ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----o0o----

LÊ QUỐC VỤ ĐÌNH TÌNH QUANG KIẾN TRÚC VÀ ĐIÊU KHẮC Chuyên ngành: Khảo cổ học Mã số: 60 22 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: TS Lê Đình Phụng

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình tổng hợp và nghiên cứu khoa học

của riêng tôi. Các tài liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, khách quan và

đƣợc trích nguồn rõ ràng. Những ý kiến khoa học chƣa từng đƣợc ai công bố

trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2015

Tác giả luận văn

1

LÊ QUỐC VỤ

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................... 1

MỤC LỤC ............................................................................................... 2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..................................................... 4

DANH MỤC PHỤ LỤC ......................................................................... 5

MỞ ĐẦU ................................................................................................. 9

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................. 9

2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................... 10

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ........................................................ 11

4. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................. 11

5. Kết quả và đóng góp của luận văn .................................................... 11

6. Bố cục luận văn ................................................................................. 12

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TƢ LIỆU .................................................... 13

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................. 13

1.2. Không gian, vị trí đình Tình Quang ............................................... 20

1.3. Nhân vật đƣợc thờ tại đình Tình Quang ........................................ 21

1.3.1. Tìm hiểu về Thành hoàng và Thành hoàng làng ........................ 21

1.3.2. Nhân vật đƣợc thờ tại đình Tình Quang ..................................... 23

1.4. Tiểu kết .......................................................................................... 28

Chƣơng 2: KIẾN TRÚC ĐÌNH TÌNH QUANG .................................. 30

2.1. Tìm hiểu về cảnh quan, không gian đình làng ............................... 30

2.2. Cảnh quan, không gian đình Tình Quang ...................................... 35

2.3. Kiến trúc đình Tình Quang ............................................................ 37

2.3.1. Một vài khái niệm về kiến trúc đình làng ................................... 37

2.3.2. Kiến trúc đình Tình Quang ......................................................... 41

2.3.2.1. Bố cục mặt bằng ....................................................................... 42

2

2.3.2.2. Hồ bán nguyệt (Ao đình) ......................................................... 45

2.3.2.3. Bình phong ............................................................................... 45

2.3.2.4. Nghi môn .................................................................................. 45

2.3.2.5. Nhà Tả vu, Hữu vu ................................................................... 48

2.3.2.6. Đại đình .................................................................................... 49

2.3.2.7. Hậu cung .................................................................................. 52

2.4. Tiểu kết .......................................................................................... 55

Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC, TRANG TRÍ VÀ ĐỊNH

HƢỚNG BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐÌNH TÌNH QUANG ........ 56

3.1. Vài nét về nghệ thuật điêu khắc, trang trí đình làng ...................... 56

3.1.1. Vài trò, vị trí của nghệ thuật điêu khắc, trang trí đình làng ........ 56

3.1.2. Kỹ thuật điêu khắc, trang trí đình làng ....................................... 59

3.2. Nghệ thuật điêu khắc, trang trí đình Tình Quang .......................... 63

3.2.1. Nghệ thuật trang trí trên đất nung, vôi vữa ................................. 63

3.2.2. Nghệ thuật điêu khắc, trang trí trên gỗ ....................................... 64

3.2.3. Một số hiện vật của đình Tình Quang ......................................... 70

3.3. Niên đại đình Tình Quang .............................................................. 73

3.3.1. Niên đại kiến trúc Đại đình ......................................................... 73

2.3.2. Niên đại các công trình khác ....................................................... 74

3.4. Định hƣớng bảo tồn, phát huy giá trị đình Tình Quang ................ 74

3.4.1. Những quy định về bảo tồn và phát huy giá trị di tích ............... 74

3.4.2. Những nguyên tắc cơ bản để bảo quản, tu bổ và phát huy giá trị

đình Tình Quang ................................................................................... 77

3.5. Tiểu kết .......................................................................................... 80

KẾT LUẬN ........................................................................................... 82

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 87

3

PHỤ LỤC .............................................................................................. 94

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CÁC CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

Bd. Bản dịch

DSVH Di sản văn hóa

KCH Khảo cổ học

KHXH Khoa học Xã hội

Nxb Nhà xuất bản

PGS Phó Giáo sƣ

TP HCM Thành phố Hồ Chí Minh

T/c Tạp chí

tr. Trang

TS Tiến sỹ

VHDT Văn hóa dân tộc

4

VHNT Văn hóa nghệ thuật

DANH MỤC PHỤ LỤC

BẢN ĐỒ, SƠ ĐỒ

Bản đồ 01: Thành phố Hà Nội [Nguồn: Tập bản đồ hành chính 63 tỉnh,

thành phố Việt Nam, Nxb Tài nguyên - Môi trƣờng và Bản đồ Việt

Nam, Hà Nội 2013]

Bản đồ 02: Quận Long Biên [Nguồn: Tập bản đồ hành chính 63 tỉnh,

thành phố Việt Nam, Nxb Tài nguyên - Môi trƣờng và Bản đồ Việt

Nam, Hà Nội 2013]

Sơ đồ 03: Khoanh vùng bảo vệ di tích, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản

văn hóa]

BẢN VẼ

Bản vẽ 01: Mặt bằng định vị các hạng mục công trình

Bản vẽ 02: Mặt đứng Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

Bản vẽ 03: Mặt đứng Đại đình

Bản vẽ 04: Mặt bằng nền Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

Bản vẽ 05: Mặt bằng nền Đại đình

Bản vẽ 06: Mặt đứng bên

Bản vẽ 07: Mặt cắt, năm 1992 [Nguồn Cục Di sản văn hóa]

Bản vẽ 08: Mặt cắt A - A

Bản vẽ 09: Mặt cắt B - B

Bản vẽ 10: Mặt cắt C - C

Bản vẽ 11: Mặt cắt D - D

Bản vẽ 12: Mặt cắt E - E

Bản vẽ 13: Chi tiết vì trục 4, 5, 6, 7

Bản vẽ 14: Chi tiết vì trục (C1 - C3’), (D1’ - D3), (C8 - C10’), (D - D10’)

5

Bản vẽ 15: Chi tiết vì trục G

Bản vẽ 16: Chi tiết vì trục H, K

Bản vẽ 17: Chi tiết vì nách 3, 4, 5, 6, 7, 8

Bản vẽ 18: Chi tiết vì trục 3, 8

BẢN ẢNH

Bản ảnh 01: Vị trí di tích đình Tình Quang chụp từ vệ tinh [Nguồn:

Google Earth 2015]

Bản ảnh 02: Ao đình, năm 2007

Bản ảnh 03: Hồ bán nguyệt (Ao đình)

Bản ảnh 04: Nghi môn

Bản ảnh 05: Toàn cảnh đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

Bản ảnh 06: Toàn cảnh đình

Bản ảnh 07: Mặt đứng Đại đình

Bản ảnh 08: Mặt bên Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

Bản ảnh 09: Mặt bên Đại đình, năm 2007

Bản ảnh 10: Chi tiết “Lƣỡng long chầu nhật” trên bờ nóc Đại đình

Bản ảnh 11: Chi tiết kìm nóc trên mái Đại đình

Bản ảnh 12: Bẩy hiên phía trƣớc Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di

sản văn hóa]

Bản ảnh 13: Bẩy hiên phía trƣớc Đại đình

Bản ảnh 14: Bẩy hiên phía sau Đại đình, năm 2008 [Nguồn: Lê Thu

Phƣơng]

Bản ảnh 15: Bẩy hiên góc Đại đình, năm 2008 [Nguồn: Lê Thu

Phƣơng]

Bản ảnh 16: Tả vu

Bản ảnh 17: Hữu vu

Bản ảnh 18: Hậu cung

6

Bản ảnh 19: Không gian Đại đình

Bản ảnh 20: Vì nóc, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

Bản ảnh 21: Trang trí trên cốn Đại đình, năm 1992 [Nguồn Cục Di sản

văn hóa]

Bản ảnh 22: Trang trí trên cốn Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản

văn hóa]

Bản ảnh 23: Mảng chạm hình chim phƣợng trên cốn, năm 1992

[Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

Bản ảnh 24: Mảng chạm tiên cƣỡi rồng, năm 1996 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]

Bản ảnh 25: Mảng chạm tiên cƣỡi rồng

Bản ảnh 26: Hệ thống đầu dƣ

Bản ảnh 27: Hệ thống đầu dƣ

Bản ảnh 28: Mảng chạm rồng, năm 1996 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]

Bản ảnh 29: Mảng chạm tiên cƣỡi rồng, năm 1996 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]

Bản ảnh 30: Mảng chạm hình ngƣời ở đuôi đầu dƣ, năm 2006 [Nguồn:

Vũ Văn Hòa]

Bản ảnh 31: Mảng chạm hình ngƣời ở đuôi đầu dƣ

Bản ảnh 32: Mảng chạm hình con nghê ở đuôi đầu dƣ, năm 2006

[Nguồn: Vũ Văn Hòa]

Bản ảnh 33: Mảng chạm hình con lân

Bản ảnh 34: Mảng chạm hình con rồng

Bản ảnh 35: Mảng chạm hình chim phƣợng, năm 2006 [Nguồn: Vũ

Văn Hòa]

Bản ảnh 36: Mảng chạm hình chim phƣợng

Bản ảnh 37: Mảng chạm mả táng hàm rồng

Bản ảnh 38: Trang trí trên vì nách Đại đình

Bản ảnh 39: Trang trí trên vì nách Đại đình

7

Bản ảnh 40: Trang trí trên vì nách Đại đình

Bản ảnh 41: Nền Đại đình [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

Bản ảnh 42: Nền Đại đình, năm 2007

Bản ảnh 43: Nền Đại đình

Bản ảnh 44: Bộ cửa Đại đình

Bản ảnh 45: Chân tảng cũ

Bản ảnh 46: Chân tảng mới

Bản ảnh 47: Gian thờ giữa Đại đình

Bản ảnh 48: Cửa võng Hậu cung

Bản ảnh 49: Cốn Hậu cung [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

Bản ảnh 50: Bài trí đồ thờ trong Hậu cung, năm 1992 [Nguồn: Cục Di

sản văn hóa]

Bản ảnh 51: Long đình

8

Bản ảnh 52: Ngựa thờ tại Đại đình

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Cƣ dân nƣớc ta chủ yếu là nông dân, sinh sống trong các làng xã,

một đơn vị hành chính cơ bản của xã hội Việt Nam, đóng vai trò quan trọng

trọng lịch sử, văn hoá dân tộc. Thời Trung đại và Cận đại đã xuất hiện và tồn

tại ở hầu hết làng xã một sản phẩm văn hoá đặc sắc đó là các công trình tôn

giáo, tín ngƣỡng, mà nổi bật nhất là đình, chùa làng. Trải qua quá trình lịch

sử, đình, chùa làng và các di tích tôn giáo tín ngƣỡng khác của ngƣời Việt

chiếm một vị trí đặc biệt và quan trọng trong kho tàng di sản văn hoá Việt

Nam, là sản phẩm văn hoá vật thể đặc trƣng của ngƣời Việt và trong ký ức

của mỗi ngƣời dân Việt Nam cây đa, giếng nước, sân đình mãi mãi là hình

ảnh quê hƣơng với bao thân thƣơng và đầy ắp ký ức.

Trong công cuộc đƣa đất nƣớc tiến lên theo định hƣớng Xã hội Chủ

nghĩa và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nƣớc ta chủ trƣơng xây dựng một

nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Vì vậy, tìm hiểu,

nghiên cứu về đình làng là một trong những ngả đƣờng tìm về cội nguồn, về

bản sắc văn hoá dân tộc trong lịch sử.

1.2. Đình làng Việt hiện còn có sớm nhất là những đình làng của thế kỷ

XVI. Đình làng cùng với các công trình tôn giáo, tín ngƣỡng khác, nhƣ chùa,

đền, phủ… gắn bó mật thiết với nhau đã tạo thành cụm di tích không thể tách

rời, chi phối đời sống văn hóa làng xã. Đối với khảo cổ học nói riêng và đối

với khoa học lịch sử nói chung, đình làng là đối tƣợng nghiên cứu cần đƣợc

quan tâm.

Theo các nhà nghiên cứu, thế kỷ XVII là giai đoạn hƣng thịnh của kiến

trúc điêu khắc dân gian Việt, tiêu biểu nhất là nghệ thuật kiến trúc và điêu

9

khắc đình làng. Còn lại với chúng ta ngày nay, trong đó có những công trình

kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, làm rạng danh di sản kiến trúc cổ truyền của

dân tộc. Trong số đó, đình Tình Quang (Long Biên, Hà Nội) nổi lên nhƣ là

một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, đặc sắc. Đình Tình

Quang hiện còn giữ đƣợc đầy đủ các hạng mục kiến trúc cùng với các thành

phần, cấu kiện kiến trúc thế kỷ XVII, XVIII, XIX.

Với giá trị kiến trúc tiêu biểu, đặc sắc nhƣ vậy, nhƣng đình Tình

Quang, trừ một vài bài viết, hình ảnh mô tả một cách khái lƣợc về kiến trúc,

nghệ thuật điêu khắc, một khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Trƣờng Đại học

Văn hóa Hà Nội (2008) viết về đình Tình Quang còn lại tới nay vẫn chƣa có

một công trình khảo cứu đầy đủ, cụ thể và toàn diện về di tích này.

1.3. Đƣợc làm việc tại Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và

Du lịch, tôi có mong muốn tìm hiểu về di tích kiến trúc cổ. Việc hiểu biết về

di tích kiến trúc cổ sẽ giúp tôi có nhận thức đúng đắn, sự trân trọng với những

di sản của ông cha để lại, từ đó có những định hƣớng tích cực cho việc bảo

tồn và phát huy giá trị di tích.

Từ những lý do đó, tôi chọn đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học, Chuyên

ngành Khảo cổ học là: Đình Tình Quang kiến trúc và điêu khắc.

2. Mục đích nghiên cứu

2.1. Khảo tả, phân tích cụ thể về cảnh quan, môi trƣờng làng Tình

Quang xƣa; về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc ở đình Tình Quang.

2.2. Nhìn nhận, đánh giá lại một số vấn đề về kiến trúc cổ và điêu khắc,

trang trí thuộc phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII, XVIII, XIX.

2.3. Suy nghĩ, đánh giá về loại hình kiến trúc đình làng trong dòng phát

10

triển chung của kiến trúc Việt.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn đã đƣợc chỉ rõ trong tên đề tài:

đình Tình Quang kiến trúc và điêu khắc.

3.2. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của luận văn còn đƣợc mở rộng

làm cơ sở so sánh, khẳng định giá trị của đình Tình Quang trong hệ thống

kiến trúc đình Việt Nam.

Ngoài ra, để có thêm tƣ liệu đối sánh về các trang trí điêu khắc, tôi sẽ

sử dụng cả các tƣ liệu mỹ thuật cổ (điêu khắc và đồ họa) trên các chất liệu

khác. Đó là những đồ án trang trí trên đồ gốm, đồ sứ, đồ đá và gạch trang trí

kiến trúc có ghi niên đại chính xác của thế kỷ XVII, XVIII, XIX.

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Sử dụng các phƣơng pháp của khảo cổ học trong khảo sát điền dã

thực địa là các thao tác lấy tƣ liệu bằng: đo, vẽ, chụp ảnh, rập thác bản hoa

văn và văn bia. Trong nghiên cứu là cách khảo tả, so sánh, phân tích và tổng

hợp về nghệ thuật, kết cấu kiến trúc và nghệ thuật trang trí.

4.2. Kết hợp liên ngành, nhƣ sử dụng các phƣơng pháp, thao tác của

Hán Nôm, nghệ thuật, kiến trúc.

4.3. Phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét,

nhìn nhận các sự việc, hiện tƣợng và sự kiện lịch sử.

5. Kết quả và đóng góp của luận văn

5.1. Hệ thống hoá tƣ liệu về đình Tình Quang.

5.2. Phân tích, nêu bật các giá trị về kiến trúc, điêu khắc trang trí của

đình Tình Quang.

5.3. Cung cấp tƣ liệu, thông tin và định ra niên đại khởi dựng của đình

Tình Quang.

5.4. Cung cấp tài liệu phục vụ cho công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy

11

giá trị di tích.

6. Bố cục của luận văn

Luận văn ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn

gồm 03 chƣơng:

- Chƣơng 1: Tổng quan tƣ liệu;

- Chƣơng 2: Kiến trúc đình Tình Quang;

- Chƣơng 3: Nghệ thuật điêu khắc, trang trí và định hƣớng bảo tồn, phát

huy giá trị đình Tình Quang.

Ngoài ra, trong luận văn còn các mục: Tài liệu tham khảo và Phụ lục.

Phần đầu của luận văn có Lời cam đoan, Mục lục, Danh mục các chữ viết tắt

12

và Danh mục phụ lục.

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TƢ LIỆU

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Đình làng là một công trình kiến trúc đƣợc coi là lớn nhất của làng xã,

là một trung tâm văn hóa truyền thống của cộng đồng. Ngôi đình làng Việt là

một đối tƣợng của nhiều nhà nghiên cứu để tìm hiểu về văn hóa nghệ thuật

truyền thống của dân tộc và góp phần giới thiệu với công chúng những giá trị

văn hóa nghệ thuật của ông cha.

Vào những năm đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu của Học viện

nghiên cứu Viễn Đông thuộc Pháp là những ngƣời đầu tiên đã chú ý đến các

ngôi đình làng của ngƣời Việt.

Nghiên cứu dƣới góc độ nghệ thuật kiến trúc, Louis Bezacier trong

công trình L’Art Viêtnamien đã viết: Đình làng là trung tâm toàn bộ xã hội

Việt Nam thời cổ, cũng là nơi ít chịu ảnh hƣởng của phong cách kiến trúc

Trung Hoa nhất... Ngôi đình đã trở thành một trong những công trình có vẻ

oai nghiêm nhất trong phong cảnh Việt Nam [87].

Có thể thấy rằng, ở thời kỳ đầu, các nhà nghiên cứu chú trọng nhiều

hơn về vấn đề tôn giáo - tín ngƣỡng. Ngôi đình làng đƣợc nhìn nhận nhƣ là

một dấu vết đang phôi phai của chế độ quân chủ. Cho đến những năm 70 - 80

của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ thuộc Viện Mỹ thuật Việt

Nam đã tiếp nối việc nghiên cứu đình làng. Đó là các bài viết của Trần Lâm

Biền, Nguyễn Tiến Cảnh, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Du Chi, Trần Mạnh

Phú, Chu Quang Trứ, Thái Bá Vân… Ngôi đình làng đƣợc nhấn mạnh, ca

ngợi nhƣ một điểm sáng của nghệ thuật dân gian Việt. Trong thời kỳ này đã

xuất hiện một thuật ngữ khoa học mới điêu khắc đình làng. Các nghiên cứu

13

điền dã đó đã làm “sống lại” hàng loạt ngôi đình khắp các làng quê Việt Nam.

Cũng từ góc độ mỹ thuật, hai nhà nghiên cứu Nguyễn Quân và Phan Cẩm

Thƣợng đã góp một tiếng nói về nghệ thuật của ngƣời Việt với đình làng.

Thời kỳ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, với một loạt bài viết trên

Tạp chí Khảo cổ học và Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, cố PGS.TS Trịnh

Cao Tƣởng đã đi sâu hơn về nhiều vấn đề của đình làng nhƣ: Các tƣ liệu về

niên đại, đất dựng đình, mặt bằng tổng thể, cấu trúc bộ mái, kết cấu bên trong

ngôi đình với vấn đề dân tộc và hiện đại cùng hình tƣợng kiến trúc của ngôi

đình. Công trình khảo cứu về Đình Việt Nam của GS Hà Văn Tấn cùng các

cộng sự cũng là nguồn tài liệu mà những ngƣời đi sau muốn tìm hiểu, nghiên

cứu về đình đều lấy đó để làm tài liệu tham khảo.

Nhƣ vậy, đến thời kỳ này, các ngôi đình làng trên cả nƣớc, với niên đại

trải dài suốt từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX đã đƣợc phát hiện hoặc nhìn nhận

lại dƣới những góc độ khác nhau. Trong khoảng hơn một thế kỷ, có rất nhiều

nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc đã khảo cứu, tìm hiểu về ngôi đình làng

Việt, cũng từ đây đã nảy sinh nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau về lịch sử,

nguồn gốc của ngôi đình.

Theo Từ điển tiếng Việt, đình có nghĩa là: “Nhà công cộng của làng

thời trước, dùng làm nơi thờ thành hoàng và họp việc làng (thường là nhà to,

rộng nhất làng)” [46, tr. 324].

Trong nhận thức của nhiều ngƣời, khi nói đến ngôi đình, ngƣời ta nghĩ

ngay tới kiến trúc lớn nhất của làng xã, đồng thời, cũng có thể coi đây là một

kiến trúc bắt nguồn từ thời Tiền sử, Sơ sử của dân tộc. Nhiều nhà nghiên cứu

của thế kỷ XX đã cố công ngƣợc dòng lịch sử để tìm về nguồn gốc của ngôi

đình, họ đã tiếp cận từ góc độ các vị thần linh liên quan, trên cả phƣơng diện

so sánh kiến trúc với những ngôi nhà có nét tƣơng đồng của tộc ngƣời thiểu

14

số để gần nhƣ tin rằng ngôi đình của ngƣời Việt là một sản phẩm của sự vận

động tự thân dân tộc, là sự tổng hòa của nhiều dòng chảy văn hóa nhƣ: nhà

sàn, nhà rông (Tây Nguyên), nhà thuyền ven biển cùng nhiều yếu tố khác.

Nhiều nhà nghiên cứu của Học viện nghiên cứu Viễn Đông thuộc Pháp

đã liên hệ, so sánh và cho rằng có sự tƣơng đồng của đình làng Việt với

những kiến trúc công cộng khác của các dân tộc ít ngƣời ở Tây Nguyên và

vùng Đông Nam Á. Đồng quan điểm này, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn

Huyên cho rằng, đình làng giống kiểu thức nhà công cộng của cƣ dân Minang

Kabau (đảo Sumatra). Nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc cũng liên tƣởng

đình làng Việt với kiểu nhà sàn Malayo mà giáng dấp còn lƣu lại ở một tộc ít

ngƣời hiện còn sống ở phía Nam quần đảo Nhật Bản [45]. Cố PGS.TS Trịnh

Cao Tƣởng đã viết: “Hầu như tất cả những người nghiên cứu đình làng đều

có một dự cảm chung rằng: đình làng đã từng tồn tại trong nền văn hoá Việt

cổ từ hàng ngàn năm trước với tư cách là một căn nhà công cộng - nhà làng,

tương tự như nhà rông của đồng bào Bana” [68, tr. 41-51]. Nhƣng cũng theo

ông thì: “… chúng ta chưa có bất cứ một tư liệu khảo cổ học về đình hoặc là

một hình thức gạch nối giữa nhà làng và cái đình” [68, tr. 41-51]. Cố PGS

Nguyễn Du Chi có ý kiến: “Tuy nhiên, từ ngôi nhà sàn mái cong khắc trên

trống đồng Đông Sơn mà được nhiều nhà nghiên cứu coi như tiền thân xa xôi

của ngôi đình làng thời Mạc mà chúng ta còn thấy ngày nay là một dấu gạch

nối dài đòi hỏi những phát hiện tìm tòi của nhiều nhà khoa học nữa mới có

thể đi đến kết luận rõ ràng được” [17, tr.12].

Cũng có ngƣời suy luận theo một ngữ nghĩa của chữ đình là dừng lại,

cho rằng đình có xuất phát từ đình trạm. Hay nhƣ khi dời đô từ Hoa Lƣ ra

Thăng Long, nhà Lý đã bắt dân vùng ven sông Đáy cứ 10 dặm lại dựng một

đình cho vua nghỉ và kiến trúc này trở thành đình làng. Trong khi đó, PGS.TS

Trần Lâm Biền lại nhìn nhận ngôi đình làng nhƣ một sản phẩm của sự giao

15

thoa, hòa hợp giữa tƣ tƣởng Nho giáo và nhu cầu xã hội có tính dân giã để từ

đó định mốc niên đại ra đời của ngôi đình làng là vào cuối thế kỷ XV. Theo

ông, đình làng khởi nguyên là: “một nhà công cộng để nghỉ chân (đình

chạm)” rồi “có những ngôi đã trở thành kiến trúc công cộng của làng xã” [5,

tr. 38-43, 53].

Thực tế, trong lịch sử đã từng tồn tại nhiều loại đình khác nhau: “Tương

truyền, vào thời Đinh và Tiền Lê (968 - 980 và 980 - 1009), sứ giả các vùng và

các lân quốc thường đi thuyền về kinh đô, lên nghỉ tại Dịch Đình này trước khi

được vào bệ kiến. Tuy vậy, từ những căn cứ nêu trên cũng chỉ có thể suy luận

rằng Dịch Đình là tiền thân của kiến trúc Quán Sứ về sau” [33, tr. 2].

Văn bia chùa Linh Xứng, dựng năm 1126 có ghi: “Kế bên sông có cái

đình nhỏ. Thường thuyền bè qua lại đó để nghỉ ngơi” và cho đến nay, có lẽ

đây văn bản cổ Việt Nam đầu tiên có chữ đình (亭).

Một loại kiến trúc cũng đƣợc gọi là “đình” đƣợc đề cập tới là vào triều

Lý. Đại Việt sử ký toàn thƣ chép: “Bính Tý, [Đại Định] năm thứ 17 [1156].

Làm hành cung Ngự Thiên, điện Thụy Quang, gác Ánh vân, cửa Thanh Hòa,

thềm Nghi Phượng, gác Diện Phỳ, đình Thưởng Hoa, thềm Ngọc Hoa, hồ Kim

Liên, cầu Minh Nguyệt” [21, tr. 145].

Thƣởng Hoa đình này hẳn là tòa nhà để vua quan dừng chân nghỉ ngơi,

thƣởng thức vẻ đẹp của hoa và có lẽ nó cũng tƣơng tự nhƣ loại Lan đình đƣợc

Đại Việt sử ký toàn thƣ nhắc tới dƣới thời Trần: “Mậu Thìn, [Thiệu Long]

năm thứ 11 [1269]. Mùa Xuân, tháng giêng, ... xuống chiếu cho các vương

hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào trong điện và Lan đình. Vua cùng ăn uống

với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê

giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau.”.

Cũng Đại Việt sử ký toàn thƣ ghi sự kiện năm 1231: “Thượng hoàng

16

xuống chiếu rằng trong nước hễ chỗ nào có đình Trạm đều phải đắp tượng

phật để thờ. Trước đây, tục nước ta vì nóng bức, nên làm nhiều đình cho

người đi đường nghỉ chân, thường quét vôi trắng, gọi là đình Trạm. Thượng

hoàng khi còn hàn vi từng nghỉ ở đó...” [21, tr. 163].

Cƣơng Mục cũng ghi về sự kiện này nhƣng không gọi là đình Trạm mà

gọi là Dịch đình [52]. Nhƣ vậy, loại kiến trúc này cũng ít nhất phải có từ thời Lý.

Trịnh gia thế phả đã cung cấp cho chúng ta tên gọi một loại đình khác

đó là đình Mục Đồng. Theo sách này cho biết thì, thủa hàn vi Trịnh tổ thủa

nhỏ đi chăn trâu bao giờ cũng đóng vai trò thủ lĩnh trong đám trẻ mục đồng.

Có thể, nó cũng tƣơng tự nhƣ một dạng quán nghỉ giữa đồng, ven đƣờng,

vẫn còn đây đó tại các vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Đó thƣờng là

những ngôi nhà nhỏ, ba gian (có chái hoặc không chái), đƣợc dựng dƣới bóng

cây lớn, là nơi mọi ngƣời có thể dừng chân nghỉ ngơi tránh mƣa, nắng.

