xác định quy mô, tầm cỡ của các kiến trúc cổ truyền bằng gỗ của
ngƣời Việt. Ngƣời Việt kiêng làm nhà có số gian chẵn nên trong kiến trúc gỗ
cổ truyền Việt, số lƣợng vì luôn là một số chẵn và số lƣợng gian bao giờ cũng
là một số lẻ. Trong kiến trúc cổ truyền Việt Nam, ngƣời ta kiêng làm nhà có
gian chẵn vì nhƣ thành ngữ đã có câu: Nhất gian cô độc, nhị gian bần, tam
gian phú qúy, tứ gian truân.
Tuy nhiên, giới hạn gian là rất thoáng, nối các gian không có các vách
ngăn cứng, cố định nhƣ các bức tƣờng trong giới hạn buồng/phòng; khi cần
có thể dùng các ván gỗ chia một gian thành các buồng/phòng độc lập. Chái có
thể coi là một gian đặc biệt, nằm ở hai đầu hồi của kiến trúc, là khoảng không
gian đƣợc giới hạn bởi 01 vì có chân các cột chống xuống chân tảng của mặt
nền và 01 vì lửng (các cột trốn chân, đứng trên một xà dọc chứ không chống
xuống nền). Nhiều khi kích thƣớc của chái còn lớn hơn gian. Theo mặt cắt
dọc, tính từ trung tâm tòa nhà sẽ có: 01 gian giữa, 02 (hoặc 04) gian bên (bên
phải và bên trái gian giữa), 02 chái và 02 hiên phía hai đầu hồi nhà, dƣới hai
mái phụ.
2.3.2. Kiến trúc đình Tình Quang
Cho đến nay, không còn một tài liệu nào ghi chép cụ thể về năm tháng
khởi dựng đình Tình Quang, nhƣng qua lời kể của các cụ cao tuổi trong làng
cũng nhƣ căn cứ theo kết quả khảo sát những kiến trúc còn lại thì bƣớc đầu có
thể nhận định đình Tình Quang đựơc xây dựng từ rất sớm, ít nhất là vào thời
Lê, đầu đời Chính Hoà (1676). Điều này cũng khớp với lời của các cụ cho
biết trƣớc đây đình có hai tấm bia đá ghi niên đại thế kỷ XVII, song hiện nay
41
hai tấm bia đã bị vùi sâu trong lòng đất và nhân dân đã làm nhà thờ lên trên.
Đình Tình Quang ban đầu có nguồn gốc từ ngôi đền do Cao Dƣơng
Công - ngƣời làng, một tƣớng tài của Lý Bí dựng nên để thờ Ngài - ngƣời anh
hùng dân tộc mở đầu nền độc lập tự chủ của đất nƣớc ta. Thế kỷ X, nhà nƣớc
Đại Cồ Việt cho dân làng ở đây mang bài vị của Trung đẳng thần Đinh Điền
về thờ. Đến thế kỷ XIII, vua Trần lại cho phép dân làng mạng bài vị Thƣợng
đẳng thần Lý Chiêu Hoàng về lập bàn thờ tại đền. Đến thời Lê Hy Tông niên
hiệu Chính Hòa, dân trong làng đã mở mang xây dựng lại ngôi đền thành kiến
trúc đình.
Đình Tình Quang hiện nay có Đại đình to lớn bề thế đƣợc làm theo
kiểu tàu đao lá mái với 6 hàng chân cột. Những dấu vết để lại trên những lỗ
thân cột cho biết, trƣớc đây đình có hệ thống ván sàn.
2.3.2.1. Bố cục mặt bằng
Nhiều nhà nghiên cứu kiến trúc cổ truyền đều cho rằng, khởi đầu đình
làng đƣợc thể hiện dƣới dạng chữ Nhất (一), đặt ở phía Nam hoặc phía Tây
bìa làng, kết cấu mặt bằng của đình thƣờng chỉ có 3 gian 2 trái. Những ngôi
đình có mặt sớm của thế kỷ XVI, nhƣ đình Thụy Phiêu, đình Tây Đằng, đình
Thanh Lũng (Ba Vì, Hà Tây cũ), đình Là (Thƣờng Tín, Hà Tây cũ) đình Lỗ
Hạnh (Hiệp Hòa, Bắc Giang), đình Thổ Hà (Việt Yên, Bắc Giang) đều theo
hình thức này. Hiếm có những ngôi đình 1 gian 2 chái lớn nhƣ đình Diềm (TP
Bắc Ninh, Bắc Ninh) thuộc thế kỷ XVII (đƣợc tu bổ, cải tạo lại do sự tàn phá
của chiến tranh). Hầu nhƣ mọi ngôi đình từ thế kỷ XVIII trở về trƣớc thƣờng
bao giờ cũng có sàn, nền đình đƣợc đắp cao hơn xung quanh chút ít để bảo vệ
cho đất dƣới sàn đình không bị trôi qua những trận mƣa và dù cho nền đất này
ít có mối quan hệ với kết cấu của di tích, ngƣời ta vẫn thƣờng bó vỉa đá xung
quanh (về sau cũng có thể bó bằng gạch). Không bao giờ ngƣời ta lát mặt đất
42
(dƣới lòng nền đình), cũng không bao giờ ngƣời ta lát lòng nhà ở nơi thờ tự
hoặc nơi ở, phần nhiều chỉ nện chặt cho chắc đất mà thôi. Đối với kiến trúc
dân gian, ngƣời xƣa quan niệm rằng lát nền nhà có nghĩa là ngăn cản sự “đối
đãi” của khí Âm và khí Dƣơng, khiến không thể duy trì dòng họ trong một
thời gian dài đƣợc, lúa giống để trong nhà khó đảm bảo cho những vụ mùa
bội thu.
Đối với kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng, không gian là nơi ở của thần linh
thì chắc chắn không có tà khí, ma qủy… Nếu lát nền nhà thì hiện tƣợng thông
tam giới trong tín ngƣỡng bị “đổ vỡ”, khiến sự hỗ trợ của thần linh bị hạn chế
đi rất nhiều và tín ngƣỡng dễ bị tàn phai. Trong tƣ duy của dân gian xƣa thì
quan niệm này rất đƣợc coi trọng, đôi khi còn đƣợc thực hiện ở cả hệ thống di
tích liên quan.
Suy cho cùng, mặt bằng của ngôi đình trƣớc đây để lộ đất đã mang một
ý thức hội tụ sức linh cho thần. Trên nền đất này, để chống lún, ngƣời xƣa
thƣờng đặt những chân tảng kê cột bằng đá. Khởi đầu, do nằm dƣới sàn đình,
nên ở phía trong lòng có khi ngƣời ta đã đặt những hòn đá tảng không theo
hình dáng cố định hoặc cũng có khi là đá ong. Những chân cột bao xung
quanh có thể nhìn thấy đƣợc thì ít nhiều đã chú ý tạc theo kiểu âm dƣơng đối
đãi với dáng vuông, trên mặt chạm tròn để tƣơng ứng với thân cột. Khởi đầu
những ngôi đình thƣờng đƣợc kết cấu theo dạng 4 hàng chân, với 2 hàng cột
cái và hệ thống cột quân bao quanh. Vào thế kỷ XVII có nhiều ngôi đình đã
mở rộng lòng hơn nên chuyển hóa thành 6 hàng chân với 2 hàng cột cái, 2
hàng cột quân và hệ thống cột hiên bao quanh. Tới nay, ngƣời ta chƣa tìm
đƣợc dấu vết Hậu cung của đình theo kiểu Chuôi vồ của kiến trúc chữ Đinh
(丁) mang niên đại thời Mạc. Chuôi vồ (tức Hậu cung) thực sự chỉ phổ biến
vào thế kỷ thứ XIX trở về sau. Gần đây, một sự phát hiện mới đã cho chúng ta
43
biết kết cấu chữ Đinh (丁) với Chuôi vồ mang tính chất Hậu cung đã xuất
hiện ở đầu thế kỷ XVII ở đình Bảng Môn (Hoàng Lộc, Hoàng Hóa, Thanh
Hóa). Hiện tƣợng này cũng đã gặp ở một số kiến trúc khác nhƣ đền Độc Cƣớc
(Sầm Sơn, Thanh Hóa), đình Nhân Lý (Nam Sách, Hải Dƣơng), đình Hàng
Kênh, đình Dƣ Hàng (TP Hải Phòng)…
Trở lại với ngôi đình hình chữ Nhất (一), thông thƣờng nơi thờ là một
“khám” lửng đặt trên sàn gắn liền với kiến trúc, sàn này khá cao, có thể đứng
thẳng ngƣời ở gầm bên dƣới. Không gian của nó thƣờng từ 2 cột cái phía
trong của gian giữa chạy về tới 2 cột quân ở phía sau. Ngƣời ta cũng thƣờng
làm ở trƣớc mặt của “khám” một sàn thờ hẹp, vừa đủ để đặt những đồ thờ,
nhƣ thế buộc sàn phải nhô ra phía trƣớc và tì lực trên 2 cột nhỏ đừng chân
xuống nên.
Trong kết cấu mặt bằng của mọi ngôi đình cổ truyền thì ngƣời ta chỉ lát
sàn chủ yếu ở các gian bên, còn gian giữa (đƣợc gọi là gian lòng nƣớc), bao
giờ cũng không lát sàn mà phổ biến là đƣợc lát đá. Vào thời gian sau, hãn hữu
gian lòng nƣớc đƣợc lát gạch. Theo điều tra hồi cố ở những nơi có hiện tƣợng
này, những ngƣời cao tuổi đã cho biết hiện tƣợng lát đá ở gian giữa chủ yếu
để tạo khí thiêng tinh khiết cho thần.
Mặt bằng đình Tình Quang hiện nay có bố cục kiến trúc hình chữ Đinh
(丁). Nhìn từ ngoài vào, trƣớc mặt đình là Hồ bán nguyệt (Ao đình), chắn
trƣớc Nghi môn là bức Bình phong. Giữa Bình phong và Nghi môn là một
con đƣờng nội bộ của đình, qua Nghi môn là một khoảng sân rộng, dọc theo
hai bên là Tả vu, Hữu vu, mỗi dãy có 5 gian, đƣợc xây theo kiểu tƣờng hồi bít
đốc. Tiếp đến là kiến trúc tòa Đại đình nằm ở chính giữa bao gồm các tòa:
Đại đình 5 gian 2 chái và 3 gian Hậu cung. Phía sau Hậu cung là khoảng sân
rộng. Phía trƣớc, bên phải tòa Đại đình là lăng mộ quan Thái giám bằng đá,
44
có bia tứ trụ ghi chữ: Thái giám từ. Ngang tòa Đại đình, bên trái là cổng tứ trụ
(Nghi môn) để bắt đầu đi vào không gian của đình. Đây là kiến trúc chủ yếu
của đình Tình Quang còn giữ đƣợc khá nguyên vẹn, mang những giá trị kiến
trúc, nghệ thuật cổ truyền [Bản vẽ 04, 05].
2.3.2.2. Hồ bán nguyệt (Ao đình)
Hồ bán nguyệt, vốn gốc ban đầu là Ao của đình. Ao mang tƣ cách tụ
thủy tụ phúc. Ao thấp mang ý nghĩa âm, đình xây trên cao mang ý nghĩa
dƣơng. Hình thức này tạo nên sự hòa hợp, âm dƣơng đối đãi, là sự cầu mong
hạnh phúc trƣờng tồn cho muôn đời con cháu. Hiện nay, Ao đình đã đƣợc cải
tạo thành Hồ bán nguyệt, xung quanh đƣợc kè đá và có cầu lên xuồng nằm ở
phía sau Bình phong.
2.3.2.3. Bình phong
Vị trí của Bình phong hiện nay, trƣớc đây là vị trí lăng mộ quan Thái
giám bằng đá, có bia tứ trụ ghi chữ: Thái giám từ. Sau này khi tôn tạo lại tổng
thể đình, đã chuyển lăng mộ quan Thái giám và bia tứ trụ sang phía trƣớc, bên
phải tòa Đại đình. Bình phong đƣợc xây dựng ở đây với ý nghĩa là để ngăn
luồng khí độc ở bên ngoài thổi vào cũng nhƣ không để nhìn trực tiếp từ bên
ngoài vào ban thờ trong đình để tạo sự tinh khiết và linh thiêng cho ngôi đình.
Về hình thức kiến trúc, Bình phong đƣợc làm theo kiểu cuốn thƣ, trang
trí đơn giản. Nhìn chung, đây là một bức bình phong mới đƣợc xây dựng và
chịu ảnh hƣởng của nghệ thuật cổ truyền.
2.3.2.4. Nghi môn
Nghi môn hay Nghinh môn là một công trình kiến trúc phụ, thông
thƣờng đƣợc dựng lên trên trục chính giữa (trục thần đạo) của một kiến trúc
Tôn giáo nhƣ đình hay đền, miếu. Nó là cái gạch nối giữa không gian trần tục
bên ngoài và không gian thiêng, thần thánh bên trong. Về mặt công năng kiến
trúc, Nghi môn ở đình làng cũng tƣơng tự nhƣ Tam quan trong các ngôi chùa
45
làng Việt. Trong dân gian hiện nay ngƣời ta vẫn dùng chung một từ: Tam
quan để chỉ kiến trúc cổng của các loại công trình tín ngƣỡng, tôn giáo khác.
Họ vẫn gọi Tam quan đình, Tam quan đền với một suy nghĩ đơn giản: Tam
quan là ba cổng, ba lối đi...
Cũng nhƣ đình ở các nơi khác, Nghi môn là một kiến trúc không thể
thiếu đƣợc của đình. Hiện nay, đình Tình Quang có 2 Nghi môn.
Nghi môn thứ nhất nằm phía trƣớc tòa Đại đình, trên trục thần đạo là
một kiến trúc đƣợc xây dựng lại vào khoảng cuối những 20 của thế kỷ XX.
Nghi môn đƣợc làm dạng Tam môn, bề rộng trải gần hết chiều ngang tòa Đại
đình. Phần giữa đƣợc làm dƣới dạng kiến trúc 2 tầng mái chồng diêm. Phía
cách 2 cửa bên cũng đƣợc tạo dạng cột trụ đèn lồng. Khoảng cách giữa cột trụ
chính với cửa bên và cột trụ là khoảng tƣờng để phân định không gian.
Phần cửa chính là cửa của nhà Thánh, để tạo mặt bằng, không có bậc.
Thông thƣờng cửa chính chỉ dùng trong ngày lễ hội hoặc các tiết gắn liền với
nghi thức lễ nghi truyền thống của địa phƣơng. Cột trụ đƣợc tạo dƣới dạng
thân hộp chữ nhật đứng, với tiết diện tƣơng ứng kiến trúc tòa Đại đình, tạo sự
vững chãi và uy nghiêm. Đế trụ đƣợc tạo chân cổ lƣợn do các đấu tam cấp
chồng nhau.
Thân cột tạo viền thành 3 mặt để đắp các đôi câu đối chữ Hán. Phần
đỉnh cột đƣợc tạo thành 3 phần cơ bản. Phần tiếp giáp với thân cột đƣợc tạo
hõm dạng đèn lồng chữ nhật. Lòng trong đắp nổi đề tài tứ linh: Long, ly, quy,
phƣợng. Phần nối tạo nổi dạng lá cúc lật và các biểu tƣợng hoa thiêng. Phía
trên hộp đèn lồng để tiếp nối với phần giữa của đỉnh thân cột cũng tạo dạng
đấu vuông, lòng trong đắp nổi lá cúc, quả đào. Tại phần giữa của đỉnh tạo
thành mái chóp dạng mui lƣợn, bốn mặt đắp hổ phù ọe mặt trăng dạng chữ
thọ (壽). Các bờ góc đƣợc tạo lƣợn tránh sự thô nhƣng vẫn gợi cảm giác ấm
46
cúng. Phần đỉnh trên cùng, thông qua đấu vuông thắt đáy là biểu tƣợng: Sƣ tử
hí cầu - đây là linh vật thƣờng gặp ở các di tích khác. Trong tƣ cách kiểm soát
tâm hồn kẻ hành hƣơng trƣớc khi bƣớc vào cửa Thánh.
Hai cửa Tả, Hữu đƣợc tạo dạng cổng, gánh 2 cột cạnh dạng đòn vuông
thót đáy để từ đó làm cơ sở tạo vòm cuốn phía dƣới. Thân cột của cổng đƣợc
đắp nổi dƣới dạng cánh dơi ngậm câu đối. Phía lòng của các mảng này đƣợc
khắc các đôi câu đối chữ Hán. Phần mái của cổng đƣợc chia làm 2 tầng dạng
2 tầng 8 mái cổ diêm, gắn mái âm dƣơng. Phần thân cổ diêm tầng dƣới, một
bên đƣợc đắp nổi cuốn thƣ, là biểu thị đề cao học vấn, một bên tạo mai trúc
hóa long - đây là đề tài mà ngƣời xƣa muốn gửi gắm sự đoàn kết hòa hợp của
gia đình, của cộng đồng. Đó là: Một nhà nhƣ thể trúc mai. Phần lòng cổ diêm
đƣợc tạo 2 dạng khác nhau. Phía cổng phải tạo ô lõm chữ nhật nằm với đề tài
đôi sƣ tử hí cầu. Phía bên tay phải đắp “long mã hà đồ”. Hai ô cạnh đã bị
bong mất đề tài trang trí.
