BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
----------------
TRẦN BÌNH PHƯƠNG
NGHIÊN CỨU KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TẠI
CHÂU ÂU VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NGĂN NGỪA KHỦNG
HOẢNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số : 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN NGỌC HÙNG
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn “Nghiên cứu khủng hoảng nợ công tại
châu Âu và giải pháp để ngăn ngừa khủng hoảng nợ công ở Việt Nam” là
đề tài nghiên cứu riêng của cá nhân tôi. Các nội dung nghiên cứu và kết quả
trình bày trong luận văn là trung thực và rõ ràng.
Phú Yên, ngày 15 tháng 10 năm 2013
Tác giả luận văn
Trần Bình Phương
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chương I: NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG .................................... 3
Ở CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI. ................................................................. 3
1.1 Những vấn đề lý luận về nợ công ...................................................................... 3
1.1.1 Khái niệm .................................................................................................... 3
1.1.2 Phân loại ...................................................................................................... 5
1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công ........................................................... 5
1.1.4 Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công ............................................ 7
1.1.4.1. Vay trong nước của Chính phủ ............................................................ 7
1.1.4.2. Vay nước ngoài của Chính phủ ............................................................ 8
1.1.5 Tác động của nợ công.................................................................................. 9
1.1.5.1. Những tác động tích cực của nợ công .................................................. 9
1.1.5.2. Những tác động tiêu cực của nợ công .................................................. 9
1.2 Khủng hoảng nợ công ...................................................................................... 10
1.2.1 Khái niệm khủng hoảng nợ công .............................................................. 10
1.2.2 Đặc điểm của khủng hoảng nợ công ......................................................... 11
1.2.3 Nguyên nhân và hậu quả của khủng hoảng nợ công ................................. 12
1.2.3.1. Nguyên nhân khủng hoảng nợ công .................................................. 12
1.2.3.2. Hậu quả của khủng hoảng nợ công .................................................... 13
1.3. Khủng hoảng nợ công ở một số nền kinh tế trên thế giới ............................... 14
1.3.1. Khủng hoảng nợ công tại các nước Mỹ Latinh ........................................ 14
16
1.3.2. Khủng hoảng nợ công tại các nước châu Á ............................................. 15
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương II: NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TẠI CHÂU ÂU GIAI ĐOẠN 2009-2011 VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM. ............................................................................................................. 17
2.1 Tình hình nợ công tại châu Âu trước khủng hoảng ......................................... 17
2.2 Khủng hoảng nợ công tại châu Âu giai đoạn 2009 - 2011 .............................. 19
2.3 Hậu quả của khủng hoảng nợ công châu Âu ................................................... 24
2.4 Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công tại châu Âu ............................... 26
2.4.1 Nguyên nhân nhìn từ quá khứ ................................................................... 26
2.4.2 Nguyên nhân khủng hoảng hiện tại ........................................................... 28
2.5 Tác động của khủng hoảng nợ công châu Âu đến Việt Nam và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............................................................................................ 29
2.5.1. Tác động của khủng hoảng châu Âu đến Việt Nam ................................. 29
2.5.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ......................................................... 32
KẾT LUẬN CHƯƠNG II 35
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM ............................. 36
GIAI ĐOẠN 2006 - 2012 ........................................................................................ 36
3.1 Các chỉ tiêu giám sát nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia ........................ 36
3.2 Tình hình vay nợ công ..................................................................................... 40
3.3 Tình hình sử dụng nợ công .............................................................................. 46
3.4 Tình hình trả nợ công của Việt Nam ............................................................... 50
3.5 Đánh giá tính ổn định của nợ công ở Việt Nam .............................................. 54
61
3.6 Dự báo tình hình nợ công Việt Nam trong thời gian tới ................................. 56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương IV: GIẢI PHÁP NGĂN NGỪA KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM .............................................................................................................. 62
4.1. Phát triển nội lực của nền kinh tế ................................................................... 62
4.2. Thay đổi cơ cấu nợ công ................................................................................. 63
4.3. Kiểm soát nợ công ở mức an toàn .................................................................. 64
4.4. Tăng cường thể chế quản lý và giám sát nợ công, hình thành cơ quan quản lý nợ công thống nhất................................................................................................. 65
4.5. Tái cơ cấu nền kinh tế trong trung và dài hạn ................................................ 65
4.5.1 Nâng cao hiệu quả đầu tư công theo hướng đầu tư có trọng điểm, tránh dàn trải ................................................................................................................ 66
4.5.2 Đẩy mạnh tiến trình tái cơ cấu DNNN theo hướng tinh gọn, hiệu quả ..... 67
4.5.3 Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng với mục tiêu nâng cao hiệu quả công tác quản trị điều hành và tăng cường năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại ...................................................................................................................... 69
4.6. Nâng cao vai trò của hệ thống kiểm tra, giám sát tài chính ............................ 72
4.7. Quy định rõ ràng, tách bạch phạm vi nợ của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của doanh nghiệp ........................................................................... 73
4.8. Phải tiến hành xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm hợp đồng . ..... 74
4.9. Quy định rõ vai trò của người dân, các tổ chức ngoài nhà nước trong Luật quản lý nợ công đối với các hoạt động thu, chi của nhà nước. ............................. 74
4.10. Thay đổi tư duy về nợ công và DNNN: ........................................................ 75
4.11. Cần có sự kế thừa trong quản lý và sử dụng nợ công giữa các nhiệm kỳ của các nhà lãnh đạo: .................................................................................................... 76
4.12. Khuyến khích đầu tư tư nhân tham gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng để giảm gánh nặng cho NSNN: ........................................................................................... 76
77
4.13. Hệ thống thuế cần được cải cách đảm bảo các tiêu chí tạo nguồn thu bền vững, hiệu quả và công bằng: ................................................................................ 76
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4............................................................................
KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Ngưỡng nợ trong nước theo tiêu chuẩn của HIPCs ........................... 40
Bảng 3.2: Số liệu nợ công của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2012 ......................... 40
Bảng 3.3: Gói kích thích kinh tế năm 2009 ........................................................... 41
Bảng 3.4: Tỷ lệ tổng dư nợ hệ thống tín dụng trên GDP. ................................... 42
Bảng 3.5. Nợ công của Việt Nam năm 2011 .......................................................... 42
Bảng 3.6: Lao động hành chính, an ninh và sự nghiệp ăn lương và hưởng hưu trí của nhà nước. ..................................................................................................... 43
Bảng 3.7: Nợ nước ngoài của Chính phủ (kể cả được Chính phủ bảo lãnh) ..... 44
Bảng 3.8: Tốc độ tăng nợ nước ngoài của Chính phủ (kể cả được Chính phủ bảo lãnh) ................................................................................................................... 44
Bảng 3.9: Phân phối ODA theo vùng. ................................................................... 47
Bảng 3.10: ICOR của một số nước trong khu vực ............................................... 48
Bảng 3.11: Bội chi NSNN và nguồn tài trợ bội chi ngân sách ............................. 52
Bảng 3.12: Các chỉ số đánh giá độ bền vững nợ nước ngoài của Việt Nam. ..... 55
Bảng 3.13: Các chỉ số đánh giá tính ổn định nợ trong nước của Việt Nam. ..... 56
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: So sánh GDP năm 2010 các nước trong EU ........................................ 18
Hình 2.2: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với GDP của các nước EU .................... 18
Hình 2.3: Chênh lệch lãi suất so với Đức của các nước EU ................................ 19
Hình 3.1: tình hình trả nợ và viện trợ của Việt Nam giai đoạn 2006-2010 ....... 51
Hình 3.2: Hiệu quả của nền kinh tế qua chỉ số ICOR giai đoạn 2001-2010 ............ 57
Hình 3.3: Tăng trưởng GDP thực và tỷ lệ lạm phát của Việt Nam từ năm 2006- 2012 ................................................................................................................. 60
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ngân hàng phát triển châu Á. ADB:
Ngân hàng Trung ương Anh. BOE:
Bảo hiểm rủi ro tín dụng. CDS:
Thu ngân sách nhà nước. DBR:
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước.
EC: Ủy ban châu Âu.
EU: Liên minh châu Âu.
EUR: Đồng tiền chung châu Âu
EUR: Đồng Euro
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
FED: Cục dự trữ Liên bang Mỹ.
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội.
GNI: Tổng sản lượng quốc gia.
HIPCs: Các nước nghèo có tỷ lệ nợ cao.
ICOR: Chỉ số hiệu quả đầu tư.
IMF: Quỹ tiền tệ Quốc tế.
JPY: Đồng Yên Nhật Bản
KTNN: Kiểm toán nhà nước.
MOF: Bộ Tài chính Việt Nam
NHNN: Ngân hàng nhà nước.
NHTM: Ngân hàng thương mại.
NPV: Tỷ lệ nợ nước ngoài
NSNN: Ngân sách nhà nước
Viện trợ phát triển chính thức. ODA:
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD:
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa. OPEC:
Các nước châu Âu có tỷ lệ nợ cao. PIIGS:
SWAPs: Hợp đồng hoán đổi.
Năng suất nhân tố tổng hợp. TFP:
Trái phiếu Chính phủ TPCP:
Đồng Đôla Mỹ USD:
Đồng Việt Nam VND:
Ngân hàng thế giới. WB:
Tổ chức Thương mại thế giới WTO:
Xuất khẩu. X:
1
MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Nợ công và khủng hoảng nợ công là chủ đề nóng hiện nay bởi khả năng ảnh
hưởng của nó tới sức khỏe của các nền kinh tế và khả năng phục hồi của nền kinh tế
toàn cầu. Khủng hoảng nợ công đã tác động rất lớn đến đời sống kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia, khiến cho nền kinh tế thế giới rơi vào tình trạng suy thoái và
chậm phục hồi bởi những tác động tiêu cực của nó. Đặc biệt từ khi cuộc khủng
hoảng nợ công châu Âu diễn ra, thế giới đã chứng kiến sự sụp đổ của các nền kinh
tế lớn; đồng thời là tác động của nó đến các nền kinh tế khác trên phạm vi toàn cầu. Nợ công của thế giới năm 2011 lên tới 45.000 tỉ USD 1. Không chỉ các nước phát
triển như châu Âu, Mỹ mà ngay cả các nước đang phát triển cũng phải đối mặt với
vấn đề nợ công, trong đó có Việt Nam. Tuy nợ công Việt Nam hiện nay vẫn nằm
trong ngưỡng an toàn, nhưng hiệu quả quản lý và sử dụng nợ công còn nhiều bất
cập. Đã có nhiều bài viết của các chuyên gia kinh tế đề cập đến nợ công Việt Nam;
tùy theo cách tiếp cận khác nhau của mỗi người nhưng nhìn chung, các bài viết đã
phân tích những yếu kém và đưa ra giải pháp để khắc phục các yếu kém trong quản
lý và sử dụng nợ công ở Việt Nam.
Để đánh giá tình hình nợ công của Việt Nam và đưa ra các giải pháp nhằm
ngăn ngừa khủng hoảng nợ công xảy ra ở Việt Nam, tác giả đã chọn đề tài “Nghiên
cứu khủng hoảng nợ công tại châu Âu và giải pháp để ngăn ngừa khủng hoảng
nợ công ở Việt Nam” làm đề tài luận văn bảo vệ học vị thạc sỹ.
I. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu nhằm hướng đến các mục tiêu sau:
(cid:57) Nghiên cứu tình hình khủng hoảng nợ công tại châu Âu để rút ra bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam.
1 Tạp chí The Economist (Anh)
(cid:57) Đánh giá thực trạng nợ công của Việt Nam.
2
(cid:57) Đề xuất các giải pháp để Việt Nam không rơi vào khủng hoảng nợ
công.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: tình hình khủng hoảng nợ công ở châu Âu; tình hình
nợ công của Việt Nam .
Phạm vi nghiên cứu: tập trung nghiên cứu thực trạng nợ công của Việt Nam
giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2012, là giai đoạn nền kinh tế quốc gia cũng như
toàn thế giới có nhiều biến động làm ảnh hưởng đến tính ổn định của nợ công Việt
Nam.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính. Các số liệu
nghiên cứu được lấy từ nguồn thứ cấp kết hợp với các phương pháp tổng hợp, thống
kê, phân tích, tham khảo ý kiến của các chuyên gia để hoàn thành luận văn này.
IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Nội dung luận văn gồm 4 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về nợ công và khủng hoảng nợ công
Chương II: Nghiên cứu tình hình khủng hoảng nợ công tại châu Âu giai đoạn 2009
– 2011 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Chương III: Thực trạng nợ công của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2012
Chương IV: Giải pháp để ngăn ngừa khủng hoảng nợ công ở Việt Nam
3
Chương I: NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
Ở CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI.
1.1 Những vấn đề lý luận về nợ công
1.1.1 Khái niệm
Trong giai đoạn hiện nay kinh tế thế giới vẫn đang phát triển mạnh mẽ và
tiềm ẩn những rủi ro lớn với những chuyển biến khó lường, điển hình như cuộc
khủng hoảng tài chính ở Mỹ năm 2008, khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp năm 2009
đã lan sang các nước trong khối Liên minh châu Âu mà nguyên nhân xuất phát từ
việc quản lý nợ công lỏng lẻo của Chính phủ các quốc gia. Với tham vọng kích
thích tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, trong nhiều thập kỷ qua các quốc gia đặc
biệt là các quốc gia đang phát triển đã liên tục sử dụng công cụ đòn bẩy tài chính
(vay nợ). Trong nền kinh tế tài chính hiện đại, việc sử dụng công cụ này đã góp
phần không nhỏ trong việc kích thích kinh tế tăng trưởng, tuy nhiên, công cụ tài
chính nào cũng có những mặt lợi và bất lợi của nó. Hậu quả của việc sử dụng đòn
bẩy tài chính này là vấn đề nợ của các quốc gia càng nóng hơn, đặc biệt từ sau cuộc
khủng hoảng nợ công ở châu Âu trong thời gian qua.
Theo thông lệ quốc tế, nợ quốc gia bao gồm: Nợ khu vực công và nợ khu
vực tư nhân không được bảo lãnh. Nợ khu vực công bao gồm: Nợ Chính phủ, nợ
doanh nghiệp nhà nước (DNNN), nợ được Chính phủ bảo lãnh (nợ của DNNN và
nợ của chính quyền địa phương được Chính phủ bảo lãnh; nợ tư nhân được Chính
phủ bảo lãnh).
Tuy nhiên, khái niệm nợ quốc gia nên được hiểu rộng hơn là nợ của các đối
tượng mang quốc tịch của một quốc gia nào đó. Trong trường hợp này, phải tính
đến các khoản nợ của các đối tượng có quốc tịch ở một nước nhưng lại sinh sống ở
một quốc gia khác. Do đó, việc kiểm soát các khoản nợ này rất phức tạp, hơn nữa
khái niệm nợ quốc gia có rất ít ý nghĩa kinh tế. Chính vì vậy, hiện nay các quốc gia
chủ yếu đề cập đến khoản nợ công, vì nợ công có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế.
4
Trong nợ công có phần nợ công nước ngoài phản ánh mức nợ của một quốc gia đối
với nước ngoài; nó có khả năng gây ra khủng hoảng nợ công nếu một quốc gia mất
khả năng chi trả.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về nợ công được các Chính phủ, các
chuyên gia kinh tế đưa ra, nhìn chung các khái niệm này chủ yếu tùy thuộc vào mục
đích và phạm vi sử dụng nợ của mỗi tổ chức, mỗi quốc gia.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của Chính phủ; khi chi tiêu của Chính
phủ lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được, Nhà nước phải đi vay (trong hoặc ngoài
nước) để trang trải thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và
lãi khi đến hạn, Nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để bù đắp. Vì vậy, xét cho cùng
nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế. Vay nợ thực chất là cách đánh thuế
dần dần, được hầu hết Chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt động chi
ngân sách. Nợ Chính phủ thể hiện sự chuyển giao của cải từ thế hệ sau (thế hệ phải
trả thuế cao) cho thế hệ hiện tại (thế hệ được giảm thuế).
Có thể nói mỗi khái niệm mang đặc trưng riêng và nó phù hợp với từng hoàn
cảnh của mỗi quốc gia trong quá trình thực hiện các mục tiêu của chính sách tài
khóa. Mặc dù vậy, các khai niệm vẫn có những điểm chung như: nợ công là khoản
nợ do Chính phủ vay, được sử dụng để bù đắp cho những thiếu hụt của ngân sách
nhà nước (NSNN); dùng để tài trợ cho các mục tiêu của quốc gia… Do đó, để đơn
giản hơn trong vấn đề nợ công và nghiên cứu khủng hoảng nợ công, có thể hiểu nợ
công thông qua khái niệm sau:
Nợ công là tổng giá trị các khoản tiền mà Chính phủ thuộc mọi cấp từ
Trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân
sách hoặc các mục tiêu của quốc gia.
Đối với Việt Nam, do đặc thù của nền kinh tế là nước đang phát triển, một số
các thành phần kinh tế vẫn còn chịu sự bao cấp của nhà nước, đặc biệt là khối các
doanh nghiệp cổ phần do nhà nước quản lý. Nguồn vốn hoạt động của các doanh
nghiệp này phần lớn được đầu tư từ NSNN, mà chủ yếu là từ các khoản vay của
5
Chính phủ để hỗ trợ cho hoạt động đầu tư theo mục tiêu quốc gia. Chính vì vậy, có
thể nói Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường chứ thực chất chưa được coi
là một nền kinh tế thị trường, cho nên các khoản nợ của khối DNNN do Chính phủ
vay đầu tư cũng được coi là một phần nợ công của Việt Nam. Và như vậy, trong
phần thực trạng về nợ công của Việt Nam sẽ có đề cập đến nợ của khối các DNNN
này.
1.1.2 Phân loại
Dựa vào các tiêu chí phân loại khác nhau, nợ công có thể được chia thành
nhiều bộ phận riêng biệt, cứ mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau trong việc quản
lý và sử dụng nợ công. Trong phạm vi của đề tài, nợ công được phân loại theo
nguồn gốc địa lý của khoản vay nợ.
Theo tiêu chí này, nợ công được chia thành 02 loại:
+ Nợ trong nước: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư trong nước.
+ Nợ nước ngoài: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư nước ngoài.
Trong thực tế, khi tiến hành thống kê và tính toán giá trị nợ công ở một số
nước, trong đó có Việt Nam, người ta thường chỉ quan tâm đến khoản nợ nước
ngoài mà mặc nhiên bỏ qua các khoản nợ trong nước. Đây là một hạn chế cần sửa
đổi; bởi lẽ, thiếu sót này nhiều khi đưa đến kết quả không chính xác cho giá trị nợ
công của một quốc gia, gây khó khăn cho các nhà quản lý trong việc nắm bắt đúng
đắn tình trạng nợ của đất nước mình để hoạch định các chính sách ứng phó kịp thời
và hợp lý.
Việc phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ công. Về mặt
thông tin sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Và ở
một số khía cạnh, việc quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ của
Nhà nước Việt Nam, vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do
chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác.
1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công
6
Với cách hiểu như khái niệm trên thì nợ công sẽ bao gồm cả nợ trong nước
và nợ nước ngoài của khu vực công. Nhưng như vậy là chưa đủ, cần phải nghiên
cứu đến các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công để đảm bảo tỷ lệ nợ công so với tổng
sản phẩm nội địa (GDP) là ổn định. Có thể nhận thấy các nhân tố ảnh hưởng đến nợ
công bao gồm:
+ Cân bằng ngân sách cơ bản: Nếu như khoản thâm hụt nhỏ sẽ làm cho các
khoản vay giảm đi.
+ Lãi suất thực tế: khi có sự biến động lãi suất thực tế trên thị trường sẽ ảnh
hưởng ngay đến khoản nợ vay của Chính phủ bởi lãi suất được xem như là chi phí
của các khoản vay. Chính phủ sẽ phải trả chi phí cao hơn khi lãi suất tăng lên hoặc
thấp hơn khi lãi suất giảm đi. Hơn nữa, khi lãi suất tăng lên, các khoản vay của
Chính phủ sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Nếu không có kế hoạch vay nợ rõ ràng thì sẽ
không đảm bảo vay nợ đúng thời hạn, đáp ứng cho nhu cầu đầu tư của Chính phủ;
điều này lại ảnh hưởng đến sự bền vững của chính sách tài khóa.
+ Tốc độ tăng trưởng thực tế: tốc độ tăng trưởng nhanh hay chậm sẽ có ảnh
hưởng không nhỏ tới các khoản vay của Chính phủ, nền kinh tế càng phát triển thì
khoản vay của Chính phủ sẽ trở nên dễ dàng hơn khi nền kinh tế tăng trưởng chậm.
Ngoài ra khi kinh tế tăng trưởng chậm thì lúc đó người dân cũng như doanh nghiệp
thắt chặt chi tiêu hơn, việc tích lũy cũng ít đi và nguồn vay của Chính phủ sẽ giảm
đáng kể. Khi tăng trưởng chậm còn có thể đi kèm với lạm phát và thất nghiệp cao.
Lúc này những khoản trả nợ vay của Chính phủ khi đến hạn còn phải “cấp bù” lạm
phát.
+ Lãi suất ngoại tệ: đối với lãi suất ngoại tệ sẽ liên quan đến các khoản vay
nợ nước ngoài của Chính phủ, khi lãi suất ngoại tệ thực tế biến động cũng sẽ ảnh
hưởng tới khoản vay nợ nước ngoài của Chính phủ. Nếu lãi suất ngoại tệ thực tế
tăng lên thì khoản vay của Chính phủ trở nên đắt hơn và ngược lại.
+ Tỷ giá thực tế: khi có những khoản vay nợ nước ngoài thì sự biến động về
tỷ giá sẽ chắc chắn ảnh hưởng tới những khoản vay và trả đối với khoản nợ công.
7
Nếu tỷ giá tăng thì lúc này trả nợ khoản vay đến hạn sẽ bị đắt hơn và ngược lại. Còn
khi vay nợ, nếu khi tỷ giá tăng đối với khoản vay nợ các quốc gia sẽ có lợi hơn khi
tỷ giá giảm.
1.1.4 Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công
Hiện nay các tổ chức quốc tế không đề cập cụ thể đến mục đích vay nợ,
nhưng các khuyến nghị trong khung pháp lý thường phải xác định rõ mục đích vay;
hay nói cách khác là Chính phủ vay để làm gì? Thông thường các khoản vay nợ chủ
yếu là: tài trợ thâm hụt ngân sách, tái cơ cấu nợ, cho vay lại… Một số nước cho
phép vay để tài trợ cho các chương trình dự án đầu tư quan trọng của Chính phủ
(như Bungari, Thái Lan), hay có thể vay để đáp ứng yêu cầu ngoại hối của ngân
hàng Trung ương (Rumani)… Vì vậy, căn cứ vào mục đích vay để các quốc gia đưa
ra các hình thức và công cụ vay cho phù hợp với điều kiện của từng quốc gia. Hiện
nay, về cơ bản các nước đều có hai hình thức vay: vay trong nước và vay nước
ngoài.
1.1.4.1. Vay trong nước của Chính phủ
Để vay nợ trong nước, các quốc gia trên thế giới sử dụng nhiều công cụ vay
nợ khác nhau, nhưng nhìn chung là đảm bảo sự phù hợp với điều kiện của từng
quốc gia. Vay trong nước được thực hiện chủ yếu dưới hình thức phát hành tín
phiếu, trái phiếu hoặc bất kỳ công cụ nào phát sinh nghĩa vụ nợ.
+ Tín phiếu (T-bills): là một chứng chỉ vay nợ (loại TPCP) có kỳ hạn dưới 1
năm (thường 3, 6, 9 tháng), dùng để huy động vốn bù đắp thiếu hụt ngân sách tạm
thời, được phát hành theo phương thức đấu thầu.
+ Trái phiếu (T-Bonds): là loại chứng khoán nợ được phát hành có thời hạn,
có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành đối với người
sở hữu trái phiếu.
+ Trái phiếu chính quyền địa phương (municipal bonds): là các loại trái
phiếu có thời hạn 1 năm trở lên do chính quyền địa phương phát hành nhằm huy
8
động vốn cho các dự án đầu tư như công trình cơ sở hạ tầng hay phúc lợi công cộng
của địa phương.