Rõ ràng Dịch đình, đình Trạm, Lan đình, Thƣởng Hoa đình hay đình

Mục Đồng là một loại kiến trúc hoàn toàn khác, không thể giống những ngôi

đình làng nhƣ ta vẫn thấy hiện nay. Thậm chí đình làng còn ngƣợc lại hẳn với

đình Trạm. “Trên một cái kẻ của đình làng Phù Lưu (Bắc Ninh) còn ghi:... kẻ

nào cho khách đi đường và bọn công thương trú ngụ (ở trong đình) thì xin

thần linh tru diệt” [78, tr. 82].

Sang thế kỷ XV, dƣới thời Lê sơ, một loại đình đƣợc nhà nƣớc cho

dựng ở kinh đô, dùng làm nơi niêm yết, ban bố chính lệnh: đình Quảng Văn.

Sách Cƣơng mục chép: “Tháng 10, mùa đông (năm Tân Hợi 1491) dựng đình

Quảng Văn. Trước đây, khi nào có chiếu lệnh của nhà vua ban ra, lúc ấy mới

đem treo bảng yết thị. Đến nay, dựng đình ở ngoài cửa Đại Hưng làm nơi

treo những pháp lệnh về việc chính trị. Khi đình ấy đã lạc thành, nhà vua đặt

tên cho là đình Quảng Văn”. Đại Việt sử ký toàn thƣ cũng ghi về sự việc này

17

và chú thích thêm: Quảng Văn nghĩa là truyền bá rộng: “Đình này ở trong

Long thành, phía trước Phụng Lâu, có ngòi Ngân Câu chảy quanh hai bên tả

hữu” [21].

Chúng ta chƣa thấy có nét tƣơng đồng giữa đình Quảng Văn với những

ngôi đình làng hiện nay. Tuy nhiên, những tƣ liệu khác cho phép chúng ta

nghĩ rằng đình làng đã xuất hiện dƣới thời Lê sơ (thế kỷ XV) - giai đoạn Nho

giáo đƣợc đề cao ở nƣớc ta. Đại Việt sử ký toàn thƣ chép sự kiện năm 1522:

“Bọn Hưng Hiền bốn người mang mộc, cầm giáo từ phường Phục Cổ đánh

thẳng vào Điện Thụy Quang. Vua bèn tránh ra đóng ở đình cũ xã Nhân Mục”

[21]. Điều này cũng phù hợp với tên một tấm bia ở đình Yên Mô (Ninh Bình)

có niên đại 1472: “Yên Mô xã đình bi ký” [78, tr. 83].

Thông qua các tài liệu, có thể thấy đƣợc trong lịch sử đã từng tồn tại

nhiều loại kiến trúc có tên gọi chung là đình: ngôi nhà vuông - Phƣơng đình;

kiến trúc có mái tròn - Viên đình; nhà trên mặt nƣớc - Thủy đình; nơi nhàn

tản - Hoa đình, Lƣơng đình; nhà che bia - Bi đình; cầu có mái - Kiều đình; rồi

Trạm đình, Quán đình, Dịch đình. Tất cả đều hàm nghĩa là một ngôi nhà, một

công trình, một đơn nguyên. Điểm khác nhau chỉ là về hình dáng và công

năng. Nếu nhìn nhận theo ngôn ngữ học thì tính từ chỉ rõ sự khác nhau của

các kiến trúc này thƣờng đứng trƣớc. Cấu trúc cũng cho thấy nguồn gốc

Trung Hoa của các kiến trúc đó. Nhƣng đình làng (hay hiểu một cách chính

xác hơn đình của làng) thì rõ ràng là một từ thuần Việt. Các ngôi đình làng

nên đƣợc hiểu là một kiến trúc độc lập, không có nguồn gốc từ bất kỳ một

công trình nào khác có cùng tên gọi. Nghĩa là đình làng là đình làng và kiến

trúc này chỉ là mƣợn tên chứ không hề có nguồn gốc Hán hay ngoại lai [38].

Nhƣ vậy, về nguồn gốc ra đời của ngôi đình làng còn nhiều ý kiến khác

nhau, nhƣng theo nhận xét của GS Hà Văn Tấn... “mặc dù còn thiếu chứng

cứ, ta tin rằng đình - ngôi nhà chung của làng xã đã xuất hiện từ lâu đời, nếu

18

không phải là thời Tiền sử thì cũng là thời Sơ sử của dân tộc. Tất nhiên là

thời đó, chưa được gọi là đình, một từ vay mượn của Trung Hoa” [55, tr. 20].

Tới cuối thế kỷ XV, cùng với sự phát triển của lịch sử, của ý thức hệ Nho

giáo, ngôi đình làng - sản phẩm kiến trúc thuần Việt nhất đã ra đời. Tuy

nhiên, dấu vết vật chất của loại hình kiến trúc này đến nay mới chỉ đƣợc tìm

thấy ở thế kỷ XVI và với niên đại “tu lý” năm 1531 khắc trên cột cái, đình

làng Thụy Phiêu (Ba Vì, Hà Tây cũ) hiện đƣợc coi là ngôi đình cổ nhất nƣớc

[74]. Ngoài đình làng Thụy Phiêu, hiện còn một số ngôi đình làng khác vẫn

bảo tồn đƣợc những yếu tố về mặt niên đại, phong cách nghệ thuật thế kỷ

XVI, cho phép chúng ta nghĩ rằng ở giai đoạn này, ngôi đình đã thành một

thực thể văn hoá của làng xã.

Nếu ở thế kỷ XVI, đình làng còn thƣa thớt thì sang những thế kỷ sau,

các ngôi đình làng đã xuất hiện ngày càng nhiều và giai đoạn cuối thế kỷ

XVII đƣợc coi là giai đoạn “bùng nổ” của những ngôi đình làng Việt và trở

thành một kiến trúc to lớn nhất trong mỗi làng quê của ngƣời Việt.

Thế kỷ XVIII, XIX và đầu XX, đình làng vẫn là những công trình to

lớn nhất của cả làng và ngày càng phát huy mạnh hơn chức năng ban đầu, đó

tụ hội họp của cộng đồng làng khi có việc chung. Nhiều ngôi đình làng ra đời

là sản phẩm do sự bảo trợ của tầng lớp tiểu thƣơng nhiều tiền của, nhƣ đình

làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), đình làng Lại Yên (Hoài Đức, Hà Tây

cũ). Cũng từ giai đoạn này, Thành hoàng đƣợc thờ trong Hậu cung bao kín,

cách biệt, tạo nên sự thâm nghiêm, xa cách dân thƣờng và thần nhƣ “thiêng”

hơn trong con mắt ngƣời dân.

Dƣới góc độ kiến trúc, từ thế kỷ XVIII, các công trình nhƣ Tiền tế, Tả

vu, Hữu vu dần xuất hiện, tạo cho mặt bằng tổng thể của ngôi đình càng ngày

càng phức tạp, theo xu hƣớng phân biệt tầng lớp. Bên cạnh đó, do hoàn cảnh

đặc biệt của dân tộc ta, nhiều ngôi đình làng (cũng nhƣ những di tích cổ

19

truyền khác), trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân đã trở thành những

cơ sở cách mạng, nơi nuôi giấu và phát động những phong trào đấu tranh yêu

nƣớc ở từng địa phƣơng. Điển hình trong số đó phải kể tới đình làng Đình

Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), đình Võ Liệt (Thanh Chƣơng, Nghệ An), đình

Liên Trì (Yên Thành, Nghệ An)... Những ngôi đình làng đó đã thành địa chỉ

đỏ, nơi giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng, uống nƣớc nhớ nguồn cho

các thế hệ con cháu mai sau…

1.2. Không gian, vị trí đình Tình Quang

Làng Tình Quang hiện nay thuộc phuờng Giang Biên, quận Long Biên,

thành phố Hà Nội. Phƣờng Giang Biên là một đơn vị hành chính đƣợc chuyển từ xã lên phƣờng (năm 2004) với diện tích trên 4km2 (trƣớc nữa là xã Giang

Biên thuộc huyện Gia Lâm). Nằm ở phía Đông Bắc của quận Long Biên,

phƣờng Giang Biên cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 10km về phía

Bắc, có vị trí địa lý phía Bắc giáp cầu Đuống và khu nhà máy Diêm Gỗ; phía

Tây giáp phƣờng Việt Hƣng; phía Đông giáp phƣờng Phúc Lợi; phía Nam

tiếp giáp sông Đuống.

Gia Lâm, vào thời Hùng Vƣơng, thuộc bộ Vũ Ninh của nƣớc Văn

Lang. Theo Đại Việt sử ký toàn thƣ, Gia Lâm đƣợc lập thành một quận và có

tên chính thức từ thời Lý. Đến thời Trần, quận Gia Lâm đƣợc đổi thành huyện

thuộc lộ Bắc Giang. Ở thời Lê thuộc phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc. Năm thứ 3,

niên hiệu Minh Mệnh (1822) thuộc phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh. Thời kỳ

Pháp thuộc, đây vẫn thuộc tỉnh Bắc Ninh, đến năm 1961 chính thức về Hà

Nội. Làng Tình Quang (nay là cụm dân cƣ Tình Quang) là một trong những

ngôi làng cổ có lịch sử tồn tại lâu đời của vùng đất Gia Lâm xƣa và nay là

quận Long Biên.

Tình Quang, có nghĩa là: Ánh sáng sau cơn mưa hay: Sau cơn mưa trời

20

lại sáng. Còn theo lời các cụ truyền lại thì tên Tình Quang có xuất xứ từ một

lần Công chúa Ngọc Hân về thăm quê ngoại ở Ninh Hiệp, khi qua đây thấy

trời hửng nắng nên đã đặt tên cho làng là Tình Quang.

Làng Tình Quang còn có tên Nôm là Kẻ Vịa, tức là chỉ làng quê vùng

ven sông nƣớc. Xƣa kia, sông Thiên Đức bắt nguồn từ sông Hồng, ở làng

Xuân Canh chảy qua Hoa Lâm, Yên Thƣờng (Đông Ngàn), Phù Ninh (Tiên

Du), làng Vịa, làng Tạnh, Cổ Bi, Siêu Loại (Gia Lâm) rồi đổ ra sông Lục

Đầu. Năm 1865, vua Tự Đức cho đào con sông Đuống để phân dòng nhằm

giảm áp lực nƣớc sông Hồng lên Thăng Long. Sông đào qua giữa làng Vịa

làm mất dòng sông Thiên Đức và chia làng Vịa ra làm hai khối, sau phát triển

thành hai làng là: làng Vịa lớn tức Tình Quang bên bờ Nam sông Đuống và

làng Vịa con tức là Cống Thôn hay còn gọi là làng Vịa Cống. Tình Quang tồn

tại nhƣ một xã độc lập, đến năm 1955 sát nhập cùng với xã Quán Tình thành

xã Giang Biên. Từ đó đến năm 2004, Tình Quang và Quán Tình là hai thôn

thuộc xã Giang Biên, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Nay, là cụm dân cƣ

Tình Quang, phƣờng Giang Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

1.3. Nhân vật được thờ tại đình Tình Quang

1.3.1. Tìm hiểu về Thành hoàng và Thành hoàng làng

Dƣới xã hội quân chủ phong kiến, đình làng đảm nhận hai chức năng chính: Nơi ban bố chính lệnh của triều đình và thờ cúng Thành hoàng. Tuy

nhiên, ngày nay, khi nghiên cứu sâu hơn, nhiều học giả đã thống nhất đình

làng có ba chức năng cơ bản: Đình làng là trung tâm văn hoá của cộng đồng cƣ

dân ở xã thôn; Đình làng là một trung tâm tín ngƣỡng (thờ cúng Thành hoàng);

Đình làng là trung tâm sinh hoạt chính trị, xã hội của làng. [74, tr. 33-38].

Thậm chí, khi triều đình không với tay đƣợc tới các làng xã, khi “phép

vua thua lệ làng” thì những chức năng trên vẫn tồn tại. Các nhà nghiên cứu

văn hóa dân gian đa số có ý kiến là không phải ngay từ đầu đình làng đã đƣợc

21

dựng lên để thờ Thành hoàng. Buổi đầu đình làng ra đời do nhu cầu cần nơi

cúng lễ để “năm tháng cầu khấn cho dân vinh, vật thịnh”, hay “đình giả dân

an định dã” (đình là nơi mà nhờ đó dân đƣợc yên định) [76, tr. 62-68, 73]. Có

tế lễ cầu khấn, sẽ có tổ chức hội hè, phân bổ công việc và thành phần dự họp

là các quan viên hƣơng lão, chức sắc trong thôn. Từ nơi hội họp đó, đình làng

đảm nhiệm chức năng quyền lực của làng (xử kiện, phạt vạ, đốc thúc sƣu

thuế) và khi chính quyền trung ƣơng tập quyền với tay xuống làng xã, việc

thờ phụng trong dân gian dần đi vào quỹ đạo của nhà nƣớc [76, tr. 62-68, 73].

Nhƣ vậy, buổi đầu đình làng chỉ là nơi diễn ra các hoạt động tế lễ, cầu phúc

của dân làng và gắn liền với nó là chức năng hành chính, quyền lực của làng

xã. Qua thời gian, đình làng mới đảm nhận thêm chức năng tôn giáo, tín

ngƣỡng [76, tr. 62-68].

Lần đầu tiên, khái niệm Thành hoàng ở nƣớc ta đƣợc nhắc đến trong

Việt điện u linh. Theo gốc gác Trung Hoa, Thành là bức tƣờng bao quanh

thành phố, hoàng là cái hào bao quanh bức tƣờng. Vì những lẽ đó, tác giả

Bình Nguyên Lộc cho rằng: “gọi thần của ta là thần Thành hoàng là sai. Ta

không có thành phố nào thời cổ, còn làng ta không hề có thành quách lớn nhỏ

bao giờ.” [45]. Những ý kiến nhận định của Bình Nguyên Lộc có phần chƣa

đúng, vì thực tế ở nƣớc ta, thần sông Tô Lịch cũng đã đƣợc Cao Biền rồi Lý

Thái Tổ tôn là thần phù trì thành Đại La - Thăng Long. Tiếp đó, vào thế kỷ

XV, năm 1449 Lê Nhân Tông bắt đầu thờ Đô Đại Thành hoàng, tức thần

Thành Hoàng kinh đô Thăng Long. Năm 1809, Nguyễn Ánh cho lập miếu

Thành Hoàng ở bờ phải kinh thành Huế, chính giữa thờ Đô Thành hoàng, trái

phải thờ Thành hoàng các trấn. Ngoài ra, các vua triều Nguyễn còn lập miếu

Thành hoàng ở các tỉnh và huyện [45, tr. 50].

Có thể thấy rằng những vị thần đƣợc thờ ở đình làng Việt, che chở cho

các làng Việt đều đƣợc gọi là Thành hoàng làng và đƣợc coi là những vị Phúc

22

thần. Đại đa số các Thành hoàng làng đều đƣợc các triều vua phong tƣớc, ban

sắc. Nhƣ vậy, bên cạnh mô hình Thành hoàng giống nhƣ Thành hoàng Trung

Hoa, là những vị thần phù trợ các thành trì, còn có Thành hoàng đƣợc thờ ở

đình làng nhƣ những vị thần của làng. “Rõ ràng trong Thành hoàng Việt Nam

có hai dòng khác biệt. Một dòng mang đậm gần nguyên xi mô hình Đường -

Minh: hệ thống Thành hoàng cả nước, tỉnh, huyện, đó là những vị thần vô

danh tối linh, không có thần tích nhân bản, thậm chí cũng không phải là một

thiên thần... Dòng thứ hai là Thành hoàng làng. Đó mới là dòng chủ thể phản

ánh bản chất tư duy tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam” [25, tr. 97].

Có thể thấy, khi đạo Nho phát triển mạnh dần từ thế kỷ XIV, sang thế

kỷ XV cùng với ý thức hệ học theo hình mẫu phong kiến phƣơng Bắc, hệ tƣ

tƣởng này đã tạo điều kiện thuận lợi để Thành hoàng đƣợc làng xã hóa theo tƣ

duy nông nghiệp. Các Thành hoàng đều là những thần linh bản địa, vƣợt qua

chức năng khởi thủy để mang một chức năng đa diện của tƣ duy dân dã Việt.

Tới việc phát hiện ra sắc mang niên đại Sùng Khang 1574 tại đình làng Tử

Dƣơng (Ứng Hòa - Hà Tây cũ) thì có thể thấy sang thế kỷ XVI, chức năng thờ

cúng Thành hoàng đã trở nên phổ biến trong các ngôi đình làng Việt.

1.3.2. Nhân vật được thờ tại đình Tình Quang

Nhƣ đã trình bày, tín ngƣỡng thờ Thành hoàng bắt nguồn từ Trung

Hoa, du nhập vào nƣớc ta từ rất sớm. Thành hoàng vốn là vị thần của thành

trì, đƣợc thờ ở các thành cổ, đô thị cổ của Trung Hoa. Ngƣời ta quan niệm đó

là vị thần lửa, luôn ngự trị trên các bức tƣờng thành vì thế phải thờ cúng ngài

để cầu mong cho thành không bị cháy. Lại cũng có ý kiến cho rằng: Thành

hoàng là vị thần ở cổng thành, bảo vệ bình an cho nhân dân phía trong thành.

Ở đâu có thành, đào hào, ở đó có Thành hoàng. Tín ngƣỡng này đƣợc truyền

sang Việt Nam và đã đƣợc các triều đình phong kiến phỏng theo. Ví dụ nhƣ

23

thần sông Tô Lịch đƣợc phong là Thành hoàng từ thế kỷ thứ IX, đến năm

1010 lại đƣợc Lý Thái Tổ phong là Quốc đô Thành hoàng Đại Vƣơng. Hay

nhƣ nhà Nguyễn khi rời đô vào Huế cũng lập đền thờ Thành hoàng.

Tuy nhiên, ảnh hƣởng của việc thờ thần cai quản thành trì này ở nƣớc

ta không thực sự sâu đậm và không kéo dài. Khi về đến các làng xã, tín

ngƣỡng này không còn giữ nguyên gốc mà có sự tiếp thu, tiếp biến văn hoá,

hay nói cách khác đây chính là dòng chủ thể đã đƣợc Việt hoá, phù hợp với

những đặc tính tâm lý tín ngƣỡng của cƣ dân bản địa. Ở mỗi làng đều có vị

thần riêng cai quản, bảo vệ và đƣợc suy tôn là Thành hoàng làng.

Thành hoàng làng trong tín ngƣỡng của ngƣời Việt cũng khá đa dạng

và phong phú. Đa dạng cả về bản chất, giới tính, nguồn gốc cũng nhƣ số

lƣợng. Có vị là thiên thần, có vị là nhân thần, nhiên thần. Đa số các vị thần là

Phúc thần nhƣng cũng có vị là Ác thần. Có làng trƣớc đây thờ một thần sau

đó thờ thêm nhiều thần, hoặc có thể thay thế bằng một vị thần khác. Điều này

đã tạo nên các lớp văn hoá tích hợp trong tín ngƣỡng cổ xƣa của ngƣời Việt.

Trở lại với các vị Thành hoàng đình Tình Quang, đình thờ ba vị Thành

hoàng, gồm: Lý Bí - Lý Nam Đế, Đinh Điền và Lý Chiêu Hoàng. Đó là

những nhân vật rất tiêu biểu trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc

ta. Về nguồn gốc, công trạng của các ngài, sử sách có ghi chép lại nhƣ sau:

Lý Bí - Lý Nam Đế (503 - 548): Theo Đại Việt sử ký toàn thƣ (Kỷ nhà

tiền Lý ghi): Vua họ Lý, húy là Bôn, ngƣời Thái Bình, phủ Hƣng Long. Tổ

tiên là ngƣời Bắc, cuối thời Tây Hán, khổ về việc đánh dẹp mới tránh sang đất

phƣơng Nam đƣợc 7 đời thì thành ngƣời Nam. Vua có tài văn võ, trƣớc làm

quan với nhà Lƣơng, gặp hoạn nạn trở về Thái Bình. Bấy giờ các thủ lĩnh tàn

bạo, hà khắc, ngƣời Lâm Ấp cƣớp biên giới, vua dấy binh đuổi đánh, xƣng

làm Nam đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên.

Sách Lịch sử Việt Nam, Tập 1, Nxb KHXH năm 1971, ghi tiếp về thân

24

thế, sự nghiệp của Lý Bí theo những nét chính mà Đại Việt sử ký toàn thƣ đã

nêu và diễn giải thêm: Lý Bí là ngƣời ở Hƣng Long (tỉnh Thái Bình), là ngƣời

có tài văn võ. Ông có ra làm quan với nhà Lƣơng ít lâu, lĩnh chức giám quân

(trông coi việc quân) ở Châu Đức (Hà Tĩnh). Yêu nƣớc thƣơng dân, bất bình

với bè lũ đô hộ, ông từ quan về quê. Từ đó ông chuyên chú vào việc chuẩn bị

khởi nghĩa, chống ách đô hộ nhà Lƣơng ở thế kỷ thứ VI. Trong nhiều năm

ông đặt quan hệ với hào kiệt các châu, chiêu tập hiền tài, tụ họp nghĩa binh

cùng họ bàn mƣu tính kế, chuẩn bị khởi nghĩa. Thủ lĩnh Triệu Túc cùng con

là Triệu Quang Phục, phục tài đức Lý Bí đem dân binh theo Lý Bí trƣớc tiên,

tiếp theo là Tinh Thiều, Phạm Tu, Lý Phục Man và rất nhiều hào kiệt các nơi

khác cũng cùng kết đồng chí.

Lƣơng thƣ và Trần thƣ (sử của nhà Lƣơng, nhà Trần) chép về Lý Bí có

ghi: “Liên kết với hào kiệt các châu đồng thời làm phản”.

Tháng Giêng năm 542, đánh đuổi Thứ sử nhà Lƣơng là Tiêu Tƣ, giải

phóng đất nƣớc. Mùa Xuân, tháng Giêng năm 544, Lý Bí tuyên bố dựng

nƣớc, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, ông lên ngôi Hoàng đế, xƣng là Nam Đế

(vua nƣớc Nam). Đặt niên hiệu là Đại Đức, đóng đô ở Long Biên. Ông cho tổ

chức triều đình riêng với hai ban Văn Võ. Phạm Tu vị tƣớng vừa chiến thắng

ngoại xâm đƣợc đứng bầu ban Võ. Tinh Thiều là một nhà Nho đƣợc cầm đầu

ban Văn. Ông cho xây dựng một ngôi chùa mới lấy tên là chùa Khai Quốc

(mở nƣớc). Nhớ ơn vị anh hùng tiền bối, Lý Nam Đế đã ban sắc phong thần

cho Bà Triệu.

Việc xƣng đế và dựng nƣớc độc lập Vạn Xuân của Lý Nam Đế đã nói

lên lòng tự tin vững chắc của nhân dân ta ở khả năng có thể tự mình vƣơn lên,

phát triển một cách độc lập. Đó là sự phủ định ngang nhiên quyền làm “Bá

chủ toàn thiên hạ” của hoàng đế phƣơng Bắc, vạch rõ sơn hà, cƣơng vực,

cũng là sự khẳng định dân tộc Việt Nam là một dân tộc, là chủ nhân của đất

25

nƣớc và vận mệnh của mình.

Năm 545, nhà Lƣơng tiếp tục sai Trần Bá Tiên đem quân sang xâm

lƣợc nƣớc ta, Lý Bí xây thành luỹ ở của sông Tô Lịch (Hà Nội) để chống giữ,

sau vì thế yếu nên ông lui về Gia Ninh (Bạch Hạc). Sau ông bị đau yếu luôn

nên giao binh quyền cho Triệu Quang Phục, ông mất ngày 20 tháng 3 năm

Mậu Thìn tức ngày 13 tháng 4 năm 548. Tƣởng nhớ công lao của Lý Nam Đế,

khắp nơi nhân dân ta đã lập đền thờ ông theo nghi lễ thờ vua. Riêng miền Bắc

có trên 200 ngôi đình, đền, miếu thờ Lý Nam Đế và các tƣớng của ông. Tại

đình Tình Quang, vào ngày sinh 12 tháng 9 và ngày mất 20 tháng 3 Âm lịch

hằng năm, nhân dân vẫn tổ chức lễ kỷ niệm vị anh hùng dân tộc gắn liền với

tên nƣớc “Vạn Xuân”, niềm tự hào bất diệt của con cháu muôn đời.

Với ngƣời dân Giang Biên, Lý Nam Đế không chỉ là ngƣời anh hùng có

công với nƣớc, ông sống mãi với dân làng còn vì một lẽ sâu xa hơn: Xƣa xã

này có ngƣời là Cao Dƣơng Công theo Lý Nam Đế vào động Khuất Liêu. Khi

về lập miếu thờ, lịch đại bao phong. Nhƣ vậy, ngƣời Giang Biên xƣa cũng đã

từng trực tiếp tham gia cuộc khởi nghĩa của Lý Bí và đã gắn bó với ông tới

những ngày cuối cùng ở động Khuất Liêu.

Đinh Điền (924 - 979): Là một trong những vị tƣớng giỏi của Đinh Bộ

Lĩnh, cùng với danh tƣớng Nguyễn Bặc đã giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 xứ

quân, thống nhất quốc gia, lập nên nƣớc Đại Cồ Việt. Cho đến hiện nay, các

tƣ liệu thành văn không ghi lại đƣợc nhiều về sự nghiệp chi tiết của ông.

Theo truyền thuyết dân gian thì Đinh Điền đã tử trận ở đây, nhân dân

Tình Quang lập đền thờ và sau đó đã suy tôn ông làm thành hoàng làng. Theo

điều tra hồi cố, ở phía sau đình trƣớc đây còn có lăng đá Đinh Điền nhƣng

đến nay đã không còn nữa.

Lý Chiêu Hoàng (1218 - 1278): Bên cạnh những Thành hoàng làng là

nam giới, ở đây còn là thờ một nhân vật là Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng

26

của triều Lý, vua nữ duy nhất trong lịch sử dân tộc.

Lý Chiêu Hoàng sinh năm 1216, có tên là Phật Kim, sau đổi thành

Thiên Hinh, hay còn gọi là công chúa Chiêu Thánh, là con gái thứ của vua Lý

Huệ Tông. Huệ Tông vì không có con trai nên đã xuống chiếu lập Phật Kim

làm thái tử và truyền ngôi cho Lý Chiêu Hoàng mới lên 8 tuổi.

Khoảng cuối tháng 10 năm Ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng nhƣờng

ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Mặc dù công lao, chiến tích không nhiều nhƣng

việc nhƣờng ngôi của Lý Chiêu Hoàng có thể coi là hành động đại nghĩa, hy

sinh lợi ích gia tộc, lợi ích cá nhân vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Nhà Trần lên

thay nhà Lý đã dần dần dẹp yên giặc giã, chỉnh đốn kỷ cƣơng, đƣa thiên hạ

sống trong cảnh thái bình thịnh trị, bà đƣợc trân trọng và đƣợc tôn làm Thành

hoàng ở nhiều nơi vì đã có công giúp dân xây dựng xóm làng. Theo nguồn dã

sử, sau khi từ bỏ triều đình, Lý Chiêu Hoàng đã về làng Tình Quang tu hành,

góp công tu bổ đình chùa, mua ruộng cấp đất cho dân nghèo. Nhớ ơn bà, nhân

dân Tình Quang đã thờ cúng và tôn bà là Thành hoàng của làng.

Trải qua các triều đại phong kiến trong lịch sử, ba vị Thành hoàng của

đình Tình Quang đƣợc phong tặng sắc phong là Thƣợng đẳng thần và vua ban

cho dân dựng miếu thờ, ban cho theo lễ quốc tế để nghi nhận công lao.

Hiện nay, trong đình còn lƣu giữ lại nhiều câu đối, đại tự với nội dung

ca ngợi công ơn của các vị Thành hoàng:

“Vạn Xuân kiến quốc, bát diệp sinh âm, kế thế hoàng gia thiên địa lập.

Đinh thống huân lao, Ái Châu tiết liệt, thần tâm tướng lược cổ kim

truyền”.

Dịch nghĩa:

Dựng nƣớc Vạn Xuân, tám đời sinh phận gái, tiếp nối nghiệp vua giữ

đất trời.