Hai trụ phụ cũng đƣợc tạo dạng trụ đèn lồng với chân dạng cổ lƣợn,
thân hộp chữ nhật, hai mặt đắp hai vế đối chữ Hán. Phần đỉnh trụ tạo bởi hai
đấu vuông thót đáy chồng nhau. Phần đèn lồng tạo ô hõm, vẽ chữ hỷ (喜) màu
đỏ. Điều này cũng là để cầu mong thần linh ban cho chúng sinh những điều
hạnh phúc.
Nghi môn thứ hai, ngang tòa Đại đình, bên trái để bắt đầu đi vào không
gian của đình. Nghi môn này với 4 cột trụ, 2 trụ nhỏ hai bên và 2 trụ to ở
giữa. Từ dƣới lên ở giữa của 2 cột trụ chính đƣợc làm dạng mái đao, gián ngói
vảy cá. Nghi môn này đƣợc xây dựng vào năm 2010.
Nhìn chung, Nghi môn đình Tình Quang không bề thế nhƣng phù hợp
với cảnh quan không gian chung, là kiến trúc đầu tiên để chúng ta nhận biết
47
sự hiện diện của di tích và thu hút sự quan tâm chủ ý của mọi ngƣời. Nghi
môn đƣợc mở ba cửa, cửa chính rộng và cao, hai cửa phụ thấp và hẹp hơn, đó
đƣợc hiểu nhƣ là Tam Sơn (núi ba đỉnh) - là gạch nối giữa Trời và Đất.
Nghi môn đình Tình Quang tuy mới đƣợc xây dựng lại, có ít nhiều hạn
chế về giá trị kiến trúc, nghệ thuật, song nó vẫn mang đầy đủ yếu tố sâu xa
của một công trình tín ngƣỡng cổ truyền. Có thể khẳn định rằng, sự hiện diện
Nghi môn là cần thiết để tạo nên sự hoàn chỉnh cho một tổng thể kiến trúc
đình làng Việt nói chung và đình Tình Quang nói riêng.
2.3.2.5. Nhà Tả vu, Hữu vu
Vào các giai đoạn đầu của ngôi đình làng, hiện tƣợng Tả vu, Hữu vu
thƣờng không gắn bó với đình. Cho đến nay, trên thực tế, chúng ta chỉ tìm
đƣợc những sản phẩm kiến trúc này nảy sinh từ thế kỷ XIX về sau mà thôi.
Tuy nhiên, trong kiến trúc của ngƣời Việt thì dấu vết có thể là hiện tƣợng Tả
vu, Hữu vu đã xuất hiện từ thế kỷ XV, nhƣ ở điện Lam Kinh (Thọ Xuân,
Thanh Hóa). Hiện tƣợng Tả vu, Hữu vu đƣa vào đình đã hạn chế tính khang
trang mang nét áp chế của đình làng, phá vỡ không gian mênh mông trƣớc
cửa đình, để chuyển hóa và bổ sung chức năng của đình sang một thế ứng xử
mới. Tả vu, Hữu vu đã trở thành những đơn nguyên kiến trúc gắn với đình
làng. Đây là 2 tòa nhà nằm song song với nhau, cùng quay mặt vào một sân
rộng phía trƣớc tòa Đại đình. Đây là kiến trúc với công năng là nơi để sắp xếp
lễ vật dâng lên Thành hoàng và để các quan viên, chức sắc, các cụ già trong
làng xã phân chia ngôi thứ ngồi dự mỗi kỳ lễ hội.
Mỗi dãy Tả vu, Hữu vu đình Tình Quang gồm 5 gian, 4 hàng chân cột,
tƣờng hồi bít đốc, đƣợc xây dựng bởi gạch, vôi vữa với bộ khung bằng chất
liệu gỗ lim, mái lợp ngói ta. Tả vu, Hữu vu bắt đầu chạy từ tiếp giáp đao tòa
Đại đình ra đến tiếp giáp hệ thống Nghi môn, tạo không gian khép kín. Nền
của Tả vu, Hữu vu cao hơn nền sân 30cm. Kết cấu kiến trúc với cột trụ vì giẻ
48
quạt, xà ngang gánh hai đầu đƣợc đặt trên hệ thống tƣờng đỡ lấy phần vì nóc
phía trên. Hệ thống các hoành, rui, vì đƣợc tạo vuông, để trơn không trang trí.
Vì nóc đƣợc tạo dáng cột trốn chồng rƣờng biến thể đứng trên xà ngang.
Tả vu, Hữu vu vói tƣờng hồi bít đốc, mái lợp ngói ta. Kết thúc bờ nóc
của mái đƣợc thể hiện đấu vuông thót đáy, bờ dải chảy thẳng xuống đầu cột
hiên. Cửa kiểu thƣợng song hạ bản. Nền đƣợc lát gạch bát với mạch kiểu chữ
Công (工). Các cấu kiện của Tả vu, Hữu vu đều đƣợc bào trơn đóng bén. Tả
vu, Hữu vu đã góp phần hoàn chỉnh cho tổng thể kiến trúc đình Tình Quang.
2.3.2.6. Đại đình
Tòa Đại đình là nếp nhà nằm ngang và to lớn nhất kiến trúc trung tâm,
gồm: Đại đình và Hậu cung liên hoàn tạo thành một chỉnh thể thống nhất.
Nhìn từ ngoài vào, đầu tiên ta bắt gặp là hệ mái, mái tòa Đại đình to rộng, xòe
ra trùm lên kết cấu khung gỗ, cùng với những trang trí linh vật trên mái đã tạo
nên một dáng vẻ hết sức hoành tráng và cổ kính.
Mái của tòa Đại đình lợp ngói ta, chính giữa bờ nóc đắp hình tƣợng:
“lưỡng long chầu nhật” (đôi rồng chầu mặt trời). Rồng ở đây đƣợc thể hiện có
vẻ dữ tợn, thông qua mũi nổi khối, kết hợp với đao tóc, đao vây và đuôi với
những đƣờng nét sắc sảo, uốn lƣợn. Thân rồng gắn các mảnh sứ, thể hiện
trong tƣ thế bƣơn trải, hƣớng về trung tâm mặt trời. Mặt trời trang trí những
đao bốc lửa, phía dƣới đƣợc nâng đỡ bởi những cụm mây. Tiếp sau rồng là
đôi phƣợng trong tƣ thế cánh dang rộng bồng bềnh trên nền của bầu trời. Hai
đầu kìm của bờ nóc trang trí hai rồng dạng cuốn thủy. Đây là hình tƣợng thủy
quái gắn liền nguồn nƣớc đang ngậm cuộn mây. Từ những hình tƣợng nhƣ
vậy thì phần nóc của ngôi đình đã biểu thị cho bầu trời vân vũ - gắn liền với
sự cầu mong nguồn nƣớc của cƣ dân nông nghiệp. Bờ dải đƣợc trang trí dải
hoa lá chanh chạy từ đuôi của đầu kìm đến tiếp nối phần đầu guột. Phần giữa
49
mà chính là phần cuối bờ chảy đƣợc tạo đắp hình tƣợng dạng con nghê. Phần
đầu guột, tạo bởi hình tƣợng lá cúc lật, có một phần nhánh lá vút ra. Đứng
trên đó là hình tƣợng con lân đang ngậm cụm mậy. Tiếp đến đầu đao cong,
phần mũi đao đƣợc gắn với hình tƣợng đầu sƣ tử. Dƣới góc đầu đao đƣợc ốp
chéo dải lá sần. Tất cả bờ nóc, bờ dải, bờ guột đều đƣợc đắp bằng vôi vữa và
gạch hoa chanh làm tăng tính thẩm mỹ cho mái đình.
Tòa Đại đình đƣợc dựng trên nền cao là 50cm so với mặt sân, xung
quanh đƣợc bó vỉa bằng đá xanh. Không gian bên trong của tòa Đại đình với
nội thất chia làm 5 gian, 2 chái, mà thực chất là 2 chái lớn và 2 chái nhỏ, đƣợc dựng trên kết cấu 6 hàng chân cột, diện tích 360m2.
Bảng 1: Kích thƣớc cắt dọc của tòa Đại đình
Các đơn vị không gian Số đo
Gian giữa 3,60m
Gian bên phải cạnh gian giữa 3,02m
Gian bên trái cạnh gian giữa 3,02m
Gian bên bên phải kế tiếp 2,98m
Gian bên bên trái kế tiếp 2,98m
Chái bên phải 4,44m
Chái bên trái 4,44m
Hiên hồi bên phải 1,10m
Hiên hồi bên trái 1,10m
Tổng cộng 26,68m
Bảng 2: Kích thƣớc cắt ngang của tòa Đại đình
Khoảng cách giữa các cột Số đo
Cột cái - Cột cái 3,77m
Cột cái - Cột quân phía trƣớc 2,91m
Cột cái - Cột quân phía sau 2,91m
50
Cột quân phía trƣớc - Cột hiên phía trƣớc 1,45m
Cột quân phía sau - Cột hiên phía sau 1,45m
Nền của tòa Đại đình đƣợc lát gạch bát kích thƣớc 30cm x 30cm. Hiện
nay, tại gian giữa mặc dù đã qua nhiều lần tu sửa nhƣng vẫn còn giữ lại hiện
trạng của gian lòng thuyền/lòng nƣớc (tức gian chính giữa) thấp hơn so với
các gian khác. Đây là cách ứng xử của cộng đồng với thần linh, hay nói cách
khác, Thành hoàng vẫn đƣợc đề cao.
Gian lòng nƣớc, các cột cái đều cao 6m, đƣờng kính 47cm dựng trên
chân tảng đá Âm Dƣơng có kích thƣớc 68cm x 68cm. Cột quân cao 3,6m,
đƣờng kính 40cm, dựng trên chân tảng kích thƣớc 56cm x 56cm.
Hệ thống cột đƣợc dựng trên chân tảng vuông tròn, thông qua chân
tảng mà thông linh, bởi vì đá là chất tụ linh và chuyển tải tâm linh.
Kết cấu các bộ vì nóc tòa Đại đình đƣợc dựng trên câu đầu dạng vì kèo
cột trụ thanh vuông. Đây là sản phẩm của lần tu bổ dƣới thời Nguyễn. Hiện
tƣợng này tạo cho kiến trúc có phần vững chãi hơn, bởi kèo và cột trụ đƣợc
đóng bén ăn mộng với nhau. Phần vì nóc tạo dạng tam giác cân đứng toàn bộ
và tải lực trên một câu đầu lớn. Phần trụ giữa đỡ lấy xà nóc thông qua một
đấu hình thuyền. Phần đấu này có chạm viền và phần cổ dƣới hở ra dạng lá
đề. Các hoành mái dạng vuông. Nhìn chung tổng thể câu đầu, vì nóc và hoành
mái để trơn không trang trí. Các hoành mái dạng vuông này là sản phẩm
muộn qua các lần tu bổ về sau.
Trang trí trên kiến trúc, chủ yếu thể hiện ở phần cốn, đầu dƣ và bẩy
hiên. Cốn trong các gian tòa Đại đình đƣợc chia làm 2 loại. Loại thứ nhất
đƣợc thể hiện ở 2 vì gian giữa. Loại thứ hai ở các gian bên và gian chái. Cốn
gian giữa chỉ khác các cốn gian khác là đƣợc tạo thêm ván mê và khoảng cách
các con rƣờng đƣợc chắp khít nhau thông qua một đấu vuông thót đáy mỏng
51
tạo thành một mảng kín để trang trí các đề tài. Các cốn gian còn lại là hệ
thống các con rƣờng, một đầu ăn mộng vào cột cái. Đầu kia chồng nhau thông
qua các đấu vuông thót đáy có độ dày hơn.
Hệ thống xà đùi, xà nách, một đầu ăn mộng vào cột cái, một đầu ăn
mộng với cột quân, đỡ dƣới là các nghé. Một số nhà nghiên cứu cho rằng đây
là dạng kết cấu kiến trúc: Thƣợng chồng rƣờng hạ kẻ. Một số khác lại kết luận
đây là kết cấu: Giá chiêng vì kèo cột trụ, cốn chồng rƣờng, bẩy hiên. Phần đỡ
lấy câu đầu phía dƣới là đầu dƣ, đỡ lấy xà đùi, xà nách là nghé.
Đầu dƣ ở đây đều đƣợc chạm khắc tỉ mỉ, nhô ra dƣới bụng câu đầu phía
ngoài cột cái với 2 loại hình: Thứ nhất tạo tác dạng đầu rồng với các đao mác
bay hết phần thân của đầu dƣ; Thứ hai chỉ có 4 đao dƣới bay thẳng ra phía sau
hết thân đầu dƣ. Cả 2 loại hình này đều tập trung ở gian giữa của tòa Đại đình.
Đầu dƣ ở các gian khác cũng tạo tác tƣơng tự. Duy chỉ có 2 đầu dƣ ở gian
chái, phía bên trái tòa Đại đình là trang trí một nửa thân phần mặt ngoảnh vào
trung tâm đình. Hiện tƣợng này là nhằm đề cao, tôn thờ đối với các vị thần
linh. Từ đặc điểm trang trí, có thể nhận định rằng: 2 đầu dƣ của gian chái và
một số đầu dƣ khác là những cấu kiện công trình từ lúc khởi nguyên.
2.3.2.7. Hậu cung
Về Hậu cung, đình Bảng Môn (Hoàng Lộc, Hoàng Hóa, Thanh Hóa),
có thể coi là một kiến trúc có tòa Hậu cung lồi ra phía sau (mang dáng dấp
kiểu chuôi vồ) sớm nhất nƣớc ta, với niên đại đầu thế kỷ XVII. Hay nhƣ một
tòa Hậu cung đƣợc coi nhƣ điển hình nhất nữa là tòa Hậu cung của đình Hữu
Bằng (Thạch Thất, Hà Tây cũ). Thực ra đình này có kết cấu mặt bằng theo
kiểu chữ Đinh (丁), nhƣng mặt bằng mái lại theo kiểu chữ Công (工). Đó là
một ngôi đình có tòa Hậu cung khá đầy đủ mang niên đại ở nửa cuối thế kỷ
XVII trên đất Bắc. Theo truyền thống kiến trúc thì kết cấu này thực sự đã tạo
52
nên một Hậu cung kép, với sự hội nhập từ kiểu Hậu cung thờ trên gác lửng
dạng “khám” đƣợc bƣng kín (lồng) trong phần chuôi vồ của đình. Nhƣ vậy,
Hậu cung gỗ dựng trên sàn cao đƣợc lọt trong một Hậu cung bao ngoài liên
quan chặt chẽ với tổng thể kiến trúc của tòa Đại đình. Hậu cung mang tính
chất “khám” thƣờng có sập thờ để đỡ ngai, bài vị của Thành hoàng làng và
những đồ thờ liên quan. Khoảng thế kỷ XIX trở về sau, nhất là ở vùng châu
thổ thấp, hiện tƣợng Hậu cung dƣới dạng gác lửng đã nhƣ bị giải thể, chỉ còn
một Hậu cung thống nhất trong kiến trúc Đại đình. Phần Hậu cung nàu bao
giờ cũng đƣợc bƣng cửa kín, trong đó ngƣời ta xây bệ thấp dần tƣ trong ra,
thông thƣờng với 3 cấp, trên là nơi của ngai và bài vị thờ. Ở trong Hậu cung,
hầu nhƣ không có hiện tƣợng lát nền mà chủ yếu là đất nện nhằm thông khí
âm dƣơng (hiện tƣợng lát nền bằng gạch lát hoặc gạch men chủ yếu là sản
phẩm của thế kỷ XX, khi tín ngƣỡng cổ truyền phần nào bị suy lạc).
Suy cho cùng, Hậu cung của đình đƣợc ra đời không phải ngay từ giai
đoạn xuất hiện của loại hình kiến trúc này, mà dần nó trở lên không thể thiếu
khi chức năng trụ sở của chính quyền và một số chức năng liên quan khác bị
hạn chế dần để chức năng của đền thờ thâm nhập một cách mạnh mẽ, có
nghĩa là tính dân gian hóa của ngôi đình ngày một sâu đậm hơn.
Hậu cung đình Tình Quang là phần chuôi vồ có kết cấu 3 gian chạy
dọc, nối với phần kiến trúc Đại đình tạo thành tổng thể hiện trang, kiến trúc
hình chữ Đinh (丁). Mặt nền của tòa Hậu cung cao hơn so với nền tòa Đại
đình 50cm.
