BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

----------------

TRẦN BÌNH PHƯƠNG

NGHIÊN CỨU KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TẠI

CHÂU ÂU VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NGĂN NGỪA KHỦNG

HOẢNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng

Mã số : 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS NGUYỄN NGỌC HÙNG

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn “Nghiên cứu khủng hoảng nợ công tại

châu Âu và giải pháp để ngăn ngừa khủng hoảng nợ công ở Việt Nam” là

đề tài nghiên cứu riêng của cá nhân tôi. Các nội dung nghiên cứu và kết quả

trình bày trong luận văn là trung thực và rõ ràng.

Phú Yên, ngày 15 tháng 10 năm 2013

Tác giả luận văn

Trần Bình Phương

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các hình

MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1

Chương I: NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG .................................... 3

Ở CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI. ................................................................. 3

1.1 Những vấn đề lý luận về nợ công ...................................................................... 3

1.1.1 Khái niệm .................................................................................................... 3

1.1.2 Phân loại ...................................................................................................... 5

1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công ........................................................... 5

1.1.4 Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công ............................................ 7

1.1.4.1. Vay trong nước của Chính phủ ............................................................ 7

1.1.4.2. Vay nước ngoài của Chính phủ ............................................................ 8

1.1.5 Tác động của nợ công.................................................................................. 9

1.1.5.1. Những tác động tích cực của nợ công .................................................. 9

1.1.5.2. Những tác động tiêu cực của nợ công .................................................. 9

1.2 Khủng hoảng nợ công ...................................................................................... 10

1.2.1 Khái niệm khủng hoảng nợ công .............................................................. 10

1.2.2 Đặc điểm của khủng hoảng nợ công ......................................................... 11

1.2.3 Nguyên nhân và hậu quả của khủng hoảng nợ công ................................. 12

1.2.3.1. Nguyên nhân khủng hoảng nợ công .................................................. 12

1.2.3.2. Hậu quả của khủng hoảng nợ công .................................................... 13

1.3. Khủng hoảng nợ công ở một số nền kinh tế trên thế giới ............................... 14

1.3.1. Khủng hoảng nợ công tại các nước Mỹ Latinh ........................................ 14

16

1.3.2. Khủng hoảng nợ công tại các nước châu Á ............................................. 15

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương II: NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TẠI CHÂU ÂU GIAI ĐOẠN 2009-2011 VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM. ............................................................................................................. 17

2.1 Tình hình nợ công tại châu Âu trước khủng hoảng ......................................... 17

2.2 Khủng hoảng nợ công tại châu Âu giai đoạn 2009 - 2011 .............................. 19

2.3 Hậu quả của khủng hoảng nợ công châu Âu ................................................... 24

2.4 Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công tại châu Âu ............................... 26

2.4.1 Nguyên nhân nhìn từ quá khứ ................................................................... 26

2.4.2 Nguyên nhân khủng hoảng hiện tại ........................................................... 28

2.5 Tác động của khủng hoảng nợ công châu Âu đến Việt Nam và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............................................................................................ 29

2.5.1. Tác động của khủng hoảng châu Âu đến Việt Nam ................................. 29

2.5.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ......................................................... 32

KẾT LUẬN CHƯƠNG II 35

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM ............................. 36

GIAI ĐOẠN 2006 - 2012 ........................................................................................ 36

3.1 Các chỉ tiêu giám sát nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia ........................ 36

3.2 Tình hình vay nợ công ..................................................................................... 40

3.3 Tình hình sử dụng nợ công .............................................................................. 46

3.4 Tình hình trả nợ công của Việt Nam ............................................................... 50

3.5 Đánh giá tính ổn định của nợ công ở Việt Nam .............................................. 54

61

3.6 Dự báo tình hình nợ công Việt Nam trong thời gian tới ................................. 56

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Chương IV: GIẢI PHÁP NGĂN NGỪA KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM .............................................................................................................. 62

4.1. Phát triển nội lực của nền kinh tế ................................................................... 62

4.2. Thay đổi cơ cấu nợ công ................................................................................. 63

4.3. Kiểm soát nợ công ở mức an toàn .................................................................. 64

4.4. Tăng cường thể chế quản lý và giám sát nợ công, hình thành cơ quan quản lý nợ công thống nhất................................................................................................. 65

4.5. Tái cơ cấu nền kinh tế trong trung và dài hạn ................................................ 65

4.5.1 Nâng cao hiệu quả đầu tư công theo hướng đầu tư có trọng điểm, tránh dàn trải ................................................................................................................ 66

4.5.2 Đẩy mạnh tiến trình tái cơ cấu DNNN theo hướng tinh gọn, hiệu quả ..... 67

4.5.3 Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng với mục tiêu nâng cao hiệu quả công tác quản trị điều hành và tăng cường năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại ...................................................................................................................... 69

4.6. Nâng cao vai trò của hệ thống kiểm tra, giám sát tài chính ............................ 72

4.7. Quy định rõ ràng, tách bạch phạm vi nợ của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của doanh nghiệp ........................................................................... 73

4.8. Phải tiến hành xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm hợp đồng . ..... 74

4.9. Quy định rõ vai trò của người dân, các tổ chức ngoài nhà nước trong Luật quản lý nợ công đối với các hoạt động thu, chi của nhà nước. ............................. 74

4.10. Thay đổi tư duy về nợ công và DNNN: ........................................................ 75

4.11. Cần có sự kế thừa trong quản lý và sử dụng nợ công giữa các nhiệm kỳ của các nhà lãnh đạo: .................................................................................................... 76

4.12. Khuyến khích đầu tư tư nhân tham gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng để giảm gánh nặng cho NSNN: ........................................................................................... 76

77

4.13. Hệ thống thuế cần được cải cách đảm bảo các tiêu chí tạo nguồn thu bền vững, hiệu quả và công bằng: ................................................................................ 76

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4............................................................................

KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 78

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1: Ngưỡng nợ trong nước theo tiêu chuẩn của HIPCs ........................... 40

Bảng 3.2: Số liệu nợ công của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2012 ......................... 40

Bảng 3.3: Gói kích thích kinh tế năm 2009 ........................................................... 41

Bảng 3.4: Tỷ lệ tổng dư nợ hệ thống tín dụng trên GDP. ................................... 42

Bảng 3.5. Nợ công của Việt Nam năm 2011 .......................................................... 42

Bảng 3.6: Lao động hành chính, an ninh và sự nghiệp ăn lương và hưởng hưu trí của nhà nước. ..................................................................................................... 43

Bảng 3.7: Nợ nước ngoài của Chính phủ (kể cả được Chính phủ bảo lãnh) ..... 44

Bảng 3.8: Tốc độ tăng nợ nước ngoài của Chính phủ (kể cả được Chính phủ bảo lãnh) ................................................................................................................... 44

Bảng 3.9: Phân phối ODA theo vùng. ................................................................... 47

Bảng 3.10: ICOR của một số nước trong khu vực ............................................... 48

Bảng 3.11: Bội chi NSNN và nguồn tài trợ bội chi ngân sách ............................. 52

Bảng 3.12: Các chỉ số đánh giá độ bền vững nợ nước ngoài của Việt Nam. ..... 55

Bảng 3.13: Các chỉ số đánh giá tính ổn định nợ trong nước của Việt Nam. ..... 56

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1: So sánh GDP năm 2010 các nước trong EU ........................................ 18

Hình 2.2: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với GDP của các nước EU .................... 18

Hình 2.3: Chênh lệch lãi suất so với Đức của các nước EU ................................ 19

Hình 3.1: tình hình trả nợ và viện trợ của Việt Nam giai đoạn 2006-2010 ....... 51

Hình 3.2: Hiệu quả của nền kinh tế qua chỉ số ICOR giai đoạn 2001-2010 ............ 57

Hình 3.3: Tăng trưởng GDP thực và tỷ lệ lạm phát của Việt Nam từ năm 2006- 2012 ................................................................................................................. 60

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Ngân hàng phát triển châu Á. ADB:

Ngân hàng Trung ương Anh. BOE:

Bảo hiểm rủi ro tín dụng. CDS:

Thu ngân sách nhà nước. DBR:

DNNN: Doanh nghiệp nhà nước.

EC: Ủy ban châu Âu.

EU: Liên minh châu Âu.

EUR: Đồng tiền chung châu Âu

EUR: Đồng Euro

FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài.

FED: Cục dự trữ Liên bang Mỹ.

GDP: Tổng sản phẩm quốc nội.

GNI: Tổng sản lượng quốc gia.

HIPCs: Các nước nghèo có tỷ lệ nợ cao.

ICOR: Chỉ số hiệu quả đầu tư.

IMF: Quỹ tiền tệ Quốc tế.

JPY: Đồng Yên Nhật Bản

KTNN: Kiểm toán nhà nước.

MOF: Bộ Tài chính Việt Nam

NHNN: Ngân hàng nhà nước.

NHTM: Ngân hàng thương mại.

NPV: Tỷ lệ nợ nước ngoài

NSNN: Ngân sách nhà nước

Viện trợ phát triển chính thức. ODA:

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD:

Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa. OPEC:

Các nước châu Âu có tỷ lệ nợ cao. PIIGS:

SWAPs: Hợp đồng hoán đổi.

Năng suất nhân tố tổng hợp. TFP:

Trái phiếu Chính phủ TPCP:

Đồng Đôla Mỹ USD:

Đồng Việt Nam VND:

Ngân hàng thế giới. WB:

Tổ chức Thương mại thế giới WTO:

Xuất khẩu. X:

1

MỞ ĐẦU

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Nợ công và khủng hoảng nợ công là chủ đề nóng hiện nay bởi khả năng ảnh

hưởng của nó tới sức khỏe của các nền kinh tế và khả năng phục hồi của nền kinh tế

toàn cầu. Khủng hoảng nợ công đã tác động rất lớn đến đời sống kinh tế - xã hội

của mỗi quốc gia, khiến cho nền kinh tế thế giới rơi vào tình trạng suy thoái và

chậm phục hồi bởi những tác động tiêu cực của nó. Đặc biệt từ khi cuộc khủng

hoảng nợ công châu Âu diễn ra, thế giới đã chứng kiến sự sụp đổ của các nền kinh

tế lớn; đồng thời là tác động của nó đến các nền kinh tế khác trên phạm vi toàn cầu. Nợ công của thế giới năm 2011 lên tới 45.000 tỉ USD 1. Không chỉ các nước phát

triển như châu Âu, Mỹ mà ngay cả các nước đang phát triển cũng phải đối mặt với

vấn đề nợ công, trong đó có Việt Nam. Tuy nợ công Việt Nam hiện nay vẫn nằm

trong ngưỡng an toàn, nhưng hiệu quả quản lý và sử dụng nợ công còn nhiều bất

cập. Đã có nhiều bài viết của các chuyên gia kinh tế đề cập đến nợ công Việt Nam;

tùy theo cách tiếp cận khác nhau của mỗi người nhưng nhìn chung, các bài viết đã

phân tích những yếu kém và đưa ra giải pháp để khắc phục các yếu kém trong quản

lý và sử dụng nợ công ở Việt Nam.

Để đánh giá tình hình nợ công của Việt Nam và đưa ra các giải pháp nhằm

ngăn ngừa khủng hoảng nợ công xảy ra ở Việt Nam, tác giả đã chọn đề tài “Nghiên

cứu khủng hoảng nợ công tại châu Âu và giải pháp để ngăn ngừa khủng hoảng

nợ công ở Việt Nam” làm đề tài luận văn bảo vệ học vị thạc sỹ.

I. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Đề tài nghiên cứu nhằm hướng đến các mục tiêu sau:

(cid:57) Nghiên cứu tình hình khủng hoảng nợ công tại châu Âu để rút ra bài

học kinh nghiệm cho Việt Nam.

1 Tạp chí The Economist (Anh)

(cid:57) Đánh giá thực trạng nợ công của Việt Nam.

2

(cid:57) Đề xuất các giải pháp để Việt Nam không rơi vào khủng hoảng nợ

công.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu: tình hình khủng hoảng nợ công ở châu Âu; tình hình

nợ công của Việt Nam .

Phạm vi nghiên cứu: tập trung nghiên cứu thực trạng nợ công của Việt Nam

giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2012, là giai đoạn nền kinh tế quốc gia cũng như

toàn thế giới có nhiều biến động làm ảnh hưởng đến tính ổn định của nợ công Việt

Nam.

III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính. Các số liệu

nghiên cứu được lấy từ nguồn thứ cấp kết hợp với các phương pháp tổng hợp, thống

kê, phân tích, tham khảo ý kiến của các chuyên gia để hoàn thành luận văn này.

IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:

Nội dung luận văn gồm 4 chương:

Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về nợ công và khủng hoảng nợ công

Chương II: Nghiên cứu tình hình khủng hoảng nợ công tại châu Âu giai đoạn 2009

– 2011 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Chương III: Thực trạng nợ công của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2012

Chương IV: Giải pháp để ngăn ngừa khủng hoảng nợ công ở Việt Nam

3

Chương I: NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG

Ở CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI.

1.1 Những vấn đề lý luận về nợ công

1.1.1 Khái niệm

Trong giai đoạn hiện nay kinh tế thế giới vẫn đang phát triển mạnh mẽ và

tiềm ẩn những rủi ro lớn với những chuyển biến khó lường, điển hình như cuộc

khủng hoảng tài chính ở Mỹ năm 2008, khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp năm 2009

đã lan sang các nước trong khối Liên minh châu Âu mà nguyên nhân xuất phát từ

việc quản lý nợ công lỏng lẻo của Chính phủ các quốc gia. Với tham vọng kích

thích tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, trong nhiều thập kỷ qua các quốc gia đặc

biệt là các quốc gia đang phát triển đã liên tục sử dụng công cụ đòn bẩy tài chính

(vay nợ). Trong nền kinh tế tài chính hiện đại, việc sử dụng công cụ này đã góp

phần không nhỏ trong việc kích thích kinh tế tăng trưởng, tuy nhiên, công cụ tài

chính nào cũng có những mặt lợi và bất lợi của nó. Hậu quả của việc sử dụng đòn

bẩy tài chính này là vấn đề nợ của các quốc gia càng nóng hơn, đặc biệt từ sau cuộc

khủng hoảng nợ công ở châu Âu trong thời gian qua.

Theo thông lệ quốc tế, nợ quốc gia bao gồm: Nợ khu vực công và nợ khu

vực tư nhân không được bảo lãnh. Nợ khu vực công bao gồm: Nợ Chính phủ, nợ

doanh nghiệp nhà nước (DNNN), nợ được Chính phủ bảo lãnh (nợ của DNNN và

nợ của chính quyền địa phương được Chính phủ bảo lãnh; nợ tư nhân được Chính

phủ bảo lãnh).

Tuy nhiên, khái niệm nợ quốc gia nên được hiểu rộng hơn là nợ của các đối

tượng mang quốc tịch của một quốc gia nào đó. Trong trường hợp này, phải tính

đến các khoản nợ của các đối tượng có quốc tịch ở một nước nhưng lại sinh sống ở

một quốc gia khác. Do đó, việc kiểm soát các khoản nợ này rất phức tạp, hơn nữa

khái niệm nợ quốc gia có rất ít ý nghĩa kinh tế. Chính vì vậy, hiện nay các quốc gia

chủ yếu đề cập đến khoản nợ công, vì nợ công có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế.

4

Trong nợ công có phần nợ công nước ngoài phản ánh mức nợ của một quốc gia đối

với nước ngoài; nó có khả năng gây ra khủng hoảng nợ công nếu một quốc gia mất

khả năng chi trả.

Có rất nhiều khái niệm khác nhau về nợ công được các Chính phủ, các

chuyên gia kinh tế đưa ra, nhìn chung các khái niệm này chủ yếu tùy thuộc vào mục

đích và phạm vi sử dụng nợ của mỗi tổ chức, mỗi quốc gia.

Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của Chính phủ; khi chi tiêu của Chính

phủ lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được, Nhà nước phải đi vay (trong hoặc ngoài

nước) để trang trải thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và

lãi khi đến hạn, Nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để bù đắp. Vì vậy, xét cho cùng

nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế. Vay nợ thực chất là cách đánh thuế

dần dần, được hầu hết Chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt động chi

ngân sách. Nợ Chính phủ thể hiện sự chuyển giao của cải từ thế hệ sau (thế hệ phải

trả thuế cao) cho thế hệ hiện tại (thế hệ được giảm thuế).

Có thể nói mỗi khái niệm mang đặc trưng riêng và nó phù hợp với từng hoàn

cảnh của mỗi quốc gia trong quá trình thực hiện các mục tiêu của chính sách tài

khóa. Mặc dù vậy, các khai niệm vẫn có những điểm chung như: nợ công là khoản

nợ do Chính phủ vay, được sử dụng để bù đắp cho những thiếu hụt của ngân sách

nhà nước (NSNN); dùng để tài trợ cho các mục tiêu của quốc gia… Do đó, để đơn

giản hơn trong vấn đề nợ công và nghiên cứu khủng hoảng nợ công, có thể hiểu nợ

công thông qua khái niệm sau:

Nợ công là tổng giá trị các khoản tiền mà Chính phủ thuộc mọi cấp từ

Trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân

sách hoặc các mục tiêu của quốc gia.

Đối với Việt Nam, do đặc thù của nền kinh tế là nước đang phát triển, một số

các thành phần kinh tế vẫn còn chịu sự bao cấp của nhà nước, đặc biệt là khối các

doanh nghiệp cổ phần do nhà nước quản lý. Nguồn vốn hoạt động của các doanh

nghiệp này phần lớn được đầu tư từ NSNN, mà chủ yếu là từ các khoản vay của

5

Chính phủ để hỗ trợ cho hoạt động đầu tư theo mục tiêu quốc gia. Chính vì vậy, có

thể nói Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường chứ thực chất chưa được coi

là một nền kinh tế thị trường, cho nên các khoản nợ của khối DNNN do Chính phủ

vay đầu tư cũng được coi là một phần nợ công của Việt Nam. Và như vậy, trong

phần thực trạng về nợ công của Việt Nam sẽ có đề cập đến nợ của khối các DNNN

này.

1.1.2 Phân loại

Dựa vào các tiêu chí phân loại khác nhau, nợ công có thể được chia thành

nhiều bộ phận riêng biệt, cứ mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau trong việc quản

lý và sử dụng nợ công. Trong phạm vi của đề tài, nợ công được phân loại theo

nguồn gốc địa lý của khoản vay nợ.

Theo tiêu chí này, nợ công được chia thành 02 loại:

+ Nợ trong nước: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư trong nước.

+ Nợ nước ngoài: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư nước ngoài.

Trong thực tế, khi tiến hành thống kê và tính toán giá trị nợ công ở một số

nước, trong đó có Việt Nam, người ta thường chỉ quan tâm đến khoản nợ nước

ngoài mà mặc nhiên bỏ qua các khoản nợ trong nước. Đây là một hạn chế cần sửa

đổi; bởi lẽ, thiếu sót này nhiều khi đưa đến kết quả không chính xác cho giá trị nợ

công của một quốc gia, gây khó khăn cho các nhà quản lý trong việc nắm bắt đúng

đắn tình trạng nợ của đất nước mình để hoạch định các chính sách ứng phó kịp thời

và hợp lý.

Việc phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ công. Về mặt

thông tin sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Và ở

một số khía cạnh, việc quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ của

Nhà nước Việt Nam, vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do

chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác.

1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công

6

Với cách hiểu như khái niệm trên thì nợ công sẽ bao gồm cả nợ trong nước

và nợ nước ngoài của khu vực công. Nhưng như vậy là chưa đủ, cần phải nghiên

cứu đến các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công để đảm bảo tỷ lệ nợ công so với tổng

sản phẩm nội địa (GDP) là ổn định. Có thể nhận thấy các nhân tố ảnh hưởng đến nợ

công bao gồm:

+ Cân bằng ngân sách cơ bản: Nếu như khoản thâm hụt nhỏ sẽ làm cho các

khoản vay giảm đi.

+ Lãi suất thực tế: khi có sự biến động lãi suất thực tế trên thị trường sẽ ảnh

hưởng ngay đến khoản nợ vay của Chính phủ bởi lãi suất được xem như là chi phí

của các khoản vay. Chính phủ sẽ phải trả chi phí cao hơn khi lãi suất tăng lên hoặc

thấp hơn khi lãi suất giảm đi. Hơn nữa, khi lãi suất tăng lên, các khoản vay của

Chính phủ sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Nếu không có kế hoạch vay nợ rõ ràng thì sẽ

không đảm bảo vay nợ đúng thời hạn, đáp ứng cho nhu cầu đầu tư của Chính phủ;

điều này lại ảnh hưởng đến sự bền vững của chính sách tài khóa.

+ Tốc độ tăng trưởng thực tế: tốc độ tăng trưởng nhanh hay chậm sẽ có ảnh

hưởng không nhỏ tới các khoản vay của Chính phủ, nền kinh tế càng phát triển thì

khoản vay của Chính phủ sẽ trở nên dễ dàng hơn khi nền kinh tế tăng trưởng chậm.

Ngoài ra khi kinh tế tăng trưởng chậm thì lúc đó người dân cũng như doanh nghiệp

thắt chặt chi tiêu hơn, việc tích lũy cũng ít đi và nguồn vay của Chính phủ sẽ giảm

đáng kể. Khi tăng trưởng chậm còn có thể đi kèm với lạm phát và thất nghiệp cao.

Lúc này những khoản trả nợ vay của Chính phủ khi đến hạn còn phải “cấp bù” lạm

phát.

+ Lãi suất ngoại tệ: đối với lãi suất ngoại tệ sẽ liên quan đến các khoản vay

nợ nước ngoài của Chính phủ, khi lãi suất ngoại tệ thực tế biến động cũng sẽ ảnh

hưởng tới khoản vay nợ nước ngoài của Chính phủ. Nếu lãi suất ngoại tệ thực tế

tăng lên thì khoản vay của Chính phủ trở nên đắt hơn và ngược lại.

+ Tỷ giá thực tế: khi có những khoản vay nợ nước ngoài thì sự biến động về

tỷ giá sẽ chắc chắn ảnh hưởng tới những khoản vay và trả đối với khoản nợ công.

7

Nếu tỷ giá tăng thì lúc này trả nợ khoản vay đến hạn sẽ bị đắt hơn và ngược lại. Còn

khi vay nợ, nếu khi tỷ giá tăng đối với khoản vay nợ các quốc gia sẽ có lợi hơn khi

tỷ giá giảm.

1.1.4 Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công

Hiện nay các tổ chức quốc tế không đề cập cụ thể đến mục đích vay nợ,

nhưng các khuyến nghị trong khung pháp lý thường phải xác định rõ mục đích vay;

hay nói cách khác là Chính phủ vay để làm gì? Thông thường các khoản vay nợ chủ

yếu là: tài trợ thâm hụt ngân sách, tái cơ cấu nợ, cho vay lại… Một số nước cho

phép vay để tài trợ cho các chương trình dự án đầu tư quan trọng của Chính phủ

(như Bungari, Thái Lan), hay có thể vay để đáp ứng yêu cầu ngoại hối của ngân

hàng Trung ương (Rumani)… Vì vậy, căn cứ vào mục đích vay để các quốc gia đưa

ra các hình thức và công cụ vay cho phù hợp với điều kiện của từng quốc gia. Hiện

nay, về cơ bản các nước đều có hai hình thức vay: vay trong nước và vay nước

ngoài.

1.1.4.1. Vay trong nước của Chính phủ

Để vay nợ trong nước, các quốc gia trên thế giới sử dụng nhiều công cụ vay

nợ khác nhau, nhưng nhìn chung là đảm bảo sự phù hợp với điều kiện của từng

quốc gia. Vay trong nước được thực hiện chủ yếu dưới hình thức phát hành tín

phiếu, trái phiếu hoặc bất kỳ công cụ nào phát sinh nghĩa vụ nợ.

+ Tín phiếu (T-bills): là một chứng chỉ vay nợ (loại TPCP) có kỳ hạn dưới 1

năm (thường 3, 6, 9 tháng), dùng để huy động vốn bù đắp thiếu hụt ngân sách tạm

thời, được phát hành theo phương thức đấu thầu.

+ Trái phiếu (T-Bonds): là loại chứng khoán nợ được phát hành có thời hạn,

có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành đối với người

sở hữu trái phiếu.

+ Trái phiếu chính quyền địa phương (municipal bonds): là các loại trái

phiếu có thời hạn 1 năm trở lên do chính quyền địa phương phát hành nhằm huy

8

động vốn cho các dự án đầu tư như công trình cơ sở hạ tầng hay phúc lợi công cộng

của địa phương.