Công lao với nhà Đinh, tiết liệt đất Ái Châu, tƣớng giỏi lòng thiêng

27

truyền cổ kim.

Hoặc nhƣ : “Tam vị tôn thần nhị nam nhất nữ

Song thôn đồng xã vạn cổ thiên thu”

Dịch nghĩa: Ba vị đƣợc tôn thần hai nam một nữ

Hai thôn cùng một xã lƣu mãi ngàn thu.

1.4. Tiểu kết

Trong khoảng hơn một thế kỷ, đình làng Việt đã trở thành đối tƣợng

của nhiều nhà nghiên cứu. Ngôi đình trong các làng xã đƣợc nhấn mạnh, ca

ngợi nhƣ một điểm sáng của nghệ thuật dân gian Việt. Các nghiên cứu điền dã

đó đã làm “sống lại” hàng loạt các đình khắp các làng quê Việt Nam.

Bằng những nghiên cứu đó, các nhà khoa học đã thống nhất Dịch đình,

đình Trạm, Lan đình, Thƣởng hoa đình hay Đình Mục đồng là một loại kiến

trúc hoàn toàn khác, nó không thể giống những ngôi đình làng nhƣ ta vẫn thấy

hiện nay. Về nguồn gốc ra đời của ngôi đình làng, nhƣ ý kiến của GS Hà Văn

Tấn: “mặc dù còn thiếu chứng cứ, ta tin rằng đình - ngôi nhà chung của làng

xã đã xuất hiện từ lâu đời, nếu không phải là thời tiền sử thì cũng là thời sơ

sử của dân tộc. Tất nhiên là thời đó, chưa được gọi là đình, một từ vay mượn

của Trung Hoa” [55, tr. 20]. Tới cuối thế kỷ XV, cùng với sự phát triển của

lịch sử, của ý thức hệ Nho giáo, ngôi đình làng với tƣ cách là một thực thể

văn hóa của làng xã đã ra đời. Tuy nhiên, dấu vết vật chất của loại hình kiến

trúc này đến nay mới chỉ đƣợc tìm thấy ở thế kỷ XVI.

Không phải ngay từ đầu đình làng đã đƣợc dựng lên để thờ Thành

hoàng, buổi đầu đình làng chỉ là nơi diễn ra các hoạt động tế lễ, cầu phúc của

dân làng và gắn liền với nó là chức năng hành chính, quyền lực của làng xã.

Qua thời gian, đình làng mới đảm nhận thêm chức năng tôn giáo, tín ngƣỡng.

Thành hoàng đƣợc đƣa vào thờ trong đình nhƣ một vị Phúc thần.

Với giá trị lịch sử văn hóa nhƣ vậy, nhƣng cho tới nay, trừ một vài bài

28

viết, hình ảnh mô tả một cách khai lƣợc và một khóa luận tốt nghiệp của sinh

viên Trƣờng Đại học Văn hóa Hà Nội (2008) viết về lịch sử, kiến trúc đình

Tình Quang, còn lại tới nay vẫn chƣa có một công trình khảo cứu đầy đủ, cụ

29

thể và toàn diện về di tích này.

Chƣơng 2: KIẾN TRÚC ĐÌNH TÌNH QUANG

2.1. Tìm hiểu về cảnh quan, không gian đình làng

Trong nhận thức của mọi ngƣời, đình là nơi ngự của các vị Thành

hoàng làng đƣợc phong tƣớc vƣơng, vì thế chọn hƣớng đình cũng có phần

khắt khe hơn đối với các loại hình kiến trúc tôn giáo khác. Nếu nhƣ chùa có

thể quay hƣớng Tây, Nam, Bắc…, tùy theo tính chất riêng của từng ngôi

chùa, thì khởi đầu đình phần nhiều phải đạt đƣợc những chuẩn mực của đế

vƣơng, có nghĩa đứng ở vị trí quang đãng, cáo ráo, nơi có cây cối tốt tƣơi, có

hồ, ao hoặc dòng nƣớc tƣơng ứng (cũng nhƣ các loại hình công trình tôn giáo

tín ngƣỡng khác) những nguyên tắc phía trƣớc mặt phải thoáng đãng, cũng

nhƣ trƣớc mặt cung điện không có những kiến trúc cản trở tầm nhìn. Nhƣ vậy,

đình thƣờng ở bìa làng, nhìn ra đồng ruộng mênh mông. Vì đƣợc coi là biểu

tƣợng vƣơng/vua nên thế đất dựng đình nhiều khi đƣợc coi nhƣ nằm ở trên

đầu, lƣng của mảnh đất tụ hình linh vật nhƣ rồng, phƣợng, lân... Thế của đình

còn chú ý đến những đồi, gò ở phía xa chầu về. Sau lƣng có thế tựa, bất kể đó

là núi ở gần hoặc xa. Và, cũng chú ý đến Tả Thanh Long (Đông), Hữu Bạch

Hổ (Tây), một Âm, một Dƣơng, một cho đất, một cho trời để khẳng định về

hƣớng của thánh nhân. Đồng thời là sự hội tụ của trí tuệ chầu về cửa thánh,

nhằm tạo sức linh cho Thành hoàng làng.

Về mặt không gian, có thể coi đình làng là một kiến trúc lớn nhất của

làng (tuy khuôn viên có khi còn nhỏ hơn khuôn viên chùa), là một trung tâm

văn hóa ở làng quê. Nhƣ phần trên đã trình bày, chúng ta có thể thấy rằng,

nếu đi từ ngoài làng vào đến đình là đã đi qua nhiều không gian khác nhau. Ta

tạm coi đồng ruộng còn mang tính tự nhiên, đó là không gian thứ nhất. Đến

ven làng là bắt đầu tiếp xúc với không gian cƣ trú, tạm gọi là không gian nửa

30

tự nhiên nửa văn hóa. Vào làng là không gia thứ ba, tức không gian văn hóa,

nhà ở chứa đựng không gian văn hóa đậm đặc. Nhƣ thế, kiến trúc tôn giáo là

“trung tâm” trong không gian văn hóa đậm đặc. Ở những nơi này thƣờng tập

trung nhiều tinh hoa văn hóa nhất để ứng xử với các thần linh. Tuy nhiên,

trong mỗi loại hình kiến trúc có cách ứng xử khác nhau, mà một biểu hiện

ngay từ bên ngoài là cách sử dụng cây cối. Về nguyên tắc trong kiến trúc cổ

truyền của ngƣời Việt (theo tƣ liệu điền dã) thì kiến trúc không bao giờ cao

hơn cây cối, rõ ràng đó là một hiện tƣợng phản ánh khá rõ nét về tâm hồn

truyền thống của ngƣời Việt. Ngƣời ta muốn “hòa” kiến trúc vào tự nhiên

cũng nhƣ muốn “hòa” tâm hồn vào vũ trụ, ý thức này rất phù hợp với tinh

thần của Phật giáo muốn xóa bỏ tiểu ngã (Atman), tức cái cá nhân riêng biệt,

chỉ có ai tu thì ngƣời đó đƣợc hƣởng quả phúc, để nhập vào cái đại ngã

trƣờng tồn (Brahman) nhằm “tự độ độ tha, tự giác giác tha, không phân biệt

ngã nhân và tha nhân. Nhƣ thế có nghĩa là kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng chịu

ảnh hƣởng tƣ tƣởng này mà hòa quyện cùng tự nhiên, cũng có nghĩa cùng với

cây cối tạo nên một tổng thể kiến trúc truyền thống (cây cối ở đây đƣợc xem

nhƣ một phạm trù của kiến trúc). Tuy nhiên, ở các ngôi chùa, ngôi đền… thì

cây cối nhƣ muốn giải tỏa sự to lớn của kiến trúc, để cho con ngƣời khi tiếp

cận sẽ cảm thấy gần gũi mà không bị ám ảnh bởi tính áp chế, vì thế đƣợc gán

cho những sức linh nhất định. Còn với đình vốn xƣa hầu nhƣ không có cây

lớn ở trƣớc mặt, vì có thể đã xuất phát từ một ý nghĩa khác, nhằm tạo nên uy

thế của Thành hoàng làng (mang tƣớc vƣơng) đại diện tinh thần cho nhà vua,

cho chế độ quân chủ. Tinh thần chính là tạo cho đình có một không gian

thiêng liêng quang đãng, song cũng cần cây cối tốt tƣơi, chim muông hội tụ.

Để đạt đƣợc những yêu cầu đó, trƣớc đây ngƣời ta thƣờng trồng cây lớn ở

phía sau, cùng lắm là chỉ trồng ở hai bên mà thôi. Từ thế kỷ XVIII trở đi, đình

làng hội nhập mạnh hơn yếu tố đền thờ, đồng thời nâng cao hơn tính chất dân

31

gian, thì cây cối cũng đã đƣợc trồng ở phía trƣớc mặt nhƣ để lấy bóng mát

hay để tạo thế thiêng liêng. Nhƣ cây bàng (đình Thƣợng Cát, Bắc Từ Liêm,

Hà Nội), cây gạo (đình Tây Đằng, Ba Vì, Hà Tây cũ) để mang tính chất gắn

với thần ở đình.

Đình làng có thể ra đời muộn hơn các di tích tín ngƣỡng khác, cho nên

trƣớc hết, đình làng cũng chịu ảnh hƣởng chung của các tôn giáo tín ngƣỡng

trƣớc đó. Vào thế kỷ XVII và thế kỷ XVII, ngƣời ta thƣờng gặp những ngôi

đình quay về hƣớng Nam và một số đình khác quay về hƣớng Tây. Chỉ tới thế

kỷ XIX, hiện tƣợng chọn hƣớng ít nhiều đã có sự thay đổi, cũng nhƣ nhiều di

tích khác, đình lệ thuộc vào dòng sông hoặc đƣờng cái. Điều này có thể đƣợc

giải thích rằng ở giai đoạn từ thế kỷ XVIII trở đi, nền kinh tế tƣ nhân phát

triển mạnh, những ngƣời đóng góp trực tiếp cho việc hình thành những kiến

trúc này không hẳn chỉ còn là nông dân làng xã nữa mà một phần đáng kể lại

thuộc tầng lớp thƣơng nhân, chính từ những con thuyền xuôi ngƣợc và luồng

buôn bán theo đƣờng thủy, đƣờng bộ mà di tích phần nào bị lệ thuộc vào

mạch máu giao thông đó.

Trở lại với những hƣớng mang gốc cổ truyền, ngƣời ta nhận thấy rằng

những hƣớng này thƣờng gắn với yếu nghĩa xuất phát từ tâm linh về quan hệ

giữa thế gian và thiên nhiên vũ trụ, nó ít có tính thực dụng. Nhìn chung,

hƣớng của di tích đều có ý nghĩa của nó:

- Hƣớng Bắc: Đây là hƣớng giá rét về mùa đông và nóng về mùa hè. Ở

lĩnh vực tín ngƣỡng, đó là hƣớng mang nhiều sự hắc ám, ít nhiều gắn với quỷ

dữ. Vì thế kiến trúc của ngƣời Việt ít quay nhìn về hƣớng này. Tất nhiên,

trong thực tế vẫn có những ngôi chùa hoặc một di tích nào đó đƣợc chủ động

nhìn về hƣớng Bắc. Về cơ bản những di tích đó ít gắn với thế gian mà thƣờng

liên quan đến kiếp ngƣời đã qua, nhƣ một số chùa ở nghĩa trang để cầu siêu

32

độ cho những linh hồn ở thế giới bên dƣới.

- Hƣớng Đông: Những cƣ dân trong khu vực Đông Nam Á thƣờng

quan niệm đây là hƣớng của thần thánh (kể cả quan niệm của ngƣời Việt), vì

thế nhiều kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng của các cƣ dân phía Nam thƣờng quay

nhiều về hƣớng này để đón sinh lực vũ trụ (mà nhiều khi đồng nhất với ánh

sáng mặt trời). Nhƣng quan niệm của ngƣời Việt nặng tƣ duy nông nghiệp,

coi trọng yếu tố Âm, vì thế thần linh dù là ai thì yếu tố âm cũng là điều trọng

yếu, quyết định đến hạnh phúc no đủ về mọi mặt của các kiếp đời. Đặc biệt là

trong những kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời Việt, ít nhất

ở nông thôn, hiện tƣợng tƣờng bao kín xung quanh đƣợc xuất hiện rất muộn,

đồng thời, kiến trúc chủ yếu đƣợc bố trí theo lối nằm ngang, vì thế ánh sáng

ban mai có thể chiếu thẳng vào tận bàn thờ, theo đó mà ngƣời ta cho rằng hồn

thần linh dễ bị tán mà khó tụ, làm cho sức mạnh của thần bị hạn chế, dẫn đến

sự hỗ trợ cho con ngƣời cũng trở nên ít ỏi hoặc không còn… Có thể lấy ví dụ

cụ thể nhƣ đền Ngọc Sơn (Hoàn Kiếm, Hà Nội), đền có cầu Thê Húc chạy về

hƣớng Đông, mang ý nghĩa đón ánh sáng ban mai, nhƣng ngôi đền bên trong

đã không quay theo hƣớng này mà vẫn quay theo hƣớng Nam. Ở các kiến trúc

phía Nam nƣớc ta, nhƣ chùa của ngƣời Khơme hay tháp Chăm đều quay về

hƣớng Đông, nhƣng bàn thờ của họ lại nằm ở đầu hồi, kiến trúc lại có tƣờng

bao nhƣ gần kín, các cửa vào không để ánh sáng rọi vào bàn thờ, còn với tháp

Chăm thì ô cửa vào nơi thờ đƣợc làm nhô hẳn ra phía trƣớc tạo ra ở cửa chính

một kết cấu nghệ thuật cao, đồng thời trong lĩnh vực tâm linh, nó cũng cản trở

ánh sáng ban mai rọi thẳng vào trung tâm điện thờ. Những điều nhƣ nêu trên

khiến chúng ta có thể tạm hiểu đƣợc vì sao ở đồng bằng Bắc Bộ ngƣời xƣa rất

ít quan tâm đến hƣớng này cho ngôi đình.

- Hƣớng Tây: Đây là một trong hai hƣớng chính của các kiến trúc tôn

giáo tín ngƣỡng cổ truyền, cũng là một hƣớng bàn thờ ở mọi gia đình, vì

33

hƣớng này phù hợp với quy luật “đối đãi” của Âm Dƣơng. Quan niệm “đối

đãi” không phải nảy sinh riêng của ngƣời Việt, mà của nhiều cƣ dân trên thế

giới, Âm và Dƣơng tuy khác nhau nhƣng chỉ đƣợc xác nhận khi có nhau,

đồng thời phải có sự kết hợp với nhau mới tạo nên sự phát sinh phát triển, một

gốc gác tinh thần của mọi vụ mùa bội thu. Trong cách ngồi quay hƣớng Tây,

ngƣời ta còn cho rằng vị thần đã tụ hội đƣợc mọi sức linh của bốn phƣơng.

Vì, mặt thần là Dƣơng nhìn về hƣớng Tây mang yếu tố Âm của vũ trụ, tạo

thành một cặp Âm Dƣơng “đối đãi” giữa đại vũ trụ và tiểu ngã nhân thân,

lƣng thần là Âm quay về hƣớng Đông là dƣơng cũng tạo nên một cặp Âm

Dƣơng “đối đãi” tƣơng tự. Bên phải của thần là Dƣơng, hƣớng về phía Bắc

mang yếu tố Âm. Bên trái của thần là Âm, hƣớng về phía Nam là Dƣơng.

Nhƣ vậy, cả bốn phía đều là bốn cặp Âm Dƣơng “đối đãi” khác nhau… đã tạo

cho cách ngồi này thích hợp, khiến thần yên vị. Trong quan niệm của ngƣời

Việt, ở một khía cạnh nào đó, thần linh cũng đồng nhất với nguồn sinh lực vũ

trụ vô biên. Do đó, thần ngồi yên vị tại đình hoặc các di tích tín ngƣỡng khác

đã nhƣ một đảm bảo về mặt tinh thần cho mọi ƣớc vọng của ngƣời xƣa.

- Hƣớng Nam: Theo quan niệm của dân gian, thì: Lấy vợ hiền hòa, làm

nhà hướng Nam, đây là hƣớng thích hợp với những ngôi nhà ở Bắc Bộ, vì

ngôi nhà đƣợc mát mẻ vào mùa hè, ấp áp vào mùa đông. Đây cũng là một

hƣớng chứa đầy sinh lực, vì đó là hƣớng màu đỏ, mang đầy sinh khí trong vũ

trụ (hƣớng Nam màu đỏ, hƣớng Bắc màu đen, hƣớng Đông màu xanh lá cây,

hƣớng Tây màu trắng, Trung phƣơng màu vàng). Đối với đạo Phật, hƣớng

Nam là hƣớng của bát nhã, tức trí tuệ. Đạo Phật quan niệm rằng nhờ trí tuệ

mới diệt trừ đƣợc vô minh, tức ngu tối, mà ngu tối là mầm mống của tội ác.

Vì thế hƣớng Nam là hƣớng thiện tâm trên nền tảng trí tuệ.

Trong suốt nghìn năm Bắc thuộc và nghìn năm dƣới chế độ quân chủ

chuyên chế, ngƣời Việt đã ảnh hƣởng khá nhiều yếu tố văn hóa Trung Hoa,

34

mà ở lĩnh vực phƣơng hƣớng này, ngƣời Trung Hoa đã từng quan niệm:

Thánh nhân nam diện nhi thích thiên hạ, mà thánh nhân/thần linh/vua

chúa/ngƣời tài với trí tuệ cao có thể tác động lớn đền xã hội…; nam diện: Là

ngồi quay mặt về hƣớng Nam để biểu hiện quyền uy. Có nghĩa là thánh nhân

quay mặt về hƣớng Nam để nghe lời tâu bầy của thiên hạ… Ý thức của ngƣời

Việt muốn đƣợc thần thánh nghe thấy lời kêu cầu mà dùng pháp lực vô biên

để cứu vớt và hỗ trợ. Đó là một hƣớng phù hợp với ƣớc vọng truyền đời của

ngƣời xƣa.

2.2. Cảnh quan, không gian đình Tình Quang

Đình Tình Quang, hiện nay nằm bên ngoài đê sông Đuống, tọa lạc giữa

khu cƣ trú của cụm dân cƣ Tình Quang, trên một khu đất rộng rãi, bằng

phẳng. Từ khi đƣợc khởi dựng cho đến nay đã gắn bó mật thiết với con ngƣời

và mảnh đất nơi đây, một trong những ngôi làng Việt cổ truyền (làng lên phố)

thuộc địa phận quận Long Biên - cửa ngõ phía Bắc của thủ đô Hà Nội.

Hƣớng của đình Tình Quang quay về hƣớng Đông - Bắc. Đó là đặc

điểm khác biệt đối với những công trình kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng có niên

đại trƣớc thế kỷ XVIII. Khi nghiên cứu điểm khác biệt này, nhiều nhà nghiên

cứu về văn hóa cổ truyền đã đƣa ra những luận điểm, giải thích khác nhau. Có

quan điểm cho rằng: đình Tình Quang quay hƣớng Đông, có thể cũng có ý

nghĩa tƣơng tự nhƣ việc thờ Đức Thánh Chèm ở làng Chèm (Đông Ngạc, Bắc

Từ Liêm). Trong tƣ duy liên tƣởng của ngƣời xƣa, Thánh Chèm là một vị

thần chống lụt, Ngài có sức mạnh vô biên, biểu hiện qua thân hình khổng lồ,

Ngài đã khuất phục thủy quái ở khúc sông cong dòng, luôn xói nƣớc, ảnh

hƣởng tới sự bền vững của đê, nơi xung yếu để răn đe thuỷ quái, giữ yên lành

cho ruộng đồng, làng xóm.

Năm 1856, đời Tự Đức thứ 9, nhà vua cho cải tạo dòng sông Đuống để

thích ứng hơn với sự tiêu nƣớc lũ làm cho làng Vịa bị chia làm hai, làng Vịa

35

lớn (Tình Quang) nằm ở phía trong đê. Sau đó, tới đầu thế kỷ XX đê vỡ, đê

chính đƣợc chuyển lùi vào trong khiến đình bị nằm ngoài bãi, trong đê quai.

Sự kiện này nhƣ một gợi ý cho chúng ta suy nghĩ về hƣớng của đình Tình

Quang hiện nay.

Ngoài ra, một thực tế ở nhiều địa phƣơng cho thấy khi dân làng gặp

điều tai họa, ngƣời ta thƣờng thay đổi hƣớng đình vì cho rằng hƣớng của ngôi

đình quyết định tới phúc - họa của cả làng. Mặt khác, cũng từ thế kỷ XVIII về

sau, nền kinh tế tƣ nhân phi nông nghiệp có điều kiện phát triển, dần dần quan

niệm về phƣơng hƣớng đình, chùa theo lối cổ truyền cũng bị nhạt phai, ngƣời

ta chú ý nhiều đến huyết mạch giao thông nên di tích thƣờng hƣớng ra sông

và sau này hƣớng cả ra đƣờng cái. Từ đó có ngƣời ngờ rằng: Phải chăng đình

Tình Quang đã bị đổi hƣớng (gần nhƣ ngƣợc hẳn hƣớng của chùa) là để đáp

ứng nhu cầu tâm linh đƣơng thời, nhằm mong sự hỗ trợ của các vị Thành

hoàng cho nhân dân đƣợc yên bình? Điều này có lẽ cần đƣợc quan tâm và

nghiên cứu kỹ hơn nữa.

Phía trƣớc cửa đình là một ao lớn mang tƣ cách tụ thuỷ, tụ phúc. Ao

thấp mang ý nghĩa Âm, đình xây trên cao mang ý nghĩa Dƣơng. Hình thức

này tạo nên sự hòa hợp, Âm Dƣơng “đối đãi”, là sự cầu mong hạnh phúc

trƣờng tồn cho muôn đời con cháu.

Phía Nam đình giáp khu vực dân cƣ sinh sống, phía sau đình (phía Tây)

là khu vực nhà trẻ của cụm dân cƣ, đƣợc xây dựng trên đất của đình từ năm

1986. Bên phải là sân đình, hiện đang đƣợc sử dụng nhƣ một sân chơi thể

thao của thanh thiếu niên. Xung quanh khu vực đình chủ yếu trồng những loại

cây nhƣ: Cây đại, cây đa, cây cau, cây tre…

Trƣớc đây, tại khu vực đình còn có hai nhà bia hạ mã, lăng Đinh Điền,

xung quanh là những cây si, cây gạo.. vừa để lấy bóng mát vừa biểu hiện ý

nghĩa nhân ái, là nơi cho các linh hồn trú ngụ (thần cây đa, ma cây gạo). Đến

36

nay, do nhiều nguyên nhân mà quy mô tổng thể kiến trúc đã bị thu hẹp. Song,

vẫn có thể thấy đình nằm trong một quy mô lớn, bề thế, có không gian cảnh

quan thoáng rộng. Đình vẫn lƣu giữ đƣợc những giá trị văn hoá vật thể và phi

vật thể có giá trị. Và, vẫn là trung tâm sinh hoạt văn hoá, tín ngƣỡng, là niềm

tự hào sâu sắc thiêng liêng của cộng đồng nơi đây.

2.3. Kiến trúc đình Tình Quang

2.3.1. Một vài khái niệm về kiến trúc đình làng

“Một công trình kiến trúc hoàn chỉnh được tạo dựng bao giờ cũng có

hai phần cơ bản: Vật liệu xây dựng và kết cấu kiến trúc. Có thể nói vật liệu

xây dựng là cơ sở vật chất của kiến trúc còn kết cấu kiến trúc là bộ xương của

kiến trúc” [59, tr. 45-60]. Với nền “văn minh thực vật” (chữ của P Gourou),

vật liệu chủ yếu trong kiến trúc dân gian truyền thống của ngƣời Việt là các

loại thảo mộc - những nguyên liệu sẵn có xung quanh cuộc sống. Chúng có

thể khai thác dễ dàng, sơ chế đơn giản mà hiệu quả sử dụng cao. Bất kỳ một

công trình kiến trúc nào cũng gồm ba phần: Nền móng - thân - mái. Tuy

nhiên, kết cấu kiến trúc gỗ cổ truyền của ngƣời Việt là một dạng kiến trúc

không có móng tƣờng chịu lực. Toàn bộ công trình đƣợc dựng lên bằng liên

kết khung gỗ và đƣợc liên kết với nhau bởi các chốt mộng khít khao. Hệ

thống chịu lực chủ yếu trong các công trình kiến trúc cổ là hệ thống cột nâng

đỡ toàn bộ bộ mái kiến trúc. Vì thế, trong kiến trúc gỗ cổ truyền ngƣời Việt

chỉ quan tâm làm móng cục bộ (móng chỉ dùng để gia cố chân tảng chịu lực),

chú trọng nhiều đến phần nền. Nhƣ vậy, hệ khung liên kết bằng gỗ trở thành

yếu tố quan trọng, quyết định sự tồn tại, bền vững của công trình. Hệ khung

gỗ đó đƣợc hình thành bởi các cấu kiện cột - xà - kẻ, bẩy.

- Cột: Là những thân gỗ lớn, dài, đứng song hàng từng cặp trên chân

tảng đặt trên mặt nền. Hệ thống cột là cấu kiện chịu lực chính của kết cấu bộ

khung chịu lực, gánh chịu phần lớn tải trọng của hệ mái, làm xƣơng sống cho

37

mọi liên kết và tạo nên chiều cao của công trình; là thành phần duy nhất chịu

lực theo phƣơng thẳng đứng trong kết cấu bộ khung chịu lực, liên kết tất cả

các cấu kiện chịu lực theo phƣơng ngang trong hệ khung, nhận và truyền tải

trọng từ các cấu kiện đó xuống nền móng. Cột có tiết diện tròn hoặc vuông,

loại cột có tiết diện vuông chỉ mới xuất hiện trong kiến trúc truyền thống Bắc

bộ phổ biến dần từ nửa cuối thế kỷ XX.

Hình dáng của cột thƣờng đƣợc làm theo kiểu thƣợng thu hạ thách, đặc

biệt rõ nét ở loại cột tròn. Trên thân cột đƣợc tạo các lỗ mộng để có thể lắp

ghép, liên kết các cấu kiện khác. Khác với nhiều kiến trúc truyền thống khác

(nhƣ Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên), sử dụng cột bằng gỗ xẻ, ghép, quấn

vải, tẩm chất kết dính [42, tr. 14]... cột trong kiến trúc gỗ của ngƣời Việt là gỗ

nguyên cây. Cột là cấu kiện có tạo hình đơn giản nhất. Các cột tròn thƣờng có

phần đầu vuốt thon nhỏ, thân to dần, nhƣng phần chân khum cúp lại nhƣ quân

cờ. Dân gian gọi là hình “đòng đòng”, hay “đầu cán cân - chân quân cờ”,

theo công thức tƣơng đối 2/3 chiều cao phía trên thu nhỏ lại 1,5cm - 2cm/1m

chiều cao; 1/2 chiều cao phía dƣới chân cột thu nhỏ lại 2cm - 3cm; đoạn còn

lại tƣơng đối đều không thu. Tuy nhiên, trong thực tế do gia công bằng thủ

công nên ở nhiều công trình, công thức này không đƣợc chính xác hoàn toàn.

Từ thế kỷ XVIII, trên đỉnh cột còn có thêm đấu đầu cột để đỡ câu đầu, hình

thức này mất dần từ khoảng cuối thế kỷ XVIII. Các cột thƣờng không dựng

vuông góc với mặt nền mà theo thế “thượng thu - hạ thách” (đầu cột chụm

vào, chân hơi choãi rộng hơn tạo thế vững chãi).

Trong một bộ vì, căn cứ vào số lƣợng cột để xác định kiến trúc đó là

loại kiến trúc có mấy hàng chân. Số lƣợng cột trong một bộ vì lại tùy thuộc

vào số bƣớc cột trong hệ đó, theo công thức: số bƣớc cột + 1 = số cột. Các

bƣớc cột trong bộ vì (còn đƣợc gọi là lòng cột) đƣợc đặt tên từ giữa sang hai

bên là bƣớc giữa, bƣớc nách và bƣớc hiên. Kiến trúc truyền thống Việt ở Bắc

38

bộ có tối đa 5 bƣớc cột 6 hàng chân.