Nguyên thủy đình chỉ có kết cấu mặt bằng hình chữ Nhất (一), sau đó
nối thêm phần Hậu cung. Nhìn tổng thể các hệ thống đầu bẩy duy chỉ có phần
vì của 2 gian giữa với hệ thống bẩy đƣợc tạo biến thể trở thành phần xà gối từ
cột quân sang cột hiên mà thực chất tạo thành cột cái của tòa Hậu cung. Phần
53
xà nách đƣợc cắt bớt để đáp ứng và phù hợp với độ rộng khoảng cách nối
giữa Đại đình và Hậu cung. Thực tế này cũng thể hiện rõ nét trên phần trang
trí đề tài rồng phụ tử: do cải tạo mà đầu rồng chính đã bị cắt bớt chỉ còn lại
phần thân. Từ đó lại nảy sinh một bức dạng cốn ván mê ghép bởi các ván với
nhau tạo thành đề tài rồng vần vũ. Tuy nhiên, với những đƣờng nét chạm khắc
nổi, bong kênh có phần sắc sảo thì đây là sản phẩm của nghệ thuật chạm khắc
đầu thế kỷ XX.
Phần cửa của Hậu cung đƣợc tạo thành hệ thống cửa bức bàn với hình
thức thƣợng song hạ bản. Phần gian giữa mà chính là khoảng cách giữa hai
cột là những hàng cửa bức bàn với sáu cánh, rộng bản 50cm đƣợc tạo phần
trên con tiện, phía dƣới chạm nổi đề tài: Trúc mai, mâm bồng ngũ quả. Chạm
thủng với đề tài long - quy, cả rồng lẫn rùa đƣợc chạm trong khuôn phạm
hình tròn. Rồng đang trong tƣ thế cuộn mây vần vũ, rùa cõng hàm thƣ (sách
bút) đang ngậm cụm mây trên nền vân sóng.
Trang trí vì nóc dạng ván mê với đề tài hổ phù trong tƣ thế nuốt mặt
trăng. Đây là đề tài gắn với các mảng trang trí khác trong cùng một hệ thống
trang trí của kiến trúc. Ngoài hình tƣợng hổ phù ở đây còn có những hoa lá
dạng mây cách điệu nhằm tôn lên vẻ đẹp của linh vật tầng trên.
Hiện nay, kết cấu kiến trúc phần Hậu cung đƣợc làm dƣới 2 dạng vì
khác nhau. Bộ vì thứ nhất nối với tòa Đại đình và bộ vì đầu tiên của gian cung
cấm làm dƣới dạng vì nóc ván mê đứng trên câu đầu. Cốn ván mê đứng trên
xà nách, thể hiện đề tài trang trí “phượng hàm thư” và vì nóc trang trí “rồng
chầu mặt trời”. Riêng phần vì nóc tiền gian Hậu cung đƣợc tạo bởi ván mê
trong lòng khắc chữ “Vạn xuân”. Các vì còn lại cũng dạng kết cấu: Thƣợng
ván mê, hạ kẻ ngồi. Nối giữa các hệ thống cột quân là các xà hạ tạo gắn kết
liền gian.
Phần bẩy đƣợc đỡ trên hệ thống tƣờng bao khép kín đƣợc xây bằng
54
gạch bê tông. Đây chính là không gian khép kín của tòa Hậu cung. Hai bên
tƣờng đƣợc chạm thủy ô tròn và có gắn chạm thủng hình chữ phúc. Phần nóc
cũng đƣợc lợp ngói vẩy rồng nhƣ tòa Đại đình. Đồng thời, bờ dải và bờ chảy
cũng đƣợc tạo bởi bờ viền dạng đấu vuốt kẻ chỉ.
2.4. Tiểu kết
Đình Tình Quang nằm trên một khu đất rộng rãi, quay về hƣớng Đông -
Bắc, ở giữa khu cƣ trú của cụm dân cƣ Tình Quang. Có thể nói đình Tình
Quang gắn bó mật thiết với con ngƣời và mảnh đất nơi đây, một trong những
ngôi làng Việt cổ truyền (từ làng lên phố).
Về mặt kiến trúc, đình Tình Quang gồn các hạng mục công trình, nằm
trên một khu đất rộng rãi, bằng phẳng, gồm: Hồ bán nguyệt, Bình phong, 2
Nghi môn, Tả vu, Hữu vu, Đại đình, Hậu cung và hệ thống sân vƣờn…
Kiến trúc hiện nay của đình Tình Quang là sự sắp xếp các đơn nguyên
kiến trúc trong một tổng thể nhất định, với bố cục mặt bằng kiến trúc hình chữ
Đinh (丁). Tuy không có niên đại cụ thể, nhƣng căn cứ vào bố cục mặt bằng
kiến trúc tòa Đại đình và những tài liệu có liên quan, bƣớc đầu có thể nhận
định đình Tình Quang đƣợc khởi dựng vào giữa thế kỷ XVII, tiếp đó bổ sung
dần thêm các thành phần kiến trúc liên quan trong thế kỷ XIX, XX… để tạo
55
thành một một tổng thể hoàn chỉnh đình Tình Quang nhƣ ngày nay.
Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC, TRANG TRÍ VÀ
ĐỊNH HƢỚNG BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐÌNH TÌNH QUANG
3.1. Vài nét về nghệ thuật điêu khắc, trang trí đình làng
3.1.1. Vài trò, vị trí của nghệ thuật điêu khắc, trang trí đình làng
Trong kiến trúc cổ truyền của ngƣời Việt, trƣớc đây, những mảng phù
điêu thƣờng chỉ đƣợc nhìn nhận với chức năng trang trí để làm đẹp là chính -
đó là lối nhìn dƣới góc độ tiếp cận giản đơn, lấy giá trị tạo hình làm trọng.
Nhìn nhận những mảng chạm theo cách đó chỉ mới thấy đƣợc cái hình, cái
“hiển” mà chƣa thấy đƣợc nội dung chứa đựng mang tính “mật” trong đó, với
giá trị cao hơn nhiều. Có nghĩa là, giá trị có tính biểu tƣợng gắn với không
gian tâm linh mới là tinh thần chủ yếu của nghệ thuật truyền thống Việt.
Ngƣời ta có thể tìm thấy ở nơi đây những ƣớc vọng truyền đời thuộc tƣ duy
nông nghiệp, những mối quan hệ với cả vũ trụ và cả thế giới nhân sinh của
ông cha ta, rồi những hoạt cảnh luôn làm náo nức tâm hồn nhân thế của mọi
thời. Nhƣ vậy, ở đó ngƣời xƣa đã hội đủ tài năng để “thao diễn” dòng chảy
của tâm tƣ qua hình thức chạm chìm, nổi, bong kênh, lộng. Mặt khác, ngay từ
rất sớm ngƣời Việt đã chú ý tới hình thức đồng hiện, không phân chia ranh
giới cụ thể cho một mảng chạm, để trên đó (cùng một mặt gỗ) có nhiều không
gian với các đề tài riêng, chúng không có mối liên hệ trực tiếp về nội dung với
nhau. Chỉ cần quan sát kỹ càng một chút, ngƣời xem đã có khả năng phân
định một cách rành rẽ các hình tích trên mảng chạm đó. Suy cho cùng, có thể
gọi chính xác hơn, đây là một dạng nghệ thuật điêu khắc đƣợc diễn ra trên
không gian hai chiều và tinh thần của nó vƣợt ra ngoài mục đích chỉ để đơn
thuần làm đẹp cho kiến trúc.
Nhƣ trên đã đề cập, nghệ thuật tạo hình không chỉ đơn thuần để trang
56
trí, làm đẹp cho kiến trúc hoặc các hiện vật nào đó, mà là sự kết tinh các giá
trị thẩm mỹ, là sự bồi đắp và ngày càng khẳng định bàn tay, khối óc tài hoa
của những ngƣời thợ thủ công. Đã một thời rất dài, hoa văn gắn vào cuộc
sống thƣờng ngày trƣớc việc ứng xử với cái đẹp, để trở thành những mảnh
tâm hồn nhân thế và cõng trên lƣng bao vấn đề lịch sử, xã hội của dân tộc.
Chúng luôn luôn mang đậm nhiều khía cạnh về bản sắc, dấu ấn của nghệ thuật
đƣơng thời. Chúng là hình ảnh chân thực, là lời nhắn nhủ đầy tính triết mỹ
của ông cha ta để lại cho mai sau.
Hiện nay, chúng ta dễ nhìn chạm khắc trên di tích nói chung nhƣ một
hình thức trang trí cho kiến trúc. Xuất phát từ nhận thức đó, nên giá trị tâm
linh của các mảng chạm khắc phần nào bị giảm. Nhƣng từ lâu nhiều nhà
nghiên cứu dân tộc học nghệ thuật, nhƣ cố Giáo sƣ Từ Chi, cố Họa sĩ Nguyễn
Đỗ Cung đã nhìn thấy cái động trong cái tĩnh, thấy đƣợc ý nghĩa ẩn tàng vẫn
còn lứu kéo tâm hồn những tín đồ khi tiếp cận, bởi thực tế các mảng chạm
khắc đó nhiều khi đã có một giá trị biểu tƣợng sâu xa để duy trì một nhận thức
và ƣớc vọng truyền đời của tổ tiên.
Các mảng chạm khắc này, về hình thức cũng đã phản ánh một khía
cạnh nào đó của tâm hồn dân tộc. Trong không gian của mảng chạm khắc,
thƣờng ngƣời xƣa ít khi dành ra những khoảng trống, nhất là những khoảng
trống có tính tƣ tƣởng. Một đặc điểm khác, cũng trong không gian đó, có
nghĩa trên một giải ván nong hoặc lá gió, hay một khối chạm khắc nào đó
thƣờng ít khi thấy đƣợc thể hiện chỉ một đề tài nghệ thuật mà nhiều khi lại
đan xen những đề tài khác nhau, có khi không liên quan tới nhau. Trong tạo
hình dân tộc, hình thức đồng hiện này chủ yếu thấy đƣợc thực hiện phổ biến
từ khoảng thế kỷ XVI về sau, đó là giai đoạn mà nghệ thuật chạm khắc dân
gian hình thành và phát triển ở các di tích, nhất là ở ngôi đình, cụ thể ở đình
Tây Đằng (Ba Vì, Hà Tây cũ). Một ví dụ cụ thể ở đình này, cùng trên một
57
mảnh gỗ nhỏ mà vừa xuất hiện cảnh trai gái “tình tự”, thì sát cạnh đó lại là
mảng chạm mang đề tài “ngồi khóc cho măng mọc”. Tuy vậy, tính đồng hiện
trong chạm khắc có thể chỉ đến đỉnh cao thuộc giai đoạn “nghệ thuật đình
làng” vào cuối thế kỷ XVII. Khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tính
đồng hiện phần nào giảm hẳn để các mảng chạm khắc mang tính hoạt cảnh
thƣờng gắn với các đề tài có sự tích riêng, nhƣ về đề tài Đinh Tiên Hoàng,
Quan Âm Thị Kính, Tây Du Ký…
Nhìn chung, theo thời gian, các mảng chạm khắc này đƣợc diễn ra có
sự thay đổi dần về kỹ thuật, nếu nhƣ ở thời Lý, thời Trần, thời Lê sơ… kể cả
chạm khắc trên đá hay trên gỗ, thƣờng đƣợc thể hiện dƣới dạng chạm nổi, rất
ít khi chạm chìm với hình thức tỉ mỉ, trau chuốt, đặc kín (thời Lý). Sau đó, đôi
khi trên mảng chạm cũng có những khoảng trống nhỏ (cuối thời Trần và thời
Lê sơ), song các mảng trống này chủ yếu là không gian phù trợ cho những đề
tài chính, chứ không phải nhƣ của ngƣời Trung Hoa có khi lấy các đề tài
chạm khắc (không mang tính trọng tâm) để phản ánh một ý miệm sâu xa
khác. Ở thời Mạc trở về sau, những đƣờng chạm nhỏ chỉ đƣợc thể hiện phù
trợ cho những mảng lớn, chẳng hạn nhƣ là đƣờng diềm hai bên sống đuôi con
thú… Thời này, hình chạm đƣợc tập trung vào các mảng lớn hơn thời trƣớc,
đó là những hệ vân xoắn, những đao để làm nền cho những đề tài chủ đạo,
nhằm mục đích thiêng hóa hoặc để đạt một ý nghĩa sâu xa nào đó… Với ý
thức nhƣ vậy, bằng kỹ thuật ngày càng phát triển và rộng khắp, cụ thể là
ngoài chạm nổi là cơ bản thì hiện tƣợng chạm bong kênh, chạm lộng đã đƣợc
thực hiện với tay nghề khá điêu luyện, để lại cho chúng ta những tác phẩm
tƣơng đối hoàn chỉnh. Những ví dụ cụ thể nhƣ hiện tƣợng chạm thủng đã xuất
hiện từ thời Mạc, rồi những đao rồng theo kiểu bong kênh ở trên kiến trúc nhƣ
tại các đầu dƣ của bộ vì, hay chạm lộng ở cửa võng…
Chạm khắc trên bộ vì và những vị trí khác đã để lại trong ý thức của
58
những ngƣời đƣợc tiếp cận, khiến nhiều khi tâm tƣ ngƣời xem vƣợt ra ngoài
nghệ thuật đơn thuần để tìm thấy đƣợc một số vấn đề thuộc lịch sử và xã hội
đƣơng thời gắn với các mảng chạm khắc đó. Nhìn chung, các mảng chạm đã
nâng giá trị nghệ thuật của ngôi đình lên rất cao.
3.1.2. Kỹ thuật điêu khắc, trang trí đình làng
Kỹ thuật điêu khắc là thể hiện trình độ và tính sáng tạo của ngƣời nghệ
nhân dân gian xƣa, qua đó gửi gắm tâm tƣ tình cảm của chính ngƣời nghệ
nhân cũng nhƣ phản ảnh hoàn cảnh lịch sử xã hội đƣơng thời.
Trƣớc hết, tôi tìm hiểu một số thuật ngữ, khái niệm về những kỹ thuật
điêu\chạm khắc (chạm thủng, chạm nông, chạm kênh bong, chạm lộng, chạm
nổi) mà ngƣời nghệ nhân dân gian đã sử dụng trong quá trình sáng tạo để làm
nên những mảng chạm khắc sinh động, chân thực, gần gũi, thể hiện ƣớc mơ,
khát vọng của ngƣời dân đƣơng thời về một xã hội thanh bình, yên vui; về
một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đồng thời, làm nên giá trị nghệ thuật đặc
trƣng của nghệ thuật chạm khắc đình làng.
Chạm: Tạo nên những đƣờng nét hoặc hình khối nghệ thuật trên mặt
vật rắn bằng cách đục, khắc [46, tr. 131]; kĩ thuật điêu khắc, đục xuống mặt
vật liệu (đá, gỗ, ngà…) để làm nổi bật lên các hình tƣợng nghệ thuật muốn
diễn tả. Các kỹ thuật chạm chủ yếu là chạm nổi (cao, vừa và thấp), chạm bong
hay chạm kênh, chạm lộng hay chạm thủng. Những kỹ thuật này phổ biến
trong mỹ thuật Việt Nam và thế giới [29, tr. 506].
Chạm thủng: Mặt ván thƣờng không dày, các hình thƣờng phẳng và
nền bị đục thủng, chỉ còn lại các hình trang trí. Kỹ thuật này cho phép diễn tả
hoa lá, mây nƣớc, chin thú, rồng phƣợng… rất tinh tế, mềm mại, thanh nhã,
với hiệu quả trang trí cao, lại có giá trị sử dụng khi làm cánh cửa, cửa thông
gió, tƣờng ngăn nhỏ hay bình phong… [16, tr. 149].
Chạm nông: Bề mặt gỗ phẳng và các chi tiết đƣợc chạm nổi ở trên đó.
59
Các bức chạm vuông vức trên các ván bƣng, hoành phi, câu đối… thƣờng
dùng lối chạm này, rất thuận tiện cho việc sơn son thiếp vàng. Kỹ thuật chạm
nong cho phép các hình trang trí đƣợc bố cục trải đều phủ kín mà không làm
giảm chịu lực của cấu kiện gỗ [16, tr. 150].