+ Trái phiếu ngoại tệ: là loại TPCP có kỳ hạn từ 1 năm trở lên, nhưng được

thể hiện dưới dạng ngoại tệ, nhằm huy động tiền bằng ngoại tệ của dân chúng, loại

trái phiếu này không phổ thông.

+ Trái phiếu công trình Trung ương: là loại trái phiếu có kỳ hạn từ 1 năm trở

lên, do Kho bạc nhà nước phát hành nhằm huy động vốn cho công trình đầu tư cụ

thể theo quyết định của thủ tướng Chính phủ. Do đó trái phiếu công trình Trung

ương thường gắn với công trình cụ thể và lãi suất thấp hơn các loại trái phiếu khác.

+ Công trái xây dựng tổ quốc: đây là loại trái phiếu trung, dài hạn. Đặc thù

của công trái xây dựng tổ quốc là có lãi suất thấp vì nó không mang tính chất vay

vốn để bù đắp thâm hụt ngân sách mà để động viên người dân cho Chính phủ vay

vốn để đầu tư vào các dự án đầu tư trọng điểm của nhà nước. Đây cũng chính là lý

do tại sao gọi là Công trái xây dựng Tổ quốc.

1.1.4.2. Vay nước ngoài của Chính phủ

+ Vay từ nguồn viện trợ phát triển chính thức (Official development

assistants- ODA): là các khoản vay nhân danh nhà nước, Chính phủ từ các nhà tài

trợ là các Chính phủ nước ngoài; các tổ chức tài trợ song phương như của các tổ

chức tài chính quốc tế gồm: Ngân hàng thế giới(WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),

Ngân hàng phát triển châu Á(ADB)…; các tổ chức liên quốc gia hoặc liên Chính

phủ có thể như các tổ chức phi Chính phủ (NGO).

+ Vay có tính chất thương mại (commercial loans): là những khoản vay dựa

trên quan hệ cung cầu về vốn vay trên thị trường, lãi suất do thị trường quyết định,

không chịu bất cứ ràng buộc nào về các điều kiện kinh tế hay chính trị.

+ Vay ưu đãi: là khoản vay có các điều kiện ưu đãi hơn so với vay thương

mại nhưng ưu đãi không đạt theo tiêu chuẩn chung của ODA.

9

+ Khoản vay hợp vốn (Syndicated loans): là một khoản vay vốn lớn trong đó

một nhóm người cho vay (phần lớn là các ngân hàng) sẽ cùng liên kết với nhau để

cung cấp vốn cho một người đi vay.

+ Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu chính thức (Official supported export credits):

đây là hình thức được thực hiện vay liên quan đến hoạt động xuất khẩu. Các nước

đang phát triển khi thực hiện xuất khẩu sẽ được hỗ trợ về vốn cho hoạt động xuất

khẩu của mình.

+ Phát hành trái phiếu quốc tế (Global bonds). Trái phiếu quốc tế của Chính

phủ là chứng chỉ vay nợ do Chính phủ Trung ương hay chính quyền địa phương

phát hành trên thị trường vốn quốc tế nhằm huy động vốn của các nhà đầu tư trên

thế giới.

1.1.5 Tác động của nợ công

1.1.5.1. Những tác động tích cực của nợ công

- Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn

vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước.

- Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong

dân cư. Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc

Nhà nước vay nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại

hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư.

- Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính

quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế - ngoại giao quan

trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng

như muốn hợp tác kinh tế song phương.

1.1.5.2. Những tác động tiêu cực của nợ công

- Khi nợ công cao sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các

khoản tài trợ nước ngoài.

10

- Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo, việc sử dụng nợ công sẽ tỏ ra

kém hiệu quả.

- Tình trạng tham nhũng, lãng phí sẽ tràn lan nếu Chính phủ thiếu cơ chế

giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công. Điều này sẽ kìm hãm sự phát

triển của nền kinh tế, nghiêm trọng hơn có thể đẩy nền kinh tế lâm vào tình trạng

suy thoái cùng với những bất ổn của xã hội.

Tóm lại, nợ công có tác động lớn đến nền kinh tế trên cả 02 mặt tích cực và

tiêu cực. Do vậy, Chính phủ phải thường xuyên theo dõi, nhận biết những tác động

tích cực và tiêu cực để phát huy mặt tích cực, kịp thời hạn chế mặt tiêu cực là điều

hết sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nợ công.

1.2 Khủng hoảng nợ công

1.2.1 Khái niệm khủng hoảng nợ công

Cũng giống như tình trạng đa khái niệm của nợ công, khủng hoảng nợ công

cũng có nhiều quan niệm khác nhau, tùy thuộc vào góc độ tiếp cận và đánh giá sự

kiện. Hiểu một cách khái quát nhất, khủng hoảng nợ công xảy ra khi thâm hụt ngân

sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó vượt quá khả năng kiểm soát, điều tiết và trả

nợ của Chính phủ, dẫn đến suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng.

Trải qua thời gian dài vận động phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung,

khái niệm về vấn đề khủng hoảng nợ công cũng được thay đổi nhiều lần và riêng rẽ

đối với từng tổ chức, khu vực độc lập.

* Theo cách tiếp cận từ các khoản nợ công bị khất lại, Detragiache và

Spilimbergo (2001) xác định rằng cuộc khủng hoảng nợ công sẽ xảy ra nếu một

trong hai hoặc cả hai điều kiện sau đây xảy ra:

- Có những khoản nợ gốc hoặc lãi chưa hoàn trả hoặc đang trả dở dang song

phải xin khất lại nghĩa vụ trả nợ đối với chủ nợ (ngân hàng, tổ chức sở hữu trái

phiếu) chiếm trên 5% tổng dư nợ.

11

- Có một thỏa thuận gia hạn hoặc tái cơ cấu nợ với chủ nợ được liệt kê trong

Báo cáo Phát triển Tài chính Toàn cầu (GDF) của WB.

* Nhìn nhận khủng hoảng nợ công tương đương với tình trạng “tiền phá

sản”, Sy(2004) đưa ra lập luận: giống như việc mất khả năng thanh toán những

khoản nợ trong khu vực tài chính doanh nghiệp, khủng hoảng nợ công là biểu hiện

“tiền phá sản” của trái phiếu Chính phủ (TPCP). Theo định nghĩa đó, Sy đã chỉ ra từ

năm 1994 đến năm 2002, trên thế giới xảy ra 140 sự kiện “tiền phá sản”, làm giảm

uy tín và năng lực của thị trường TPCP.

*Theo Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF, một quốc gia được xác nhận lâm vào

khủng hoảng nợ nếu nó được tổ chức Standard & Poor’s liệt vào danh sách các

nước không có khả năng hoàn trả nợ hoặc phải xin vay từ IMF một khoản lớn (vượt

quá 100% hạn mức tín dụng đề ra) để tài trợ cho khoản nợ nói trên. Ở đây, tiêu

chuẩn được đưa ra để Standard and Poor’s xác định một quốc gia gọi là không có

khả năng hoàn trả nợ là việc Chính phủ của quốc gia đó không thể thanh toán đủ

gốc hoặc tiền lãi cho các khoản nợ nước ngoài vào ngày đáo hạn hoặc trong thời

gian ân hạn quy định (bao gồm các khoản phát sinh trong nghiệp vụ thanh toán nợ

bằng hối phiếu, nghiệp vụ SWAPs tài sản nợ, …). Như vậy, tình hình vay nợ bất

thường với quy mô lớn tại Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF là một trong những dấu hiệu

báo trước cho những bất ổn trong tình trạng nợ công của một quốc gia, có thể dẫn

đến nguy cơ khủng hoảng nhanh chóng.

Tóm lại, các khái niệm nêu trên diễn đạt khủng hoảng nợ công theo các cách

khác nhau, tuy nhiên, có thể thấy rõ rằng mọi quan niệm đều chứa những nội dung

cơ bản tương đồng, đó là: Khủng hoảng nợ công xảy ra khi Chính phủ một quốc gia

không thể trả được nợ và buộc phải tìm kiếm, cầu viện đến các sự trợ giúp khác.

1.2.2 Đặc điểm của khủng hoảng nợ công

Dựa vào những quan niệm nêu trên, có thể chỉ ra một số đặc trưng quan

trọng mang tính bản chất đối với các cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới như

sau :

12

+ Một là, khủng hoảng nợ công mang bản chất của một cuộc khủng hoảng

kinh tế, làm suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái

trong chu kỳ kinh tế.

+ Hai là, khủng hoảng nợ công không phân biệt quốc gia phát triển hay

quốc gia đang phát triển. Điều này được nhìn nhận thông qua cuộc khủng hoảng

nợ công châu Âu vừa qua, từ đây có thể khẳng định khủng hoảng nợ công hoàn

toàn có khả năng xảy ra ở những nước phát triển, nơi nền kinh tế tăng trưởng

một cách tương đối cao và ổn định.

+ Ba là, khủng hoảng nợ công một khi đã diễn ra thường kéo dài trong một

thời gian, kèm theo nhiều hệ lụy không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trong lĩnh

vực chính trị - văn hóa - xã hội.

+ Bốn là, khủng hoảng nợ công gắn liền với mức độ tín nhiệm Chính phủ của

quốc gia xảy ra sự kiện. Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín

nhiệm, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay; khi đó nền kinh tế dễ trở

thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.

1.2.3 Nguyên nhân và hậu quả của khủng hoảng nợ công

1.2.3.1. Nguyên nhân khủng hoảng nợ công

Khi khủng hoảng nợ công xảy ra, điều đầu tiên mà các tổ chức nghĩ tới là

họp bàn để tìm ra nguyên nhân chính gây ra khủng hoảng này. Đối với một cuộc

khủng hoảng nợ công thì có nhiều nguyên nhân gây ra, dưới đây là một số nguyên

nhân thường thấy ở các quốc gia đã xảy ra khủng hoảng nợ công:

+ Sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước kém, không chặt chẽ,

thậm chí bị buông lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và

chi tiêu, cùng với tệ tham nhũng phát triển ở nhiều nước, cũng trở thành nguyên

nhân không kém phần quan trọng.

+ Trong khi đó, các nguồn thu chủ yếu từ thuế tăng không kịp với nhu cầu

chi, thậm chí một số loại thuế chịu áp lực phải cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác

13

+ Do những khoản nợ nước ngoài khổng lồ ngày càng gia tăng. Trong khủng

hoảng, các khoản nợ tư có xu hướng chuyển thành nợ công. Một điều bất cập là,

quốc gia có nợ nước ngoài cao trong khi người dân lại nắm giữ một lượng tài sản

lớn của nước ngoài. Trong trường hợp này, Chính phủ phải đối mặt với trường hợp,

quốc gia có thể vỡ nợ trong khi người dân của mình vẫn có thể hưởng lợi nhuận từ

tài sản nước ngoài. Để giải quyết vấn đề này, các quốc gia có thể huy động các

nguồn vốn này để thay thế cho các khoản nợ nước ngoài.

+ Tiết kiệm trong nước thấp ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn đầu tư phát

triển nền kinh tế; vay nợ nước ngoài chủ yếu giành cho chi tiêu công, không hỗ trợ

nhiều cho hoạt động đầu tư trong nước.

+ Các Chính phủ đã ngụy tạo các báo cáo về tình hình kinh tế trong nước

một thời gian dài để có thể che dấu mức vay thực tế, nhằm phù hợp với các quy

định, giám sát của các tổ chức quốc tế, từ đó có thể vay được nhiều hơn.

+ Chi tiêu kích thích kinh tế sau khủng hoảng làm trầm trọng thêm vấn đề.

1.2.3.2. Hậu quả của khủng hoảng nợ công

+ Các thị trường ngày càng mất tin tưởng nhau, mức tín nhiệm do đó cũng

liên tục bị hạ bậc, điều này làm cho việc vay mượn, đầu tư giữa các tổ chức cũng trở

nên khó khăn hơn, quốc gia lại rơi vào vòng luẩn quẩn của khủng hoảng và suy

thoái kinh tế.

+ Khủng hoảng nợ công ngày càng trầm trọng sẽ khiến cho các nhà đầu tư

tháo chạy với quy mô lớn trên thị trường trái phiếu và cổ phiếu làm mất khả năng

14

thanh khoản của hệ thống ngân hàng và gây hiệu ứng sụp đổ hàng loạt ở các nền

kinh tế khác.

1.3. Khủng hoảng nợ công ở một số nền kinh tế trên thế giới

1.3.1. Khủng hoảng nợ công tại các nước Mỹ Latinh

Cuộc khủng hoảng nợ diễn ra ở các quốc gia Mỹ Latinh những năm 1970 và

1980 được xem là thảm họa lớn nhất trong lịch sử khu vực này, kể từ sau cuộc Đại

khủng hoảng những năm 1930 và đây cũng là cuộc khủng hoảng nợ công đầu tiên

trong lịch sử kinh tế hiện đại. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Mexico (1982) khi quốc

gia này tuyên bố vỡ nợ, sau đó hầu hết các quốc gia trong khu vực cũng đều không

tránh khỏi vòng xoáy này đó là: Argentina (1982, 1989), Bolivia (1980, 1986,

1989), Brazil (1983, 1986-1987) và Ecuador (1982, 1984).

Nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ tại Mỹ Latinh là:

+ Việc đầu tư quá nhiều vào kết cấu hạ tầng nhằm đẩy mạnh công nghiệp

hóa dẫn đến việc Chính phủ bội chi ngân sách kéo dài một cách trầm trọng.

+ Gia tăng tỷ lệ nhập siêu do nhập khẩu nhiều nguyên, vật liệu, cũng như

công nghệ sản xuất từ nước ngoài để thực hiện được mục tiêu công nghiệp hóa.

Hai điều trên dẫn đến sự gia tăng ngày càng lớn nhu cầu về nguồn vốn của

Chính phủ. Do đó, họ đã phải đi vay rất nhiều tiền từ các quốc gia phát triển khác và

các tổ chức tài chính quốc tế.

Việc vay nợ nước ngoài với quy mô lớn tiềm ẩn nhiều rủi ro và không thể

tiếp diễn được mãi. Vào năm 1979, Mỹ thực hiện hàng loạt chính sách thắt chặt và

đẩy lãi suất gia tăng. Điều này tương tự xảy ra với các quốc gia châu Âu, khiến

dòng vốn đầu tư toàn cầu bắt đầu chảy ngược ra khỏi các quốc gia đang phát triển.

Đồng thời, lãi suất gia tăng làm cho nghĩa vụ nợ tại các quốc gia Mỹ Latinh tăng

lên. Ngoài ra, khả năng trả nợ nước ngoài của các quốc gia Mỹ Latinh lại phụ thuộc

chủ yếu vào xuất khẩu. Do suy thoái kinh tế đầu những năm 1980 làm thu hẹp

15

thương mại quốc tế cũng như giá cả hàng hóa thế giới, đặc biệt là giá cả các nguyên

liệu thô, khiến nguồn thu từ xuất khẩu tại các quốc gia này giảm mạnh.

Không thể duy trì được sự ổn định kinh tế, trong khi giá trị các khoản nợ lại

gia tăng mạnh làm cho rủi ro nợ nước ngoài của khu vực Mỹ Latinh đã vượt quá

khỏi tầm kiểm soát. Khi Mexico tuyên bố vỡ nợ đã ngay lập tức khiến các ngân

hàng thương mại và tổ chức tài chính quốc tế siết chặt và trì hoãn vô thời hạn đối

với các khoản vay đến khu vực Mỹ Latinh. Lại do phần lớn các khoản nợ đều trong

ngắn hạn, nên việc không được bơm tiếp tín dụng làm cho các quốc gia này nhanh

chóng bị cuốn vào vòng xoáy, dẫn đến một cuộc khủng hoảng dây chuyền.

1.3.2. Khủng hoảng nợ công tại các nước châu Á

Tại Đông Á và Đông Nam Á, khủng hoảng tài chính đến ngay sau thời kỳ

tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Nguyên nhân là do sự bùng nổ tín dụng từ các nguồn

vốn nước ngoài được sử dụng thiếu kiểm soát khi phần lớn nguồn vốn đổ vào bất

động sản và chứng khoán.

Khủng hoảng tài chính Đông Á chính thức bắt đầu từ tháng 7/1997 với sự

sụp đổ của đồng bath Thái Lan do các dòng vốn ồ ạt rút mạnh khỏi quốc gia

này. Tại thời điểm đó, Thái Lan đã có gánh nặng nợ nước ngoài lớn khiến quốc gia

này lâm vào tình trạng vỡ nợ, phá sản trước khi đồng bath sụp đổ. Hiệu ứng lan tỏa

khiến nhà đầu tư phương Tây bất ngờ rút mạnh vốn, tiền tệ các quốc gia khác trong

khu vực lần lượt bị phá giá. Hàng loạt tập đoàn và công ty bị vỡ nợ, đặc biệt là các

công ty trong lĩnh vực bất động sản. Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những

quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất.

Khủng hoảng tài chính nhanh chóng chuyển sang suy thoái kinh tế trầm

trọng. Đồng tiền các quốc gia bị phá giá, lạm phát gia tăng, các tổ chức tài chính và

công ty phá sản, nợ xấu lên kỷ lục, tăng trưởng kinh tế suy giảm và thất nghiệp gia

tăng. GDP của Indonesia giảm tới 15% trong vòng một năm, Thái Lan và Malaysia

cũng giảm xấp xỉ 10%, trong khi Hàn Quốc giảm 3,8% trong quý đầu của năm

1998.

16

Tổ chức IMF đã phải khởi động chương trình cứu trợ trị giá 36 tỷ USD cuối

năm 1997 để ổn định đồng tiền của các nước bị tác động mạnh nhất bởi khủng

hoảng. Đổi lại, các nước thắt chặt tiền tệ, tái cấu trúc hệ thống tài chính hoặc giảm

can thiệp vào kinh tế thị trường. Đến năm 1999, khu vực này mới dần hồi phục trở

lại.

Khủng hoảng nợ công luôn để lại hậu quả nghiêm trong với các nền kinh tế.

Có thể thấy điểm chung nhất của các cuộc khủng hoảng nợ công là các Chính phủ

đã vay nợ quá mức để chi tiêu trong giai đoạn phát triển mạnh nhất của nền kinh tế.

Đến khi nền kinh tế gặp khủng hoảng tại một nước nào đó, đã xảy ra phản ứng dây

chuyền gây đổ vỡ hàng hoạt.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Tóm lại, nợ công và khủng hoảng nợ công là hai vấn đề có quan hệ mật thiết

với nhau; chúng tác động rất lớn đến nền kinh tế của một quốc gia, một khu vực

hoặc trên toàn thế giới. Sử dụng nợ công để đầu tư giúp tăng trưởng kinh tế là điều

hết sức bình thường. Tuy nhiên, việc sử dụng nợ công như thế nào cho hiệu quả và

không làm khối lượng nợ ngày càng tăng mới là vấn đề đáng bàn. Do vậy, bất kỳ

một quốc gia nào cũng cần quan tâm đến việc sử dụng hiệu quả nguồn lực này và

giới hạn an toàn của nó. Để đảm bảo an toàn nợ công, cần phải chú ý đến các vấn đề

như: vay nợ và sử dụng nợ công, phân loại rõ các khoản nợ công, tình hình trả nợ

công, các nguyên nhân làm gia tăng nợ công... Việc theo dõi các vấn đề này sẽ giúp

cho Chính phủ một quốc gia nắm bắt được tình hình sử dụng nợ công; có các giải

pháp quản lý kịp thời, ngăn ngừa được các rủi ro đối với nợ công và thúc đẩy sự

tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.

17

Chương II: NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG

TẠI CHÂU ÂU GIAI ĐOẠN 2009-2011 VÀ BÀI HỌC

KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM.

2.1 Tình hình nợ công tại châu Âu trước khủng hoảng

Liên minh châu Âu (EU) bao gồm 27 nước, liên minh đặt mục tiêu lớn để tạo

ra một thị trường chung và tích hợp các nền kinh tế thông qua thể chế chung. Ủy

ban châu Âu có trụ sở tại Brussels chịu trách nhiệm giám sát Liên minh châu Âu.

Trong Liên minh châu Âu có 17 nước sử dụng đồng euro (EUR) làm đồng tiền

chung. Vấn đề nợ không chỉ của riêng một quốc gia nào, 14/27 nước thuộc Liên

minh châu Âu có tỷ lệ nợ tương đương hơn 60% GDP, mức giới hạn mà Liên minh

châu Âu đưa ra. Trong nhóm này có cả một số nền kinh tế lớn của khu vực như Anh

hay Pháp.

Vấn đề nợ của Hy Lạp cũng không phải mới. Từ khi chuẩn bị gia nhập khu

vực đồng tiền chung châu Âu vào năm 2000, Hy Lạp đã có tỷ lệ nợ cao. Ý và Bỉ

cũng khốn khổ với các khoản nợ lớn.

Chi tiêu vào phúc lợi xã hội và một số chương trình khác của Chính phủ đã

tăng nhanh trong thập kỷ qua, đẩy tỷ lệ nợ công của khắp các nước trong khu vực

lên cao.

Quy mô các nền kinh tế được thể hiện qua mức độ to nhỏ của hình. Trong

bảng là so sánh GDP năm 2010 của các nền kinh tế thuộc Liên minh châu Âu. Kinh

tế Hy Lạp có quy mô nhỏ thế nhưng nỗi sợ của khả năng Hy Lạp vỡ nợ đã làm xói

mòn niềm tin vào đồng EUR và khiến nhà đầu tư khắp thế giới sợ hãi.

18

Nguồn: Theo New York times

Hình 2.1: So sánh GDP năm 2010 các nước trong EU

Dù các nước quanh Hy Lạp nợ không ít, tuy nhiên vấn đề của Hy Lạp nổi

cộm lên. Hy Lạp có tỷ lệ ngân sách cao nhất tại châu Âu, lên tới 15,4% GDP năm

2009, cao hơn rất nhiều so với mức trần 3% theo giới hạn của Liên minh châu Âu.

Nguồn: Theo New York times

Hình 2.2: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với GDP của các nước EU

19

Chênh lệch lợi suất TPCP so với Đức: Khi khủng hoảng trở nên tồi tệ hơn,

chênh lệch lợi suất TPCP của một số nước so với TPCP Đức đã tăng nhanh. Lợi

suất TPCP Đức được coi như chuẩn an toàn của châu Âu.

Nguồn: Theo New York times

Hình 2.3: Chênh lệch lãi suất so với Đức của các nước EU

Như vậy, ngay từ những năm trước khi khủng hoảng xảy ra, nhiều nước

trong khu vực Liên minh châu Âu đã có nợ cao. Để kích thích tăng trưởng kinh tế,

các quốc gia đã sử dụng công cụ vay nợ, và vô hình chung điều này đã đẩy các quốc

gia đến gần với khủng hoảng hơn. Cùng với khủng hoảng kinh tế năm 2008, các

quốc gia này rơi vào tình trạng mất cân đối ngân sách và không đủ khả năng trả các

khoản nợ đến hạn. Phần tiếp theo sẽ là viễn cảnh khủng hoảng của châu Âu giai

đoạn 2009 – 2011 vừa qua.

2.2 Khủng hoảng nợ công tại châu Âu giai đoạn 2009 - 2011

Khủng hoảng nợ công châu Âu xuất phát từ Hy Lạp, sau đó lan ra các nước

khác như Ailen, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha... Hiện nay, người ta vẫn cho rằng cuộc

khủng hoảng nợ công này vẫn chưa dừng lại, nó sẽ tiếp tục hoành hành và việc

thêm một số nền kinh tế ở châu Âu bị sụp đổ chỉ còn là thời gian. Cơn khủng hoảng

20

đã đặt Eurozone nói riêng và EU nói chung trước những thách thức nghiêm trọng.