Một công trình kiến trúc cổ truyền thƣờng có các loại cột: cột cái, cột

quân, cột hiên, cột trốn. Tùy vào chiều rộng của lòng nhà mà các hàng cột có

thể nhiều hay ít.

- Cột cái: Là những cây cột có tiết diện và kích thƣớc lớn cao nhất,

đƣợc dựng thành hai hàng, theo mặt cắt dọc ở trung tâm của nội thất kiến trúc.

Nhiều vùng gọi tên loại cột này theo vị trí: cột lòng/hàng nhất. Cột cái có

công năng chủ yếu là nâng đỡ vì nóc, đồng thời, tạo nên các điểm liên kết

khung kết cấu theo chiều dọc kiến trúc.

- Cột quân (còn gọi là cột con, cột thành, cột lòng/hàng nhì): Với kích

thƣớc nhỏ và thấp hơn cột cái. Đảm nhiệm chức năng đỡ vì nách và tạo nên

các điểm liên kết ở một cao độ thấp hơn, tạo nên độ dốc cho bộ mái.

- Cột hiên: Với kích thƣớc nhỏ hơn, hoặc bằng cột quân. Công năng

chính là nâng đỡ mái hiên. Cấu kiện này giúp thỏa mãn nhu cầu mở rộng

thêm nội thất công trình. Cột hiên đƣa chân mái vƣơn ra rộng hơn. Tuy vậy,

khoảng cách từ cột quân ra cột hiên thƣờng không lớn hơn khoảng cách từ cột

quân vào cột cái.

- Cột trốn: là cột chân không chống thẳng xuống nền mà đƣợc kê, đặt

trên một cấu kiện khác. Cũng làm nhiệm vụ chịu lực, chống đỡ công trình

nhƣng nhiều khi nó có tác dụng mở rộng, tạo sự thông thoáng cho không gian

nội thất.

- Xà: Là những thân gỗ nằm song song với nền, làm nhiệm vụ liên kết

các cột của công trình để tạo nên hệ thống giằng vững chắc. Các loại xà liên

kết cột theo chiều dọc gọi là xà dọc; nối các cột theo chiều ngang công trình

có các loại xà ngang, xà nách, câu đầu, rƣờng (chúng tôi sẽ giải thích kỹ hơn

về từng loại xà này khi đi vào mô tả kết cấu kiến trúc cụ thể).

- Kẻ: Là những thân gỗ liên kết các cột cùng gian hay góc. Chúng đƣợc

39

đặt chéo, gác mộng ở đầu các cột. Mỗi một chiếc kẻ phải ăn mộng vào ít nhất

hai cây cột cùng hàng. Trên thân kẻ (cật kẻ) đỡ những thân gỗ nhỏ, nối nhau

chạy dọc mái, làm thành mặt phẳng của mái công trình. Phần đuôi kẻ gọi là

nghé kẻ.

- Bẩy: Là những thân gỗ đặt chéo, ăn mộng qua đầu các cột và gác một

điểm tựa duy nhất ở mộng trên đầu hàng ngoài cùng của công trình (cột quân

hoặc cột hiên), dùng sức nặng của mái trên đè xuống, bẩy lên đỡ chân mái

theo đúng nghĩa đòn bẩy. Phần đuôi bẩy (có tên gọi riêng là nghé bẩy) tỳ lực

vào dạ xà nách. Cấu kiện này thực hiện liên kết theo chiều thứ ba của không

gian trong kết cấu khung gỗ chịu lực và đƣợc coi là một đặc điểm riêng của

kiến trúc cổ truyền Việt, nhằm mở rộng diện tích công trình.

Tất cả các cấu kiện trên liên kết với nhau tạo thành một bộ vì. Bộ vì là

yếu tố cơ bản của kết cấu khung gỗ. Nó vừa là kết cấu chịu lực, nâng đỡ mái,

vừa là đơn vị tổ chức không gian công trình. Theo mặt cắt ngang, một bộ vì

đƣợc chia thành ba phần:

Vì nóc: Là liên kết các cấu kiện ở khoảng không gian giữa hai cột cái,

đỡ nóc và nửa mái phía trên. Khoảng không gian ấy có hình một tam giác cân,

giới hạn bởi câu đầu là cạnh đáy và hai cạnh kia là hai chiều dốc của mái

trƣớc, sau công trình. Câu đầu là cấu kiện liên kết hai đầu một cặp cột cái

trƣớc, sau công trình, theo mặt cắt ngang.

Vì nách (còn có tên là cốn khi là các con rƣờng hay ván gỗ dày xếp

chồng lên nhau): Là liên kết các cấu kiện ở khoảng không gian hình một tam

giác vuông, đƣợc tạo thành giữa cột cái và cột quân. Tam giác vuông này có

cạnh dài là xà nách (cấu kiện liên kết cột cái và cột quân theo mặt cắt ngang),

cạnh ngắn là độ dài hơn của cột cái so với cột quân và cạnh huyền là độ dài

mặt mái phần dƣới.

Hiên: Là liên kết các cấu kiện để đỡ phần đua vƣơn ra ở hàng hiên, tính

40

từ cột quân ra hết chân mái giọt gianh.

Hai bộ vì (một tổ hợp liên kết các cấu kiện theo mặt cắt ngang một kiến

trúc) liền sát nhau xác định 01 gian. Gian là một đơn vị tổ chức không gian

mặt bằng, xác định quy mô, tầm cỡ của các kiến trúc cổ truyền bằng gỗ của

ngƣời Việt. Ngƣời Việt kiêng làm nhà có số gian chẵn nên trong kiến trúc gỗ

cổ truyền Việt, số lƣợng vì luôn là một số chẵn và số lƣợng gian bao giờ cũng

là một số lẻ. Trong kiến trúc cổ truyền Việt Nam, ngƣời ta kiêng làm nhà có

gian chẵn vì nhƣ thành ngữ đã có câu: Nhất gian cô độc, nhị gian bần, tam

gian phú qúy, tứ gian truân.

Tuy nhiên, giới hạn gian là rất thoáng, nối các gian không có các vách

ngăn cứng, cố định nhƣ các bức tƣờng trong giới hạn buồng/phòng; khi cần

có thể dùng các ván gỗ chia một gian thành các buồng/phòng độc lập. Chái có

thể coi là một gian đặc biệt, nằm ở hai đầu hồi của kiến trúc, là khoảng không

gian đƣợc giới hạn bởi 01 vì có chân các cột chống xuống chân tảng của mặt

nền và 01 vì lửng (các cột trốn chân, đứng trên một xà dọc chứ không chống

xuống nền). Nhiều khi kích thƣớc của chái còn lớn hơn gian. Theo mặt cắt

dọc, tính từ trung tâm tòa nhà sẽ có: 01 gian giữa, 02 (hoặc 04) gian bên (bên

phải và bên trái gian giữa), 02 chái và 02 hiên phía hai đầu hồi nhà, dƣới hai

mái phụ.

2.3.2. Kiến trúc đình Tình Quang

Cho đến nay, không còn một tài liệu nào ghi chép cụ thể về năm tháng

khởi dựng đình Tình Quang, nhƣng qua lời kể của các cụ cao tuổi trong làng

cũng nhƣ căn cứ theo kết quả khảo sát những kiến trúc còn lại thì bƣớc đầu có

thể nhận định đình Tình Quang đựơc xây dựng từ rất sớm, ít nhất là vào thời

Lê, đầu đời Chính Hoà (1676). Điều này cũng khớp với lời của các cụ cho

biết trƣớc đây đình có hai tấm bia đá ghi niên đại thế kỷ XVII, song hiện nay

41

hai tấm bia đã bị vùi sâu trong lòng đất và nhân dân đã làm nhà thờ lên trên.

Đình Tình Quang ban đầu có nguồn gốc từ ngôi đền do Cao Dƣơng

Công - ngƣời làng, một tƣớng tài của Lý Bí dựng nên để thờ Ngài - ngƣời anh

hùng dân tộc mở đầu nền độc lập tự chủ của đất nƣớc ta. Thế kỷ X, nhà nƣớc

Đại Cồ Việt cho dân làng ở đây mang bài vị của Trung đẳng thần Đinh Điền

về thờ. Đến thế kỷ XIII, vua Trần lại cho phép dân làng mạng bài vị Thƣợng

đẳng thần Lý Chiêu Hoàng về lập bàn thờ tại đền. Đến thời Lê Hy Tông niên

hiệu Chính Hòa, dân trong làng đã mở mang xây dựng lại ngôi đền thành kiến

trúc đình.

Đình Tình Quang hiện nay có Đại đình to lớn bề thế đƣợc làm theo

kiểu tàu đao lá mái với 6 hàng chân cột. Những dấu vết để lại trên những lỗ

thân cột cho biết, trƣớc đây đình có hệ thống ván sàn.

2.3.2.1. Bố cục mặt bằng

Nhiều nhà nghiên cứu kiến trúc cổ truyền đều cho rằng, khởi đầu đình

làng đƣợc thể hiện dƣới dạng chữ Nhất (一), đặt ở phía Nam hoặc phía Tây

bìa làng, kết cấu mặt bằng của đình thƣờng chỉ có 3 gian 2 trái. Những ngôi

đình có mặt sớm của thế kỷ XVI, nhƣ đình Thụy Phiêu, đình Tây Đằng, đình

Thanh Lũng (Ba Vì, Hà Tây cũ), đình Là (Thƣờng Tín, Hà Tây cũ) đình Lỗ

Hạnh (Hiệp Hòa, Bắc Giang), đình Thổ Hà (Việt Yên, Bắc Giang) đều theo

hình thức này. Hiếm có những ngôi đình 1 gian 2 chái lớn nhƣ đình Diềm (TP

Bắc Ninh, Bắc Ninh) thuộc thế kỷ XVII (đƣợc tu bổ, cải tạo lại do sự tàn phá

của chiến tranh). Hầu nhƣ mọi ngôi đình từ thế kỷ XVIII trở về trƣớc thƣờng

bao giờ cũng có sàn, nền đình đƣợc đắp cao hơn xung quanh chút ít để bảo vệ

cho đất dƣới sàn đình không bị trôi qua những trận mƣa và dù cho nền đất này

ít có mối quan hệ với kết cấu của di tích, ngƣời ta vẫn thƣờng bó vỉa đá xung

quanh (về sau cũng có thể bó bằng gạch). Không bao giờ ngƣời ta lát mặt đất

42

(dƣới lòng nền đình), cũng không bao giờ ngƣời ta lát lòng nhà ở nơi thờ tự

hoặc nơi ở, phần nhiều chỉ nện chặt cho chắc đất mà thôi. Đối với kiến trúc

dân gian, ngƣời xƣa quan niệm rằng lát nền nhà có nghĩa là ngăn cản sự “đối

đãi” của khí Âm và khí Dƣơng, khiến không thể duy trì dòng họ trong một

thời gian dài đƣợc, lúa giống để trong nhà khó đảm bảo cho những vụ mùa

bội thu.

Đối với kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng, không gian là nơi ở của thần linh

thì chắc chắn không có tà khí, ma qủy… Nếu lát nền nhà thì hiện tƣợng thông

tam giới trong tín ngƣỡng bị “đổ vỡ”, khiến sự hỗ trợ của thần linh bị hạn chế

đi rất nhiều và tín ngƣỡng dễ bị tàn phai. Trong tƣ duy của dân gian xƣa thì

quan niệm này rất đƣợc coi trọng, đôi khi còn đƣợc thực hiện ở cả hệ thống di

tích liên quan.

Suy cho cùng, mặt bằng của ngôi đình trƣớc đây để lộ đất đã mang một

ý thức hội tụ sức linh cho thần. Trên nền đất này, để chống lún, ngƣời xƣa

thƣờng đặt những chân tảng kê cột bằng đá. Khởi đầu, do nằm dƣới sàn đình,

nên ở phía trong lòng có khi ngƣời ta đã đặt những hòn đá tảng không theo

hình dáng cố định hoặc cũng có khi là đá ong. Những chân cột bao xung

quanh có thể nhìn thấy đƣợc thì ít nhiều đã chú ý tạc theo kiểu âm dƣơng đối

đãi với dáng vuông, trên mặt chạm tròn để tƣơng ứng với thân cột. Khởi đầu

những ngôi đình thƣờng đƣợc kết cấu theo dạng 4 hàng chân, với 2 hàng cột

cái và hệ thống cột quân bao quanh. Vào thế kỷ XVII có nhiều ngôi đình đã

mở rộng lòng hơn nên chuyển hóa thành 6 hàng chân với 2 hàng cột cái, 2

hàng cột quân và hệ thống cột hiên bao quanh. Tới nay, ngƣời ta chƣa tìm

đƣợc dấu vết Hậu cung của đình theo kiểu Chuôi vồ của kiến trúc chữ Đinh

(丁) mang niên đại thời Mạc. Chuôi vồ (tức Hậu cung) thực sự chỉ phổ biến

vào thế kỷ thứ XIX trở về sau. Gần đây, một sự phát hiện mới đã cho chúng ta

43

biết kết cấu chữ Đinh (丁) với Chuôi vồ mang tính chất Hậu cung đã xuất

hiện ở đầu thế kỷ XVII ở đình Bảng Môn (Hoàng Lộc, Hoàng Hóa, Thanh

Hóa). Hiện tƣợng này cũng đã gặp ở một số kiến trúc khác nhƣ đền Độc Cƣớc

(Sầm Sơn, Thanh Hóa), đình Nhân Lý (Nam Sách, Hải Dƣơng), đình Hàng

Kênh, đình Dƣ Hàng (TP Hải Phòng)…

Trở lại với ngôi đình hình chữ Nhất (一), thông thƣờng nơi thờ là một

“khám” lửng đặt trên sàn gắn liền với kiến trúc, sàn này khá cao, có thể đứng

thẳng ngƣời ở gầm bên dƣới. Không gian của nó thƣờng từ 2 cột cái phía

trong của gian giữa chạy về tới 2 cột quân ở phía sau. Ngƣời ta cũng thƣờng

làm ở trƣớc mặt của “khám” một sàn thờ hẹp, vừa đủ để đặt những đồ thờ,

nhƣ thế buộc sàn phải nhô ra phía trƣớc và tì lực trên 2 cột nhỏ đừng chân

xuống nên.

Trong kết cấu mặt bằng của mọi ngôi đình cổ truyền thì ngƣời ta chỉ lát

sàn chủ yếu ở các gian bên, còn gian giữa (đƣợc gọi là gian lòng nƣớc), bao

giờ cũng không lát sàn mà phổ biến là đƣợc lát đá. Vào thời gian sau, hãn hữu

gian lòng nƣớc đƣợc lát gạch. Theo điều tra hồi cố ở những nơi có hiện tƣợng

này, những ngƣời cao tuổi đã cho biết hiện tƣợng lát đá ở gian giữa chủ yếu

để tạo khí thiêng tinh khiết cho thần.

Mặt bằng đình Tình Quang hiện nay có bố cục kiến trúc hình chữ Đinh

(丁). Nhìn từ ngoài vào, trƣớc mặt đình là Hồ bán nguyệt (Ao đình), chắn

trƣớc Nghi môn là bức Bình phong. Giữa Bình phong và Nghi môn là một

con đƣờng nội bộ của đình, qua Nghi môn là một khoảng sân rộng, dọc theo

hai bên là Tả vu, Hữu vu, mỗi dãy có 5 gian, đƣợc xây theo kiểu tƣờng hồi bít

đốc. Tiếp đến là kiến trúc tòa Đại đình nằm ở chính giữa bao gồm các tòa:

Đại đình 5 gian 2 chái và 3 gian Hậu cung. Phía sau Hậu cung là khoảng sân

rộng. Phía trƣớc, bên phải tòa Đại đình là lăng mộ quan Thái giám bằng đá,

44

có bia tứ trụ ghi chữ: Thái giám từ. Ngang tòa Đại đình, bên trái là cổng tứ trụ

(Nghi môn) để bắt đầu đi vào không gian của đình. Đây là kiến trúc chủ yếu

của đình Tình Quang còn giữ đƣợc khá nguyên vẹn, mang những giá trị kiến

trúc, nghệ thuật cổ truyền [Bản vẽ 04, 05].

2.3.2.2. Hồ bán nguyệt (Ao đình)

Hồ bán nguyệt, vốn gốc ban đầu là Ao của đình. Ao mang tƣ cách tụ

thủy tụ phúc. Ao thấp mang ý nghĩa âm, đình xây trên cao mang ý nghĩa

dƣơng. Hình thức này tạo nên sự hòa hợp, âm dƣơng đối đãi, là sự cầu mong

hạnh phúc trƣờng tồn cho muôn đời con cháu. Hiện nay, Ao đình đã đƣợc cải

tạo thành Hồ bán nguyệt, xung quanh đƣợc kè đá và có cầu lên xuồng nằm ở

phía sau Bình phong.

2.3.2.3. Bình phong

Vị trí của Bình phong hiện nay, trƣớc đây là vị trí lăng mộ quan Thái

giám bằng đá, có bia tứ trụ ghi chữ: Thái giám từ. Sau này khi tôn tạo lại tổng

thể đình, đã chuyển lăng mộ quan Thái giám và bia tứ trụ sang phía trƣớc, bên

phải tòa Đại đình. Bình phong đƣợc xây dựng ở đây với ý nghĩa là để ngăn

luồng khí độc ở bên ngoài thổi vào cũng nhƣ không để nhìn trực tiếp từ bên

ngoài vào ban thờ trong đình để tạo sự tinh khiết và linh thiêng cho ngôi đình.

Về hình thức kiến trúc, Bình phong đƣợc làm theo kiểu cuốn thƣ, trang

trí đơn giản. Nhìn chung, đây là một bức bình phong mới đƣợc xây dựng và

chịu ảnh hƣởng của nghệ thuật cổ truyền.

2.3.2.4. Nghi môn

Nghi môn hay Nghinh môn là một công trình kiến trúc phụ, thông

thƣờng đƣợc dựng lên trên trục chính giữa (trục thần đạo) của một kiến trúc

Tôn giáo nhƣ đình hay đền, miếu. Nó là cái gạch nối giữa không gian trần tục

bên ngoài và không gian thiêng, thần thánh bên trong. Về mặt công năng kiến

trúc, Nghi môn ở đình làng cũng tƣơng tự nhƣ Tam quan trong các ngôi chùa

45

làng Việt. Trong dân gian hiện nay ngƣời ta vẫn dùng chung một từ: Tam

quan để chỉ kiến trúc cổng của các loại công trình tín ngƣỡng, tôn giáo khác.

Họ vẫn gọi Tam quan đình, Tam quan đền với một suy nghĩ đơn giản: Tam

quan là ba cổng, ba lối đi...

Cũng nhƣ đình ở các nơi khác, Nghi môn là một kiến trúc không thể

thiếu đƣợc của đình. Hiện nay, đình Tình Quang có 2 Nghi môn.

Nghi môn thứ nhất nằm phía trƣớc tòa Đại đình, trên trục thần đạo là

một kiến trúc đƣợc xây dựng lại vào khoảng cuối những 20 của thế kỷ XX.

Nghi môn đƣợc làm dạng Tam môn, bề rộng trải gần hết chiều ngang tòa Đại

đình. Phần giữa đƣợc làm dƣới dạng kiến trúc 2 tầng mái chồng diêm. Phía

cách 2 cửa bên cũng đƣợc tạo dạng cột trụ đèn lồng. Khoảng cách giữa cột trụ

chính với cửa bên và cột trụ là khoảng tƣờng để phân định không gian.

Phần cửa chính là cửa của nhà Thánh, để tạo mặt bằng, không có bậc.

Thông thƣờng cửa chính chỉ dùng trong ngày lễ hội hoặc các tiết gắn liền với

nghi thức lễ nghi truyền thống của địa phƣơng. Cột trụ đƣợc tạo dƣới dạng

thân hộp chữ nhật đứng, với tiết diện tƣơng ứng kiến trúc tòa Đại đình, tạo sự

vững chãi và uy nghiêm. Đế trụ đƣợc tạo chân cổ lƣợn do các đấu tam cấp

chồng nhau.

Thân cột tạo viền thành 3 mặt để đắp các đôi câu đối chữ Hán. Phần

đỉnh cột đƣợc tạo thành 3 phần cơ bản. Phần tiếp giáp với thân cột đƣợc tạo

hõm dạng đèn lồng chữ nhật. Lòng trong đắp nổi đề tài tứ linh: Long, ly, quy,

phƣợng. Phần nối tạo nổi dạng lá cúc lật và các biểu tƣợng hoa thiêng. Phía

trên hộp đèn lồng để tiếp nối với phần giữa của đỉnh thân cột cũng tạo dạng

đấu vuông, lòng trong đắp nổi lá cúc, quả đào. Tại phần giữa của đỉnh tạo

thành mái chóp dạng mui lƣợn, bốn mặt đắp hổ phù ọe mặt trăng dạng chữ

thọ (壽). Các bờ góc đƣợc tạo lƣợn tránh sự thô nhƣng vẫn gợi cảm giác ấm

46

cúng. Phần đỉnh trên cùng, thông qua đấu vuông thắt đáy là biểu tƣợng: Sƣ tử

hí cầu - đây là linh vật thƣờng gặp ở các di tích khác. Trong tƣ cách kiểm soát

tâm hồn kẻ hành hƣơng trƣớc khi bƣớc vào cửa Thánh.

Hai cửa Tả, Hữu đƣợc tạo dạng cổng, gánh 2 cột cạnh dạng đòn vuông

thót đáy để từ đó làm cơ sở tạo vòm cuốn phía dƣới. Thân cột của cổng đƣợc

đắp nổi dƣới dạng cánh dơi ngậm câu đối. Phía lòng của các mảng này đƣợc

khắc các đôi câu đối chữ Hán. Phần mái của cổng đƣợc chia làm 2 tầng dạng

2 tầng 8 mái cổ diêm, gắn mái âm dƣơng. Phần thân cổ diêm tầng dƣới, một

bên đƣợc đắp nổi cuốn thƣ, là biểu thị đề cao học vấn, một bên tạo mai trúc

hóa long - đây là đề tài mà ngƣời xƣa muốn gửi gắm sự đoàn kết hòa hợp của

gia đình, của cộng đồng. Đó là: Một nhà nhƣ thể trúc mai. Phần lòng cổ diêm

đƣợc tạo 2 dạng khác nhau. Phía cổng phải tạo ô lõm chữ nhật nằm với đề tài

đôi sƣ tử hí cầu. Phía bên tay phải đắp “long mã hà đồ”. Hai ô cạnh đã bị

bong mất đề tài trang trí.

Hai trụ phụ cũng đƣợc tạo dạng trụ đèn lồng với chân dạng cổ lƣợn,

thân hộp chữ nhật, hai mặt đắp hai vế đối chữ Hán. Phần đỉnh trụ tạo bởi hai

đấu vuông thót đáy chồng nhau. Phần đèn lồng tạo ô hõm, vẽ chữ hỷ (喜) màu

đỏ. Điều này cũng là để cầu mong thần linh ban cho chúng sinh những điều

hạnh phúc.

Nghi môn thứ hai, ngang tòa Đại đình, bên trái để bắt đầu đi vào không

gian của đình. Nghi môn này với 4 cột trụ, 2 trụ nhỏ hai bên và 2 trụ to ở

giữa. Từ dƣới lên ở giữa của 2 cột trụ chính đƣợc làm dạng mái đao, gián ngói

vảy cá. Nghi môn này đƣợc xây dựng vào năm 2010.

Nhìn chung, Nghi môn đình Tình Quang không bề thế nhƣng phù hợp

với cảnh quan không gian chung, là kiến trúc đầu tiên để chúng ta nhận biết

47

sự hiện diện của di tích và thu hút sự quan tâm chủ ý của mọi ngƣời. Nghi

môn đƣợc mở ba cửa, cửa chính rộng và cao, hai cửa phụ thấp và hẹp hơn, đó

đƣợc hiểu nhƣ là Tam Sơn (núi ba đỉnh) - là gạch nối giữa Trời và Đất.

Nghi môn đình Tình Quang tuy mới đƣợc xây dựng lại, có ít nhiều hạn

chế về giá trị kiến trúc, nghệ thuật, song nó vẫn mang đầy đủ yếu tố sâu xa

của một công trình tín ngƣỡng cổ truyền. Có thể khẳn định rằng, sự hiện diện

Nghi môn là cần thiết để tạo nên sự hoàn chỉnh cho một tổng thể kiến trúc

đình làng Việt nói chung và đình Tình Quang nói riêng.

2.3.2.5. Nhà Tả vu, Hữu vu

Vào các giai đoạn đầu của ngôi đình làng, hiện tƣợng Tả vu, Hữu vu

thƣờng không gắn bó với đình. Cho đến nay, trên thực tế, chúng ta chỉ tìm

đƣợc những sản phẩm kiến trúc này nảy sinh từ thế kỷ XIX về sau mà thôi.

Tuy nhiên, trong kiến trúc của ngƣời Việt thì dấu vết có thể là hiện tƣợng Tả

vu, Hữu vu đã xuất hiện từ thế kỷ XV, nhƣ ở điện Lam Kinh (Thọ Xuân,

Thanh Hóa). Hiện tƣợng Tả vu, Hữu vu đƣa vào đình đã hạn chế tính khang

trang mang nét áp chế của đình làng, phá vỡ không gian mênh mông trƣớc

cửa đình, để chuyển hóa và bổ sung chức năng của đình sang một thế ứng xử

mới. Tả vu, Hữu vu đã trở thành những đơn nguyên kiến trúc gắn với đình

làng. Đây là 2 tòa nhà nằm song song với nhau, cùng quay mặt vào một sân

rộng phía trƣớc tòa Đại đình. Đây là kiến trúc với công năng là nơi để sắp xếp

lễ vật dâng lên Thành hoàng và để các quan viên, chức sắc, các cụ già trong

làng xã phân chia ngôi thứ ngồi dự mỗi kỳ lễ hội.

Mỗi dãy Tả vu, Hữu vu đình Tình Quang gồm 5 gian, 4 hàng chân cột,

tƣờng hồi bít đốc, đƣợc xây dựng bởi gạch, vôi vữa với bộ khung bằng chất

liệu gỗ lim, mái lợp ngói ta. Tả vu, Hữu vu bắt đầu chạy từ tiếp giáp đao tòa

Đại đình ra đến tiếp giáp hệ thống Nghi môn, tạo không gian khép kín. Nền

của Tả vu, Hữu vu cao hơn nền sân 30cm. Kết cấu kiến trúc với cột trụ vì giẻ

48

quạt, xà ngang gánh hai đầu đƣợc đặt trên hệ thống tƣờng đỡ lấy phần vì nóc

phía trên. Hệ thống các hoành, rui, vì đƣợc tạo vuông, để trơn không trang trí.

Vì nóc đƣợc tạo dáng cột trốn chồng rƣờng biến thể đứng trên xà ngang.

Tả vu, Hữu vu vói tƣờng hồi bít đốc, mái lợp ngói ta. Kết thúc bờ nóc

của mái đƣợc thể hiện đấu vuông thót đáy, bờ dải chảy thẳng xuống đầu cột

hiên. Cửa kiểu thƣợng song hạ bản. Nền đƣợc lát gạch bát với mạch kiểu chữ

Công (工). Các cấu kiện của Tả vu, Hữu vu đều đƣợc bào trơn đóng bén. Tả

vu, Hữu vu đã góp phần hoàn chỉnh cho tổng thể kiến trúc đình Tình Quang.

2.3.2.6. Đại đình

Tòa Đại đình là nếp nhà nằm ngang và to lớn nhất kiến trúc trung tâm,

gồm: Đại đình và Hậu cung liên hoàn tạo thành một chỉnh thể thống nhất.