Chạm kênh bong: Kỹ thuật chạm khắc để tạo ra các hình trang trí nhiều
lớp từ thân gỗ chịu lực. Các hình rồng, phƣợng, mây, hoa lá gắn với các khối
lớn hoặc ở các xà kèo lớn thƣờng đƣợc tách ra, có khi theo nhiều lớp chồng
lên nhau. Kỹ thuật này tạo ra cảm giác các hình nhƣ mọc ra từ thân gỗ , kết
hợp với hiệu quả ánh sáng gây cảm giác trang trí uốn lƣợn rất cầu kỳ, hơn hẳn
cách chạm nông hay chạm thủng. Nhiều khi ngƣời ta kết hợp nhiều kiểu chạm
bong kênh bằng việc gắn thêm phía ngoài những chi tiết khắc rời, tạo hiệu
quả tầng tầng lớp lớp cho mảng trang trí. Kiểu chạm kênh bong khá phổ biến
ở phù điêu trang trí đình làng [16, tr. 150]; Chạm bong (chạm kênh, chạm
kênh bong) thuật ngữ kỹ thuật dân gian chỉ hình thức chạm khắc trên gỗ mà
một số thành phần của bức chạm đƣợc chạm trồi cao nên gần nhƣ tách ra khỏi
mặt nền. Lối chạm này tạo nên nhiều lớp cao thấp nhằm diễn tả chiều sâu
không gian, khẳng định những hình chủ yếu của bức chạm... Kiểu chạm này
đƣợc chạm nhiều trên các thành phần kiến trúc ở đình, chùa cổ Việt Nam…
[29, tr. 506].
Chạm lộng: Chạm theo lối đục thủng nền để chừa lại những hình nét
trang trí [46, tr. 131]; Là cách chạm khắc đòi hỏi kỹ thuật cao, sự công phu, tỉ
mỉ của ngƣời thợ. Đây cũng là kỹ thuật chạm khắc đầy tính biểu cảm, có hiệu
quả không gia và khối cao nhất. Các hình khối chạm lộng thƣờng là những
nhân vật và các con vật linh… Chúng gần nhƣ những pho tƣợng tròn, lồi hẳn
ra, chồng chéo nhiều lớp cực kỳ phức tạp, làm mất cảm giác về nền vốn có
của bức chạm. Cả thân cây gỗ đƣợc đục rỗng, tạo ra những khoảng trống luồn
lách trong khối tƣợng. Các bức chạm khắc đƣợc chạm lộng thƣờng là những
60
phần hấp dẫn nhất của điêu khắc trang trí đình làng [16, tr. 151]; Chạm lọng
(chạm lộng, chạm thủng) chỉ những bức chạm (phần nhiều bằng gỗ, ngà sừng)
mà các hình tƣợng nghệ thuật đƣợc thể hiện vẫn nằm trên mặt phẳng nhƣng
liên kết với nhau qua sự tiếp dính của các thành phần, còn mặt nền đƣợc đục
thủng để hằn rõ đƣờng viền của các hình tƣợng, đồng thời làm cho bức chạm
thông thoáng, nhẹ nhõm ()… Chạm lọng đƣợc thể hiện nhiều trên các bức chạm
ở cánh cửa, đƣờng diềm trang trí trên các đồ gỗ (…), đặc biệt áp dụng để đục các
cửa võng ở phía trên bàn thờ gian giữa (…) [29, tr. 506].
Chạm nổi: Một hình thức nghệ thuật mà hình tƣợng đƣợc diễn tả trên mặt
phẳng bằng độ đục chạm (trên gỗ, sừng, ngà, đá, kim loại…) nông sâu khác nhau.
Tùy theo độ cao thấp của hình khối so với mặt nền của bức chạm,
ngƣời ta chia ra ba loại: 1) Chạm nổi thấp: các hình tƣợng đƣợc chạm với độ
nổi rất thấp, đủ để diễn tả độ tƣơng quan tƣơng đối giữa hình khối của đối
tƣợng miêu tả. Chạm nổi thấp thƣờng đƣợc thể hiện trên kim loại (đồng,
vàng, bạc…) hoặc thể hiện hoa văn trên mặt phẳng bức chạm để làm nền cho
các hình tƣợng khác (nhƣ nền mây hoa trong các bức chạm đá thời Lý; nền
vân gấm, nền triện trên bức hoành phi, câu đối cổ). 2) Chạm nổi vừa: các hình
tƣợng đƣợc diễn tả có độ nổi cao hơn các loại chạm nổi thấp. Nhƣng những
độ cao nhất của các hình tƣợng vẫn nằm trên một mặt phẳng tƣơng đối (nhƣ
những bức chạm đá ở dọc theo hành lang và cầu đá chùa Bút Tháp - Bắc
Ninh). 3) Chạm nổi cao: các hình tƣợng đƣợc chạm với độ nổi cao dƣờng nhƣ
chúng đƣợc đắp lên mặt phẳng nền. Chạm nổi cao tạo nên độ tƣơng phản
mạnh giữa khối nổi thu ánh sáng và những hốc tối sâu do bị thiếu ánh sáng để
diễn tả những đề tài gây ấn tƣợng thẩm mĩ mạnh mẽ do hình khối của hình
tƣợng gần với hiện thực hơn... [29, tr. 506].
Nhƣ vậy, từ các thuật ngữ, khái niệm về những kỹ thuật chạm khắc và
qua thực tế, có thể thấy đƣợc chạm khắc, trang trí đình là một yêu cầu cần
61
thiết để tránh đi những nét thô cứng của cấu kiện, đồng thời, cũng nhằm phản
ánh những khát/ƣớc vọng của con ngƣời trong nhiều mối quan hệ mang tính
tâm linh và xã hội trong dòng chảy của lịch sử dân tộc. Trải qua nhiều thế kỷ,
dƣới thời Lý, thời Trần và thời Lê sơ, chúng ta chỉ còn tìm đƣợc rất ít đồ
chạm trên chất liệu gỗ, lác đác nhƣ ở các ván lá gió thuộc di tích Cồn Chè
(Nam Định), chùa Thái Lạc (Hƣng Yên), chùa Bối Khê (Hà Tây cũ). Cả ba
địa điểm này đều có niên đại thời Trần, còn đồ gỗ nói chung của thời Lý và
thời Lê sơ hiện nay chƣa tìm đƣợc. Nhìn chung, trên cả đồ gỗ và đồ đá của ba
thời kỳ này mới chỉ gặp ở các phù điêu liên quan đến kiến trúc, với sản phẩm
của kỹ thuật chạm nổi và phần nào chạm chìm. Vào những thời từ thế kỷ XIV
trở về sau đã tìm đƣợc nhiều hình chạm khắc trên, trang trí các ngôi tháp, lăng
mộ bằng đá. Thực ra nghệ thuật tạo hình ở nƣớc ta, về cơ bản đƣợc nuôi
dƣỡng chủ yếu bởi kinh tế tập thể, rất hiếm có những nhà hảo tâm giàu có và
trí tuệ biết nuôi dƣỡng những trang khách trong nhà mình (hầu nhƣ không có
qúy tộc cha truyền con nối, dạng ngƣời nhƣ mạnh thƣờng quân). Vì thế không
có nhân tố hiểu biết, biết chơi để hỗ trợ tích cực và đứng đằng sau nghệ sĩ,
khiến nghệ sĩ mà thực chất là những nghệ nhân xƣa, không có đủ tâm lực để
sáng tạo ra những sản phẩm mang giá trị điển hình hết sức tỉ mỉ, tinh tế, vi
diệu nhƣ của Trung Hoa. Ngƣời nghệ nhân Việt thƣờng không mấy khi đƣợc
ghi tên vào sản phẩm của mình. Họ không đủ thời gian để tạo nên những tác
phẩm cực kỳ điêu luyện, dù cho nghệ thuật tạo hình Việt trên kiến trúc phần
nhiều có giá trị biểu tƣợng và là sản phẩm chung của cả cộng đồng, cá tính
của nghệ nhân thƣờng chỉ đƣợc ẩn vào các giá trị kỹ thuật, mỹ thuật chứ
không phải nằm trong sự sáng tạo nghệ thuật riêng biệt. Tình hình nhƣ nêu
trên cho thấy trên đồ đá chỉ là sự nối tiếp kỹ thuật chạm khắc của thời gian
trƣớc, còn trên đồ gỗ để đục chạm hơn, nhất là ở đình làng, đã cho phép phát
triển kỹ thuật chạm khắc từ nổi, chìm sang kết hợp với bong kênh, thậm chí
62
cả chạm lộng.
3.2. Nghệ thuật điêu khắc, trang trí đình Tình Quang
Với khí hậu của vùng nhiệt đới gió mùa có nhiều thuận lợi nhƣng cũng
đặt ra cho chúng ta nhiều thử thách. Sự khắc nghiệt của khí hậu cùng với hoàn
cảnh xã hội đã tác động rất lớn tới nghệ thuật tạo hình trên kiến trúc của
ngƣời Việt. Ban đầu là sự thay đổi của các triều đại phong kiến, kèm theo đó
là chiến tranh liên miên đã hủy hoại nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật quý
giá, đi cùng với đó là nhiều mảng điêu khắc, trang trí bị tàn phai, hƣ hỏng dần
hoặc bị quân xâm lƣợc lấy đi sau đó. Cho tới nay, đã không còn một công
trình nào bảo tồn nguyên vẹn những tác phẩm điêu khắc, trang trí từ ngày
khởi dựng và đình Tình Quang cũng nằm chung trong bối cảnh đó.
Có thể nói, giá trị nổi bật nhất của di tích đình Tình Quang là phần
nghệ thuật điêu khắc, trang trí trên kiến trúc. Ít có ngôi đình nào trong nội
thành Hà Nội tồn tại đến nay còn giữ đƣợc nhiều mảng điêu khắc với những
đề tài phong phú, mang tính nghệ thuật và ý nghĩa sâu sắc nhƣ đình Tình
Quang. Các mảng điêu khắc tập trung nhiều nhất ở tòa Đại đình, trên những
bức cốn, nghé, đầu dƣ và bẩy hiên. Những đề tài trang trí quen thuộc nhƣ
rồng, lân, phƣợng, vân xoắn, cụm mây,… không chỉ chuyển tải những mong
muốn ƣớc vọng của ngƣời dân mà còn góp phần làm cho kiến trúc ngôi đình
thêm mềm mại và sống động.
3.2.1. Nghệ thuật trang trí trên đất nung, vôi vữa
Tòa Đại đình to rộng, xòe ra trùm lên kết cấu khung gỗ, cùng với
những trang trí linh vật trên mái đã tạo nên một dáng vẻ hết sức hoành tráng
và cổ kính. Trên bờ nóc tòa Đại đình, hai đầu kìm của bờ nóc là hai con kìm
cuốn thủy dạng lân.
Chính giữa bờ nóc đắp hình tƣợng “lưỡng long chầu nhật” (đôi rồng
chầu mặt trời). Tiếp sau rồng là đôi phƣợng trong tƣ thế cánh dang rộng bồng
63
bềnh trên nền của bầu trời.
Bờ dải đƣợc trang trí dải hoa lá chanh chạy từ đuôi của đầu kìm đến
tiếp nối phần đầu guột. Phần giữa mà chính là phần cuối bờ chảy đƣợc tạo đắp
hình tƣợng dạng con Nghê. Phần đầu guột, tạo bởi hình tƣợng lá cúc lật, có
một phần nhánh lá vút ra. Đứng trên đó là hình tƣợng con Lân đang ngậm
cụm mậy.
Tất cả bờ nóc, bờ dải, bờ guột đều đƣợc đắp bằng vôi vữa và gạch hoa
chanh bằng đất nung. Đây là những sản phẩm có niên đại rất muộn và đƣợc
đắp giả cổ nên giá trị nghệ thuật không cao.
3.2.2. Nghệ thuật điêu khắc, trang trí trên gỗ
Điêu khắc ở đình làng bao gồm toàn bộ các phần trang trí, đục chạm
vào gỗ, tạo hình tƣợng hấp dẫn, ƣa nhìn cho các cấu kiện gỗ chịu lực vốn khô
cứng… Tại đình Tình Quang, các đề tài đƣợc thể hiện phong phú, đa dạng,
nhƣ: rồng, phƣợng, chim thú, tiên cƣỡi rồng… với những thủ pháp chạm nổi,
chạm lộng, chạm thủng, chạm kênh bong... tất cả hòa quyện, đan cài vào
nhau, tạo thành một tổ hợp sống động… thể hiện sự tài hoa, khéo léo của
ngƣời thợ thủ công và mang đặc trƣng dấu ấn đƣơng thời.
Với sự hiểu biết của mình, cùng với tài liệu thu thập đƣợc và nhất là
qua khảo sát thực tế tại đình Tình Quang, trƣớc tiên tôi đi vào trình bày từng
loại hình đề tài cụ thể rồi tiếp đến là khảo tả điêu khắc, trang trí trên một số bộ
phận kiến trúc nhƣ: Đầu dƣ, bức cốn, bẩy hiên...
Đề tài tiên cƣỡi rồng: Tại ván gió gian giữa tòa Đại đình còn có chạm
khắc hình tƣợng cảnh tiên cƣỡi rồng. Nữ cƣỡi trên lƣng rồng, với những hình
ảnh đó, con rồng đã mất đi dáng vẻ dữ tợn, oai nghiêm, mà chúng nhƣ những
con vật rất đỗi thân thuộc trong đời sống thƣờng nhật. Thông qua thể hiện đề
tài, ngƣời dân muốn gửi gắm vào đó những ƣớc vọng của mình. Ƣớc vọng về
một cuộc sống hòa bình, không có chiến tranh; khao khát vùng lên mong
64
thoát khỏi sự đè nén áp bức của chế độ quân chủ trung ƣơng tập quyền.
Đề tài rồng: Cũng nhƣ rất nhiều công trình kiến trúc tôn giáo, tín
ngƣỡng của ngƣời Việt, rồng là đề tài chủ đạo, chiếm số lƣợng lớn trong các
bộ phận trang trí trên kiến trúc của đình Tình Quang.
Từ rất lâu, rồng đƣợc coi là con vật thiêng và xuất hiện nhiều nhất
trong trang trí mỹ thuật và là hình tƣợng phổ biến trong nhiều nền nghệ thuật
của thế giới. Với hình dáng kỳ dị và huyền bí, cùng với nguồn gốc chƣa chân
xác và ẩn chứa nhiều ý nghĩa, nên rồng là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học trên thế giới và Việt Nam. Con rồng không có thật ở ngoài đời và
rồng 5 móng đƣợc xem là tƣợng trƣng cho nhà vua. Việc tạo kiểu dáng cho
rồng hoàn toàn là sự tƣởng tƣợng của ngƣời nghệ nhân xƣa và đƣợc thay đổi
theo từng thời điểm lịch sử.
Tại đình Tình Quang, đề tài rồng đƣợc thể hiện phong phú, nhƣng chủ
đạo là rồng mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII và rồng mang phong
cách nghệ thuật thời Nguyễn.
Rồng mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII: Cũng là đề tài rồng với
những đặc điểm chung: Mắt tròn lồi, mũi to nhƣ mũi sƣ tử, trán dô, miệng
rộng, sừng nhọn nhƣ sừng nai, tai thú, chân có bốn móng nhƣ móng chim
ƣng... nhƣng mỗi con lại có một vẻ riêng. Con thì cổ trơn, con thì có vẩy xếp
lớp; có con râu tết lại, bay ngƣợc về phía sau; có con râu uốn khúc thành
những ngọn lửa nhỏ, đều nhau; có con hai chân trƣớc vƣơn ra vuốt râu trông
rất ngộ nghĩnh; có con lại dùng hai chân sau tỳ vào cây cột lực lƣỡng nhƣ
muốn vƣơn mình thoát ra một cách dũng mãnh. Các con rồng đƣợc chạm với
thân mập, uốn khúc, miệng rộng, mắt tròn. Toàn bộ đao mắt, bờm rồng nhƣ
những đao mác cuồn cuộn bay ngƣợc ra phía sau. Khúc đuôi nhỏ dần, thuôn
đều. Lông đuôi xòe tròn nhƣ hình chiếc lá. Trong lòng mỗi giá chiêng tại vì
65
nóc đều đƣợc chạm nổi một con rồng lớn đang cuộn mình. Đầu rồng ở vị trí
trung tâm mảng chạm đang quay nhìn ra chính diện, râu, đao mắt bay đều ra
hai bên. Thân rồng cuộn khúc phía dƣới.
Tại đình đình Tình Quang còn giữ đƣợc một số đầu dƣ chắc khỏe, tại vị
trí gian giữa, gian bên, trƣớc Hậu cung chạm hình rồng phong cách nghệ thuật
nửa cuối thế kỷ XVII. Mỗi con lại có một vẻ riêng, con thì cổ trơn, con thì có
vẩy xếp lớp; có con râu tết lại, bay ngƣợc về phía sau; có con râu uốn khúc
thành những ngọn lửa nhỏ, đều nhau; có con hai chân trƣớc vƣơn ra nắm chặt
râu trông rất oai vệ; có con lại dùng hai chân sau tỳ vào cây cột lực lƣỡng nhƣ
muốn vƣơn mình thoát ra một cách dũng mãnh. Đuôi đầu dƣ ăn mộng qua
thân cột cái tạo thành rƣờng cánh tại vị trí xà nách.