Có thể tóm tắt diễn biến cuộc khủng hoảng nợ ở châu Âu gắn với khủng hoảng của

từng quốc gia thành viên như sau:

• Hy Lạp:

Là một quốc gia có bề dày lịch sử, văn hóa lâu đời ở châu Âu, Hy Lạp có vị

trí địa lý khá thuận lợi khi nằm trong khu vực Địa Trung Hải, đây chính là điều kiện

để đất nước này phát triển về mặt kinh tế- xã hội. Trước khi lâm vào khủng hoảng

nợ công, nền kinh tế Hy Lạp là một hiện tượng bởi sự phát triển vượt bậc. Tuy

nhiên, với nhiều nguyên nhân khác nhau, nền kinh tế này bị lâm vào khủng hoảng,

với tổng số nợ công lên tới 300 tỷ EUR, chiếm 124% GDP năm 2009. Hiện tại Hy

Lạp là nước có mức nợ công thuộc loại nhiều nhất châu Âu so với quy mô nền kinh

tế. Vào tháng 11/2009, khi Bộ trưởng Tài chính Hy lạp tuyên bố thâm hụt tài chính

năm 2009 của nước này sẽ là 12,7% GDP, cao hơn gấp đôi trước đây (6%) và cao

hơn 4 lần so với mức cho phép của Eurozone (3%). Tâm lý khủng hoảng bắt đầu

xuất hiện trên thị trường. Chính phủ Hy Lạp tuyên bố nếu không nhận được các

khoản cứu trợ trước tháng 5/2010, họ sẽ không có cách nào trả được khoản nợ trị

giá 20 tỉ EUR sắp đáo hạn. Lo ngại Hy Lạp vi phạm khế ước vay nợ đối với khoản

nợ 300 tỉ EUR, các nhà đầu tư bắt đầu bán tháo trái phiếu Hy Lạp, làm Chính phủ

nước này không thể phát hành trái phiếu mới để lấy tiền trả nợ cũ. Cuộc khủng

hoảng nợ công Hy Lạp bùng nổ.

Tính đến tháng 1/2012, Hy Lạp tiêu thụ nhiều hơn 17% mức thu nhập quốc

gia của mình, thâm hụt cán cân thanh toán đã lên tới 24 tỷ EUR, chiếm 10% GDP.

Để giải quyết cuộc khủng hoảng nợ công này, Chính phủ Hy Lạp đã phát hành trái

phiếu với thời hạn 10 năm. Hy Lạp bị bắt buộc phải giảm giá cả và lương xuống

còn 20% đến 30% nếu như vẫn muốn ở trong khu vực đồng EUR. Thuế giá trị gia

tăng được tăng từ 19% - 21%, cắt giảm tiền lương tháng thứ 13, tiền thưởng cho

những người làm việc trong kỳ nghỉ lễ. Lương Chính phủ không được tăng trong

giai đoạn từ 2010 – 2013. Ngân sách quốc phòng và hệ thống an sinh xã hội đều bị

21

cắt giảm. Ngoài ra, Chính phủ còn đưa ra kế hoạch cải cách chế độ hưu trí, theo đó

tuổi nghỉ hưu người lao động sẽ được nâng lên từ 60 đến 65 (đối với nam) và từ 55

lên 60 (đối với nữ), đồng thời giảm bớt các khoản trợ cấp hưu trí. Mục tiêu của kế

hoạch này là đến năm 2014 Hy Lạp sẽ giảm thâm hụt ngân sách xuống mức 3%

GDP.

• Ailen:

Ailen từng là một trong những nền kinh tế “khỏe mạnh” nhất của khối EU.

Tính đến năm 2007, nền kinh tế Ailen đã trải qua 15 năm phát triển mạnh mẽ với

động lực tăng trưởng chủ yếu là ngành bất động sản. Khi đó, người ta đã mệnh danh

Ailen là "con hổ Celtic" và sự tăng trưởng của Ailen là "phép màu kinh tế". Đầu

năm 2000, Ailen có GDP tăng trưởng hàng năm khoảng 10%, tỷ lệ thất nghiệp

trong nước là rất thấp (thấp hơn bất kỳ một nước công nghiệp phát triển nào). Tuy

nhiên, khi suy thoái kinh tế toàn cầu nổ ra, nền kinh tế Ailen chuyển sang suy giảm

một cách nhanh chóng. Năm 2006, thâm hụt ngân sách của Chính phủ Ailen là

2,9%, đến năm 2010, tỷ lệ này lên đến 32,4% GDP.

Cùng phải đối mặt với khủng hoảng nợ công nghiêm trọng, nhưng hoàn cảnh

của Ailen lại hoàn toàn khác so với Hy Lạp. Nếu như nguyên nhân chính gây ra

khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp là khả năng quản lý tài chính công yếu kém với

những khoản chi tiêu của Chính phủ quá lớn và vượt ra khỏi tầm kiểm soát, thì

nguyên nhân cuộc khủng hoảng nợ công ở Ailen được bắt đầu từ khu vực tư nhân

với hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của một số ngân hàng và Chính phủ không

kịp thời khống chế. Các ngân hàng Ailen với tham vọng của mình đã sẵn sàng cho

vay mạnh tay trong thời kỳ tăng trưởng nóng và bong bóng bất động sản phình to.

Đây là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng khi thị trường đảo chiều. Năm

2008, kinh tế thế giới suy thoái, thị trường bất động sản trong nước bị đóng băng,

phần lớn các khoản vay bất động sản trở thành nợ xấu và hệ thống ngân hàng phải

đối mặt với nguy cơ sụp đổ. Chính phủ Ailen buộc phải tuyên bố bảo lãnh cả hệ

thống ngân hàng, và như vậy các khoản nợ tư nhân đã chuyển thành những khoản

22

nợ công tệ hại mà Chính phủ phải quản lý và lấy tiền từ ngân sách để bù lỗ cho

những tổn thất.

Theo Viện trưởng Viện Nghiên cứu Ailen của Trung Quốc, ông Vương Lê

Minh, khủng hoảng nợ công của Ailen chủ yếu thuộc nội bộ ngành ngân hàng. Về

cơ bản, toàn bộ nền kinh tế của Ailen vẫn trong tình trạng tốt. Đó là chưa kể đến trợ

lực từ việc Ailen thu hút được một lượng lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài (bằng

khoảng 80 lần của Hy Lạp). Vì vậy, sau khi thực hiện chính sách thắt chặt tài chính,

tình hình tài chính của nước này có hy vọng quay trở về quỹ đạo trước đây. Tuy

nhiên cuộc khủng hoảng này đã gây ra một cuộc khủng hoảng nguy hiểm gấp bội,

đó là “khủng hoảng lòng tin” của thị trường vào năng lực của Chính phủ. Vì vậy các

nhà đầu tư đã bán tống bán tháo TPCP mà họ mua trước đó, kết cục là Ailen không

thể có được nguồn thu từ trái phiếu để bù vào lỗ hổng ngân sách.

• Bồ Đào Nha:

Bồ Đào Nha là nền kinh tế có sức cạnh tranh yếu nhất trong khu vực đồng

EUR. Không như Ailen và Hy Lạp, tăng trưởng của Bồ Đào Nha chỉ đạt mức trung

bình 1,3% trong giai đoạn 2000 – 2008 (so với mức 4-5% của Hy Lạp và Ailen)

nhưng lại phải chi trả phúc lợi cho người dân tương đương với mức của các nước

châu Âu giàu, có mức tăng trưởng cao.

Khi “thảm họa tài chính” Ailen chưa giải quyết xong, thông tin một số nước

Eurozone và ECB đang hối thúc Bồ Đào Nha xin cứu trợ từ Quỹ Ổn định tài chính

châu Âu (EFSF) của EU và IMF loan đi. Ngay lập tức Thủ tướng Bồ Đào Nha Jose

Socrates, người đứng đầu Ủy ban châu Âu (EC) Jose Manuel Barroso đều lên tiếng

bác bỏ tin đồn, tuy nhiên sự trấn an của các nhà lãnh đạo không đủ xoa dịu nỗi lo

của các nhà đầu tư.

Trong năm 2010, nợ công của Bồ Đào Nha tương đương 86% GDP và thâm

hụt ngân sách của nước này vào khoảng 7,3% GDP. Nhưng nếu cộng cả nợ của các

công ty và nợ của cá nhân, theo chuyên gia kinh tế Rui Barbara thuộc Ngân hàng

Carragosa, nợ của Bồ Đào Nha sẽ tương đương 2,5 lần GDP, cao hơn cả Hy Lạp,

23

gây áp lực lớn lên hệ thống ngân hàng. Năm 2011, Bồ Đào Nha sẽ phải đối mặt với

khoản nợ đáo hạn 25,6 tỉ EUR, trong đó có 19,7 tỉ EUR phải thanh toán trong 6

tháng đầu năm. Bên cạnh đó, vào mùa xuân năm 2011, Bồ Đào Nha sẽ tiến hành

tuyển cử, do đó tình hình chính trường của nước này trước lúc tuyển cử sẽ không có

lợi cho việc tập trung giải quyết vấn đề nợ công, khiến nó sẽ trở nên trầm trọng hơn.

Ngoài ra, người Bồ Đào Nha sẽ cảm thấy phi lý khi phải trả lãi suất trái phiếu gần

7% và họ sẽ quay sang nhờ sự giúp đỡ từ bên ngoài mà cụ thể là EU và IMF. Tuy

nhiên, với việc lãi suất kỳ hạn 10 năm của các khoản nợ công tính đến tháng 2/2012

đã vượt quá 11% ở Bồ Đào Nha đã làm tăng lãi suất của các ngân hàng và doanh

nghiệp đang nắm giữ các khoản nợ công này. Mức tăng này đã dẫn đến nguy cơ

chấm dứt toàn bộ các hoạt động tài trợ dài hạn, sự sụt giảm vốn đầu tư và sự quay

về tình trạng suy thoái. Tình trạng này đang đe dọa Tây Ban Nha, Italia và như vậy

sẽ đe dọa cả sự toàn vẹn của khu vực đồng EUR.

• Tây Ban Nha:

Cũng như người đứng đầu Chính phủ Bồ Đào Nha, sau khi có thông tin “xứ

sở bò tót” sẽ nối gót Ailen, Thủ tướng Tây Ban Nha Jose Luis Rodriguez Zapatero

tuyên bố nước ông sẽ không xin cứu trợ tài chính. Tuy nhiên, những diễn biến thực

tế lại cho thấy các nhà đầu tư ngày càng lo lắng trước khả năng thanh toán của Tây

Ban Nha. Ngày 29/11/2010, tại thị trường Luân Đôn (Anh), lãi suất trái phiếu kỳ

hạn 10 năm của Tây Ban Nha đã tăng thêm 25 điểm phần trăm, đạt mức 5,46%, cao

nhất từ năm 2002 tới nay. Cùng ngày, CDS kì hạn 5 năm của Tây Ban Nha cũng leo

thêm 0,38% so với 3 ngày trước đó, lên mức 3,5%. Tuy nhiên, trong ngày cuối cùng

của tháng 11, kỉ lục lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Tây Ban Nha đã bị phá vỡ

khi leo lên mức mới là 5,7%. Trong khi đó, vào ngày 30/11, CDS của nước này

cũng cán ngưỡng 3,73%.

Giống như Mỹ, Tây Ban Nha cũng xuất hiện bong bóng nhà đất phình to và

tình trạng nợ của doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh. Sau khi bong bóng nhà đất vỡ,

kinh tế Tây Ban Nha rơi vào suy thoái và đối mặt với tỉ lệ thất nghiệp phi mã (từ

24

năm 2007 tới nay đã tăng gấp đôi, lên gần 20%). Giống như Mỹ, thâm hụt ngân

sách của Tây Ban Nha leo thang mạnh vì phải chịu tác động kép của cả suy thoái

lẫn nguồn thu giảm.

Điểm làm Tây Ban Nha khác Mỹ là việc nước này đang nằm bên bờ vực của

khủng hoảng nợ. Theo thống kê chưa đầy đủ, tổng nợ công của Tây Ban Nha lên tới

gần 1.000 tỉ USD (gấp khoảng 3 lần khoản nợ công của Hy Lạp) và số nợ của khối

tư nhân cũng ở con số tương đương. Cũng nợ như chúa chổm, nhưng người Mỹ vẫn

có thể yên tâm vì lãi suất trái phiếu liên bang dài hạn của họ vẫn được duy trì ở mức

dưới 3%, còn lãi suất trái phiếu của Tây Ban Nha lại đang leo dốc. Đặc biệt, do

nước này thuộc Eurozone, nên không có sự hỗ trợ của công cụ tiền tệ.

Sau khi Ailen nhận cứu trợ, tâm điểm chú ý dồn về Bồ Đào Nha và Tây Ban

Nha, hai nước được nhiều nhà kinh tế đặt vào vòng nguy hiểm. Nhưng trong

Eurozone vẫn có một số nước khác đang đứng trước khả năng rơi vào khủng hoảng

nợ công như Italia và Bỉ, thậm chí Hà Lan, Áo và Phần Lan.

Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Trung ương Italia công bố ngày

13/10/2010, nợ công của nước này đã lên mức kỷ lục mới trong tháng 8 vừa qua với

hơn 1.840 tỷ euro. Chính phủ thông báo đến hết năm 2010, nợ công của họ sẽ tăng

lên 118,5% GDP và tiếp tục tăng lên 119,2% GDP trong năm 2011 trước khi giảm

xuống còn 117,5% GDP vào năm 2012 và 115,2% vào năm 2013. Đối với trường

hợp của Bỉ, Báo cáo Ổn định Tài chính Toàn cầu do IMF công bố vào tháng 10 vừa

qua cho biết, nợ công của nước này năm 2010 sẽ đạt mức 100,2% GDP, trong

Eurozone chỉ đứng sau Hy Lạp và Italia. Năm 2011, nợ công của Bỉ vẫn giữ ở mức

100% GDP và đến năm 2012 mới bắt đầu giảm xuống.

Các nhà phân tích cho rằng, giai đoạn này giới đầu tư chủ yếu bán tháo

TPCP của các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hy Lạp và Ailen, nhưng không loại

trừ Italia và Bỉ sẽ trở thành mục tiêu tiếp theo.

2.3 Hậu quả của khủng hoảng nợ công châu Âu

25

Khi nợ công tăng cao, vượt quá xa giới hạn được coi là an toàn, nền kinh tế

rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên ngoài. Xung quanh

diễn biến về cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu với tâm chấn là Hy Lạp và hiện

đang có nguy cơ lan tỏa sang nhiều nền kinh tế khác, có thể thấy những hậu quả mà

cuộc khủng hoảng để lại như sau:

+ Khủng hoảng nợ công đã làm cho tình trạng thất nghiệp ở các nước châu

Âu ngày càng tăng, thể hiện qua tỷ lệ thất nghiệp tại Eurozone vẫn liên tục tăng và

đạt mức cao nhất 10,3% trong tháng 10/2011 với 16,3 triệu người không có việc

làm, mức cao nhất kể từ năm 1995 đến thời điểm này. Trong đó, Tây Ban Nha có tỷ

lệ thất nghiệp cao nhất khối với mức 22,8% và Italia là 8,5%.

+ Khi khủng hoảng nợ xảy ra, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách

"thắt lưng buộc bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để

được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, "thắt lưng

buộc bụng" lại dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của quần chúng, gây căng

thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người nghèo, những người yếu thế trong

xã hội là những người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm phúc lợi, cắt

giảm chi tiêu của Chính phủ. Chẳng hạn, để được nhận gói cứu trợ nhằm giải quyết

khủng hoảng nợ, Chính phủ Hy Lạp đã phải quyết định tăng nhiều loại thuế, từ thuế

giá trị gia tăng đến thuế thu nhập, thuế bất động sản; và đánh thuế vào nhiều sản

phẩm như rượu, thuốc lá…, đồng thời chấp nhận áp dụng các biện pháp cắt giảm

chi tiêu mạnh tay. Để phản đối chính sách này của Chính phủ, các cuộc tổng đình

công đã diễn ra, hàng chục ngàn người đã tham gia biểu tình trên khắp đất nước Hy

Lạp, nhất là tại thủ đô Athen.

+ Khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu

phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà Chính phủ các nước đã chi ra

trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư,

kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng, thậm chí có thể

đẩy nền kinh tế vào "khủng hoảng kép". Nghiêm trọng hơn, việc tung ra các gói

26

kích thích kinh tế chính là một trong những nguyên nhân làm tăng nợ công của các

Chính phủ. Vấn đề đặt ra cho các Chính phủ là phải chèo lái để giải quyết được

thâm hụt ngân sách nhưng không đẩy nền kinh tế trở lại tình trạng suy thoái, trong

khi các biện pháp để giải quyết hai vấn đề này lại có tác động không thuận chiều.

+ Nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của

các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin của

người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn

công của các thế lực đầu cơ quốc tế. Thí dụ, đối với Hy Lạp, khi tổ chức xếp hạng

tín dụng Standard & Poor’s hạ bậc tín nhiệm đối với TPCP của Athen, các quỹ đầu

tư lớn lập tức bán ra loại trái phiếu này, đồng thời từ chối mua vào trong các đợt

phát hành tiếp theo. Nếu Chính phủ muốn huy động tiền từ thị trường tài chính sẽ

phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó, rơi vào vòng xoáy: tiếp tục bị tụt bậc

tín nhiệm. Việc đưa ra xếp hạng tín nhiệm trong thời điểm nhạy cảm, dễ tổn thương

của nền kinh tế có nguy cơ làm cho cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng, có tác dụng

như một "cú huých", đẩy nền kinh tế lún sâu thêm vào khó khăn, bế tắc.

+ Cùng với áp lực đang gia tăng từ thất nghiệp, thâm hụt NSNN và chi tiêu

công, cũng như sự mất giá của TPCP, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã làm

tổn thất hàng ngàn tỷ USD thu nhập tài chính của các nước thành viên EU, khiến

nhiều chính trị gia mất ghế, gây nhiều tranh cãi và những chi phí giải cứu tốn kém

hàng trăm tỷ EUR, làm suy giảm nặng nề thêm nền kinh tế khu vực, cũng như thị

trường tài chính-tiền tệ khu vực và thế giới.

+ Ngoài ra, khủng hoảng nợ công châu Âu cũng đã ảnh hưởng tới các nền

kinh tế khác trên thế giới. Một trong những nền kinh tế của thế giới chịu ảnh hưởng

lớn từ cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đó là Mỹ, quốc gia có nhiều sự ràng

buộc về mặt kinh tế, thương mại và tài chính với các nước Eurozone.

2.4 Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công tại châu Âu

2.4.1 Nguyên nhân nhìn từ quá khứ

27

Mỗi khi nền kinh tế suy thoái thì nợ công bắt đầu tăng vọt. Và mỗi khi có

bầu cử nợ công lại leo thang. Lý do vì Chính phủ không nhìn nhận và tìm giải pháp

lâu dài cho vấn đề nợ công, mà chỉ chú tâm vào những giải pháp tạm thời, miễn sao qua khỏi kỳ bầu cử là được.2

Năm 1973, các nước OPEC ngưng xuất khẩu dầu sang các nước ủng hộ

Israel trong cuộc chiến tranh Yom kipper chống lại Ai Cập và Syria (gồm Mỹ, Nhật,

Tây Âu), tạo nên cuộc khủng hoảng dầu mỏ đẩy nền kinh tế Âu Mỹ chìm vào suy

thoái. Đó cũng là lúc Âu Mỹ tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển hướng từ sản xuất

công nghệ sang tài chính dịch vụ, và nhường lĩnh vực phát triển công nghiệp cho

những nước châu Á mới nổi.

Năm 1990, ngành tài chính dịch vụ phát triển mạnh mẽ nhưng hầu hết đều

dựa trên kẽ hở của thị trường, thiên về đầu cơ tài chính làm thổi phồng những “bong

bóng tài sản”, tạo ra viễn cảnh giàu có “ảo”, cho nền kinh tế Âu Mỹ. Hậu quả làm

nảy sinh nhiều bất ổn trong cơ cấu ngành nghề, phân khúc giàu nghèo và số người

thất nghiệp tăng lên, phải sống nhờ vào sự hỗ trợ của Chính phủ. Kết quả là tình

trạng nợ công ngày càng chồng chất, và tiếp theo là cuộc khủng hoảng kinh tế tài

chính toàn cầu. Chính phủ đành vay tiền để mua thời gian, cầm chừng qua cơn hấp

hối.

Năm 2008, thế giới lại khủng hoảng, và Chính phủ các nước lại tiếp tục áp

dụng chính sách cũ: huy động tiền để hỗ trợ các hoạt động tín dụng, doanh nghiệp

và trợ giúp khối lao động thất nghiệp. Trong khi đó, trái phiếu của các lần phát hành

trước đó đã đến hạn phải trả cả vốn lẫn lãi, khiến cho gánh nặng nợ nần tích tụ mấy

chục năm qua tiếp tục chồng chất.

Thêm vào đó các hoạt động đầu cơ bằng các công cụ tài chính cực kỳ nguy

hiểm như credit default swaps (hợp đồng hoán đổi nợ xấu) diễn ra sôi nổi, nhằm

2 Nguồn:http://cfoviet.com

đánh cược cho một sự sụp đổ tài chính rất có khả năng xảy ra. Những kẻ đầu cơ lớn

28

nhất hiện nay lại chính là các Ngân hàng Trung ương, họ đã vượt qua các quỹ

phòng hộ Hedge funds về quy mô giao dịch tiền tệ.

Dù nhận thức được bất hợp lý trong việc chuyển sang mô hình kinh tế thiên

về tài chính dịch vụ, nhưng các Chính phủ vẫn “ngựa quen đường cũ” với nền kinh

tế ảo, chỉ giải quyết tạm thời bằng cách vay nợ mới gối đầu trả nợ cũ và ném phao

cứu hộ cho những ngân hàng đang sắp chết đuối.

2.4.2 Nguyên nhân khủng hoảng hiện tại

Bên cạnh những lý do khác biệt và diễn biến khác nhau đối với từng quốc gia

cụ thể, có thể nói, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu vừa qua có chung nguyên

nhân chủ yếu như là hệ quả của việc tăng chi, giảm thu NSNN (do cuộc khủng

hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu khởi đầu từ Mỹ năm 2008). Thói quen

"chi nhiều hơn thu" kéo dài và hệ thống phúc lợi xã hội ngày càng phình to. Ðể đối

phó cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, châu Âu dễ dàng vay mượn quá

mức, không tương thích tốc độ tăng trưởng kinh tế và vì thế đẩy tình trạng thâm hụt

ngân sách và mức nợ công tăng chóng mặt, vượt khả năng kiểm soát.

Hơn nữa, cuộc khủng hoảng này còn có nét chung như là tác động nhân quả

của chính sách chi tiêu công thiếu kiểm soát chặt chẽ (chi tiêu thiếu hợp lý, mất

kiểm soát các hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng...), khả năng quản trị công

yếu kém và thiếu minh bạch trong từng quốc gia, cũng như của những khuyết tật

bộc phát ngay trong cơ chế nội bộ của tổ chức liên kết kinh tế - tiền tệ khu vực vốn

được coi là lớn mạnh và thành công nhất hành tinh này.

Các nước rơi vào tình trạng khủng hoảng là do họ đã quá ảo tưởng về sức

mạnh của quốc gia. Dĩ nhiên không phải Chính phủ Hy Lạp hay Ireland không

lường trước được hậu quả của những khoản nợ, nhưng chính tâm lý ảo tưởng đã dẫn

đến vay nợ tràn lan, đầu tư quá trớn. Cũng vì ảo tưởng mà lơ là quản lý và thiếu

kiểm soát kinh tế vĩ mô. Thái độ thiếu trách nhiệm của những người lãnh đạo không

chỉ khiến các thế hệ con cháu phải oằn lưng trả nợ, mà ngay lập tức các nước này đã

29

phải cầu viện các khoản cứu trợ với điều kiện ngặt nghèo từ Liên minh châu Âu và

Quỹ tiền tệ quốc tế. Như vậy, họ cũng đã đánh mất “chủ quyền tài chính quốc gia”.

Châu Âu luôn tự hào là những thể chế minh bạch, cho phép người dân có thể

giám sát mọi hoạt động của chính quyền, lại phải học thêm bài học về tăng cường

minh bạch. Nhiều Chính phủ đã không làm tròn trách nhiệm trong chi tiêu những

đồng tiền thuế của người dân một cách hợp lý và minh bạch. Vì thiếu sự minh bạch

ấy, các cơ quan có vai trò giám sát như Quốc hội, các tổ chức xã hội, công chúng...

không có đủ thông tin và không thể phản biện, hành động kịp thời. Khủng hoảng nợ

công châu Âu là do Chính phủ không minh bạch các số liệu, Chính phủ cố gắng vẽ

nên bức tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân sách về những chính sách sắp ban

hành để khắc phục những khó khăn về ngân sách hay vấn đề kinh tế vĩ mô dẫn đến

hiệu lực của những chính sách đó bị hạn chế nhiều.