Nhìn từ ngoài vào, đầu tiên ta bắt gặp là hệ mái, mái tòa Đại đình to rộng, xòe

ra trùm lên kết cấu khung gỗ, cùng với những trang trí linh vật trên mái đã tạo

nên một dáng vẻ hết sức hoành tráng và cổ kính.

Mái của tòa Đại đình lợp ngói ta, chính giữa bờ nóc đắp hình tƣợng:

“lưỡng long chầu nhật” (đôi rồng chầu mặt trời). Rồng ở đây đƣợc thể hiện có

vẻ dữ tợn, thông qua mũi nổi khối, kết hợp với đao tóc, đao vây và đuôi với

những đƣờng nét sắc sảo, uốn lƣợn. Thân rồng gắn các mảnh sứ, thể hiện

trong tƣ thế bƣơn trải, hƣớng về trung tâm mặt trời. Mặt trời trang trí những

đao bốc lửa, phía dƣới đƣợc nâng đỡ bởi những cụm mây. Tiếp sau rồng là

đôi phƣợng trong tƣ thế cánh dang rộng bồng bềnh trên nền của bầu trời. Hai

đầu kìm của bờ nóc trang trí hai rồng dạng cuốn thủy. Đây là hình tƣợng thủy

quái gắn liền nguồn nƣớc đang ngậm cuộn mây. Từ những hình tƣợng nhƣ

vậy thì phần nóc của ngôi đình đã biểu thị cho bầu trời vân vũ - gắn liền với

sự cầu mong nguồn nƣớc của cƣ dân nông nghiệp. Bờ dải đƣợc trang trí dải

hoa lá chanh chạy từ đuôi của đầu kìm đến tiếp nối phần đầu guột. Phần giữa

49

mà chính là phần cuối bờ chảy đƣợc tạo đắp hình tƣợng dạng con nghê. Phần

đầu guột, tạo bởi hình tƣợng lá cúc lật, có một phần nhánh lá vút ra. Đứng

trên đó là hình tƣợng con lân đang ngậm cụm mậy. Tiếp đến đầu đao cong,

phần mũi đao đƣợc gắn với hình tƣợng đầu sƣ tử. Dƣới góc đầu đao đƣợc ốp

chéo dải lá sần. Tất cả bờ nóc, bờ dải, bờ guột đều đƣợc đắp bằng vôi vữa và

gạch hoa chanh làm tăng tính thẩm mỹ cho mái đình.

Tòa Đại đình đƣợc dựng trên nền cao là 50cm so với mặt sân, xung

quanh đƣợc bó vỉa bằng đá xanh. Không gian bên trong của tòa Đại đình với

nội thất chia làm 5 gian, 2 chái, mà thực chất là 2 chái lớn và 2 chái nhỏ, đƣợc dựng trên kết cấu 6 hàng chân cột, diện tích 360m2.

Bảng 1: Kích thƣớc cắt dọc của tòa Đại đình

Các đơn vị không gian Số đo

Gian giữa 3,60m

Gian bên phải cạnh gian giữa 3,02m

Gian bên trái cạnh gian giữa 3,02m

Gian bên bên phải kế tiếp 2,98m

Gian bên bên trái kế tiếp 2,98m

Chái bên phải 4,44m

Chái bên trái 4,44m

Hiên hồi bên phải 1,10m

Hiên hồi bên trái 1,10m

Tổng cộng 26,68m

Bảng 2: Kích thƣớc cắt ngang của tòa Đại đình

Khoảng cách giữa các cột Số đo

Cột cái - Cột cái 3,77m

Cột cái - Cột quân phía trƣớc 2,91m

Cột cái - Cột quân phía sau 2,91m

50

Cột quân phía trƣớc - Cột hiên phía trƣớc 1,45m

Cột quân phía sau - Cột hiên phía sau 1,45m

Nền của tòa Đại đình đƣợc lát gạch bát kích thƣớc 30cm x 30cm. Hiện

nay, tại gian giữa mặc dù đã qua nhiều lần tu sửa nhƣng vẫn còn giữ lại hiện

trạng của gian lòng thuyền/lòng nƣớc (tức gian chính giữa) thấp hơn so với

các gian khác. Đây là cách ứng xử của cộng đồng với thần linh, hay nói cách

khác, Thành hoàng vẫn đƣợc đề cao.

Gian lòng nƣớc, các cột cái đều cao 6m, đƣờng kính 47cm dựng trên

chân tảng đá Âm Dƣơng có kích thƣớc 68cm x 68cm. Cột quân cao 3,6m,

đƣờng kính 40cm, dựng trên chân tảng kích thƣớc 56cm x 56cm.

Hệ thống cột đƣợc dựng trên chân tảng vuông tròn, thông qua chân

tảng mà thông linh, bởi vì đá là chất tụ linh và chuyển tải tâm linh.

Kết cấu các bộ vì nóc tòa Đại đình đƣợc dựng trên câu đầu dạng vì kèo

cột trụ thanh vuông. Đây là sản phẩm của lần tu bổ dƣới thời Nguyễn. Hiện

tƣợng này tạo cho kiến trúc có phần vững chãi hơn, bởi kèo và cột trụ đƣợc

đóng bén ăn mộng với nhau. Phần vì nóc tạo dạng tam giác cân đứng toàn bộ

và tải lực trên một câu đầu lớn. Phần trụ giữa đỡ lấy xà nóc thông qua một

đấu hình thuyền. Phần đấu này có chạm viền và phần cổ dƣới hở ra dạng lá

đề. Các hoành mái dạng vuông. Nhìn chung tổng thể câu đầu, vì nóc và hoành

mái để trơn không trang trí. Các hoành mái dạng vuông này là sản phẩm

muộn qua các lần tu bổ về sau.

Trang trí trên kiến trúc, chủ yếu thể hiện ở phần cốn, đầu dƣ và bẩy

hiên. Cốn trong các gian tòa Đại đình đƣợc chia làm 2 loại. Loại thứ nhất

đƣợc thể hiện ở 2 vì gian giữa. Loại thứ hai ở các gian bên và gian chái. Cốn

gian giữa chỉ khác các cốn gian khác là đƣợc tạo thêm ván mê và khoảng cách

các con rƣờng đƣợc chắp khít nhau thông qua một đấu vuông thót đáy mỏng

51

tạo thành một mảng kín để trang trí các đề tài. Các cốn gian còn lại là hệ

thống các con rƣờng, một đầu ăn mộng vào cột cái. Đầu kia chồng nhau thông

qua các đấu vuông thót đáy có độ dày hơn.

Hệ thống xà đùi, xà nách, một đầu ăn mộng vào cột cái, một đầu ăn

mộng với cột quân, đỡ dƣới là các nghé. Một số nhà nghiên cứu cho rằng đây

là dạng kết cấu kiến trúc: Thƣợng chồng rƣờng hạ kẻ. Một số khác lại kết luận

đây là kết cấu: Giá chiêng vì kèo cột trụ, cốn chồng rƣờng, bẩy hiên. Phần đỡ

lấy câu đầu phía dƣới là đầu dƣ, đỡ lấy xà đùi, xà nách là nghé.

Đầu dƣ ở đây đều đƣợc chạm khắc tỉ mỉ, nhô ra dƣới bụng câu đầu phía

ngoài cột cái với 2 loại hình: Thứ nhất tạo tác dạng đầu rồng với các đao mác

bay hết phần thân của đầu dƣ; Thứ hai chỉ có 4 đao dƣới bay thẳng ra phía sau

hết thân đầu dƣ. Cả 2 loại hình này đều tập trung ở gian giữa của tòa Đại đình.

Đầu dƣ ở các gian khác cũng tạo tác tƣơng tự. Duy chỉ có 2 đầu dƣ ở gian

chái, phía bên trái tòa Đại đình là trang trí một nửa thân phần mặt ngoảnh vào

trung tâm đình. Hiện tƣợng này là nhằm đề cao, tôn thờ đối với các vị thần

linh. Từ đặc điểm trang trí, có thể nhận định rằng: 2 đầu dƣ của gian chái và

một số đầu dƣ khác là những cấu kiện công trình từ lúc khởi nguyên.

2.3.2.7. Hậu cung

Về Hậu cung, đình Bảng Môn (Hoàng Lộc, Hoàng Hóa, Thanh Hóa),

có thể coi là một kiến trúc có tòa Hậu cung lồi ra phía sau (mang dáng dấp

kiểu chuôi vồ) sớm nhất nƣớc ta, với niên đại đầu thế kỷ XVII. Hay nhƣ một

tòa Hậu cung đƣợc coi nhƣ điển hình nhất nữa là tòa Hậu cung của đình Hữu

Bằng (Thạch Thất, Hà Tây cũ). Thực ra đình này có kết cấu mặt bằng theo

kiểu chữ Đinh (丁), nhƣng mặt bằng mái lại theo kiểu chữ Công (工). Đó là

một ngôi đình có tòa Hậu cung khá đầy đủ mang niên đại ở nửa cuối thế kỷ

XVII trên đất Bắc. Theo truyền thống kiến trúc thì kết cấu này thực sự đã tạo

52

nên một Hậu cung kép, với sự hội nhập từ kiểu Hậu cung thờ trên gác lửng

dạng “khám” đƣợc bƣng kín (lồng) trong phần chuôi vồ của đình. Nhƣ vậy,

Hậu cung gỗ dựng trên sàn cao đƣợc lọt trong một Hậu cung bao ngoài liên

quan chặt chẽ với tổng thể kiến trúc của tòa Đại đình. Hậu cung mang tính

chất “khám” thƣờng có sập thờ để đỡ ngai, bài vị của Thành hoàng làng và

những đồ thờ liên quan. Khoảng thế kỷ XIX trở về sau, nhất là ở vùng châu

thổ thấp, hiện tƣợng Hậu cung dƣới dạng gác lửng đã nhƣ bị giải thể, chỉ còn

một Hậu cung thống nhất trong kiến trúc Đại đình. Phần Hậu cung nàu bao

giờ cũng đƣợc bƣng cửa kín, trong đó ngƣời ta xây bệ thấp dần tƣ trong ra,

thông thƣờng với 3 cấp, trên là nơi của ngai và bài vị thờ. Ở trong Hậu cung,

hầu nhƣ không có hiện tƣợng lát nền mà chủ yếu là đất nện nhằm thông khí

âm dƣơng (hiện tƣợng lát nền bằng gạch lát hoặc gạch men chủ yếu là sản

phẩm của thế kỷ XX, khi tín ngƣỡng cổ truyền phần nào bị suy lạc).

Suy cho cùng, Hậu cung của đình đƣợc ra đời không phải ngay từ giai

đoạn xuất hiện của loại hình kiến trúc này, mà dần nó trở lên không thể thiếu

khi chức năng trụ sở của chính quyền và một số chức năng liên quan khác bị

hạn chế dần để chức năng của đền thờ thâm nhập một cách mạnh mẽ, có

nghĩa là tính dân gian hóa của ngôi đình ngày một sâu đậm hơn.

Hậu cung đình Tình Quang là phần chuôi vồ có kết cấu 3 gian chạy

dọc, nối với phần kiến trúc Đại đình tạo thành tổng thể hiện trang, kiến trúc

hình chữ Đinh (丁). Mặt nền của tòa Hậu cung cao hơn so với nền tòa Đại

đình 50cm.

Nguyên thủy đình chỉ có kết cấu mặt bằng hình chữ Nhất (一), sau đó

nối thêm phần Hậu cung. Nhìn tổng thể các hệ thống đầu bẩy duy chỉ có phần

vì của 2 gian giữa với hệ thống bẩy đƣợc tạo biến thể trở thành phần xà gối từ

cột quân sang cột hiên mà thực chất tạo thành cột cái của tòa Hậu cung. Phần

53

xà nách đƣợc cắt bớt để đáp ứng và phù hợp với độ rộng khoảng cách nối

giữa Đại đình và Hậu cung. Thực tế này cũng thể hiện rõ nét trên phần trang

trí đề tài rồng phụ tử: do cải tạo mà đầu rồng chính đã bị cắt bớt chỉ còn lại

phần thân. Từ đó lại nảy sinh một bức dạng cốn ván mê ghép bởi các ván với

nhau tạo thành đề tài rồng vần vũ. Tuy nhiên, với những đƣờng nét chạm khắc

nổi, bong kênh có phần sắc sảo thì đây là sản phẩm của nghệ thuật chạm khắc

đầu thế kỷ XX.

Phần cửa của Hậu cung đƣợc tạo thành hệ thống cửa bức bàn với hình

thức thƣợng song hạ bản. Phần gian giữa mà chính là khoảng cách giữa hai

cột là những hàng cửa bức bàn với sáu cánh, rộng bản 50cm đƣợc tạo phần

trên con tiện, phía dƣới chạm nổi đề tài: Trúc mai, mâm bồng ngũ quả. Chạm

thủng với đề tài long - quy, cả rồng lẫn rùa đƣợc chạm trong khuôn phạm

hình tròn. Rồng đang trong tƣ thế cuộn mây vần vũ, rùa cõng hàm thƣ (sách

bút) đang ngậm cụm mây trên nền vân sóng.

Trang trí vì nóc dạng ván mê với đề tài hổ phù trong tƣ thế nuốt mặt

trăng. Đây là đề tài gắn với các mảng trang trí khác trong cùng một hệ thống

trang trí của kiến trúc. Ngoài hình tƣợng hổ phù ở đây còn có những hoa lá

dạng mây cách điệu nhằm tôn lên vẻ đẹp của linh vật tầng trên.

Hiện nay, kết cấu kiến trúc phần Hậu cung đƣợc làm dƣới 2 dạng vì

khác nhau. Bộ vì thứ nhất nối với tòa Đại đình và bộ vì đầu tiên của gian cung

cấm làm dƣới dạng vì nóc ván mê đứng trên câu đầu. Cốn ván mê đứng trên

xà nách, thể hiện đề tài trang trí “phượng hàm thư” và vì nóc trang trí “rồng

chầu mặt trời”. Riêng phần vì nóc tiền gian Hậu cung đƣợc tạo bởi ván mê

trong lòng khắc chữ “Vạn xuân”. Các vì còn lại cũng dạng kết cấu: Thƣợng

ván mê, hạ kẻ ngồi. Nối giữa các hệ thống cột quân là các xà hạ tạo gắn kết

liền gian.

Phần bẩy đƣợc đỡ trên hệ thống tƣờng bao khép kín đƣợc xây bằng

54

gạch bê tông. Đây chính là không gian khép kín của tòa Hậu cung. Hai bên

tƣờng đƣợc chạm thủy ô tròn và có gắn chạm thủng hình chữ phúc. Phần nóc

cũng đƣợc lợp ngói vẩy rồng nhƣ tòa Đại đình. Đồng thời, bờ dải và bờ chảy

cũng đƣợc tạo bởi bờ viền dạng đấu vuốt kẻ chỉ.

2.4. Tiểu kết

Đình Tình Quang nằm trên một khu đất rộng rãi, quay về hƣớng Đông -

Bắc, ở giữa khu cƣ trú của cụm dân cƣ Tình Quang. Có thể nói đình Tình

Quang gắn bó mật thiết với con ngƣời và mảnh đất nơi đây, một trong những

ngôi làng Việt cổ truyền (từ làng lên phố).

Về mặt kiến trúc, đình Tình Quang gồn các hạng mục công trình, nằm

trên một khu đất rộng rãi, bằng phẳng, gồm: Hồ bán nguyệt, Bình phong, 2

Nghi môn, Tả vu, Hữu vu, Đại đình, Hậu cung và hệ thống sân vƣờn…

Kiến trúc hiện nay của đình Tình Quang là sự sắp xếp các đơn nguyên

kiến trúc trong một tổng thể nhất định, với bố cục mặt bằng kiến trúc hình chữ

Đinh (丁). Tuy không có niên đại cụ thể, nhƣng căn cứ vào bố cục mặt bằng

kiến trúc tòa Đại đình và những tài liệu có liên quan, bƣớc đầu có thể nhận

định đình Tình Quang đƣợc khởi dựng vào giữa thế kỷ XVII, tiếp đó bổ sung

dần thêm các thành phần kiến trúc liên quan trong thế kỷ XIX, XX… để tạo

55

thành một một tổng thể hoàn chỉnh đình Tình Quang nhƣ ngày nay.

Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC, TRANG TRÍ VÀ

ĐỊNH HƢỚNG BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐÌNH TÌNH QUANG

3.1. Vài nét về nghệ thuật điêu khắc, trang trí đình làng

3.1.1. Vài trò, vị trí của nghệ thuật điêu khắc, trang trí đình làng

Trong kiến trúc cổ truyền của ngƣời Việt, trƣớc đây, những mảng phù

điêu thƣờng chỉ đƣợc nhìn nhận với chức năng trang trí để làm đẹp là chính -

đó là lối nhìn dƣới góc độ tiếp cận giản đơn, lấy giá trị tạo hình làm trọng.

Nhìn nhận những mảng chạm theo cách đó chỉ mới thấy đƣợc cái hình, cái

“hiển” mà chƣa thấy đƣợc nội dung chứa đựng mang tính “mật” trong đó, với

giá trị cao hơn nhiều. Có nghĩa là, giá trị có tính biểu tƣợng gắn với không

gian tâm linh mới là tinh thần chủ yếu của nghệ thuật truyền thống Việt.

Ngƣời ta có thể tìm thấy ở nơi đây những ƣớc vọng truyền đời thuộc tƣ duy

nông nghiệp, những mối quan hệ với cả vũ trụ và cả thế giới nhân sinh của

ông cha ta, rồi những hoạt cảnh luôn làm náo nức tâm hồn nhân thế của mọi

thời. Nhƣ vậy, ở đó ngƣời xƣa đã hội đủ tài năng để “thao diễn” dòng chảy

của tâm tƣ qua hình thức chạm chìm, nổi, bong kênh, lộng. Mặt khác, ngay từ

rất sớm ngƣời Việt đã chú ý tới hình thức đồng hiện, không phân chia ranh

giới cụ thể cho một mảng chạm, để trên đó (cùng một mặt gỗ) có nhiều không

gian với các đề tài riêng, chúng không có mối liên hệ trực tiếp về nội dung với

nhau. Chỉ cần quan sát kỹ càng một chút, ngƣời xem đã có khả năng phân

định một cách rành rẽ các hình tích trên mảng chạm đó. Suy cho cùng, có thể

gọi chính xác hơn, đây là một dạng nghệ thuật điêu khắc đƣợc diễn ra trên

không gian hai chiều và tinh thần của nó vƣợt ra ngoài mục đích chỉ để đơn

thuần làm đẹp cho kiến trúc.

Nhƣ trên đã đề cập, nghệ thuật tạo hình không chỉ đơn thuần để trang

56

trí, làm đẹp cho kiến trúc hoặc các hiện vật nào đó, mà là sự kết tinh các giá

trị thẩm mỹ, là sự bồi đắp và ngày càng khẳng định bàn tay, khối óc tài hoa

của những ngƣời thợ thủ công. Đã một thời rất dài, hoa văn gắn vào cuộc

sống thƣờng ngày trƣớc việc ứng xử với cái đẹp, để trở thành những mảnh

tâm hồn nhân thế và cõng trên lƣng bao vấn đề lịch sử, xã hội của dân tộc.

Chúng luôn luôn mang đậm nhiều khía cạnh về bản sắc, dấu ấn của nghệ thuật

đƣơng thời. Chúng là hình ảnh chân thực, là lời nhắn nhủ đầy tính triết mỹ

của ông cha ta để lại cho mai sau.

Hiện nay, chúng ta dễ nhìn chạm khắc trên di tích nói chung nhƣ một

hình thức trang trí cho kiến trúc. Xuất phát từ nhận thức đó, nên giá trị tâm

linh của các mảng chạm khắc phần nào bị giảm. Nhƣng từ lâu nhiều nhà

nghiên cứu dân tộc học nghệ thuật, nhƣ cố Giáo sƣ Từ Chi, cố Họa sĩ Nguyễn

Đỗ Cung đã nhìn thấy cái động trong cái tĩnh, thấy đƣợc ý nghĩa ẩn tàng vẫn

còn lứu kéo tâm hồn những tín đồ khi tiếp cận, bởi thực tế các mảng chạm

khắc đó nhiều khi đã có một giá trị biểu tƣợng sâu xa để duy trì một nhận thức

và ƣớc vọng truyền đời của tổ tiên.

Các mảng chạm khắc này, về hình thức cũng đã phản ánh một khía

cạnh nào đó của tâm hồn dân tộc. Trong không gian của mảng chạm khắc,

thƣờng ngƣời xƣa ít khi dành ra những khoảng trống, nhất là những khoảng

trống có tính tƣ tƣởng. Một đặc điểm khác, cũng trong không gian đó, có

nghĩa trên một giải ván nong hoặc lá gió, hay một khối chạm khắc nào đó

thƣờng ít khi thấy đƣợc thể hiện chỉ một đề tài nghệ thuật mà nhiều khi lại

đan xen những đề tài khác nhau, có khi không liên quan tới nhau. Trong tạo

hình dân tộc, hình thức đồng hiện này chủ yếu thấy đƣợc thực hiện phổ biến

từ khoảng thế kỷ XVI về sau, đó là giai đoạn mà nghệ thuật chạm khắc dân

gian hình thành và phát triển ở các di tích, nhất là ở ngôi đình, cụ thể ở đình

Tây Đằng (Ba Vì, Hà Tây cũ). Một ví dụ cụ thể ở đình này, cùng trên một

57

mảnh gỗ nhỏ mà vừa xuất hiện cảnh trai gái “tình tự”, thì sát cạnh đó lại là

mảng chạm mang đề tài “ngồi khóc cho măng mọc”. Tuy vậy, tính đồng hiện

trong chạm khắc có thể chỉ đến đỉnh cao thuộc giai đoạn “nghệ thuật đình

làng” vào cuối thế kỷ XVII. Khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tính

đồng hiện phần nào giảm hẳn để các mảng chạm khắc mang tính hoạt cảnh

thƣờng gắn với các đề tài có sự tích riêng, nhƣ về đề tài Đinh Tiên Hoàng,

Quan Âm Thị Kính, Tây Du Ký…

Nhìn chung, theo thời gian, các mảng chạm khắc này đƣợc diễn ra có

sự thay đổi dần về kỹ thuật, nếu nhƣ ở thời Lý, thời Trần, thời Lê sơ… kể cả

chạm khắc trên đá hay trên gỗ, thƣờng đƣợc thể hiện dƣới dạng chạm nổi, rất

ít khi chạm chìm với hình thức tỉ mỉ, trau chuốt, đặc kín (thời Lý). Sau đó, đôi

khi trên mảng chạm cũng có những khoảng trống nhỏ (cuối thời Trần và thời

Lê sơ), song các mảng trống này chủ yếu là không gian phù trợ cho những đề

tài chính, chứ không phải nhƣ của ngƣời Trung Hoa có khi lấy các đề tài

chạm khắc (không mang tính trọng tâm) để phản ánh một ý miệm sâu xa

khác. Ở thời Mạc trở về sau, những đƣờng chạm nhỏ chỉ đƣợc thể hiện phù

trợ cho những mảng lớn, chẳng hạn nhƣ là đƣờng diềm hai bên sống đuôi con

thú… Thời này, hình chạm đƣợc tập trung vào các mảng lớn hơn thời trƣớc,

đó là những hệ vân xoắn, những đao để làm nền cho những đề tài chủ đạo,

nhằm mục đích thiêng hóa hoặc để đạt một ý nghĩa sâu xa nào đó… Với ý

thức nhƣ vậy, bằng kỹ thuật ngày càng phát triển và rộng khắp, cụ thể là

ngoài chạm nổi là cơ bản thì hiện tƣợng chạm bong kênh, chạm lộng đã đƣợc

thực hiện với tay nghề khá điêu luyện, để lại cho chúng ta những tác phẩm

tƣơng đối hoàn chỉnh. Những ví dụ cụ thể nhƣ hiện tƣợng chạm thủng đã xuất

hiện từ thời Mạc, rồi những đao rồng theo kiểu bong kênh ở trên kiến trúc nhƣ

tại các đầu dƣ của bộ vì, hay chạm lộng ở cửa võng…

Chạm khắc trên bộ vì và những vị trí khác đã để lại trong ý thức của

58

những ngƣời đƣợc tiếp cận, khiến nhiều khi tâm tƣ ngƣời xem vƣợt ra ngoài

nghệ thuật đơn thuần để tìm thấy đƣợc một số vấn đề thuộc lịch sử và xã hội

đƣơng thời gắn với các mảng chạm khắc đó. Nhìn chung, các mảng chạm đã

nâng giá trị nghệ thuật của ngôi đình lên rất cao.

3.1.2. Kỹ thuật điêu khắc, trang trí đình làng

Kỹ thuật điêu khắc là thể hiện trình độ và tính sáng tạo của ngƣời nghệ

nhân dân gian xƣa, qua đó gửi gắm tâm tƣ tình cảm của chính ngƣời nghệ

nhân cũng nhƣ phản ảnh hoàn cảnh lịch sử xã hội đƣơng thời.

Trƣớc hết, tôi tìm hiểu một số thuật ngữ, khái niệm về những kỹ thuật

điêu\chạm khắc (chạm thủng, chạm nông, chạm kênh bong, chạm lộng, chạm

nổi) mà ngƣời nghệ nhân dân gian đã sử dụng trong quá trình sáng tạo để làm

nên những mảng chạm khắc sinh động, chân thực, gần gũi, thể hiện ƣớc mơ,

khát vọng của ngƣời dân đƣơng thời về một xã hội thanh bình, yên vui; về

một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đồng thời, làm nên giá trị nghệ thuật đặc

trƣng của nghệ thuật chạm khắc đình làng.

Chạm: Tạo nên những đƣờng nét hoặc hình khối nghệ thuật trên mặt

vật rắn bằng cách đục, khắc [46, tr. 131]; kĩ thuật điêu khắc, đục xuống mặt

vật liệu (đá, gỗ, ngà…) để làm nổi bật lên các hình tƣợng nghệ thuật muốn

diễn tả. Các kỹ thuật chạm chủ yếu là chạm nổi (cao, vừa và thấp), chạm bong

hay chạm kênh, chạm lộng hay chạm thủng. Những kỹ thuật này phổ biến

trong mỹ thuật Việt Nam và thế giới [29, tr. 506].

Chạm thủng: Mặt ván thƣờng không dày, các hình thƣờng phẳng và

nền bị đục thủng, chỉ còn lại các hình trang trí. Kỹ thuật này cho phép diễn tả

hoa lá, mây nƣớc, chin thú, rồng phƣợng… rất tinh tế, mềm mại, thanh nhã,

với hiệu quả trang trí cao, lại có giá trị sử dụng khi làm cánh cửa, cửa thông

gió, tƣờng ngăn nhỏ hay bình phong… [16, tr. 149].

Chạm nông: Bề mặt gỗ phẳng và các chi tiết đƣợc chạm nổi ở trên đó.

59

Các bức chạm vuông vức trên các ván bƣng, hoành phi, câu đối… thƣờng

dùng lối chạm này, rất thuận tiện cho việc sơn son thiếp vàng. Kỹ thuật chạm

nong cho phép các hình trang trí đƣợc bố cục trải đều phủ kín mà không làm

giảm chịu lực của cấu kiện gỗ [16, tr. 150].

Chạm kênh bong: Kỹ thuật chạm khắc để tạo ra các hình trang trí nhiều

lớp từ thân gỗ chịu lực. Các hình rồng, phƣợng, mây, hoa lá gắn với các khối

lớn hoặc ở các xà kèo lớn thƣờng đƣợc tách ra, có khi theo nhiều lớp chồng

lên nhau. Kỹ thuật này tạo ra cảm giác các hình nhƣ mọc ra từ thân gỗ , kết

hợp với hiệu quả ánh sáng gây cảm giác trang trí uốn lƣợn rất cầu kỳ, hơn hẳn

cách chạm nông hay chạm thủng. Nhiều khi ngƣời ta kết hợp nhiều kiểu chạm

bong kênh bằng việc gắn thêm phía ngoài những chi tiết khắc rời, tạo hiệu

quả tầng tầng lớp lớp cho mảng trang trí. Kiểu chạm kênh bong khá phổ biến

ở phù điêu trang trí đình làng [16, tr. 150]; Chạm bong (chạm kênh, chạm

kênh bong) thuật ngữ kỹ thuật dân gian chỉ hình thức chạm khắc trên gỗ mà

một số thành phần của bức chạm đƣợc chạm trồi cao nên gần nhƣ tách ra khỏi

mặt nền. Lối chạm này tạo nên nhiều lớp cao thấp nhằm diễn tả chiều sâu

không gian, khẳng định những hình chủ yếu của bức chạm... Kiểu chạm này

đƣợc chạm nhiều trên các thành phần kiến trúc ở đình, chùa cổ Việt Nam…

[29, tr. 506].