Không chỉ có vậy, ở đình Tình Quang, còn nhiều mảng chạm rồng với
các lớp lá hoả, rồi dạng trúc hoá rồng... Hình tƣợng rồng với đao mác và mây
cuộn đã hợp thành một biểu tƣợng cầu mƣa của cƣ dân nông nghiệp.
Rồng mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn: Rồng mang phong
cách nghệ thuật Nguyễn có nhiều trên đồ thờ (nhang án, bát bửu, đồ tế khí…),
trên cấu kiện kiến trúc ở tòa Đại đình.
Rồng đƣợc chạm khắc với chiếc đầu khá lớn, nổi bật, trán dô, mắt lồi,
khuôn mặt dữ tợn. Bờm, tóc, đao mắt mềm mại, dạng nhƣ đuôi nheo, bay
ngƣợc ra đằng sau. Thân rồng uốn khúc, đuôi và các lông đuôi xoắn tít. Xung
quanh rồng là mây ám, rùa, phƣợng, hoa sen… Nét chạm, rối rắm, chúng có
nhiều nét tƣơng đồng với những mảng chạm ở các đình đƣơng thời.
Nói chung các mảng chạm rồng mang phong cách nghệ thuật Nguyễn ở
đình Tình Quang chủ yếu tập trung tại tòa Đại đình. Các con rồng thƣờng
không đứng độc lập mà đƣợc mô tả chung với các đề tài khác: phƣợng, rùa,
hoa sen, vân mây, lá lật… Một đặc điểm chung nữa là các con rồng mang
phong cách nghệ thuật thời này đều đƣợc tạo với chiếc đầu khá lớn so với
66
thân, mắt tròn lồi, sừng nhọn, miệng rộng, khuôn mặt dữ tợn…
Đề tài lân: Đây là con vật thiêng có nhiều tên gọi, có thể đƣợc gọi là Kỳ
lân. Do tạo hình có dáng lông thú, bờm dài nên có khi đƣợc gọi là con Sƣ tử
hay con nghê. Theo quan niệm của ngƣời xƣa, lân biểu thị cho sự thận trọng
và đức độ, nhiều khi là biểu tƣợng của sức mạnh tâm linh, trí tuệ và sự trong
sáng… Tại đình Tình Quang hiện còn có một vài bức chạm lân với hình dạng
khác nhau. Điểm xuyết trên thân, khuỷu là những vân xoắn, đao mác. Tất cả
tạo cho con lân một vẻ đẹp viên mãn, vừa sống động, vừa gần gũi.
Đề tài phƣợng: Còn gọi là phƣợng hoàng, vốn là một loài chim quý.
Theo quan niệm của dân gian, phƣợng đƣợc cho là biểu hiện của sự thái bình
khi nó xuất hiện. Phƣợng cũng là biểu hiện cho sự kết hợp giữa đàn ông và
đàn bà trong hôn nhận. Nếu long (rồng) tƣợng trƣng cho đàn ông thì phƣợng
biểu trƣngcho phụ nữ. Qua đó, cặp đôi con vật này thƣờng là biểu hiện cho sự
hòa hợp. Tại đình Tình Quang hiện còn có bức chạm phƣợng tại ván gió gian
giữa và bẩy hiên.
Điêu khắc, trang trí trên đầu dƣ: Đầu dƣ kiến trúc chạm dạng đầu rồng
với các họa tiết đao chạm lộng, chạm thủng và kênh bong. Đầu rồng có những
chi tiết: mũi nổi khối, mắt quỷ, miệng lang, sừng nai, tai thú, trán lạc đà, chân
chim ƣng, vẩy cá chép, móng chim ƣng. Đây là hình tƣợng rồng đã chịu ảnh
hƣởng của rồng Trung Hoa. Miệng ngậm minh châu, 2 nanh rồng đƣợc biến
thể dạng lá thiêng. Chân khuỳnh ra ốp vào phần dƣới cổ, chân trong tƣ thế
nắm chặt lấy 2 đao cổ phía dƣới. Có con với đôi chân trƣớc đƣợc đƣa ra xa
một chút, đuôi rồng mập dạng đuôi cá.
Đặc biệt, tại 2 đầu dƣ phía trƣớc gian giữa với 2 mặt ốp trung tâm, một
đuôi đƣợc biến thể thành hình tƣợng con Lân đang chầu qùy ra phía trƣớc sân
với tƣ thế khỏe mạnh đang vờn đùa vũ trụ. Một bên thì phần đuôi lại biến thể
thành hình tƣợng hai Võ sĩ vũ trụ đang cƣỡi trên đầu hai con Sƣ tử. Võ sĩ
67
đƣợc thể hiện hình tƣợng chú bé: một chú đội mũ tròn, một chú đội mũ tam
giác (mũ bì biện), mặt tròn vui tƣơi với dáng vẻ khỏe khoắn hồn nhiên. Đây là
một hình ảnh sinh hoạt đầy chất nghệ thuật dân dã. Cái khỏe của sự hồn
nhiên, cái khỏe của vũ trụ.
Về cơ bản đầu dƣ đƣợc chạm mập với những đao có độ gấp một phần
phía đầu rồi bay thẳng ra phía sau. Những họa tiết khác nhƣ cổ lƣợn dạng cổ
rắn với những đƣờng khắc tạo độ cong, kết hợp với những đƣờng diềm mềm
mại làm giảm đi sự thô kệch của phần kiến trúc.
Điêu khắc, trang trí trên các bức cốn: Tại 4 vì trƣớc sau của gian giữa
dày đặc những đề tài điêu khắc. Ở đây, chủ yếu là đề tài tiên cƣỡi rồng, rồng
ổ, lân, tiên múa…
Rồng ổ là một hệ thống gồm một con rồng lớn, đi kèm là 2 đến 3 rồng
con, đây là hình tƣợng phụ tử, cầu cho con đàn cháu đống. Những con rồng
lớn trong hệ thống rồng ổ đƣợc tạo toàn mặt, rồi những rồng con chủ yếu
đƣợc thể hiện phần đầu rồng với những đao bay hết thân. Hình tƣợng lân cũng
với đƣờng nét mềm, mập trong tƣ thế vờn đùa vũ trụ.
Một điều đáng chú ý ở đây là những hình tƣợng những cô tiên với
những cánh tay dang rộng nâng dải khăn mềm cũng đƣợc thể hiện rõ nét phần
đầu với bộ mặt tròn trĩnh, tai đeo hoa chảy dài xuống dƣới cổ kiêu ba ngấn,
với điệu múa vũ trụ cƣỡi trên đầu rồng. Hình tƣợng tiên cƣỡi rồng cũng
thƣờng gặp trên những công trình kiến trúc cổ truyền có niên đại thế kỷ XVII.
Nhiều nhà nghiên cứu đã đặt ra câu hỏi: Tại sao chỉ có giai đoạn này mới thấy
xuất hiện hình tƣợng tiên cƣỡi rồng trên trang trí kiến trúc? Để trả lời cho câu
hỏi này, cần nhìn nhận lại bối cảnh lịch sử đƣơng thời.
Thế kỷ XVII, nội chiến diễn ra liên miên, đời sống nhân dân khổ cực,
lòng ngƣời tan tác, tƣ tƣởng Nho giáo đi vào khủng hoảng. Trong giai đoạn
này nghệ thuật dân gian bắt đầu có những bƣớc phục hồi. Thông qua thể hiện
68
đề tài, ngƣời dân muốn gửi gắm vào đó những ƣớc vọng của mình. Đầu tiên
phải kể đến là ƣớc vọng về một cuộc sống hòa bình, không có chiến tranh.
Bên cạnh đó còn là khao khát vùng lên mong thoát khỏi sự đè nén áp bức của
chế độ quân chủ trung ƣơng tập quyền. Thông thƣờng, hình tƣợng rồng là linh
vật của tầng trên gắn liền với quyền lực của triều đình, cũng đồng nghĩa gắn
với vƣơng quyền. Hình tƣợng tiên cƣỡi rồng là một biểu tƣợng vƣợt lên trên
hết, là sự phản kháng đấu tranh của nhân dân với chính quyền phong kiến
mục ruỗng, thối nát.
Trên hai cốn nách gian giữa nối tòa Đại đình với Hậu cung trang trí
hình ảnh dân dã nhƣ dơi và chuột đang rƣợt đuổi nhau ẩn trong đám mây,
xung quanh điểm kín những đao mác, vân xoắn trông thật sinh động. Các hình
tƣợng này cũng thể hiện ƣớc vọng của cƣ dân nông nghiệp lúa nƣớc trong
việc cầu mong sự no đủ, mƣa thuận gió hoà, vạn vật sinh sôi phát triển.
Các hệ thống cốn khác, chủ yếu một phần đƣợc chạm bong kênh với sự
nổi khối bằng biểu tƣợng mây. Phần thân còn lại đƣợc bào soi vỏ măng. Các
xà đùi cũng đƣợc tạo tác tƣơng tự nhƣ vậy, duy chỉ có xà nách đƣợc chạm nổi
hình tƣợng rồng lá ở phần tiếp giáp với cột quân.
Điêu khắc, trang trí trên bẩy hiên: Bẩy hiên với phần đuôi mà thực chất
là phần nghé đƣợc tạo dạng đầu rồng với những đƣờng nét chạm khắc tƣơng
đồng nghệ thuật với đầu dƣ.
Thân bẩy cũng đƣợc chạm nổi với những biểu tƣợng một phần thân
dạng thân rồng. Đi kèm với nó là lá lật, cụm mây. Đầu của bẩy hiên đƣợc
chạm nổi với những đề tài khác nhau. Có đầu bẩy chạm hệ thống đao lƣợn,
mập, đi kèm với nó là mầm trúc với dạng lá thiêng. Từ ngọn trúc bay ra các lá
dạng đao. Có bẩy lại trang trí dạng rồng nửa thân với đuôi mập dạng đuôi cá,
đi kèm là dạng hoa thiêng với những lá thiêng ốp phía ngoài. Có những bẩy
trang trí dạng trúc hóa rồng với thân rồng dạng đốt trúc sù sì. Lại có bẩy chạm
69
nổi hình tƣợng phƣợng đang trong tƣ thế bay, với đôi cánh dang rộng.
Phƣợng ở đây có thể hiểu là linh vật của vũ trụ với chân là đất, cánh là gió,
lông là cỏ cây, lƣng là bầu trời, mắt là mặt trời và mặt trăng. Rồi có đầu bẩy
chạm nổi hình con lân đang bƣơn chải trong nền vũ trụ. Đây là những hình
tƣợng biểu trƣng cho sự trong sáng và trí tuệ của tầng trên.
Phần bẩy của góc thể hiện hình tƣợng ly. Những bẩy còn lại thì đƣợc
chạm cơ bản là những đám mây, rồi lá lật, lá thiêng, hay những dạng rồng lá
cách điệu.
Cùng với những đề tài về con ngƣời, rồng, lân, đao mác... Những đề tài
về các con vật quen thuộc cũng đƣợc chú ý mô tả tạo nên giá trị biểu đạt riêng
cho di tích.
3.2.3. Một số hiện vật của đình Tình Quang
Hiện vật là thành phần không thể thiếu trong mỗi di tích. Hiện nay đình
Tình Quang đang lƣu giữ một số di vật có giá trị tiêu biểu về niên đại và nghệ
thuật nhƣ sau:
Hiện vật bằng giấy: Hiện nay tại đình chỉ còn lƣu giữ đƣợc một sắc
phong Bảo Đại thứ 9 (1934). Đây là sắc phong của triều đình nhà Nguyễn ban
tặng cho Vua Lý Nam Đế - một trong ba vị Thành hoàng của làng.
Hiện vật bằng gỗ:
Y môn: Sơn son thếp vàng, treo ở hai cột cái phía sau của tòa Đại đình,
chủ yếu trang trí ở phần tiền diện với cánh tạo dạng cửa khám. Phần bo viền
dạng cách phƣớn với đôi rồng trƣờn thẳng xuống dƣới trên nền tảng những
vân mây, đầu rồng ngóc lên trên, toả sang cạnh tạo phần ốp bó liền với thân
cột. Diềm phía trên trang trí đề tài “lưỡng long chầu nhật”. Hình tƣợng rồng ở
đây cũng đƣợc thể hiện thông qua phần chạm nổi phía thân. Riêng phần đầu
rồng đƣợc gắn bởi mảng ghép khác tạo thành một thể thống nhất. Diềm đáy
tạo thành hai băng chữ nhật nằm. Dải băng trên chạm nổi đề tài rồng, lân với
70
từng đôi đang chầu vần vũ. Dải băng dƣới chạm nổi, bong kênh đề tài “lưỡng
long chầu nhật”, có phong cách tạo tác tƣơng tự phần riềm trên. Duy chỉ khác
ở đây có thêm đôi phƣợng đang dang cánh rộng để tạo thành đề tài rồng -
phƣợng trong tƣ cách cặp phạm trù Âm Dƣơng.
Phần lòng thân Y môn chia hai tầng cơ bản. Tầng trên tạo dạng hộp
đƣợc bổ thành các ô chữ nhật đứng. Các lòng ô chữ nhật hai bên tạo đối xứng,
bên trong trang trí rồng - phƣợng và đề tài ngũ quả. Diềm cạnh của các ô chữ
nhật này chạm nổi, với mỗi cọc khung là hình tƣợng một con rồng. Bốn ô chữ
nhật ở giữa chạm nổi bốn chữ: Thánh cung vạn tuế.
Phần thân dƣới của lòng Y môn lại tạo năm ô chữ nhật đứng. Hai ô
cạnh tạo hai mảng đề tài riêng: phần trên là đề tài tùng - trúc biểu tƣợng cho
sức mạnh của ngƣời quân tử; phía dƣới là hình tƣợng ly và phƣợng trên nền
sóng nƣớc. Ba ô chữ nhật bên trong tạo dạng cửa khám giật cấp, cũng với
những đề tài rồng chầu mặt trời và những cụm mây. Các nền giật lòng cửa
khám tạo dạng các dải hình lá. Đây là một trong những mảng trang trí quan
trọng thể hiện sự đề cao, tôn trọng Thành hoàng làng.
Nhang án: Đặt ở gian giữa tòa Đại đình, ngay dƣới Y môn. Nhang án,
hay còn gọi là khám thờ, hình hộp chữ nhật với hệ thống chân đứng thẳng hơi
chếch, tạo dáng thƣợng thu hạ thách. Nhang án đƣợc sơn son thếp vàng, cao
1,4m, dài 2m, rộng 90cm. Trang trí chủ yếu tập trung ở phần mặt trƣớc và
phần còn lại của hai mặt cạnh. Bốn góc nhang án tạo ốp vuông bó góc là hình
tƣợng rồng chạm thủng. Rồng cũng đƣợc đặc tả toàn thân, có phần gai góc do
hệ thống những đao tóc, đao vây đƣợc tỉa sắc nét.
Phần mặt trƣớc nhang án tạo các ô chữ nhật đứng, nằm khác nhau. Bên
trong chạm nổi trúc - mai, tùng - mai, lân - phƣợng. Riêng ô vuông chính giữa
là đề tài tứ linh. Đây là biểu tƣợng của các cặp phạm trù âm dƣơng mà trung
tâm là hình tƣợng mặt trời. Diềm bụng của nhang án tạo dạng diềm bụng cá,
71
chạm thủng đề tài hồ lô, cá chép hoá rồng trong tƣ thế đặc tả. Hai cạnh dƣới
diềm có những dải kim tòng gắn với hồ lô tạo nên sự mềm mại trong trang trí
của khuôn phạm chữ nhật. Đỉnh chóp của phần diềm bụng là hình tƣợng hổ
phù ngậm chữ Thọ. Đây là đề tài gắn liền với sự cầu mong no đủ. Hai mặt
cạnh của nhang án cũng đƣợc tạo ô. Phần giữa trang trí đề tài Rùa cõng hàm
thƣ, phía dƣới hàm bụng là hình tƣợng hổ phù. Các ô cạnh trang trí đào, lựu,
biểu trƣng cho sự mong muốn trƣờng tồn, sinh sôi con đàn cháu đống
Kiệu bát cống: Thƣờng đƣợc sử dụng để rƣớc trong dịp lễ hội. Kiệu
làm bằng gỗ, sơn son thếp vàng, tạo bởi hai phần chính là kiệu và đòn.
Phần thân: Bốn mặt bên thân kiệu tạo hai phần trang trí. Phần phía
ngoài chạm bong kênh, đề tài “lưỡng long chầu nhật”, hai bên trang trí vân
mây và dải kim tòng. Bốn góc dƣới tạo gờ bo hình hoa lá vân móc. Phần
trong thân kiệu cũng tạo hình trên cả bốn mặt: Mặt trƣớc bổ ô, chạm lộng.