Ngoài ra, khủng hoảng nợ công châu Âu là một cuộc khủng hoảng bị phóng

đại bởi một số quỹ đầu tư có ý đồ xấu trên thị trường vốn quốc tế và các phương

tiện truyền thông. Mục đích của ý đồ này là một mặt chống lại đồng EUR và tạo ra

sự bất ổn cho toàn bộ nền kinh tế châu Âu; mặt khác muốn xoay chuyển đồng USD

theo chiều hướng suy yếu trên thị trường tài chính quốc tế, nhằm bảo vệ ngôi vị bá

chủ tiền tệ thế giới của đồng Mỹ kim.

2.5 Tác động của khủng hoảng nợ công châu Âu đến Việt Nam và bài

học kinh nghiệm cho Việt Nam

2.5.1. Tác động của khủng hoảng châu Âu đến Việt Nam

Ảnh hưởng của khủng hoảng nợ công châu Âu đến nền kinh tế Việt Nam là

không quá lớn, được đánh giá qua một số tiêu chí sau:

+ Xuất khẩu giảm: Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt hệ quả

tất yếu như: tốc độ phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, châu Âu sẽ phải chứng kiến

tình hình thất nghiệp và lạm phát tăng cao, đồng EUR mất giá, tăng trưởng GDP

giảm sút, làm cho thu nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu

giảm mạnh.

30

Về vấn đề này, một số quan điểm cho rằng hàng hoá giá rẻ là ưu thế của Việt

Nam, do đó cuộc khủng hoảng nợ công sẽ giúp hướng người dân châu Âu chuyển từ

hàng hoá cao và trung cấp sang hàng hoá do Việt Nam sản xuất. Tuy nhiên, những

số liệu tính toán từ mô hình ước lượng cho thấy, cuộc khủng hoảng nợ công châu

Âu sẽ có những tác động tiêu cực đến xuất khẩu và tăng trưởng GDP của Việt Nam,

với mức suy giảm khoảng 1,7% GDP trong năm 2010, cao thứ ba chỉ sau Trung

Quốc (2,8%) và Anh (1,9%). Nếu không có những chính sách phản ứng kịp thời hỗ

trợ xuất khẩu thì triển vọng trung hạn đối với xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp nhiều

khó khăn.

+ Lãi suất thấp ở các nước, trong khi ở Việt Nam lãi suất cao sẽ bất lợi về chi

phí cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng

hoảng nợ công, nhiều Ngân hàng Trung ương các nước phát triển vẫn duy trì mức

lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát

trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước : FED

(Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%; BOE (Anh): 0,5%; Nhật Bản 0,1%. Ngược lại ở Việt

Nam, lãi suất huy động lẫn lãi suất cho vay vẫn đứng ở mức cao. Các doanh nghiệp

phải vay vốn với lãi suất khoảng 14-16%/năm với kỳ hạn ngắn và khoảng 14,5-

17%/năm với kỳ hạn trung, dài hạn. Nếu tính đến lạm phát ước cho năm 2010 là

dưới 10%, doanh nghiệp phải đạt mức tỉ suất lợi nhuận trên 24-27%, là mức cao so

với tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân của các ngành trong năm 2009

(khoảng 20%).

+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giảm: Khủng hoảng nợ công châu Âu có

thể tạo ra hai tác động trái chiều hoàn toàn với luồng vốn FDI trên phạm vi toàn

cầu. Những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ

hưởng lợi do nguồn vốn FDI dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà

đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các

quốc gia châu Âu. Ngược lại, các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại

hoàn toàn không được hưởng lợi từ việc dịch chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu

31

do sự chênh lệch quá lớn về trình độ công nghệ, trong khi luồng vốn từ các nhà đầu

tư châu Âu vào các quốc gia này giảm sút do cuộc khủng hoảng nợ.

+ Khủng hoảng nợ công châu Âu làm tăng thêm nguy cơ rủi ro tài chính cho

nền kinh tế thế giới và Việt Nam cũng sẽ bị ảnh hưởng. Theo các chuyên gia kinh

tế, các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn trước nguy

cơ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng, làm cho giá vàng trong thời

gian qua tăng mạnh, lên mức trên 1.400 USD/ounce. Điều này phản ánh nhu cầu về

dự trữ an toàn hơn so với tiền giấy, sau khi nhiều cá nhân và tổ chức ở châu Âu,

châu Á đua nhau mua vàng, bạch kim và bạc. Điều này sẽ tác động xấu đến đầu tư

toàn thế giới và Việt Nam bởi một khi vàng chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục đầu

tư của các tổ chức thì cũng đồng nghĩa với việc các danh mục khác như cổ phiếu,

trái phiếu sẽ bị giảm mạnh. Như vậy, luồng vốn đầu tư gián tiếp càng trở nên hạn

chế.

+ Bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS) xu hướng tăng lên; Vấn đề Hy Lạp đang

làm cho các nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận trọng hơn với các quốc gia có

vấn nạn tương tự: 3 số liệu cảnh báo bao gồm: nợ quá nhiều, thể hiện ở tỉ lệ nợ trên

GDP cao; chi tiêu quá mức, thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách lớn so với GDP; và

tốc độ tăng trưởng GDP sụt giảm. Hệ quả là Việt Nam với tỉ lệ nợ cao, thâm hụt

ngân sách triển miên đang bị các tổ chức tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao,

với mức CDS là 263, xếp ngay trên Hy Lạp (321) và Iceland (466). Điều này sẽ là

một cản trở rất lớn trong việc thu hút các luồng vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp và

cho vay từ nước ngoài.

+ Khủng hoảng nợ công châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về

tỷ giá. Đồng USD và đặc biệt là đồng JPY sẽ tiếp tục đà tăng giá mạnh so với đồng

EUR do tính an toàn từ phía các đồng tiền này. Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu

hiệu nghiêm trọng, đồng EUR mất giá tương đối so với USD đã tạo ra những rủi ro

nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng

như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại. Ngoài ra, đồng USD

32

tăng giá mạnh trong khi thâm hụt thương mại của Việt Nam đang gia tăng, cộng với

thời điểm đáo hạn của các khoản vay tín dụng ngoại tệ, sẽ gia tăng sức ép tăng rủi

ro hối đoái và biến động tỷ giá vào các tháng cuối năm 2010.

2.5.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Khủng hoảng nợ công và sự sụp đổ của hai nền kinh tế từng được coi là

những hình mẫu tăng trưởng của châu Âu là những bài học nhãn tiền đối với tất cả

các nước, bất kể là giàu hay nghèo. Đối với Việt Nam, sự sụp đổ của Hy Lạp đã

mang lại bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá, nhất là khi Việt Nam đang đối mặt

với những vấn đề gần như tương tự. Cụ thể là:

+ Phải luôn cảnh giác các dấu hiệu xấu với nền kinh tế để có giải pháp đủ

mạnh khắc phục: Hy Lạp đã có 15 năm liên tục đạt tốc độ phát triển cao và giành

nhiều thành tựu nhất định nhưng khi lâm vào khủng hoảng năm 2009 mà dấu hiệu

cụ thể là các khoản vay vượt quá 100% số tiền dự trữ và nợ công lên đến 127% so

với GDP, Hy Lạp đã không thể ra khỏi khó khăn, tự mình quyết định số phận mà

phải trông đợi sự giúp đỡ của EU và IMF.

+ Cần đào tạo đội ngũ quản lý và lao động chăm chỉ, cần cù và năng suất

hơn: Tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ đạt thành tựu xuất sắc về kinh tế đều có

lượng lao động làm việc gắn bó, hết mình, tận tụy, hiệu quả vì công việc như Nhật

Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan... Người Việt Nam tự đánh giá và cũng được

nhận xét là cần cù, chăm chỉ nhưng nếu so với thời gian lao động và hiệu quả của

Hàn Quốc, Nhật Bản, thậm chí Hy Lạp thì Việt Nam vẫn bị rớt lại phía sau cả về

thời gian lao động lẫn chất lượng lao động.

+ Lưu ý tiếp theo của vấn đề này là nhìn vào những điều kiện do EU và IMF

đưa ra để Hy Lạp thực hiện, Việt Nam sẽ thấy cần phải triệt để không để thâm hụt

ngân sách lớn và nợ công tăng quá cao, quá nhanh. Cụ thể, Hy Lạp là đối tượng

kiểm tra hàng quý của EU và IMF, Hy Lạp phải giảm thâm hụt ngân sách 5% trong

năm tài chính 2010, tới năm 2014 giảm 3% thâm hụt ngân sách, tỷ lệ nợ công so với

GDP phải duy trì ở mức 115-140%. Các biện pháp khác bao gồm tăng thuế giá trị

33

gia tăng từ 21-23%, tăng thuế 10% đối với nhiêu liệu, thuốc lá, đồ uống có cồn, bất

động sản.

+ Cũng tương tự như Hy Lạp, thâm hụt thương mại của Việt Nam luôn duy

trì ở mức cao và kéo dài. Một tỷ lệ khá lớn vốn tài trợ cho thâm hụt cũng đến từ bên

ngoài, trong đó số tiền vay nợ (ODA, vay thương mại, phát hành TPCP quốc tế)

ngày càng lớn. Dù tỷ lệ nợ công/GDP vẫn ở mức an toàn, nhưng tỷ lệ này đang

ngày càng tăng nhanh và sẽ nhanh chóng tiệm cận mức giới hạn an toàn.

+ Bài học kinh nghiệm cần rút ra cho các quốc gia về vấn đề nợ công là cần

phải gấp rút tổng kết và đánh giá chính xác tình trạng nợ công. Vay nợ để đầu tư

cho tăng trưởng kinh tế là điều bình thường. Tuy vậy, nợ bao nhiêu là an toàn lại là

một bài toán khó giải. Nợ hơn 100% GDP đã đủ làm sập nền kinh tế Hy Lạp nhưng

nợ 200% GDP như Nhật Bản lại vẫn chưa bị coi là nguy hiểm. Chính vì vậy điều

quan trong nhất là làm sao để quản trị tốt, sử dụng đồng tiền vay hiệu quả.

+ Đối với các quốc gia giàu có, những nước mà người ta nghĩ rằng không

bao giờ phải rơi vào thảm cảnh khốn cùng của một con nợ, bài học lớn nhất là đừng

quá ảo tưởng về sức mạnh quốc gia. Thời gian qua Việt Nam cũng đã quá ảo tưởng

về sự tăng trưởng, phát triển của mình nhưng điều đó là không phù hợp. Đã đến lúc

Việt Nam phải nhìn thẳng vào sự thật, nghiêm túc nhận ra những khuyết điểm và

tích cực khắc phục những thiếu sót để đưa nền kinh tế quốc gia phát triển theo

hướng bền vững.

+ Phải quản lý nợ công thật chặt chẽ, thường xuyên giám sát hệ thống tài

chính tiền tệ, nghiêm ngặt trong chính sách tài khoá- tức là ngân sách . Việc đảm

bảo chi tiêu là không dễ với các nước giàu, lại càng khó với các nước đang phát

triển có nền kinh tế hạn chế. Không thể vì mục tiêu phát triển trước mắt mà thiếu

tính toán về dài hạn. Sự sụp đổ của nền kinh tế Argentina - quốc gia từng được Quỹ

Tiền tệ quốc tế ngợi ca là một hình mẫu tăng trưởng- cảnh báo các nước đang phát

triển về hiểm hoạ do phát triển “quá nóng”, đầu tư tràn lan, thiếu tính toán. Do vậy

34

các quốc gia phải tìm ra mô hình sáng tạo, phù hợp, không nên bám vào những thói

quen quản lý lạc hậu không phù hợp với sự tiến bộ xã hội.

+ Cuối cùng, một bài học lớn phải được rút ra trong suốt quá trình quản lý,

ngăn chặn bùng nổ nợ công, cho đến giải quyết hậu quả trong trường hợp vỡ nợ là

bài học “Tự lực cánh sinh”, khi ấy sẽ biết quý và thận trọng từng đồng tiền trong

chi tiêu. Không lúc nào được lãng quên vấn đề sử dụng vốn vay sao cho hiệu quả,

bởi đó là những đồng tiền vay mượn, phải trả lãi và đến hạn sẽ phải trả nợ.

+ Mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào nguồn vốn đầu tư bên ngoài sẽ dễ

bị tổn thương nếu kinh tế thế giới ngưng trệ. Việt Nam hiện có tỷ lệ đầu tư/GDP

trong những năm gần đây đều ở mức trên 40%. Đây là một tỷ lệ rất cao so trung

bình các nước trong khu vực và trên thế giới. Với việc dòng vốn đầu tư nước ngoài

chiếm một tỷ lệ quá lớn trong cơ cấu vốn đầu tư, nền kinh tế Việt Nam sẽ rất dễ bị

tổn thương một khi kinh tế thế giới ngưng trệ.

+ Kinh nghiệm trong vấn đề nợ công cho các quốc gia cần phải có những đúc

rút kinh nghiệm quý báu từ Đức, Hàn Quốc, Singapore, Nhật bản, Anh, Norway,..

để áp dụng vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Qua đó, các nước trong đó có

Việt Nam có cơ hội soi rọi lại vấn đề này để có những quyết sách đúng đắn. Yếu tố

quan trọng nhất để kiểm soát và hạn chế nợ công vẫn là vai trò quản lý của con

người, sự minh bạch và trong sáng trong tư duy của người có chức có quyền. Cuối

cùng là hãy làm vì lợi ích quốc gia, đừng đánh mất “chủ quyền tài chính” như Hy

Lạp và Ireland.

Có thể nói khủng hoảng nợ công châu Âu là bài học quý giá cho Việt Nam

và các quốc gia khác trên toàn thế giới. Tuy nhiên, từ bài học kinh nghiệm này, các

nhà lãnh đạo đất nước sẽ nhìn nhận như thế nào về tình hình nợ công của Việt Nam

để đưa ra những chính sách phù hợp. Nhất là trong thời điểm hiện nay, khi mà nợ

công của Việt Nam đang có những bất ổn nhất định do ảnh hưởng của khủng hoảng

kinh tế thế giới và khủng hoảng nợ công châu Âu.

35

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Nghiên cứu khủng hoảng nợ công châu Âu đã làm rõ hơn các vấn đề về

khủng hoảng nợ công ở nhiều khía cạnh. Ứng với đặc điểm của từng nền kinh tế

khác nhau có thể thấy được diễn biến khác nhau của cuộc khủng hoảng. Nhưng nhìn

chung, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu về bản chất là cuộc khủng hoảng chính

trị tác động đến kinh tế và là biểu hiện của khủng hoảng niềm tin. Trong một quốc

gia, nếu chính trị ổn định, có sự thống nhất cao trong đường lối chính sách của nhà

nước thì đây sẽ là động lực để phát triển kinh tế xã hội. Ngược lại, tình hình chính

trị bất ổn, các chính sách của Nhà nước gây khó khăn cho đời sống người dân sẽ tạo

ra tâm lý bất mãn, người dân mất đi niềm tin vào Chính phủ. Điều này làm cho cơn

khủng hoảng của quốc gia càng thêm trầm trọng. Đối với châu Âu hiện nay, chỉ có

lấy lại niềm tin của dân chúng và các nhà đầu tư mới mong thoát khỏi khủng hoảng

nợ công và khôi phục tăng trưởng kinh tế. Với Việt Nam, chúng ta tập hợp gần như

đầy đủ các vấn đề được coi là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công châu Âu.

Đã đến lúc Chính phủ cần nhìn nhận vào thực tế để đưa ra các giải pháp hợp lý và

không được chủ quan trong công tác ngăn ngừa khủng hoảng nợ công.

36

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 2006 - 2012

3.1 Các chỉ tiêu giám sát nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia

Hệ thống các chỉ tiêu an toàn về nợ công và chỉ tiêu xác định tình trạng nợ

công của mỗi quốc gia có thể không giống nhau, tùy theo quan điểm về nợ công của

mỗi nước. Ở Việt Nam hệ thống các chỉ tiêu giám sát nợ công và nợ nước ngoài của

quốc gia được quy định tại Điều 7 Nghị định số 79/2010/NĐ-CP của Chính phủ

ngày 14/7/2010 về nghiệp vụ quản lý nợ công. Cách tính các chỉ tiêu được hướng

dẫn cụ thể qua Thông tư số 56/2011/TT-BTC.

3.1.1 Phương pháp xác định các chỉ tiêu giám sát nợ công

3.1.1.1. Nợ công so với GDP

Chỉ số này phản ánh quy mô nợ công so với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế

và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.

Tổng dư nợ công tại thời điểm 31/12

Chỉ số này được tính như sau:

= x 100% Tỷ lệ nợ công so với GDP GDP luỹ kế đến 31/12

3.1.1.2. Nợ Chính phủ so với GDP

Chỉ số này phản ánh quy mô nợ Chính phủ so với thu nhập của toàn bộ nền

kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.

Chỉ số này được tính như sau:

Tổng dư nợ của Chính phủ tại thời điểm 31/12

= x 100% Tỷ lệ nợ của Chính phủ so với GDP GDP luỹ kế đến 31/12

3.1.1.3. Nợ vay thương mại nước ngoài của Chính phủ so với GDP

37

Chỉ số này phản ánh quy mô nợ vay thương mại nước ngoài Chính phủ so

với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.

Chỉ số này được tính như sau:

Tổng dư nợ thương mại nước ngoài Chính phủ tại thời điểm 31/12 = x 100% Tỷ lệ nợ vay thương mại nước ngoài của Chính phủ so với GDP GDP luỹ kế đến 31/12

3.1.1.4. Nợ được Chính phủ bảo lãnh so với GDP

Chỉ số này phản ánh quy mô nợ được Chính phủ bảo lãnh so với thu nhập

của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.

Chỉ số này được tính như sau:

Tổng dư nợ được Chính phủ bảo lãnh tại thời điểm 31/12 x100% = Tỷ lệ nợ được Chính phủ bảo lãnh so với GDP GDP luỹ kế đến 31/12

3.1.1.5. Nghĩa vụ nợ Chính phủ so với thu NSNN

+ Nghĩa vụ trả nợ (gốc, lãi, phí) của Chính phủ đối với các khoản vay về để

cân đối ngân sách:

Chỉ số này xác định quy mô nợ của Chính phủ đối với các khoản vay về để

cân đối ngân sách đến hạn hàng năm so với khả năng trả nợ của Chính phủ bằng

nguồn thu NSNN và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.

Chỉ số này được tính như sau:

Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với các khoản vay về để cân đối ngân sách luỹ kế đến 31/12 x 100% =

Tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với các khoản vay về để cân đối ngân sách so với thu NSNN Thu NSNN luỹ kế đến 31/12

38

+ Nghĩa vụ trả nợ (gốc, lãi, phí) của Chính phủ đối với các khoản vay về cho

vay lại:

Chỉ số này xác định quy mô nợ gián tiếp của Chính phủ đến hạn hàng năm so

với nguồn thu NSNN.

Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với các khoản cho vay lại luỹ kế đến 31/12

Chỉ số này được tính như sau:

= x 100%

Tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với các khoản vay về cho vay lại so với thu NSNN Thu NSNN luỹ kế đến 31/12

3.1.1.6. Nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ so với thu NSNN

Tỷ lệ này xác định quy mô của nghĩa vụ nợ dự phòng phát sinh từ khoản vay,

phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh so với nguồn thu NSNN và được tính

tại thời điểm 31/12 hàng năm.

Chỉ số này được tính như sau:

Nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ luỹ kế đến 31/12 x 100% = Tỷ lệ nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ so với thu NSNN Thu NSNN luỹ kế đến 31/12

3.1.1.7. Nợ chính quyền địa phương so với GDP

Chỉ số này phản ánh quy mô nợ của tất cả Chính quyền địa phương so với

thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.

Tổng dư nợ của tất cả các địa phương tại thời điểm 31/12

Chỉ số này được tính như sau:

x 100% = Tỷ lệ nợ của địa phương so với GDP GDP luỹ kế đến 31/12

3.1.2. Phương pháp xác định chỉ tiêu giám sát nợ nước ngoài

39

3.1.2.1. Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP

Chỉ số này phản ánh tương quan giá trị dư nợ nước ngoài của quốc gia so với

thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.

Tổng dư nợ nước ngoài của quốc gia tại thời điểm 31/12

Chỉ số này được tính như sau:

x 100% = Tỷ lệ nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP GDP luỹ kế đến 31/12

3.1.2.2. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài (gốc, lãi, phí) của quốc gia hàng năm

so với kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ

Chỉ số này phản ánh khả năng hoàn trả nợ nước ngoài từ nguồn thu xuất

khẩu hàng hoá và dịch vụ, qua đó phản ánh tính thanh khoản của nợ nước ngoài và

được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.

Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia luỹ kế đến 31/12

Chỉ số này được tính như sau:

Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ luỹ kế đến 31/12

x 100% = Trả nợ nước ngoài của quốc gia so với XK HH&DV

3.1.2.3. Dự trữ ngoại hối nhà nước so với nợ nước ngoài ngắn hạn

Chỉ số này phản ánh khả năng sử dụng dự trữ ngoại hối nhà nước để trả các

khoản nợ nước ngoài ngắn hạn và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.

Chỉ số này được tính như sau:

Dự trữ ngoại hối nhà nước tại thời điểm 31/12 = x 100% Dự trữ ngoại hối nhà nước so với nợ nước ngoài ngắn hạn

Dư nợ nước ngoài ngắn hạn tại thời điểm 31/12

Ngoài các chỉ tiêu giám sát nợ công và nợ nước ngoài, chúng ta còn có các

chỉ tiêu giám sát nợ trong nước. Tuy nhiên, hiện tại ở Việt Nam chưa có quy định

40

cụ thể về các chỉ tiêu này; để đánh giá được tình hình vay nợ trong nước, tác giả sẽ

sử dụng ngưỡng nợ trong nước theo tiêu chuẩn của các nước nghèo có tỷ lệ nợ cao

(viết tắt là HIPCs) (Bảng 3.1).

Bảng 3.1: Ngưỡng nợ trong nước theo tiêu chuẩn của HIPCs

ức ngưỡng

Tỷ lệ M Nợ trong nước/ GDP Nợ trong nước/DBR (3) 20%-25% 92%-167%

Như vậy, với việc Thông tư số 56/2011/TT-BTC được ban hành để hướng

dẫn cụ thể cách tính các chỉ tiêu nợ công, Chính phủ đã quan tâm nhiều hơn đến vấn

đề nợ công của quốc gia. Để có thể quản lý nợ công tốt trong thời gian tới Chính

phủ cần phải đánh giá lại tình hình nợ công của quốc gia và đưa ra những giải pháp

phù hợp để tạo được sự an toàn trong sử dụng nợ công.

3.2 Tình hình vay nợ công

Thông qua các động lực thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam từ 2001 -

2011, có thể khẳng định đầu tư có vai trò cực kỳ quan trọng, trong đó có vai trò của

đầu tư công thông qua việc phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ an sinh xã hội và ổn

định kinh tế vĩ mô. Trong 10 năm qua, tỷ lệ nợ công của Việt Nam so với GDP

ngày càng có xu hướng gia tăng. Tổng số dư nợ công tính đến năm 2011 bằng

54,6% GDP. Trong cơ cấu nợ công thì nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp

đến là nợ được Chính phủ bảo lãnh. Quy mô nợ của chính quyền địa phương chiếm

tỷ trọng tương đối thấp, dưới 1% GDP. Hiện tại, nợ công của Việt Nam vẫn đang

trong giới hạn an toàn, phần lớn các khoản vay nước ngoài của Chính phủ có kỳ hạn

dài, lãi suất cố định và ưu đãi.

3 DBR: viết tắt của cum từ “ thu ngân sách nhà nước”.

Bảng 3.2: Số liệu nợ công của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2012

41

Bảng 3.2 cho thấy, nợ công của Việt Nam không ngừng tăng lên qua các

năm. Cụ thể, năm 2006, nợ công của Việt Nam là 417.960 tỷ đồng, chiếm 42,9%

GDP, năm 2007, nợ công lên tới 521.536 tỷ đồng, chiếm 45,6% GDP, năm 2008 là

651.933 tỷ đồng... Theo báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tính đến ngày

31/12/2008, tổng dư nợ nội địa của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 287.000

tỷ đồng. Nếu tính cả nợ nước ngoài thì đến cuối năm 2008, tổng nợ của khu vực

DNNN xấp xỉ 23,9% GDP, mà tổng dư nợ này lại càng tăng đáng kể trong năm

2009 do chính sách kích cầu của Chính phủ. (xem bảng 3.3)

Bảng 3.3: Gói kích thích kinh tế năm 2009

STT Danh mục

Tạm hoãn thu hồi vốn ứng trước năm 2009

Phát hành bổ sung TPCP Thực hiện chính sách miễn giảm thuế

Giá trị (tỷ đồng) 17.000 1 Hỗ trợ lãi suất 4% 3.400 2 37.200 3 Các khoản vốn ứng trước 4 Chuyển vốn đầu tư từ năm 2008 sang năm 2009 30.200 20.000 5 6 28.000 7.200 7 Các khoản kích cầu khác 8 Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa 17.000 Tổng 160.000(~9 tỷ USD)

(Nguồn: Bộ Tài chính)

So với các nước trong khu vực, tín dụng từ nguồn hệ thống tín dụng nội địa ở

Việt Nam là rất cao; tỷ lệ tín dụng lên tới 121% GDP, nhất là khi nền kinh tế Việt

42

Nam còn ở mức thấp (bảng 3.4). Dựa vào tín dụng thay vì vốn tự có để phát triển

kinh tế dễ đẩy nền kinh tế đến chỗ bong bóng.

