BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
LÊ MINH CÚC QUỲNH
KIỂM ĐỊNH ẢNH HƯỞNG
CỦA LÝ THUYẾT THỜI ĐIỂM
THỊ TRƯỜNG ĐẾN CÁC
DOANH NGHIỆP IPO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
LÊ MINH CÚC QUỲNH
KIỂM ĐỊNH ẢNH HƯỞNG
CỦA LÝ THUYẾT THỜI ĐIỂM
THỊ TRƯỜNG ĐẾN CÁC
DOANH NGHIỆP IPO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã ngành: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA
Tp. Hồ Chí Minh - 2013
1
DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
TÊN TIẾNG VIỆT TÊN TIẾNG ANH
BCTC Báo cáo tài chính
IPO Phát hành lần đầu ra công Initial Public Offering
chúng
MM Lý thuyết MM Modigliani và Miller theory
MTT Lý thuyết định thời điểm thị Market timing theory
trường
OLS Phương pháp bình phương bé Ordinary Least Squares
nhất
POT Lý thuyết trật tự phân hạng Pecking order theory
SGDCK Sở giao dịch chứng khoán
TPHCM TPHCM
STT Lý thuyết đánh đổi Static trade-off theory
2
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Đường trung bình di động 3 tháng số lượng IPO hàng tháng.
3
DANH MỤC BẢNG VẼ
Bảng 4.1: Bảng thống kê mô tả của các doanh nghiệp
Bảng 4.2: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa các biến
Bảng 4.3: Kết quả hồi quy của biến Proceeds/At-1khi không có biến tương tác
Bảng 4.4: Kết quả hồi quy của biến Proceeds/Atkhi không có biến tương tác
Bảng 4.5: Kết quả hồi quy của biến Proceeds/At-1khi có biến tương tác trong
mô hình.
Bảng 4.6: Kết quả hồi quy của biến Proceeds/At khi có biến tương tác trong
mô hình.
Bảng 4.7: Kết quả hồi quy của biến Proceeds/At-1khi có biến tương tác trong
mô hình.
Bảng 4.8: Kết quả kiểm định phương sai thay đổi của các biến tác động lên
cấu trúc vốn của doanh nghiệp.
Bảng 4.9: Kết quả hồi quy của biến thiên tỷ lệ đòn bẩy tài chính khi không có
biến tương tác
Bảng 4.10: Kết quả hồi quy của biến thiên tỷ lệ đòn bẩy tài chính khi có biến
tương tác
Bảng 4.11: Tác động của thời điểm thị trường lên cấu trúc vốn của các doanh
nghiệp IPO
4
TÓM TẮT
Mục đích của bài luận văn là kiểm định tác động của lý thuyết định thời
điểm thị trường tác động đến cấu trúc vốn cổ phần đối với các doanh nghiệp
hoạt động IPO ở Việt Nam được niêm yết trên sàn HOSE giai đoạn chu kỳ từ
tháng 1/2006 đến tháng 12/2012. Tập dữ liệu trong bài bao gồm 234 doanh
nghiệp tham gia IPO từ tháng 1/2006 đến tháng 12/2012 ở Việt Nam có giá trị
dữ liệu trên sàn chứng khoán HOSE. Tôi phân tích lý thuyết định thời điểm
thị trường bằng sử dụng phương pháp hồi quy Pooled OLS. Mục đích đầu tiên
là kiểm định tác động của lý thuyết định thời điểm thị trường đến số lượng
vốn cổ phần phát hành bởi doanh nghiệp IPO, thứ hai là kiểm định tác động
của lý thuyết định thời điểm thị trường lên cấu trúc vốn. Chúng tôi kết luận lý
thuyết định thời điểm thị trường có ảnh hưởng đến các doanh nghiệp IPO ở
Việt Nam.