Chạm lộng: Chạm theo lối đục thủng nền để chừa lại những hình nét

trang trí [46, tr. 131]; Là cách chạm khắc đòi hỏi kỹ thuật cao, sự công phu, tỉ

mỉ của ngƣời thợ. Đây cũng là kỹ thuật chạm khắc đầy tính biểu cảm, có hiệu

quả không gia và khối cao nhất. Các hình khối chạm lộng thƣờng là những

nhân vật và các con vật linh… Chúng gần nhƣ những pho tƣợng tròn, lồi hẳn

ra, chồng chéo nhiều lớp cực kỳ phức tạp, làm mất cảm giác về nền vốn có

của bức chạm. Cả thân cây gỗ đƣợc đục rỗng, tạo ra những khoảng trống luồn

lách trong khối tƣợng. Các bức chạm khắc đƣợc chạm lộng thƣờng là những

60

phần hấp dẫn nhất của điêu khắc trang trí đình làng [16, tr. 151]; Chạm lọng

(chạm lộng, chạm thủng) chỉ những bức chạm (phần nhiều bằng gỗ, ngà sừng)

mà các hình tƣợng nghệ thuật đƣợc thể hiện vẫn nằm trên mặt phẳng nhƣng

liên kết với nhau qua sự tiếp dính của các thành phần, còn mặt nền đƣợc đục

thủng để hằn rõ đƣờng viền của các hình tƣợng, đồng thời làm cho bức chạm

thông thoáng, nhẹ nhõm ()… Chạm lọng đƣợc thể hiện nhiều trên các bức chạm

ở cánh cửa, đƣờng diềm trang trí trên các đồ gỗ (…), đặc biệt áp dụng để đục các

cửa võng ở phía trên bàn thờ gian giữa (…) [29, tr. 506].

Chạm nổi: Một hình thức nghệ thuật mà hình tƣợng đƣợc diễn tả trên mặt

phẳng bằng độ đục chạm (trên gỗ, sừng, ngà, đá, kim loại…) nông sâu khác nhau.

Tùy theo độ cao thấp của hình khối so với mặt nền của bức chạm,

ngƣời ta chia ra ba loại: 1) Chạm nổi thấp: các hình tƣợng đƣợc chạm với độ

nổi rất thấp, đủ để diễn tả độ tƣơng quan tƣơng đối giữa hình khối của đối

tƣợng miêu tả. Chạm nổi thấp thƣờng đƣợc thể hiện trên kim loại (đồng,

vàng, bạc…) hoặc thể hiện hoa văn trên mặt phẳng bức chạm để làm nền cho

các hình tƣợng khác (nhƣ nền mây hoa trong các bức chạm đá thời Lý; nền

vân gấm, nền triện trên bức hoành phi, câu đối cổ). 2) Chạm nổi vừa: các hình

tƣợng đƣợc diễn tả có độ nổi cao hơn các loại chạm nổi thấp. Nhƣng những

độ cao nhất của các hình tƣợng vẫn nằm trên một mặt phẳng tƣơng đối (nhƣ

những bức chạm đá ở dọc theo hành lang và cầu đá chùa Bút Tháp - Bắc

Ninh). 3) Chạm nổi cao: các hình tƣợng đƣợc chạm với độ nổi cao dƣờng nhƣ

chúng đƣợc đắp lên mặt phẳng nền. Chạm nổi cao tạo nên độ tƣơng phản

mạnh giữa khối nổi thu ánh sáng và những hốc tối sâu do bị thiếu ánh sáng để

diễn tả những đề tài gây ấn tƣợng thẩm mĩ mạnh mẽ do hình khối của hình

tƣợng gần với hiện thực hơn... [29, tr. 506].

Nhƣ vậy, từ các thuật ngữ, khái niệm về những kỹ thuật chạm khắc và

qua thực tế, có thể thấy đƣợc chạm khắc, trang trí đình là một yêu cầu cần

61

thiết để tránh đi những nét thô cứng của cấu kiện, đồng thời, cũng nhằm phản

ánh những khát/ƣớc vọng của con ngƣời trong nhiều mối quan hệ mang tính

tâm linh và xã hội trong dòng chảy của lịch sử dân tộc. Trải qua nhiều thế kỷ,

dƣới thời Lý, thời Trần và thời Lê sơ, chúng ta chỉ còn tìm đƣợc rất ít đồ

chạm trên chất liệu gỗ, lác đác nhƣ ở các ván lá gió thuộc di tích Cồn Chè

(Nam Định), chùa Thái Lạc (Hƣng Yên), chùa Bối Khê (Hà Tây cũ). Cả ba

địa điểm này đều có niên đại thời Trần, còn đồ gỗ nói chung của thời Lý và

thời Lê sơ hiện nay chƣa tìm đƣợc. Nhìn chung, trên cả đồ gỗ và đồ đá của ba

thời kỳ này mới chỉ gặp ở các phù điêu liên quan đến kiến trúc, với sản phẩm

của kỹ thuật chạm nổi và phần nào chạm chìm. Vào những thời từ thế kỷ XIV

trở về sau đã tìm đƣợc nhiều hình chạm khắc trên, trang trí các ngôi tháp, lăng

mộ bằng đá. Thực ra nghệ thuật tạo hình ở nƣớc ta, về cơ bản đƣợc nuôi

dƣỡng chủ yếu bởi kinh tế tập thể, rất hiếm có những nhà hảo tâm giàu có và

trí tuệ biết nuôi dƣỡng những trang khách trong nhà mình (hầu nhƣ không có

qúy tộc cha truyền con nối, dạng ngƣời nhƣ mạnh thƣờng quân). Vì thế không

có nhân tố hiểu biết, biết chơi để hỗ trợ tích cực và đứng đằng sau nghệ sĩ,

khiến nghệ sĩ mà thực chất là những nghệ nhân xƣa, không có đủ tâm lực để

sáng tạo ra những sản phẩm mang giá trị điển hình hết sức tỉ mỉ, tinh tế, vi

diệu nhƣ của Trung Hoa. Ngƣời nghệ nhân Việt thƣờng không mấy khi đƣợc

ghi tên vào sản phẩm của mình. Họ không đủ thời gian để tạo nên những tác

phẩm cực kỳ điêu luyện, dù cho nghệ thuật tạo hình Việt trên kiến trúc phần

nhiều có giá trị biểu tƣợng và là sản phẩm chung của cả cộng đồng, cá tính

của nghệ nhân thƣờng chỉ đƣợc ẩn vào các giá trị kỹ thuật, mỹ thuật chứ

không phải nằm trong sự sáng tạo nghệ thuật riêng biệt. Tình hình nhƣ nêu

trên cho thấy trên đồ đá chỉ là sự nối tiếp kỹ thuật chạm khắc của thời gian

trƣớc, còn trên đồ gỗ để đục chạm hơn, nhất là ở đình làng, đã cho phép phát

triển kỹ thuật chạm khắc từ nổi, chìm sang kết hợp với bong kênh, thậm chí

62

cả chạm lộng.

3.2. Nghệ thuật điêu khắc, trang trí đình Tình Quang

Với khí hậu của vùng nhiệt đới gió mùa có nhiều thuận lợi nhƣng cũng

đặt ra cho chúng ta nhiều thử thách. Sự khắc nghiệt của khí hậu cùng với hoàn

cảnh xã hội đã tác động rất lớn tới nghệ thuật tạo hình trên kiến trúc của

ngƣời Việt. Ban đầu là sự thay đổi của các triều đại phong kiến, kèm theo đó

là chiến tranh liên miên đã hủy hoại nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật quý

giá, đi cùng với đó là nhiều mảng điêu khắc, trang trí bị tàn phai, hƣ hỏng dần

hoặc bị quân xâm lƣợc lấy đi sau đó. Cho tới nay, đã không còn một công

trình nào bảo tồn nguyên vẹn những tác phẩm điêu khắc, trang trí từ ngày

khởi dựng và đình Tình Quang cũng nằm chung trong bối cảnh đó.

Có thể nói, giá trị nổi bật nhất của di tích đình Tình Quang là phần

nghệ thuật điêu khắc, trang trí trên kiến trúc. Ít có ngôi đình nào trong nội

thành Hà Nội tồn tại đến nay còn giữ đƣợc nhiều mảng điêu khắc với những

đề tài phong phú, mang tính nghệ thuật và ý nghĩa sâu sắc nhƣ đình Tình

Quang. Các mảng điêu khắc tập trung nhiều nhất ở tòa Đại đình, trên những

bức cốn, nghé, đầu dƣ và bẩy hiên. Những đề tài trang trí quen thuộc nhƣ

rồng, lân, phƣợng, vân xoắn, cụm mây,… không chỉ chuyển tải những mong

muốn ƣớc vọng của ngƣời dân mà còn góp phần làm cho kiến trúc ngôi đình

thêm mềm mại và sống động.

3.2.1. Nghệ thuật trang trí trên đất nung, vôi vữa

Tòa Đại đình to rộng, xòe ra trùm lên kết cấu khung gỗ, cùng với

những trang trí linh vật trên mái đã tạo nên một dáng vẻ hết sức hoành tráng

và cổ kính. Trên bờ nóc tòa Đại đình, hai đầu kìm của bờ nóc là hai con kìm

cuốn thủy dạng lân.

Chính giữa bờ nóc đắp hình tƣợng “lưỡng long chầu nhật” (đôi rồng

chầu mặt trời). Tiếp sau rồng là đôi phƣợng trong tƣ thế cánh dang rộng bồng

63

bềnh trên nền của bầu trời.

Bờ dải đƣợc trang trí dải hoa lá chanh chạy từ đuôi của đầu kìm đến

tiếp nối phần đầu guột. Phần giữa mà chính là phần cuối bờ chảy đƣợc tạo đắp

hình tƣợng dạng con Nghê. Phần đầu guột, tạo bởi hình tƣợng lá cúc lật, có

một phần nhánh lá vút ra. Đứng trên đó là hình tƣợng con Lân đang ngậm

cụm mậy.

Tất cả bờ nóc, bờ dải, bờ guột đều đƣợc đắp bằng vôi vữa và gạch hoa

chanh bằng đất nung. Đây là những sản phẩm có niên đại rất muộn và đƣợc

đắp giả cổ nên giá trị nghệ thuật không cao.

3.2.2. Nghệ thuật điêu khắc, trang trí trên gỗ

Điêu khắc ở đình làng bao gồm toàn bộ các phần trang trí, đục chạm

vào gỗ, tạo hình tƣợng hấp dẫn, ƣa nhìn cho các cấu kiện gỗ chịu lực vốn khô

cứng… Tại đình Tình Quang, các đề tài đƣợc thể hiện phong phú, đa dạng,

nhƣ: rồng, phƣợng, chim thú, tiên cƣỡi rồng… với những thủ pháp chạm nổi,

chạm lộng, chạm thủng, chạm kênh bong... tất cả hòa quyện, đan cài vào

nhau, tạo thành một tổ hợp sống động… thể hiện sự tài hoa, khéo léo của

ngƣời thợ thủ công và mang đặc trƣng dấu ấn đƣơng thời.

Với sự hiểu biết của mình, cùng với tài liệu thu thập đƣợc và nhất là

qua khảo sát thực tế tại đình Tình Quang, trƣớc tiên tôi đi vào trình bày từng

loại hình đề tài cụ thể rồi tiếp đến là khảo tả điêu khắc, trang trí trên một số bộ

phận kiến trúc nhƣ: Đầu dƣ, bức cốn, bẩy hiên...

Đề tài tiên cƣỡi rồng: Tại ván gió gian giữa tòa Đại đình còn có chạm

khắc hình tƣợng cảnh tiên cƣỡi rồng. Nữ cƣỡi trên lƣng rồng, với những hình

ảnh đó, con rồng đã mất đi dáng vẻ dữ tợn, oai nghiêm, mà chúng nhƣ những

con vật rất đỗi thân thuộc trong đời sống thƣờng nhật. Thông qua thể hiện đề

tài, ngƣời dân muốn gửi gắm vào đó những ƣớc vọng của mình. Ƣớc vọng về

một cuộc sống hòa bình, không có chiến tranh; khao khát vùng lên mong

64

thoát khỏi sự đè nén áp bức của chế độ quân chủ trung ƣơng tập quyền.

Đề tài rồng: Cũng nhƣ rất nhiều công trình kiến trúc tôn giáo, tín

ngƣỡng của ngƣời Việt, rồng là đề tài chủ đạo, chiếm số lƣợng lớn trong các

bộ phận trang trí trên kiến trúc của đình Tình Quang.

Từ rất lâu, rồng đƣợc coi là con vật thiêng và xuất hiện nhiều nhất

trong trang trí mỹ thuật và là hình tƣợng phổ biến trong nhiều nền nghệ thuật

của thế giới. Với hình dáng kỳ dị và huyền bí, cùng với nguồn gốc chƣa chân

xác và ẩn chứa nhiều ý nghĩa, nên rồng là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều nhà

khoa học trên thế giới và Việt Nam. Con rồng không có thật ở ngoài đời và

rồng 5 móng đƣợc xem là tƣợng trƣng cho nhà vua. Việc tạo kiểu dáng cho

rồng hoàn toàn là sự tƣởng tƣợng của ngƣời nghệ nhân xƣa và đƣợc thay đổi

theo từng thời điểm lịch sử.

Tại đình Tình Quang, đề tài rồng đƣợc thể hiện phong phú, nhƣng chủ

đạo là rồng mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII và rồng mang phong

cách nghệ thuật thời Nguyễn.

Rồng mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII: Cũng là đề tài rồng với

những đặc điểm chung: Mắt tròn lồi, mũi to nhƣ mũi sƣ tử, trán dô, miệng

rộng, sừng nhọn nhƣ sừng nai, tai thú, chân có bốn móng nhƣ móng chim

ƣng... nhƣng mỗi con lại có một vẻ riêng. Con thì cổ trơn, con thì có vẩy xếp

lớp; có con râu tết lại, bay ngƣợc về phía sau; có con râu uốn khúc thành

những ngọn lửa nhỏ, đều nhau; có con hai chân trƣớc vƣơn ra vuốt râu trông

rất ngộ nghĩnh; có con lại dùng hai chân sau tỳ vào cây cột lực lƣỡng nhƣ

muốn vƣơn mình thoát ra một cách dũng mãnh. Các con rồng đƣợc chạm với

thân mập, uốn khúc, miệng rộng, mắt tròn. Toàn bộ đao mắt, bờm rồng nhƣ

những đao mác cuồn cuộn bay ngƣợc ra phía sau. Khúc đuôi nhỏ dần, thuôn

đều. Lông đuôi xòe tròn nhƣ hình chiếc lá. Trong lòng mỗi giá chiêng tại vì

65

nóc đều đƣợc chạm nổi một con rồng lớn đang cuộn mình. Đầu rồng ở vị trí

trung tâm mảng chạm đang quay nhìn ra chính diện, râu, đao mắt bay đều ra

hai bên. Thân rồng cuộn khúc phía dƣới.

Tại đình đình Tình Quang còn giữ đƣợc một số đầu dƣ chắc khỏe, tại vị

trí gian giữa, gian bên, trƣớc Hậu cung chạm hình rồng phong cách nghệ thuật

nửa cuối thế kỷ XVII. Mỗi con lại có một vẻ riêng, con thì cổ trơn, con thì có

vẩy xếp lớp; có con râu tết lại, bay ngƣợc về phía sau; có con râu uốn khúc

thành những ngọn lửa nhỏ, đều nhau; có con hai chân trƣớc vƣơn ra nắm chặt

râu trông rất oai vệ; có con lại dùng hai chân sau tỳ vào cây cột lực lƣỡng nhƣ

muốn vƣơn mình thoát ra một cách dũng mãnh. Đuôi đầu dƣ ăn mộng qua

thân cột cái tạo thành rƣờng cánh tại vị trí xà nách.

Không chỉ có vậy, ở đình Tình Quang, còn nhiều mảng chạm rồng với

các lớp lá hoả, rồi dạng trúc hoá rồng... Hình tƣợng rồng với đao mác và mây

cuộn đã hợp thành một biểu tƣợng cầu mƣa của cƣ dân nông nghiệp.

Rồng mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn: Rồng mang phong

cách nghệ thuật Nguyễn có nhiều trên đồ thờ (nhang án, bát bửu, đồ tế khí…),

trên cấu kiện kiến trúc ở tòa Đại đình.

Rồng đƣợc chạm khắc với chiếc đầu khá lớn, nổi bật, trán dô, mắt lồi,

khuôn mặt dữ tợn. Bờm, tóc, đao mắt mềm mại, dạng nhƣ đuôi nheo, bay

ngƣợc ra đằng sau. Thân rồng uốn khúc, đuôi và các lông đuôi xoắn tít. Xung

quanh rồng là mây ám, rùa, phƣợng, hoa sen… Nét chạm, rối rắm, chúng có

nhiều nét tƣơng đồng với những mảng chạm ở các đình đƣơng thời.

Nói chung các mảng chạm rồng mang phong cách nghệ thuật Nguyễn ở

đình Tình Quang chủ yếu tập trung tại tòa Đại đình. Các con rồng thƣờng

không đứng độc lập mà đƣợc mô tả chung với các đề tài khác: phƣợng, rùa,

hoa sen, vân mây, lá lật… Một đặc điểm chung nữa là các con rồng mang

phong cách nghệ thuật thời này đều đƣợc tạo với chiếc đầu khá lớn so với

66

thân, mắt tròn lồi, sừng nhọn, miệng rộng, khuôn mặt dữ tợn…

Đề tài lân: Đây là con vật thiêng có nhiều tên gọi, có thể đƣợc gọi là Kỳ

lân. Do tạo hình có dáng lông thú, bờm dài nên có khi đƣợc gọi là con Sƣ tử

hay con nghê. Theo quan niệm của ngƣời xƣa, lân biểu thị cho sự thận trọng

và đức độ, nhiều khi là biểu tƣợng của sức mạnh tâm linh, trí tuệ và sự trong

sáng… Tại đình Tình Quang hiện còn có một vài bức chạm lân với hình dạng

khác nhau. Điểm xuyết trên thân, khuỷu là những vân xoắn, đao mác. Tất cả

tạo cho con lân một vẻ đẹp viên mãn, vừa sống động, vừa gần gũi.

Đề tài phƣợng: Còn gọi là phƣợng hoàng, vốn là một loài chim quý.

Theo quan niệm của dân gian, phƣợng đƣợc cho là biểu hiện của sự thái bình

khi nó xuất hiện. Phƣợng cũng là biểu hiện cho sự kết hợp giữa đàn ông và

đàn bà trong hôn nhận. Nếu long (rồng) tƣợng trƣng cho đàn ông thì phƣợng

biểu trƣngcho phụ nữ. Qua đó, cặp đôi con vật này thƣờng là biểu hiện cho sự

hòa hợp. Tại đình Tình Quang hiện còn có bức chạm phƣợng tại ván gió gian

giữa và bẩy hiên.

Điêu khắc, trang trí trên đầu dƣ: Đầu dƣ kiến trúc chạm dạng đầu rồng

với các họa tiết đao chạm lộng, chạm thủng và kênh bong. Đầu rồng có những

chi tiết: mũi nổi khối, mắt quỷ, miệng lang, sừng nai, tai thú, trán lạc đà, chân

chim ƣng, vẩy cá chép, móng chim ƣng. Đây là hình tƣợng rồng đã chịu ảnh

hƣởng của rồng Trung Hoa. Miệng ngậm minh châu, 2 nanh rồng đƣợc biến

thể dạng lá thiêng. Chân khuỳnh ra ốp vào phần dƣới cổ, chân trong tƣ thế

nắm chặt lấy 2 đao cổ phía dƣới. Có con với đôi chân trƣớc đƣợc đƣa ra xa

một chút, đuôi rồng mập dạng đuôi cá.

Đặc biệt, tại 2 đầu dƣ phía trƣớc gian giữa với 2 mặt ốp trung tâm, một

đuôi đƣợc biến thể thành hình tƣợng con Lân đang chầu qùy ra phía trƣớc sân

với tƣ thế khỏe mạnh đang vờn đùa vũ trụ. Một bên thì phần đuôi lại biến thể

thành hình tƣợng hai Võ sĩ vũ trụ đang cƣỡi trên đầu hai con Sƣ tử. Võ sĩ

67

đƣợc thể hiện hình tƣợng chú bé: một chú đội mũ tròn, một chú đội mũ tam

giác (mũ bì biện), mặt tròn vui tƣơi với dáng vẻ khỏe khoắn hồn nhiên. Đây là

một hình ảnh sinh hoạt đầy chất nghệ thuật dân dã. Cái khỏe của sự hồn

nhiên, cái khỏe của vũ trụ.

Về cơ bản đầu dƣ đƣợc chạm mập với những đao có độ gấp một phần

phía đầu rồi bay thẳng ra phía sau. Những họa tiết khác nhƣ cổ lƣợn dạng cổ

rắn với những đƣờng khắc tạo độ cong, kết hợp với những đƣờng diềm mềm

mại làm giảm đi sự thô kệch của phần kiến trúc.

Điêu khắc, trang trí trên các bức cốn: Tại 4 vì trƣớc sau của gian giữa

dày đặc những đề tài điêu khắc. Ở đây, chủ yếu là đề tài tiên cƣỡi rồng, rồng

ổ, lân, tiên múa…

Rồng ổ là một hệ thống gồm một con rồng lớn, đi kèm là 2 đến 3 rồng

con, đây là hình tƣợng phụ tử, cầu cho con đàn cháu đống. Những con rồng

lớn trong hệ thống rồng ổ đƣợc tạo toàn mặt, rồi những rồng con chủ yếu

đƣợc thể hiện phần đầu rồng với những đao bay hết thân. Hình tƣợng lân cũng

với đƣờng nét mềm, mập trong tƣ thế vờn đùa vũ trụ.

Một điều đáng chú ý ở đây là những hình tƣợng những cô tiên với

những cánh tay dang rộng nâng dải khăn mềm cũng đƣợc thể hiện rõ nét phần

đầu với bộ mặt tròn trĩnh, tai đeo hoa chảy dài xuống dƣới cổ kiêu ba ngấn,

với điệu múa vũ trụ cƣỡi trên đầu rồng. Hình tƣợng tiên cƣỡi rồng cũng

thƣờng gặp trên những công trình kiến trúc cổ truyền có niên đại thế kỷ XVII.

Nhiều nhà nghiên cứu đã đặt ra câu hỏi: Tại sao chỉ có giai đoạn này mới thấy

xuất hiện hình tƣợng tiên cƣỡi rồng trên trang trí kiến trúc? Để trả lời cho câu

hỏi này, cần nhìn nhận lại bối cảnh lịch sử đƣơng thời.

Thế kỷ XVII, nội chiến diễn ra liên miên, đời sống nhân dân khổ cực,

lòng ngƣời tan tác, tƣ tƣởng Nho giáo đi vào khủng hoảng. Trong giai đoạn

này nghệ thuật dân gian bắt đầu có những bƣớc phục hồi. Thông qua thể hiện

68

đề tài, ngƣời dân muốn gửi gắm vào đó những ƣớc vọng của mình. Đầu tiên

phải kể đến là ƣớc vọng về một cuộc sống hòa bình, không có chiến tranh.

Bên cạnh đó còn là khao khát vùng lên mong thoát khỏi sự đè nén áp bức của

chế độ quân chủ trung ƣơng tập quyền. Thông thƣờng, hình tƣợng rồng là linh

vật của tầng trên gắn liền với quyền lực của triều đình, cũng đồng nghĩa gắn

với vƣơng quyền. Hình tƣợng tiên cƣỡi rồng là một biểu tƣợng vƣợt lên trên

hết, là sự phản kháng đấu tranh của nhân dân với chính quyền phong kiến

mục ruỗng, thối nát.

Trên hai cốn nách gian giữa nối tòa Đại đình với Hậu cung trang trí

hình ảnh dân dã nhƣ dơi và chuột đang rƣợt đuổi nhau ẩn trong đám mây,

xung quanh điểm kín những đao mác, vân xoắn trông thật sinh động. Các hình

tƣợng này cũng thể hiện ƣớc vọng của cƣ dân nông nghiệp lúa nƣớc trong

việc cầu mong sự no đủ, mƣa thuận gió hoà, vạn vật sinh sôi phát triển.

Các hệ thống cốn khác, chủ yếu một phần đƣợc chạm bong kênh với sự

nổi khối bằng biểu tƣợng mây. Phần thân còn lại đƣợc bào soi vỏ măng. Các

xà đùi cũng đƣợc tạo tác tƣơng tự nhƣ vậy, duy chỉ có xà nách đƣợc chạm nổi

hình tƣợng rồng lá ở phần tiếp giáp với cột quân.

Điêu khắc, trang trí trên bẩy hiên: Bẩy hiên với phần đuôi mà thực chất

là phần nghé đƣợc tạo dạng đầu rồng với những đƣờng nét chạm khắc tƣơng

đồng nghệ thuật với đầu dƣ.

Thân bẩy cũng đƣợc chạm nổi với những biểu tƣợng một phần thân

dạng thân rồng. Đi kèm với nó là lá lật, cụm mây. Đầu của bẩy hiên đƣợc

chạm nổi với những đề tài khác nhau. Có đầu bẩy chạm hệ thống đao lƣợn,

mập, đi kèm với nó là mầm trúc với dạng lá thiêng. Từ ngọn trúc bay ra các lá

dạng đao. Có bẩy lại trang trí dạng rồng nửa thân với đuôi mập dạng đuôi cá,

đi kèm là dạng hoa thiêng với những lá thiêng ốp phía ngoài. Có những bẩy

trang trí dạng trúc hóa rồng với thân rồng dạng đốt trúc sù sì. Lại có bẩy chạm

69

nổi hình tƣợng phƣợng đang trong tƣ thế bay, với đôi cánh dang rộng.

Phƣợng ở đây có thể hiểu là linh vật của vũ trụ với chân là đất, cánh là gió,

lông là cỏ cây, lƣng là bầu trời, mắt là mặt trời và mặt trăng. Rồi có đầu bẩy

chạm nổi hình con lân đang bƣơn chải trong nền vũ trụ. Đây là những hình

tƣợng biểu trƣng cho sự trong sáng và trí tuệ của tầng trên.

Phần bẩy của góc thể hiện hình tƣợng ly. Những bẩy còn lại thì đƣợc

chạm cơ bản là những đám mây, rồi lá lật, lá thiêng, hay những dạng rồng lá

cách điệu.

Cùng với những đề tài về con ngƣời, rồng, lân, đao mác... Những đề tài

về các con vật quen thuộc cũng đƣợc chú ý mô tả tạo nên giá trị biểu đạt riêng

cho di tích.

3.2.3. Một số hiện vật của đình Tình Quang

Hiện vật là thành phần không thể thiếu trong mỗi di tích. Hiện nay đình

Tình Quang đang lƣu giữ một số di vật có giá trị tiêu biểu về niên đại và nghệ

thuật nhƣ sau:

Hiện vật bằng giấy: Hiện nay tại đình chỉ còn lƣu giữ đƣợc một sắc

phong Bảo Đại thứ 9 (1934). Đây là sắc phong của triều đình nhà Nguyễn ban

tặng cho Vua Lý Nam Đế - một trong ba vị Thành hoàng của làng.