+ Trái phiếu ngoại tệ: là loại TPCP có kỳ hạn từ 1 năm trở lên, nhưng được
thể hiện dưới dạng ngoại tệ, nhằm huy động tiền bằng ngoại tệ của dân chúng, loại
trái phiếu này không phổ thông.
+ Trái phiếu công trình Trung ương: là loại trái phiếu có kỳ hạn từ 1 năm trở
lên, do Kho bạc nhà nước phát hành nhằm huy động vốn cho công trình đầu tư cụ
thể theo quyết định của thủ tướng Chính phủ. Do đó trái phiếu công trình Trung
ương thường gắn với công trình cụ thể và lãi suất thấp hơn các loại trái phiếu khác.
+ Công trái xây dựng tổ quốc: đây là loại trái phiếu trung, dài hạn. Đặc thù
của công trái xây dựng tổ quốc là có lãi suất thấp vì nó không mang tính chất vay
vốn để bù đắp thâm hụt ngân sách mà để động viên người dân cho Chính phủ vay
vốn để đầu tư vào các dự án đầu tư trọng điểm của nhà nước. Đây cũng chính là lý
do tại sao gọi là Công trái xây dựng Tổ quốc.
1.1.4.2. Vay nước ngoài của Chính phủ
+ Vay từ nguồn viện trợ phát triển chính thức (Official development
assistants- ODA): là các khoản vay nhân danh nhà nước, Chính phủ từ các nhà tài
trợ là các Chính phủ nước ngoài; các tổ chức tài trợ song phương như của các tổ
chức tài chính quốc tế gồm: Ngân hàng thế giới(WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng phát triển châu Á(ADB)…; các tổ chức liên quốc gia hoặc liên Chính
phủ có thể như các tổ chức phi Chính phủ (NGO).
+ Vay có tính chất thương mại (commercial loans): là những khoản vay dựa
trên quan hệ cung cầu về vốn vay trên thị trường, lãi suất do thị trường quyết định,
không chịu bất cứ ràng buộc nào về các điều kiện kinh tế hay chính trị.
+ Vay ưu đãi: là khoản vay có các điều kiện ưu đãi hơn so với vay thương
mại nhưng ưu đãi không đạt theo tiêu chuẩn chung của ODA.
9
+ Khoản vay hợp vốn (Syndicated loans): là một khoản vay vốn lớn trong đó
một nhóm người cho vay (phần lớn là các ngân hàng) sẽ cùng liên kết với nhau để
cung cấp vốn cho một người đi vay.
+ Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu chính thức (Official supported export credits):
đây là hình thức được thực hiện vay liên quan đến hoạt động xuất khẩu. Các nước
đang phát triển khi thực hiện xuất khẩu sẽ được hỗ trợ về vốn cho hoạt động xuất
khẩu của mình.
+ Phát hành trái phiếu quốc tế (Global bonds). Trái phiếu quốc tế của Chính
phủ là chứng chỉ vay nợ do Chính phủ Trung ương hay chính quyền địa phương
phát hành trên thị trường vốn quốc tế nhằm huy động vốn của các nhà đầu tư trên
thế giới.
1.1.5 Tác động của nợ công
1.1.5.1. Những tác động tích cực của nợ công
- Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn
vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước.
- Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong
dân cư. Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc
Nhà nước vay nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại
hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư.
- Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính
quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế - ngoại giao quan
trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng
như muốn hợp tác kinh tế song phương.
1.1.5.2. Những tác động tiêu cực của nợ công
- Khi nợ công cao sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các
khoản tài trợ nước ngoài.
10
- Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo, việc sử dụng nợ công sẽ tỏ ra
kém hiệu quả.
- Tình trạng tham nhũng, lãng phí sẽ tràn lan nếu Chính phủ thiếu cơ chế
giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công. Điều này sẽ kìm hãm sự phát
triển của nền kinh tế, nghiêm trọng hơn có thể đẩy nền kinh tế lâm vào tình trạng
suy thoái cùng với những bất ổn của xã hội.
Tóm lại, nợ công có tác động lớn đến nền kinh tế trên cả 02 mặt tích cực và
tiêu cực. Do vậy, Chính phủ phải thường xuyên theo dõi, nhận biết những tác động
tích cực và tiêu cực để phát huy mặt tích cực, kịp thời hạn chế mặt tiêu cực là điều
hết sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nợ công.
1.2 Khủng hoảng nợ công
1.2.1 Khái niệm khủng hoảng nợ công
Cũng giống như tình trạng đa khái niệm của nợ công, khủng hoảng nợ công
cũng có nhiều quan niệm khác nhau, tùy thuộc vào góc độ tiếp cận và đánh giá sự
kiện. Hiểu một cách khái quát nhất, khủng hoảng nợ công xảy ra khi thâm hụt ngân
sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó vượt quá khả năng kiểm soát, điều tiết và trả
nợ của Chính phủ, dẫn đến suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng.
Trải qua thời gian dài vận động phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung,
khái niệm về vấn đề khủng hoảng nợ công cũng được thay đổi nhiều lần và riêng rẽ
đối với từng tổ chức, khu vực độc lập.
* Theo cách tiếp cận từ các khoản nợ công bị khất lại, Detragiache và
Spilimbergo (2001) xác định rằng cuộc khủng hoảng nợ công sẽ xảy ra nếu một
trong hai hoặc cả hai điều kiện sau đây xảy ra:
- Có những khoản nợ gốc hoặc lãi chưa hoàn trả hoặc đang trả dở dang song
phải xin khất lại nghĩa vụ trả nợ đối với chủ nợ (ngân hàng, tổ chức sở hữu trái
phiếu) chiếm trên 5% tổng dư nợ.
11
- Có một thỏa thuận gia hạn hoặc tái cơ cấu nợ với chủ nợ được liệt kê trong
Báo cáo Phát triển Tài chính Toàn cầu (GDF) của WB.
* Nhìn nhận khủng hoảng nợ công tương đương với tình trạng “tiền phá
sản”, Sy(2004) đưa ra lập luận: giống như việc mất khả năng thanh toán những
khoản nợ trong khu vực tài chính doanh nghiệp, khủng hoảng nợ công là biểu hiện
“tiền phá sản” của trái phiếu Chính phủ (TPCP). Theo định nghĩa đó, Sy đã chỉ ra từ
năm 1994 đến năm 2002, trên thế giới xảy ra 140 sự kiện “tiền phá sản”, làm giảm
uy tín và năng lực của thị trường TPCP.
*Theo Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF, một quốc gia được xác nhận lâm vào
khủng hoảng nợ nếu nó được tổ chức Standard & Poor’s liệt vào danh sách các
nước không có khả năng hoàn trả nợ hoặc phải xin vay từ IMF một khoản lớn (vượt
quá 100% hạn mức tín dụng đề ra) để tài trợ cho khoản nợ nói trên. Ở đây, tiêu
chuẩn được đưa ra để Standard and Poor’s xác định một quốc gia gọi là không có
khả năng hoàn trả nợ là việc Chính phủ của quốc gia đó không thể thanh toán đủ
gốc hoặc tiền lãi cho các khoản nợ nước ngoài vào ngày đáo hạn hoặc trong thời
gian ân hạn quy định (bao gồm các khoản phát sinh trong nghiệp vụ thanh toán nợ
bằng hối phiếu, nghiệp vụ SWAPs tài sản nợ, …). Như vậy, tình hình vay nợ bất
thường với quy mô lớn tại Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF là một trong những dấu hiệu
báo trước cho những bất ổn trong tình trạng nợ công của một quốc gia, có thể dẫn
đến nguy cơ khủng hoảng nhanh chóng.
Tóm lại, các khái niệm nêu trên diễn đạt khủng hoảng nợ công theo các cách
khác nhau, tuy nhiên, có thể thấy rõ rằng mọi quan niệm đều chứa những nội dung
cơ bản tương đồng, đó là: Khủng hoảng nợ công xảy ra khi Chính phủ một quốc gia
không thể trả được nợ và buộc phải tìm kiếm, cầu viện đến các sự trợ giúp khác.
1.2.2 Đặc điểm của khủng hoảng nợ công
Dựa vào những quan niệm nêu trên, có thể chỉ ra một số đặc trưng quan
trọng mang tính bản chất đối với các cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới như
sau :
12
+ Một là, khủng hoảng nợ công mang bản chất của một cuộc khủng hoảng
kinh tế, làm suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái
trong chu kỳ kinh tế.
+ Hai là, khủng hoảng nợ công không phân biệt quốc gia phát triển hay
quốc gia đang phát triển. Điều này được nhìn nhận thông qua cuộc khủng hoảng
nợ công châu Âu vừa qua, từ đây có thể khẳng định khủng hoảng nợ công hoàn
toàn có khả năng xảy ra ở những nước phát triển, nơi nền kinh tế tăng trưởng
một cách tương đối cao và ổn định.
+ Ba là, khủng hoảng nợ công một khi đã diễn ra thường kéo dài trong một
thời gian, kèm theo nhiều hệ lụy không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trong lĩnh
vực chính trị - văn hóa - xã hội.
+ Bốn là, khủng hoảng nợ công gắn liền với mức độ tín nhiệm Chính phủ của
quốc gia xảy ra sự kiện. Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín
nhiệm, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay; khi đó nền kinh tế dễ trở
thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.
1.2.3 Nguyên nhân và hậu quả của khủng hoảng nợ công
1.2.3.1. Nguyên nhân khủng hoảng nợ công
Khi khủng hoảng nợ công xảy ra, điều đầu tiên mà các tổ chức nghĩ tới là
họp bàn để tìm ra nguyên nhân chính gây ra khủng hoảng này. Đối với một cuộc
khủng hoảng nợ công thì có nhiều nguyên nhân gây ra, dưới đây là một số nguyên
nhân thường thấy ở các quốc gia đã xảy ra khủng hoảng nợ công:
+ Sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước kém, không chặt chẽ,
thậm chí bị buông lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và
chi tiêu, cùng với tệ tham nhũng phát triển ở nhiều nước, cũng trở thành nguyên
nhân không kém phần quan trọng.
+ Trong khi đó, các nguồn thu chủ yếu từ thuế tăng không kịp với nhu cầu
chi, thậm chí một số loại thuế chịu áp lực phải cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác
13
+ Do những khoản nợ nước ngoài khổng lồ ngày càng gia tăng. Trong khủng
hoảng, các khoản nợ tư có xu hướng chuyển thành nợ công. Một điều bất cập là,
quốc gia có nợ nước ngoài cao trong khi người dân lại nắm giữ một lượng tài sản
lớn của nước ngoài. Trong trường hợp này, Chính phủ phải đối mặt với trường hợp,
quốc gia có thể vỡ nợ trong khi người dân của mình vẫn có thể hưởng lợi nhuận từ
tài sản nước ngoài. Để giải quyết vấn đề này, các quốc gia có thể huy động các
nguồn vốn này để thay thế cho các khoản nợ nước ngoài.
+ Tiết kiệm trong nước thấp ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn đầu tư phát
triển nền kinh tế; vay nợ nước ngoài chủ yếu giành cho chi tiêu công, không hỗ trợ
nhiều cho hoạt động đầu tư trong nước.
+ Các Chính phủ đã ngụy tạo các báo cáo về tình hình kinh tế trong nước
một thời gian dài để có thể che dấu mức vay thực tế, nhằm phù hợp với các quy
định, giám sát của các tổ chức quốc tế, từ đó có thể vay được nhiều hơn.
+ Chi tiêu kích thích kinh tế sau khủng hoảng làm trầm trọng thêm vấn đề.
1.2.3.2. Hậu quả của khủng hoảng nợ công
+ Các thị trường ngày càng mất tin tưởng nhau, mức tín nhiệm do đó cũng
liên tục bị hạ bậc, điều này làm cho việc vay mượn, đầu tư giữa các tổ chức cũng trở
nên khó khăn hơn, quốc gia lại rơi vào vòng luẩn quẩn của khủng hoảng và suy
thoái kinh tế.
+ Khủng hoảng nợ công ngày càng trầm trọng sẽ khiến cho các nhà đầu tư
tháo chạy với quy mô lớn trên thị trường trái phiếu và cổ phiếu làm mất khả năng
14
thanh khoản của hệ thống ngân hàng và gây hiệu ứng sụp đổ hàng loạt ở các nền
kinh tế khác.
1.3. Khủng hoảng nợ công ở một số nền kinh tế trên thế giới
1.3.1. Khủng hoảng nợ công tại các nước Mỹ Latinh
Cuộc khủng hoảng nợ diễn ra ở các quốc gia Mỹ Latinh những năm 1970 và
1980 được xem là thảm họa lớn nhất trong lịch sử khu vực này, kể từ sau cuộc Đại
khủng hoảng những năm 1930 và đây cũng là cuộc khủng hoảng nợ công đầu tiên
trong lịch sử kinh tế hiện đại. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Mexico (1982) khi quốc
gia này tuyên bố vỡ nợ, sau đó hầu hết các quốc gia trong khu vực cũng đều không
tránh khỏi vòng xoáy này đó là: Argentina (1982, 1989), Bolivia (1980, 1986,
1989), Brazil (1983, 1986-1987) và Ecuador (1982, 1984).
Nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ tại Mỹ Latinh là:
+ Việc đầu tư quá nhiều vào kết cấu hạ tầng nhằm đẩy mạnh công nghiệp
hóa dẫn đến việc Chính phủ bội chi ngân sách kéo dài một cách trầm trọng.
+ Gia tăng tỷ lệ nhập siêu do nhập khẩu nhiều nguyên, vật liệu, cũng như
công nghệ sản xuất từ nước ngoài để thực hiện được mục tiêu công nghiệp hóa.
Hai điều trên dẫn đến sự gia tăng ngày càng lớn nhu cầu về nguồn vốn của
Chính phủ. Do đó, họ đã phải đi vay rất nhiều tiền từ các quốc gia phát triển khác và
các tổ chức tài chính quốc tế.
Việc vay nợ nước ngoài với quy mô lớn tiềm ẩn nhiều rủi ro và không thể
tiếp diễn được mãi. Vào năm 1979, Mỹ thực hiện hàng loạt chính sách thắt chặt và
đẩy lãi suất gia tăng. Điều này tương tự xảy ra với các quốc gia châu Âu, khiến
dòng vốn đầu tư toàn cầu bắt đầu chảy ngược ra khỏi các quốc gia đang phát triển.
Đồng thời, lãi suất gia tăng làm cho nghĩa vụ nợ tại các quốc gia Mỹ Latinh tăng
lên. Ngoài ra, khả năng trả nợ nước ngoài của các quốc gia Mỹ Latinh lại phụ thuộc
chủ yếu vào xuất khẩu. Do suy thoái kinh tế đầu những năm 1980 làm thu hẹp
15
thương mại quốc tế cũng như giá cả hàng hóa thế giới, đặc biệt là giá cả các nguyên
liệu thô, khiến nguồn thu từ xuất khẩu tại các quốc gia này giảm mạnh.
Không thể duy trì được sự ổn định kinh tế, trong khi giá trị các khoản nợ lại
gia tăng mạnh làm cho rủi ro nợ nước ngoài của khu vực Mỹ Latinh đã vượt quá
khỏi tầm kiểm soát. Khi Mexico tuyên bố vỡ nợ đã ngay lập tức khiến các ngân
hàng thương mại và tổ chức tài chính quốc tế siết chặt và trì hoãn vô thời hạn đối
với các khoản vay đến khu vực Mỹ Latinh. Lại do phần lớn các khoản nợ đều trong
ngắn hạn, nên việc không được bơm tiếp tín dụng làm cho các quốc gia này nhanh
chóng bị cuốn vào vòng xoáy, dẫn đến một cuộc khủng hoảng dây chuyền.
1.3.2. Khủng hoảng nợ công tại các nước châu Á
Tại Đông Á và Đông Nam Á, khủng hoảng tài chính đến ngay sau thời kỳ
tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Nguyên nhân là do sự bùng nổ tín dụng từ các nguồn
vốn nước ngoài được sử dụng thiếu kiểm soát khi phần lớn nguồn vốn đổ vào bất
động sản và chứng khoán.
Khủng hoảng tài chính Đông Á chính thức bắt đầu từ tháng 7/1997 với sự
sụp đổ của đồng bath Thái Lan do các dòng vốn ồ ạt rút mạnh khỏi quốc gia
này. Tại thời điểm đó, Thái Lan đã có gánh nặng nợ nước ngoài lớn khiến quốc gia
này lâm vào tình trạng vỡ nợ, phá sản trước khi đồng bath sụp đổ. Hiệu ứng lan tỏa
khiến nhà đầu tư phương Tây bất ngờ rút mạnh vốn, tiền tệ các quốc gia khác trong
khu vực lần lượt bị phá giá. Hàng loạt tập đoàn và công ty bị vỡ nợ, đặc biệt là các
công ty trong lĩnh vực bất động sản. Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những
quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Khủng hoảng tài chính nhanh chóng chuyển sang suy thoái kinh tế trầm
trọng. Đồng tiền các quốc gia bị phá giá, lạm phát gia tăng, các tổ chức tài chính và
công ty phá sản, nợ xấu lên kỷ lục, tăng trưởng kinh tế suy giảm và thất nghiệp gia
tăng. GDP của Indonesia giảm tới 15% trong vòng một năm, Thái Lan và Malaysia
cũng giảm xấp xỉ 10%, trong khi Hàn Quốc giảm 3,8% trong quý đầu của năm
1998.
16
Tổ chức IMF đã phải khởi động chương trình cứu trợ trị giá 36 tỷ USD cuối
năm 1997 để ổn định đồng tiền của các nước bị tác động mạnh nhất bởi khủng
hoảng. Đổi lại, các nước thắt chặt tiền tệ, tái cấu trúc hệ thống tài chính hoặc giảm
can thiệp vào kinh tế thị trường. Đến năm 1999, khu vực này mới dần hồi phục trở
lại.
Khủng hoảng nợ công luôn để lại hậu quả nghiêm trong với các nền kinh tế.
Có thể thấy điểm chung nhất của các cuộc khủng hoảng nợ công là các Chính phủ
đã vay nợ quá mức để chi tiêu trong giai đoạn phát triển mạnh nhất của nền kinh tế.
Đến khi nền kinh tế gặp khủng hoảng tại một nước nào đó, đã xảy ra phản ứng dây
chuyền gây đổ vỡ hàng hoạt.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tóm lại, nợ công và khủng hoảng nợ công là hai vấn đề có quan hệ mật thiết
với nhau; chúng tác động rất lớn đến nền kinh tế của một quốc gia, một khu vực
hoặc trên toàn thế giới. Sử dụng nợ công để đầu tư giúp tăng trưởng kinh tế là điều
hết sức bình thường. Tuy nhiên, việc sử dụng nợ công như thế nào cho hiệu quả và
không làm khối lượng nợ ngày càng tăng mới là vấn đề đáng bàn. Do vậy, bất kỳ
một quốc gia nào cũng cần quan tâm đến việc sử dụng hiệu quả nguồn lực này và
giới hạn an toàn của nó. Để đảm bảo an toàn nợ công, cần phải chú ý đến các vấn đề
như: vay nợ và sử dụng nợ công, phân loại rõ các khoản nợ công, tình hình trả nợ
công, các nguyên nhân làm gia tăng nợ công... Việc theo dõi các vấn đề này sẽ giúp
cho Chính phủ một quốc gia nắm bắt được tình hình sử dụng nợ công; có các giải
pháp quản lý kịp thời, ngăn ngừa được các rủi ro đối với nợ công và thúc đẩy sự
tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.
17
Chương II: NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
TẠI CHÂU ÂU GIAI ĐOẠN 2009-2011 VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM.
2.1 Tình hình nợ công tại châu Âu trước khủng hoảng
Liên minh châu Âu (EU) bao gồm 27 nước, liên minh đặt mục tiêu lớn để tạo
ra một thị trường chung và tích hợp các nền kinh tế thông qua thể chế chung. Ủy
ban châu Âu có trụ sở tại Brussels chịu trách nhiệm giám sát Liên minh châu Âu.
Trong Liên minh châu Âu có 17 nước sử dụng đồng euro (EUR) làm đồng tiền
chung. Vấn đề nợ không chỉ của riêng một quốc gia nào, 14/27 nước thuộc Liên
minh châu Âu có tỷ lệ nợ tương đương hơn 60% GDP, mức giới hạn mà Liên minh
châu Âu đưa ra. Trong nhóm này có cả một số nền kinh tế lớn của khu vực như Anh
hay Pháp.
Vấn đề nợ của Hy Lạp cũng không phải mới. Từ khi chuẩn bị gia nhập khu
vực đồng tiền chung châu Âu vào năm 2000, Hy Lạp đã có tỷ lệ nợ cao. Ý và Bỉ
cũng khốn khổ với các khoản nợ lớn.
Chi tiêu vào phúc lợi xã hội và một số chương trình khác của Chính phủ đã
tăng nhanh trong thập kỷ qua, đẩy tỷ lệ nợ công của khắp các nước trong khu vực
lên cao.
Quy mô các nền kinh tế được thể hiện qua mức độ to nhỏ của hình. Trong
bảng là so sánh GDP năm 2010 của các nền kinh tế thuộc Liên minh châu Âu. Kinh
tế Hy Lạp có quy mô nhỏ thế nhưng nỗi sợ của khả năng Hy Lạp vỡ nợ đã làm xói
mòn niềm tin vào đồng EUR và khiến nhà đầu tư khắp thế giới sợ hãi.
18
Nguồn: Theo New York times
Hình 2.1: So sánh GDP năm 2010 các nước trong EU
Dù các nước quanh Hy Lạp nợ không ít, tuy nhiên vấn đề của Hy Lạp nổi
cộm lên. Hy Lạp có tỷ lệ ngân sách cao nhất tại châu Âu, lên tới 15,4% GDP năm
2009, cao hơn rất nhiều so với mức trần 3% theo giới hạn của Liên minh châu Âu.
Nguồn: Theo New York times
Hình 2.2: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với GDP của các nước EU
19
Chênh lệch lợi suất TPCP so với Đức: Khi khủng hoảng trở nên tồi tệ hơn,
chênh lệch lợi suất TPCP của một số nước so với TPCP Đức đã tăng nhanh. Lợi
suất TPCP Đức được coi như chuẩn an toàn của châu Âu.
Nguồn: Theo New York times
Hình 2.3: Chênh lệch lãi suất so với Đức của các nước EU
Như vậy, ngay từ những năm trước khi khủng hoảng xảy ra, nhiều nước
trong khu vực Liên minh châu Âu đã có nợ cao. Để kích thích tăng trưởng kinh tế,
các quốc gia đã sử dụng công cụ vay nợ, và vô hình chung điều này đã đẩy các quốc
gia đến gần với khủng hoảng hơn. Cùng với khủng hoảng kinh tế năm 2008, các
quốc gia này rơi vào tình trạng mất cân đối ngân sách và không đủ khả năng trả các
khoản nợ đến hạn. Phần tiếp theo sẽ là viễn cảnh khủng hoảng của châu Âu giai
đoạn 2009 – 2011 vừa qua.
2.2 Khủng hoảng nợ công tại châu Âu giai đoạn 2009 - 2011
Khủng hoảng nợ công châu Âu xuất phát từ Hy Lạp, sau đó lan ra các nước
khác như Ailen, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha... Hiện nay, người ta vẫn cho rằng cuộc
khủng hoảng nợ công này vẫn chưa dừng lại, nó sẽ tiếp tục hoành hành và việc
thêm một số nền kinh tế ở châu Âu bị sụp đổ chỉ còn là thời gian. Cơn khủng hoảng
20
đã đặt Eurozone nói riêng và EU nói chung trước những thách thức nghiêm trọng.