5
Chương 1: GIỚI THIỆU
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi lý thuyết của Modigliani và Miller được công bố năm 1958, các
nhà nghiên cứu bắt đầu tiến hành điều tra các quyết định tài trợ của doanh
nghiệp cho các hoạt động của mình, trong đó cấu trúc vốn là một vấn đề quan
trọng trong các quyết định tài trợ của doanh nghiệp. Tuy đây không phải là
một vấn đề mới mẻ nhưng luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà
nghiên cứu kinh tế và tài chính trên khắp thế giới. Quyết định làm giảm chi
phí vốn có tầm quan trọng để tối đa giá trị thị trường của doanh nghiệp. Lý
thuyết MM (1958) đã đưa ra các nhân tố làm giảm chi phí vốn và nợ, đồng
thời giải thích công ty đạt đến cấu trúc vốn tối ưu như thế nào. Theo
Modigliani và Miller (1958), các doanh nghiệp đi vay có thể giảm chi phí vốn
bằng cách trừ đi tiền lãi từ khoản thuế phải trả. Tuy nhiên chi phí vốn sẽ gia
tăng sau một thời điểm nhất định do đối mặt với rủi ro tài chính. Lý thuyết
MM cho rằng công ty không thể thay đổi chi phí vốn bằng cách thay đổi tỉ lệ
nợ/ vốn cổ phần dựa trên giả thiết không có thuế, chi phí đại diện, chi phí phá
sản và thông tin bất đối xứng. Nói cách khác, chính sách tài chính của doanh
nghiệp độc lập với giá trị thị trường của doanh nghiệp. Giả thiết không thực tế
của lý thuyết này đã khám phá ra các lý thuyết khác như lý thuyết đánh đổi
cấu trúc vốn, lý thuyết trật tự phân hạng, lý thuyết định thời điểm thị trường
đã giải thích các quyết định trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Sự ra đời
của ba lý thuyết cấu trúc vốn nhằm thích nghi với giả thiết thị trường bất hoàn
hảo, thông tin bất cân xứng và khủng hoảng tài chính do sử dụng nợ sẽ giải
thích về quyết định cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Những lý thuyết truyền
thống về cấu trúc vốn bao gồm ba lý thuyết cơ bản nhất là lý thuyết đánh đổi
6
cấu trúc vốn (Trade off theory), lý thuyết trật tự phân hạng (pecking order
theory), lý thuyết định thời điểm thị trường (market timing theory). Trong khi
lý thuyết thời điểm thị trường chưa thể lý giải các vấn đề cơ bản của chính nó
một cách triệt để, lý thuyết đánh đổi và lý thuyết trật tự phân hạng là hai lý
thuyết có nền tảng lý luận vững chắc nhất. Quá trình phát triển lý thuyết về
ước lượng tính hiệu quả của các lý thuyết cấu trúc vốn đã đưa đến những bằng
chứng không giống nhau. Shyam-Sunder và Myers (1999) tìm thấy bằng
chứng ủng hộ lý thuyết trật tự phân hạng hơn là lý thuyết đánh đổi. Fama và
French (2002) tìm thấy bằng chứng có thiên hướng chống lại cả hai lý thuyết.
Frank và Goyal (2003) tìm thấy bằng chứng có liên quan với lý thuyết trật tự
phân hạng, đặc biệt là đối với các công ty nhỏ. Trong khi hầu hết các nghiên
cứu trên sử dụng mô hình thực nghiệm phổ biến để kiểm định cả hai lý thuyết
thì chưa có nhiều nghiên cứu kiểm định tính hiệu lực của các giả định của mô
hình.
2. Tính cần thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán Việt Nam là một trong những kênh huy động
vốn quan trọng cho doanh nghiệp và cũng là phương thức đầu tư được ưa
chuộng. Bên cạnh việc đầu tư trên thị trường thứ cấp, thì đầu tư trên thị
trường sơ cấp vào các đợt IPO cũng là một hình thức đầu tư được lựa chọn.