Hiện vật bằng gỗ:

Y môn: Sơn son thếp vàng, treo ở hai cột cái phía sau của tòa Đại đình,

chủ yếu trang trí ở phần tiền diện với cánh tạo dạng cửa khám. Phần bo viền

dạng cách phƣớn với đôi rồng trƣờn thẳng xuống dƣới trên nền tảng những

vân mây, đầu rồng ngóc lên trên, toả sang cạnh tạo phần ốp bó liền với thân

cột. Diềm phía trên trang trí đề tài “lưỡng long chầu nhật”. Hình tƣợng rồng ở

đây cũng đƣợc thể hiện thông qua phần chạm nổi phía thân. Riêng phần đầu

rồng đƣợc gắn bởi mảng ghép khác tạo thành một thể thống nhất. Diềm đáy

tạo thành hai băng chữ nhật nằm. Dải băng trên chạm nổi đề tài rồng, lân với

70

từng đôi đang chầu vần vũ. Dải băng dƣới chạm nổi, bong kênh đề tài “lưỡng

long chầu nhật”, có phong cách tạo tác tƣơng tự phần riềm trên. Duy chỉ khác

ở đây có thêm đôi phƣợng đang dang cánh rộng để tạo thành đề tài rồng -

phƣợng trong tƣ cách cặp phạm trù Âm Dƣơng.

Phần lòng thân Y môn chia hai tầng cơ bản. Tầng trên tạo dạng hộp

đƣợc bổ thành các ô chữ nhật đứng. Các lòng ô chữ nhật hai bên tạo đối xứng,

bên trong trang trí rồng - phƣợng và đề tài ngũ quả. Diềm cạnh của các ô chữ

nhật này chạm nổi, với mỗi cọc khung là hình tƣợng một con rồng. Bốn ô chữ

nhật ở giữa chạm nổi bốn chữ: Thánh cung vạn tuế.

Phần thân dƣới của lòng Y môn lại tạo năm ô chữ nhật đứng. Hai ô

cạnh tạo hai mảng đề tài riêng: phần trên là đề tài tùng - trúc biểu tƣợng cho

sức mạnh của ngƣời quân tử; phía dƣới là hình tƣợng ly và phƣợng trên nền

sóng nƣớc. Ba ô chữ nhật bên trong tạo dạng cửa khám giật cấp, cũng với

những đề tài rồng chầu mặt trời và những cụm mây. Các nền giật lòng cửa

khám tạo dạng các dải hình lá. Đây là một trong những mảng trang trí quan

trọng thể hiện sự đề cao, tôn trọng Thành hoàng làng.

Nhang án: Đặt ở gian giữa tòa Đại đình, ngay dƣới Y môn. Nhang án,

hay còn gọi là khám thờ, hình hộp chữ nhật với hệ thống chân đứng thẳng hơi

chếch, tạo dáng thƣợng thu hạ thách. Nhang án đƣợc sơn son thếp vàng, cao

1,4m, dài 2m, rộng 90cm. Trang trí chủ yếu tập trung ở phần mặt trƣớc và

phần còn lại của hai mặt cạnh. Bốn góc nhang án tạo ốp vuông bó góc là hình

tƣợng rồng chạm thủng. Rồng cũng đƣợc đặc tả toàn thân, có phần gai góc do

hệ thống những đao tóc, đao vây đƣợc tỉa sắc nét.

Phần mặt trƣớc nhang án tạo các ô chữ nhật đứng, nằm khác nhau. Bên

trong chạm nổi trúc - mai, tùng - mai, lân - phƣợng. Riêng ô vuông chính giữa

là đề tài tứ linh. Đây là biểu tƣợng của các cặp phạm trù âm dƣơng mà trung

tâm là hình tƣợng mặt trời. Diềm bụng của nhang án tạo dạng diềm bụng cá,

71

chạm thủng đề tài hồ lô, cá chép hoá rồng trong tƣ thế đặc tả. Hai cạnh dƣới

diềm có những dải kim tòng gắn với hồ lô tạo nên sự mềm mại trong trang trí

của khuôn phạm chữ nhật. Đỉnh chóp của phần diềm bụng là hình tƣợng hổ

phù ngậm chữ Thọ. Đây là đề tài gắn liền với sự cầu mong no đủ. Hai mặt

cạnh của nhang án cũng đƣợc tạo ô. Phần giữa trang trí đề tài Rùa cõng hàm

thƣ, phía dƣới hàm bụng là hình tƣợng hổ phù. Các ô cạnh trang trí đào, lựu,

biểu trƣng cho sự mong muốn trƣờng tồn, sinh sôi con đàn cháu đống

Kiệu bát cống: Thƣờng đƣợc sử dụng để rƣớc trong dịp lễ hội. Kiệu

làm bằng gỗ, sơn son thếp vàng, tạo bởi hai phần chính là kiệu và đòn.

Phần thân: Bốn mặt bên thân kiệu tạo hai phần trang trí. Phần phía

ngoài chạm bong kênh, đề tài “lưỡng long chầu nhật”, hai bên trang trí vân

mây và dải kim tòng. Bốn góc dƣới tạo gờ bo hình hoa lá vân móc. Phần

trong thân kiệu cũng tạo hình trên cả bốn mặt: Mặt trƣớc bổ ô, chạm lộng.

Bốn góc tạo hình vuông, trang trí hoa mai bốn cánh. Hai diềm phía dƣới chạm

lộng hoa lá cúc dây. Trên cùng tạo hình chim phƣợng ngậm cuốn thƣ, hai bên

buông xuống hai dải kim tòng mềm mại. Hai mặt bên trang trí đề tài tứ quý,

gồm: tùng, trúc, cúc, mai. Mặt sau chạm lộng, bổ ô, bốn góc tạo hình vuông,

trang trí hoa mai bốn cánh, hai diềm trên và dƣới chạm hoa lá cúc dây. Bên

trong lặp lại đề tài trang trí chim phƣợng ngậm cuốn thƣ.

Chân kiệu: Hình đấu, giật cấp. Hai mặt trƣớc và sau tạo phù điêu hổ

phù vờn mây. Hai mặt bên chạm hổ phù ngậm chữ thọ, hai bên có hai con

rồng chầu vào. Bốn chân tạo giả kiểu chân quỳ, trang trí hình lá cúc lật.

Phần đòn: Gồm 2 đòn dọc, 2 đòn ngang và 4 đòn tay.

Hai đòn dọc giống hệt nhau, mỗi đòn tạo tác thành hình một con rồng,

đầu hƣớng về phía trƣớc, lƣng đỡ lấy kiệu. Miệng rồng ngậm ngọc, mũi hếch,

mắt mở tròn, bờm và râu bay ngƣợc ra phía sau tạo thành các đao lửa uốn

lƣợn. Phần cổ rồng tạo hình rồng nhỏ và cá chép theo đề tài: Cá chép vƣợt vũ

72

môn. Đuôi rồng kiểu đuôi cá chép, có vân mây, vân xoắn xung quanh. Lƣng

rồng đỡ lấy kiệu, bụng đòn (hay còn gọi là dạ cá) trang trí song phƣợng và

lƣỡng long chầu mặt hổ phù.

Hai đòn ngang cũng tạo hình rồng. Hai đầu hƣớng sang hai bên, đao

lửa toả ra phía sau. Lƣng đòn để trơn, bụng đòn chạm hình tƣợng song

phƣợng chầu hổ phù.

Bốn đòn tay tạo tác tƣơng tự nhƣ 2 đòn ngang nhƣng riêng bụng đòn lại

chạm hình lá cúc lật. Các bộ phận của kiệu liên kết, lắp ghép với nhau bởi các

mộng và chốt.

Ngoài những di vật kể trên, đình còn có nhiều đồ thờ cũng làm bằng

chất liệu gỗ nhƣ: ngai thờ, bàn thờ, kiệu xe, và những hoành phi, câu đối sơn

son thếp vàng với nội dung chủ yếu là ca ngợi công đức các vị Thành hoàng

làng. Hầu hết đều là hiện vật mới do nhân dân cung tiến cho đình.

3.3. Niên đại đình Tình Quang

3.3.1. Niên đại kiến trúc tòa Đại đình

Đối với mặt bằng kiến trúc, có thể nhận định, hƣớng của đình Tình

Quang quay về hƣớng Đông - Bắc. Đó là đặc điểm khác biệt đối với những

công trình kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng có niên đại trƣớc thế kỷ XVIII. Mặc

dù còn nhiều cách lý giải khác nhau về hƣớng của đình, nhƣng qua một số lần

tu bổ, mặt bằng của đình vẫn giữ nguyên theo hƣớng nhƣ lúc khởi dựng.

Đối với điêu khắc, trang trí, dựa vào phong cách nghệ thuật của các tác

phẩm điêu khắc, trang trí hiện còn tại tòa Đại đình, bƣớc đầu có thể đƣa ra

nhận định, công trình này đƣợc khởi dựng vào nửa đầu thế kỷ XVII, tu bổ lớn

vào nửa cuối thế kỷ XVII và tiếp tục đƣợc tu bổ một số lần sau này vào thời

Nguyễn. Đến năm 1971 đình tiếp tục đƣợc tu bổ, năm 2002 tu bổ lại mái tòa

Đại đình. Năm 2008 - 2009, đình đƣợc nhà nƣớc cùng nhân dân đóng góp

kinh phí và công sức tu bổ tổng thể các hạng công trình để có diện mạo ngôi

73

đình to đẹp nhƣ ngày nay.

2.3.2. Niên đại các công trình khác

Hồ bán nguyệt (Ao đình), trải qua thời gian, đến năm 2008 - 2009, sau

khi tu bổ đã thu hẹp lại thành Hồ bán nguyệt.

Bình phong, căn cứ vào các tài liệu, trƣớc đây không có Bình phong mà

mới đƣợc đƣa vào đợt tu bổ năm 2008 - 2009.

Nghi môn, hiện nay, đình Tình Quang có 2 Nghi môn. Nghi môn thứ

nhất, nằm phía trƣớc tòa Đại đình, trên trục thần đạo là một kiến trúc đƣợc

xây dựng lại vào khoảng cuối những 20 của thế kỷ XX; Nghi môn thứ hai,

ngang tòa Đại đình, bên trái để bắt đầu đi vào không gian của đình. Nghi môn

này đƣợc xây dựng vào năm 2010.

Nhà Tả vu, Hữu vu, trong lý lịch di tích đình Tình Quang, không nghi

năm xây dựng nhà Tả vu, Hữu vu mà chỉ nhắc đến chi tiết, năm 1935 sửa

chữa 2 bên nhà giải vũ. Nhà Tả vu, Hữu vu không có thấy nghi niên đại xây

dựng, nhƣng căn cứ vào nghệ thuật trang trí điêu khắc có thể đoán định, nhà

Tả vu, Hữu vu đƣợc xây dựng vào cuối những 20 của thế kỷ XX, đến năm

2008 - 2009 đƣợc tu bổ lại nhƣ ngày nay.

3.4. Định hướng bảo tồn, phát huy giá trị đình Tình Quang

3.4.1. Những quy định về bảo tồn, phát huy giá trị di tích

Nhận thức đƣợc một cách sâu sắc và toàn diện tầm quan trọng của sự

nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc nên ngay sau khi

mới giành đƣợc độc lập, trong lúc đất nƣớc đang gặp vô vàn khó khăn, Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã ra Sắc lệnh số 65 ngày 23 tháng 11 năm 1945 về việc

bảo tồn cổ tích trên toàn quốc, tại Điều 4 quy định:

“Cấm phá huỷ đình chùa, đền miếu, hoặc những nơi thờ tự khác như

cung điện, thành quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn.

- Cấm phá huỷ những bia ký, đồ vật, chiếu sắc, văn bằng, giấy má,

74

sách vở có tính cách tôn giáo nhưng có ích cho lịch sử mà được bảo tồn”.

Từ cơ sở ban đầu đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo tồn

và phát huy giá trị di sản văn hóa đƣợc ban hành, nhƣ: Luật, Nghị định,

Thông tƣ, Chỉ thị đã tạo hành lang pháp lý cho việc bảo tồn và phát huy giá trị

di sản văn hóa.

Trong thời kỳ đất nƣớc đang trên đƣờng tới công nghiệp hoá, hiện đại

hoá và hội nhập quốc tế toàn diện, việc phát huy bản sắc văn hoá dân tộc bên

cạnh việc tiếp thu những tinh hoa văn hoá thế giới là cần thiết, để con ngƣời

vững vàng hơn trong cuộc sống hiện đại. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm,

Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn

hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc chỉ rõ: Hết sức coi trọng bảo

tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống (bác học và dân

gian), văn hoá cách mạng, bao gồm cả văn hoá vật thể và phi vật thể. Tiếp

đến, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Ban Chấp hành

Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hội nghị Trung ƣơng lần thứ chín,

khóa XI đã đề ra 06 nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con ngƣời Việt

Nam trong thời gian tới, trong đó có nhiệm vụ nâng cao chất lƣợng, hiệu quả

hoạt động văn hóa, nhiệm vụ này chỉ rõ: Huy động sức mạnh của toàn xã hội

nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các giá

trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc;

Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản

văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử -

văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết

quả bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Phục hồi và bảo

tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Phát huy

các di sản đƣợc UNESCO công nhận, góp phần quản bá hình ảnh đất nƣớc và

75

con ngƣời Việt Nam.

Xuất phát từ thực tiễn bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, để công việc

này đi vào nề nếp, trong những năm vừa qua đã có rất nhiều quy định của Nhà

nƣớc, Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch liên quan đến vấn đề này

đƣợc ban hành. Riêng trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị di tích nói

chung, đình làng Việt nói riêng, chúng ta có thể tham khảo, áp dụng những quy

định nhƣ sau:

Luật di sản văn hoá đƣợc Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 6 năm

2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa đƣợc Quốc

hội thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2009.

Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính

phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa và Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa.

Nghị định số 70/2012/NĐ-CP ngày 18 tháng 9 năm 2012 của Chính

phủ quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án

bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.

Thông tƣ số 18/2012/TT-BVHTTDL ngày 30 tháng 12 năm 2012 của

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định chi tiết một số quy định về bảo

quản, tu bổ, phục hồi di tích.

Thông tƣ số 17/2013/TT-BVHTTDL ngày 30 tháng 12 năm 2013 của

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hƣớng dẫn xác định chi phí lập quy hoạch,

dự án, báo cáo kinh tế - kỹ thuật bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích.

Quyết định số 1076/QĐ-BVHTT ngày 24 tháng 7 năm 2001 của Bộ

trƣởng Bộ Văn hóa - Thông tin phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát

huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh đến năm 2020.

Chỉ thị số 73/CT-BVHTTDL ngày 19 tháng 5 năm 2009 của Bộ trƣởng

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc tăng cƣờng các biện pháp quản lý di

76

tích và các hoạt động bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích.

Hệ thống văn bản quy phạp pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt

động bảo quản, tu bổ di tích. Đồng thời, đã đề ra những nguyên tắc, có thể coi

nhƣ những định hƣớng cơ bản cho hoạt động bảo quản, tu bổ di tích nói

chung, trong đó có di tích đình làng Việt.

3.4.2. Những nguyên tắc cơ bản để bảo quản, tu bổ và phát huy giá

trị đình Tình Quang

Nguyên tắc cơ bản là bảo tồn các yếu tố gốc cấu thành di tích, bảo vệ

cấu kiện trong suốt quá trình thi công tu bổ di tích, chỉ thay thế khi thật cần

thiết, vật liệu thay thế phải phù hợp. Vật hiệu mới có thể đƣợc sử dụng nhƣng

ở mức hạn chế và đã đƣợc thử nghiệm. Thành phần, công trình nào không có

cơ sở khoa học để phục dựng phải đƣợc giữ nguyên hoặc phỏng dựng ra một

vị trí mới.

Khi đƣa ra giải pháp khoa học cho việc bảo quản, tu bổ phải tính tới

việc phát huy các giá trị của di tích, để di tích trở thành một trung tâm văn

hoá, một điểm đến du lịch của địa phƣơng, trƣớc mắt, tôi xin nêu một vài đề

xuất sau đây:

- Lập dự án bảo quản, tu bổ: Trƣớc hết cần phải đầu tƣ nghiên cứu giải

mã những giá trị ẩn chứa trong di tích, để việc bảo tồn và phát huy giá trị

đƣợc tốt hơn. Dự án bảo quản, tu bổ di tích phải đƣợc lập theo đúng quy định

của pháp luật hiện hành về di sản văn hóa. Nội dung của dự án bảo quản, tu

bổ di tích phải đề xuất đƣợc biện pháp bảo quản, tu bổ, phục hồi yếu tố gốc

của di tích, cảnh quan thiên nhiên, môi trƣờng sinh thái và các yếu tố khác có

liên quan nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di tích.

- Cần chú ý bảo quản hơn tu sửa: Việc bảo quản phải đƣợc quan tâm

thƣờng xuyên, phòng ngừa và hạn chế những nguy cơ làm hƣ hỏng mà không

77

làm thay đổi những yếu tố nguyên gốc vốn có của di tích. Để tránh tình trạng

di tích xuống cấp rồi mới tiến hành các biện pháp tu bổ, việc làm đó sẽ ảnh

hƣởng tới tính nguyên gốc của di tích.

- Mọi công việc bảo quản, tu bổ phải đƣợc thực hiện trên cơ sở khảo

sát, nghiên cứu kỹ lƣỡng theo quy định và không áp dụng các quy định nhƣ

trong xây dựng công trình mới. Việc bảo quản, tu bổ phải đảm bảo nguyên tắc

duy trì bố cục mặt bằng, sự sắp đặt, mối liên hệ giữa các hạng mục công trình

tiêu biểu của di tích với nhau và giữa các hạng mục công trình đó với cảnh

quan xung quanh đã đƣợc định hình qua thời gian.

Tuy nhiên, đối với các di tích kiến trúc gỗ ở Việt Nam, tu bổ là giải

pháp phù hợp nhất, nhƣng cần lƣu ý:

- Hạn chế tối đa mọi sự thay thế, chỉ thay thế khi không còn khả năng

cứu vãn, thay thế bằng vật liệu tƣơng tự vật liệu gốc;

- Giữ lại và tận dụng tối đa các thành phần của cấu trúc bị hƣ hại từng

phần, bằng phƣơng pháp nhồi bít các khoảng trống trong thân gỗ, nối, vá, gắn,

chắp các cấu kiện bị hƣ hỏng từng phần;

- Phải lắp dựng lại hoàn toàn chính xác các đặc điểm cấu tạo và liên kết

vốn có;

- Mọi sự thay thế hoặc bổ sung cần phải có trong hồ sơ lƣu trữ.

Trên thực tế quá trình tu bổ thƣờng chuyển sang nội dung công việc

mang tính chất khôi phục từng phần, nhƣ việc khôi phục những thành phần đã

mất hoặc việc loại bỏ những thành phần muộn và xa lạ với di tích. Những

việc này chỉ đƣợc làm hết sức thận trọng, trên cơ sở khoa học khách quan.

Cần đề cao phƣơng châm cứu chữa và duy trì lâu dài di tích là chính

yếu, tránh việc chạy theo bằng mọi giá sự hoàn chỉnh đến cùng, điều dễ dàng

78

dẫn đến tình trạng làm mất giá trị nguyên gốc của di tích.

Bảo quản, tu bổ di tích phải trở thành lĩnh vực hoạt động khoa học và

thực tiễn chuyên biệt. Bảo quản, tu bổ di tích phải dựa trƣớc tiên vào tri thức,

sau đó là vào phƣơng pháp, sau cùng là vào bàn tay ngƣời nghệ nhân.

Đối với di vật của di tích cần kiểm kê lập danh mục, xác định giá trị

của di vật, cổ vật tại di tích. Có phƣơng án bảo quản cũng nhƣ dự kiến đƣợc

các tình huống có thể xảy ra và cách giải quyết cho tình huống nhằm tạo sự

chủ động trong việc bảo vệ khi có sự cố.

Một vấn đề nữa cũng cần đặt ra là nâng cao về chuyên môn, nghiệp vụ

cho đội ngũ làm công tác tu bổ, đội ngũ làm công tác tu bổ, bảo vệ di tích.

Hiện nay, theo quy định: Tổ chức, cá nhân Việt Nam và nƣớc ngoài tham gia

lập quy hoạch di tích, dự án tu bổ di tích, báo cáo kinh tế - kỹ thuật tu bổ di

tích, thiết kế tu bổ di tích và thi công tu bổ di tích có đủ điều kiện năng lực theo

quy định của pháp luật về xây dựng và có Giấy chứng nhận hành nghề theo quy

định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Là một loại hình di tích “sống”, có những giá trị nhất định trong đời

sống thƣờng ngày, nên việc chăm lo bảo quản, tu bổ thƣờng xuyên cho mỗi

ngôi đình nói riêng và các di tích khác nói chung là điều rất cần thiết. Một hƣ

hỏng nhỏ, nếu đƣợc kịp thời sửa chữa sẽ ít tốn kém về kinh phí, tránh sự

xuống cấp nặng nề và kéo dài tuổi thọ cho công trình.

Việc bảo quản, tu bổ phải thực hiện theo đúng quy định và khoa học,

với những nguyên tắc cơ bản, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.

Đối với loại hình xây dựng đặc thù này, việc chỉ định thầu, việc dành quyền

thi công cho những đơn vị chuyên môn, am hiểu là hết sức cần thiết.

Bảo tồn và phát huy giá trị di tích là sự nghiệp của toàn dân, gìn giữ,

bảo vệ ngôi đình làng là việc chung của cả dân làng, nhƣng nếu việc bảo vệ

đó đƣợc thành lập có tổ chức, có sự hƣớng dẫn, tuyên truyền của những ngƣời

79

làm công tác chuyên môn, sẽ tránh đƣợc nhiều sai lầm đáng tiếc trong việc

bảo quản, tu bổ di tích. Khi đƣợc giải thích, chắc chắn ngƣời dân sẽ dành kinh

phí để bảo quản, tu bổ di tích theo đúng quy định, chánh đƣợc tình trạng làm

mới di tích một cách có ý thức.

3.5. Tiểu kết

Có thể nói, giá trị nổi bật nhất của di tích đình Tình Quang là phần

nghệ thuật điêu khắc, trang trí trên kiến trúc. Ít có ngôi đình nào trong nội

thành Hà Nội tồn tại đến nay còn giữ đƣợc nhiều mảng điêu khắc, trang trí với

những đề tài phong phú, mang tính nghệ thuật và ý nghĩa sâu sắc nhƣ đình

Tình Quang. Các mảng điêu khắc tập trung nhiều nhất ở tòa Đại đình, trên

những bức cốn, nghé, đầu dƣ và bẩy hiên. Những đề tài trang trí quen thuộc

nhƣ rồng, lân, phƣợng, vân xoắn, cụm mây,… không chỉ chuyển tải những

mong muốn ƣớc vọng của ngƣời dân mà còn góp phần làm cho kiến trúc ngôi

đình thêm mềm mại và sống động.

Tất cả bờ nóc, bờ dải, bờ guột đều đƣợc đắp bằng vôi vữa và gạch hoa

chanh bằng đất nung. Đây là những sản phẩm có niên đại rất muộn và đƣợc

đắp giả cổ nên giá trị nghệ thuật không cao.

Tại đình Tình Quang, đề tài rồng đƣợc thể hiện phong phú, nhƣng chủ

đạo là rồng mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII và rồng mang phong

cách nghệ thuật thời Nguyễn.

Đầu dƣ ở đình Tình Quang đƣợc chạm lộng, nổi với hình tƣợng đầu

rồng đƣợc thể hiện hai bên mũi hếch lên phía trên, miệng rộng, mắt tròn nổi

khối là sản phẩm của nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVII.

Thông qua nghệ thuật chạm khắc, trang trí trên kiến trúc, bƣớc đầu có

thể tạm thấy, khởi thủy đình đƣợc dựng vào nửa đầu thế kỷ XVII, sau đó vào

cuối thế kỷ này đƣợc tu bổ chút ít. Đặc biệt, vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX

đã có một sự tu bổ lớn… Dƣới thời Nguyễn, đình đƣợc tu bổ lớn, cấu trúc bộ

80

vì nóc đã thay đổi, cho nên các mảng chạm cùng thay đổi. Vì vậy, nghệ thuật

chạm khắc cổ truyền của đình chủ yếu chỉ còn ở các đầu dƣ, các cốn gian

giữa, các kẻ nối giữa cột quân và cột hiên. Tuy nhiên, những mảng chạm

khắc, trang trí cơ bản của nghệ thuật thời khởi dựng vẫn đƣợc giữ gìn một

81

cách trân trọng.

KẾT LUẬN

Đình Tình Quang có thể coi là ngôi đình làng quê điển hình vùng đồng

bằng Châu thô Bắc Bộ Nam sông Đuống. Nằm trong dòng chảy của hệ thống

kiến trúc đình làng Việt Nam, đình Tình Quang đã góp phần khẳng định giá

trị lịch sử văn hóa của kiến trúc đình làng trong lịch sử dân tộc.

Những giá trị nghệ thuật kiến trúc

- Đối với bố cục mặt bằng: Những nguyên cứu về đình làng Việt trong

những năm vừa qua cho thấy, những ngôi đình buổi đầu chỉ có mặt bằng chữ

nhất, ba gian hai chái (đình Tây Đằng, đình Thanh Lũng, đình Thụy Phiêu, Hà

Tây cũ; đình Xuân Dục, Hà Nội). Về sau này, bên cạnh ngôi đình với mặt

bằng ba gian hai chái, đã xuất hiện những ngôi đình lớn hơn, mặt bằng năm

gian hai chái (đình Đông Viên, đình So, Hà Tây cũ; đình Phù Lão, Bắc

Giang). Cũng từ nửa sau thế kỷ XVII, Hậu cung chuôi vồ đã xuất hiện trong

kiến trúc đình làng (đình Hữu Bằng, đình So, Hà Tây cũ), cho thấy Thành

hoàng đã đƣợc đƣa hẳn vào thờ tự trong đình, đình Tình Quang cũng nằm

trong quy luật phát triển chung đó. Ra đời từ thế kỷ XVII, giai đoạn phát triển

rầm rộ của kiến trúc đình làng, đình Tình Quang là một nhân tố góp vào sự

bùng nổ của đình làng.

Hơn thế nữa, đình Tình Quang là một trong số ít ngôi đình niên đại thế

kỷ XVII còn bảo tồn đƣợc phần nào về kiểu dáng kiến trúc. Khởi dựng từ nửa

đầu thế kỷ XVII, tới đầu thế kỷ XX, đã có đầy đủ các hạng mục: Ao, Bình

phong, Nghi môn, sân, nhà Tả vu, Hữu vu, tòa Đại đình, Hậu cung... Tất

nhiên, các công trình đó không phải ra đời cùng một thời điểm mà đƣợc xây

dựng, bổ sung dần qua từng thời kỳ lịch sử, phù hợp với sự phát triển chung

82

của đình làng Việt.

- Đối với kết cấu khung kiến trúc: Cùng với các đình làng ở đồng bằng

Châu thổ Bắc Bộ tạo nên một phong cách kết cấu mang tính thời đại không

thể phủ nhận đƣợc. Nếu từ thế kỷ XVI trở về trƣớc, hệ vì cơ bản của kiến trúc

cổ truyền Việt Nam là kiểu vì: 4 hàng chân, khẩu độ lòng nhà hẹp, câu đầu

thƣờng đặt trên đầu cột, vì nóc giá chiêng với những con rƣờng, trụ trốn ngắn

mập. Sang thế kỷ XVII, ở đình Tình Quang và một vài ngôi đình làng khác

(đình Nghiêm Xá, Hà Tây cũ), bộ vì nóc kiểu giá chiêng, vẫn còn các ván

bƣng chạm rồng trong lòng giá chiêng, khá gần gũi với những ngôi đình thời

Mạc trƣớc đó (đình Thụy Phiêu, đình Tây Đằng, Hà Tây cũ)… Tuy nhiên, ở

đây, con rƣờng trên cùng đã thẳng hơn, không còn uốn cong kiểu rƣờng bụng

lợn nữa. Cũng từ thế kỷ XVII, với việc dùng gỗ lim có khẩu độ lớn hơn thay

thế gỗ mít; với nhu cầu mở rộng lòng công trình, đã xuất hiện kiểu vì 6 hàng

chân, xuất hiện cấu kiện kẻ suốt liên kết hiên; Kiểu vì trên rƣờng, dƣới kẻ đã

trở nên phổ biến.