Có thể tóm tắt diễn biến cuộc khủng hoảng nợ ở châu Âu gắn với khủng hoảng của
từng quốc gia thành viên như sau:
• Hy Lạp:
Là một quốc gia có bề dày lịch sử, văn hóa lâu đời ở châu Âu, Hy Lạp có vị
trí địa lý khá thuận lợi khi nằm trong khu vực Địa Trung Hải, đây chính là điều kiện
để đất nước này phát triển về mặt kinh tế- xã hội. Trước khi lâm vào khủng hoảng
nợ công, nền kinh tế Hy Lạp là một hiện tượng bởi sự phát triển vượt bậc. Tuy
nhiên, với nhiều nguyên nhân khác nhau, nền kinh tế này bị lâm vào khủng hoảng,
với tổng số nợ công lên tới 300 tỷ EUR, chiếm 124% GDP năm 2009. Hiện tại Hy
Lạp là nước có mức nợ công thuộc loại nhiều nhất châu Âu so với quy mô nền kinh
tế. Vào tháng 11/2009, khi Bộ trưởng Tài chính Hy lạp tuyên bố thâm hụt tài chính
năm 2009 của nước này sẽ là 12,7% GDP, cao hơn gấp đôi trước đây (6%) và cao
hơn 4 lần so với mức cho phép của Eurozone (3%). Tâm lý khủng hoảng bắt đầu
xuất hiện trên thị trường. Chính phủ Hy Lạp tuyên bố nếu không nhận được các
khoản cứu trợ trước tháng 5/2010, họ sẽ không có cách nào trả được khoản nợ trị
giá 20 tỉ EUR sắp đáo hạn. Lo ngại Hy Lạp vi phạm khế ước vay nợ đối với khoản
nợ 300 tỉ EUR, các nhà đầu tư bắt đầu bán tháo trái phiếu Hy Lạp, làm Chính phủ
nước này không thể phát hành trái phiếu mới để lấy tiền trả nợ cũ. Cuộc khủng
hoảng nợ công Hy Lạp bùng nổ.
Tính đến tháng 1/2012, Hy Lạp tiêu thụ nhiều hơn 17% mức thu nhập quốc
gia của mình, thâm hụt cán cân thanh toán đã lên tới 24 tỷ EUR, chiếm 10% GDP.
Để giải quyết cuộc khủng hoảng nợ công này, Chính phủ Hy Lạp đã phát hành trái
phiếu với thời hạn 10 năm. Hy Lạp bị bắt buộc phải giảm giá cả và lương xuống
còn 20% đến 30% nếu như vẫn muốn ở trong khu vực đồng EUR. Thuế giá trị gia
tăng được tăng từ 19% - 21%, cắt giảm tiền lương tháng thứ 13, tiền thưởng cho
những người làm việc trong kỳ nghỉ lễ. Lương Chính phủ không được tăng trong
giai đoạn từ 2010 – 2013. Ngân sách quốc phòng và hệ thống an sinh xã hội đều bị
21
cắt giảm. Ngoài ra, Chính phủ còn đưa ra kế hoạch cải cách chế độ hưu trí, theo đó
tuổi nghỉ hưu người lao động sẽ được nâng lên từ 60 đến 65 (đối với nam) và từ 55
lên 60 (đối với nữ), đồng thời giảm bớt các khoản trợ cấp hưu trí. Mục tiêu của kế
hoạch này là đến năm 2014 Hy Lạp sẽ giảm thâm hụt ngân sách xuống mức 3%
GDP.
• Ailen:
Ailen từng là một trong những nền kinh tế “khỏe mạnh” nhất của khối EU.
Tính đến năm 2007, nền kinh tế Ailen đã trải qua 15 năm phát triển mạnh mẽ với
động lực tăng trưởng chủ yếu là ngành bất động sản. Khi đó, người ta đã mệnh danh
Ailen là "con hổ Celtic" và sự tăng trưởng của Ailen là "phép màu kinh tế". Đầu
năm 2000, Ailen có GDP tăng trưởng hàng năm khoảng 10%, tỷ lệ thất nghiệp
trong nước là rất thấp (thấp hơn bất kỳ một nước công nghiệp phát triển nào). Tuy
nhiên, khi suy thoái kinh tế toàn cầu nổ ra, nền kinh tế Ailen chuyển sang suy giảm
một cách nhanh chóng. Năm 2006, thâm hụt ngân sách của Chính phủ Ailen là
2,9%, đến năm 2010, tỷ lệ này lên đến 32,4% GDP.
Cùng phải đối mặt với khủng hoảng nợ công nghiêm trọng, nhưng hoàn cảnh
của Ailen lại hoàn toàn khác so với Hy Lạp. Nếu như nguyên nhân chính gây ra
khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp là khả năng quản lý tài chính công yếu kém với
những khoản chi tiêu của Chính phủ quá lớn và vượt ra khỏi tầm kiểm soát, thì
nguyên nhân cuộc khủng hoảng nợ công ở Ailen được bắt đầu từ khu vực tư nhân
với hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của một số ngân hàng và Chính phủ không
kịp thời khống chế. Các ngân hàng Ailen với tham vọng của mình đã sẵn sàng cho
vay mạnh tay trong thời kỳ tăng trưởng nóng và bong bóng bất động sản phình to.
Đây là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng khi thị trường đảo chiều. Năm
2008, kinh tế thế giới suy thoái, thị trường bất động sản trong nước bị đóng băng,
phần lớn các khoản vay bất động sản trở thành nợ xấu và hệ thống ngân hàng phải
đối mặt với nguy cơ sụp đổ. Chính phủ Ailen buộc phải tuyên bố bảo lãnh cả hệ
thống ngân hàng, và như vậy các khoản nợ tư nhân đã chuyển thành những khoản
22
nợ công tệ hại mà Chính phủ phải quản lý và lấy tiền từ ngân sách để bù lỗ cho
những tổn thất.
Theo Viện trưởng Viện Nghiên cứu Ailen của Trung Quốc, ông Vương Lê
Minh, khủng hoảng nợ công của Ailen chủ yếu thuộc nội bộ ngành ngân hàng. Về
cơ bản, toàn bộ nền kinh tế của Ailen vẫn trong tình trạng tốt. Đó là chưa kể đến trợ
lực từ việc Ailen thu hút được một lượng lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài (bằng
khoảng 80 lần của Hy Lạp). Vì vậy, sau khi thực hiện chính sách thắt chặt tài chính,
tình hình tài chính của nước này có hy vọng quay trở về quỹ đạo trước đây. Tuy
nhiên cuộc khủng hoảng này đã gây ra một cuộc khủng hoảng nguy hiểm gấp bội,
đó là “khủng hoảng lòng tin” của thị trường vào năng lực của Chính phủ. Vì vậy các
nhà đầu tư đã bán tống bán tháo TPCP mà họ mua trước đó, kết cục là Ailen không
thể có được nguồn thu từ trái phiếu để bù vào lỗ hổng ngân sách.
• Bồ Đào Nha:
Bồ Đào Nha là nền kinh tế có sức cạnh tranh yếu nhất trong khu vực đồng
EUR. Không như Ailen và Hy Lạp, tăng trưởng của Bồ Đào Nha chỉ đạt mức trung
bình 1,3% trong giai đoạn 2000 – 2008 (so với mức 4-5% của Hy Lạp và Ailen)
nhưng lại phải chi trả phúc lợi cho người dân tương đương với mức của các nước
châu Âu giàu, có mức tăng trưởng cao.
Khi “thảm họa tài chính” Ailen chưa giải quyết xong, thông tin một số nước
Eurozone và ECB đang hối thúc Bồ Đào Nha xin cứu trợ từ Quỹ Ổn định tài chính
châu Âu (EFSF) của EU và IMF loan đi. Ngay lập tức Thủ tướng Bồ Đào Nha Jose
Socrates, người đứng đầu Ủy ban châu Âu (EC) Jose Manuel Barroso đều lên tiếng
bác bỏ tin đồn, tuy nhiên sự trấn an của các nhà lãnh đạo không đủ xoa dịu nỗi lo
của các nhà đầu tư.
Trong năm 2010, nợ công của Bồ Đào Nha tương đương 86% GDP và thâm
hụt ngân sách của nước này vào khoảng 7,3% GDP. Nhưng nếu cộng cả nợ của các
công ty và nợ của cá nhân, theo chuyên gia kinh tế Rui Barbara thuộc Ngân hàng
Carragosa, nợ của Bồ Đào Nha sẽ tương đương 2,5 lần GDP, cao hơn cả Hy Lạp,
23
gây áp lực lớn lên hệ thống ngân hàng. Năm 2011, Bồ Đào Nha sẽ phải đối mặt với
khoản nợ đáo hạn 25,6 tỉ EUR, trong đó có 19,7 tỉ EUR phải thanh toán trong 6
tháng đầu năm. Bên cạnh đó, vào mùa xuân năm 2011, Bồ Đào Nha sẽ tiến hành
tuyển cử, do đó tình hình chính trường của nước này trước lúc tuyển cử sẽ không có
lợi cho việc tập trung giải quyết vấn đề nợ công, khiến nó sẽ trở nên trầm trọng hơn.
Ngoài ra, người Bồ Đào Nha sẽ cảm thấy phi lý khi phải trả lãi suất trái phiếu gần
7% và họ sẽ quay sang nhờ sự giúp đỡ từ bên ngoài mà cụ thể là EU và IMF. Tuy
nhiên, với việc lãi suất kỳ hạn 10 năm của các khoản nợ công tính đến tháng 2/2012
đã vượt quá 11% ở Bồ Đào Nha đã làm tăng lãi suất của các ngân hàng và doanh
nghiệp đang nắm giữ các khoản nợ công này. Mức tăng này đã dẫn đến nguy cơ
chấm dứt toàn bộ các hoạt động tài trợ dài hạn, sự sụt giảm vốn đầu tư và sự quay
về tình trạng suy thoái. Tình trạng này đang đe dọa Tây Ban Nha, Italia và như vậy
sẽ đe dọa cả sự toàn vẹn của khu vực đồng EUR.
• Tây Ban Nha:
Cũng như người đứng đầu Chính phủ Bồ Đào Nha, sau khi có thông tin “xứ
sở bò tót” sẽ nối gót Ailen, Thủ tướng Tây Ban Nha Jose Luis Rodriguez Zapatero
tuyên bố nước ông sẽ không xin cứu trợ tài chính. Tuy nhiên, những diễn biến thực
tế lại cho thấy các nhà đầu tư ngày càng lo lắng trước khả năng thanh toán của Tây
Ban Nha. Ngày 29/11/2010, tại thị trường Luân Đôn (Anh), lãi suất trái phiếu kỳ
hạn 10 năm của Tây Ban Nha đã tăng thêm 25 điểm phần trăm, đạt mức 5,46%, cao
nhất từ năm 2002 tới nay. Cùng ngày, CDS kì hạn 5 năm của Tây Ban Nha cũng leo
thêm 0,38% so với 3 ngày trước đó, lên mức 3,5%. Tuy nhiên, trong ngày cuối cùng
của tháng 11, kỉ lục lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Tây Ban Nha đã bị phá vỡ
khi leo lên mức mới là 5,7%. Trong khi đó, vào ngày 30/11, CDS của nước này
cũng cán ngưỡng 3,73%.
Giống như Mỹ, Tây Ban Nha cũng xuất hiện bong bóng nhà đất phình to và
tình trạng nợ của doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh. Sau khi bong bóng nhà đất vỡ,
kinh tế Tây Ban Nha rơi vào suy thoái và đối mặt với tỉ lệ thất nghiệp phi mã (từ
24
năm 2007 tới nay đã tăng gấp đôi, lên gần 20%). Giống như Mỹ, thâm hụt ngân
sách của Tây Ban Nha leo thang mạnh vì phải chịu tác động kép của cả suy thoái
lẫn nguồn thu giảm.
Điểm làm Tây Ban Nha khác Mỹ là việc nước này đang nằm bên bờ vực của
khủng hoảng nợ. Theo thống kê chưa đầy đủ, tổng nợ công của Tây Ban Nha lên tới
gần 1.000 tỉ USD (gấp khoảng 3 lần khoản nợ công của Hy Lạp) và số nợ của khối
tư nhân cũng ở con số tương đương. Cũng nợ như chúa chổm, nhưng người Mỹ vẫn
có thể yên tâm vì lãi suất trái phiếu liên bang dài hạn của họ vẫn được duy trì ở mức
dưới 3%, còn lãi suất trái phiếu của Tây Ban Nha lại đang leo dốc. Đặc biệt, do
nước này thuộc Eurozone, nên không có sự hỗ trợ của công cụ tiền tệ.
Sau khi Ailen nhận cứu trợ, tâm điểm chú ý dồn về Bồ Đào Nha và Tây Ban
Nha, hai nước được nhiều nhà kinh tế đặt vào vòng nguy hiểm. Nhưng trong
Eurozone vẫn có một số nước khác đang đứng trước khả năng rơi vào khủng hoảng
nợ công như Italia và Bỉ, thậm chí Hà Lan, Áo và Phần Lan.
Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Trung ương Italia công bố ngày
13/10/2010, nợ công của nước này đã lên mức kỷ lục mới trong tháng 8 vừa qua với
hơn 1.840 tỷ euro. Chính phủ thông báo đến hết năm 2010, nợ công của họ sẽ tăng
lên 118,5% GDP và tiếp tục tăng lên 119,2% GDP trong năm 2011 trước khi giảm
xuống còn 117,5% GDP vào năm 2012 và 115,2% vào năm 2013. Đối với trường
hợp của Bỉ, Báo cáo Ổn định Tài chính Toàn cầu do IMF công bố vào tháng 10 vừa
qua cho biết, nợ công của nước này năm 2010 sẽ đạt mức 100,2% GDP, trong
Eurozone chỉ đứng sau Hy Lạp và Italia. Năm 2011, nợ công của Bỉ vẫn giữ ở mức
100% GDP và đến năm 2012 mới bắt đầu giảm xuống.
Các nhà phân tích cho rằng, giai đoạn này giới đầu tư chủ yếu bán tháo
TPCP của các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hy Lạp và Ailen, nhưng không loại
trừ Italia và Bỉ sẽ trở thành mục tiêu tiếp theo.
2.3 Hậu quả của khủng hoảng nợ công châu Âu
25
Khi nợ công tăng cao, vượt quá xa giới hạn được coi là an toàn, nền kinh tế
rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên ngoài. Xung quanh
diễn biến về cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu với tâm chấn là Hy Lạp và hiện
đang có nguy cơ lan tỏa sang nhiều nền kinh tế khác, có thể thấy những hậu quả mà
cuộc khủng hoảng để lại như sau:
+ Khủng hoảng nợ công đã làm cho tình trạng thất nghiệp ở các nước châu
Âu ngày càng tăng, thể hiện qua tỷ lệ thất nghiệp tại Eurozone vẫn liên tục tăng và
đạt mức cao nhất 10,3% trong tháng 10/2011 với 16,3 triệu người không có việc
làm, mức cao nhất kể từ năm 1995 đến thời điểm này. Trong đó, Tây Ban Nha có tỷ
lệ thất nghiệp cao nhất khối với mức 22,8% và Italia là 8,5%.
+ Khi khủng hoảng nợ xảy ra, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách
"thắt lưng buộc bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để
được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, "thắt lưng
buộc bụng" lại dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của quần chúng, gây căng
thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người nghèo, những người yếu thế trong
xã hội là những người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm phúc lợi, cắt
giảm chi tiêu của Chính phủ. Chẳng hạn, để được nhận gói cứu trợ nhằm giải quyết
khủng hoảng nợ, Chính phủ Hy Lạp đã phải quyết định tăng nhiều loại thuế, từ thuế
giá trị gia tăng đến thuế thu nhập, thuế bất động sản; và đánh thuế vào nhiều sản
phẩm như rượu, thuốc lá…, đồng thời chấp nhận áp dụng các biện pháp cắt giảm
chi tiêu mạnh tay. Để phản đối chính sách này của Chính phủ, các cuộc tổng đình
công đã diễn ra, hàng chục ngàn người đã tham gia biểu tình trên khắp đất nước Hy
Lạp, nhất là tại thủ đô Athen.
+ Khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu
phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà Chính phủ các nước đã chi ra
trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư,
kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng, thậm chí có thể
đẩy nền kinh tế vào "khủng hoảng kép". Nghiêm trọng hơn, việc tung ra các gói
26
kích thích kinh tế chính là một trong những nguyên nhân làm tăng nợ công của các
Chính phủ. Vấn đề đặt ra cho các Chính phủ là phải chèo lái để giải quyết được
thâm hụt ngân sách nhưng không đẩy nền kinh tế trở lại tình trạng suy thoái, trong
khi các biện pháp để giải quyết hai vấn đề này lại có tác động không thuận chiều.
+ Nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của
các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin của
người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn
công của các thế lực đầu cơ quốc tế. Thí dụ, đối với Hy Lạp, khi tổ chức xếp hạng
tín dụng Standard & Poor’s hạ bậc tín nhiệm đối với TPCP của Athen, các quỹ đầu
tư lớn lập tức bán ra loại trái phiếu này, đồng thời từ chối mua vào trong các đợt
phát hành tiếp theo. Nếu Chính phủ muốn huy động tiền từ thị trường tài chính sẽ
phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó, rơi vào vòng xoáy: tiếp tục bị tụt bậc
tín nhiệm. Việc đưa ra xếp hạng tín nhiệm trong thời điểm nhạy cảm, dễ tổn thương
của nền kinh tế có nguy cơ làm cho cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng, có tác dụng
như một "cú huých", đẩy nền kinh tế lún sâu thêm vào khó khăn, bế tắc.
+ Cùng với áp lực đang gia tăng từ thất nghiệp, thâm hụt NSNN và chi tiêu
công, cũng như sự mất giá của TPCP, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã làm
tổn thất hàng ngàn tỷ USD thu nhập tài chính của các nước thành viên EU, khiến
nhiều chính trị gia mất ghế, gây nhiều tranh cãi và những chi phí giải cứu tốn kém
hàng trăm tỷ EUR, làm suy giảm nặng nề thêm nền kinh tế khu vực, cũng như thị
trường tài chính-tiền tệ khu vực và thế giới.
+ Ngoài ra, khủng hoảng nợ công châu Âu cũng đã ảnh hưởng tới các nền
kinh tế khác trên thế giới. Một trong những nền kinh tế của thế giới chịu ảnh hưởng
lớn từ cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đó là Mỹ, quốc gia có nhiều sự ràng
buộc về mặt kinh tế, thương mại và tài chính với các nước Eurozone.
2.4 Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công tại châu Âu
2.4.1 Nguyên nhân nhìn từ quá khứ
27
Mỗi khi nền kinh tế suy thoái thì nợ công bắt đầu tăng vọt. Và mỗi khi có
bầu cử nợ công lại leo thang. Lý do vì Chính phủ không nhìn nhận và tìm giải pháp
lâu dài cho vấn đề nợ công, mà chỉ chú tâm vào những giải pháp tạm thời, miễn sao qua khỏi kỳ bầu cử là được.2
Năm 1973, các nước OPEC ngưng xuất khẩu dầu sang các nước ủng hộ
Israel trong cuộc chiến tranh Yom kipper chống lại Ai Cập và Syria (gồm Mỹ, Nhật,
Tây Âu), tạo nên cuộc khủng hoảng dầu mỏ đẩy nền kinh tế Âu Mỹ chìm vào suy
thoái. Đó cũng là lúc Âu Mỹ tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển hướng từ sản xuất
công nghệ sang tài chính dịch vụ, và nhường lĩnh vực phát triển công nghiệp cho
những nước châu Á mới nổi.
Năm 1990, ngành tài chính dịch vụ phát triển mạnh mẽ nhưng hầu hết đều
dựa trên kẽ hở của thị trường, thiên về đầu cơ tài chính làm thổi phồng những “bong
bóng tài sản”, tạo ra viễn cảnh giàu có “ảo”, cho nền kinh tế Âu Mỹ. Hậu quả làm
nảy sinh nhiều bất ổn trong cơ cấu ngành nghề, phân khúc giàu nghèo và số người
thất nghiệp tăng lên, phải sống nhờ vào sự hỗ trợ của Chính phủ. Kết quả là tình
trạng nợ công ngày càng chồng chất, và tiếp theo là cuộc khủng hoảng kinh tế tài
chính toàn cầu. Chính phủ đành vay tiền để mua thời gian, cầm chừng qua cơn hấp
hối.
Năm 2008, thế giới lại khủng hoảng, và Chính phủ các nước lại tiếp tục áp
dụng chính sách cũ: huy động tiền để hỗ trợ các hoạt động tín dụng, doanh nghiệp
và trợ giúp khối lao động thất nghiệp. Trong khi đó, trái phiếu của các lần phát hành
trước đó đã đến hạn phải trả cả vốn lẫn lãi, khiến cho gánh nặng nợ nần tích tụ mấy
chục năm qua tiếp tục chồng chất.
Thêm vào đó các hoạt động đầu cơ bằng các công cụ tài chính cực kỳ nguy
hiểm như credit default swaps (hợp đồng hoán đổi nợ xấu) diễn ra sôi nổi, nhằm
2 Nguồn:http://cfoviet.com
đánh cược cho một sự sụp đổ tài chính rất có khả năng xảy ra. Những kẻ đầu cơ lớn
28
nhất hiện nay lại chính là các Ngân hàng Trung ương, họ đã vượt qua các quỹ
phòng hộ Hedge funds về quy mô giao dịch tiền tệ.
Dù nhận thức được bất hợp lý trong việc chuyển sang mô hình kinh tế thiên
về tài chính dịch vụ, nhưng các Chính phủ vẫn “ngựa quen đường cũ” với nền kinh
tế ảo, chỉ giải quyết tạm thời bằng cách vay nợ mới gối đầu trả nợ cũ và ném phao
cứu hộ cho những ngân hàng đang sắp chết đuối.
2.4.2 Nguyên nhân khủng hoảng hiện tại
Bên cạnh những lý do khác biệt và diễn biến khác nhau đối với từng quốc gia
cụ thể, có thể nói, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu vừa qua có chung nguyên
nhân chủ yếu như là hệ quả của việc tăng chi, giảm thu NSNN (do cuộc khủng
hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu khởi đầu từ Mỹ năm 2008). Thói quen
"chi nhiều hơn thu" kéo dài và hệ thống phúc lợi xã hội ngày càng phình to. Ðể đối
phó cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, châu Âu dễ dàng vay mượn quá
mức, không tương thích tốc độ tăng trưởng kinh tế và vì thế đẩy tình trạng thâm hụt
ngân sách và mức nợ công tăng chóng mặt, vượt khả năng kiểm soát.
Hơn nữa, cuộc khủng hoảng này còn có nét chung như là tác động nhân quả
của chính sách chi tiêu công thiếu kiểm soát chặt chẽ (chi tiêu thiếu hợp lý, mất
kiểm soát các hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng...), khả năng quản trị công
yếu kém và thiếu minh bạch trong từng quốc gia, cũng như của những khuyết tật
bộc phát ngay trong cơ chế nội bộ của tổ chức liên kết kinh tế - tiền tệ khu vực vốn
được coi là lớn mạnh và thành công nhất hành tinh này.
Các nước rơi vào tình trạng khủng hoảng là do họ đã quá ảo tưởng về sức
mạnh của quốc gia. Dĩ nhiên không phải Chính phủ Hy Lạp hay Ireland không
lường trước được hậu quả của những khoản nợ, nhưng chính tâm lý ảo tưởng đã dẫn
đến vay nợ tràn lan, đầu tư quá trớn. Cũng vì ảo tưởng mà lơ là quản lý và thiếu
kiểm soát kinh tế vĩ mô. Thái độ thiếu trách nhiệm của những người lãnh đạo không
chỉ khiến các thế hệ con cháu phải oằn lưng trả nợ, mà ngay lập tức các nước này đã
29
phải cầu viện các khoản cứu trợ với điều kiện ngặt nghèo từ Liên minh châu Âu và
Quỹ tiền tệ quốc tế. Như vậy, họ cũng đã đánh mất “chủ quyền tài chính quốc gia”.
Châu Âu luôn tự hào là những thể chế minh bạch, cho phép người dân có thể
giám sát mọi hoạt động của chính quyền, lại phải học thêm bài học về tăng cường
minh bạch. Nhiều Chính phủ đã không làm tròn trách nhiệm trong chi tiêu những
đồng tiền thuế của người dân một cách hợp lý và minh bạch. Vì thiếu sự minh bạch
ấy, các cơ quan có vai trò giám sát như Quốc hội, các tổ chức xã hội, công chúng...
không có đủ thông tin và không thể phản biện, hành động kịp thời. Khủng hoảng nợ
công châu Âu là do Chính phủ không minh bạch các số liệu, Chính phủ cố gắng vẽ
nên bức tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân sách về những chính sách sắp ban
hành để khắc phục những khó khăn về ngân sách hay vấn đề kinh tế vĩ mô dẫn đến
hiệu lực của những chính sách đó bị hạn chế nhiều.