Thực trạng IPO những năm gần đây cho thấy nhiều doanh nghiệp tiến hành
IPO nhưng thất bại, cùng sự trồi sụt của thị trường chứng khoán, nhiều doanh
nghiệp phải giãn tiến độ IPO hoặc kết quả IPO không khả quan, thậm chí
nhiều phiên IPO còn phải hủy bỏ do không có người đăng ký mua. Bài luận
văn dựa trên hoạt động của việc phát hành ra công chúng lần đầu của doanh
nghiệp và thực trạng việc định giá cổ phiếu của các doanh nghiệp IPO ở Việt
Nam để kiểm định tác động của lý thuyết định thời điểm thị trường đến cấu
8
trúc vốn và đòn bẩy của các doanh nghiệp hoạt động IPO. Thực tế ở Việt
Nam thì chưa tìm thấy những nghiên cứu thực nghiệm về tính hiệu quả các lý
thuyết cấu trúc vốn, đặc biệt là ảnh hưởng của lý thuyết định thời điểm thị
trường đến các doanh nghiệp hoạt động IPO, cũng như việc kiểm định tính
hiệu lực của những giả định trong các lý thuyết này. Trong khi những tài liệu
giáo khoa đề cập rất chi tiết về lý thuyết cấu trúc vốn trong các chương trình ở
đại học và người ta vẫn vận dụng nó khá thường xuyên trong các phân tích,
việc xem xét tính phù hợp của các lý thuyết này ở Việt Nam vẫn chưa thật sự
rõ ràng. Để bước đầu tiếp cận với lý thuyết cấu trúc vốn này, cụ thể đối với lý
thuyết định thời điểm thị trường, tôi tiến hành thực hiện bài nghiên cứu thực
nghiệm “Kiểm định lý thuyết định thời điểm thị trường tác động đến cấu trúc
vốn dựa vào hoạt động IPO của các doanh nghiệp Việt Nam”. Nghiên cứu này
sẽ trả lời cho 2 câu hỏi:
(1) Lý thuyết định thời điểm thị trường có tác động đến các doanh nghiệp
IPO ở Việt Nam hay không?
(2) Lý thuyết định thời điểm thị trường tác động đến số lượng vốn cổ phần
phát hành và cấu trúc vốn của các doanh nghiệp IPO ở Việt Nam như
thế nào?
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tập trung giải quyết 2 mục tiêu nghiên cứu chính sau:
Thứ nhất, là kiểm định tác động của lý thuyết định thời điểm thị trường
đến số lượng vốn cổ phần phát hành bởi doanh nghiệp IPO.
Thứ hai là kiểm định tác động của lý thuyết định thời điểm thị trường
lên cấu trúc vốn.
9
4. Đối tượng nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu như trên, đối tượng nghiên cứu của
luận văn bao gồm:
- Biến giả thị trường HOT
- Sự biến thiên tỉ lệ đòn bẩy tài chính (D/A)
- Lợi nhuận thu được từ việc bán cổ phiếu chia cho tổng tài sản cuối năm
IPO (Proceeds/At)
- Lợi nhuận thu được từ việc bán cổ phiếu chia cho tổng tài sản đầu năm
IPO (Proceeds/At-1)
5. Phạm vi nghiên cứu:
Các số liệu được lấy trong giai đoạn từ tháng 1/2006 đến tháng
12/2012.
Các mẫu được chọn là các công ty phi tài chính được niêm yết trên sàn
giao dịch Sở chứng khoán TPHCM tham gia vào hoạt động IPO giai đoạn từ
tháng 1/2006 đến tháng 12/2012.
6. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp hồi quy Pooled OLS để kiểm định ảnh hưởng
của lý thuyết thời điểm thị trường tác động đến số lượng vốn cổ phần đã phát
hành và tác động đến cấu trúc vốn.
7. Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu nghiên cứu được tính toán từ thu thập từ báo cáo tài chính của
các công ty phi tài chính được niêm yết trên sàn HOSE, dựa vào việc thu thập
10
dữ liệu ngày tháng các công ty tham gia IPO, tôi chọn mẫu các công ty có
ngày gia nhập IPO từ tháng 1/2006 đến tháng 12/2012. Số mẫu được chọn là
234 công ty đã được niêm yết trên sàn HOSE. Các báo cáo tài chính được lấy
từ trang web http://www.cophieu68.vn và http://cafef.vn/ .
8. Bố cục luận văn
Ngoài lời giới thiệu, kết luận và tài liệu tham khảo, bố cục luận văn
gồm các phần sau:
Chương 1: Giới thiệu
Chương 2: Tổng quan các nghiên cứu trước đây về lý thuyết định thời điểm
thị trường
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu thực nghiệm
Chương 5: Kết luận
11
Chương 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
VỀ LÝ THUYẾT ĐỊNH THỜI ĐIỂM THỊ TRƯỜNG
2.1. Khái niệm về IPO?
IPO (viết tắt của Initial Public Offering) là việc chào bán chứng khoán
lần đầu tiên ra công chúng. Khái niệm công chúng được hiểu là một số lượng
nhà đầu tư đủ lớn với giá trị chứng khoán chào bán cũng đủ lớn. Sau khi phát
hành lần đầu ra công chúng, một công ty cổ phần sẽ trở thành công ty đại
chúng (hay công ty cổ phần đại chúng).
Theo thông lệ tài chính trong kinh doanh, việc phát hành này có nghĩa
là một doanh nghiệp lần đầu tiên huy động vốn từ công chúng rộng rãi bằng
cách phát hành các cổ phiếu phổ thông, nghĩa là cổ phiếu ghi nhận quyền sở
hữu đúng nghĩa và người nắm giữ có quyền biểu quyết tương ứng trong các
kỳ họp Đại hội đồng Cổ đông thường niên hay bất thường. Một phần của IPO
có thể là chuyển nhượng cổ phần của cổ đông hiện hữu.
Với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, các công ty có
thể huy động được nhanh và nhiều vốn thông qua việc tiến hành IPO trên thị
trường chứng khoán. Cổ phiếu của công ty cũng có thể đạt được tính thanh
khoản rất cao và các giá trị gia tăng về giá sau khi IPO. Đó là một trong
những lý do chính khiến các doanh nghiệp tiến hành IPO.
IPO với mỗi doanh nghiệp chỉ có một lần duy nhất, và sau khi đã IPO
thì các lần tiếp theo sẽ được gọi là phát hành cổ phiếu trên thị trường thứ cấp.
IPO có ý nghĩa rất quan trọng với doanh nghiệp, vì với bất kỳ doanh nghiệp
nào, đây cũng là thử thách đầu tiên và quan trọng nhất đối với hàng loạt khía
cạnh vận hành. Nguyên nhân của thử thách này là do doanh nghiệp trước khi
được phép huy động vốn rộng rãi phải đảm bảo hàng loạt các điều kiện phát
12
hành ngặt nghèo và quy chế báo cáo thông tin rất nghiêm khắc. Khi tiến hành
IPO, cổ phiếu của các doanh nghiệp sẽ đạt được tính thanh khoản cao và các
giá trị gia tăng về giá, đồng thời doanh nghiệp cũng dễ dàng và tốn ít chi phí
hơn trong việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu.
2.2. Tổng quan lý thuyết định thời điểm thị trường.
Lý thuyết định thời điểm thị trường được phát hiện trên nền tảng cơ bản
là dựa trên lợi nhuận cổ phần trong quá khứ qua các bài nghiên cứu trước đây
của Taggart (1977), Marsh (1982), Jalilvand và Harris (1984), Asquith và
Mullins (1986). Một số bài nghiên cứu gần đây như là Rajan và Zingales
(1995), Jung, Kim và Stulz (1996), Pagano, Panetta và Zingales (1998),
Hovakimian, Opler và Titman (2001), Baker và Wurgler (2002) tập trung vào
tỉ lệ M/B để tìm hiểu tác động của thời điểm thị trường.