Bảng 3.4: Tỷ lệ tổng dư nợ hệ thống tín dụng trên GDP.

ổng dư nợ nội địa trên GDP

T Trung Quốc Ấn Độ Indonesia Malaysia Philippines Singapore Thái Lan Việt Nam

145.9% 75.1% 38.5% 132.1% 51.8% 93.6% 150.0% 120.9% Nguồn: Asian Development Bank (ADB), Key Indicators for Asia and the Pacific 2012

Theo định nghĩa quốc tế nợ công bao gồm nợ theo định nghĩa của Việt Nam

và nợ của các DNNN. Rõ ràng nợ công theo định nghĩa quốc tế là phù hợp với tình

hình Việt Nam hiện nay hơn. Chính vì Nhà nước làm chủ sở hữu của các DNNN do

đó Nhà nước không thể khoanh tay nhìn chủ nợ đòi bán tài sản thu nợ theo đúng

luật phá sản, như thực tế đã diễn ra, nợ của Vinashin đã được chính quyền dồn cho

các DNNN khác phải trả.

Bảng 3.5. Nợ công của Việt Nam năm 2011

T Nợ công theo định nghĩa Việt Nam Nợ của Chính phủ Nợ Chính phủ bảo lãnh Nợ chính quyền địa phương Nợ công theo định nghĩa quốc tế Nợ công theo định nghĩa Việt Nam Nợ của DNNN (trong và ngoài nước) ỷ đồng 1,391,478 1,085,353 292,210 13,915 2,683,878 1,391,478 1,292,400 Tỷ US 66.8 52.1 14.0 0.7 128.9 66.8 62.1 So với GDP 55% 43% 12% 1% 106% 55% 51%

Nguồn và chú thích: Vương Đình Huệ, Bộ Tài chính. Trong nợ nước ngoài của

4 Trích từ: http://www.diendan.org

DNNN có thể có một phần do Chính phủ bảo lãnh cho nên tổng nợ có tính trùng, phải trừ đi khỏi nợ DNNN, cao nhất là 14 tỉ. 4

43

Từ bảng 3.4 cho thấy là tổng nợ công theo định nghĩa quốc tế vào cuối năm

2011 đã là 128.9 tỷ USD bằng 106% GDP (121.7 tỷ USD). Tổng số nợ của DNNN

là 62.1 tỷ USD bằng 55% GDP. Mức trần tỷ lệ nợ công trên GDP không quá 65%

GDP vào năm 2015 mà Chính phủ đề nghị Quốc hội đã bị vượt qua, nếu chúng ta

vẫn không thừa nhận điều này thì chính sách trong tương lai sẽ không thể phù hợp.

Đồng thời theo nguyên tắc tính nợ công, phần nợ trong nước cần phải tính cả

nợ phải trả những người đã và sẽ về hưu, Việt Nam chưa làm điều này. Số nợ sẽ cao

hơn rất nhiều khi lương được trả phù hợp với thực tế. Từ năm 2009, nhà nước phải

chi trả cho 3 triệu người về hưu và có công với cách mạng, và trong vài năm tới đây

con số này sẽ tăng thêm 3,1 triệu người. Việc số lao động nhà nước tăng mạnh trong

nhiều năm qua (bảng 3.6) đã làm chậm khả năng tăng lương cho các đối tượng này.

Nếu số lao động không tăng quá nhiều như thời gian qua, đưa tổng số lao động ăn

lương ngân sách tăng gấp đôi thì lương đã có thể tăng gấp đôi. Và tất nhiên số lao

động mà nhà nước phải trả lương hưu, khi lương được tăng đúng mức, chắc chắn sẽ

là gánh nặng cho nền kinh tế quốc gia, vì thế không thể không tính nó vào nợ công.

Bảng 3.6: Lao động hành chính, an ninh và sự nghiệp ăn lương và hưởng hưu

trí của nhà nước.

Tổng lao động trong hoạt động nhà nước Sự nghiệp (giáo dục, y tế, ...) Quản lý, quốc phòng, an ninh GDP (ngàn tỷ theo giá năm 1994) 1999 1539.3 1190.2 349.1 256272 2009 3163.3 1672.2 1491.1 516568 Tốc độ tăng 106% 40% 327% 102%

Nguồn: Tổng cục thống kê

Như vậy, có thể nói chưa có số liệu về nợ công để đánh giá vì phần nợ trong

nước chưa đầy đủ. Mặc dù vậy vẫn có thể đánh giá tình hình nợ công thông qua các

khoản nợ nước ngoài bởi những tác động của nó đến nền kinh tế quốc gia là rất lớn.

Nợ nước ngoài bao gồm cả nợ của Chính phủ, nợ của doanh nghiệp quốc

doanh và ngoài quốc doanh. Luận văn chỉ tập trung vào nợ của Chính phủ và nợ của

doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh. Tuy thế, có thể ước lượng số nợ của doanh

nghiệp không được Chính phủ bảo lãnh (gồm cả nợ của doanh nghiệp quốc doanh

44

và ngoài quốc doanh); nợ không có bảo lãnh được tính dựa trên cơ sở lấy tổng số nợ

nước ngoài trừ đi số nợ của Chính phủ như phần trình bày ở bảng 3.7.

Bảng 3.7: Nợ nước ngoài của Chính phủ (kể cả được Chính phủ bảo lãnh)

Đơn vị tính: Tỷ đồng USD

2009 36.0 2010 44.1 2011 49,4 2005 16.4 2008 25.9 2007 22.1 2006 18.3

8.1 11.6 12.6 2.7 2.2 2.9 4.1

27.9 32.5 36,8 21.8 14.2 15.6 19.2

27.8% 26.7% 28.2% 25.1% 30.2% 31.1% 30,9%

32.2% 31.4% 32.5% 29.8% 39.0% 42.1% 41.5%

1.291 1.672 2.1

Tổng nợ nước ngoài Nợ doanh nghiệp không có bảo lãnh Nợ của Chính phủ Tổng nợ nước ngoài của Chính phủ/GDP Tổng nợ nước ngoài của nền kinh tế/GDP Nợ phải trả hàng năm (tỷ US) 0.698 0.764 0.886 1.104 Nguồn: Bản tin nợ nước ngoài số 7, Bản tin nợ công số 1.

Tổng số nợ nước ngoài năm 2009 là 36 tỷ USD, trong đó 27.9 tỷ là nợ của

Chính phủ (gồm cả nợ do Nhà nước bảo lãnh) và 8,1 tỷ là nợ doanh nghiệp quốc

doanh và tư nhân không được Nhà nước bảo lãnh. Như vậy nợ của Vinashin, 700

triệu US bán trái phiếu là nằm trong nợ Chính phủ theo định nghĩa của Việt Nam.

Cần để ý là số nợ 8,1 tỷ không được bảo lãnh có lãi suất rất cao so với phần nợ của

Chính phủ, tuy nhiên bản tin không có thông tin về số nợ này.

Tổng số nợ nước ngoài của Việt Nam tăng rất nhanh (trung bình 22%/ năm),

cao hơn nhiều so với mức tăng danh nghĩa của GDP (trung bình 17%/năm). Nhưng

quan trọng hơn là nợ nước ngoài đang tăng tốc, vào năm 2009 tăng ở mức khủng

39% hơn hẳn mức 17% năm 2008 (bảng 3.8). Và đặc biệt quan trọng là nợ của

doanh nghiệp không có bảo lãnh là các khoản nợ có lãi suất thị trường tăng mạnh

hơn nhiều, ở mức 98% năm 2009 so với 39% năm 2008.

Bảng 3.8: Tốc độ tăng nợ nước ngoài của Chính phủ (kể cả được Chính phủ bảo lãnh)

45

2006 2007 2008 2009 2010 2011

12% 22% 21% 7% 17% 39% 39% 98% 23% 43% 12% 8,6% Trung bình năm 20.67% 36,3%

Tổng nợ nước ngoài Nợ doanh nghiệp không có bảo lãnh 10% Nợ của Chính phủ Nợ phải trả của Chính phủ 9% 23% 16% 14% 25% 28% 17% 17% 30% 17.5% 13% 25.6% 20,4%

Nguồn: tính toán của tác giả từ số liệu bảng 3.7

Từ biểu 3.8, việc tăng loại nợ của doanh nghiệp (kể cả quốc doanh và ngoài

quốc doanh, có bảo lãnh hay không bảo lãnh của Chính phủ) tới mức gần 12 tỷ

(8,1+3,8) và đang tăng nhanh là điều đáng lo ngại. Số nợ này có thể nói gần như

toàn bộ là nợ của doanh nghiệp quốc doanh vì chỉ có doanh nghiệp quốc doanh mới

có thể vay mượn được, dù Chính phủ chính thức đứng ra bảo lãnh hay không; lý do

là các ngân hàng và các nhà đầu tư nước ngoài cho vay hay mua trái khoán doanh

nghiệp chỉ vì họ biết rằng chúng là của DNNN do đó Chính phủ có trách nhiệm chi

trả. Việc Chính phủ ký tuyên bố một số tập đoàn nhà nước như Than - Khoáng sản

và Vinashin là công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ xảy ra vào ngày 25 tháng 6 năm

2010 khi Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng thay mặt Thủ tướng ký quyết định QĐ-

TTg 984 và 989. Có lẽ quyết định này ký sau khi công ty Vinashin vay mượn ngân

hàng nước ngoài và các ngân hàng trong nước.

Theo số liệu của Bộ Tài chính, đến cuối năm 2011, nợ công chiếm 54,6%

GDP, trong đó nợ Chính phủ là 43,6% GDP còn nợ nước ngoài chiếm 41,5% GDP,

tương đương 50 tỉ USD, dự kiến đến hết năm 2012, nợ công khoảng 58,4% GDP,

đến 2015, tổng số nợ công sẽ khoảng 60 - 65% GDP.

Các chuyên gia kinh tế trong nước cũng như các tổ chức quốc tế cho rằng

quy mô nợ của Việt Nam gia tăng nhanh trong giai đoạn 2006 - 2010, và tiếp đà

tăng này trong giai đoạn 2011 - 2015. Theo như IMF dự báo tới năm 2015, nợ công

của Việt Nam sẽ tăng lên 86,2 tỷ USD, nợ nước ngoài cũng tăng tương ứng từ 41,7

tỷ USD lên 73,8 tỷ USD. Rõ ràng là nợ công của Việt Nam đang rất cao mặc dù các

số liệu thống kê vẫn chưa đầy đủ so với thực tế.

46

Nợ công cao nhưng những thành quả do nó mang lại là chưa tương xứng, cần

để ý rằng những đầu tư hôm nay phải được tạo ra bằng các sản phẩm ngày mai thì

sự đầu tư đó mới hiệu quả. Tuy nhiên, từ thực tế sử dụng nợ công hiện nay của Việt

Nam đã lộ ra rất nhiều vấn đề bất cập, thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam là rất

đáng lo ngại bởi những rủi ro do sự biến động của các yếu tố trong nền kinh tế.

3.3 Tình hình sử dụng nợ công

Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển nhanh, nhu cầu về vốn

đầu tư vào các chương trình, dự án trọng điểm của quốc gia là rất lớn. Nguồn vốn

chủ yếu được sử dụng tập trung vào các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều

kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn của các nhà đầu tư trong nước lẫn nước ngoài.

Về mặt lý thuyết, mục tiêu của các dự án được đánh giá rất cao, có tầm ảnh hưởng

lớn đến hoạt động kinh tế vùng, miền; tuy nhiên, thực trạng triển khai của các dự án

này lại rất khác nhau, nhìn chung là không mang lại hiệu quả như mong đợi. Đa số

các dự án được triển khai rất chậm, hoặc nếu đúng tiến độ thi công thì chất lượng

không đảm bảo. Thực trạng trên được biểu hiện cụ thể qua hai khía cạnh:

Thứ nhất, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn: có nhiều nguyên nhân

làm chậm trễ trong vấn đề này, các nguyên nhân này xuất phát từ cả hai phía Việt

Nam và các quốc gia chủ nợ.

Về phía Việt Nam: Nguyên nhân là do thiếu vốn đối ứng, giải phóng mặt

bằng chậm, năng lực, cách thức điều hành của ban quản lý dự án ở Trung ương và

địa phương, nhất là các địa phương hay thay đổi. Điển hình việc sử dụng nguồn vốn

ODA hiện nay; ODA là nguồn vốn chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu nợ của Việt Nam, với tỷ lệ 75% tổng số nợ 5, ODA có vai trò to lớn góp phần thúc đẩy tăng trưởng

5 Nguồn: TS. Ngô Thị Tuyết Mai, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 12/2012 .

6 Nguồn: Hội thảo: Tái cơ cấu đầu tư công trong bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế ở Việt Nam (2011).

kinh tế xã hội của quốc gia. Tuy nhiên, ở Việt Nam một dự án ODA phải mất ít nhất một năm, kể từ thời điểm cam kết rót vốn cho đến lúc chính thức giải ngân 6.

47

Sự chậm trễ này rõ ràng là không làm hài lòng các nhà tài trợ quốc tế, bởi nó sẽ ảnh

hưởng đến hiệu quả của các khoản vay. Theo ông Ayumi Konishi, Giám đốc quốc

gia của ADB, các dự án ODA tại Việt Nam rất ít được giải ngân trong hai năm đầu

do những sự chậm trễ trong khâu chuẩn bị và lên kế hoạch dự án. Tính đến cuối

năm 2011, mức giải ngân chỉ chiếm khoảng 47% tổng số vốn cam kết, thấp hơn

mức giải ngân ODA bình quân của các nước trong khu vực; đồng thời, tỷ lệ giải

ngân chỉ đạt 72% so với tổng vốn ký kết.

Ngoài ra, việc phân bổ vốn đầu tư từ NSNN còn dàn trải, số vốn bình quân phân bổ

cho các dự án hàng năm thấp. Việc phân bổ vốn dàn trải dẫn tới việc nhiều dự án bị

kéo dài tiến độ, chậm đưa vào sử dụng, làm gia tăng chi phí đầu tư.

Về phía các quốc gia chủ nợ: vì những thuận lợi và quyền lợi cho họ, nhiều

dự án tài trợ không nhất thiết phải phù hợp với nhu cầu kinh tế và xã hội của Việt

Nam. Chẳng hạn, việc đa số các dự án tập trung vào một số ngành mà các quốc gia

chủ nợ cho rằng có thể mang lại lợi ích kinh tế cao, điều này làm cho các dự án ở

nhiều địa phương có xu hướng phát triển giống nhau, không phát huy được lợi thế

so sánh của từng địa phương trong cả nước. Hay như việc phân bổ nguồn vốn

không đồng đều, thường tập trung ở những khu vực phát triển (bảng 3.9).

Bảng 3.9: Phân phối ODA theo vùng.

Vùng

%vốn ODA $/ đầu người 33.98 18.42 52.46 21.86 25.4 11.19

Trung du và miền núi Bắc Bộ Đồng bằng sông Hồng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng Sông Cửu Long Liên vùng 8.07 13.69 12.82 4.43 15.62 9.36 36.01

(Bộ Tài chính: Báo cáo đánh giá các chương trình dự án ODA gđ 2000- 2007)

Bảng thống kê cho thấy, các vùng được xem là nghèo và cần có hỗ trợ thì

nhận ODA thấp như: vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, Tây Nguyên, Đồng bằng

sông Cửu Long. Ngược lại, những vùng giàu có như Đồng bằng Sông Hồng, Đông

Nam Bộ lại thu hút ODA đổ vào nhiều hơn. Đây là một trong những nguyên nhân

48

chính gây ra tình trạng quá tải trong việc quản trị các dự án ở một số nơi bên cạnh

việc thiếu vốn để triển khai dự án ở những nơi khác.

Thứ hai, hiệu quả đầu tư thấp nhìn từ hệ số ICOR (Incremantal Capital

Output Ratio): ai cũng biết ICOR là chỉ số biểu hiện cụ thể nhất về hiệu quả đầu tư

của nền kinh tế, nó được tính dựa trên lượng vốn bỏ ra để đạt được một đơn vị sản

lượng. Ở Việt Nam, các nhà quản lý vĩ mô thường lấy chỉ số ICOR để đánh giá hiệu

quả đầu tư vào các dự án.

Trong mười năm trở lại đây, ICOR của Việt Nam có xu hướng tăng lên và

luôn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Nếu như hệ số ICOR của giai đoạn

1996 – 2000 tính theo giá hiện hành là 4,7 thì sang giai đoạn 2001 – 2005 hệ số này

trung bình là 5,1 và giai đoạn 2006 – 2010 là 6,1. Có thể so sánh với các quốc gia

đã trải qua giai đoạn phát triển tương đồng thì hệ số ICOR của Việt Nam hiện nay là

rất cao (bảng 3.10). Nguyên nhân của việc gia tăng một phần là do Việt Nam đang

trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế thị trường; đa số vốn được tập

trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng, bao gồm cả cơ sở hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa và

đầu tư cho xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, việc đầu tư

không đem lại hiệu quả kinh tế cao, không gia tăng được sản phẩm tạo ra ở mức

tương xứng; điều này đã đẩy nền kinh tế Việt Nam tới chỗ phát triển chủ yếu dựa

vào vốn đầu tư hay nói đúng hơn là phát triển không bền vững.

Bảng 3.10: ICOR của một số nước trong khu vực

ICOR Quốc gia Giai đoạn

Tăng trưởng GDP (%) 7,9 9,7 6,9 8,1 9,7

lệ đầu Tỷ tư/GDP (%) 23,3 26,3 25,7 33,3 38,3

Hàn Quốc Đài Loan Indonesia Thái Lan Trung Quốc 1961-1980 1961-1980 1981-1996 1981-1995 2001-2006 3,0 2,7 3,7 4,1 4,0

Nguồn: Trích lại từ “Đổi mới đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020”, TS

Vũ Nhữ Thăng, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ tài chính.

49

Việc tăng trưởng quá dựa vào vốn đầu tư, mà chủ yếu là đầu tư công như

hiện tại sẽ đặt nền kinh tế Việt Nam đứng trước những thử thách trong thời gian tới.

Nhất là khi kinh tế trong nước cũng như thế giới có những bất ổn vẫn đang diễn ra;

các nhà đầu tư có thể rút vốn bất cứ lúc nào để bảo đảm sự an toàn cho họ, lúc đó

việc duy trì mức đầu tư cao cho tăng trưởng GDP chắc chắn sẽ gặp khó khăn.

Không phủ nhận việc sử dụng nợ công để đầu tư đã đem lại nhiều lợi ích

kinh tế xã hội cho Việt Nam như tỷ lệ dân số nghèo đói đã giảm bớt, tỷ lệ lao động

thất nghiệp giảm, Việt Nam đã phát triển một số hạ tầng cơ sở mới phục vụ cho

hoạt động kinh tế… Nhưng cũng phải nói rằng những thành quả đó còn hạn chế so

với số nợ quá cao mà các thế hệ tương lai của Việt Nam phải trả. Như đã nói

nguyên nhân của sự kém hiệu quả trong việc sử dụng vốn đầu tư là do nhiều yếu tố.

Với nguồn lực hạn chế nhưng lượng đầu tư quá dàn trải, thiếu tính toán nên dẫn đến

hậu quả là lãng phí vốn đầu tư, làm giảm hiệu quả đầu tư và thậm chí không còn đạt

hiệu quả đầu tư như mục tiêu đặt ra. Nhìn vào thực tế nhiều năm qua cho thấy tỉnh

nào cũng xây dựng cảng biển, tỉnh nào cũng đệ trình kế hoạch làm sân bay, tỉnh nào

cũng làm đặc khu kinh tế… Không chỉ có thế, các hạng mục này đã thu hút nhiều

thành phần tham gia đấu thầu như doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài

và cả các DNNN. Kết quả của chiến dịch này là các tỉnh ven biển, tỉnh nào cũng có

cảng, tỉnh nào cũng có khu công nghiệp; nhưng đa số đều là những dự án dở dang

và đang trong giai đoạn thi công. Từ thực tế này, khỏi cần tính toán cũng có thể

nhận ra rằng một nguồn lực rất lớn, không chỉ có tiền bạc mà còn đất đai, con người

đang bị lãng phí. Những nguồn lực đó đang phải gánh chịu gánh nặng là nợ nần và

phát sinh lãi hàng ngày. Trong khi người nông dân thì mất đất canh tác chuyển từ

làm nông sang làm nhân công cho các nhà máy, công ty với mức lương thấp và

không ổn định. Sự đánh đổi này sẽ tác động nhiều đến đời sống của dân cư trong xã

hội, nó đang ngày một rõ hơn với nạn thất nghiệp của “lao động giá rẻ”, công nhân

kí hợp đồng ngắn hạn không có bảo hiểm, môi trường sống không đảm bảo dễ dẫn

đến các tệ nạn…

Không có ai đem cho không ai cái gì cả, các nước đem tiền cho vay thường

xuất phát từ nhu cầu của họ trước. Trên danh nghĩa thì sự giúp đỡ này nhằm đem lại

lợi ích cho các nước nghèo, nhưng đồng thời nó cũng mang lại cho các nước tài trợ

50

những lợi ích kinh tế, chính trị trong thời gian tài trợ và sau đó. Về kinh tế, nước

nhận tài trợ phải chấp nhận bỏ dần hàng rào thuế quan, ưu tiên cho hàng hóa của

nước tài trợ. Trường hợp của Việt Nam là nước nhận nhiều vốn ODA từ Nhật Bản,

Việt Nam phải nhập cảng ưu tiên các dụng cụ, máy móc thiết bị của Nhật, đặc biệt

là trong lĩnh vực lắp ráp. Ngoài ra, khi triển khai các dự án thì phải có sự tham gia

của các chuyên viên, công nhân của nước tài trợ trong các giai đoạn chuẩn bị và

thực hiện; với mức lương cao ngất ngưỡng, các kỹ sư của Nhật được thuê với chi phí cao hơn giá thị trường 20 – 30% 7.

Hay như hậu quả từ các dự án trồng rừng được thực hiện trên diện rộng;

những cánh rừng tự nhiên mất đi và thay vào đó là các cây công nghiệp được trồng

trên đồi trọc. Lợi ích chưa thấy đâu nhưng hậu quả là đến mùa mưa bão, đồi núi

không có lớp cây che phủ đã bị sạt lỡ, xói mòn nghiêm trọng; lũ lụt gây thiệt hại về

tài sản, tính mạng con người…

Đầu tư công quá mức cũng là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng lấn át đầu tư

của khu vực tư; ngay cả những lĩnh vực, dự án mà tư nhân có thể đảm nhiệm tốt thì

họ cũng không có nhiều cơ hội. Thay vào đó là việc đầu tư của các DNNN với hiệu

quả đầu tư kém, gây thất thoát , lãng phí đã làm mất lòng tin của các chủ đầu tư dẫn

đến việc đình trệ các khoản viện trợ. Xa hơn là hệ lụy đối với mức độ đánh giá tín

nhiệm tín dụng của Việt Nam, theo một tác động dây chuyền, TPCP do Việt Nam

phát hành ra quốc tế có thể phải chịu mức lãi suất cao hơn. Khi đó, nền kinh tế quốc

nội sẽ bị ảnh hưởng đáng kể; nếu như thế thì hậu quả là rất lớn bởi giai đoạn này

nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức.

Như vậy, việc đầu tư không hiệu quả từ các khoản nợ công đã đẩy nền kinh

tế Việt Nam từ chỗ đang phát triển sang trì trệ. Các khoản vay đầu tư hôm nay lẽ ra

phải được trả bằng thặng dư của NSNN trong tương lai thì nay đã dần chuyển thành

các khoản nợ phải trả trong tương lai của nhiều thế hệ.