Ngoài ra, khủng hoảng nợ công châu Âu là một cuộc khủng hoảng bị phóng
đại bởi một số quỹ đầu tư có ý đồ xấu trên thị trường vốn quốc tế và các phương
tiện truyền thông. Mục đích của ý đồ này là một mặt chống lại đồng EUR và tạo ra
sự bất ổn cho toàn bộ nền kinh tế châu Âu; mặt khác muốn xoay chuyển đồng USD
theo chiều hướng suy yếu trên thị trường tài chính quốc tế, nhằm bảo vệ ngôi vị bá
chủ tiền tệ thế giới của đồng Mỹ kim.
2.5 Tác động của khủng hoảng nợ công châu Âu đến Việt Nam và bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam
2.5.1. Tác động của khủng hoảng châu Âu đến Việt Nam
Ảnh hưởng của khủng hoảng nợ công châu Âu đến nền kinh tế Việt Nam là
không quá lớn, được đánh giá qua một số tiêu chí sau:
+ Xuất khẩu giảm: Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt hệ quả
tất yếu như: tốc độ phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, châu Âu sẽ phải chứng kiến
tình hình thất nghiệp và lạm phát tăng cao, đồng EUR mất giá, tăng trưởng GDP
giảm sút, làm cho thu nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu
giảm mạnh.
30
Về vấn đề này, một số quan điểm cho rằng hàng hoá giá rẻ là ưu thế của Việt
Nam, do đó cuộc khủng hoảng nợ công sẽ giúp hướng người dân châu Âu chuyển từ
hàng hoá cao và trung cấp sang hàng hoá do Việt Nam sản xuất. Tuy nhiên, những
số liệu tính toán từ mô hình ước lượng cho thấy, cuộc khủng hoảng nợ công châu
Âu sẽ có những tác động tiêu cực đến xuất khẩu và tăng trưởng GDP của Việt Nam,
với mức suy giảm khoảng 1,7% GDP trong năm 2010, cao thứ ba chỉ sau Trung
Quốc (2,8%) và Anh (1,9%). Nếu không có những chính sách phản ứng kịp thời hỗ
trợ xuất khẩu thì triển vọng trung hạn đối với xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp nhiều
khó khăn.
+ Lãi suất thấp ở các nước, trong khi ở Việt Nam lãi suất cao sẽ bất lợi về chi
phí cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng
hoảng nợ công, nhiều Ngân hàng Trung ương các nước phát triển vẫn duy trì mức
lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát
trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước : FED
(Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%; BOE (Anh): 0,5%; Nhật Bản 0,1%. Ngược lại ở Việt
Nam, lãi suất huy động lẫn lãi suất cho vay vẫn đứng ở mức cao. Các doanh nghiệp
phải vay vốn với lãi suất khoảng 14-16%/năm với kỳ hạn ngắn và khoảng 14,5-
17%/năm với kỳ hạn trung, dài hạn. Nếu tính đến lạm phát ước cho năm 2010 là
dưới 10%, doanh nghiệp phải đạt mức tỉ suất lợi nhuận trên 24-27%, là mức cao so
với tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân của các ngành trong năm 2009
(khoảng 20%).
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giảm: Khủng hoảng nợ công châu Âu có
thể tạo ra hai tác động trái chiều hoàn toàn với luồng vốn FDI trên phạm vi toàn
cầu. Những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ
hưởng lợi do nguồn vốn FDI dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà
đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các
quốc gia châu Âu. Ngược lại, các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại
hoàn toàn không được hưởng lợi từ việc dịch chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu
31
do sự chênh lệch quá lớn về trình độ công nghệ, trong khi luồng vốn từ các nhà đầu
tư châu Âu vào các quốc gia này giảm sút do cuộc khủng hoảng nợ.
+ Khủng hoảng nợ công châu Âu làm tăng thêm nguy cơ rủi ro tài chính cho
nền kinh tế thế giới và Việt Nam cũng sẽ bị ảnh hưởng. Theo các chuyên gia kinh
tế, các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn trước nguy
cơ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng, làm cho giá vàng trong thời
gian qua tăng mạnh, lên mức trên 1.400 USD/ounce. Điều này phản ánh nhu cầu về
dự trữ an toàn hơn so với tiền giấy, sau khi nhiều cá nhân và tổ chức ở châu Âu,
châu Á đua nhau mua vàng, bạch kim và bạc. Điều này sẽ tác động xấu đến đầu tư
toàn thế giới và Việt Nam bởi một khi vàng chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục đầu
tư của các tổ chức thì cũng đồng nghĩa với việc các danh mục khác như cổ phiếu,
trái phiếu sẽ bị giảm mạnh. Như vậy, luồng vốn đầu tư gián tiếp càng trở nên hạn
chế.
+ Bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS) xu hướng tăng lên; Vấn đề Hy Lạp đang
làm cho các nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận trọng hơn với các quốc gia có
vấn nạn tương tự: 3 số liệu cảnh báo bao gồm: nợ quá nhiều, thể hiện ở tỉ lệ nợ trên
GDP cao; chi tiêu quá mức, thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách lớn so với GDP; và
tốc độ tăng trưởng GDP sụt giảm. Hệ quả là Việt Nam với tỉ lệ nợ cao, thâm hụt
ngân sách triển miên đang bị các tổ chức tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao,
với mức CDS là 263, xếp ngay trên Hy Lạp (321) và Iceland (466). Điều này sẽ là
một cản trở rất lớn trong việc thu hút các luồng vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp và
cho vay từ nước ngoài.
+ Khủng hoảng nợ công châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về
tỷ giá. Đồng USD và đặc biệt là đồng JPY sẽ tiếp tục đà tăng giá mạnh so với đồng
EUR do tính an toàn từ phía các đồng tiền này. Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu
hiệu nghiêm trọng, đồng EUR mất giá tương đối so với USD đã tạo ra những rủi ro
nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng
như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại. Ngoài ra, đồng USD
32
tăng giá mạnh trong khi thâm hụt thương mại của Việt Nam đang gia tăng, cộng với
thời điểm đáo hạn của các khoản vay tín dụng ngoại tệ, sẽ gia tăng sức ép tăng rủi
ro hối đoái và biến động tỷ giá vào các tháng cuối năm 2010.
2.5.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Khủng hoảng nợ công và sự sụp đổ của hai nền kinh tế từng được coi là
những hình mẫu tăng trưởng của châu Âu là những bài học nhãn tiền đối với tất cả
các nước, bất kể là giàu hay nghèo. Đối với Việt Nam, sự sụp đổ của Hy Lạp đã
mang lại bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá, nhất là khi Việt Nam đang đối mặt
với những vấn đề gần như tương tự. Cụ thể là:
+ Phải luôn cảnh giác các dấu hiệu xấu với nền kinh tế để có giải pháp đủ
mạnh khắc phục: Hy Lạp đã có 15 năm liên tục đạt tốc độ phát triển cao và giành
nhiều thành tựu nhất định nhưng khi lâm vào khủng hoảng năm 2009 mà dấu hiệu
cụ thể là các khoản vay vượt quá 100% số tiền dự trữ và nợ công lên đến 127% so
với GDP, Hy Lạp đã không thể ra khỏi khó khăn, tự mình quyết định số phận mà
phải trông đợi sự giúp đỡ của EU và IMF.
+ Cần đào tạo đội ngũ quản lý và lao động chăm chỉ, cần cù và năng suất
hơn: Tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ đạt thành tựu xuất sắc về kinh tế đều có
lượng lao động làm việc gắn bó, hết mình, tận tụy, hiệu quả vì công việc như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan... Người Việt Nam tự đánh giá và cũng được
nhận xét là cần cù, chăm chỉ nhưng nếu so với thời gian lao động và hiệu quả của
Hàn Quốc, Nhật Bản, thậm chí Hy Lạp thì Việt Nam vẫn bị rớt lại phía sau cả về
thời gian lao động lẫn chất lượng lao động.
+ Lưu ý tiếp theo của vấn đề này là nhìn vào những điều kiện do EU và IMF
đưa ra để Hy Lạp thực hiện, Việt Nam sẽ thấy cần phải triệt để không để thâm hụt
ngân sách lớn và nợ công tăng quá cao, quá nhanh. Cụ thể, Hy Lạp là đối tượng
kiểm tra hàng quý của EU và IMF, Hy Lạp phải giảm thâm hụt ngân sách 5% trong
năm tài chính 2010, tới năm 2014 giảm 3% thâm hụt ngân sách, tỷ lệ nợ công so với
GDP phải duy trì ở mức 115-140%. Các biện pháp khác bao gồm tăng thuế giá trị
33
gia tăng từ 21-23%, tăng thuế 10% đối với nhiêu liệu, thuốc lá, đồ uống có cồn, bất
động sản.
+ Cũng tương tự như Hy Lạp, thâm hụt thương mại của Việt Nam luôn duy
trì ở mức cao và kéo dài. Một tỷ lệ khá lớn vốn tài trợ cho thâm hụt cũng đến từ bên
ngoài, trong đó số tiền vay nợ (ODA, vay thương mại, phát hành TPCP quốc tế)
ngày càng lớn. Dù tỷ lệ nợ công/GDP vẫn ở mức an toàn, nhưng tỷ lệ này đang
ngày càng tăng nhanh và sẽ nhanh chóng tiệm cận mức giới hạn an toàn.
+ Bài học kinh nghiệm cần rút ra cho các quốc gia về vấn đề nợ công là cần
phải gấp rút tổng kết và đánh giá chính xác tình trạng nợ công. Vay nợ để đầu tư
cho tăng trưởng kinh tế là điều bình thường. Tuy vậy, nợ bao nhiêu là an toàn lại là
một bài toán khó giải. Nợ hơn 100% GDP đã đủ làm sập nền kinh tế Hy Lạp nhưng
nợ 200% GDP như Nhật Bản lại vẫn chưa bị coi là nguy hiểm. Chính vì vậy điều
quan trong nhất là làm sao để quản trị tốt, sử dụng đồng tiền vay hiệu quả.
+ Đối với các quốc gia giàu có, những nước mà người ta nghĩ rằng không
bao giờ phải rơi vào thảm cảnh khốn cùng của một con nợ, bài học lớn nhất là đừng
quá ảo tưởng về sức mạnh quốc gia. Thời gian qua Việt Nam cũng đã quá ảo tưởng
về sự tăng trưởng, phát triển của mình nhưng điều đó là không phù hợp. Đã đến lúc
Việt Nam phải nhìn thẳng vào sự thật, nghiêm túc nhận ra những khuyết điểm và
tích cực khắc phục những thiếu sót để đưa nền kinh tế quốc gia phát triển theo
hướng bền vững.
+ Phải quản lý nợ công thật chặt chẽ, thường xuyên giám sát hệ thống tài
chính tiền tệ, nghiêm ngặt trong chính sách tài khoá- tức là ngân sách . Việc đảm
bảo chi tiêu là không dễ với các nước giàu, lại càng khó với các nước đang phát
triển có nền kinh tế hạn chế. Không thể vì mục tiêu phát triển trước mắt mà thiếu
tính toán về dài hạn. Sự sụp đổ của nền kinh tế Argentina - quốc gia từng được Quỹ
Tiền tệ quốc tế ngợi ca là một hình mẫu tăng trưởng- cảnh báo các nước đang phát
triển về hiểm hoạ do phát triển “quá nóng”, đầu tư tràn lan, thiếu tính toán. Do vậy
34
các quốc gia phải tìm ra mô hình sáng tạo, phù hợp, không nên bám vào những thói
quen quản lý lạc hậu không phù hợp với sự tiến bộ xã hội.
+ Cuối cùng, một bài học lớn phải được rút ra trong suốt quá trình quản lý,
ngăn chặn bùng nổ nợ công, cho đến giải quyết hậu quả trong trường hợp vỡ nợ là
bài học “Tự lực cánh sinh”, khi ấy sẽ biết quý và thận trọng từng đồng tiền trong
chi tiêu. Không lúc nào được lãng quên vấn đề sử dụng vốn vay sao cho hiệu quả,
bởi đó là những đồng tiền vay mượn, phải trả lãi và đến hạn sẽ phải trả nợ.
+ Mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào nguồn vốn đầu tư bên ngoài sẽ dễ
bị tổn thương nếu kinh tế thế giới ngưng trệ. Việt Nam hiện có tỷ lệ đầu tư/GDP
trong những năm gần đây đều ở mức trên 40%. Đây là một tỷ lệ rất cao so trung
bình các nước trong khu vực và trên thế giới. Với việc dòng vốn đầu tư nước ngoài
chiếm một tỷ lệ quá lớn trong cơ cấu vốn đầu tư, nền kinh tế Việt Nam sẽ rất dễ bị
tổn thương một khi kinh tế thế giới ngưng trệ.
+ Kinh nghiệm trong vấn đề nợ công cho các quốc gia cần phải có những đúc
rút kinh nghiệm quý báu từ Đức, Hàn Quốc, Singapore, Nhật bản, Anh, Norway,..
để áp dụng vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Qua đó, các nước trong đó có
Việt Nam có cơ hội soi rọi lại vấn đề này để có những quyết sách đúng đắn. Yếu tố
quan trọng nhất để kiểm soát và hạn chế nợ công vẫn là vai trò quản lý của con
người, sự minh bạch và trong sáng trong tư duy của người có chức có quyền. Cuối
cùng là hãy làm vì lợi ích quốc gia, đừng đánh mất “chủ quyền tài chính” như Hy
Lạp và Ireland.
Có thể nói khủng hoảng nợ công châu Âu là bài học quý giá cho Việt Nam
và các quốc gia khác trên toàn thế giới. Tuy nhiên, từ bài học kinh nghiệm này, các
nhà lãnh đạo đất nước sẽ nhìn nhận như thế nào về tình hình nợ công của Việt Nam
để đưa ra những chính sách phù hợp. Nhất là trong thời điểm hiện nay, khi mà nợ
công của Việt Nam đang có những bất ổn nhất định do ảnh hưởng của khủng hoảng
kinh tế thế giới và khủng hoảng nợ công châu Âu.
35
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Nghiên cứu khủng hoảng nợ công châu Âu đã làm rõ hơn các vấn đề về
khủng hoảng nợ công ở nhiều khía cạnh. Ứng với đặc điểm của từng nền kinh tế
khác nhau có thể thấy được diễn biến khác nhau của cuộc khủng hoảng. Nhưng nhìn
chung, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu về bản chất là cuộc khủng hoảng chính
trị tác động đến kinh tế và là biểu hiện của khủng hoảng niềm tin. Trong một quốc
gia, nếu chính trị ổn định, có sự thống nhất cao trong đường lối chính sách của nhà
nước thì đây sẽ là động lực để phát triển kinh tế xã hội. Ngược lại, tình hình chính
trị bất ổn, các chính sách của Nhà nước gây khó khăn cho đời sống người dân sẽ tạo
ra tâm lý bất mãn, người dân mất đi niềm tin vào Chính phủ. Điều này làm cho cơn
khủng hoảng của quốc gia càng thêm trầm trọng. Đối với châu Âu hiện nay, chỉ có
lấy lại niềm tin của dân chúng và các nhà đầu tư mới mong thoát khỏi khủng hoảng
nợ công và khôi phục tăng trưởng kinh tế. Với Việt Nam, chúng ta tập hợp gần như
đầy đủ các vấn đề được coi là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công châu Âu.
Đã đến lúc Chính phủ cần nhìn nhận vào thực tế để đưa ra các giải pháp hợp lý và
không được chủ quan trong công tác ngăn ngừa khủng hoảng nợ công.
36
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2006 - 2012
3.1 Các chỉ tiêu giám sát nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia
Hệ thống các chỉ tiêu an toàn về nợ công và chỉ tiêu xác định tình trạng nợ
công của mỗi quốc gia có thể không giống nhau, tùy theo quan điểm về nợ công của
mỗi nước. Ở Việt Nam hệ thống các chỉ tiêu giám sát nợ công và nợ nước ngoài của
quốc gia được quy định tại Điều 7 Nghị định số 79/2010/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 14/7/2010 về nghiệp vụ quản lý nợ công. Cách tính các chỉ tiêu được hướng
dẫn cụ thể qua Thông tư số 56/2011/TT-BTC.
3.1.1 Phương pháp xác định các chỉ tiêu giám sát nợ công
3.1.1.1. Nợ công so với GDP
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ công so với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế
và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tổng dư nợ công tại thời điểm 31/12
Chỉ số này được tính như sau:
= x 100% Tỷ lệ nợ công so với GDP GDP luỹ kế đến 31/12
3.1.1.2. Nợ Chính phủ so với GDP
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ Chính phủ so với thu nhập của toàn bộ nền
kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Chỉ số này được tính như sau:
Tổng dư nợ của Chính phủ tại thời điểm 31/12
= x 100% Tỷ lệ nợ của Chính phủ so với GDP GDP luỹ kế đến 31/12
3.1.1.3. Nợ vay thương mại nước ngoài của Chính phủ so với GDP
37
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ vay thương mại nước ngoài Chính phủ so
với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Chỉ số này được tính như sau:
Tổng dư nợ thương mại nước ngoài Chính phủ tại thời điểm 31/12 = x 100% Tỷ lệ nợ vay thương mại nước ngoài của Chính phủ so với GDP GDP luỹ kế đến 31/12
3.1.1.4. Nợ được Chính phủ bảo lãnh so với GDP
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ được Chính phủ bảo lãnh so với thu nhập
của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Chỉ số này được tính như sau:
Tổng dư nợ được Chính phủ bảo lãnh tại thời điểm 31/12 x100% = Tỷ lệ nợ được Chính phủ bảo lãnh so với GDP GDP luỹ kế đến 31/12
3.1.1.5. Nghĩa vụ nợ Chính phủ so với thu NSNN
+ Nghĩa vụ trả nợ (gốc, lãi, phí) của Chính phủ đối với các khoản vay về để
cân đối ngân sách:
Chỉ số này xác định quy mô nợ của Chính phủ đối với các khoản vay về để
cân đối ngân sách đến hạn hàng năm so với khả năng trả nợ của Chính phủ bằng
nguồn thu NSNN và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Chỉ số này được tính như sau:
Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với các khoản vay về để cân đối ngân sách luỹ kế đến 31/12 x 100% =
Tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với các khoản vay về để cân đối ngân sách so với thu NSNN Thu NSNN luỹ kế đến 31/12
38
+ Nghĩa vụ trả nợ (gốc, lãi, phí) của Chính phủ đối với các khoản vay về cho
vay lại:
Chỉ số này xác định quy mô nợ gián tiếp của Chính phủ đến hạn hàng năm so
với nguồn thu NSNN.
Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với các khoản cho vay lại luỹ kế đến 31/12
Chỉ số này được tính như sau:
= x 100%
Tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với các khoản vay về cho vay lại so với thu NSNN Thu NSNN luỹ kế đến 31/12
3.1.1.6. Nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ so với thu NSNN
Tỷ lệ này xác định quy mô của nghĩa vụ nợ dự phòng phát sinh từ khoản vay,
phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh so với nguồn thu NSNN và được tính
tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Chỉ số này được tính như sau:
Nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ luỹ kế đến 31/12 x 100% = Tỷ lệ nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ so với thu NSNN Thu NSNN luỹ kế đến 31/12
3.1.1.7. Nợ chính quyền địa phương so với GDP
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ của tất cả Chính quyền địa phương so với
thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tổng dư nợ của tất cả các địa phương tại thời điểm 31/12
Chỉ số này được tính như sau:
x 100% = Tỷ lệ nợ của địa phương so với GDP GDP luỹ kế đến 31/12
3.1.2. Phương pháp xác định chỉ tiêu giám sát nợ nước ngoài
39
3.1.2.1. Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP
Chỉ số này phản ánh tương quan giá trị dư nợ nước ngoài của quốc gia so với
thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tổng dư nợ nước ngoài của quốc gia tại thời điểm 31/12
Chỉ số này được tính như sau:
x 100% = Tỷ lệ nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP GDP luỹ kế đến 31/12
3.1.2.2. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài (gốc, lãi, phí) của quốc gia hàng năm
so với kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ
Chỉ số này phản ánh khả năng hoàn trả nợ nước ngoài từ nguồn thu xuất
khẩu hàng hoá và dịch vụ, qua đó phản ánh tính thanh khoản của nợ nước ngoài và
được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia luỹ kế đến 31/12
Chỉ số này được tính như sau:
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ luỹ kế đến 31/12
x 100% = Trả nợ nước ngoài của quốc gia so với XK HH&DV
3.1.2.3. Dự trữ ngoại hối nhà nước so với nợ nước ngoài ngắn hạn
Chỉ số này phản ánh khả năng sử dụng dự trữ ngoại hối nhà nước để trả các
khoản nợ nước ngoài ngắn hạn và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Chỉ số này được tính như sau:
Dự trữ ngoại hối nhà nước tại thời điểm 31/12 = x 100% Dự trữ ngoại hối nhà nước so với nợ nước ngoài ngắn hạn
Dư nợ nước ngoài ngắn hạn tại thời điểm 31/12
Ngoài các chỉ tiêu giám sát nợ công và nợ nước ngoài, chúng ta còn có các
chỉ tiêu giám sát nợ trong nước. Tuy nhiên, hiện tại ở Việt Nam chưa có quy định
40
cụ thể về các chỉ tiêu này; để đánh giá được tình hình vay nợ trong nước, tác giả sẽ
sử dụng ngưỡng nợ trong nước theo tiêu chuẩn của các nước nghèo có tỷ lệ nợ cao
(viết tắt là HIPCs) (Bảng 3.1).
Bảng 3.1: Ngưỡng nợ trong nước theo tiêu chuẩn của HIPCs
ức ngưỡng
Tỷ lệ M Nợ trong nước/ GDP Nợ trong nước/DBR (3) 20%-25% 92%-167%
Như vậy, với việc Thông tư số 56/2011/TT-BTC được ban hành để hướng
dẫn cụ thể cách tính các chỉ tiêu nợ công, Chính phủ đã quan tâm nhiều hơn đến vấn
đề nợ công của quốc gia. Để có thể quản lý nợ công tốt trong thời gian tới Chính
phủ cần phải đánh giá lại tình hình nợ công của quốc gia và đưa ra những giải pháp
phù hợp để tạo được sự an toàn trong sử dụng nợ công.
3.2 Tình hình vay nợ công
Thông qua các động lực thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam từ 2001 -
2011, có thể khẳng định đầu tư có vai trò cực kỳ quan trọng, trong đó có vai trò của
đầu tư công thông qua việc phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ an sinh xã hội và ổn
định kinh tế vĩ mô. Trong 10 năm qua, tỷ lệ nợ công của Việt Nam so với GDP
ngày càng có xu hướng gia tăng. Tổng số dư nợ công tính đến năm 2011 bằng
54,6% GDP. Trong cơ cấu nợ công thì nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp
đến là nợ được Chính phủ bảo lãnh. Quy mô nợ của chính quyền địa phương chiếm
tỷ trọng tương đối thấp, dưới 1% GDP. Hiện tại, nợ công của Việt Nam vẫn đang
trong giới hạn an toàn, phần lớn các khoản vay nước ngoài của Chính phủ có kỳ hạn
dài, lãi suất cố định và ưu đãi.
3 DBR: viết tắt của cum từ “ thu ngân sách nhà nước”.
Bảng 3.2: Số liệu nợ công của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2012
41
Bảng 3.2 cho thấy, nợ công của Việt Nam không ngừng tăng lên qua các
năm. Cụ thể, năm 2006, nợ công của Việt Nam là 417.960 tỷ đồng, chiếm 42,9%
GDP, năm 2007, nợ công lên tới 521.536 tỷ đồng, chiếm 45,6% GDP, năm 2008 là
651.933 tỷ đồng... Theo báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tính đến ngày
31/12/2008, tổng dư nợ nội địa của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 287.000
tỷ đồng. Nếu tính cả nợ nước ngoài thì đến cuối năm 2008, tổng nợ của khu vực
DNNN xấp xỉ 23,9% GDP, mà tổng dư nợ này lại càng tăng đáng kể trong năm
2009 do chính sách kích cầu của Chính phủ. (xem bảng 3.3)
Bảng 3.3: Gói kích thích kinh tế năm 2009
STT Danh mục
Tạm hoãn thu hồi vốn ứng trước năm 2009
Phát hành bổ sung TPCP Thực hiện chính sách miễn giảm thuế
Giá trị (tỷ đồng) 17.000 1 Hỗ trợ lãi suất 4% 3.400 2 37.200 3 Các khoản vốn ứng trước 4 Chuyển vốn đầu tư từ năm 2008 sang năm 2009 30.200 20.000 5 6 28.000 7.200 7 Các khoản kích cầu khác 8 Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa 17.000 Tổng 160.000(~9 tỷ USD)
(Nguồn: Bộ Tài chính)
So với các nước trong khu vực, tín dụng từ nguồn hệ thống tín dụng nội địa ở
Việt Nam là rất cao; tỷ lệ tín dụng lên tới 121% GDP, nhất là khi nền kinh tế Việt
42
Nam còn ở mức thấp (bảng 3.4). Dựa vào tín dụng thay vì vốn tự có để phát triển
kinh tế dễ đẩy nền kinh tế đến chỗ bong bóng.