Bốn góc tạo hình vuông, trang trí hoa mai bốn cánh. Hai diềm phía dƣới chạm
lộng hoa lá cúc dây. Trên cùng tạo hình chim phƣợng ngậm cuốn thƣ, hai bên
buông xuống hai dải kim tòng mềm mại. Hai mặt bên trang trí đề tài tứ quý,
gồm: tùng, trúc, cúc, mai. Mặt sau chạm lộng, bổ ô, bốn góc tạo hình vuông,
trang trí hoa mai bốn cánh, hai diềm trên và dƣới chạm hoa lá cúc dây. Bên
trong lặp lại đề tài trang trí chim phƣợng ngậm cuốn thƣ.
Chân kiệu: Hình đấu, giật cấp. Hai mặt trƣớc và sau tạo phù điêu hổ
phù vờn mây. Hai mặt bên chạm hổ phù ngậm chữ thọ, hai bên có hai con
rồng chầu vào. Bốn chân tạo giả kiểu chân quỳ, trang trí hình lá cúc lật.
Phần đòn: Gồm 2 đòn dọc, 2 đòn ngang và 4 đòn tay.
Hai đòn dọc giống hệt nhau, mỗi đòn tạo tác thành hình một con rồng,
đầu hƣớng về phía trƣớc, lƣng đỡ lấy kiệu. Miệng rồng ngậm ngọc, mũi hếch,
mắt mở tròn, bờm và râu bay ngƣợc ra phía sau tạo thành các đao lửa uốn
lƣợn. Phần cổ rồng tạo hình rồng nhỏ và cá chép theo đề tài: Cá chép vƣợt vũ
72
môn. Đuôi rồng kiểu đuôi cá chép, có vân mây, vân xoắn xung quanh. Lƣng
rồng đỡ lấy kiệu, bụng đòn (hay còn gọi là dạ cá) trang trí song phƣợng và
lƣỡng long chầu mặt hổ phù.
Hai đòn ngang cũng tạo hình rồng. Hai đầu hƣớng sang hai bên, đao
lửa toả ra phía sau. Lƣng đòn để trơn, bụng đòn chạm hình tƣợng song
phƣợng chầu hổ phù.
Bốn đòn tay tạo tác tƣơng tự nhƣ 2 đòn ngang nhƣng riêng bụng đòn lại
chạm hình lá cúc lật. Các bộ phận của kiệu liên kết, lắp ghép với nhau bởi các
mộng và chốt.
Ngoài những di vật kể trên, đình còn có nhiều đồ thờ cũng làm bằng
chất liệu gỗ nhƣ: ngai thờ, bàn thờ, kiệu xe, và những hoành phi, câu đối sơn
son thếp vàng với nội dung chủ yếu là ca ngợi công đức các vị Thành hoàng
làng. Hầu hết đều là hiện vật mới do nhân dân cung tiến cho đình.
3.3. Niên đại đình Tình Quang
3.3.1. Niên đại kiến trúc tòa Đại đình
Đối với mặt bằng kiến trúc, có thể nhận định, hƣớng của đình Tình
Quang quay về hƣớng Đông - Bắc. Đó là đặc điểm khác biệt đối với những
công trình kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng có niên đại trƣớc thế kỷ XVIII. Mặc
dù còn nhiều cách lý giải khác nhau về hƣớng của đình, nhƣng qua một số lần
tu bổ, mặt bằng của đình vẫn giữ nguyên theo hƣớng nhƣ lúc khởi dựng.
Đối với điêu khắc, trang trí, dựa vào phong cách nghệ thuật của các tác
phẩm điêu khắc, trang trí hiện còn tại tòa Đại đình, bƣớc đầu có thể đƣa ra
nhận định, công trình này đƣợc khởi dựng vào nửa đầu thế kỷ XVII, tu bổ lớn
vào nửa cuối thế kỷ XVII và tiếp tục đƣợc tu bổ một số lần sau này vào thời
Nguyễn. Đến năm 1971 đình tiếp tục đƣợc tu bổ, năm 2002 tu bổ lại mái tòa
Đại đình. Năm 2008 - 2009, đình đƣợc nhà nƣớc cùng nhân dân đóng góp
kinh phí và công sức tu bổ tổng thể các hạng công trình để có diện mạo ngôi
73
đình to đẹp nhƣ ngày nay.
2.3.2. Niên đại các công trình khác
Hồ bán nguyệt (Ao đình), trải qua thời gian, đến năm 2008 - 2009, sau
khi tu bổ đã thu hẹp lại thành Hồ bán nguyệt.
Bình phong, căn cứ vào các tài liệu, trƣớc đây không có Bình phong mà
mới đƣợc đƣa vào đợt tu bổ năm 2008 - 2009.
Nghi môn, hiện nay, đình Tình Quang có 2 Nghi môn. Nghi môn thứ
nhất, nằm phía trƣớc tòa Đại đình, trên trục thần đạo là một kiến trúc đƣợc
xây dựng lại vào khoảng cuối những 20 của thế kỷ XX; Nghi môn thứ hai,
ngang tòa Đại đình, bên trái để bắt đầu đi vào không gian của đình. Nghi môn
này đƣợc xây dựng vào năm 2010.
Nhà Tả vu, Hữu vu, trong lý lịch di tích đình Tình Quang, không nghi
năm xây dựng nhà Tả vu, Hữu vu mà chỉ nhắc đến chi tiết, năm 1935 sửa
chữa 2 bên nhà giải vũ. Nhà Tả vu, Hữu vu không có thấy nghi niên đại xây
dựng, nhƣng căn cứ vào nghệ thuật trang trí điêu khắc có thể đoán định, nhà
Tả vu, Hữu vu đƣợc xây dựng vào cuối những 20 của thế kỷ XX, đến năm
2008 - 2009 đƣợc tu bổ lại nhƣ ngày nay.
3.4. Định hướng bảo tồn, phát huy giá trị đình Tình Quang
3.4.1. Những quy định về bảo tồn, phát huy giá trị di tích
Nhận thức đƣợc một cách sâu sắc và toàn diện tầm quan trọng của sự
nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc nên ngay sau khi
mới giành đƣợc độc lập, trong lúc đất nƣớc đang gặp vô vàn khó khăn, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ra Sắc lệnh số 65 ngày 23 tháng 11 năm 1945 về việc
bảo tồn cổ tích trên toàn quốc, tại Điều 4 quy định:
“Cấm phá huỷ đình chùa, đền miếu, hoặc những nơi thờ tự khác như
cung điện, thành quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn.
- Cấm phá huỷ những bia ký, đồ vật, chiếu sắc, văn bằng, giấy má,
74
sách vở có tính cách tôn giáo nhưng có ích cho lịch sử mà được bảo tồn”.
Từ cơ sở ban đầu đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa đƣợc ban hành, nhƣ: Luật, Nghị định,
Thông tƣ, Chỉ thị đã tạo hành lang pháp lý cho việc bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa.
Trong thời kỳ đất nƣớc đang trên đƣờng tới công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế toàn diện, việc phát huy bản sắc văn hoá dân tộc bên
cạnh việc tiếp thu những tinh hoa văn hoá thế giới là cần thiết, để con ngƣời
vững vàng hơn trong cuộc sống hiện đại. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm,
Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc chỉ rõ: Hết sức coi trọng bảo
tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống (bác học và dân
gian), văn hoá cách mạng, bao gồm cả văn hoá vật thể và phi vật thể. Tiếp
đến, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Ban Chấp hành
Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hội nghị Trung ƣơng lần thứ chín,
khóa XI đã đề ra 06 nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con ngƣời Việt
Nam trong thời gian tới, trong đó có nhiệm vụ nâng cao chất lƣợng, hiệu quả
hoạt động văn hóa, nhiệm vụ này chỉ rõ: Huy động sức mạnh của toàn xã hội
nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các giá
trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc;
Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản
văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử -
văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết
quả bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Phục hồi và bảo
tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Phát huy
các di sản đƣợc UNESCO công nhận, góp phần quản bá hình ảnh đất nƣớc và
75
con ngƣời Việt Nam.
Xuất phát từ thực tiễn bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, để công việc
này đi vào nề nếp, trong những năm vừa qua đã có rất nhiều quy định của Nhà
nƣớc, Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch liên quan đến vấn đề này
đƣợc ban hành. Riêng trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị di tích nói
chung, đình làng Việt nói riêng, chúng ta có thể tham khảo, áp dụng những quy
định nhƣ sau:
Luật di sản văn hoá đƣợc Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 6 năm
2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa đƣợc Quốc
hội thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2009.
Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa.
Nghị định số 70/2012/NĐ-CP ngày 18 tháng 9 năm 2012 của Chính
phủ quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án
bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.
Thông tƣ số 18/2012/TT-BVHTTDL ngày 30 tháng 12 năm 2012 của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định chi tiết một số quy định về bảo
quản, tu bổ, phục hồi di tích.
Thông tƣ số 17/2013/TT-BVHTTDL ngày 30 tháng 12 năm 2013 của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hƣớng dẫn xác định chi phí lập quy hoạch,
dự án, báo cáo kinh tế - kỹ thuật bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích.
Quyết định số 1076/QĐ-BVHTT ngày 24 tháng 7 năm 2001 của Bộ
trƣởng Bộ Văn hóa - Thông tin phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát
huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh đến năm 2020.
Chỉ thị số 73/CT-BVHTTDL ngày 19 tháng 5 năm 2009 của Bộ trƣởng
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc tăng cƣờng các biện pháp quản lý di
76
tích và các hoạt động bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích.
Hệ thống văn bản quy phạp pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt
động bảo quản, tu bổ di tích. Đồng thời, đã đề ra những nguyên tắc, có thể coi
nhƣ những định hƣớng cơ bản cho hoạt động bảo quản, tu bổ di tích nói
chung, trong đó có di tích đình làng Việt.
3.4.2. Những nguyên tắc cơ bản để bảo quản, tu bổ và phát huy giá
trị đình Tình Quang
Nguyên tắc cơ bản là bảo tồn các yếu tố gốc cấu thành di tích, bảo vệ
cấu kiện trong suốt quá trình thi công tu bổ di tích, chỉ thay thế khi thật cần
thiết, vật liệu thay thế phải phù hợp. Vật hiệu mới có thể đƣợc sử dụng nhƣng
ở mức hạn chế và đã đƣợc thử nghiệm. Thành phần, công trình nào không có
cơ sở khoa học để phục dựng phải đƣợc giữ nguyên hoặc phỏng dựng ra một
vị trí mới.
Khi đƣa ra giải pháp khoa học cho việc bảo quản, tu bổ phải tính tới
việc phát huy các giá trị của di tích, để di tích trở thành một trung tâm văn
hoá, một điểm đến du lịch của địa phƣơng, trƣớc mắt, tôi xin nêu một vài đề
xuất sau đây:
- Lập dự án bảo quản, tu bổ: Trƣớc hết cần phải đầu tƣ nghiên cứu giải
mã những giá trị ẩn chứa trong di tích, để việc bảo tồn và phát huy giá trị
đƣợc tốt hơn. Dự án bảo quản, tu bổ di tích phải đƣợc lập theo đúng quy định
của pháp luật hiện hành về di sản văn hóa. Nội dung của dự án bảo quản, tu
bổ di tích phải đề xuất đƣợc biện pháp bảo quản, tu bổ, phục hồi yếu tố gốc
của di tích, cảnh quan thiên nhiên, môi trƣờng sinh thái và các yếu tố khác có
liên quan nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di tích.
- Cần chú ý bảo quản hơn tu sửa: Việc bảo quản phải đƣợc quan tâm
thƣờng xuyên, phòng ngừa và hạn chế những nguy cơ làm hƣ hỏng mà không
77
làm thay đổi những yếu tố nguyên gốc vốn có của di tích. Để tránh tình trạng
di tích xuống cấp rồi mới tiến hành các biện pháp tu bổ, việc làm đó sẽ ảnh
hƣởng tới tính nguyên gốc của di tích.
- Mọi công việc bảo quản, tu bổ phải đƣợc thực hiện trên cơ sở khảo
sát, nghiên cứu kỹ lƣỡng theo quy định và không áp dụng các quy định nhƣ
trong xây dựng công trình mới. Việc bảo quản, tu bổ phải đảm bảo nguyên tắc
duy trì bố cục mặt bằng, sự sắp đặt, mối liên hệ giữa các hạng mục công trình
tiêu biểu của di tích với nhau và giữa các hạng mục công trình đó với cảnh
quan xung quanh đã đƣợc định hình qua thời gian.
Tuy nhiên, đối với các di tích kiến trúc gỗ ở Việt Nam, tu bổ là giải
pháp phù hợp nhất, nhƣng cần lƣu ý:
- Hạn chế tối đa mọi sự thay thế, chỉ thay thế khi không còn khả năng
cứu vãn, thay thế bằng vật liệu tƣơng tự vật liệu gốc;
- Giữ lại và tận dụng tối đa các thành phần của cấu trúc bị hƣ hại từng
phần, bằng phƣơng pháp nhồi bít các khoảng trống trong thân gỗ, nối, vá, gắn,
chắp các cấu kiện bị hƣ hỏng từng phần;
- Phải lắp dựng lại hoàn toàn chính xác các đặc điểm cấu tạo và liên kết
vốn có;
- Mọi sự thay thế hoặc bổ sung cần phải có trong hồ sơ lƣu trữ.
Trên thực tế quá trình tu bổ thƣờng chuyển sang nội dung công việc
mang tính chất khôi phục từng phần, nhƣ việc khôi phục những thành phần đã
mất hoặc việc loại bỏ những thành phần muộn và xa lạ với di tích. Những
việc này chỉ đƣợc làm hết sức thận trọng, trên cơ sở khoa học khách quan.
Cần đề cao phƣơng châm cứu chữa và duy trì lâu dài di tích là chính
yếu, tránh việc chạy theo bằng mọi giá sự hoàn chỉnh đến cùng, điều dễ dàng
78
dẫn đến tình trạng làm mất giá trị nguyên gốc của di tích.
Bảo quản, tu bổ di tích phải trở thành lĩnh vực hoạt động khoa học và
thực tiễn chuyên biệt. Bảo quản, tu bổ di tích phải dựa trƣớc tiên vào tri thức,
sau đó là vào phƣơng pháp, sau cùng là vào bàn tay ngƣời nghệ nhân.
Đối với di vật của di tích cần kiểm kê lập danh mục, xác định giá trị
của di vật, cổ vật tại di tích. Có phƣơng án bảo quản cũng nhƣ dự kiến đƣợc
các tình huống có thể xảy ra và cách giải quyết cho tình huống nhằm tạo sự
chủ động trong việc bảo vệ khi có sự cố.
Một vấn đề nữa cũng cần đặt ra là nâng cao về chuyên môn, nghiệp vụ
cho đội ngũ làm công tác tu bổ, đội ngũ làm công tác tu bổ, bảo vệ di tích.
Hiện nay, theo quy định: Tổ chức, cá nhân Việt Nam và nƣớc ngoài tham gia
lập quy hoạch di tích, dự án tu bổ di tích, báo cáo kinh tế - kỹ thuật tu bổ di
tích, thiết kế tu bổ di tích và thi công tu bổ di tích có đủ điều kiện năng lực theo
quy định của pháp luật về xây dựng và có Giấy chứng nhận hành nghề theo quy
định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Là một loại hình di tích “sống”, có những giá trị nhất định trong đời
sống thƣờng ngày, nên việc chăm lo bảo quản, tu bổ thƣờng xuyên cho mỗi
ngôi đình nói riêng và các di tích khác nói chung là điều rất cần thiết. Một hƣ
hỏng nhỏ, nếu đƣợc kịp thời sửa chữa sẽ ít tốn kém về kinh phí, tránh sự
xuống cấp nặng nề và kéo dài tuổi thọ cho công trình.
Việc bảo quản, tu bổ phải thực hiện theo đúng quy định và khoa học,
với những nguyên tắc cơ bản, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.
Đối với loại hình xây dựng đặc thù này, việc chỉ định thầu, việc dành quyền
thi công cho những đơn vị chuyên môn, am hiểu là hết sức cần thiết.
Bảo tồn và phát huy giá trị di tích là sự nghiệp của toàn dân, gìn giữ,
bảo vệ ngôi đình làng là việc chung của cả dân làng, nhƣng nếu việc bảo vệ
đó đƣợc thành lập có tổ chức, có sự hƣớng dẫn, tuyên truyền của những ngƣời
79
làm công tác chuyên môn, sẽ tránh đƣợc nhiều sai lầm đáng tiếc trong việc
bảo quản, tu bổ di tích. Khi đƣợc giải thích, chắc chắn ngƣời dân sẽ dành kinh
phí để bảo quản, tu bổ di tích theo đúng quy định, chánh đƣợc tình trạng làm
mới di tích một cách có ý thức.