7 Theo TS Bùi Kiến Thành, info.vn.kinh-te/chinh-sach/

3.4 Tình hình trả nợ công của Việt Nam

51

Như đã nói phần trên, năm 2011, ước tính theo định nghĩa quốc tế, nợ công

của Việt Nam là 128,9 tỷ USD, bằng 106% GDP; theo định nghĩa của Việt Nam là

66,8 tỷ USD, bằng 55% GDP, tức là không tính phần của DNNN là 62,8 tỷ USD,

bằng 51% GDP. Việt Nam đã thông qua Chiến lược quản lý nợ công với việc đặt

mức khống chế là 65%/năm. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, chỉ tiêu này khó thực

hiện được vì quá trình tái cơ cấu kinh tế còn kéo dài và sẽ cần rất nhiều vốn. Mặc dù

vậy, điều các chuyên gia lo ngại nhất không phải là tỷ lệ nợ công/GDP cao, mà là

khả năng trả nợ của Việt Nam.

Từ năm 2006 đến 2011, tình hình trả nợ công của Việt Nam không ổn định

và hầu như không có sự gia tăng đáng kể nào về giá trị, trung bình hàng năm Việt

Nam dành ra trên 3,5% GDP để chi trả nợ và viện trợ. Riêng giai đoạn 2011-2012,

Việt Nam đã trả nợ nước ngoài 100.000 tỷ đồng . Tỷ lệ trả nợ/tổng nợ công giảm

dần qua các năm, từ 9,09% năm 2006 xuống còn 6,53% năm 2010. Trong khi đó

quy mô của các khoản nợ công ngày càng tăng lên với tốc độ chóng mặt với gần

20%/năm; mặt khác, tình hình sử dụng nợ công của Việt Nam còn đang tồn tại

nhiều bất cập như chậm trễ trong giải ngân và sử dụng kém hiệu quả nguồn vốn vay

vào các dự án đầu tư. Điều này tác động tiêu cực tới khả năng trả nợ của Việt Nam

trong tương lai.

Nguồn: Bộ tài chính.

Hình 3.1: tình hình trả nợ và viện trợ của Việt Nam giai đoạn 2006-2010

52

Con số nợ công gia tăng một cách đáng báo động trong giai đoạn 2007-2010,

nợ công của Việt Nam tăng từ 33,8% lên 54,6% GDP. Tốc độ tăng bình quân của

giai đoạn 2007-2010: là 15%/năm. Tốc độ này sắp “bắt kịp” tốc độ tăng thu ngân

sách (17-21%). Điều này đồng nghĩa với việc, vài năm nữa nguồn tăng thu chỉ đủ để

bù trả nợ.

Trong giai đoạn 2001 - 2010, tỷ lệ nợ công của Việt Nam so với GDP có xu

hướng tăng, đạt mức 57,3% năm 2010; trong đó, nợ Chính phủ chiếm khoảng

45,7% GDP. Có thể nói việc gia tăng nợ công của Việt Nam là hệ quả trực tiếp của

tình trạng thâm hụt ngân sách liên tục và kéo dài. Nợ công tăng lên kéo theo lãi phải

trả tăng. Nếu như năm 2006, chi phí trả lãi tiền vay chỉ chiếm khoảng 2,6% tổng chi

NSNN thì đến năm 2010, chỉ tiêu này đã tăng lên ở mức 3,8% tổng chi NSNN (Viện

Chiến lược và Chính sách tài chính, 2011). Chi phí trả lãi lại kéo theo thâm hụt

ngân sách tăng, tạo thành vòng luẩn quẩn trong mối quan hệ giữa thâm hụt ngân

sách và nợ công.

Về tài trợ cho thâm hụt ngân sách, hiện tại ở Việt Nam, nguồn bù đắp cho

thâm hụt ngân sách là từ hai nguồn vay trong nước và vay nước ngoài. Phân tích cơ

cấu nợ vay của Chính phủ cho thấy vay trong nước chiếm từ 80% trở lên tổng nợ

vay, vay nước ngoài chỉ chiếm trên dưới 20% (bảng 3.11). Như vậy, chủ trương của

Chính phủ là hạn chế vay nước ngoài mà chủ yếu là huy động nợ vay trong nước.

Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là số liệu vay nước ngoài của Chính phủ cho thấy nợ

nước ngoài có xu hướng tăng dần về quy mô và tỷ trọng.

Bảng 3.11: Bội chi NSNN và nguồn tài trợ bội chi ngân sách

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

DT2011

Đơn vị tính: Tỷ đồng

22.895 7.041

25.597 29.936 34.703 40.746 18.382 27.450 7.215 7.253

32.420 8.326

48.613 35.864 12.749

64.567 67.677 51.572 12.995

48.009 19.668

114.442 111.200 121.600 78.150 36.292

98.200 21.000

92.600 29.000

Bội chi NSNN Nguồn bù đắp Trong nước Nước ngoài

Nguồn: Bộ Tài chính (2011)

53

Nợ nước ngoài của Việt Nam khá đa dạng về cơ cấu tiền vay. Về lý thuyết,

điều này được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ

nước ngoài của Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế cơ cấu này cũng tiềm ẩn những

rủi ro khi có biến động trên thị trường tài chính thế giới. Tỷ trọng cao của các khoản

vay bằng USD (22,16%) và JPY (38,83%) gây nguy cơ gia tăng khoản chi gốc và

lãi khi tỷ giá USD/VND luôn có xu hướng tăng; và JPY đang tăng giá so với USD

(Năm 2006: 1USD=116,3 JPY, năm 2010: 1USD=84,11979 JPY). Như vậy khi đến

kỳ trả nợ, Việt Nam sẽ phải dành một lượng USD lớn hơn nhiều để mua JPY trả nợ.

Và chỉ riêng biến động này đã làm gia tăng tổng số nợ nước ngoài và nợ công của

quốc gia.

Việc Chính phủ chủ yếu huy động vay nợ trong nước là một chủ trương hợp

lý. Nhưng khi nền kinh tế đang gặp khó khăn, các nhà đầu tư rất e dè trong việc đầu

tư vào các dự án để tránh gặp phải những rủi ro. Việc bỏ vốn ra đầu tư vào các dự

án của Chính phủ nhưng lại chậm thu hồi được vốn và lời đã làm cho không ít các

doanh nghiệp rơi vào hoàn cảnh khó khăn thậm chí là phá sản. Các doanh nghiệp

khi nhận được đơn đặt hàng của Chính phủ thì họ phải đi vay vốn từ ngân hàng cho

việc triển khai dự án. Vay nợ với lãi suất cao nhưng khi hoàn thành dự án Chính

phủ vẫn chưa trả tiền nên việc các doanh nghiệp lâm vào khó khăn là đương nhiên.

Các khoản nợ này vô hình chung đã trở thành nợ xấu mà nút thắt nằm ở khả năng

thanh toán nợ của Chính phủ. Như vậy, Chính phủ đã tự đánh mất niềm tin của các

nhà đầu tư trong nước đối với mình; điều này lý giải vì sao Chính phủ khó huy động

được nguồn vốn trong dân và phải thay vào đó là các nguồn vốn vay nước ngoài

cho các dự án của mình.

Có thể thấy nợ công của Việt Nam luôn ở mức cao trong thời gian dài tính

đến hết năm 2011, đó là do tình trạng suy thoái kinh tế và vỡ bong bóng bất động

sản, cùng với đó là thâm hụt ngân sách liên tục trong giai đoạn dài. Chính tình trạng

này cộng với việc sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả, giải ngân cho các dự án chậm

trễ đã làm tăng nợ công, nợ xấu lên nhiều. Nhiều DNNN kinh doanh kém lời lãi,

thậm chí thâm hụt quá lớn vốn nhà nước đầu tư, hay bảo lãnh vay như: Vinashin,

54

Vinaline đã làm tăng thêm nợ công, nợ xấu, cũng như mối nguy hại khó trả hết và

đúng hạn của nợ công.

Thanh toán nợ và giữ cho nợ công luôn nằm trong giới hạn an toàn là nhiệm

vụ của mỗi quốc gia. Để làm được điều này thì mỗi quốc gia, Chính phủ cần phải

đánh giá đúng tình hình nợ công và đưa ra những giải pháp hợp lý nhằm kiểm soát

tính ổn định của nợ công. Phần tiếp theo tác giả sẽ phân tích tính ổn định của nợ

công Việt Nam và dự báo tình hình nợ công Việt Nam đến năm 2015.

3.5 Đánh giá tính ổn định của nợ công ở Việt Nam

Nhìn chung nếu dựa vào chỉ tiêu an toàn nợ công do WB công bố thì nợ công

của Việt Nam vẫn trong ngưỡng an toàn. Các chỉ số do Bộ tài chính công bố cũng

cho thấy điều tương tự. Theo dự báo an toàn nợ công của Việt Nam trong năm 2012

bằng dự trữ ngoại hối cho thấy: Việt Nam có đủ nguồn lực để trả nợ gốc lẫn lãi vay

trong năm 2012. Tuy nhiên điều đáng lo ngại là các chỉ tiêu an toàn nợ công của

Việt Nam ngày càng tiến đến mức nguy hiểm trong các chỉ số an toàn của

WorldBank. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng nợ công Việt Nam vẫn đáng lo ngại.

Những con số thống kê hiện tại chưa nói lên hết bản chất của nợ công Việt Nam;

nhìn vào thực tế, cụ thể là các khoản vay của khối DNNN (kể cả bảo lãnh và không

được bảo lãnh) sẽ thấy nợ công đội lên cao hơn rất nhiều so với các con số thống

kê. Nếu Chính phủ vẫn không xem xét triệt để vấn đề này thì trong thời gian tới nợ

công của Việt Nam sẽ gặp nhiều rủi ro khôn lường.

Có hai tiêu chí để đánh giá tính ổn định của nợ công ở Việt Nam là đánh giá

tính ổn định của nợ nước ngoài và đánh giá nợ trong nước.

Đánh giá tính ổn định của nợ nước ngoài: việc đánh giá tính ổn định và mức

độ bền vững của nợ công được thực hiện qua việc đánh giá các chỉ tiêu sau:

Tỷ lệ nợ nước ngoài/ xuất khẩu (NPV/X): đo lường giá trị hiện tại ròng của

nợ nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của một quốc gia lấy từ nguồn thu xuất

khẩu. Ngưỡng an toàn của tỷ lệ này là 150%.

55

Tỷ lệ nợ nước ngoài/ thu NSNN (NPV/DBR): đo lường giá trị hiện tại ròng

của nợ nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của một quốc gia lấy từ nguồn thu

NSNN. Ngưỡng an toàn của tỷ lệ này là 250%.

Một quốc gia được xem là an toàn nếu như tỷ lệ NPV/X nhỏ hơn 150%; tỷ lệ

NPV/DBR nhỏ hơn 250%. Theo mức ngưỡng của HIPCs (các nước nghèo có tỷ lệ

nợ cao) chỉ tiêu thứ hai chỉ được sử dụng nếu đáp ứng được hai điều kiện: tỷ lệ xuất

khẩu/GDP (X/GDP) phải lớn hoặc bằng 30%; tỷ lệ thu NSNN/GDP (DBR/GDP)

phải lớn hơn 15%.

Qua tính toán ở bảng 3.12 cho thấy, từ năm 2006 đến năm 2011, tỷ lệ

X/GDP của Việt Nam luôn ở mức cao, trung bình là 68,55%; trong khi tỷ lệ

DBR/GDP trung bình bình ở mức 27%, thấp nhất là 24,4% năm 2006. Do đó, Việt

Nam đáp ứng được hai điều kiện: X/GDP > 30% và DBR/GDP > 15%. Trong khi

đó, tỷ lệ NPV/X thấp (NPV/X < 150%), cao nhất là 51,7% vào năm 2011 và tỷ lệ

NPV/DBR < 250%, cao nhất trong giai đoạn này là 154,48% vào năm 2011.

Như vậy, nợ công nước ngoài của Việt Nam đáp ứng được yêu cầu về nợ bền

vững và được đánh giá là vẫn ở ngưỡng an toàn mà Ngân hàng thế giới đưa ra.

Năm

GDP (tỷ đồng)

Xuất khẩu (tỷ đồng)

NPV (tỷ đồng)

NPV/X (%)

X/GDP (%)

DBR (tỷ đồng) 39.20 237900 251121,91 2006 974300.00 640843.40 39.70 2007 1143700.00 783392.50 311840 310832,44 34.56 2008 1485000.00 1041199.50 408080 359841,20 49.50 2009 1658400.00 969095.50 468795 479562,99 2010 1980900.00 1367585.20 560170 615299,54 45.00 2011 2535000.00 2015929.30 674500 1042000,00 51.70

DBR NPV/ /GDP DBR (%) (%) 24.40 65.80 1.06 27.26 68.50 99.70 27.48 70.10 88.20 102.30 28.27 58.40 45.00 28.28 69.00 154.48 26.60 79.50

Bảng 3.12: Các chỉ số đánh giá độ bền vững nợ nước ngoài của Việt Nam.

Nguồn: tính toán của tác giả từ các số liệu có được qua Cổng thông tin Chính phủ,

bảng tra tỷ giá của Hải quan Việt Nam, NGTK 2011, bản tin nợ nước ngoài số 7.

56

Đánh giá nợ trong nước: nợ trong nước được đánh giá qua hai chỉ số là Nợ

trong nước/GDP và Nợ trong nước/DBR (bảng 3.13). Với tỷ lệ nợ trong nước/GDP

trong những năm gần đây vẫn nằm trong ngưỡng an toàn 20-25% (cao nhất là

25,2% năm 2010) nhưng cũng đã ngấp nghé vượt ngưỡng, tương tự, Nợ trong

nước/DBR vẫn ở mức thấp hơn nhưng khá sát với ngưỡng 92% (bảng 3.13), do đó

nợ trong nước của Việt Nam được đánh giá là ổn định.

Bảng 3.13: Các chỉ số đánh giá tính ổn định nợ trong nước của Việt Nam.

trong nước/GDP * 1/

2006 2007 2008 2009 22,7 33,8 36,2 41,9 31,4 32,5 29,8 29,3 23,3 -- -- -- 2010 56,3 31,1 25,2 2011 54,9 30,9 24

-- -- -- 82,42 89,1 90,2 Nợ công/GDP (%) Nợ nước ngoài/GDP (%) Nợ trong nước/GDP (%) Nợ trong nước/DBR (%) (= Nợ (DBR/GDP))

Nguồn: MoF, Bản tin nợ nước ngoài số 7

3.6 Dự báo tình hình nợ công Việt Nam trong thời gian tới

Nợ công của Việt Nam tăng liên tục trong những năm qua, có nhiều nguyên

nhân dẫn đến vấn đề này; sau đây là một số nguyên nhân làm gia tăng nợ công ở

Việt Nam:

Thứ nhất là vấn đề đầu tư bao gồm hiệu quả đầu tư phản ánh chủ yếu qua chỉ

số ICOR, năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) và chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm.

Chỉ số ICOR là chỉ số phản ánh hiệu quả đầu tư của nền kinh tế. Theo các con số

thống kê ở phần 3.2 hệ số ICOR của Việt Nam liên tục tăng. Một điều đặc biệt ở

đây là chỉ số ICOR của khối DNNN trong đầu tư công lại tăng vọt, trong khi đây

chính là thành phần chủ đạo của nền kinh tế. So với các nước trong khu vực, ICOR

của Việt Nam gần gấp đôi, có nghĩa là hiệu suất đầu tư chỉ bằng một nữa.

57

Nguồn: Tổng cục thống kê

Hình 3.2: Hiệu quả của nền kinh tế qua chỉ số ICOR giai đoạn 2001-2010

Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) được tính từ phương pháp ước lượng

nguồn tăng trưởng từ hàm sản xuất. Sau khi trừ đi các yếu tố đóng góp về lượng

(lao động và vốn) cho tăng trưởng, phần còn lại của tăng trưởng là do đóng góp về

sự gia tăng hiệu quả của nền kinh tế, gọi là năng suất nhân tố tổng hợp. Chỉ tiêu này

hàm chứa sự gia tăng của việc thay đổi quy trình công nghệ trong sản xuất, quy

trình quản lý, năng suất lao động… Hệ số này càng cao chứng tỏ nền kinh tế càng

hiệu quả và ngược lại.

Theo số liệu được đưa ra trong “Báo cáo Năng suất Việt Nam” do Trung tâm

Năng suất Việt Nam phối hợp với Viện Khoa học Thống kê biên soạn và công bố

trong tháng 2.2012, trong giai đoạn 2003-2010, tốc độ tăng TFP của Việt Nam là

1,42% và đóng góp của tăng TFP vào tăng GDP là 19,6%, so sánh với một số nước

đã và đang phát triển ở châu Á, tốc độ tăng TFP của Việt Nam chậm và đóng góp

vào tăng GDP tương đối thấp. Điều này nói lên hiệu quả sử dụng vốn của Việt Nam

là thấp, không dựa vào yếu tố công nghệ mà chủ yếu dựa vào vốn. Nó đã tạo ra sức

ép về vốn, trong trường hợp vốn trong nước không đáp ứng đủ thì Chính phủ sẽ vay

nước ngoài làm cho nợ công tăng thêm. Bên cạnh đó là sự mất cân đối giữa đầu tư

và tiết kiệm, chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư liên tục âm và khoảng chênh lệch

ngày càng lớn kể từ năm 2002 trở đi. Năm 2010 chênh lệch này ở mức -11%. Việt

58

Nam là một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, sự mất cân đối giữa tiết

kiệm so với đầu tư đã làm thiếu hụt nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế, chính vì thế

vay nợ nước ngoài để đầu tư là điều tất yếu.

Thứ hai là bội chi NSNN: nguyên nhân gây ra thâm hụt ngân sách một phần

là do chênh lệch giữa thu và chi của NSNN. Nguồn thu giảm trong những năm gần

đây một phần là do thất thu thuế. Từ khi Việt Nam gia nhập WTO, Việt Nam phải

thực hiện tiến trình giảm thuế đối với các mặt hàng của các thành viên trong tổ

chức; đồng thời bước vào sân chơi lớn, các công ty, tập đoàn lớn với nhiều thủ

đoạn, mánh khóe đã tìm cách trốn thuế, lách thuế làm tổn thất không ít nguồn thu

ngân sách của nhà nước. Một phần trong thời gian qua do khủng hoảng tài chính

nên nhà nước đã giảm nhiều loại thuế, cũng như lập quỹ bình ổn giá do lạm phát.

Trong khi đó nguồn chi để xây dựng cơ sở hạ tầng làm tiền đề cho sự phát triển

kinh tế lại tăng liên tục. Việc tập trung đầu tư cho các tập đoàn, tổng công ty Nhà

nước vẫn chưa mang lại hiệu quả cao. Việc đầu tư tăng nhanh nhưng kém hiệu quả

gây sức ép lạm phát và đặt gánh nặng lên vai của chính sách tiền tệ, chính vì thế

trong những năm qua Chính phủ luôn phải vay nợ để bù đắp NSNN.

Ngoài ra trong thời gian tới các nguồn thu quan trọng từ dầu thô và thuế

ngoại thương được dự kiến sẽ giảm do lượng dự trữ dầu thô giảm và quá trình tự do

hóa thương mại sau khi gia nhập WTO. Các trái phiếu quốc tế Chính phủ phát hành

phải trả mức lãi suất cao hơn do mức độ rủi ro cao hơn. Cùng với đó là việc Việt

Nam trở thành nước có thu nhập trung bình, các khoản vay quốc tế ưu đãi sẽ giảm

dần, thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn nhiều.

Thứ ba là sự biến động tỷ giá hối đoái: một trong những nguyên nhân quan

trọng làm tăng số nợ công lên đáng kể đó là tỷ giá hối đoái giữa VND so với các

đồng tiền chính trong nợ công của Việt Nam. Sau khi gia nhập WTO thì dòng vốn

nước ngoài chảy vào Việt Nam ngày càng nhiều đòi hỏi cần phải có chính sách tiền

tệ sao cho nền kinh tế Việt Nam không bị thiệt khi cạnh tranh với dòng vốn ngoại.

Và trong năm 2011, ngân hàng nhà nước đã có những biện pháp điều chỉnh tỷ giá

59

tương ứng với tỷ giá đang giao dịch trên thị trường và những chính sách hạn chế

giao dịch đồng ngoại tệ và vàng để tạo niềm tin vào đồng nội tệ. Trong tháng 2 năm

2011, ngân hàng nhà nước đã phá giá USD ở mức 9,3% và thu hẹp biên độ giao

dịch tỷ giá giữa USD và VND từ ±3 xuống còn ±1. Cùng với việc điều chỉnh giá,

ngân hàng nhà nước còn hạn chế việc giao dịch ngoại tệ ngoài thị trường chợ đen và

đặc biệt trong đầu tháng 4 năm 2011 ngân hàng nhà nước bắt đầu tăng tỷ lệ dự trữ

bắt buộc cho ngoại tệ lên 2% và trần lãi suất huy động USD là 3%. Việc làm này

đồng thời cũng làm tăng khoản nợ nước ngoài đang vay của Chính phủ tính theo

VND.

Mặt khác, mối quan ngại về sự già hóa dân số sẽ làm cho nợ công tăng vọt

trong những thập kỷ tới. Nguyên nhân là do lực lượng lao động bị thu hẹp sẽ làm

cho nguồn thu thuế của Chính phủ bị sụt giảm, trong khi đó số người nghỉ hưu tăng

lên sẽ gây áp lực cho việc tăng chi tiêu Chính phủ trong các khoản lương hưu và

chăm sóc sức khỏe…

Từ những nguyên nhân trên có thể thấy, kinh tế Việt Nam hiện đang có những đặc điểm giống với PIIGS 8 (các nước châu Âu có tỷ lệ nợ cao, bao gồm các

nước Hy Lạp, Ailen, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý) khi lâm vào khủng hoảng nợ

công, đó là:

Tăng trưởng GDP giảm kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2007

đến nay.

Thâm hụt ngân sách và nợ công lớn, tăng mạnh từ năm 2006 đến năm 2011.

Lạm phát luôn có xu hướng tăng mạnh, luôn cao trên 8% kể từ năm 2006 đến

nay. Đặc biệt năm 2009 là thời kỳ khó khăn của Việt Nam khi tỷ lệ lạm phát đạt

mức phi mã 24,4% (biểu đồ 3.3). Đến năm 2010, dưới một loạt các chính sách thắt

8 Nguồn: Tạp chí ngân hàng, số 14 (2011).

chặt tiền tệ, tỷ lệ lạm phát đã được đưa về mức 11,8%, tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn ở

60

mức cao. Năm 2011, lạm phát lại tiếp tục tăng mạnh trở lại; việc kiềm chế lạm phát

là mục tiêu hàng đầu của Việt Nam trong giai đoạn này.

Nguồn: Moody’s Investors Service..

Hình 3.3: Tăng trưởng GDP thực và tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 2006-2012

Tỷ lệ tiết kiệm ròng đã được điều chỉnh thấp chỉ 12-14% GNI mỗi năm, thấp

hơn 5% so với trung bình của châu Á (không kể các nước Trung Đông).

Ngoài những đặc điểm giống với PIIGS về kinh tế, thì nợ công của Việt Nam

còn có hai vấn đề khác cần đặc biệt quan tâm, đó là:

Cơ cấu nợ nước ngoài trong tổng nợ công của Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn

và đang tăng nhanh (bảng 3.13), trong khi hiệu quả đầu tư của các dự án sử dụng

vốn từ các khoản nợ lại thấp.

Việt Nam sẽ dần dần giảm đi các khoản vay ưu đãi vì đã trở thành nước có

thu nhập trung bình; thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn,

thời gian ngắn hơn. Điều này đòi hỏi việc sử dụng vốn phải hiệu quả nhiều hơn nữa,

nếu không áp lực trả nợ ngày càng lớn hơn và tác động ngay đến ngưỡng an toàn

của nợ công.