2.2.1. Lý thuyết định thời điểm thị trường theo quan điểm của
Baker và Wurgler
Năm 2002, bài nghiên cứu của Baker và Wurgler với chủ đề “Lý thuyết
thời điểm thị trường và cấu trúc vốn” cho rằng các công ty thích phát hành cổ
phiếu khi giá trị thị trường cao so với giá trị sổ sách và giá trị thị trường trong
quá khứ, đồng thời mua lại cổ phiếu khi giá trị thị trường thấp. Điều này có
tác động đến cấu trúc vốn. Hệ quả là, cấu trúc vốn hiện tại liên quan đến giá
trị thị trường trong quá khứ.
Trong tài chính doanh nghiệp, “xác định điểm ra vào thị trường vốn cổ
phần” đề cập đến việc phát hành hoặc bán cổ phiếu với giá cao và mua lại với
giá thấp. Mục đích là để khai thác biến động tạm thời của chi phí vốn cổ phần
với chi phí sử dụng các hình thức vốn khác. Trong thị trường vốn hoàn hảo
với nghiên cứu của Modigliani và Miller (1958), chi phí sử dụng các hình
13
thức vốn khác nhau không thay đổi độc lập, do đó không có lợi từ việc
chuyển đổi giữa vốn chủ sở hữu và nợ. Trong các thị trường vốn không hoàn
hảo, các cổ đông có chi phí của việc vào và ra thị trường. Do đó người quản
lý đặc biệt quan tâm tới thời điểm thị trường nếu họ quan tâm nhiều hơn đến
cổ đông hiện hữu.
Trong thực tế, thời điểm phát hành cổ phiếu dường như là một khía
cạnh thực sự quan trọng trong chính sách tài chính doanh nghiệp. Có bằng
chứng cho thấy thời điểm thị trường trong bốn nghiên cứu khác nhau. Thứ
nhất, phân tích các quyết định tài chính thực tế cho thấy các công ty có xu
hướng phát hành cổ phiếu thay vì nợ khi giá trị thị trường là rất cao so với giá
trị sổ sách và giá trị thị trường trong quá khứ, và có xu hướng mua lại cổ
phiếu khi giá trị thị trường thấp. Thứ hai, phân tích tỷ suất sinh lợi trong dài
hạn của cổ phiếu theo sau các quyết định tài chính cho rằng thời điểm ra vào
thị trường vốn cổ phần thành công trên mức trung bình. Các công ty phát
hành cổ phiếu khi chi phí vốn chủ sở hữu tương đối thấp và mua lại cổ phiếu
khi chi phí tương đối cao. Thứ ba, phân tích dự báo thu nhập và quan sát việc
phát hành cổ phần cho thấy rằng các công ty có xu hướng phát hành cổ phiếu
tại những thời điểm mà nhà đầu tư quá lạc quan về lợi nhuận kỳ vọng. Thứ tư,
và có lẽ thuyết phục nhất, các nhà quản lý thừa nhận tính thời điểm thị trường
của vốn cổ phần trong các cuộc điều tra không công bố. Graham và Harvey
(2001) thấy rằng hai phần ba các giám đốc tài chính đồng ý rằng "khoảng
chênh lệch mà cổ phiếu của chúng tôi bị định giá thấp hoặc quá cao là một
yếu tố quan trọng hoặc rất quan trọng" trong việc phát hành vốn cổ phần.
Trong bài báo này, chúng tôi tìm hiểu bằng cách nào tính thời điểm thị
trường vốn cổ phần ảnh hưởng đến cơ cấu vốn. Câu hỏi cơ bản là liệu tính
thời điểm thị trường có tác động ngắn hạn hay dài hạn? Một số cho rằng ít
nhất là tác động thuần túy và ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu các công ty sau đó cân
14
bằng lại thoát khỏi ảnh hưởng của quyết định tài trợ mang tính thời điểm thị
trường, như lý thuyết cấu trúc vốn chuẩn mực khuyến nghị, thì tính thời điểm
thị trường sẽ không có tác động lâu dài đối với cấu trúc vốn. Vì vậy, tầm quan
trọng của tính thời điểm thị trường đối với cấu trúc vốn là một vấn đề thực
nghiệm.