Bảng 3.4: Tỷ lệ tổng dư nợ hệ thống tín dụng trên GDP.
ổng dư nợ nội địa trên GDP
T Trung Quốc Ấn Độ Indonesia Malaysia Philippines Singapore Thái Lan Việt Nam
145.9% 75.1% 38.5% 132.1% 51.8% 93.6% 150.0% 120.9% Nguồn: Asian Development Bank (ADB), Key Indicators for Asia and the Pacific 2012
Theo định nghĩa quốc tế nợ công bao gồm nợ theo định nghĩa của Việt Nam
và nợ của các DNNN. Rõ ràng nợ công theo định nghĩa quốc tế là phù hợp với tình
hình Việt Nam hiện nay hơn. Chính vì Nhà nước làm chủ sở hữu của các DNNN do
đó Nhà nước không thể khoanh tay nhìn chủ nợ đòi bán tài sản thu nợ theo đúng
luật phá sản, như thực tế đã diễn ra, nợ của Vinashin đã được chính quyền dồn cho
các DNNN khác phải trả.
Bảng 3.5. Nợ công của Việt Nam năm 2011
T Nợ công theo định nghĩa Việt Nam Nợ của Chính phủ Nợ Chính phủ bảo lãnh Nợ chính quyền địa phương Nợ công theo định nghĩa quốc tế Nợ công theo định nghĩa Việt Nam Nợ của DNNN (trong và ngoài nước) ỷ đồng 1,391,478 1,085,353 292,210 13,915 2,683,878 1,391,478 1,292,400 Tỷ US 66.8 52.1 14.0 0.7 128.9 66.8 62.1 So với GDP 55% 43% 12% 1% 106% 55% 51%
Nguồn và chú thích: Vương Đình Huệ, Bộ Tài chính. Trong nợ nước ngoài của
4 Trích từ: http://www.diendan.org
DNNN có thể có một phần do Chính phủ bảo lãnh cho nên tổng nợ có tính trùng, phải trừ đi khỏi nợ DNNN, cao nhất là 14 tỉ. 4
43
Từ bảng 3.4 cho thấy là tổng nợ công theo định nghĩa quốc tế vào cuối năm
2011 đã là 128.9 tỷ USD bằng 106% GDP (121.7 tỷ USD). Tổng số nợ của DNNN
là 62.1 tỷ USD bằng 55% GDP. Mức trần tỷ lệ nợ công trên GDP không quá 65%
GDP vào năm 2015 mà Chính phủ đề nghị Quốc hội đã bị vượt qua, nếu chúng ta
vẫn không thừa nhận điều này thì chính sách trong tương lai sẽ không thể phù hợp.
Đồng thời theo nguyên tắc tính nợ công, phần nợ trong nước cần phải tính cả
nợ phải trả những người đã và sẽ về hưu, Việt Nam chưa làm điều này. Số nợ sẽ cao
hơn rất nhiều khi lương được trả phù hợp với thực tế. Từ năm 2009, nhà nước phải
chi trả cho 3 triệu người về hưu và có công với cách mạng, và trong vài năm tới đây
con số này sẽ tăng thêm 3,1 triệu người. Việc số lao động nhà nước tăng mạnh trong
nhiều năm qua (bảng 3.6) đã làm chậm khả năng tăng lương cho các đối tượng này.
Nếu số lao động không tăng quá nhiều như thời gian qua, đưa tổng số lao động ăn
lương ngân sách tăng gấp đôi thì lương đã có thể tăng gấp đôi. Và tất nhiên số lao
động mà nhà nước phải trả lương hưu, khi lương được tăng đúng mức, chắc chắn sẽ
là gánh nặng cho nền kinh tế quốc gia, vì thế không thể không tính nó vào nợ công.
Bảng 3.6: Lao động hành chính, an ninh và sự nghiệp ăn lương và hưởng hưu
trí của nhà nước.
Tổng lao động trong hoạt động nhà nước Sự nghiệp (giáo dục, y tế, ...) Quản lý, quốc phòng, an ninh GDP (ngàn tỷ theo giá năm 1994) 1999 1539.3 1190.2 349.1 256272 2009 3163.3 1672.2 1491.1 516568 Tốc độ tăng 106% 40% 327% 102%
Nguồn: Tổng cục thống kê
Như vậy, có thể nói chưa có số liệu về nợ công để đánh giá vì phần nợ trong
nước chưa đầy đủ. Mặc dù vậy vẫn có thể đánh giá tình hình nợ công thông qua các
khoản nợ nước ngoài bởi những tác động của nó đến nền kinh tế quốc gia là rất lớn.
Nợ nước ngoài bao gồm cả nợ của Chính phủ, nợ của doanh nghiệp quốc
doanh và ngoài quốc doanh. Luận văn chỉ tập trung vào nợ của Chính phủ và nợ của
doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh. Tuy thế, có thể ước lượng số nợ của doanh
nghiệp không được Chính phủ bảo lãnh (gồm cả nợ của doanh nghiệp quốc doanh
44
và ngoài quốc doanh); nợ không có bảo lãnh được tính dựa trên cơ sở lấy tổng số nợ
nước ngoài trừ đi số nợ của Chính phủ như phần trình bày ở bảng 3.7.
Bảng 3.7: Nợ nước ngoài của Chính phủ (kể cả được Chính phủ bảo lãnh)
Đơn vị tính: Tỷ đồng USD
2009 36.0 2010 44.1 2011 49,4 2005 16.4 2008 25.9 2007 22.1 2006 18.3
8.1 11.6 12.6 2.7 2.2 2.9 4.1
27.9 32.5 36,8 21.8 14.2 15.6 19.2
27.8% 26.7% 28.2% 25.1% 30.2% 31.1% 30,9%
32.2% 31.4% 32.5% 29.8% 39.0% 42.1% 41.5%
1.291 1.672 2.1
Tổng nợ nước ngoài Nợ doanh nghiệp không có bảo lãnh Nợ của Chính phủ Tổng nợ nước ngoài của Chính phủ/GDP Tổng nợ nước ngoài của nền kinh tế/GDP Nợ phải trả hàng năm (tỷ US) 0.698 0.764 0.886 1.104 Nguồn: Bản tin nợ nước ngoài số 7, Bản tin nợ công số 1.
Tổng số nợ nước ngoài năm 2009 là 36 tỷ USD, trong đó 27.9 tỷ là nợ của
Chính phủ (gồm cả nợ do Nhà nước bảo lãnh) và 8,1 tỷ là nợ doanh nghiệp quốc
doanh và tư nhân không được Nhà nước bảo lãnh. Như vậy nợ của Vinashin, 700
triệu US bán trái phiếu là nằm trong nợ Chính phủ theo định nghĩa của Việt Nam.
Cần để ý là số nợ 8,1 tỷ không được bảo lãnh có lãi suất rất cao so với phần nợ của
Chính phủ, tuy nhiên bản tin không có thông tin về số nợ này.
Tổng số nợ nước ngoài của Việt Nam tăng rất nhanh (trung bình 22%/ năm),
cao hơn nhiều so với mức tăng danh nghĩa của GDP (trung bình 17%/năm). Nhưng
quan trọng hơn là nợ nước ngoài đang tăng tốc, vào năm 2009 tăng ở mức khủng
39% hơn hẳn mức 17% năm 2008 (bảng 3.8). Và đặc biệt quan trọng là nợ của
doanh nghiệp không có bảo lãnh là các khoản nợ có lãi suất thị trường tăng mạnh
hơn nhiều, ở mức 98% năm 2009 so với 39% năm 2008.
Bảng 3.8: Tốc độ tăng nợ nước ngoài của Chính phủ (kể cả được Chính phủ bảo lãnh)
45
2006 2007 2008 2009 2010 2011
12% 22% 21% 7% 17% 39% 39% 98% 23% 43% 12% 8,6% Trung bình năm 20.67% 36,3%
Tổng nợ nước ngoài Nợ doanh nghiệp không có bảo lãnh 10% Nợ của Chính phủ Nợ phải trả của Chính phủ 9% 23% 16% 14% 25% 28% 17% 17% 30% 17.5% 13% 25.6% 20,4%
Nguồn: tính toán của tác giả từ số liệu bảng 3.7
Từ biểu 3.8, việc tăng loại nợ của doanh nghiệp (kể cả quốc doanh và ngoài
quốc doanh, có bảo lãnh hay không bảo lãnh của Chính phủ) tới mức gần 12 tỷ
(8,1+3,8) và đang tăng nhanh là điều đáng lo ngại. Số nợ này có thể nói gần như
toàn bộ là nợ của doanh nghiệp quốc doanh vì chỉ có doanh nghiệp quốc doanh mới
có thể vay mượn được, dù Chính phủ chính thức đứng ra bảo lãnh hay không; lý do
là các ngân hàng và các nhà đầu tư nước ngoài cho vay hay mua trái khoán doanh
nghiệp chỉ vì họ biết rằng chúng là của DNNN do đó Chính phủ có trách nhiệm chi
trả. Việc Chính phủ ký tuyên bố một số tập đoàn nhà nước như Than - Khoáng sản
và Vinashin là công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ xảy ra vào ngày 25 tháng 6 năm
2010 khi Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng thay mặt Thủ tướng ký quyết định QĐ-
TTg 984 và 989. Có lẽ quyết định này ký sau khi công ty Vinashin vay mượn ngân
hàng nước ngoài và các ngân hàng trong nước.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, đến cuối năm 2011, nợ công chiếm 54,6%
GDP, trong đó nợ Chính phủ là 43,6% GDP còn nợ nước ngoài chiếm 41,5% GDP,
tương đương 50 tỉ USD, dự kiến đến hết năm 2012, nợ công khoảng 58,4% GDP,
đến 2015, tổng số nợ công sẽ khoảng 60 - 65% GDP.
Các chuyên gia kinh tế trong nước cũng như các tổ chức quốc tế cho rằng
quy mô nợ của Việt Nam gia tăng nhanh trong giai đoạn 2006 - 2010, và tiếp đà
tăng này trong giai đoạn 2011 - 2015. Theo như IMF dự báo tới năm 2015, nợ công
của Việt Nam sẽ tăng lên 86,2 tỷ USD, nợ nước ngoài cũng tăng tương ứng từ 41,7
tỷ USD lên 73,8 tỷ USD. Rõ ràng là nợ công của Việt Nam đang rất cao mặc dù các
số liệu thống kê vẫn chưa đầy đủ so với thực tế.
46
Nợ công cao nhưng những thành quả do nó mang lại là chưa tương xứng, cần
để ý rằng những đầu tư hôm nay phải được tạo ra bằng các sản phẩm ngày mai thì
sự đầu tư đó mới hiệu quả. Tuy nhiên, từ thực tế sử dụng nợ công hiện nay của Việt
Nam đã lộ ra rất nhiều vấn đề bất cập, thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam là rất
đáng lo ngại bởi những rủi ro do sự biến động của các yếu tố trong nền kinh tế.
3.3 Tình hình sử dụng nợ công
Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển nhanh, nhu cầu về vốn
đầu tư vào các chương trình, dự án trọng điểm của quốc gia là rất lớn. Nguồn vốn
chủ yếu được sử dụng tập trung vào các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn của các nhà đầu tư trong nước lẫn nước ngoài.
Về mặt lý thuyết, mục tiêu của các dự án được đánh giá rất cao, có tầm ảnh hưởng
lớn đến hoạt động kinh tế vùng, miền; tuy nhiên, thực trạng triển khai của các dự án
này lại rất khác nhau, nhìn chung là không mang lại hiệu quả như mong đợi. Đa số
các dự án được triển khai rất chậm, hoặc nếu đúng tiến độ thi công thì chất lượng
không đảm bảo. Thực trạng trên được biểu hiện cụ thể qua hai khía cạnh:
Thứ nhất, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn: có nhiều nguyên nhân
làm chậm trễ trong vấn đề này, các nguyên nhân này xuất phát từ cả hai phía Việt
Nam và các quốc gia chủ nợ.
Về phía Việt Nam: Nguyên nhân là do thiếu vốn đối ứng, giải phóng mặt
bằng chậm, năng lực, cách thức điều hành của ban quản lý dự án ở Trung ương và
địa phương, nhất là các địa phương hay thay đổi. Điển hình việc sử dụng nguồn vốn
ODA hiện nay; ODA là nguồn vốn chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu nợ của Việt Nam, với tỷ lệ 75% tổng số nợ 5, ODA có vai trò to lớn góp phần thúc đẩy tăng trưởng
5 Nguồn: TS. Ngô Thị Tuyết Mai, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 12/2012 .
6 Nguồn: Hội thảo: Tái cơ cấu đầu tư công trong bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế ở Việt Nam (2011).
kinh tế xã hội của quốc gia. Tuy nhiên, ở Việt Nam một dự án ODA phải mất ít nhất một năm, kể từ thời điểm cam kết rót vốn cho đến lúc chính thức giải ngân 6.
47
Sự chậm trễ này rõ ràng là không làm hài lòng các nhà tài trợ quốc tế, bởi nó sẽ ảnh
hưởng đến hiệu quả của các khoản vay. Theo ông Ayumi Konishi, Giám đốc quốc
gia của ADB, các dự án ODA tại Việt Nam rất ít được giải ngân trong hai năm đầu
do những sự chậm trễ trong khâu chuẩn bị và lên kế hoạch dự án. Tính đến cuối
năm 2011, mức giải ngân chỉ chiếm khoảng 47% tổng số vốn cam kết, thấp hơn
mức giải ngân ODA bình quân của các nước trong khu vực; đồng thời, tỷ lệ giải
ngân chỉ đạt 72% so với tổng vốn ký kết.
Ngoài ra, việc phân bổ vốn đầu tư từ NSNN còn dàn trải, số vốn bình quân phân bổ
cho các dự án hàng năm thấp. Việc phân bổ vốn dàn trải dẫn tới việc nhiều dự án bị
kéo dài tiến độ, chậm đưa vào sử dụng, làm gia tăng chi phí đầu tư.
Về phía các quốc gia chủ nợ: vì những thuận lợi và quyền lợi cho họ, nhiều
dự án tài trợ không nhất thiết phải phù hợp với nhu cầu kinh tế và xã hội của Việt
Nam. Chẳng hạn, việc đa số các dự án tập trung vào một số ngành mà các quốc gia
chủ nợ cho rằng có thể mang lại lợi ích kinh tế cao, điều này làm cho các dự án ở
nhiều địa phương có xu hướng phát triển giống nhau, không phát huy được lợi thế
so sánh của từng địa phương trong cả nước. Hay như việc phân bổ nguồn vốn
không đồng đều, thường tập trung ở những khu vực phát triển (bảng 3.9).
Bảng 3.9: Phân phối ODA theo vùng.
Vùng
%vốn ODA $/ đầu người 33.98 18.42 52.46 21.86 25.4 11.19
Trung du và miền núi Bắc Bộ Đồng bằng sông Hồng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng Sông Cửu Long Liên vùng 8.07 13.69 12.82 4.43 15.62 9.36 36.01
(Bộ Tài chính: Báo cáo đánh giá các chương trình dự án ODA gđ 2000- 2007)
Bảng thống kê cho thấy, các vùng được xem là nghèo và cần có hỗ trợ thì
nhận ODA thấp như: vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, Tây Nguyên, Đồng bằng
sông Cửu Long. Ngược lại, những vùng giàu có như Đồng bằng Sông Hồng, Đông
Nam Bộ lại thu hút ODA đổ vào nhiều hơn. Đây là một trong những nguyên nhân
48
chính gây ra tình trạng quá tải trong việc quản trị các dự án ở một số nơi bên cạnh
việc thiếu vốn để triển khai dự án ở những nơi khác.
Thứ hai, hiệu quả đầu tư thấp nhìn từ hệ số ICOR (Incremantal Capital
Output Ratio): ai cũng biết ICOR là chỉ số biểu hiện cụ thể nhất về hiệu quả đầu tư
của nền kinh tế, nó được tính dựa trên lượng vốn bỏ ra để đạt được một đơn vị sản
lượng. Ở Việt Nam, các nhà quản lý vĩ mô thường lấy chỉ số ICOR để đánh giá hiệu
quả đầu tư vào các dự án.
Trong mười năm trở lại đây, ICOR của Việt Nam có xu hướng tăng lên và
luôn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Nếu như hệ số ICOR của giai đoạn
1996 – 2000 tính theo giá hiện hành là 4,7 thì sang giai đoạn 2001 – 2005 hệ số này
trung bình là 5,1 và giai đoạn 2006 – 2010 là 6,1. Có thể so sánh với các quốc gia
đã trải qua giai đoạn phát triển tương đồng thì hệ số ICOR của Việt Nam hiện nay là
rất cao (bảng 3.10). Nguyên nhân của việc gia tăng một phần là do Việt Nam đang
trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế thị trường; đa số vốn được tập
trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng, bao gồm cả cơ sở hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa và
đầu tư cho xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, việc đầu tư
không đem lại hiệu quả kinh tế cao, không gia tăng được sản phẩm tạo ra ở mức
tương xứng; điều này đã đẩy nền kinh tế Việt Nam tới chỗ phát triển chủ yếu dựa
vào vốn đầu tư hay nói đúng hơn là phát triển không bền vững.
Bảng 3.10: ICOR của một số nước trong khu vực
ICOR Quốc gia Giai đoạn
Tăng trưởng GDP (%) 7,9 9,7 6,9 8,1 9,7
lệ đầu Tỷ tư/GDP (%) 23,3 26,3 25,7 33,3 38,3
Hàn Quốc Đài Loan Indonesia Thái Lan Trung Quốc 1961-1980 1961-1980 1981-1996 1981-1995 2001-2006 3,0 2,7 3,7 4,1 4,0
Nguồn: Trích lại từ “Đổi mới đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020”, TS
Vũ Nhữ Thăng, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ tài chính.
49
Việc tăng trưởng quá dựa vào vốn đầu tư, mà chủ yếu là đầu tư công như
hiện tại sẽ đặt nền kinh tế Việt Nam đứng trước những thử thách trong thời gian tới.
Nhất là khi kinh tế trong nước cũng như thế giới có những bất ổn vẫn đang diễn ra;
các nhà đầu tư có thể rút vốn bất cứ lúc nào để bảo đảm sự an toàn cho họ, lúc đó
việc duy trì mức đầu tư cao cho tăng trưởng GDP chắc chắn sẽ gặp khó khăn.
Không phủ nhận việc sử dụng nợ công để đầu tư đã đem lại nhiều lợi ích
kinh tế xã hội cho Việt Nam như tỷ lệ dân số nghèo đói đã giảm bớt, tỷ lệ lao động
thất nghiệp giảm, Việt Nam đã phát triển một số hạ tầng cơ sở mới phục vụ cho
hoạt động kinh tế… Nhưng cũng phải nói rằng những thành quả đó còn hạn chế so
với số nợ quá cao mà các thế hệ tương lai của Việt Nam phải trả. Như đã nói
nguyên nhân của sự kém hiệu quả trong việc sử dụng vốn đầu tư là do nhiều yếu tố.
Với nguồn lực hạn chế nhưng lượng đầu tư quá dàn trải, thiếu tính toán nên dẫn đến
hậu quả là lãng phí vốn đầu tư, làm giảm hiệu quả đầu tư và thậm chí không còn đạt
hiệu quả đầu tư như mục tiêu đặt ra. Nhìn vào thực tế nhiều năm qua cho thấy tỉnh
nào cũng xây dựng cảng biển, tỉnh nào cũng đệ trình kế hoạch làm sân bay, tỉnh nào
cũng làm đặc khu kinh tế… Không chỉ có thế, các hạng mục này đã thu hút nhiều
thành phần tham gia đấu thầu như doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài
và cả các DNNN. Kết quả của chiến dịch này là các tỉnh ven biển, tỉnh nào cũng có
cảng, tỉnh nào cũng có khu công nghiệp; nhưng đa số đều là những dự án dở dang
và đang trong giai đoạn thi công. Từ thực tế này, khỏi cần tính toán cũng có thể
nhận ra rằng một nguồn lực rất lớn, không chỉ có tiền bạc mà còn đất đai, con người
đang bị lãng phí. Những nguồn lực đó đang phải gánh chịu gánh nặng là nợ nần và
phát sinh lãi hàng ngày. Trong khi người nông dân thì mất đất canh tác chuyển từ
làm nông sang làm nhân công cho các nhà máy, công ty với mức lương thấp và
không ổn định. Sự đánh đổi này sẽ tác động nhiều đến đời sống của dân cư trong xã
hội, nó đang ngày một rõ hơn với nạn thất nghiệp của “lao động giá rẻ”, công nhân
kí hợp đồng ngắn hạn không có bảo hiểm, môi trường sống không đảm bảo dễ dẫn
đến các tệ nạn…
Không có ai đem cho không ai cái gì cả, các nước đem tiền cho vay thường
xuất phát từ nhu cầu của họ trước. Trên danh nghĩa thì sự giúp đỡ này nhằm đem lại
lợi ích cho các nước nghèo, nhưng đồng thời nó cũng mang lại cho các nước tài trợ
50
những lợi ích kinh tế, chính trị trong thời gian tài trợ và sau đó. Về kinh tế, nước
nhận tài trợ phải chấp nhận bỏ dần hàng rào thuế quan, ưu tiên cho hàng hóa của
nước tài trợ. Trường hợp của Việt Nam là nước nhận nhiều vốn ODA từ Nhật Bản,
Việt Nam phải nhập cảng ưu tiên các dụng cụ, máy móc thiết bị của Nhật, đặc biệt
là trong lĩnh vực lắp ráp. Ngoài ra, khi triển khai các dự án thì phải có sự tham gia
của các chuyên viên, công nhân của nước tài trợ trong các giai đoạn chuẩn bị và
thực hiện; với mức lương cao ngất ngưỡng, các kỹ sư của Nhật được thuê với chi phí cao hơn giá thị trường 20 – 30% 7.
Hay như hậu quả từ các dự án trồng rừng được thực hiện trên diện rộng;
những cánh rừng tự nhiên mất đi và thay vào đó là các cây công nghiệp được trồng
trên đồi trọc. Lợi ích chưa thấy đâu nhưng hậu quả là đến mùa mưa bão, đồi núi
không có lớp cây che phủ đã bị sạt lỡ, xói mòn nghiêm trọng; lũ lụt gây thiệt hại về
tài sản, tính mạng con người…
Đầu tư công quá mức cũng là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng lấn át đầu tư
của khu vực tư; ngay cả những lĩnh vực, dự án mà tư nhân có thể đảm nhiệm tốt thì
họ cũng không có nhiều cơ hội. Thay vào đó là việc đầu tư của các DNNN với hiệu
quả đầu tư kém, gây thất thoát , lãng phí đã làm mất lòng tin của các chủ đầu tư dẫn
đến việc đình trệ các khoản viện trợ. Xa hơn là hệ lụy đối với mức độ đánh giá tín
nhiệm tín dụng của Việt Nam, theo một tác động dây chuyền, TPCP do Việt Nam
phát hành ra quốc tế có thể phải chịu mức lãi suất cao hơn. Khi đó, nền kinh tế quốc
nội sẽ bị ảnh hưởng đáng kể; nếu như thế thì hậu quả là rất lớn bởi giai đoạn này
nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức.
Như vậy, việc đầu tư không hiệu quả từ các khoản nợ công đã đẩy nền kinh
tế Việt Nam từ chỗ đang phát triển sang trì trệ. Các khoản vay đầu tư hôm nay lẽ ra
phải được trả bằng thặng dư của NSNN trong tương lai thì nay đã dần chuyển thành
các khoản nợ phải trả trong tương lai của nhiều thế hệ.