Từ những so sánh trên cho thấy Việt Nam có thể rơi vào tình trạng khủng

hoảng nợ công giống như các nước EU nếu không có những thay đổi cần thiết và

61

tích cực về tình hình kinh tế và tình hình quản lý nợ công; nhất là sau suy thoái kinh

tế toàn cầu.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái, để phát triển kinh tế - xã hội Việt

Nam cần lượng vốn rất lớn cho đầu tư cơ sở hạ tầng. Với nguồn nội lực còn yếu thì

việc huy động từ các nguồn vốn vay nợ trong và ngoài nước là cần thiết và có vai

trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, việc huy động vốn vay và trả nợ vay phải nằm

trong giới hạn các chỉ tiêu an toàn về nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài và đảm

bảo an ninh tài chính quốc gia. Vấn đề nợ công của Việt Nam đã được Chính phủ

quan tâm nhiều trong thời gian qua, tại các kỳ họp Quốc hội luôn nhắc tới vấn đề

này. Theo “Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2011-

2020 và triển vọng 2030”, đến năm 2030, nợ công Việt Nam sẽ không quá 60%

GDP, trong đó nợ Chính phủ không quá 50% GDP và nợ nước ngoài không quá

45% GDP. Song song với việc đảm bảo tỷ lệ vay an toàn thì việc sử dụng vốn cũng

là vấn đề quan trọng hàng đầu của chiến lược nợ công. Việc sử dụng vốn đúng mục

đích và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ sẽ góp phần làm giảm bội chi ngân sách và

thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững.

62

Chương IV: GIẢI PHÁP NGĂN NGỪA KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG

Ở VIỆT NAM

Như đã phân tích ở phần trên, với tình hình nợ công của Việt Nam hiện nay

thì nguy cơ xảy ra khủng hoảng là rất cao, Chính phủ cần phải nhanh chóng quyết

liệt thực hiện các giải pháp nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi nguy cơ này và tạo tiền

đề cho sự phát triển bền vững. Có rất nhiều giải pháp được các nhà kinh tế đưa ra

trong thời gian qua; tuy nhiên, điều quan trọng là Chính phủ sẽ chọn những giải

pháp nào cho phù hợp. Bởi chỉ có Chính phủ mới biết chính xác được tình trạng nợ

nần của mình như thế nào? Dưới đây là một số giải pháp nhằm ngăn ngừa khủng

hoảng nợ công xảy ra ở Việt Nam :

4.1. Phát triển nội lực của nền kinh tế

Phát triển nội lực nền kinh tế cần tập trung vào vấn đề tăng hàm lượng giá trị

gia tăng trong xuất khẩu bằng cách:

Thứ nhất, cần tiếp tục khai thác mở rộng thị trường thương mại. Đẩy mạnh

xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng không thiết yếu, hàng xa xỉ. Xây dựng

chính sách cụ thể và phù hợp về phát triển thị trường trong nước.

Thứ hai, sử dụng các biện pháp hợp pháp trong quản lý nhập khẩu. Trong

khuôn khổ các quy định của WTO để quản lý nhập khẩu, việc xây dựng hàng rào kỹ

thuật là một trong những quy định đảm bảo lợi ích của các nước thành viên, tạo điều

kiện để các nước đi sau tiếp cận với công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, Việt Nam hầu

như chưa sử dụng được các biện pháp hợp pháp này để kiểm soát nhập khẩu và hạn

chế nhập siêu. Đó là chưa nói đến việc, các cơ quan chức năng rất yếu trong việc

kiểm soát hàng nhập lậu, hàng nhái, hàng giả và hàng độc hại từ thị trường Trung

Quốc.

Thời gian tới, Việt Nam cần xây dựng các hàng rào phi thuế quan phù hợp

với cam kết quốc tế để hạn chế nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu, bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng và tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của

hàng Việt Nam.

63

Thứ ba, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm

tỷ trọng của nhóm sản phẩm thô và sản phẩm sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng của nhóm

sản phẩm chế biến, chế tạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Ưu tiên phát triển

ngành công nghiệp áp dụng công nghệ cao để tăng nguồn hàng xuất khẩu có hàm

lượng công nghệ cao, có sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao. Để làm được điều

này, Việt Nam cần ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ; tăng khả năng cho và nhận

chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI; chuyển hướng nhập siêu sang các

nước phát triển, du nhập công nghệ nguồn, công nghệ cao để nâng cao năng lực sản

xuất nội địa.

4.2. Thay đổi cơ cấu nợ công

Việt Nam cần phải thực sự thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng tăng tỷ trọng

nợ trong nước nhiều hơn nữa. Có thể học tập các mô hình, cách làm của các nước

phát triển như Nhật, Mỹ... trong quá trình thay đổi. Với khoảng nợ công so với GDP

lên tới 200% nhưng vẫn được coi là nằm trong ngưỡng an toàn (vì năng suất lao

động cao là cơ sở đảm bảo cho việc trả nợ), Nhật xứng đáng là mô hình lý tưởng

cho các quốc gia trên thế giới học tập. Để thay đổi cơ cấu nợ công, Chính phủ Việt Nam nên phát hành TPCP ghi bằng nội tệ nhiều hơn 9 và tổ chức các đợt đấu thầu

trên thị trường. Đồng thời để các đợt đấu thầu mua TPCP đạt chất lượng cao, Chính

phủ nên đưa ra một mức lãi suất phù hợp hơn với lãi suất thị trường và yêu cầu của

nhà đầu tư. Ngoài ra, Việt Nam cần phát triển thị trường nợ trong nước bao gồm cả

thị trường sơ cấp và thứ cấp TPCP, điều này sẽ giúp cho Chính phủ huy động được

vốn với kì hạn dài, lãi suất cố định và đặc biệt là bằng nội tệ. Do vậy, các rủi ro liên

quan đến lãi suất, tỉ giá và đảo nợ sẽ được giảm thiểu; sự phát triển của thị trường

TPCP thứ cấp cũng giúp kéo theo sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh

9 TPCP phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn.

nghiệp.

64

4.3. Kiểm soát nợ công ở mức an toàn

Để kiểm soát được nợ công ở mức an toàn, cần phải xác định được đâu là

mức an toàn (ví dụ: cần phải xác định các tỷ lệ nợ công/ GDP và nợ nước ngoài/

GDP). Ngoài ra, để tăng cường kiểm soát, cần thiết lập một hệ thống các chỉ tiêu

quy định về giới hạn nợ, cả đối với khối lượng nợ và dòng chi trả nợ. Các giới hạn

này vừa được thể hiện theo giá trị danh nghĩa, vừa thể hiện theo phần trăm các biến

vĩ mô quan trọng. Phạm vi áp dụng giới hạn được phân chia theo từng loại nợ: tổng

nợ công, nợ công nước ngoài, nợ công trong nước và tổng nợ nước ngoài. Thông

thường, các giới hạn đối với tổng nợ thường được biểu diễn dưới dạng tỷ lệ phần

trăm của GDP và xuất khẩu, còn giới hạn đối với nghĩa vụ nợ thường được biểu

diễn theo tỷ lệ phần trăm tổng thu thuế và dự trữ ngoại hối hoặc giới hạn tỷ lệ vay

nợ/chi đầu tư hàng năm.

Tuy nhiên, điều quan trọng là Quốc hội cần phải đưa ra các giới hạn này một

cách hợp lý. Nếu quá thấp, chúng sẽ cản trở Chính phủ thực hiện các phương án cần

thiết để phát triển đất nước, cũng như thực hiện các phản ứng kịp thời trong bối

cảnh kinh tế “hậu” khủng hoảng. Bởi, Việt Nam là nền kinh tế đang phát triển, nhu

cầu vốn đầu tư phát triển nói chung và phát triển kết cấu hạ tầng nói riêng là rất lớn.

Ngược lại, nếu các giới hạn được thiết lập ở mức quá cao, thì chúng lại không có ý

nghĩa gì cả.

Bên cạnh đó, cần phân tích rõ bản chất của nợ công. Việc đánh giá đúng nợ

công và “thực chất” nợ công của một nền kinh tế, một quốc gia là vô cùng quan

trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con

số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần túy sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý hoang mang,

kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi dụng

tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá

sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn, mà không

phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành như thế nào,

bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào… cũng sẽ

dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách – "thắt lưng buộc bụng" –

65

tác động tiêu cực đến tăng trưởng . Thực tế xảy ra trên thế giới cho thấy, những

nước xảy ra khủng hoảng tài chính đều có tỷ lệ nợ/GDP khá thấp. Ví dụ: Argentina

năm 2001, tỷ lệ đó chỉ ở mức 45%; Ukraine (2007) chỉ có 13%; Thái Lan (1996) chỉ

có 15%; Venezuela (1981) chỉ có 15%; Rumania (2007) chỉ có 20%...

4.4. Tăng cường thể chế quản lý và giám sát nợ công, hình thành cơ

quan quản lý nợ công thống nhất

Để có thể thực hiện giải pháp này, cần nghiên cứu hình thành bộ máy thống

nhất chỉ đạo, quản lý và giám sát các đơn vị tham gia quản lý nợ công hiện nay.

Điều này nhằm khắc phục những bất cập trong hệ thống quản lý nhà nước về ngân

sách nói chung và nợ công nói riêng. Đồng thời, cần tăng cường vai trò của Quốc

hội trong việc giám sát nợ công, nợ quốc gia luôn đảm bảo an toàn. Hiện nay, việc

tiếp cận thông tin tổng hợp về nợ công của Đại biểu quốc hội là không đủ để thực

hiện phân tích, đánh giá chính xác tình hình nợ công; song song với điều này là sự

am hiểu về nợ công của các Đại biểu cũng còn hạn chế. Một giải pháp căn cơ nhưng

đòi hỏi phải kiên trì về lâu dài là nâng cao nhận thức và kỹ năng cho Đại biểu dân

cử về các vấn đề liên quan đến việc thực hiện Luật quản lý nợ công. Chẳng hạn,

Quốc hội có thể mời các nhà khoa học trong và ngoài nước có kiến thức và kinh

nghiệm về các vấn đề liên quan đến nợ công cùng nghiên cứu, tính toán, cân nhắc

và cung cấp thông tin cho các đại biểu Quốc hội, giúp họ có thêm căn cứ trong việc

biểu quyết các chương trình, dự án trọng điểm quốc gia có sử dụng vốn vay.

Bên cạnh đó, để việc quản lý và giám sát nợ công được tăng cường hơn nữa,

Luật Quản lý nợ công cần có một điều khoản quy định về quyền hạn và nghĩa vụ

của các tổ chức ngoài nhà nước trong việc quyết định chủ trương, phương hướng,

mục tiêu vay nợ và sử dụng vốn vay, ban hành và giám sát việc thực hiện các văn

bản quy phạm pháp luật về quản lý nợ công.

4.5. Tái cơ cấu nền kinh tế trong trung và dài hạn

Với 3 mũi nhọn là tái cơ cấu đầu tư công, DNNN và hệ thống ngân hàng

nhằm giảm bớt gánh nặng ngân sách. Cụ thể:

66

4.5.1 Nâng cao hiệu quả đầu tư công theo hướng đầu tư có trọng điểm,

tránh dàn trải

Từng bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng giảm dần tỷ trọng đầu tư

nhà nước, chỉ sử dụng vốn nhà nước để đầu tư vào các công trình, dự án quan trọng

mà khó có khả năng thu hồi vốn hoặc khả năng thu hồi là không cao, và có nhiều rủi

ro. Chẳng hạn, các dịch vụ công quan trọng, các ngành sản xuất then chốt nhằm

thực hiện mục tiêu chung của quốc gia và những lĩnh vực mà tư nhân chưa thể hoặc

không thể thực hiện được.

Phân định rõ nội dung, phạm vi đầu tư giữa Trung ương và địa phương thông

qua việc đẩy mạnh phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng cho các địa phương.

Nguyên tắc chung là chỉ những việc mà địa phương không thực hiện được hoặc

thực hiện không hiệu quả thì mới để Trung ương thực hiện nhằm tạo sự chủ động

cho địa phương. Nghiên cứu hình thành cơ chế mở cho tất cả các địa phương trong

việc thu hút các nguồn lực cho phát triển phù hợp với quy hoạch, năng lực và nguồn

lực của từng địa phương.

Phát huy vai trò định hướng của đầu tư nhà nước để thu hút nguồn vốn đầu

tư của xã hội. Coi nguồn đầu tư nhà nước là tiền đề để thu hút các nguồn lực xã hội,

đầu tư của khu vực tư nhân đầu tư vào nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế, đặc biệt là

hệ thống giao thông. Cần tập trung nâng cấp phát triển hạ tầng giao thông tại vùng

kinh tế trọng điểm, các đô thị, các trục giao thông huyết mạch liên kết các vùng

kinh tế trọng điểm, phát triển trục giao thông Bắc – Nam. Tạo điều kiện bình đẳng

trong đấu thầu xây dựng và thực hiện các công trình, dự án đầu tư bằng vốn ngân

sách trên cơ sở hiệu quả cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.

Hoàn thiện khung pháp lý về phân công, phân cấp và hệ thống phân bổ

NSNN. Xây dựng nguyên tắc, căn cứ lập dự toán chi đầu tư phát triển, bố trí vốn,

thanh toán và quyết toán vốn nhằm đảm bảo tập trung vốn đầu tư hoàn thành công

trình theo kế hoạch tài chính trung hạn và tiến độ công trình, giảm dần và tiến tới

67

xóa bỏ tình trạng phân chia bình quân và dàn mỏng nguồn lực, qua đó nâng cao

hiệu quả sử dụng.

Nghiên cứu xây dựng hệ thống các tiêu chí xác định các ưu tiên ngân sách

cũng như xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả chi ngân sách. Trên cơ sở đó

thực hiện phân loại các nhiệm vụ chi theo thứ tự ưu tiên để bảo đảm kinh phí thực

hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra.

Hoàn thiện khung pháp lý để xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn và kế

hoạch chi tiêu trung hạn, xem kế hoạch chi đầu tư là một phần của kế hoạch tài

chính - ngân sách trung hạn, đảm bảo chi đầu tư công được giới hạn trong khả năng

nguồn lực và thống nhất với các ưu tiên chính sách của Chính phủ. Qua đó, đảm bảo

việc phân bổ nguồn lực hàng năm được định hướng vào các mục tiêu kinh tế - xã

hội trong trung và dài hạn, tăng cường tính tiên đoán, chủ động, tính hệ thống trong

phân bổ nguồn lực.

Khuyến khích nguồn lực tư nhân tham gia vào các dự án hạ tầng thông qua

mô hình đối tác công - tư (PPP): Đổi mới và hoàn thiện các cơ chế, chính sách

khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.

Nghiên cứu mở rộng việc áp dụng hình thức bán hoặc chuyển nhượng quyền quản

lý, khai thác có thời hạn một số công trình cơ sở hạ tầng để huy động nguồn vốn

của xã hội cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách

“xã hội hóa” đầu tư trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao để

một mặt tăng thêm nguồn vốn đầu tư, mặt khác cũng tăng tính cạnh tranh trong

cung cấp sản phẩm dịch vụ, xóa bỏ dần thế độc quyền. Qua đó, người dân có cơ hội

được tiếp cận với chất lượng của dịch vụ công ngày càng cao.

4.5.2 Đẩy mạnh tiến trình tái cơ cấu DNNN theo hướng tinh gọn, hiệu

quả

Thứ nhất, trước khi tiến hành cổ phần hóa các DNNN thì phải xử lý nghiêm

các sai phạm và tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến các sự việc. Phải xác định rõ trách

nhiệm của từng bộ phận, cá nhân gây ra sai phạm và tiến hành xử lý một cách triệt

68

để, sau đó mới lựa chọn các giải pháp tái cấu trúc phù hợp. Có như vậy mới có thể

nâng cao được tính kỷ luật trong tổ chức, răn đe được các thành phần có ý đồ xấu.

Vì tái cấu trúc DNNN không chỉ đơn thuần là tiến hành cổ phần hóa mà còn có thể

là tái cấu trúc ngành nghề, tài chính, quản trị, quản lý,… đối với DNNN.

Thứ hai, xác định DNNN không phải là công cụ điều tiết vĩ mô. Cần tách

bạch rõ giữa DNNN hoạt động vì mục đích lợi nhuận, và DNNN hoạt động vì mục

đích phi lợi nhuận. Không nên để một DNNN lại thực hiện cùng lúc hai mục đích

này nhằm tránh những hạn chế phát sinh như: ít có sự thay đổi sau cổ phần hóa,

thiếu các cổ đông chiến lược, bất cập trong việc bán cổ phần ra bên ngoài...

Thứ ba, chế độ công bố thông tin: đa số các DNNN thường có quy mô lớn,

các hoạt động sản xuất kinh doanh phức tạp, vì vậy cần quy định thực hiện chế độ

công bố thông tin về tình hình tài chính và tình hình hoạt động như một công ty

niêm yết. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải công bố thông tin một cách đầy đủ,

thường xuyên và công khai như công ty niêm yết để tăng cường hoạt động giám sát

DNNN. Công việc kiểm toán, tiến độ công bố thông tin có thể chậm hơn so với

công ty niêm yết nhưng không được chậm trễ so với quy định.

Thứ tư, tham mưu soạn thảo văn bản hướng dẫn hoạt động cổ phần hóa: Tiến

trình bán cổ phần DNNN, thu hút đối tác chiến lược có thể phải kéo dài nhiều năm

nhưng cũng cần phải thúc đẩy nhanh hơn nữa việc chuyển các doanh nghiệp này

sang mô hình hoạt động công ty cổ phần. Tuy đến thời điểm này, hệ thống văn bản

quy phạm pháp luật đã có sự hoàn thiện hơn so với trước đây nhưng vẫn còn một số

hạn chế. Vì vậy, Chính phủ, các Bộ, ban ngành cùng các Cơ quan tham mưu phải

nghiên cứu, soạn thảo các văn bản hướng dẫn để hoạt động cổ phần hóa doanh

nghiệp được suôn sẻ và nhanh chóng, gỡ bỏ những nút thắt mà các văn bản hiện

hành đang có.

Thứ năm, tăng cường vai trò của cổ đông thiểu số: lâu nay việc cổ phần hóa

được xem như là vấn đề nội bộ của các DNNN, vì vậy mới có chuyện các doanh

nghiệp sau cổ phần vẫn dậm chân tại chỗ. Việc tăng tỷ lệ bán cổ phần ra bên ngoài

69

nhằm tạo tiếng nói của cổ đông thiểu số và cơ hội cho các nhà đầu tư chiến lược

thực sự tham gia vào các DNNN sau cổ phần hóa là điều hết sức quan trọng. Chỉ

bằng việc tăng cường giám sát của các cổ đông bên ngoài, Chính phủ mới có thể kỳ

vọng sự thay đổi của DNNN sau cổ phần hóa.

Thứ sáu, thay đổi cách xử lý phần thặng dư vốn sau cổ phần hóa: Thay đổi

quy định về sử dụng tiền thu về từ cổ phần hóa trong trường hợp phát hành tăng

vốn, theo đó phần thặng dư vốn từ việc bán cổ phần ra bên ngoài phải được giữ lại

hoàn toàn cho doanh nghiệp, phục vụ quyền lợi của tất cả cổ đông.

Thứ bảy, quy định thời gian niêm yết sau cổ phần hóa: cùng với việc phát

triển nền kinh tế mà kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo, DNNN phải là những mô

hình mẫu và đi đầu trong quá trình niêm yết cổ phần. Cần có chế tài trong việc niêm

yết của các DNNN sau cổ phần hóa trong khoảng thời gian cụ thể, nhằm tăng cường

tính minh bạch và thanh khoản cho cổ phiếu.

4.5.3 Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng với mục tiêu nâng cao hiệu quả

công tác quản trị điều hành và tăng cường năng lực tài chính của các ngân

hàng thương mại (NHTM)

Hiện nay công tác quản trị, điều hành của các NHTM Việt Nam còn rất yếu,

mặc dù đã được cải thiện nhiều trong thời gian qua nhưng nếu đem so với các

NHTM của các nước có nền kinh tế phát triển thì Việt Nam bị tụt hậu lại khá xa. Do

đó các NHTM trong nước cần nâng cao công tác quản trị điều hành ở tất cả các

khâu như: tổ chức, nhân sự, quản trị tài sản và nợ, quản trị rủi ro thanh khoản, lãi

suất, tỷ giá… tất cả những vấn đề trên là rất bức thiết, quan trọng nhằm tạo ra

những định hướng đúng đắn để dẫn dắt các định chế tài chính hoạt động an toàn và

hiệu quả hơn.

Trong thời gian qua, hoạt động sáp nhập, phá sản các ngân hàng yếu kém đã

diễn ra khá sôi nổi. Đối với các NHTM có tình hình nợ xấu cao, thanh khoản yếu

kém và tình hình tài chính yếu thì việc sáp nhập, phá sản là điều nên làm; ngân hàng

nhà nước nên tiếp tục chỉ đạo cho sáp nhập và mạnh dạn cho phá sản những ngân

70

hàng yếu kém. Trước khi sáp nhập hoặc phá sản, nhà nước cần thận trọng để xử lý

các khoản phải thu và phải trả cho khách hàng, như thuê một công ty kiểm toán độc

lập để định giá đưa vào vốn góp (đối với ngân hàng sáp nhập), hoặc thanh lý tài sản

của NHTM để có cơ sở giải quyết những khoản nợ mà NHTM đã huy động và vay

của các tổ chức, cá nhân; song theo kinh nghiệm của Trung Quốc thì các khoản gốc,

lãi hợp pháp của các chủ nợ nước ngoài và người gửi tiền cá nhân phải được ưu tiên

chi trả đầu tiên. Nếu việc sáp nhập, phá sản được thực hiện một cách bài bản thì sẽ

giúp các NHTM hoạt động được tốt hơn, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng thương

mại hoạt động ổn định, cạnh tranh lành mạnh.

Tăng cường năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại: NHTM cần

chủ động nâng cao năng lực tài chính của mình trên một số phương diện chính như:

vốn tự có, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời. Để thực hiện được điều đó, các

ngân hàng thương mại cần phải từng bước tăng vốn điều lệ, xây dựng lộ trình tăng

vốn điều lệ cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế tại Việt Nam; tránh trường

hợp tăng vốn đột ngột dẫn đến những hệ lụy như hiện nay. Chẳng hạn theo quy định

vốn tự có tối thiểu thì các ngân hàng có quy mô nhỏ phải chạy đua tăng vốn một

cách gấp gáp trong khi năng lực quản trị của các ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được

yêu cầu của một cấu trúc lớn; trong môi trường cạnh tranh hơn thì điều này đã làm

lộ ra nhiều yếu kém của các ngân hàng, nhất là khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng.

Bên cạnh đó, cũng cần phải đảm bảo cho các NHTM nâng cao sức cạnh tranh và

chủ động hội nhập trong khu vực và thế giới; trích lập đầy đủ các khoản dự phòng

rủi ro nhằm minh bạch hóa tình hình tài chính và tài sản có rủi ro; khi cho vay hoặc

đầu tư mới phải thực hiện đúng quy trình cho vay và đầu tư, chấp hành nghiêm

chỉnh việc cho vay và đầu tư vào những doanh nghiệp sân sau của ngân hàng…

Đổi mới và kiện toàn công tác nhân sự của toàn hệ thống: từ ý trên cho thấy

một yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của hệ thống các ngân hàng đó

là yếu tố nhân sự. Một đội ngũ cán bộ không có hoặc hạn chế về trình độ, yếu kém

về đạo đức thì sẽ khó lòng đưa NHTM phát triển theo đúng mục tiêu, định hướng đã

đề ra, thậm chí sẽ đẩy ngân hàng xuống “vũng lầy” của khủng hoảng. Do đó,

71

NHNN và các NHTM cần đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, điều đó cần được

thực hiện từ khâu tuyển dụng, đào tạo đến khâu bổ nhiệm cán bộ, làm sao để xây

dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực trình độ, có bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp.

Thực tế đã chỉ ra rằng, hoạt động của các NHTM bị ảnh hưởng rất nhiều từ năng lực

thanh tra giám sát của ngân hàng nhà nước và năng lực quản trị điều hành của các

NHTM. Vì vậy, có thể nói đây là giải pháp cần được ưu tiên hàng đầu trong dài hạn.

Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hành lang pháp lý: thực tế cho thấy, hành

lang pháp lý ở lĩnh vực ngân hàng còn nhiều bất cập, do đó các cấp có thẩm quyền

cần xây dựng khung pháp lý về hoạt động ngân hàng thật công khai, minh bạch và

công bằng nhằm tạo cho các NHTM được bình đẳng trong cạnh tranh và bảo đảm

an toàn hệ thống, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an

toàn đối với hoạt động tiền tệ, ngân hàng, hình thành môi trường lành mạnh; xóa bỏ

phân biệt đối xử giữa các NHTM và loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp trong

lĩnh vực ngân hàng.