3.5. Tiểu kết
Có thể nói, giá trị nổi bật nhất của di tích đình Tình Quang là phần
nghệ thuật điêu khắc, trang trí trên kiến trúc. Ít có ngôi đình nào trong nội
thành Hà Nội tồn tại đến nay còn giữ đƣợc nhiều mảng điêu khắc, trang trí với
những đề tài phong phú, mang tính nghệ thuật và ý nghĩa sâu sắc nhƣ đình
Tình Quang. Các mảng điêu khắc tập trung nhiều nhất ở tòa Đại đình, trên
những bức cốn, nghé, đầu dƣ và bẩy hiên. Những đề tài trang trí quen thuộc
nhƣ rồng, lân, phƣợng, vân xoắn, cụm mây,… không chỉ chuyển tải những
mong muốn ƣớc vọng của ngƣời dân mà còn góp phần làm cho kiến trúc ngôi
đình thêm mềm mại và sống động.
Tất cả bờ nóc, bờ dải, bờ guột đều đƣợc đắp bằng vôi vữa và gạch hoa
chanh bằng đất nung. Đây là những sản phẩm có niên đại rất muộn và đƣợc
đắp giả cổ nên giá trị nghệ thuật không cao.
Tại đình Tình Quang, đề tài rồng đƣợc thể hiện phong phú, nhƣng chủ
đạo là rồng mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII và rồng mang phong
cách nghệ thuật thời Nguyễn.
Đầu dƣ ở đình Tình Quang đƣợc chạm lộng, nổi với hình tƣợng đầu
rồng đƣợc thể hiện hai bên mũi hếch lên phía trên, miệng rộng, mắt tròn nổi
khối là sản phẩm của nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVII.
Thông qua nghệ thuật chạm khắc, trang trí trên kiến trúc, bƣớc đầu có
thể tạm thấy, khởi thủy đình đƣợc dựng vào nửa đầu thế kỷ XVII, sau đó vào
cuối thế kỷ này đƣợc tu bổ chút ít. Đặc biệt, vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
đã có một sự tu bổ lớn… Dƣới thời Nguyễn, đình đƣợc tu bổ lớn, cấu trúc bộ
80
vì nóc đã thay đổi, cho nên các mảng chạm cùng thay đổi. Vì vậy, nghệ thuật
chạm khắc cổ truyền của đình chủ yếu chỉ còn ở các đầu dƣ, các cốn gian
giữa, các kẻ nối giữa cột quân và cột hiên. Tuy nhiên, những mảng chạm
khắc, trang trí cơ bản của nghệ thuật thời khởi dựng vẫn đƣợc giữ gìn một
81
cách trân trọng.
KẾT LUẬN
Đình Tình Quang có thể coi là ngôi đình làng quê điển hình vùng đồng
bằng Châu thô Bắc Bộ Nam sông Đuống. Nằm trong dòng chảy của hệ thống
kiến trúc đình làng Việt Nam, đình Tình Quang đã góp phần khẳng định giá
trị lịch sử văn hóa của kiến trúc đình làng trong lịch sử dân tộc.
Những giá trị nghệ thuật kiến trúc
- Đối với bố cục mặt bằng: Những nguyên cứu về đình làng Việt trong
những năm vừa qua cho thấy, những ngôi đình buổi đầu chỉ có mặt bằng chữ
nhất, ba gian hai chái (đình Tây Đằng, đình Thanh Lũng, đình Thụy Phiêu, Hà
Tây cũ; đình Xuân Dục, Hà Nội). Về sau này, bên cạnh ngôi đình với mặt
bằng ba gian hai chái, đã xuất hiện những ngôi đình lớn hơn, mặt bằng năm
gian hai chái (đình Đông Viên, đình So, Hà Tây cũ; đình Phù Lão, Bắc
Giang). Cũng từ nửa sau thế kỷ XVII, Hậu cung chuôi vồ đã xuất hiện trong
kiến trúc đình làng (đình Hữu Bằng, đình So, Hà Tây cũ), cho thấy Thành
hoàng đã đƣợc đƣa hẳn vào thờ tự trong đình, đình Tình Quang cũng nằm
trong quy luật phát triển chung đó. Ra đời từ thế kỷ XVII, giai đoạn phát triển
rầm rộ của kiến trúc đình làng, đình Tình Quang là một nhân tố góp vào sự
bùng nổ của đình làng.
Hơn thế nữa, đình Tình Quang là một trong số ít ngôi đình niên đại thế
kỷ XVII còn bảo tồn đƣợc phần nào về kiểu dáng kiến trúc. Khởi dựng từ nửa
đầu thế kỷ XVII, tới đầu thế kỷ XX, đã có đầy đủ các hạng mục: Ao, Bình
phong, Nghi môn, sân, nhà Tả vu, Hữu vu, tòa Đại đình, Hậu cung... Tất
nhiên, các công trình đó không phải ra đời cùng một thời điểm mà đƣợc xây
dựng, bổ sung dần qua từng thời kỳ lịch sử, phù hợp với sự phát triển chung
82
của đình làng Việt.
- Đối với kết cấu khung kiến trúc: Cùng với các đình làng ở đồng bằng
Châu thổ Bắc Bộ tạo nên một phong cách kết cấu mang tính thời đại không
thể phủ nhận đƣợc. Nếu từ thế kỷ XVI trở về trƣớc, hệ vì cơ bản của kiến trúc
cổ truyền Việt Nam là kiểu vì: 4 hàng chân, khẩu độ lòng nhà hẹp, câu đầu
thƣờng đặt trên đầu cột, vì nóc giá chiêng với những con rƣờng, trụ trốn ngắn
mập. Sang thế kỷ XVII, ở đình Tình Quang và một vài ngôi đình làng khác
(đình Nghiêm Xá, Hà Tây cũ), bộ vì nóc kiểu giá chiêng, vẫn còn các ván
bƣng chạm rồng trong lòng giá chiêng, khá gần gũi với những ngôi đình thời
Mạc trƣớc đó (đình Thụy Phiêu, đình Tây Đằng, Hà Tây cũ)… Tuy nhiên, ở
đây, con rƣờng trên cùng đã thẳng hơn, không còn uốn cong kiểu rƣờng bụng
lợn nữa. Cũng từ thế kỷ XVII, với việc dùng gỗ lim có khẩu độ lớn hơn thay
thế gỗ mít; với nhu cầu mở rộng lòng công trình, đã xuất hiện kiểu vì 6 hàng
chân, xuất hiện cấu kiện kẻ suốt liên kết hiên; Kiểu vì trên rƣờng, dƣới kẻ đã
trở nên phổ biến.
Từ thế kỷ XIX bộ khung nhà đã chia thành hai ngả. Một là trở về với
kiểu 4 hàng chân, các con rƣờng đã đƣợc dùng làm yếu tố liên kết và ở đầu
cột quân vƣơn ra chiếc bẩy. Con rƣờng đã đƣợc biến thể đủ loại thành: Cốn
mê, giả thủ, chữ triện... (nhƣ kiến trúc Đại đình); Ngả thứ hai có khuynh
hƣớng quay về với kỹ thuật truyền thống, kẻ suốt đã biến thành kẻ chuyền với
một hàng cột hiên tạo nên kiểu vì 6 hàng chân. Tất cả các cấu kiện đó đƣợc
liên kết với nhau bởi các chốt mộng khít khao, khi cần có thể tháo lắp một
cách dễ dàng, thuận tiện. Thực tế, nhiều làng đã dời đình làng từ vị trí này tới
vị trí khác (đình Đông Viên rời từ ngoài bãi vào trong làng), có làng đã đi
mua cả bộ khung đình từ nơi khác về dựng lại (đình Phong Cốc, Quảng Ninh;
đình Khê Tang, Hà Tây cũ), có làng đã nâng kích bộ khung đình lên cao một
83
vài mét để tránh ngập lụt (đình Thổ Hà, Bắc Giang đã đƣợc nâng lên cao
1,6m). Từ những ví dụ đó đã chứng minh tính ƣu việt của bộ khung kiến trúc
gỗ cổ truyền Việt. Và có thể nói: Ngƣời Việt dựng chứ không xây đình...
Cùng kiểu vì nhƣ vậy, cùng kiểu liên kết ấy ngƣời Việt không chỉ dùng
để dựng đình mà dùng cho hầu hết các loại hình kiến trúc mà không có sự
phân tách. Điều đó nói lên tính thống nhất cao về mặt kết cấu trong kiến trúc
cổ truyền Việt. Các kiểu liên kết vì xuất hiện ở những thời điểm khác nhau,
nhƣng kiểu vì sau không loại trừ kiểu vì trƣớc. Kiểu vì giá chiêng đã xuất
hiện sớm vẫn đƣợc sử dụng ở thời sau, tuy có vài biến đổi cho phù hợp. Điều
đó cho thấy thức kiến trúc cột - xà - kẻ - bẩy đã đƣợc bảo lƣu một cách khá
vững chắc. Trong tổng thể kiến trúc, mỗi một cấu kiện giữ một vai trò, một
công năng kỹ thuật nhất định, tạo nên tính hợp lý của cấu tạo. Có thể nói:
Tính thống nhất - Tính bảo lƣu - Tính hợp lý là những đặc trƣng cơ bản của
kiến trúc gỗ cổ truyền Việt.
Những giá trị nghệ thuật điêu khắc, trang trí
Trƣớc điêu khắc đình làng, nghệ thuật Lý - Trần đã mô tả các vũ nữ
trong những đƣờng viền vuông vức (chân tảng chùa Phật Tích, Bắc Ninh; cốn
ở chùa Thái Lạc, Hƣng Yên). Thậm chí, thế giới ngƣời và vật sống động trên
lan can chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) vẫn không vƣợt ra nổi cái hữu hạn của đố
trụ lan can đá… Với điêu khắc đình Tình Quang, các đƣờng diềm trang
nghiêm và cố định đã biến mất. Hình ảnh đƣợc chảy tràn ra không gian,
phóng túng và bạo dạn nhƣ muốn tuyên bố rằng, không có bất cứ một sức
mạnh nào có thể trói buộc đƣợc một cuộc sống bộn bề hừng hực toát lên trong
từng bức chạm.
Về mặt bố cục, nếu ở nghệ thuật Lý - Trần, hình rồng trong một chiếc
lá đề phải đối xứng qua ngọn lửa đã đành, mà ngay trên bề dày của các viên
gạch bố cục theo dải cũng là phải đối xứng. Tính đăng đối đã làm cho nghệ
84
thuật tuy có nhịp điệu, nhƣng đã tạo nên cảm giác buồn, lặng lẽ. Ngƣợc lại, ở
điêu khắc, trang trí đình Tình Quang hình ảnh ngoài đời trơn chảy trong
nguồn cảm hứng bất chợt diễn mãi không hề lặp lại.
Điêu khắc đình Tình Quang còn thể hiện vẻ độc đáo, không gian và tỷ
lệ của các bức chạm hoàn toàn theo cảm hứng của ngƣời nghệ nhân, các đề tài
nối tiếp nhau, tạo nên một tổ hợp sống động. Kích cỡ của các hình khối đã
không giữ đúng tỷ lệ thực của chúng mà ngay trong một mảng chạm giữa các
đề tài cũng không theo một tỷ lệ nhất định. Các nghệ nhân chạm khắc đình
Tình Quang đã giỏi về bố cục lại tài về diễn khối. Nét phổ quát của hình chạm
là lối diễn khối mập khoẻ, đầy đặn. Những khối không đơn điệu mà trở nên
sống động, vấp váp với những nhát đục dứt khoát. Kỹ thuật chạm bong kênh
làm cho khối bật lên trên các thớ gỗ dày dặn.
Điều cuối cùng tôi nhận thấy ở cá tính tạo hình của điêu khắc, trang trí
đình Tình Quang là chất hội hoạ. Lối chạm bong kênh tạo nên nhiều tầng,
nhiều lớp, nhiều hố hữu thức trên các tác phẩm, đã tạo cho bức chạm nhiều
màu, nhiều vẻ, luôn luôn thay đổi. Với lối sử dụng nhiều “màu” - ánh sáng
độc đáo nhƣ thế, chất hội họa thể hiện rất rõ nét. Và, cũng chính “kiểu tô
màu” ấy đã làm nên vẻ biến ảo của các bức chạm. Vẻ biến ảo ấy, đã làm điêu
khắc đình làng nhƣ tự nhân khối lƣợng các tác phẩm của mình lên với một
cấp số khó có thể tính đƣợc và chẳng bao giờ nhàm chán trƣớc ngƣời xem.
Với điêu khắc đình Tình Quang, ta đã đứng trƣớc một giai đoạn nghệ
thuật độc đáo nhất. Song, xem kỹ, ta cũng thấy điêu khắc đình Tình Quang
không phải là hiện tƣợng bất ngờ, mà đã thừa kế đƣợc một truyền thống điêu
khắc từ xƣa. Ngƣời thợ trang trí đình khi tiếp thu truyền thống của ông cha
vẫn cố tình muốn vƣợt qua để nói một kiểu ngôn ngữ ngang tắt, năng động,
cởi mở, để tự khẳng định mình và thời đại của mình, mà không hề tìm một giá
85
trị sao chép và thực sự họ đã vƣợt ngƣỡng thành công.
Với các mảng điêu khắc, trang trí thuộc giai đoạn hậu Lê, Nguyễn đã
chứng tỏ sự tài hoa, khéo léo của các nghệ nhân đƣơng thời. Những mảng
chạm khắc trang trí ở đình Tình Quang đã thể hiện tính dân gian sâu sắc với
nhiều đề tài phong phú. Đời sống và sinh hoạt của ngƣời dân địa phƣơng rõ
ràng đã có ảnh hƣởng đến nghệ thuật trang trí kiến trúc và ngƣợc lại, kiến
trúc, nghệ thuật điêu khắc lại là tấm gƣơng phản ánh cuộc sống của ngƣời
xƣa. Đình Tình Quang đã thực sự góp phần tô đẹp thêm truyền thống văn hoá
nghệ thuật ở Long Biên - Hà Nội nói riêng, cũng nhƣ trong nền nghệ thuật
kiến trúc đình làng vùng Châu thổ Bắc Bộ nói chung…
Đình Tình Quang là một trong ít ngôi cổ đình còn bảo tồn đầy đủ các di
vật có giá trị. Với tất cả các yếu tố đó, đình làng Việt Nam nói riêng, đình
Tình Quang nói chung phải đƣợc xem là những di sản văn hoá vô giá của ông
cha ta, cần đƣợc bảo tồn và phát huy giá trị để vẫn mãi toả sáng những giá trị
86
mà nó đã tạo ra trong dòng chảy của lịch sử văn hoá dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Đào Duy Anh (1964), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb KHXH, Hà Nội.
2. Toan Ánh (1968), Hội hè đình đám, Nxb Lá Bối, Sài Gòn.
3. Nguyễn Bích (1993), Cái đình và điêu khắc đình làng, Kỷ yếu Bảo tàng
Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, (số 8), tr. 36-39.
4. Nguyễn Bích (1996), Điêu khắc trang trí đình làng ở Bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam, T/c VHNT (số 6), tr. 32-33.
5. Trần Lâm Biền (1983), Quanh ngôi đình làng - lịch sử, T/c Nghiên cứu
nghệ thuật (số 4), tr. 38-43, 53.
6. Trần Lâm Biền (1996), Đôi nét về các di tích kiến trúc Việt Nam, T/c
Nghiên cứu Đông Nam Á (số 3), tr. 61-64.
7. Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb VHDT, Hà Nội.
8. Trần Lâm Biền (chủ biên) (2001), Trang trí trong mỹ thuật truyền thống
của người Việt, Nxb VHDT - T/c VHNT, Hà Nội.
9. Trần Lâm Biền (2003), Quanh ngôi đình làng - nghệ thuật, Bản tin của
Trung tâm Thiết kế và Tu bổ di tích, Hà Nội, tr. 26-29.
10. Trần Lâm Biền (chủ biên) (2008), Diễn biến kiến trúc truyền thống vùng
châu thổ sông Hồng, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
11. Trần Lâm Biền - Đào Hùng (1985), Con rồng trong mỹ thuật Việt Nam,
T/c Mỹ thuật (số 2), tr. 47-55.
12. Cục Bảo tồn bảo tàng và Bảo tàng Hồ Chí Minh (1996), 50 năm bảo tồn
di sản văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr. 7.
13. Cục Di sản văn hóa (2005, 2006, 2008, 2010, 2012), Một con đường tiếp
cận lịch sử, 6 tập, Nxb Thế giới và Xây dựng, Hà Nội.
14. Cục Di sản văn hóa (2014), Văn bản quản lý nhà nước về di sản văn hóa,
87
Hà Nội.
15. Nguyễn Văn Cƣơng (2000), Về yếu tố đặc sắc của đình làng Bắc Bộ, T/c
VHNT (số 7), tr. 39-42.
16. Nguyễn Văn Cƣơng (2006), Mỹ thuật đình làng Bắc Bộ, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
17. Nguyễn Du Chi (2000), Trên đường tìm về cái đẹp của cha ông, Viện Mỹ
thuật và Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
18. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, 3 tập, Nxb KHXH,
Hà Nội.