7 Theo TS Bùi Kiến Thành, info.vn.kinh-te/chinh-sach/
3.4 Tình hình trả nợ công của Việt Nam
51
Như đã nói phần trên, năm 2011, ước tính theo định nghĩa quốc tế, nợ công
của Việt Nam là 128,9 tỷ USD, bằng 106% GDP; theo định nghĩa của Việt Nam là
66,8 tỷ USD, bằng 55% GDP, tức là không tính phần của DNNN là 62,8 tỷ USD,
bằng 51% GDP. Việt Nam đã thông qua Chiến lược quản lý nợ công với việc đặt
mức khống chế là 65%/năm. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, chỉ tiêu này khó thực
hiện được vì quá trình tái cơ cấu kinh tế còn kéo dài và sẽ cần rất nhiều vốn. Mặc dù
vậy, điều các chuyên gia lo ngại nhất không phải là tỷ lệ nợ công/GDP cao, mà là
khả năng trả nợ của Việt Nam.
Từ năm 2006 đến 2011, tình hình trả nợ công của Việt Nam không ổn định
và hầu như không có sự gia tăng đáng kể nào về giá trị, trung bình hàng năm Việt
Nam dành ra trên 3,5% GDP để chi trả nợ và viện trợ. Riêng giai đoạn 2011-2012,
Việt Nam đã trả nợ nước ngoài 100.000 tỷ đồng . Tỷ lệ trả nợ/tổng nợ công giảm
dần qua các năm, từ 9,09% năm 2006 xuống còn 6,53% năm 2010. Trong khi đó
quy mô của các khoản nợ công ngày càng tăng lên với tốc độ chóng mặt với gần
20%/năm; mặt khác, tình hình sử dụng nợ công của Việt Nam còn đang tồn tại
nhiều bất cập như chậm trễ trong giải ngân và sử dụng kém hiệu quả nguồn vốn vay
vào các dự án đầu tư. Điều này tác động tiêu cực tới khả năng trả nợ của Việt Nam
trong tương lai.
Nguồn: Bộ tài chính.
Hình 3.1: tình hình trả nợ và viện trợ của Việt Nam giai đoạn 2006-2010
52
Con số nợ công gia tăng một cách đáng báo động trong giai đoạn 2007-2010,
nợ công của Việt Nam tăng từ 33,8% lên 54,6% GDP. Tốc độ tăng bình quân của
giai đoạn 2007-2010: là 15%/năm. Tốc độ này sắp “bắt kịp” tốc độ tăng thu ngân
sách (17-21%). Điều này đồng nghĩa với việc, vài năm nữa nguồn tăng thu chỉ đủ để
bù trả nợ.
Trong giai đoạn 2001 - 2010, tỷ lệ nợ công của Việt Nam so với GDP có xu
hướng tăng, đạt mức 57,3% năm 2010; trong đó, nợ Chính phủ chiếm khoảng
45,7% GDP. Có thể nói việc gia tăng nợ công của Việt Nam là hệ quả trực tiếp của
tình trạng thâm hụt ngân sách liên tục và kéo dài. Nợ công tăng lên kéo theo lãi phải
trả tăng. Nếu như năm 2006, chi phí trả lãi tiền vay chỉ chiếm khoảng 2,6% tổng chi
NSNN thì đến năm 2010, chỉ tiêu này đã tăng lên ở mức 3,8% tổng chi NSNN (Viện
Chiến lược và Chính sách tài chính, 2011). Chi phí trả lãi lại kéo theo thâm hụt
ngân sách tăng, tạo thành vòng luẩn quẩn trong mối quan hệ giữa thâm hụt ngân
sách và nợ công.
Về tài trợ cho thâm hụt ngân sách, hiện tại ở Việt Nam, nguồn bù đắp cho
thâm hụt ngân sách là từ hai nguồn vay trong nước và vay nước ngoài. Phân tích cơ
cấu nợ vay của Chính phủ cho thấy vay trong nước chiếm từ 80% trở lên tổng nợ
vay, vay nước ngoài chỉ chiếm trên dưới 20% (bảng 3.11). Như vậy, chủ trương của
Chính phủ là hạn chế vay nước ngoài mà chủ yếu là huy động nợ vay trong nước.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là số liệu vay nước ngoài của Chính phủ cho thấy nợ
nước ngoài có xu hướng tăng dần về quy mô và tỷ trọng.
Bảng 3.11: Bội chi NSNN và nguồn tài trợ bội chi ngân sách
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
DT2011
Đơn vị tính: Tỷ đồng
22.895 7.041
25.597 29.936 34.703 40.746 18.382 27.450 7.215 7.253
32.420 8.326
48.613 35.864 12.749
64.567 67.677 51.572 12.995
48.009 19.668
114.442 111.200 121.600 78.150 36.292
98.200 21.000
92.600 29.000
Bội chi NSNN Nguồn bù đắp Trong nước Nước ngoài
Nguồn: Bộ Tài chính (2011)
53
Nợ nước ngoài của Việt Nam khá đa dạng về cơ cấu tiền vay. Về lý thuyết,
điều này được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ
nước ngoài của Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế cơ cấu này cũng tiềm ẩn những
rủi ro khi có biến động trên thị trường tài chính thế giới. Tỷ trọng cao của các khoản
vay bằng USD (22,16%) và JPY (38,83%) gây nguy cơ gia tăng khoản chi gốc và
lãi khi tỷ giá USD/VND luôn có xu hướng tăng; và JPY đang tăng giá so với USD
(Năm 2006: 1USD=116,3 JPY, năm 2010: 1USD=84,11979 JPY). Như vậy khi đến
kỳ trả nợ, Việt Nam sẽ phải dành một lượng USD lớn hơn nhiều để mua JPY trả nợ.
Và chỉ riêng biến động này đã làm gia tăng tổng số nợ nước ngoài và nợ công của
quốc gia.
Việc Chính phủ chủ yếu huy động vay nợ trong nước là một chủ trương hợp
lý. Nhưng khi nền kinh tế đang gặp khó khăn, các nhà đầu tư rất e dè trong việc đầu
tư vào các dự án để tránh gặp phải những rủi ro. Việc bỏ vốn ra đầu tư vào các dự
án của Chính phủ nhưng lại chậm thu hồi được vốn và lời đã làm cho không ít các
doanh nghiệp rơi vào hoàn cảnh khó khăn thậm chí là phá sản. Các doanh nghiệp
khi nhận được đơn đặt hàng của Chính phủ thì họ phải đi vay vốn từ ngân hàng cho
việc triển khai dự án. Vay nợ với lãi suất cao nhưng khi hoàn thành dự án Chính
phủ vẫn chưa trả tiền nên việc các doanh nghiệp lâm vào khó khăn là đương nhiên.
Các khoản nợ này vô hình chung đã trở thành nợ xấu mà nút thắt nằm ở khả năng
thanh toán nợ của Chính phủ. Như vậy, Chính phủ đã tự đánh mất niềm tin của các
nhà đầu tư trong nước đối với mình; điều này lý giải vì sao Chính phủ khó huy động
được nguồn vốn trong dân và phải thay vào đó là các nguồn vốn vay nước ngoài
cho các dự án của mình.
Có thể thấy nợ công của Việt Nam luôn ở mức cao trong thời gian dài tính
đến hết năm 2011, đó là do tình trạng suy thoái kinh tế và vỡ bong bóng bất động
sản, cùng với đó là thâm hụt ngân sách liên tục trong giai đoạn dài. Chính tình trạng
này cộng với việc sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả, giải ngân cho các dự án chậm
trễ đã làm tăng nợ công, nợ xấu lên nhiều. Nhiều DNNN kinh doanh kém lời lãi,
thậm chí thâm hụt quá lớn vốn nhà nước đầu tư, hay bảo lãnh vay như: Vinashin,
54
Vinaline đã làm tăng thêm nợ công, nợ xấu, cũng như mối nguy hại khó trả hết và
đúng hạn của nợ công.
Thanh toán nợ và giữ cho nợ công luôn nằm trong giới hạn an toàn là nhiệm
vụ của mỗi quốc gia. Để làm được điều này thì mỗi quốc gia, Chính phủ cần phải
đánh giá đúng tình hình nợ công và đưa ra những giải pháp hợp lý nhằm kiểm soát
tính ổn định của nợ công. Phần tiếp theo tác giả sẽ phân tích tính ổn định của nợ
công Việt Nam và dự báo tình hình nợ công Việt Nam đến năm 2015.
3.5 Đánh giá tính ổn định của nợ công ở Việt Nam
Nhìn chung nếu dựa vào chỉ tiêu an toàn nợ công do WB công bố thì nợ công
của Việt Nam vẫn trong ngưỡng an toàn. Các chỉ số do Bộ tài chính công bố cũng
cho thấy điều tương tự. Theo dự báo an toàn nợ công của Việt Nam trong năm 2012
bằng dự trữ ngoại hối cho thấy: Việt Nam có đủ nguồn lực để trả nợ gốc lẫn lãi vay
trong năm 2012. Tuy nhiên điều đáng lo ngại là các chỉ tiêu an toàn nợ công của
Việt Nam ngày càng tiến đến mức nguy hiểm trong các chỉ số an toàn của
WorldBank. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng nợ công Việt Nam vẫn đáng lo ngại.
Những con số thống kê hiện tại chưa nói lên hết bản chất của nợ công Việt Nam;
nhìn vào thực tế, cụ thể là các khoản vay của khối DNNN (kể cả bảo lãnh và không
được bảo lãnh) sẽ thấy nợ công đội lên cao hơn rất nhiều so với các con số thống
kê. Nếu Chính phủ vẫn không xem xét triệt để vấn đề này thì trong thời gian tới nợ
công của Việt Nam sẽ gặp nhiều rủi ro khôn lường.
Có hai tiêu chí để đánh giá tính ổn định của nợ công ở Việt Nam là đánh giá
tính ổn định của nợ nước ngoài và đánh giá nợ trong nước.
Đánh giá tính ổn định của nợ nước ngoài: việc đánh giá tính ổn định và mức
độ bền vững của nợ công được thực hiện qua việc đánh giá các chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ nợ nước ngoài/ xuất khẩu (NPV/X): đo lường giá trị hiện tại ròng của
nợ nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của một quốc gia lấy từ nguồn thu xuất
khẩu. Ngưỡng an toàn của tỷ lệ này là 150%.
55
Tỷ lệ nợ nước ngoài/ thu NSNN (NPV/DBR): đo lường giá trị hiện tại ròng
của nợ nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của một quốc gia lấy từ nguồn thu
NSNN. Ngưỡng an toàn của tỷ lệ này là 250%.
Một quốc gia được xem là an toàn nếu như tỷ lệ NPV/X nhỏ hơn 150%; tỷ lệ
NPV/DBR nhỏ hơn 250%. Theo mức ngưỡng của HIPCs (các nước nghèo có tỷ lệ
nợ cao) chỉ tiêu thứ hai chỉ được sử dụng nếu đáp ứng được hai điều kiện: tỷ lệ xuất
khẩu/GDP (X/GDP) phải lớn hoặc bằng 30%; tỷ lệ thu NSNN/GDP (DBR/GDP)
phải lớn hơn 15%.
Qua tính toán ở bảng 3.12 cho thấy, từ năm 2006 đến năm 2011, tỷ lệ
X/GDP của Việt Nam luôn ở mức cao, trung bình là 68,55%; trong khi tỷ lệ
DBR/GDP trung bình bình ở mức 27%, thấp nhất là 24,4% năm 2006. Do đó, Việt
Nam đáp ứng được hai điều kiện: X/GDP > 30% và DBR/GDP > 15%. Trong khi
đó, tỷ lệ NPV/X thấp (NPV/X < 150%), cao nhất là 51,7% vào năm 2011 và tỷ lệ
NPV/DBR < 250%, cao nhất trong giai đoạn này là 154,48% vào năm 2011.
Như vậy, nợ công nước ngoài của Việt Nam đáp ứng được yêu cầu về nợ bền
vững và được đánh giá là vẫn ở ngưỡng an toàn mà Ngân hàng thế giới đưa ra.
Năm
GDP (tỷ đồng)
Xuất khẩu (tỷ đồng)
NPV (tỷ đồng)
NPV/X (%)
X/GDP (%)
DBR (tỷ đồng) 39.20 237900 251121,91 2006 974300.00 640843.40 39.70 2007 1143700.00 783392.50 311840 310832,44 34.56 2008 1485000.00 1041199.50 408080 359841,20 49.50 2009 1658400.00 969095.50 468795 479562,99 2010 1980900.00 1367585.20 560170 615299,54 45.00 2011 2535000.00 2015929.30 674500 1042000,00 51.70
DBR NPV/ /GDP DBR (%) (%) 24.40 65.80 1.06 27.26 68.50 99.70 27.48 70.10 88.20 102.30 28.27 58.40 45.00 28.28 69.00 154.48 26.60 79.50
Bảng 3.12: Các chỉ số đánh giá độ bền vững nợ nước ngoài của Việt Nam.
Nguồn: tính toán của tác giả từ các số liệu có được qua Cổng thông tin Chính phủ,
bảng tra tỷ giá của Hải quan Việt Nam, NGTK 2011, bản tin nợ nước ngoài số 7.
56
Đánh giá nợ trong nước: nợ trong nước được đánh giá qua hai chỉ số là Nợ
trong nước/GDP và Nợ trong nước/DBR (bảng 3.13). Với tỷ lệ nợ trong nước/GDP
trong những năm gần đây vẫn nằm trong ngưỡng an toàn 20-25% (cao nhất là
25,2% năm 2010) nhưng cũng đã ngấp nghé vượt ngưỡng, tương tự, Nợ trong
nước/DBR vẫn ở mức thấp hơn nhưng khá sát với ngưỡng 92% (bảng 3.13), do đó
nợ trong nước của Việt Nam được đánh giá là ổn định.
Bảng 3.13: Các chỉ số đánh giá tính ổn định nợ trong nước của Việt Nam.
trong nước/GDP * 1/
2006 2007 2008 2009 22,7 33,8 36,2 41,9 31,4 32,5 29,8 29,3 23,3 -- -- -- 2010 56,3 31,1 25,2 2011 54,9 30,9 24
-- -- -- 82,42 89,1 90,2 Nợ công/GDP (%) Nợ nước ngoài/GDP (%) Nợ trong nước/GDP (%) Nợ trong nước/DBR (%) (= Nợ (DBR/GDP))
Nguồn: MoF, Bản tin nợ nước ngoài số 7
3.6 Dự báo tình hình nợ công Việt Nam trong thời gian tới
Nợ công của Việt Nam tăng liên tục trong những năm qua, có nhiều nguyên
nhân dẫn đến vấn đề này; sau đây là một số nguyên nhân làm gia tăng nợ công ở
Việt Nam:
Thứ nhất là vấn đề đầu tư bao gồm hiệu quả đầu tư phản ánh chủ yếu qua chỉ
số ICOR, năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) và chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm.
Chỉ số ICOR là chỉ số phản ánh hiệu quả đầu tư của nền kinh tế. Theo các con số
thống kê ở phần 3.2 hệ số ICOR của Việt Nam liên tục tăng. Một điều đặc biệt ở
đây là chỉ số ICOR của khối DNNN trong đầu tư công lại tăng vọt, trong khi đây
chính là thành phần chủ đạo của nền kinh tế. So với các nước trong khu vực, ICOR
của Việt Nam gần gấp đôi, có nghĩa là hiệu suất đầu tư chỉ bằng một nữa.
57
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hình 3.2: Hiệu quả của nền kinh tế qua chỉ số ICOR giai đoạn 2001-2010
Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) được tính từ phương pháp ước lượng
nguồn tăng trưởng từ hàm sản xuất. Sau khi trừ đi các yếu tố đóng góp về lượng
(lao động và vốn) cho tăng trưởng, phần còn lại của tăng trưởng là do đóng góp về
sự gia tăng hiệu quả của nền kinh tế, gọi là năng suất nhân tố tổng hợp. Chỉ tiêu này
hàm chứa sự gia tăng của việc thay đổi quy trình công nghệ trong sản xuất, quy
trình quản lý, năng suất lao động… Hệ số này càng cao chứng tỏ nền kinh tế càng
hiệu quả và ngược lại.
Theo số liệu được đưa ra trong “Báo cáo Năng suất Việt Nam” do Trung tâm
Năng suất Việt Nam phối hợp với Viện Khoa học Thống kê biên soạn và công bố
trong tháng 2.2012, trong giai đoạn 2003-2010, tốc độ tăng TFP của Việt Nam là
1,42% và đóng góp của tăng TFP vào tăng GDP là 19,6%, so sánh với một số nước
đã và đang phát triển ở châu Á, tốc độ tăng TFP của Việt Nam chậm và đóng góp
vào tăng GDP tương đối thấp. Điều này nói lên hiệu quả sử dụng vốn của Việt Nam
là thấp, không dựa vào yếu tố công nghệ mà chủ yếu dựa vào vốn. Nó đã tạo ra sức
ép về vốn, trong trường hợp vốn trong nước không đáp ứng đủ thì Chính phủ sẽ vay
nước ngoài làm cho nợ công tăng thêm. Bên cạnh đó là sự mất cân đối giữa đầu tư
và tiết kiệm, chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư liên tục âm và khoảng chênh lệch
ngày càng lớn kể từ năm 2002 trở đi. Năm 2010 chênh lệch này ở mức -11%. Việt
58
Nam là một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, sự mất cân đối giữa tiết
kiệm so với đầu tư đã làm thiếu hụt nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế, chính vì thế
vay nợ nước ngoài để đầu tư là điều tất yếu.
Thứ hai là bội chi NSNN: nguyên nhân gây ra thâm hụt ngân sách một phần
là do chênh lệch giữa thu và chi của NSNN. Nguồn thu giảm trong những năm gần
đây một phần là do thất thu thuế. Từ khi Việt Nam gia nhập WTO, Việt Nam phải
thực hiện tiến trình giảm thuế đối với các mặt hàng của các thành viên trong tổ
chức; đồng thời bước vào sân chơi lớn, các công ty, tập đoàn lớn với nhiều thủ
đoạn, mánh khóe đã tìm cách trốn thuế, lách thuế làm tổn thất không ít nguồn thu
ngân sách của nhà nước. Một phần trong thời gian qua do khủng hoảng tài chính
nên nhà nước đã giảm nhiều loại thuế, cũng như lập quỹ bình ổn giá do lạm phát.
Trong khi đó nguồn chi để xây dựng cơ sở hạ tầng làm tiền đề cho sự phát triển
kinh tế lại tăng liên tục. Việc tập trung đầu tư cho các tập đoàn, tổng công ty Nhà
nước vẫn chưa mang lại hiệu quả cao. Việc đầu tư tăng nhanh nhưng kém hiệu quả
gây sức ép lạm phát và đặt gánh nặng lên vai của chính sách tiền tệ, chính vì thế
trong những năm qua Chính phủ luôn phải vay nợ để bù đắp NSNN.
Ngoài ra trong thời gian tới các nguồn thu quan trọng từ dầu thô và thuế
ngoại thương được dự kiến sẽ giảm do lượng dự trữ dầu thô giảm và quá trình tự do
hóa thương mại sau khi gia nhập WTO. Các trái phiếu quốc tế Chính phủ phát hành
phải trả mức lãi suất cao hơn do mức độ rủi ro cao hơn. Cùng với đó là việc Việt
Nam trở thành nước có thu nhập trung bình, các khoản vay quốc tế ưu đãi sẽ giảm
dần, thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn nhiều.
Thứ ba là sự biến động tỷ giá hối đoái: một trong những nguyên nhân quan
trọng làm tăng số nợ công lên đáng kể đó là tỷ giá hối đoái giữa VND so với các
đồng tiền chính trong nợ công của Việt Nam. Sau khi gia nhập WTO thì dòng vốn
nước ngoài chảy vào Việt Nam ngày càng nhiều đòi hỏi cần phải có chính sách tiền
tệ sao cho nền kinh tế Việt Nam không bị thiệt khi cạnh tranh với dòng vốn ngoại.
Và trong năm 2011, ngân hàng nhà nước đã có những biện pháp điều chỉnh tỷ giá
59
tương ứng với tỷ giá đang giao dịch trên thị trường và những chính sách hạn chế
giao dịch đồng ngoại tệ và vàng để tạo niềm tin vào đồng nội tệ. Trong tháng 2 năm
2011, ngân hàng nhà nước đã phá giá USD ở mức 9,3% và thu hẹp biên độ giao
dịch tỷ giá giữa USD và VND từ ±3 xuống còn ±1. Cùng với việc điều chỉnh giá,
ngân hàng nhà nước còn hạn chế việc giao dịch ngoại tệ ngoài thị trường chợ đen và
đặc biệt trong đầu tháng 4 năm 2011 ngân hàng nhà nước bắt đầu tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc cho ngoại tệ lên 2% và trần lãi suất huy động USD là 3%. Việc làm này
đồng thời cũng làm tăng khoản nợ nước ngoài đang vay của Chính phủ tính theo
VND.
Mặt khác, mối quan ngại về sự già hóa dân số sẽ làm cho nợ công tăng vọt
trong những thập kỷ tới. Nguyên nhân là do lực lượng lao động bị thu hẹp sẽ làm
cho nguồn thu thuế của Chính phủ bị sụt giảm, trong khi đó số người nghỉ hưu tăng
lên sẽ gây áp lực cho việc tăng chi tiêu Chính phủ trong các khoản lương hưu và
chăm sóc sức khỏe…
Từ những nguyên nhân trên có thể thấy, kinh tế Việt Nam hiện đang có những đặc điểm giống với PIIGS 8 (các nước châu Âu có tỷ lệ nợ cao, bao gồm các
nước Hy Lạp, Ailen, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý) khi lâm vào khủng hoảng nợ
công, đó là:
Tăng trưởng GDP giảm kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2007
đến nay.
Thâm hụt ngân sách và nợ công lớn, tăng mạnh từ năm 2006 đến năm 2011.
Lạm phát luôn có xu hướng tăng mạnh, luôn cao trên 8% kể từ năm 2006 đến
nay. Đặc biệt năm 2009 là thời kỳ khó khăn của Việt Nam khi tỷ lệ lạm phát đạt
mức phi mã 24,4% (biểu đồ 3.3). Đến năm 2010, dưới một loạt các chính sách thắt
8 Nguồn: Tạp chí ngân hàng, số 14 (2011).
chặt tiền tệ, tỷ lệ lạm phát đã được đưa về mức 11,8%, tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn ở
60
mức cao. Năm 2011, lạm phát lại tiếp tục tăng mạnh trở lại; việc kiềm chế lạm phát
là mục tiêu hàng đầu của Việt Nam trong giai đoạn này.
Nguồn: Moody’s Investors Service..
Hình 3.3: Tăng trưởng GDP thực và tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 2006-2012
Tỷ lệ tiết kiệm ròng đã được điều chỉnh thấp chỉ 12-14% GNI mỗi năm, thấp
hơn 5% so với trung bình của châu Á (không kể các nước Trung Đông).
Ngoài những đặc điểm giống với PIIGS về kinh tế, thì nợ công của Việt Nam
còn có hai vấn đề khác cần đặc biệt quan tâm, đó là:
Cơ cấu nợ nước ngoài trong tổng nợ công của Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn
và đang tăng nhanh (bảng 3.13), trong khi hiệu quả đầu tư của các dự án sử dụng
vốn từ các khoản nợ lại thấp.
Việt Nam sẽ dần dần giảm đi các khoản vay ưu đãi vì đã trở thành nước có
thu nhập trung bình; thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn,
thời gian ngắn hơn. Điều này đòi hỏi việc sử dụng vốn phải hiệu quả nhiều hơn nữa,
nếu không áp lực trả nợ ngày càng lớn hơn và tác động ngay đến ngưỡng an toàn
của nợ công.
Từ những so sánh trên cho thấy Việt Nam có thể rơi vào tình trạng khủng
hoảng nợ công giống như các nước EU nếu không có những thay đổi cần thiết và
61
tích cực về tình hình kinh tế và tình hình quản lý nợ công; nhất là sau suy thoái kinh
tế toàn cầu.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái, để phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam cần lượng vốn rất lớn cho đầu tư cơ sở hạ tầng. Với nguồn nội lực còn yếu thì
việc huy động từ các nguồn vốn vay nợ trong và ngoài nước là cần thiết và có vai
trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, việc huy động vốn vay và trả nợ vay phải nằm
trong giới hạn các chỉ tiêu an toàn về nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài và đảm
bảo an ninh tài chính quốc gia. Vấn đề nợ công của Việt Nam đã được Chính phủ
quan tâm nhiều trong thời gian qua, tại các kỳ họp Quốc hội luôn nhắc tới vấn đề
này. Theo “Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2011-
2020 và triển vọng 2030”, đến năm 2030, nợ công Việt Nam sẽ không quá 60%
GDP, trong đó nợ Chính phủ không quá 50% GDP và nợ nước ngoài không quá
45% GDP. Song song với việc đảm bảo tỷ lệ vay an toàn thì việc sử dụng vốn cũng
là vấn đề quan trọng hàng đầu của chiến lược nợ công. Việc sử dụng vốn đúng mục
đích và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ sẽ góp phần làm giảm bội chi ngân sách và
thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững.