Cơ cấu lại mạng lưới giao dịch của từng NHTM: Sau một thời gian NHNN

cho phép các NHTM mở rộng mạng lưới giao dịch, một số NHTM tiến hành mở

rộng nhanh mạng lưới mà chưa tính toán kỹ đến khả năng quản trị điều hành, chất

lượng nguồn nhân lực... nhiều ngân hàng trên cùng một địa bàn đã thành lập nhiều

chi nhánh, phòng giao dịch (đặc biệt là trên các đô thị lớn như: Hà Nội và TP. Hồ

Chí Minh, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh nội bộ giữa các NHTM nhằm

giành giật khách hàng làm cho thị trường tiền tệ đôi khi rất hỗn loạn. Do đó, NHNN

tiếp tục yêu cầu các NHTM cơ cấu lại mạng lưới giao dịch sao cho trong nội bộ các

NHTM không cạnh tranh chồng chéo lên nhau. Tuy nhiên, NHNN và bản thân các

NHTM cũng cần cẩn trọng trong việc cơ cấu mạng lưới, xem xét cụ thể từng

trường hợp, có những trường hợp cần sáp nhập, giải thể, nhưng có những trường

hợp có thể thay đổi nhân sự chủ chốt của các chi nhánh để thực hiện điều hành cho

có hiệu quả hơn, tránh xáo trộn trong khâu tổ chức cán bộ cũng như tâm lý hoang

mang của khách hàng.

72

Tiếp tục đổi mới công nghệ ngân hàng: Mặc dù việc ứng dụng công nghệ

ngân hàng của các NHTM có bước phát triển về chất trong thời gian qua, song so

với các NHTM ở những nước tiên tiến trên thế giới thì các NHTM ở Việt Nam vẫn

còn có khoảng cách khá xa. Do đó, hệ thống các NHTM trong nước cần tiếp tục đổi

mới, ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm phát triển hơn nữa các sản phẩm dịch vụ

ngân hàng hiện đại dựa trên nền tảng công nghệ, tăng tính bảo mật thông tin của

khách hàng...

4.6. Nâng cao vai trò của hệ thống kiểm tra, giám sát tài chính

Kiểm toán Nhà nước (KTNN) là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra

tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, thực hiện kiểm tra việc quản lý, sử dụng

ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Vì vậy, KTNN kiểm tra việc quản lý và sử dụng

các khoản nợ công là điều cần thiết, đảm bảo tính minh bạch trong quản lý và sử

dụng các khoản nợ công cũng như tính bền vững của NSNN. Cần quy định rõ

nhiệm vụ kiểm toán nợ công của cơ quan này trong Luật Quản lý nợ công và Luật

KTNN.

Tuy nhiên, trên thực tế do nợ công gồm nhiều loại hình khác nhau, mỗi loại

nợ lại có đặc thù về quản lý đồng thời liên quan đến nhiều cơ quan quản lý, đối

tượng sử dụng; do vậy, để kiểm toán nợ công có hiệu quả, hàng năm KTNN phải

kiểm toán các báo cáo thường niên về nợ công; đồng thời tăng cường số lượng và

chất lượng các cuộc kiểm toán chuyên đề về nợ công, như chuyên đề kiểm toán vay

nợ nước ngoài của Chính phủ, vay nợ trong nước, các khoản nợ Chính phủ bảo

lãnh, chi phí vay nợ...

Chính phủ nên xem xét thành lập một ủy ban kiểm toán nhà nước riêng biệt

riêng để kiểm tra, giám sát độc lập nợ công của Việt Nam. Hiện nay công việc này

do Bộ Tài chính đảm nhiệm nhưng chưa có một cơ quan chuyên trách nên việc quản

lý còn nhiều bất cập, chậm trễ, gây nên những thất thoát, thiếu hiệu quả trong việc

sử dụng kiểm soát nợ công.

73

Cơ quan chuyên trách này có đủ năng lực, uy tín như các công ty kiểm toán

nước ngoài sẽ là cơ sở để Chính phủ nắm được tình hình vay và sử dụng nợ công.

Lâu nay vẫn biết luôn có việc kiểm tra, đánh giá trong nghiệm thu các công trình,

dự án sử dụng nợ công sau khi chúng được hoàn thành, và đa số các cuộc kiểm tra

này đều cho ra kết quả là đạt yêu cầu về mặt chất lượng, tuy nhiên thực tế lại thấy

chất lượng không được đảm bảo như yêu cầu. Phần lớn các công trình bị hư hại,

xuống cấp nặng chỉ trong thời gian ngắn sử dụng hoặc phải tu bổ thường xuyên nếu

muốn duy trì lâu hơn. Thực trạng này xuất hiện không chỉ ở các công trình do

DNNN đảm nhiệm mà ngay cả các công trình do tư nhân thắng thầu thì chất lượng

cũng không cao hơn là mấy. Hay như thông tin về nợ công của Việt Nam (nợ trong

nước; nợ của các DNNN được bảo lãnh và không được bảo lãnh của Chính phủ),

luôn được thông báo là các chỉ số vẫn nằm trong ngưỡng an toàn nhưng rất khó để

có thể biết rõ được chính xác là bao nhiêu.

Để làm tốt giải pháp này, trong giai đoạn đầu khi mà bộ phận kiểm toán nhà

nước còn mới, có thể thuê các công ty kiểm toán nước ngoài có uy tín tiến hành

kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ các dự án của Chính phủ. Việc làm này một mặt sẽ

giúp Chính phủ phân loại được các dự án hoạt động hiệu quả hay không, từ đó đưa

ra giải pháp thực hiện trong những giai đoạn tiếp theo; mặt khác, thông qua hoạt

động này các nhân viên kiểm toán nhà nước sẽ có cơ hội học hỏi kinh nghiệm, nâng

cao năng lực để đủ sức thực hiện nhiệm vụ sau này. Giai đoạn tiếp theo, tự bộ phận

kiểm toán nhà nước sẽ tiếp tục kiểm tra theo định kỳ các dự án như đã phân loại

theo từng vùng, từng lĩnh vực liên quan, tiến hành giám sát chặt chẽ để tránh các sai

phạm.

4.7. Quy định rõ ràng, tách bạch phạm vi nợ của Chính phủ, nợ được

Chính phủ bảo lãnh và nợ của doanh nghiệp

Mỗi loại nợ có đặc thù về quản lý đồng thời liên quan đến nhiều cơ quan

quản lý, đối tượng sử dụng khác nhau; để dễ dàng quản lý và quy kết trách nhiệm

cho những sai phạm cần phải quy định phạm vi đâu là nợ Chính phủ, đâu là nợ

74

được Chính phủ bảo lãnh và đâu là nợ của doanh nghiệp. Có như vậy mới biết được

cụ thể sai phạm là do ai? Đơn vị, cá nhân nào làm lãng phí nợ công?... điều này sẽ

tránh được trường hợp đùn đẩy trách nhiệm giữa các bộ phận liên quan rồi xử lý

qua loa cho xong, và cuối cùng là NSNN bị thiệt hại.

4.8. Phải tiến hành xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm hợp

đồng việc thực hiện các dự án không đúng theo yêu cầu của hợp đồng (như: các

công trình bị hư tổn, xuống cấp nhanh so với tiêu chuẩn đặt ra; việc thi công chậm

tiến độ ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác...) thì phía thi công sẽ phải chịu trách

nhiệm đền bù và thi công lại, hoặc phải đền bù và cho đấu thầu lại để chủ thầu mới

tiếp tục thi công phần tiếp theo của công trình. Có như vậy mới có thể răn đe được

những người chịu trách nhiệm thi công các dự án. Lâu nay, việc thi công các dự án

ít được chú tâm đến chất lượng và giám sát tiến độ thi công; hầu hết các dự án sau

khi hoàn thành đều chậm hơn so với dự kiến, tăng thêm chi phí vật liệu, nhân công;

điều này làm giá thành của các công trình đội lên rất cao nhưng chất lượng lại

không tương xứng. Đa số các công ty sau khi thắng thầu đã phải sử dụng một phần

lớn nguồn tiền để chạy chọt, bưng bít làm thất thoát nặng nguồn vốn đầu tư dẫn đến

nhiều hệ lụy kèm theo. Nhà nước cần phải khắc phục ngay tình trạng này để tạo tính

bền vững trong đầu tư (đặc biệt trong xây dựng cơ sở hạ tầng) trước khi nghĩ đến

những vấn đề khác.

4.9. Quy định rõ vai trò của người dân, các tổ chức ngoài nhà nước

trong Luật quản lý nợ công đối với các hoạt động thu, chi của nhà nước: Đã

đến lúc phải để cho người dân được quyền đóng góp ý kiến trong các hoạt động của

nhà nước về nợ công; họ sẽ là động lực hiệu quả cho cán bộ quản lý khi tham gia

góp ý về chủ trương, một kế hoạch, một biện pháp tiến hành, một dự án; hoặc như

việc cấp đất, cấp vốn cho một đơn vị kinh tế, cho đến hiệu quả đích thực của các

vấn đề ấy. Các cơ quan chức năng phải tạo mọi điều kiện để dân được kiểm tra, chất

vấn, theo dõi, giám sát đến nơi đến chốn các công việc này. Như Chủ tịch Hồ Chí

Minh từng căn dặn: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng

xong”, để thấy rằng vai trò của người dân là cực kỳ quan trọng trong việc thực hiện

75

các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Chính phủ Việt Nam

thường dương cao khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nhưng thực

chất thì vẫn chưa thực hiện tốt vấn đề này. Trong thời gian tới chủ trương này phải

được thực thi rộng khắp, có thực chất, để đạt những hiệu quả rõ rệt, tránh hình thức

chủ nghĩa.

4.10. Thay đổi tư duy về nợ công và DNNN:

Phải thay đổi tư duy một cách triệt để về nợ công và DNNN nếu muốn đất

nước phát triển lành mạnh. Những nghiên cứu quốc tế và trong nước gần đây cung

cấp bằng chứng đầy thuyết phục cho sự không thể đứng vững của quan điểm "khu

vực kinh tế nhà nước là chủ đạo". Báo cáo kinh tế Việt Nam 2012 của Uỷ ban Kinh

tế Quốc hội dẫn số liệu của Bộ Tài chính cho thấy nợ nước ngoài của Việt Nam đến

năm 2011 là rất cao (41,5% GDP), cứ theo đà này thì 4-5 năm nữa, nợ nước ngoài

sẽ đến ngưỡng nguy hiểm giành cho các nền kinh tế mới nổi. Trong khi đó, tổng nợ

công từ năm 2009 đến 2011 cũng tăng lên mức báo động. Đấy là những số liệu

chính thức được công bố, số liệu thực tế có thể cao hơn nhiều. Đó là chưa nói đến

nợ của các DNNN, mà cuối cùng cũng sẽ làm tăng đáng kể nợ công. Cả lý thuyết và

thực tiễn quốc tế cũng như Việt Nam cho thấy khu vực kinh tế nhà nước chính là

vấn đề của nền kinh tế, chứ không thể giữ vai trò chủ đạo. Để thực hiện được vấn đề

này cần phải tách bạch hai chức năng là quản lý và sở hữu nhà nước. Giảm quy mô

và số lượng DNNN đồng thời tăng cường quản trị và tính công khai, minh bạch

cũng như trách nhiệm giải trình trong quản lý nợ công. Để thực hiện được vấn đề

này, nợ công cần phải được tính toán, xác định đầy đủ trong quyết toán NSNN và

phải được cơ quan chuyên môn xác nhận. Các DNNN cần được đặt mục tiêu giảm

dần số lượng và tỉ trọng thông qua quá trình cổ phần hóa triệt để.

76

4.11. Cần có sự kế thừa trong quản lý và sử dụng nợ công giữa các

nhiệm kỳ của các nhà lãnh đạo:

Xây dựng chiến lược về vay nợ công phù hợp với kế hoạch phát triển kinh

tế, xã hội, kế hoạch thu chi NSNN trong từng thời kỳ là nhiệm vụ của các nhà lãnh

đạo. Tuy nhiên, cần phải có sự kế thừa và phát huy được thế mạnh của các nhiệm

kỳ trước đề làm tăng thêm sức mạnh, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của đất

nước. Ở Việt Nam, việc kế thừa có thể nói là còn hạn chế so với các quốc gia phát

triển trên thế giới, đây có lẽ là một trong những nguyên nhân khiến cho các kế

hoạch phát triển kinh tế, xã hội bị chậm lại. Để làm tốt được điều này, cần phải xây

dựng các chiến lược, kế hoạch phát triển lâu dài, áp dụng ở nhiều thời kỳ xuyên

suốt để khi có sự thay đổi về con người thì định hướng phát triển kinh tế xã hội vẫn

không bị ảnh hưởng.

4.12. Khuyến khích đầu tư tư nhân tham gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng để

giảm gánh nặng cho NSNN:

Đầu tư của Nhà nước chỉ nên đóng vai trò định hướng trong đầu tư phát triển

kinh tế - xã hội với việc tập trung vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế thiết

yếu, không có khả năng thu hồi vốn hoặc mức độ thu hồi vốn thấp, rủi ro cao, dịch

vụ công quan trọng, một số ngành sản xuất then chốt, đóng vai trò chủ đạo và

những lĩnh vực mà tư nhân không thể hoặc chưa thể thực hiện được. Cần phải tạo

hành lang pháp lý đẩy mạnh mô hình quỹ đầu tư phát triển địa phương để góp phần

huy động và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội địa phương. Song song

với đó là phải đẩy mạnh việc thực hiện chính sách “xã hội hóa” đầu tư trong một số

lĩnh vực như y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao để tăng thêm nguồn vốn đầu tư, và

tăng tính cạnh tranh trong cung cấp sản phẩm dịch vụ.

4.13. Hệ thống thuế cần được cải cách đảm bảo các tiêu chí tạo nguồn

thu bền vững, hiệu quả và công bằng:

Gánh nặng thuế cần phải được điều chỉnh giảm một cách hợp lý, có lộ trình

rõ ràng. Kể từ khi Việt Nam gia nhập (WTO), Chính phủ đã có những cam kết cho

77

lộ trình giảm thuế theo yêu cầu của các đối tác. Việc giảm thuế trong thời gian qua

đã có những tác động nhất định đến nền kinh tế nội địa. Chính phủ cần cải cách hệ

thống thuế bảo đảm định hướng ưu tiên, thúc đẩy các ngành, các lĩnh vực kinh tế có

khả năng cạnh tranh; các ngành, lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế có thể tồn tại và

phát triển nhưng đồng thời cũng phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Như vậy sẽ tạo

được sự công bằng và khuyến khích phát triển kinh tế theo định hướng trên cơ sở

tạo được nguồn thu bền vững.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Tóm lại, có rất nhiều giải pháp được đưa ra nhằm khắc phục tình trạng nợ

công tăng thêm của Việt Nam. Trong các giải pháp này có những giải pháp cấp

bách và giải pháp lâu dài. Đối với giải pháp cấp bách cần được thực hiện trong thời

gian ngắn nhất có thể để kịp thời kìm hãm tốc độ tăng nợ công, đồng thời phải xây

dựng lộ trình cụ thể, từng bước thực hiện đối với các giải pháp lâu dài để tạo được

tính bền vững, an toàn trong nợ công. Tuy nhiên, có thể nói ngọn nguồn của tất cả

các vấn đề đó là sự minh bạch trong quản lý nợ; nợ công là vấn đề của quốc gia, của

toàn dân vì vậy người dân có quyền được nghe, được biết về nó. Nếu Chính phủ

làm được điều này thì đây chính là bước ngoặc lớn trong quản lý nợ công và nó sẽ

đem lại nhiều thay đổi có lợi cho nền kinh tế, tạo động lực phát triển đất nước.

78

KẾT LUẬN CHUNG

Nợ công là một hiện tượng bình thường của bất kì một quốc gia nào trên thế

giới. Điều quan trọng nhất là làm thế nào để thiết lập được hệ thống quản lý và sử

dụng nợ công có hiệu quả. Trong cơ cấu nợ của một quốc gia, nợ công là khoản nợ

lớn nhất; là một cơ cấu tài chính rất phức tạp với nhiều rủi ro tiềm ẩn. Nợ công tác

động rất lớn đến sự ổn định tài chính trong nước, nếu sử dụng hiệu quả thì nó sẽ

thúc đẩy sự phát triển kinh tế và ngược lại, khủng hoảng nợ công làm cho nền kinh

tế bị suy thoái, trì trệ và kiềm hãm sự phát triển trong thời gian dài. Hiểu được tầm

quan trọng của nợ công, Chính phủ Việt Nam đã rất quan tâm đến việc nâng cao

hiệu quả quản lý nợ công. Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới,

môi trường kinh tế lành mạnh sẽ là điều kiện thuận lợi để có thể thu hút được đầu tư

từ nước ngoài vào trong nước. Chính phủ, các ban ngành có liên quan và mỗi người

dân cần tự ý thức về trách nhiệm và quyết tâm làm tròn nghĩa vụ của mình để góp

phần vào công cuộc xây dựng đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tài chính (2011), Bản tin nợ nước ngoài, số 7. 2. Bộ Tài chính (2012), Bản tin nợ công, số 1. 3. Bộ Tư pháp (2002), Luật Ngân sách Nhà nước. 4. Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính (2009), Đề cương giới thiệu Luật Quản lý nợ

công.

5. Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư công trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, tải về từ http://www.vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/cuoc-song- quanh-ta46/doi-moi-co-che-quan-ly-dau-tu-cong-trong-qua-trinh-tai-co-cau- kinh-te ngày 22/07/2012.

6. Lê Kim Sa (2012), Nợ công của Việt Nam: Những vấn đề và tác động tiềm năng, tải về từ http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/kinh-te-thi-truong- XHCN/2012/16541/No-cong-cua-Viet-Nam-Nhung-van-de-va-tac-dong- tiem.aspx. ngày 15/06/2012.

7. Mai Thanh Quế - Mai Thương Huyền – Lê Diệu Huyền (2011), Tài liệu

giảng dạy Tài chính học, từ trang 109 - 125, nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội 2011.

8. Mai Thu Hiền và Nguyễn Thị Như Nguyệt (2011), Tình hình nợ công và

quản lý nợ công ở Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 14 (2011).

9. Ngô Thị Tuyết Mai (2012), Nợ nước ngoài của Việt Nam: Những vấn đề

đáng quan ngại, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 12 (2012).

10. Nguyễn Minh Phong (2011), Nợ công ở châu Âu và bài học về quản lý nhà nước, tải về từ http://baodientu.chinhphu.vn/Home/No-cong-o-chau-Au-va- bai-hoc-ve-quan-ly-nha-nuoc/201111/102928.vgp ngày 21/11/2011.

11. Nguyễn Quốc Nghi (2011), Luận bàn vấn đề nợ công ở Việt Nam, Tạp chí

Nghiên cứu Tài chính – Marketing, số 6 (2011).

12. Nghị định số 79/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/7/2010 về nghiệp vụ

quản lý nợ công.

13. Nợ công của Việt Nam tương đương 55,4% GDP, tải về từ

http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/no-cong-cua-viet-nam-tuong- duong-554-gdp-2723663.html ngày 1/11/2012.

14. Nợ của doanh nghiệp nhà nước đe dọa nợ công Việt Nam, tải về từ

http://vov.vn/Kinh-te/No-cua-doanh-nghiep-nha-nuoc-de-doa-no-cong-Viet- Nam/263707.vov, ngày 29/09/2013.

15. Phạm Thị Thanh Bình (2013), Vấn đề nợ công ở một số nước trên thế giới và hàm ý chính sách đối với Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội 2013.

16. Thông tư 56/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 29/04/2011 hướng dẫn

phương pháp tính toán các chỉ tiểu giám sát và tổ chức hoạt động giám sát nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia.

17. Toàn cảnh khủng hoảng nợ châu Âu: Nguyên nhân và giải pháp, tải về từ

http://cfoviet.com/toan-canh-khung-hoang-no-chau-au-nguyen-nhan-va-giai- phap/ ngày 06/08/2013.

18. Tổng Cục Thống kê, Niên giám thống kê (các năm). 19. Trịnh Tiến Dũng, Nợ công – đừng để cháy nhà mới lo dập lửa, tải về từ

http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-05-22-no-cong-dung-de-chay-nha- moi-lo-dap-lua ngày 23/05/2010.

20. Vũ Nhữ Thăng (2011), Đổi mới đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2011-

2020, Bài viết hội thảo: Tái cơ cấu đầu tư công trong bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế ở Việt Nam (2011).

21. Vũ Quang Việt, Nợ công, nợ ngân hàng của Việt Nam được hé mở, tải về từ http://www.diendan.org/viet-nam/no-cong-no-ngan-hang-cua-viet-nam- duoc-he-mo-%28b%29 ngày 25/11/2012.

22. Vũ Quang Việt, Nợ nước ngoài và khả năng chi trả của Việt Nam, tải về từ http://www.baomoi.com/No-nuoc-ngoai-va-kha-nang-chi-tra-cua-Viet- Nam/126/5357053.epi ngày 11/12/2010.

23. Vụ Tổng hợp Kinh tế - Bộ ngoại giao, Nợ công và quản lý nợ công ở Việt

Nam, Bản tin kinh tế, số 10 (2011).

PHỤ LỤC

Danh sách các nước thành viên Liên minh châu Âu

Dân số

Cờ

Thủ đô

Ngày gia nhập

Tên thông thường

Tên chính thức

Diện tích (km²)

Quố c huy

Các lãnh thổ đặc biệt

Áo

1.1.1995

8.340.924

83.871 Viên

25.3.1957 10..666.866

30.528 Bruxelles

Bỉ

1.1.2007

7.640.238

110.910 Sofia

Bulgaria

1.7.2013

4.284.889

56.594 Zagreb

Croatia

Cộng hòa Áo Vương quốc Bỉ Cộng hòa Bulgaria Cộng hòa Croatia

1.5.2004

778.700

9.251[t 1] Nicosia

Cyprus

Cộng hòa Cyprus

3 exclude d

1.5.2004

10.403.100

78.866 Praha

Cộng hòa Séc

Đan Mạch

1.1.1973

5.511.451

43.094

Copenhage n

2 exclude d

Estonia

1.5.2004

1.340.935

45.226 Tallinn

Phần Lan

1.1.1995

5.312.415

338.145 Helsinki

1

Cộng hòa Séc Vương quốc Đan Mạch Cộng hòa Estonia Cộng hòa Phần Lan

Pháp

25.3.1957

64.473.140

674.843 Paris

Cộng hòa Pháp

4 + 8 exclude d

Đức

82.218.000

357.050 Berlin

25.3.1957[t 5]

Hy Lạp

1.1.1981

11.125.179

131.990 Athens

Hungary

1.5.2004

10.036.000

93.030 Budapest

Ireland

Ý

4.501.000. 59.619.290

70.273 Dublin 301.318 Roma

– –

Latvia

1.5.2004

2.266.000

64.589 Riga

Litva

3.357.873

65.303 Vilnius

Cộng hòa Liên bang Đức Cộng hòa Hy Lạp Cộng hòa Hungary 1.1.1973 Ireland Cộng hòa Ý 25.3.1957 Cộng hòa Latvia Cộng hòa Litva

1.5.2004|5| 1}}

Dân số

Cờ

Thủ đô

Ngày gia nhập

Tên thông thường

Tên chính thức

Diện tích (km²)

Quố c huy

Các lãnh thổ đặc biệt

25.3.1957

483.800

2.586

Luxembour g

Luxembour g

Malta

1.5.2004

407.810

316 Valletta

Hà Lan

25.3.1957

16.471.968

41.526 Amsterdam

2 exclude d

Ba Lan

1.5.2004

38.115.641

312.683 Warsaw

1.1.1986

10.599.095

92.391 Lisbon

Bồ Đào Nha

Romania

1.1.2007

21.538.000

238.391 Bucharest

Slovakia

1.5.2004

5.400.998

49.037 Bratislava

Slovenia

1.5.2004

2.025.866

20.273 Ljubljana

1.1.1986

46.063.511

506.030 Madrid

Tây Ban Nha

Thụy Điển

1.1.1995

9.253.675

449.964 Stockholm

1.1.1973

61.003.875

244.820 London

Vương quốc Anh

1 + 16 exclude d

– EU-27

498.926.165 4.456.304

Đại công quốc Luxembour g Cộng hòa Malta Vương quốc Hà Lan[t 6] Cộng hòa Ba Lan Cộng hòa Bồ Đào Nha Romania Cộng hòa Slovakia Cộng hòa Slovenia Vương quốc Tây Ban Nha Vương quốc Thụy Điển Vương quốc Anh và Bắc Ireland Tổng cộng Liên minh châu Âu