Từ thế kỷ XIX bộ khung nhà đã chia thành hai ngả. Một là trở về với

kiểu 4 hàng chân, các con rƣờng đã đƣợc dùng làm yếu tố liên kết và ở đầu

cột quân vƣơn ra chiếc bẩy. Con rƣờng đã đƣợc biến thể đủ loại thành: Cốn

mê, giả thủ, chữ triện... (nhƣ kiến trúc Đại đình); Ngả thứ hai có khuynh

hƣớng quay về với kỹ thuật truyền thống, kẻ suốt đã biến thành kẻ chuyền với

một hàng cột hiên tạo nên kiểu vì 6 hàng chân. Tất cả các cấu kiện đó đƣợc

liên kết với nhau bởi các chốt mộng khít khao, khi cần có thể tháo lắp một

cách dễ dàng, thuận tiện. Thực tế, nhiều làng đã dời đình làng từ vị trí này tới

vị trí khác (đình Đông Viên rời từ ngoài bãi vào trong làng), có làng đã đi

mua cả bộ khung đình từ nơi khác về dựng lại (đình Phong Cốc, Quảng Ninh;

đình Khê Tang, Hà Tây cũ), có làng đã nâng kích bộ khung đình lên cao một

83

vài mét để tránh ngập lụt (đình Thổ Hà, Bắc Giang đã đƣợc nâng lên cao

1,6m). Từ những ví dụ đó đã chứng minh tính ƣu việt của bộ khung kiến trúc

gỗ cổ truyền Việt. Và có thể nói: Ngƣời Việt dựng chứ không xây đình...

Cùng kiểu vì nhƣ vậy, cùng kiểu liên kết ấy ngƣời Việt không chỉ dùng

để dựng đình mà dùng cho hầu hết các loại hình kiến trúc mà không có sự

phân tách. Điều đó nói lên tính thống nhất cao về mặt kết cấu trong kiến trúc

cổ truyền Việt. Các kiểu liên kết vì xuất hiện ở những thời điểm khác nhau,

nhƣng kiểu vì sau không loại trừ kiểu vì trƣớc. Kiểu vì giá chiêng đã xuất

hiện sớm vẫn đƣợc sử dụng ở thời sau, tuy có vài biến đổi cho phù hợp. Điều

đó cho thấy thức kiến trúc cột - xà - kẻ - bẩy đã đƣợc bảo lƣu một cách khá

vững chắc. Trong tổng thể kiến trúc, mỗi một cấu kiện giữ một vai trò, một

công năng kỹ thuật nhất định, tạo nên tính hợp lý của cấu tạo. Có thể nói:

Tính thống nhất - Tính bảo lƣu - Tính hợp lý là những đặc trƣng cơ bản của

kiến trúc gỗ cổ truyền Việt.

Những giá trị nghệ thuật điêu khắc, trang trí

Trƣớc điêu khắc đình làng, nghệ thuật Lý - Trần đã mô tả các vũ nữ

trong những đƣờng viền vuông vức (chân tảng chùa Phật Tích, Bắc Ninh; cốn

ở chùa Thái Lạc, Hƣng Yên). Thậm chí, thế giới ngƣời và vật sống động trên

lan can chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) vẫn không vƣợt ra nổi cái hữu hạn của đố

trụ lan can đá… Với điêu khắc đình Tình Quang, các đƣờng diềm trang

nghiêm và cố định đã biến mất. Hình ảnh đƣợc chảy tràn ra không gian,

phóng túng và bạo dạn nhƣ muốn tuyên bố rằng, không có bất cứ một sức

mạnh nào có thể trói buộc đƣợc một cuộc sống bộn bề hừng hực toát lên trong

từng bức chạm.

Về mặt bố cục, nếu ở nghệ thuật Lý - Trần, hình rồng trong một chiếc

lá đề phải đối xứng qua ngọn lửa đã đành, mà ngay trên bề dày của các viên

gạch bố cục theo dải cũng là phải đối xứng. Tính đăng đối đã làm cho nghệ

84

thuật tuy có nhịp điệu, nhƣng đã tạo nên cảm giác buồn, lặng lẽ. Ngƣợc lại, ở

điêu khắc, trang trí đình Tình Quang hình ảnh ngoài đời trơn chảy trong

nguồn cảm hứng bất chợt diễn mãi không hề lặp lại.

Điêu khắc đình Tình Quang còn thể hiện vẻ độc đáo, không gian và tỷ

lệ của các bức chạm hoàn toàn theo cảm hứng của ngƣời nghệ nhân, các đề tài

nối tiếp nhau, tạo nên một tổ hợp sống động. Kích cỡ của các hình khối đã

không giữ đúng tỷ lệ thực của chúng mà ngay trong một mảng chạm giữa các

đề tài cũng không theo một tỷ lệ nhất định. Các nghệ nhân chạm khắc đình

Tình Quang đã giỏi về bố cục lại tài về diễn khối. Nét phổ quát của hình chạm

là lối diễn khối mập khoẻ, đầy đặn. Những khối không đơn điệu mà trở nên

sống động, vấp váp với những nhát đục dứt khoát. Kỹ thuật chạm bong kênh

làm cho khối bật lên trên các thớ gỗ dày dặn.

Điều cuối cùng tôi nhận thấy ở cá tính tạo hình của điêu khắc, trang trí

đình Tình Quang là chất hội hoạ. Lối chạm bong kênh tạo nên nhiều tầng,

nhiều lớp, nhiều hố hữu thức trên các tác phẩm, đã tạo cho bức chạm nhiều

màu, nhiều vẻ, luôn luôn thay đổi. Với lối sử dụng nhiều “màu” - ánh sáng

độc đáo nhƣ thế, chất hội họa thể hiện rất rõ nét. Và, cũng chính “kiểu tô

màu” ấy đã làm nên vẻ biến ảo của các bức chạm. Vẻ biến ảo ấy, đã làm điêu

khắc đình làng nhƣ tự nhân khối lƣợng các tác phẩm của mình lên với một

cấp số khó có thể tính đƣợc và chẳng bao giờ nhàm chán trƣớc ngƣời xem.

Với điêu khắc đình Tình Quang, ta đã đứng trƣớc một giai đoạn nghệ

thuật độc đáo nhất. Song, xem kỹ, ta cũng thấy điêu khắc đình Tình Quang

không phải là hiện tƣợng bất ngờ, mà đã thừa kế đƣợc một truyền thống điêu

khắc từ xƣa. Ngƣời thợ trang trí đình khi tiếp thu truyền thống của ông cha

vẫn cố tình muốn vƣợt qua để nói một kiểu ngôn ngữ ngang tắt, năng động,

cởi mở, để tự khẳng định mình và thời đại của mình, mà không hề tìm một giá

85

trị sao chép và thực sự họ đã vƣợt ngƣỡng thành công.

Với các mảng điêu khắc, trang trí thuộc giai đoạn hậu Lê, Nguyễn đã

chứng tỏ sự tài hoa, khéo léo của các nghệ nhân đƣơng thời. Những mảng

chạm khắc trang trí ở đình Tình Quang đã thể hiện tính dân gian sâu sắc với

nhiều đề tài phong phú. Đời sống và sinh hoạt của ngƣời dân địa phƣơng rõ

ràng đã có ảnh hƣởng đến nghệ thuật trang trí kiến trúc và ngƣợc lại, kiến

trúc, nghệ thuật điêu khắc lại là tấm gƣơng phản ánh cuộc sống của ngƣời

xƣa. Đình Tình Quang đã thực sự góp phần tô đẹp thêm truyền thống văn hoá

nghệ thuật ở Long Biên - Hà Nội nói riêng, cũng nhƣ trong nền nghệ thuật

kiến trúc đình làng vùng Châu thổ Bắc Bộ nói chung…

Đình Tình Quang là một trong ít ngôi cổ đình còn bảo tồn đầy đủ các di

vật có giá trị. Với tất cả các yếu tố đó, đình làng Việt Nam nói riêng, đình

Tình Quang nói chung phải đƣợc xem là những di sản văn hoá vô giá của ông

cha ta, cần đƣợc bảo tồn và phát huy giá trị để vẫn mãi toả sáng những giá trị

86

mà nó đã tạo ra trong dòng chảy của lịch sử văn hoá dân tộc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Đào Duy Anh (1964), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb KHXH, Hà Nội.

2. Toan Ánh (1968), Hội hè đình đám, Nxb Lá Bối, Sài Gòn.

3. Nguyễn Bích (1993), Cái đình và điêu khắc đình làng, Kỷ yếu Bảo tàng

Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, (số 8), tr. 36-39.

4. Nguyễn Bích (1996), Điêu khắc trang trí đình làng ở Bảo tàng Mỹ thuật

Việt Nam, T/c VHNT (số 6), tr. 32-33.

5. Trần Lâm Biền (1983), Quanh ngôi đình làng - lịch sử, T/c Nghiên cứu

nghệ thuật (số 4), tr. 38-43, 53.

6. Trần Lâm Biền (1996), Đôi nét về các di tích kiến trúc Việt Nam, T/c

Nghiên cứu Đông Nam Á (số 3), tr. 61-64.

7. Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb VHDT, Hà Nội.

8. Trần Lâm Biền (chủ biên) (2001), Trang trí trong mỹ thuật truyền thống

của người Việt, Nxb VHDT - T/c VHNT, Hà Nội.

9. Trần Lâm Biền (2003), Quanh ngôi đình làng - nghệ thuật, Bản tin của

Trung tâm Thiết kế và Tu bổ di tích, Hà Nội, tr. 26-29.

10. Trần Lâm Biền (chủ biên) (2008), Diễn biến kiến trúc truyền thống vùng

châu thổ sông Hồng, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

11. Trần Lâm Biền - Đào Hùng (1985), Con rồng trong mỹ thuật Việt Nam,

T/c Mỹ thuật (số 2), tr. 47-55.

12. Cục Bảo tồn bảo tàng và Bảo tàng Hồ Chí Minh (1996), 50 năm bảo tồn

di sản văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr. 7.

13. Cục Di sản văn hóa (2005, 2006, 2008, 2010, 2012), Một con đường tiếp

cận lịch sử, 6 tập, Nxb Thế giới và Xây dựng, Hà Nội.

14. Cục Di sản văn hóa (2014), Văn bản quản lý nhà nước về di sản văn hóa,

87

Hà Nội.

15. Nguyễn Văn Cƣơng (2000), Về yếu tố đặc sắc của đình làng Bắc Bộ, T/c

VHNT (số 7), tr. 39-42.

16. Nguyễn Văn Cƣơng (2006), Mỹ thuật đình làng Bắc Bộ, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

17. Nguyễn Du Chi (2000), Trên đường tìm về cái đẹp của cha ông, Viện Mỹ

thuật và Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

18. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, 3 tập, Nxb KHXH,

Hà Nội.

19. Nguyễn Đăng Duy (1978), Cái bẩy trong kiến trúc cổ, T/c Nghiên cứu

nghệ thuật (số 5, 6), tr. 47-51.

20. Đại Việt sử lược (1960), Bản dịch, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.

21. Đại Việt sử ký toàn thư (1998), Bản dịch Ngô Đức Thọ, 3 tập, Nxb

KHXH, Hà Nội.

22. Đình, chùa Tình Quang, lƣu trữ tại Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch, Hồ sơ số 203.

23. Kim Định (1971), Triết lý cái đình, Nxb Lá Bối, Sài Gòn.

24. Phạm Đức Hân (2009), Cụm di tích đình - chùa Hữu Bằng (Hà Tây) kiến

trúc và điêu khắc, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử.

25. Nguyễn Duy Hinh (1982), Về một số đặc điểm truyền thống của kiến trúc

cổ Việt Nam, Góp phần nghiên cứu bản lĩnh bản sắc dân tộc Việt Nam,

Nxb KHXH, Hà Nội.

26. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng thành hoàng làng Việt Nam, Nxb

KHXH, Hà Nội.

27. Diệp Đình Hoa (chủ biên) (1990), Tìm hiểu làng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội.

88

28. Diệp Đình Hoa (2000), Người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, Nxb KHXH, Hà Nội.

29. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam

(2007) Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 1, A - Đ, Tái bản lần thứ nhất,

Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

30. Nguyễn Văn Huyên (1989), Con voi trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam,

T/c Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật (số 1), tr. 43-46.

31. Nguyễn Hồng Kiên (1986), Đình Tường Phiêu (Hà Nội) một kiến trúc

hiếm ở đầu thế kỷ 17, Những phát hiện mới về khảo cổ học, Nxb KHXH,

Hà Nội, tr. 323-325.

32. Nguyễn Hồng Kiên (1991), Bộ vì nóc của kết cấu nhà khung gỗ cổ truyền

Việt Nam, T/c VHNT (số 2), tr. 24-31.

33. Nguyễn Hồng Kiên (1992), Đình làng Việt, Trung tâm Thiết kế và Tu bổ

các công trình văn hoá, Hà Nội, tr. 1-13.

34. Nguyễn Hồng Kiên (1996), Đình làng Việt, T/c Kiến trúc Việt

Nam (số 1), tr. 37-40.

35. Nguyễn Hồng Kiên (1996), Điêu khắc trên kiến trúc cổ truyền Việt, T/c

Kiến trúc Việt Nam (số 2), tr. 40-42.

36. Nguyễn Hồng Kiên (1996), Kiến trúc gỗ cổ truyền Việt, T/c Kiến trúc

(số 3), tr. 36-43.

37. Hồng Kiên (1999), Về mặt bằng những kiến trúc tôn giáo cổ truyền của

người Việt, T/c VHNT (số 11), tr. 48-50.

38. Nguyễn Hồng Kiên, Những ngôi đình làng Việt thế kỷ 16, Luận án Tiến sĩ

khảo cổ học.

39. Hoàng Đạo Kính (2012), Văn hóa kiến trúc, Nxb Tri thức, Hà Nội.

40. Tạ Quốc Khánh (2005), Đình làng Hạ Hiệp (Hà Tây) kiến trúc và điêu

khắc, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử.

41. Nguyễn Đăng Khoa (1989), Con người và tạo hình chạm khắc đình - đền

89

- chùa, T/c Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật (số 1), tr. 37-42.

42. Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thế Cƣờng (2003), Kiến trúc cổ Trung

Quốc, Nxb TP HCM.

43. Trần Lâm - Hồng Kiên (1987), Diễn biến của các loại hình kiến trúc cổ

Việt Nam, T/c Kiến trúc (số 2, 3), tr. 42-50.

44. Hoàng Linh (1979), Nhân đọc bài: Cái bẩy trong kiến trúc cổ Việt Nam

Bẩy và Kẻ, T/c Nghiên cứu nghệ thuật, số (4), tr. 57-57.

45. Bình Nguyễn Lộc (1971), Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Nxb

Lá Bối, Sài Gòn.

46. Hoàng Phê (Chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học

Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.

47. Lê Thu Phƣơng (2008), Tìm hiểu di tích đình Tình Quang, làng Tình

Quang, phường Giang Biên, quận Long Biên, Hà Nội, Khóa luận tốt

nghiệp ngành bảo tồn bảo tàng.

48. Bùi Thế Quân (2013), Qua mấy ngôi đình làng ven sông Đuồng, trên đất

Long Biên, T/c DSVH (số 2), tr. 91-96.

49. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thƣợng (1989), Mỹ thuật của người Việt, Nxb

Mỹ thuật, Hà Nội.

50. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thƣợng (1991), Mỹ thuật ở làng, Nxb Mỹ

thuật, Hà Nội.

51. Quốc sử quan triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chí, 5 tập, Bản

dịch Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa.

52. Quốc sử quan triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương

mục, Bản dịch Viện Sử học, 2 tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

53. Ngô Huy Quỳnh (1986), Tìm hiểu kiến trúc Việt Nam, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

54. Ngô Huy Quỳnh (1986), Kiến trúc Việt Nam, Nxb TP HCM.

90

55. Hà Văn Tấn - Nguyễn Văn Cự (1998), Đình Việt Nam, Nxb TP HCM.

56. Hà Văn Tấn (1999), Bài bia của Trương Hán Siêu và vấn đề phong Thành

hoàng, T/c Nghiên cứu lịch sử (số 1), tr. 42-50.

57. Hà Văn Tấn (chủ biên) (2002), Khảo cổ học Việt Nam, tập III, Khảo cổ

học lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.

58. Tiêu chuẩn quốc gia (2014), Di sản văn hóa và các vấn đề liên quan-thuật

ngữ và định nghĩa chung, xuất bản lần 1, Hà Nội.

59. Tống Trung Tín (1987), Vật liệu kiến trúc Việt Nam, trong 10 thế kỷ sau

Công nguyên, T/c KCH (số 4), tr. 45-60.

60. Tống Trung Tín (1997), Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và thời

Trần (thế kỷ 11-14), Nxb KHXH, Hà Nội.

61. Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Mạnh Cƣờng (1995), Đình làng-tính hai mặt

và quá trình biến đổi, T/c KCH (số 3), tr. 62-68.

62. Nguyễn Quốc Tuấn (1992), Thờ cúng Thành hoàng làng Việt ở Bắc bộ:

Nhận thức nguồn gốc, T/c Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật (số 1), tr. 16-18.

63. Nguyễn Quốc Tuấn (1992), Thờ cúng Thành hoàng làng Việt ở Bắc bộ:

Nhận thức nguồn gốc, T/c Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật (số 2), tr. 43-45.

64. Nguyễn Khắc Tụng (1981), Về cái Kẻ và cái Bẩy, T/c KCH (số 4), tr. 66-68.

65. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng người Việt cổ truyền ở Bắc Bộ,

Nxb KHXH, Hà Nội.

66. Trịnh Cao Tƣởng (1979), Đình làng Phù Lão - Hà Bắc trong nền cảnh

đình làng Bắc bộ, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học lịch sử.

67. Trịnh Cao Tƣởng (1981), Kiến trúc đình làng, T/c KCH (số 2), tr. 56-64.

68. Trịnh Cao Tƣởng (1982), Đình làng - điểm lại bước đi ban đầu, T/c

Nghiên cứu nghệ thuật (số 1), tr. 41-51.

69. Trịnh Cao Tƣởng (1982), Kiến trúc đình làng - Hình tượng, T/c Nghiên

91

cứu nghệ thuật (số 2), tr. 36-41,62.

70. Trịnh Cao Tƣởng (1985), Cây thước tầm trong nền kiến trúc cổ Việt Nam,

T/c KCH (số 2), tr. 57-62.

71. Trịnh Cao Tƣởng (2008), Về những dấu mã hóa trên cây thước tầm trong

nền kiến trúc cổ Việt Nam, T/c DSVH (số 3), tr. 99-102.

72. Nông Thành - Quốc Vụ (2010), Thử giải mã một số đề tài chạm khắc trên

đình Chu Quyến, T/c DSVH (số 3), tr. 70-74.

73. Nguyễn Đức Thiềm (1980), Tìm hiểu về cấu trúc gian - vì kèo trong nhà ở

truyền thống của người Việt, T/c Dân tộc học (số 2), tr. 49-53.

74. Nguyễn Đức Thiềm (1983), Đóng góp vào việc nghiên cứu nghệ thuật

kiến trúc đình làng miền Bắc, T/c Dân tộc học (số 2), tr. 33-38.

75. Nguyễn Đức Thiềm (1987), Tìm hiểu truyền thống kiến trúc dân gian và kinh

nghiệm xây dựng cổ truyền, T/c Nghiên cứu văn hóa (số 2), tr. 57-68, 75.

76. Đinh Khắc Thuân (2002), Văn bia và đình làng thế kỷ XVI, XVII, T/c

VHNT (số 6), tr. 62-68, 73.

77. Phan Cẩm Thƣợng (1997), Điêu khắc cổ Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

78. Chu Quang Trứ (1999), Kiến trúc dân gian truyền thống Việt, Nxb Mỹ

thuật, Hà Nội.

79. Trƣờng Đại học Mỹ thuật Hà Nội - Viện Mỹ thuật (2000), Bản rập họa

tiết Mỹ thuật cổ Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

80. Thái Bá Vân (1976), Điêu khắc đình làng, T/c Nghiên cứu nghệ thuật

(số 4), tr. 69-75.

81. Viện Nghệ thuật (1976), Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam (qua các bản

rập), Hà Nội.

82. Viện Sử học (1977 - 1978), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, 2 tập, Nxb

KHXH, Hà Nội.

83. Lê Quốc Vụ (2006), Đình Xuân Dục - Một kiến trúc được xác nhận vào

92

thế kỷ XVII, T/c DSVH (số 4), tr. 52-55.

84. Lê Quốc Vụ (2008), Về ba bài bị đặc biệt của đình Ngọc Động (xã Đa

Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội), T/c DSVH (số 3), tr. 73-75.

85. Trần Quốc Vƣợng (1998), Việt Nam cái nhìn địa - văn hoá, Nxb VHDT -

T/c VHNT, Hà Nội.

86. Trần Quốc Vƣợng (2000), Văn hoá Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm, Nxb

VHDT - T/c VHNT, Hà Nội.

Tài liệu tiếng Pháp

87. Louis Bezacier (1954), L’Art Viêtnamien, Éditions De L’Union Francaise,

93

3, Rue Blaise - Desgoffe - Paris - VI.

BẢN ĐỒ, SƠ ĐỒ

94

Bản đồ 01: Thành phố Hà Nội [Nguồn: Tập bản đồ hành chính 63 tỉnh, thành phố Việt Nam Nxb Tài nguyên - Môi trƣờng và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội 2013]

Sơ đồ 03: Khoanh vùng bảo vệ di tích, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

95

Bản đồ 02: Quận Long Biên [Nguồn: Tập bản đồ hành chính 63 tỉnh, thành phố Việt Nam Nxb Tài nguyên - Môi trƣờng và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội 2013]

h n ì r t g n ô c c ụ m g n ạ h

c á c ị v h n ị đ g n ằ b

t ặ

M

: 1 0 : ẽ v n ả B

96

BẢN VẼ

] a ó h

2 9 9 1 m ă n

,

h n ì đ

n ă v n ả s i

D c ụ C

i ạ Đ g n ứ đ t ặ

M

: n ồ u g N

[

: 2 0

ẽ v n ả B

97

h n ì đ

i ạ Đ g n ứ đ t ặ

M

: 3 0

ẽ v n ả B

98

2 9 9 1 m ă n

,

] a ó h

h n ì đ

n ă v n ả s i

D c ụ C

i ạ Đ n ề n g n ằ b t ặ

M

: n ồ u g N

[

: 4 0

ẽ v n ả B

99

h n ì đ

i ạ Đ n ề n g n ằ b t ặ

M

: 5 0

ẽ v n ả B

100

n ê b g n ứ đ t ặ

M

: 6 0

ẽ v n ả B

101

] a ó h

n ă v

2 9 9 1 m ă n

n ả s i

, t ắ c t ặ

M

: 7 0

D c ụ C n ồ u g N

[

ẽ v n ả B

102

A

-

A

t ắ c t ặ

M

: 8 0

ẽ v n ả B

103

B

-

B

t ắ c t ặ

M

: 9 0

ẽ v n ả B

104

C

-

C

t ắ c t ặ

M

: 0 1

ẽ v n ả B

105

106

Bản vẽ 11: Mặt cắt D - D

107

Bản vẽ 12: Mặt cắt E - E

7

,

6

,

5

,

4 c ụ r t ì v

t ế i t i h C

: 3 1

ẽ v n ả B

108

109

Bản vẽ 14: Chi tiết vì trục (C1 - C3’), (D1’ - D3), (C8 - C10’), (D - D10’)

G c ụ r t ì v

t ế i t i h C

: 5 1

ẽ v n ả B

110

K

,

H c ụ r t ì v

t ế i t i h C

: 6 1

ẽ v n ả B

111

112

Bản vẽ 17: Chi tiết vì nách 3, 4, 5, 6, 7, 8

8

,

3 c ụ r t ì v

t ế i t i h C

: 8 1

ẽ v n ả B

113

BẢN ẢNH

Bản ảnh 01: Vị trí di tích đình Tình Quang chụp từ vệ tinh [Nguồn: Google Earth 2015]

114

Bản ảnh 02: Ao đình, năm 2007

Bản ảnh 03: Hồ bán nguyệt (Ao đình)

115

Bản ảnh 04: Nghi môn

Bản ảnh 05: Toàn cảnh đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

116

Bản ảnh 06: Toàn cảnh đình

Bản ảnh 07: Mặt đứng Đại đình

117

Ảnh 08: Mặt bên Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

Bản ảnh 09: Mặt bên Đại đình, năm 2007

118

Bản ảnh 10: Chi tiết “Lƣỡng long chầu nhật” trên bờ nóc Đại đình

Bản ảnh 11: Chi tiết kìm nóc trên mái Đại đình

119

Bản ảnh 12: Bẩy hiên phía trƣớc Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

Bản ảnh 13: Bẩy hiên phía trƣớc Đại đình

Bản ảnh 14: Bẩy hiên phía sau Đại đình, năm 2008 [Nguồn: Lê Thu Phƣơng]

120

Bản ảnh 15: Bẩy hiên góc Đại đình, năm 2008 [Nguồn: Lê Thu Phƣơng]

Bản ảnh 16: Tả vu

121

Bản ảnh 17: Hữu vu

Bản ảnh 18: Hậu cung

122

Bản ảnh 19: Không gian Đại đình

Bản ảnh 20: Vì nóc, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

123

Bản ảnh 21: Trang trí trên cốn Đại đình, năm 1992 [Nguồn Cục Di sản văn hóa]

Bản ảnh 22: Trang trí trên cốn Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

124

Bản ảnh 23: Mảng chạm hình chim phƣợng trên cốn, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

Bản ảnh 24: Mảng chạm tiên cƣỡi rồng, năm 1996 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]

125

Bản ảnh 25: Mảng chạm tiên cƣỡi rồng

126

Bản ảnh 26: Hệ thống đầu dƣ

127

Bản ảnh 27: Hệ thống đầu dƣ

Bản ảnh 28: Mảng chạm rồng, năm 1996 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]

128

Bản ảnh 29: Mảng chạm tiên cƣỡi rồng, năm 1996 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]

Bản ảnh 30: Mảng chạm hình ngƣời ở đuôi đầu dƣ, năm 2006 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]

129

Bản ảnh 31: Mảng chạm hình ngƣời ở đuôi đầu dƣ

Bản ảnh 32: Mảng chạm hình con nghê ở đuôi đầu dƣ, năm 2006 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]

130

Bản ảnh 33: Mảng chạm hình con lân

Bản ảnh 34: Mảng chạm hình con rồng

Bản ảnh 35: Mảng chạm hình chim Phƣợng, năm 2006 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]

131

Bản ảnh 36: Mảng chạm hình chim Phƣợng

Bản ảnh 37: Mảng chạm mả táng hàm rồng

132

Bản ảnh 38: Trang trí trên vì nách Đại đình

Bản ảnh 39: Trang trí trên vì nách Đại đình

133

Bản ảnh 40: Trang trí trên vì nách Đại đình

Bản ảnh 41: Nền Đại đình [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

134

Bản ảnh 42: Nền Đại đình, năm 2007

Bản ảnh 43: Nền Đại đình

135

Bản ảnh 44: Bộ cửa Đại đình

Bản ảnh 45: Chân tảng cũ

136

Bản ảnh 46: Chân tảng mới

Bản ảnh 47. Gian thờ giữa Đại đình

137

Bản ảnh 48. Cửa võng Hậu cung

Bản ảnh 49. Cốn Hậu cung [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

138

Bản ảnh 50: Bài trí đồ thờ trong Hậu cung, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]

Bản ảnh 51: Long đình

139

Bản ảnh 52: Ngựa thờ tại Đại đình