62
Chương IV: GIẢI PHÁP NGĂN NGỪA KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
Ở VIỆT NAM
Như đã phân tích ở phần trên, với tình hình nợ công của Việt Nam hiện nay
thì nguy cơ xảy ra khủng hoảng là rất cao, Chính phủ cần phải nhanh chóng quyết
liệt thực hiện các giải pháp nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi nguy cơ này và tạo tiền
đề cho sự phát triển bền vững. Có rất nhiều giải pháp được các nhà kinh tế đưa ra
trong thời gian qua; tuy nhiên, điều quan trọng là Chính phủ sẽ chọn những giải
pháp nào cho phù hợp. Bởi chỉ có Chính phủ mới biết chính xác được tình trạng nợ
nần của mình như thế nào? Dưới đây là một số giải pháp nhằm ngăn ngừa khủng
hoảng nợ công xảy ra ở Việt Nam :
4.1. Phát triển nội lực của nền kinh tế
Phát triển nội lực nền kinh tế cần tập trung vào vấn đề tăng hàm lượng giá trị
gia tăng trong xuất khẩu bằng cách:
Thứ nhất, cần tiếp tục khai thác mở rộng thị trường thương mại. Đẩy mạnh
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng không thiết yếu, hàng xa xỉ. Xây dựng
chính sách cụ thể và phù hợp về phát triển thị trường trong nước.
Thứ hai, sử dụng các biện pháp hợp pháp trong quản lý nhập khẩu. Trong
khuôn khổ các quy định của WTO để quản lý nhập khẩu, việc xây dựng hàng rào kỹ
thuật là một trong những quy định đảm bảo lợi ích của các nước thành viên, tạo điều
kiện để các nước đi sau tiếp cận với công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, Việt Nam hầu
như chưa sử dụng được các biện pháp hợp pháp này để kiểm soát nhập khẩu và hạn
chế nhập siêu. Đó là chưa nói đến việc, các cơ quan chức năng rất yếu trong việc
kiểm soát hàng nhập lậu, hàng nhái, hàng giả và hàng độc hại từ thị trường Trung
Quốc.
Thời gian tới, Việt Nam cần xây dựng các hàng rào phi thuế quan phù hợp
với cam kết quốc tế để hạn chế nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu, bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng và tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng Việt Nam.
63
Thứ ba, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm
tỷ trọng của nhóm sản phẩm thô và sản phẩm sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng của nhóm
sản phẩm chế biến, chế tạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Ưu tiên phát triển
ngành công nghiệp áp dụng công nghệ cao để tăng nguồn hàng xuất khẩu có hàm
lượng công nghệ cao, có sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao. Để làm được điều
này, Việt Nam cần ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ; tăng khả năng cho và nhận
chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI; chuyển hướng nhập siêu sang các
nước phát triển, du nhập công nghệ nguồn, công nghệ cao để nâng cao năng lực sản
xuất nội địa.
4.2. Thay đổi cơ cấu nợ công
Việt Nam cần phải thực sự thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng tăng tỷ trọng
nợ trong nước nhiều hơn nữa. Có thể học tập các mô hình, cách làm của các nước
phát triển như Nhật, Mỹ... trong quá trình thay đổi. Với khoảng nợ công so với GDP
lên tới 200% nhưng vẫn được coi là nằm trong ngưỡng an toàn (vì năng suất lao
động cao là cơ sở đảm bảo cho việc trả nợ), Nhật xứng đáng là mô hình lý tưởng
cho các quốc gia trên thế giới học tập. Để thay đổi cơ cấu nợ công, Chính phủ Việt Nam nên phát hành TPCP ghi bằng nội tệ nhiều hơn 9 và tổ chức các đợt đấu thầu
trên thị trường. Đồng thời để các đợt đấu thầu mua TPCP đạt chất lượng cao, Chính
phủ nên đưa ra một mức lãi suất phù hợp hơn với lãi suất thị trường và yêu cầu của
nhà đầu tư. Ngoài ra, Việt Nam cần phát triển thị trường nợ trong nước bao gồm cả
thị trường sơ cấp và thứ cấp TPCP, điều này sẽ giúp cho Chính phủ huy động được
vốn với kì hạn dài, lãi suất cố định và đặc biệt là bằng nội tệ. Do vậy, các rủi ro liên
quan đến lãi suất, tỉ giá và đảo nợ sẽ được giảm thiểu; sự phát triển của thị trường
TPCP thứ cấp cũng giúp kéo theo sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh
9 TPCP phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn.
nghiệp.
64
4.3. Kiểm soát nợ công ở mức an toàn
Để kiểm soát được nợ công ở mức an toàn, cần phải xác định được đâu là
mức an toàn (ví dụ: cần phải xác định các tỷ lệ nợ công/ GDP và nợ nước ngoài/
GDP). Ngoài ra, để tăng cường kiểm soát, cần thiết lập một hệ thống các chỉ tiêu
quy định về giới hạn nợ, cả đối với khối lượng nợ và dòng chi trả nợ. Các giới hạn
này vừa được thể hiện theo giá trị danh nghĩa, vừa thể hiện theo phần trăm các biến
vĩ mô quan trọng. Phạm vi áp dụng giới hạn được phân chia theo từng loại nợ: tổng
nợ công, nợ công nước ngoài, nợ công trong nước và tổng nợ nước ngoài. Thông
thường, các giới hạn đối với tổng nợ thường được biểu diễn dưới dạng tỷ lệ phần
trăm của GDP và xuất khẩu, còn giới hạn đối với nghĩa vụ nợ thường được biểu
diễn theo tỷ lệ phần trăm tổng thu thuế và dự trữ ngoại hối hoặc giới hạn tỷ lệ vay
nợ/chi đầu tư hàng năm.
Tuy nhiên, điều quan trọng là Quốc hội cần phải đưa ra các giới hạn này một
cách hợp lý. Nếu quá thấp, chúng sẽ cản trở Chính phủ thực hiện các phương án cần
thiết để phát triển đất nước, cũng như thực hiện các phản ứng kịp thời trong bối
cảnh kinh tế “hậu” khủng hoảng. Bởi, Việt Nam là nền kinh tế đang phát triển, nhu
cầu vốn đầu tư phát triển nói chung và phát triển kết cấu hạ tầng nói riêng là rất lớn.
Ngược lại, nếu các giới hạn được thiết lập ở mức quá cao, thì chúng lại không có ý
nghĩa gì cả.
Bên cạnh đó, cần phân tích rõ bản chất của nợ công. Việc đánh giá đúng nợ
công và “thực chất” nợ công của một nền kinh tế, một quốc gia là vô cùng quan
trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con
số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần túy sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý hoang mang,
kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi dụng
tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá
sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn, mà không
phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành như thế nào,
bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào… cũng sẽ
dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách – "thắt lưng buộc bụng" –
65
tác động tiêu cực đến tăng trưởng . Thực tế xảy ra trên thế giới cho thấy, những
nước xảy ra khủng hoảng tài chính đều có tỷ lệ nợ/GDP khá thấp. Ví dụ: Argentina
năm 2001, tỷ lệ đó chỉ ở mức 45%; Ukraine (2007) chỉ có 13%; Thái Lan (1996) chỉ
có 15%; Venezuela (1981) chỉ có 15%; Rumania (2007) chỉ có 20%...
4.4. Tăng cường thể chế quản lý và giám sát nợ công, hình thành cơ
quan quản lý nợ công thống nhất
Để có thể thực hiện giải pháp này, cần nghiên cứu hình thành bộ máy thống
nhất chỉ đạo, quản lý và giám sát các đơn vị tham gia quản lý nợ công hiện nay.
Điều này nhằm khắc phục những bất cập trong hệ thống quản lý nhà nước về ngân
sách nói chung và nợ công nói riêng. Đồng thời, cần tăng cường vai trò của Quốc
hội trong việc giám sát nợ công, nợ quốc gia luôn đảm bảo an toàn. Hiện nay, việc
tiếp cận thông tin tổng hợp về nợ công của Đại biểu quốc hội là không đủ để thực
hiện phân tích, đánh giá chính xác tình hình nợ công; song song với điều này là sự
am hiểu về nợ công của các Đại biểu cũng còn hạn chế. Một giải pháp căn cơ nhưng
đòi hỏi phải kiên trì về lâu dài là nâng cao nhận thức và kỹ năng cho Đại biểu dân
cử về các vấn đề liên quan đến việc thực hiện Luật quản lý nợ công. Chẳng hạn,
Quốc hội có thể mời các nhà khoa học trong và ngoài nước có kiến thức và kinh
nghiệm về các vấn đề liên quan đến nợ công cùng nghiên cứu, tính toán, cân nhắc
và cung cấp thông tin cho các đại biểu Quốc hội, giúp họ có thêm căn cứ trong việc
biểu quyết các chương trình, dự án trọng điểm quốc gia có sử dụng vốn vay.
Bên cạnh đó, để việc quản lý và giám sát nợ công được tăng cường hơn nữa,
Luật Quản lý nợ công cần có một điều khoản quy định về quyền hạn và nghĩa vụ
của các tổ chức ngoài nhà nước trong việc quyết định chủ trương, phương hướng,
mục tiêu vay nợ và sử dụng vốn vay, ban hành và giám sát việc thực hiện các văn
bản quy phạm pháp luật về quản lý nợ công.
4.5. Tái cơ cấu nền kinh tế trong trung và dài hạn
Với 3 mũi nhọn là tái cơ cấu đầu tư công, DNNN và hệ thống ngân hàng
nhằm giảm bớt gánh nặng ngân sách. Cụ thể:
66
4.5.1 Nâng cao hiệu quả đầu tư công theo hướng đầu tư có trọng điểm,
tránh dàn trải
Từng bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng giảm dần tỷ trọng đầu tư
nhà nước, chỉ sử dụng vốn nhà nước để đầu tư vào các công trình, dự án quan trọng
mà khó có khả năng thu hồi vốn hoặc khả năng thu hồi là không cao, và có nhiều rủi
ro. Chẳng hạn, các dịch vụ công quan trọng, các ngành sản xuất then chốt nhằm
thực hiện mục tiêu chung của quốc gia và những lĩnh vực mà tư nhân chưa thể hoặc
không thể thực hiện được.
Phân định rõ nội dung, phạm vi đầu tư giữa Trung ương và địa phương thông
qua việc đẩy mạnh phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng cho các địa phương.
Nguyên tắc chung là chỉ những việc mà địa phương không thực hiện được hoặc
thực hiện không hiệu quả thì mới để Trung ương thực hiện nhằm tạo sự chủ động
cho địa phương. Nghiên cứu hình thành cơ chế mở cho tất cả các địa phương trong
việc thu hút các nguồn lực cho phát triển phù hợp với quy hoạch, năng lực và nguồn
lực của từng địa phương.
Phát huy vai trò định hướng của đầu tư nhà nước để thu hút nguồn vốn đầu
tư của xã hội. Coi nguồn đầu tư nhà nước là tiền đề để thu hút các nguồn lực xã hội,
đầu tư của khu vực tư nhân đầu tư vào nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế, đặc biệt là
hệ thống giao thông. Cần tập trung nâng cấp phát triển hạ tầng giao thông tại vùng
kinh tế trọng điểm, các đô thị, các trục giao thông huyết mạch liên kết các vùng
kinh tế trọng điểm, phát triển trục giao thông Bắc – Nam. Tạo điều kiện bình đẳng
trong đấu thầu xây dựng và thực hiện các công trình, dự án đầu tư bằng vốn ngân
sách trên cơ sở hiệu quả cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Hoàn thiện khung pháp lý về phân công, phân cấp và hệ thống phân bổ
NSNN. Xây dựng nguyên tắc, căn cứ lập dự toán chi đầu tư phát triển, bố trí vốn,
thanh toán và quyết toán vốn nhằm đảm bảo tập trung vốn đầu tư hoàn thành công
trình theo kế hoạch tài chính trung hạn và tiến độ công trình, giảm dần và tiến tới
67
xóa bỏ tình trạng phân chia bình quân và dàn mỏng nguồn lực, qua đó nâng cao
hiệu quả sử dụng.
Nghiên cứu xây dựng hệ thống các tiêu chí xác định các ưu tiên ngân sách
cũng như xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả chi ngân sách. Trên cơ sở đó
thực hiện phân loại các nhiệm vụ chi theo thứ tự ưu tiên để bảo đảm kinh phí thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra.
Hoàn thiện khung pháp lý để xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn và kế
hoạch chi tiêu trung hạn, xem kế hoạch chi đầu tư là một phần của kế hoạch tài
chính - ngân sách trung hạn, đảm bảo chi đầu tư công được giới hạn trong khả năng
nguồn lực và thống nhất với các ưu tiên chính sách của Chính phủ. Qua đó, đảm bảo
việc phân bổ nguồn lực hàng năm được định hướng vào các mục tiêu kinh tế - xã
hội trong trung và dài hạn, tăng cường tính tiên đoán, chủ động, tính hệ thống trong
phân bổ nguồn lực.
Khuyến khích nguồn lực tư nhân tham gia vào các dự án hạ tầng thông qua
mô hình đối tác công - tư (PPP): Đổi mới và hoàn thiện các cơ chế, chính sách
khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
Nghiên cứu mở rộng việc áp dụng hình thức bán hoặc chuyển nhượng quyền quản
lý, khai thác có thời hạn một số công trình cơ sở hạ tầng để huy động nguồn vốn
của xã hội cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách
“xã hội hóa” đầu tư trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao để
một mặt tăng thêm nguồn vốn đầu tư, mặt khác cũng tăng tính cạnh tranh trong
cung cấp sản phẩm dịch vụ, xóa bỏ dần thế độc quyền. Qua đó, người dân có cơ hội
được tiếp cận với chất lượng của dịch vụ công ngày càng cao.
4.5.2 Đẩy mạnh tiến trình tái cơ cấu DNNN theo hướng tinh gọn, hiệu
quả
Thứ nhất, trước khi tiến hành cổ phần hóa các DNNN thì phải xử lý nghiêm
các sai phạm và tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến các sự việc. Phải xác định rõ trách
nhiệm của từng bộ phận, cá nhân gây ra sai phạm và tiến hành xử lý một cách triệt
68
để, sau đó mới lựa chọn các giải pháp tái cấu trúc phù hợp. Có như vậy mới có thể
nâng cao được tính kỷ luật trong tổ chức, răn đe được các thành phần có ý đồ xấu.
Vì tái cấu trúc DNNN không chỉ đơn thuần là tiến hành cổ phần hóa mà còn có thể
là tái cấu trúc ngành nghề, tài chính, quản trị, quản lý,… đối với DNNN.
Thứ hai, xác định DNNN không phải là công cụ điều tiết vĩ mô. Cần tách
bạch rõ giữa DNNN hoạt động vì mục đích lợi nhuận, và DNNN hoạt động vì mục
đích phi lợi nhuận. Không nên để một DNNN lại thực hiện cùng lúc hai mục đích
này nhằm tránh những hạn chế phát sinh như: ít có sự thay đổi sau cổ phần hóa,
thiếu các cổ đông chiến lược, bất cập trong việc bán cổ phần ra bên ngoài...
Thứ ba, chế độ công bố thông tin: đa số các DNNN thường có quy mô lớn,
các hoạt động sản xuất kinh doanh phức tạp, vì vậy cần quy định thực hiện chế độ
công bố thông tin về tình hình tài chính và tình hình hoạt động như một công ty
niêm yết. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải công bố thông tin một cách đầy đủ,
thường xuyên và công khai như công ty niêm yết để tăng cường hoạt động giám sát
DNNN. Công việc kiểm toán, tiến độ công bố thông tin có thể chậm hơn so với
công ty niêm yết nhưng không được chậm trễ so với quy định.
Thứ tư, tham mưu soạn thảo văn bản hướng dẫn hoạt động cổ phần hóa: Tiến
trình bán cổ phần DNNN, thu hút đối tác chiến lược có thể phải kéo dài nhiều năm
nhưng cũng cần phải thúc đẩy nhanh hơn nữa việc chuyển các doanh nghiệp này
sang mô hình hoạt động công ty cổ phần. Tuy đến thời điểm này, hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật đã có sự hoàn thiện hơn so với trước đây nhưng vẫn còn một số
hạn chế. Vì vậy, Chính phủ, các Bộ, ban ngành cùng các Cơ quan tham mưu phải
nghiên cứu, soạn thảo các văn bản hướng dẫn để hoạt động cổ phần hóa doanh
nghiệp được suôn sẻ và nhanh chóng, gỡ bỏ những nút thắt mà các văn bản hiện
hành đang có.
Thứ năm, tăng cường vai trò của cổ đông thiểu số: lâu nay việc cổ phần hóa
được xem như là vấn đề nội bộ của các DNNN, vì vậy mới có chuyện các doanh
nghiệp sau cổ phần vẫn dậm chân tại chỗ. Việc tăng tỷ lệ bán cổ phần ra bên ngoài
69
nhằm tạo tiếng nói của cổ đông thiểu số và cơ hội cho các nhà đầu tư chiến lược
thực sự tham gia vào các DNNN sau cổ phần hóa là điều hết sức quan trọng. Chỉ
bằng việc tăng cường giám sát của các cổ đông bên ngoài, Chính phủ mới có thể kỳ
vọng sự thay đổi của DNNN sau cổ phần hóa.
Thứ sáu, thay đổi cách xử lý phần thặng dư vốn sau cổ phần hóa: Thay đổi
quy định về sử dụng tiền thu về từ cổ phần hóa trong trường hợp phát hành tăng
vốn, theo đó phần thặng dư vốn từ việc bán cổ phần ra bên ngoài phải được giữ lại
hoàn toàn cho doanh nghiệp, phục vụ quyền lợi của tất cả cổ đông.
Thứ bảy, quy định thời gian niêm yết sau cổ phần hóa: cùng với việc phát
triển nền kinh tế mà kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo, DNNN phải là những mô
hình mẫu và đi đầu trong quá trình niêm yết cổ phần. Cần có chế tài trong việc niêm
yết của các DNNN sau cổ phần hóa trong khoảng thời gian cụ thể, nhằm tăng cường
tính minh bạch và thanh khoản cho cổ phiếu.
4.5.3 Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng với mục tiêu nâng cao hiệu quả
công tác quản trị điều hành và tăng cường năng lực tài chính của các ngân
hàng thương mại (NHTM)
Hiện nay công tác quản trị, điều hành của các NHTM Việt Nam còn rất yếu,
mặc dù đã được cải thiện nhiều trong thời gian qua nhưng nếu đem so với các
NHTM của các nước có nền kinh tế phát triển thì Việt Nam bị tụt hậu lại khá xa. Do
đó các NHTM trong nước cần nâng cao công tác quản trị điều hành ở tất cả các
khâu như: tổ chức, nhân sự, quản trị tài sản và nợ, quản trị rủi ro thanh khoản, lãi
suất, tỷ giá… tất cả những vấn đề trên là rất bức thiết, quan trọng nhằm tạo ra
những định hướng đúng đắn để dẫn dắt các định chế tài chính hoạt động an toàn và
hiệu quả hơn.
Trong thời gian qua, hoạt động sáp nhập, phá sản các ngân hàng yếu kém đã
diễn ra khá sôi nổi. Đối với các NHTM có tình hình nợ xấu cao, thanh khoản yếu
kém và tình hình tài chính yếu thì việc sáp nhập, phá sản là điều nên làm; ngân hàng
nhà nước nên tiếp tục chỉ đạo cho sáp nhập và mạnh dạn cho phá sản những ngân
70
hàng yếu kém. Trước khi sáp nhập hoặc phá sản, nhà nước cần thận trọng để xử lý
các khoản phải thu và phải trả cho khách hàng, như thuê một công ty kiểm toán độc
lập để định giá đưa vào vốn góp (đối với ngân hàng sáp nhập), hoặc thanh lý tài sản
của NHTM để có cơ sở giải quyết những khoản nợ mà NHTM đã huy động và vay
của các tổ chức, cá nhân; song theo kinh nghiệm của Trung Quốc thì các khoản gốc,
lãi hợp pháp của các chủ nợ nước ngoài và người gửi tiền cá nhân phải được ưu tiên
chi trả đầu tiên. Nếu việc sáp nhập, phá sản được thực hiện một cách bài bản thì sẽ
giúp các NHTM hoạt động được tốt hơn, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng thương
mại hoạt động ổn định, cạnh tranh lành mạnh.
Tăng cường năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại: NHTM cần
chủ động nâng cao năng lực tài chính của mình trên một số phương diện chính như:
vốn tự có, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời. Để thực hiện được điều đó, các
ngân hàng thương mại cần phải từng bước tăng vốn điều lệ, xây dựng lộ trình tăng
vốn điều lệ cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế tại Việt Nam; tránh trường
hợp tăng vốn đột ngột dẫn đến những hệ lụy như hiện nay. Chẳng hạn theo quy định
vốn tự có tối thiểu thì các ngân hàng có quy mô nhỏ phải chạy đua tăng vốn một
cách gấp gáp trong khi năng lực quản trị của các ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu của một cấu trúc lớn; trong môi trường cạnh tranh hơn thì điều này đã làm
lộ ra nhiều yếu kém của các ngân hàng, nhất là khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng.
Bên cạnh đó, cũng cần phải đảm bảo cho các NHTM nâng cao sức cạnh tranh và
chủ động hội nhập trong khu vực và thế giới; trích lập đầy đủ các khoản dự phòng
rủi ro nhằm minh bạch hóa tình hình tài chính và tài sản có rủi ro; khi cho vay hoặc
đầu tư mới phải thực hiện đúng quy trình cho vay và đầu tư, chấp hành nghiêm
chỉnh việc cho vay và đầu tư vào những doanh nghiệp sân sau của ngân hàng…
Đổi mới và kiện toàn công tác nhân sự của toàn hệ thống: từ ý trên cho thấy
một yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của hệ thống các ngân hàng đó
là yếu tố nhân sự. Một đội ngũ cán bộ không có hoặc hạn chế về trình độ, yếu kém
về đạo đức thì sẽ khó lòng đưa NHTM phát triển theo đúng mục tiêu, định hướng đã
đề ra, thậm chí sẽ đẩy ngân hàng xuống “vũng lầy” của khủng hoảng. Do đó,
71
NHNN và các NHTM cần đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, điều đó cần được
thực hiện từ khâu tuyển dụng, đào tạo đến khâu bổ nhiệm cán bộ, làm sao để xây
dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực trình độ, có bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp.
Thực tế đã chỉ ra rằng, hoạt động của các NHTM bị ảnh hưởng rất nhiều từ năng lực
thanh tra giám sát của ngân hàng nhà nước và năng lực quản trị điều hành của các
NHTM. Vì vậy, có thể nói đây là giải pháp cần được ưu tiên hàng đầu trong dài hạn.
Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hành lang pháp lý: thực tế cho thấy, hành
lang pháp lý ở lĩnh vực ngân hàng còn nhiều bất cập, do đó các cấp có thẩm quyền
cần xây dựng khung pháp lý về hoạt động ngân hàng thật công khai, minh bạch và
công bằng nhằm tạo cho các NHTM được bình đẳng trong cạnh tranh và bảo đảm
an toàn hệ thống, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an
toàn đối với hoạt động tiền tệ, ngân hàng, hình thành môi trường lành mạnh; xóa bỏ
phân biệt đối xử giữa các NHTM và loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp trong
lĩnh vực ngân hàng.