Kết quả của chúng tôi phù hợp với giả thuyết cho rằng tính thời điểm
thị trường có tác động lớn và lâu dài đối với cấu trúc vốn. Phát hiện chính là
các công ty có đòn bẩy thấp sẽ tăng huy động vốn khi giá thị trường của cổ
phiếu được định giá cao, được đo bằng tỷ số giá trị thị trường trên giá trị sổ
sách, trong khi các công ty có đòn bẩy cao sẽ tăng huy động vốn khi giá thị
trường của cổ phiếu được định giá thấp. Chúng tôi dẫn chứng bằng số liệu
trong các hồi quy cấu trúc vốn truyền thống. Đòn bẩy là biến phụ thuộc và tỷ
số giá trị thị trường trên giá trị sổ sách là biến độc lập. Biến này là một trung
bình có trọng số của tỷ số giá trị thị trường trên giá trị sổ sách của công ty
trong quá khứ. Kết quả hồi quy là đòn bẩy tương quan ngược chiều với tỷ số
này của giá thị trường trong quá khứ.
Sự ảnh hưởng của giá thị trường trong quá khứ đến cấu trúc vốn có ý
nghĩa kinh tế và ý nghĩa thống kê mạnh mẽ. Mối tương quan là rõ ràng cho dù
đòn bẩy được đo bằng giá trị sổ sách hoặc giá trị thị trường hay bao gồm
nhiều biến độc lập khác.
Sự ảnh hưởng của giá thị trường trong quá khứ đến cấu trúc vốn cũng
khá bền vững. Chúng tôi chứng minh điều này bằng ba cách riêng biệt:
- Kiểm định đầu tiên sử dụng hồi quy đòn bẩy để kiểm tra tỷ số giá trị
thị trường trên giá trị sổ sách hiện tại. Thực tế là biến này giúp giải thích các
kết quả của cấu trúc vốn, sự biến động tạm thời trong giá thị trường có thể
dẫn đến thay đổi trong cấu trúc vốn.
15
- Kiểm định thứ hai là hồi quy kiểm soát cấp độ cấu trúc vốn ban đầu
và xem giá thị trường làm thay đổi cấu trúc vốn như thế nào.
- Kiểm định thứ ba là nhìn vào độ trễ của biến bình quân có trọng số
giá trị thị trường trên giá trị sổ sách. Tác động của giá trị thị trường trong quá
khứ hơn 10 năm. Ví dụ, cấu trúc vốn của năm 2000 phụ thuộc nhiều vào sự
thay đổi của tỷ số giá trị thị trường trên giá trị sổ sách từ năm 1990 và trước
đó, thậm chí chi phối tỷ số giá trị thị trường trên giá trị sổ sách của năm 1999.
Điểm mấu chốt là biến động về giá trị thị trường có tác động đến cấu
trúc vốn dài hạn. Thật khó để giải thích kết quả này trong phạm vi lý thuyết
truyền thống về cấu trúc vốn.
Trong lý thuyết đánh đổi, giá trị thị trường trên giá trị sổ sách là một
chỉ số về cơ hội đầu tư, rủi ro, hoặc một số yếu tố quyết định khác của tỷ lệ
đòn bẩy tối ưu. Lý thuyết đánh đổi dự đoán biến động trong tỷ số giá trị thị
trường trên giá trị sổ sách hoặc bất kỳ biến nào khác chỉ có tác động tạm thời.
Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy rằng tỷ số giá trị thị trường trên giá trị sổ
sách có tác động rất lâu dài.