19. Nguyễn Đăng Duy (1978), Cái bẩy trong kiến trúc cổ, T/c Nghiên cứu
nghệ thuật (số 5, 6), tr. 47-51.
20. Đại Việt sử lược (1960), Bản dịch, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.
21. Đại Việt sử ký toàn thư (1998), Bản dịch Ngô Đức Thọ, 3 tập, Nxb
KHXH, Hà Nội.
22. Đình, chùa Tình Quang, lƣu trữ tại Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, Hồ sơ số 203.
23. Kim Định (1971), Triết lý cái đình, Nxb Lá Bối, Sài Gòn.
24. Phạm Đức Hân (2009), Cụm di tích đình - chùa Hữu Bằng (Hà Tây) kiến
trúc và điêu khắc, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử.
25. Nguyễn Duy Hinh (1982), Về một số đặc điểm truyền thống của kiến trúc
cổ Việt Nam, Góp phần nghiên cứu bản lĩnh bản sắc dân tộc Việt Nam,
Nxb KHXH, Hà Nội.
26. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng thành hoàng làng Việt Nam, Nxb
KHXH, Hà Nội.
27. Diệp Đình Hoa (chủ biên) (1990), Tìm hiểu làng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội.
88
28. Diệp Đình Hoa (2000), Người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, Nxb KHXH, Hà Nội.
29. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam
(2007) Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 1, A - Đ, Tái bản lần thứ nhất,
Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
30. Nguyễn Văn Huyên (1989), Con voi trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam,
T/c Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật (số 1), tr. 43-46.
31. Nguyễn Hồng Kiên (1986), Đình Tường Phiêu (Hà Nội) một kiến trúc
hiếm ở đầu thế kỷ 17, Những phát hiện mới về khảo cổ học, Nxb KHXH,
Hà Nội, tr. 323-325.
32. Nguyễn Hồng Kiên (1991), Bộ vì nóc của kết cấu nhà khung gỗ cổ truyền
Việt Nam, T/c VHNT (số 2), tr. 24-31.
33. Nguyễn Hồng Kiên (1992), Đình làng Việt, Trung tâm Thiết kế và Tu bổ
các công trình văn hoá, Hà Nội, tr. 1-13.
34. Nguyễn Hồng Kiên (1996), Đình làng Việt, T/c Kiến trúc Việt
Nam (số 1), tr. 37-40.
35. Nguyễn Hồng Kiên (1996), Điêu khắc trên kiến trúc cổ truyền Việt, T/c
Kiến trúc Việt Nam (số 2), tr. 40-42.
36. Nguyễn Hồng Kiên (1996), Kiến trúc gỗ cổ truyền Việt, T/c Kiến trúc
(số 3), tr. 36-43.
37. Hồng Kiên (1999), Về mặt bằng những kiến trúc tôn giáo cổ truyền của
người Việt, T/c VHNT (số 11), tr. 48-50.
38. Nguyễn Hồng Kiên, Những ngôi đình làng Việt thế kỷ 16, Luận án Tiến sĩ
khảo cổ học.
39. Hoàng Đạo Kính (2012), Văn hóa kiến trúc, Nxb Tri thức, Hà Nội.
40. Tạ Quốc Khánh (2005), Đình làng Hạ Hiệp (Hà Tây) kiến trúc và điêu
khắc, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử.
41. Nguyễn Đăng Khoa (1989), Con người và tạo hình chạm khắc đình - đền
89
- chùa, T/c Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật (số 1), tr. 37-42.
42. Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thế Cƣờng (2003), Kiến trúc cổ Trung
Quốc, Nxb TP HCM.
43. Trần Lâm - Hồng Kiên (1987), Diễn biến của các loại hình kiến trúc cổ
Việt Nam, T/c Kiến trúc (số 2, 3), tr. 42-50.
44. Hoàng Linh (1979), Nhân đọc bài: Cái bẩy trong kiến trúc cổ Việt Nam
Bẩy và Kẻ, T/c Nghiên cứu nghệ thuật, số (4), tr. 57-57.
45. Bình Nguyễn Lộc (1971), Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Nxb
Lá Bối, Sài Gòn.
46. Hoàng Phê (Chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học
Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
47. Lê Thu Phƣơng (2008), Tìm hiểu di tích đình Tình Quang, làng Tình
Quang, phường Giang Biên, quận Long Biên, Hà Nội, Khóa luận tốt
nghiệp ngành bảo tồn bảo tàng.
48. Bùi Thế Quân (2013), Qua mấy ngôi đình làng ven sông Đuồng, trên đất
Long Biên, T/c DSVH (số 2), tr. 91-96.
49. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thƣợng (1989), Mỹ thuật của người Việt, Nxb
Mỹ thuật, Hà Nội.
50. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thƣợng (1991), Mỹ thuật ở làng, Nxb Mỹ
thuật, Hà Nội.
51. Quốc sử quan triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chí, 5 tập, Bản
dịch Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa.
52. Quốc sử quan triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Bản dịch Viện Sử học, 2 tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. Ngô Huy Quỳnh (1986), Tìm hiểu kiến trúc Việt Nam, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
54. Ngô Huy Quỳnh (1986), Kiến trúc Việt Nam, Nxb TP HCM.
90
55. Hà Văn Tấn - Nguyễn Văn Cự (1998), Đình Việt Nam, Nxb TP HCM.
56. Hà Văn Tấn (1999), Bài bia của Trương Hán Siêu và vấn đề phong Thành
hoàng, T/c Nghiên cứu lịch sử (số 1), tr. 42-50.
57. Hà Văn Tấn (chủ biên) (2002), Khảo cổ học Việt Nam, tập III, Khảo cổ
học lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
58. Tiêu chuẩn quốc gia (2014), Di sản văn hóa và các vấn đề liên quan-thuật
ngữ và định nghĩa chung, xuất bản lần 1, Hà Nội.
59. Tống Trung Tín (1987), Vật liệu kiến trúc Việt Nam, trong 10 thế kỷ sau
Công nguyên, T/c KCH (số 4), tr. 45-60.
60. Tống Trung Tín (1997), Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và thời
Trần (thế kỷ 11-14), Nxb KHXH, Hà Nội.
61. Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Mạnh Cƣờng (1995), Đình làng-tính hai mặt
và quá trình biến đổi, T/c KCH (số 3), tr. 62-68.
62. Nguyễn Quốc Tuấn (1992), Thờ cúng Thành hoàng làng Việt ở Bắc bộ:
Nhận thức nguồn gốc, T/c Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật (số 1), tr. 16-18.
63. Nguyễn Quốc Tuấn (1992), Thờ cúng Thành hoàng làng Việt ở Bắc bộ:
Nhận thức nguồn gốc, T/c Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật (số 2), tr. 43-45.
64. Nguyễn Khắc Tụng (1981), Về cái Kẻ và cái Bẩy, T/c KCH (số 4), tr. 66-68.
65. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng người Việt cổ truyền ở Bắc Bộ,
Nxb KHXH, Hà Nội.
66. Trịnh Cao Tƣởng (1979), Đình làng Phù Lão - Hà Bắc trong nền cảnh
đình làng Bắc bộ, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học lịch sử.
67. Trịnh Cao Tƣởng (1981), Kiến trúc đình làng, T/c KCH (số 2), tr. 56-64.
68. Trịnh Cao Tƣởng (1982), Đình làng - điểm lại bước đi ban đầu, T/c
Nghiên cứu nghệ thuật (số 1), tr. 41-51.
69. Trịnh Cao Tƣởng (1982), Kiến trúc đình làng - Hình tượng, T/c Nghiên
91
cứu nghệ thuật (số 2), tr. 36-41,62.
70. Trịnh Cao Tƣởng (1985), Cây thước tầm trong nền kiến trúc cổ Việt Nam,
T/c KCH (số 2), tr. 57-62.
71. Trịnh Cao Tƣởng (2008), Về những dấu mã hóa trên cây thước tầm trong
nền kiến trúc cổ Việt Nam, T/c DSVH (số 3), tr. 99-102.
72. Nông Thành - Quốc Vụ (2010), Thử giải mã một số đề tài chạm khắc trên
đình Chu Quyến, T/c DSVH (số 3), tr. 70-74.
73. Nguyễn Đức Thiềm (1980), Tìm hiểu về cấu trúc gian - vì kèo trong nhà ở
truyền thống của người Việt, T/c Dân tộc học (số 2), tr. 49-53.
74. Nguyễn Đức Thiềm (1983), Đóng góp vào việc nghiên cứu nghệ thuật
kiến trúc đình làng miền Bắc, T/c Dân tộc học (số 2), tr. 33-38.
75. Nguyễn Đức Thiềm (1987), Tìm hiểu truyền thống kiến trúc dân gian và kinh
nghiệm xây dựng cổ truyền, T/c Nghiên cứu văn hóa (số 2), tr. 57-68, 75.
76. Đinh Khắc Thuân (2002), Văn bia và đình làng thế kỷ XVI, XVII, T/c
VHNT (số 6), tr. 62-68, 73.
77. Phan Cẩm Thƣợng (1997), Điêu khắc cổ Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
78. Chu Quang Trứ (1999), Kiến trúc dân gian truyền thống Việt, Nxb Mỹ
thuật, Hà Nội.
79. Trƣờng Đại học Mỹ thuật Hà Nội - Viện Mỹ thuật (2000), Bản rập họa
tiết Mỹ thuật cổ Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
80. Thái Bá Vân (1976), Điêu khắc đình làng, T/c Nghiên cứu nghệ thuật
(số 4), tr. 69-75.
81. Viện Nghệ thuật (1976), Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam (qua các bản
rập), Hà Nội.
82. Viện Sử học (1977 - 1978), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, 2 tập, Nxb
KHXH, Hà Nội.
83. Lê Quốc Vụ (2006), Đình Xuân Dục - Một kiến trúc được xác nhận vào
92
thế kỷ XVII, T/c DSVH (số 4), tr. 52-55.
84. Lê Quốc Vụ (2008), Về ba bài bị đặc biệt của đình Ngọc Động (xã Đa
Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội), T/c DSVH (số 3), tr. 73-75.
85. Trần Quốc Vƣợng (1998), Việt Nam cái nhìn địa - văn hoá, Nxb VHDT -
T/c VHNT, Hà Nội.
86. Trần Quốc Vƣợng (2000), Văn hoá Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm, Nxb
VHDT - T/c VHNT, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Pháp
87. Louis Bezacier (1954), L’Art Viêtnamien, Éditions De L’Union Francaise,
93
3, Rue Blaise - Desgoffe - Paris - VI.
BẢN ĐỒ, SƠ ĐỒ
94
Bản đồ 01: Thành phố Hà Nội [Nguồn: Tập bản đồ hành chính 63 tỉnh, thành phố Việt Nam Nxb Tài nguyên - Môi trƣờng và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội 2013]
Sơ đồ 03: Khoanh vùng bảo vệ di tích, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
95
Bản đồ 02: Quận Long Biên [Nguồn: Tập bản đồ hành chính 63 tỉnh, thành phố Việt Nam Nxb Tài nguyên - Môi trƣờng và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội 2013]
h n ì r t g n ô c c ụ m g n ạ h
c á c ị v h n ị đ g n ằ b
t ặ
M
: 1 0 : ẽ v n ả B
96
BẢN VẼ
] a ó h
2 9 9 1 m ă n
,
h n ì đ
n ă v n ả s i
D c ụ C
i ạ Đ g n ứ đ t ặ
M
: n ồ u g N
[
: 2 0
ẽ v n ả B
97
h n ì đ
i ạ Đ g n ứ đ t ặ
M
: 3 0
ẽ v n ả B
98
2 9 9 1 m ă n
,
] a ó h
h n ì đ
n ă v n ả s i
D c ụ C
i ạ Đ n ề n g n ằ b t ặ
M
: n ồ u g N
[
: 4 0
ẽ v n ả B
99
h n ì đ
i ạ Đ n ề n g n ằ b t ặ
M
: 5 0
ẽ v n ả B
100
n ê b g n ứ đ t ặ
M
: 6 0
ẽ v n ả B
101
] a ó h
n ă v
2 9 9 1 m ă n
n ả s i
, t ắ c t ặ
M
: 7 0
D c ụ C n ồ u g N
[
ẽ v n ả B
102
A
-
A
t ắ c t ặ
M
: 8 0
ẽ v n ả B
103
B
-
B
t ắ c t ặ
M
: 9 0
ẽ v n ả B
104
C
-
C
t ắ c t ặ
M
: 0 1
ẽ v n ả B
105
106
Bản vẽ 11: Mặt cắt D - D
107
Bản vẽ 12: Mặt cắt E - E
7
,
6
,
5
,
4 c ụ r t ì v
t ế i t i h C
: 3 1
ẽ v n ả B
108
109
Bản vẽ 14: Chi tiết vì trục (C1 - C3’), (D1’ - D3), (C8 - C10’), (D - D10’)
G c ụ r t ì v
t ế i t i h C
: 5 1
ẽ v n ả B
110
K
,
H c ụ r t ì v
t ế i t i h C
: 6 1
ẽ v n ả B
111
112
Bản vẽ 17: Chi tiết vì nách 3, 4, 5, 6, 7, 8
8
,
3 c ụ r t ì v
t ế i t i h C
: 8 1
ẽ v n ả B
113
BẢN ẢNH
Bản ảnh 01: Vị trí di tích đình Tình Quang chụp từ vệ tinh [Nguồn: Google Earth 2015]
114
Bản ảnh 02: Ao đình, năm 2007
Bản ảnh 03: Hồ bán nguyệt (Ao đình)
115
Bản ảnh 04: Nghi môn
Bản ảnh 05: Toàn cảnh đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
116
Bản ảnh 06: Toàn cảnh đình
Bản ảnh 07: Mặt đứng Đại đình
117
Ảnh 08: Mặt bên Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 09: Mặt bên Đại đình, năm 2007
118
Bản ảnh 10: Chi tiết “Lƣỡng long chầu nhật” trên bờ nóc Đại đình
Bản ảnh 11: Chi tiết kìm nóc trên mái Đại đình
119
Bản ảnh 12: Bẩy hiên phía trƣớc Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 13: Bẩy hiên phía trƣớc Đại đình
Bản ảnh 14: Bẩy hiên phía sau Đại đình, năm 2008 [Nguồn: Lê Thu Phƣơng]
120
Bản ảnh 15: Bẩy hiên góc Đại đình, năm 2008 [Nguồn: Lê Thu Phƣơng]
Bản ảnh 16: Tả vu
121
Bản ảnh 17: Hữu vu
Bản ảnh 18: Hậu cung
122
Bản ảnh 19: Không gian Đại đình
Bản ảnh 20: Vì nóc, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
123
Bản ảnh 21: Trang trí trên cốn Đại đình, năm 1992 [Nguồn Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 22: Trang trí trên cốn Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
124
Bản ảnh 23: Mảng chạm hình chim phƣợng trên cốn, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 24: Mảng chạm tiên cƣỡi rồng, năm 1996 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]
125
Bản ảnh 25: Mảng chạm tiên cƣỡi rồng
126
Bản ảnh 26: Hệ thống đầu dƣ
127
Bản ảnh 27: Hệ thống đầu dƣ
Bản ảnh 28: Mảng chạm rồng, năm 1996 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]
128
Bản ảnh 29: Mảng chạm tiên cƣỡi rồng, năm 1996 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]
Bản ảnh 30: Mảng chạm hình ngƣời ở đuôi đầu dƣ, năm 2006 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]
129
Bản ảnh 31: Mảng chạm hình ngƣời ở đuôi đầu dƣ
Bản ảnh 32: Mảng chạm hình con nghê ở đuôi đầu dƣ, năm 2006 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]
130
Bản ảnh 33: Mảng chạm hình con lân
Bản ảnh 34: Mảng chạm hình con rồng
Bản ảnh 35: Mảng chạm hình chim Phƣợng, năm 2006 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]
131
Bản ảnh 36: Mảng chạm hình chim Phƣợng
Bản ảnh 37: Mảng chạm mả táng hàm rồng
132
Bản ảnh 38: Trang trí trên vì nách Đại đình
Bản ảnh 39: Trang trí trên vì nách Đại đình
133
Bản ảnh 40: Trang trí trên vì nách Đại đình
Bản ảnh 41: Nền Đại đình [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
134
Bản ảnh 42: Nền Đại đình, năm 2007
Bản ảnh 43: Nền Đại đình
135
Bản ảnh 44: Bộ cửa Đại đình
Bản ảnh 45: Chân tảng cũ
136
Bản ảnh 46: Chân tảng mới
Bản ảnh 47. Gian thờ giữa Đại đình
137
Bản ảnh 48. Cửa võng Hậu cung
Bản ảnh 49. Cốn Hậu cung [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
138
Bản ảnh 50: Bài trí đồ thờ trong Hậu cung, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 51: Long đình
139
Bản ảnh 52: Ngựa thờ tại Đại đình