Cơ cấu lại mạng lưới giao dịch của từng NHTM: Sau một thời gian NHNN
cho phép các NHTM mở rộng mạng lưới giao dịch, một số NHTM tiến hành mở
rộng nhanh mạng lưới mà chưa tính toán kỹ đến khả năng quản trị điều hành, chất
lượng nguồn nhân lực... nhiều ngân hàng trên cùng một địa bàn đã thành lập nhiều
chi nhánh, phòng giao dịch (đặc biệt là trên các đô thị lớn như: Hà Nội và TP. Hồ
Chí Minh, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh nội bộ giữa các NHTM nhằm
giành giật khách hàng làm cho thị trường tiền tệ đôi khi rất hỗn loạn. Do đó, NHNN
tiếp tục yêu cầu các NHTM cơ cấu lại mạng lưới giao dịch sao cho trong nội bộ các
NHTM không cạnh tranh chồng chéo lên nhau. Tuy nhiên, NHNN và bản thân các
NHTM cũng cần cẩn trọng trong việc cơ cấu mạng lưới, xem xét cụ thể từng
trường hợp, có những trường hợp cần sáp nhập, giải thể, nhưng có những trường
hợp có thể thay đổi nhân sự chủ chốt của các chi nhánh để thực hiện điều hành cho
có hiệu quả hơn, tránh xáo trộn trong khâu tổ chức cán bộ cũng như tâm lý hoang
mang của khách hàng.
72
Tiếp tục đổi mới công nghệ ngân hàng: Mặc dù việc ứng dụng công nghệ
ngân hàng của các NHTM có bước phát triển về chất trong thời gian qua, song so
với các NHTM ở những nước tiên tiến trên thế giới thì các NHTM ở Việt Nam vẫn
còn có khoảng cách khá xa. Do đó, hệ thống các NHTM trong nước cần tiếp tục đổi
mới, ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm phát triển hơn nữa các sản phẩm dịch vụ
ngân hàng hiện đại dựa trên nền tảng công nghệ, tăng tính bảo mật thông tin của
khách hàng...
4.6. Nâng cao vai trò của hệ thống kiểm tra, giám sát tài chính
Kiểm toán Nhà nước (KTNN) là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra
tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, thực hiện kiểm tra việc quản lý, sử dụng
ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Vì vậy, KTNN kiểm tra việc quản lý và sử dụng
các khoản nợ công là điều cần thiết, đảm bảo tính minh bạch trong quản lý và sử
dụng các khoản nợ công cũng như tính bền vững của NSNN. Cần quy định rõ
nhiệm vụ kiểm toán nợ công của cơ quan này trong Luật Quản lý nợ công và Luật
KTNN.
Tuy nhiên, trên thực tế do nợ công gồm nhiều loại hình khác nhau, mỗi loại
nợ lại có đặc thù về quản lý đồng thời liên quan đến nhiều cơ quan quản lý, đối
tượng sử dụng; do vậy, để kiểm toán nợ công có hiệu quả, hàng năm KTNN phải
kiểm toán các báo cáo thường niên về nợ công; đồng thời tăng cường số lượng và
chất lượng các cuộc kiểm toán chuyên đề về nợ công, như chuyên đề kiểm toán vay
nợ nước ngoài của Chính phủ, vay nợ trong nước, các khoản nợ Chính phủ bảo
lãnh, chi phí vay nợ...
Chính phủ nên xem xét thành lập một ủy ban kiểm toán nhà nước riêng biệt
riêng để kiểm tra, giám sát độc lập nợ công của Việt Nam. Hiện nay công việc này
do Bộ Tài chính đảm nhiệm nhưng chưa có một cơ quan chuyên trách nên việc quản
lý còn nhiều bất cập, chậm trễ, gây nên những thất thoát, thiếu hiệu quả trong việc
sử dụng kiểm soát nợ công.
73
Cơ quan chuyên trách này có đủ năng lực, uy tín như các công ty kiểm toán
nước ngoài sẽ là cơ sở để Chính phủ nắm được tình hình vay và sử dụng nợ công.
Lâu nay vẫn biết luôn có việc kiểm tra, đánh giá trong nghiệm thu các công trình,
dự án sử dụng nợ công sau khi chúng được hoàn thành, và đa số các cuộc kiểm tra
này đều cho ra kết quả là đạt yêu cầu về mặt chất lượng, tuy nhiên thực tế lại thấy
chất lượng không được đảm bảo như yêu cầu. Phần lớn các công trình bị hư hại,
xuống cấp nặng chỉ trong thời gian ngắn sử dụng hoặc phải tu bổ thường xuyên nếu
muốn duy trì lâu hơn. Thực trạng này xuất hiện không chỉ ở các công trình do
DNNN đảm nhiệm mà ngay cả các công trình do tư nhân thắng thầu thì chất lượng
cũng không cao hơn là mấy. Hay như thông tin về nợ công của Việt Nam (nợ trong
nước; nợ của các DNNN được bảo lãnh và không được bảo lãnh của Chính phủ),
luôn được thông báo là các chỉ số vẫn nằm trong ngưỡng an toàn nhưng rất khó để
có thể biết rõ được chính xác là bao nhiêu.
Để làm tốt giải pháp này, trong giai đoạn đầu khi mà bộ phận kiểm toán nhà
nước còn mới, có thể thuê các công ty kiểm toán nước ngoài có uy tín tiến hành
kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ các dự án của Chính phủ. Việc làm này một mặt sẽ
giúp Chính phủ phân loại được các dự án hoạt động hiệu quả hay không, từ đó đưa
ra giải pháp thực hiện trong những giai đoạn tiếp theo; mặt khác, thông qua hoạt
động này các nhân viên kiểm toán nhà nước sẽ có cơ hội học hỏi kinh nghiệm, nâng
cao năng lực để đủ sức thực hiện nhiệm vụ sau này. Giai đoạn tiếp theo, tự bộ phận
kiểm toán nhà nước sẽ tiếp tục kiểm tra theo định kỳ các dự án như đã phân loại
theo từng vùng, từng lĩnh vực liên quan, tiến hành giám sát chặt chẽ để tránh các sai
phạm.
4.7. Quy định rõ ràng, tách bạch phạm vi nợ của Chính phủ, nợ được
Chính phủ bảo lãnh và nợ của doanh nghiệp
Mỗi loại nợ có đặc thù về quản lý đồng thời liên quan đến nhiều cơ quan
quản lý, đối tượng sử dụng khác nhau; để dễ dàng quản lý và quy kết trách nhiệm
cho những sai phạm cần phải quy định phạm vi đâu là nợ Chính phủ, đâu là nợ
74
được Chính phủ bảo lãnh và đâu là nợ của doanh nghiệp. Có như vậy mới biết được
cụ thể sai phạm là do ai? Đơn vị, cá nhân nào làm lãng phí nợ công?... điều này sẽ
tránh được trường hợp đùn đẩy trách nhiệm giữa các bộ phận liên quan rồi xử lý
qua loa cho xong, và cuối cùng là NSNN bị thiệt hại.
4.8. Phải tiến hành xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm hợp
đồng việc thực hiện các dự án không đúng theo yêu cầu của hợp đồng (như: các
công trình bị hư tổn, xuống cấp nhanh so với tiêu chuẩn đặt ra; việc thi công chậm
tiến độ ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác...) thì phía thi công sẽ phải chịu trách
nhiệm đền bù và thi công lại, hoặc phải đền bù và cho đấu thầu lại để chủ thầu mới
tiếp tục thi công phần tiếp theo của công trình. Có như vậy mới có thể răn đe được
những người chịu trách nhiệm thi công các dự án. Lâu nay, việc thi công các dự án
ít được chú tâm đến chất lượng và giám sát tiến độ thi công; hầu hết các dự án sau
khi hoàn thành đều chậm hơn so với dự kiến, tăng thêm chi phí vật liệu, nhân công;
điều này làm giá thành của các công trình đội lên rất cao nhưng chất lượng lại
không tương xứng. Đa số các công ty sau khi thắng thầu đã phải sử dụng một phần
lớn nguồn tiền để chạy chọt, bưng bít làm thất thoát nặng nguồn vốn đầu tư dẫn đến
nhiều hệ lụy kèm theo. Nhà nước cần phải khắc phục ngay tình trạng này để tạo tính
bền vững trong đầu tư (đặc biệt trong xây dựng cơ sở hạ tầng) trước khi nghĩ đến
những vấn đề khác.
4.9. Quy định rõ vai trò của người dân, các tổ chức ngoài nhà nước
trong Luật quản lý nợ công đối với các hoạt động thu, chi của nhà nước: Đã
đến lúc phải để cho người dân được quyền đóng góp ý kiến trong các hoạt động của
nhà nước về nợ công; họ sẽ là động lực hiệu quả cho cán bộ quản lý khi tham gia
góp ý về chủ trương, một kế hoạch, một biện pháp tiến hành, một dự án; hoặc như
việc cấp đất, cấp vốn cho một đơn vị kinh tế, cho đến hiệu quả đích thực của các
vấn đề ấy. Các cơ quan chức năng phải tạo mọi điều kiện để dân được kiểm tra, chất
vấn, theo dõi, giám sát đến nơi đến chốn các công việc này. Như Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng căn dặn: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong”, để thấy rằng vai trò của người dân là cực kỳ quan trọng trong việc thực hiện
75
các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Chính phủ Việt Nam
thường dương cao khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nhưng thực
chất thì vẫn chưa thực hiện tốt vấn đề này. Trong thời gian tới chủ trương này phải
được thực thi rộng khắp, có thực chất, để đạt những hiệu quả rõ rệt, tránh hình thức
chủ nghĩa.
4.10. Thay đổi tư duy về nợ công và DNNN:
Phải thay đổi tư duy một cách triệt để về nợ công và DNNN nếu muốn đất
nước phát triển lành mạnh. Những nghiên cứu quốc tế và trong nước gần đây cung
cấp bằng chứng đầy thuyết phục cho sự không thể đứng vững của quan điểm "khu
vực kinh tế nhà nước là chủ đạo". Báo cáo kinh tế Việt Nam 2012 của Uỷ ban Kinh
tế Quốc hội dẫn số liệu của Bộ Tài chính cho thấy nợ nước ngoài của Việt Nam đến
năm 2011 là rất cao (41,5% GDP), cứ theo đà này thì 4-5 năm nữa, nợ nước ngoài
sẽ đến ngưỡng nguy hiểm giành cho các nền kinh tế mới nổi. Trong khi đó, tổng nợ
công từ năm 2009 đến 2011 cũng tăng lên mức báo động. Đấy là những số liệu
chính thức được công bố, số liệu thực tế có thể cao hơn nhiều. Đó là chưa nói đến
nợ của các DNNN, mà cuối cùng cũng sẽ làm tăng đáng kể nợ công. Cả lý thuyết và
thực tiễn quốc tế cũng như Việt Nam cho thấy khu vực kinh tế nhà nước chính là
vấn đề của nền kinh tế, chứ không thể giữ vai trò chủ đạo. Để thực hiện được vấn đề
này cần phải tách bạch hai chức năng là quản lý và sở hữu nhà nước. Giảm quy mô
và số lượng DNNN đồng thời tăng cường quản trị và tính công khai, minh bạch
cũng như trách nhiệm giải trình trong quản lý nợ công. Để thực hiện được vấn đề
này, nợ công cần phải được tính toán, xác định đầy đủ trong quyết toán NSNN và
phải được cơ quan chuyên môn xác nhận. Các DNNN cần được đặt mục tiêu giảm
dần số lượng và tỉ trọng thông qua quá trình cổ phần hóa triệt để.
76
4.11. Cần có sự kế thừa trong quản lý và sử dụng nợ công giữa các
nhiệm kỳ của các nhà lãnh đạo:
Xây dựng chiến lược về vay nợ công phù hợp với kế hoạch phát triển kinh
tế, xã hội, kế hoạch thu chi NSNN trong từng thời kỳ là nhiệm vụ của các nhà lãnh
đạo. Tuy nhiên, cần phải có sự kế thừa và phát huy được thế mạnh của các nhiệm
kỳ trước đề làm tăng thêm sức mạnh, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của đất
nước. Ở Việt Nam, việc kế thừa có thể nói là còn hạn chế so với các quốc gia phát
triển trên thế giới, đây có lẽ là một trong những nguyên nhân khiến cho các kế
hoạch phát triển kinh tế, xã hội bị chậm lại. Để làm tốt được điều này, cần phải xây
dựng các chiến lược, kế hoạch phát triển lâu dài, áp dụng ở nhiều thời kỳ xuyên
suốt để khi có sự thay đổi về con người thì định hướng phát triển kinh tế xã hội vẫn
không bị ảnh hưởng.
4.12. Khuyến khích đầu tư tư nhân tham gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng để
giảm gánh nặng cho NSNN:
Đầu tư của Nhà nước chỉ nên đóng vai trò định hướng trong đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội với việc tập trung vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế thiết
yếu, không có khả năng thu hồi vốn hoặc mức độ thu hồi vốn thấp, rủi ro cao, dịch
vụ công quan trọng, một số ngành sản xuất then chốt, đóng vai trò chủ đạo và
những lĩnh vực mà tư nhân không thể hoặc chưa thể thực hiện được. Cần phải tạo
hành lang pháp lý đẩy mạnh mô hình quỹ đầu tư phát triển địa phương để góp phần
huy động và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội địa phương. Song song
với đó là phải đẩy mạnh việc thực hiện chính sách “xã hội hóa” đầu tư trong một số
lĩnh vực như y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao để tăng thêm nguồn vốn đầu tư, và
tăng tính cạnh tranh trong cung cấp sản phẩm dịch vụ.
4.13. Hệ thống thuế cần được cải cách đảm bảo các tiêu chí tạo nguồn
thu bền vững, hiệu quả và công bằng:
Gánh nặng thuế cần phải được điều chỉnh giảm một cách hợp lý, có lộ trình
rõ ràng. Kể từ khi Việt Nam gia nhập (WTO), Chính phủ đã có những cam kết cho
77
lộ trình giảm thuế theo yêu cầu của các đối tác. Việc giảm thuế trong thời gian qua
đã có những tác động nhất định đến nền kinh tế nội địa. Chính phủ cần cải cách hệ
thống thuế bảo đảm định hướng ưu tiên, thúc đẩy các ngành, các lĩnh vực kinh tế có
khả năng cạnh tranh; các ngành, lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế có thể tồn tại và
phát triển nhưng đồng thời cũng phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Như vậy sẽ tạo
được sự công bằng và khuyến khích phát triển kinh tế theo định hướng trên cơ sở
tạo được nguồn thu bền vững.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Tóm lại, có rất nhiều giải pháp được đưa ra nhằm khắc phục tình trạng nợ
công tăng thêm của Việt Nam. Trong các giải pháp này có những giải pháp cấp
bách và giải pháp lâu dài. Đối với giải pháp cấp bách cần được thực hiện trong thời
gian ngắn nhất có thể để kịp thời kìm hãm tốc độ tăng nợ công, đồng thời phải xây
dựng lộ trình cụ thể, từng bước thực hiện đối với các giải pháp lâu dài để tạo được
tính bền vững, an toàn trong nợ công. Tuy nhiên, có thể nói ngọn nguồn của tất cả
các vấn đề đó là sự minh bạch trong quản lý nợ; nợ công là vấn đề của quốc gia, của
toàn dân vì vậy người dân có quyền được nghe, được biết về nó. Nếu Chính phủ
làm được điều này thì đây chính là bước ngoặc lớn trong quản lý nợ công và nó sẽ
đem lại nhiều thay đổi có lợi cho nền kinh tế, tạo động lực phát triển đất nước.
78
KẾT LUẬN CHUNG
Nợ công là một hiện tượng bình thường của bất kì một quốc gia nào trên thế
giới. Điều quan trọng nhất là làm thế nào để thiết lập được hệ thống quản lý và sử
dụng nợ công có hiệu quả. Trong cơ cấu nợ của một quốc gia, nợ công là khoản nợ
lớn nhất; là một cơ cấu tài chính rất phức tạp với nhiều rủi ro tiềm ẩn. Nợ công tác
động rất lớn đến sự ổn định tài chính trong nước, nếu sử dụng hiệu quả thì nó sẽ
thúc đẩy sự phát triển kinh tế và ngược lại, khủng hoảng nợ công làm cho nền kinh
tế bị suy thoái, trì trệ và kiềm hãm sự phát triển trong thời gian dài. Hiểu được tầm
quan trọng của nợ công, Chính phủ Việt Nam đã rất quan tâm đến việc nâng cao
hiệu quả quản lý nợ công. Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới,
môi trường kinh tế lành mạnh sẽ là điều kiện thuận lợi để có thể thu hút được đầu tư
từ nước ngoài vào trong nước. Chính phủ, các ban ngành có liên quan và mỗi người
dân cần tự ý thức về trách nhiệm và quyết tâm làm tròn nghĩa vụ của mình để góp
phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính (2011), Bản tin nợ nước ngoài, số 7. 2. Bộ Tài chính (2012), Bản tin nợ công, số 1. 3. Bộ Tư pháp (2002), Luật Ngân sách Nhà nước. 4. Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính (2009), Đề cương giới thiệu Luật Quản lý nợ
công.
5. Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư công trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, tải về từ http://www.vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/cuoc-song- quanh-ta46/doi-moi-co-che-quan-ly-dau-tu-cong-trong-qua-trinh-tai-co-cau- kinh-te ngày 22/07/2012.
6. Lê Kim Sa (2012), Nợ công của Việt Nam: Những vấn đề và tác động tiềm năng, tải về từ http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/kinh-te-thi-truong- XHCN/2012/16541/No-cong-cua-Viet-Nam-Nhung-van-de-va-tac-dong- tiem.aspx. ngày 15/06/2012.
7. Mai Thanh Quế - Mai Thương Huyền – Lê Diệu Huyền (2011), Tài liệu
giảng dạy Tài chính học, từ trang 109 - 125, nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội 2011.
8. Mai Thu Hiền và Nguyễn Thị Như Nguyệt (2011), Tình hình nợ công và
quản lý nợ công ở Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 14 (2011).
9. Ngô Thị Tuyết Mai (2012), Nợ nước ngoài của Việt Nam: Những vấn đề
đáng quan ngại, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 12 (2012).
10. Nguyễn Minh Phong (2011), Nợ công ở châu Âu và bài học về quản lý nhà nước, tải về từ http://baodientu.chinhphu.vn/Home/No-cong-o-chau-Au-va- bai-hoc-ve-quan-ly-nha-nuoc/201111/102928.vgp ngày 21/11/2011.
11. Nguyễn Quốc Nghi (2011), Luận bàn vấn đề nợ công ở Việt Nam, Tạp chí
Nghiên cứu Tài chính – Marketing, số 6 (2011).
12. Nghị định số 79/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/7/2010 về nghiệp vụ
quản lý nợ công.
13. Nợ công của Việt Nam tương đương 55,4% GDP, tải về từ
http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/no-cong-cua-viet-nam-tuong- duong-554-gdp-2723663.html ngày 1/11/2012.
14. Nợ của doanh nghiệp nhà nước đe dọa nợ công Việt Nam, tải về từ
http://vov.vn/Kinh-te/No-cua-doanh-nghiep-nha-nuoc-de-doa-no-cong-Viet- Nam/263707.vov, ngày 29/09/2013.
15. Phạm Thị Thanh Bình (2013), Vấn đề nợ công ở một số nước trên thế giới và hàm ý chính sách đối với Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội 2013.
16. Thông tư 56/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 29/04/2011 hướng dẫn
phương pháp tính toán các chỉ tiểu giám sát và tổ chức hoạt động giám sát nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia.
17. Toàn cảnh khủng hoảng nợ châu Âu: Nguyên nhân và giải pháp, tải về từ
http://cfoviet.com/toan-canh-khung-hoang-no-chau-au-nguyen-nhan-va-giai- phap/ ngày 06/08/2013.
18. Tổng Cục Thống kê, Niên giám thống kê (các năm). 19. Trịnh Tiến Dũng, Nợ công – đừng để cháy nhà mới lo dập lửa, tải về từ
http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-05-22-no-cong-dung-de-chay-nha- moi-lo-dap-lua ngày 23/05/2010.
20. Vũ Nhữ Thăng (2011), Đổi mới đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2011-
2020, Bài viết hội thảo: Tái cơ cấu đầu tư công trong bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế ở Việt Nam (2011).
21. Vũ Quang Việt, Nợ công, nợ ngân hàng của Việt Nam được hé mở, tải về từ http://www.diendan.org/viet-nam/no-cong-no-ngan-hang-cua-viet-nam- duoc-he-mo-%28b%29 ngày 25/11/2012.
22. Vũ Quang Việt, Nợ nước ngoài và khả năng chi trả của Việt Nam, tải về từ http://www.baomoi.com/No-nuoc-ngoai-va-kha-nang-chi-tra-cua-Viet- Nam/126/5357053.epi ngày 11/12/2010.
23. Vụ Tổng hợp Kinh tế - Bộ ngoại giao, Nợ công và quản lý nợ công ở Việt
Nam, Bản tin kinh tế, số 10 (2011).
PHỤ LỤC
Danh sách các nước thành viên Liên minh châu Âu
Dân số
Cờ
Thủ đô
Ngày gia nhập
Tên thông thường
Tên chính thức
Diện tích (km²)
Quố c huy
Các lãnh thổ đặc biệt
Áo
–
1.1.1995
8.340.924
83.871 Viên
25.3.1957 10..666.866
30.528 Bruxelles
Bỉ
–
1.1.2007
7.640.238
110.910 Sofia
Bulgaria
–
1.7.2013
4.284.889
56.594 Zagreb
Croatia
–
Cộng hòa Áo Vương quốc Bỉ Cộng hòa Bulgaria Cộng hòa Croatia
1.5.2004
778.700
9.251[t 1] Nicosia
Cyprus
Cộng hòa Cyprus
3 exclude d
1.5.2004
10.403.100
78.866 Praha
–
Cộng hòa Séc
Đan Mạch
1.1.1973
5.511.451
43.094
Copenhage n
2 exclude d
Estonia
1.5.2004
1.340.935
45.226 Tallinn
–
Phần Lan
1.1.1995
5.312.415
338.145 Helsinki
1
Cộng hòa Séc Vương quốc Đan Mạch Cộng hòa Estonia Cộng hòa Phần Lan
Pháp
25.3.1957
64.473.140
674.843 Paris
Cộng hòa Pháp
4 + 8 exclude d
Đức
82.218.000
357.050 Berlin
–
25.3.1957[t 5]
Hy Lạp
–
1.1.1981
11.125.179
131.990 Athens
Hungary
–
1.5.2004
10.036.000
93.030 Budapest
Ireland
Ý
4.501.000. 59.619.290
70.273 Dublin 301.318 Roma
– –
Latvia
–
1.5.2004
2.266.000
64.589 Riga
Litva
3.357.873
65.303 Vilnius
–
Cộng hòa Liên bang Đức Cộng hòa Hy Lạp Cộng hòa Hungary 1.1.1973 Ireland Cộng hòa Ý 25.3.1957 Cộng hòa Latvia Cộng hòa Litva
1.5.2004|5| 1}}
Dân số
Cờ
Thủ đô
Ngày gia nhập
Tên thông thường
Tên chính thức
Diện tích (km²)
Quố c huy
Các lãnh thổ đặc biệt
–
25.3.1957
483.800
2.586
Luxembour g
Luxembour g
Malta
1.5.2004
407.810
316 Valletta
–
Hà Lan
25.3.1957
16.471.968
41.526 Amsterdam
2 exclude d
Ba Lan
1.5.2004
38.115.641
312.683 Warsaw
–
1.1.1986
10.599.095
92.391 Lisbon
–
Bồ Đào Nha
Romania
1.1.2007
21.538.000
238.391 Bucharest
–
Slovakia
1.5.2004
5.400.998
49.037 Bratislava
–
Slovenia
1.5.2004
2.025.866
20.273 Ljubljana
–
–
1.1.1986
46.063.511
506.030 Madrid
Tây Ban Nha
Thụy Điển
1.1.1995
9.253.675
449.964 Stockholm
–
1.1.1973
61.003.875
244.820 London
Vương quốc Anh
1 + 16 exclude d
– EU-27
–
498.926.165 4.456.304
–
Đại công quốc Luxembour g Cộng hòa Malta Vương quốc Hà Lan[t 6] Cộng hòa Ba Lan Cộng hòa Bồ Đào Nha Romania Cộng hòa Slovakia Cộng hòa Slovenia Vương quốc Tây Ban Nha Vương quốc Thụy Điển Vương quốc Anh và Bắc Ireland Tổng cộng Liên minh châu Âu