Trong lý thuyết trật tự phân hạng của Myers (1984), lựa chọn bất lợi
khiến người quản lý tránh phát hành vốn chủ sở hữu. Một mô hình khác dự
đoán rằng các công ty với các cơ hội đầu tư sắp tới có thể giảm đòn bẩy để
tránh phát hành vốn chủ sở hữu trong tương lai. Trong lý thuyết cấu trúc vốn
dựa trên hệ thống quản lý của Zwiebel (1996), giá trị thị trường cao cho phép
người quản lý gia tăng vốn chủ sở hữu và cho phép họ duy trì, không phát
hành nợ cần thiết để khôi phục lại tỷ lệ nợ tối ưu.
Theo ý kiến của chúng tôi, giải thích đơn giản và thực tế về kết quả,
cấu trúc vốn là kết quả tích lũy của những nỗ lực để “chọn đúng thời điểm thị
trường”. Đây là một lý thuyết đơn giản về cấu trúc vốn.
16
Có hai cách giải thích về tính thời điểm của thị trường vốn cổ phần
tiềm ẩn trong kết quả của chúng tôi. Một là cách của Myers và Majluf (1984)
với các nhà quản lý và các nhà đầu tư lý trí. Mức độ lựa chọn bất lợi khác
nhau giữa các công ty hay các giai đoạn tỷ lệ nghịch với tỷ số giá trị thị
trường trên giá trị sổ sách. Cách thứ hai là các nhà quản lý cho rằng các nhà
đầu tư không lý trí tăng vốn chủ sở hữu khi chi phí vốn chủ sở hữu thấp bất
thường. Điều này giải thích sự thay đổi trong tỷ số giá trị thị trường trên giá
trị sổ sách là một hướng cho nhận thức quản lý giá trị. Để giải thích tác động
thực tế của việc định giá trong quá khứ, cả hai phiên bản yêu cầu chi phí điều
chỉnh, có lẽ liên quan đến lựa chọn bất lợi, làm giảm lợi ích của tính thời điểm
thị trường.
Điều quan trọng là cần lưu ý rằng phiên bản thứ hai của xác định thời
điểm thị trường không yêu cầu đối với thị trường thực sự không hiệu quả. Nó
không yêu cầu các nhà quản lý dự đoán lãi cổ phiếu một cách thành công. Giả
định quan trọng chỉ đơn giản là các nhà quản lý tin rằng họ có thể xác định
thời điểm thị trường.
Kết quả của chúng tôi là giống nhau khi xem xét hai phiên bản của việc
định thời điểm thị trường. Các yếu tố của từng phiên bản có mặt trong mô
hình tài chính của Stein (1996). Trong cuộc khảo sát của Graham và Harvey
(2001), giám đốc tài chính thừa nhận cần cố gắng để xác định thời điểm thị
trường vốn cổ phần, và hai phần ba của những người đã được coi là phát hành
cổ phiếu phổ thông báo cáo rằng "số tiền mà cổ phiếu bị định giá thấp hoặc
định giá cao" là một xem xét quan trọng. Bằng chứng khảo sát này hỗ trợ các
giả định quan trọng trong lý thuyết xác định thời điểm thị trường, đó là các
nhà quản lý tin rằng họ có thể định xác định thời điểm thị trường nhưng
không thể phân biệt giữa việc định giá sai và các phiên bản thông tin bất cân
xứng của thời điểm thị trường.
17
Bằng chứng hỗ trợ việc định giá sai từ lãi cổ phiếu thấp do phát hành
vốn chủ sở hữu và lợi nhuận cao sau khi mua lại trong dài hạn. Độ lớn của
những tác động này cho thấy các nhà quản lý trung bình thành công khi xác
định thời điểm thị trường. Ví dụ, Loughran và Ritter (1995) chỉ ra rằng lợi
nhuận bất thường về lâu dài để phát hành vốn cổ phần, đo lường một cách thô
sơ tầm quan trọng của việc định giá sai, là một biện pháp thô của việc nhận ra
các thông tin bất đối xứng. Một bằng chứng là Baker và Wurgler (2000) cho
thấy rằng tổ chức phát hành vốn, có thể xác định thời điểm các thành phần thị
trường của chi phí vốn. Điều này cho thấy rằng việc định giá sai có thể là
động lực chính cho việc định thời điểm thị trường.
Trong thế giới thị trường vốn tập trung và hiệu quả truyền thống của
Modigliani và Miller (1958), chi phí của các hình thức tài trợ khác nhau
không thay đổi độc lập. Ngược lại, sự khác biệt của bằng chứng cho thấy rằng
xác định thời điểm thị trường vốn cổ phần là một khía cạnh quan trọng của
chính sách tài trợ thực. Bằng chứng này có từ sự phân tích các quyết định tài
trợ thực tế, phân tích tỷ suất sinh lợi dài hạn sau việc phát hành hay mua lại
vốn cổ phần, phân tích thực hiện và dự báo thu nhập qua phát hành cổ phiếu,
và các cuộc điều tra của các nhà quản lý.
Trong bài báo này, chúng tôi theo dõi những điều tiềm ẩn trong tính
thời điểm thị trường vốn cổ phần thông qua cấu trúc vốn, sử dụng tỷ lệ giá trị
thị trường trên giá trị sổ sách để đo lường các cơ hội xác định thời điểm thị
trường được cảm nhận bởi nhà quản lý. Chúng tôi thấy rằng những công ty
đòn bẩy thấp có xu hướng tăng vốn khi cổ phiếu của họ được định giá cao, và
ngược lại những công ty đòn bẩy cao có xu hướng tăng vốn khi cổ phiếu được
định giá thấp. Chúng tôi thấy sự biến động trong việc định giá trên thị trường
có tác động lớn đến cấu trúc vốn vẫn tồn tại ít nhất một thập kỷ. Những kết
quả này vẫn chưa được giả thích rõ ràng trong phạm vi lý thuyết truyền thống
18
về cấu trúc vốn.
Lời giải thích thực tế nhất cho cấu trúc vốn phần lớn là kết quả tích lũy
của những nỗ lực quá khứ để xác định thời điểm thị trường vốn cổ phần. Theo
lý thuyết này, không có cấu trúc vốn tối ưu, vì vậy những quyết định tài trợ
xác định thời điểm thị trường sẽ tích lũy theo thời gian vào kết quả cấu trúc
vốn. Lý thuyết xác định thời điểm thị trường đơn giản này về cấu trúc vốn
xuất hiện có sức mạnh giải thích đáng kể.
2.2.2. Lý thuyết định thời điểm thị trường theo quan điểm của
Sibel và Deniz
Năm 2013, bài nghiên cứu của Sibel và Deniz với chủ đề “Lý thuyết
định thời điểm thị trường có tác động đến cấu trúc vốn? Bằng chứng thực
nghiệm từ thị trường mở” như sau: Quyết định làm giảm chi phí vốn có tầm
quan trọng để tối đa giá trị thị trường của doanh nghiệp. Lý thuyết Modigliani
và Miller (1958) đã đưa ra các nhân tố làm giảm chi phí vốn và nợ, đồng thời
giải thích công ty đạt đến cấu trúc vốn tối ưu như thế nào. Theo Modigliani và
Miller (1958), các doanh nghiệp đi vay có thể giảm chi phí vốn bằng cách trừ
đi tiền lãi từ khoản thuế phải trả. Tuy nhiên chi phí vốn sẽ gia tăng sau một
thời điểm nhất định do đối mặt với rủi ro tài chính. Lý thuyết MM cho rằng
công ty không thể thay đổi chi phí vốn bằng cách thay đổi tỉ lệ nợ/ vốn cổ
phần dựa trên giả thiết không có thuế, chi phí đại diện, chi phí phá sản và
thông tin bất đối xứng. Nói cách khác, chính sách tài chính của doanh nghiệp
độc lập với giá trị thị trường của doanh nghiệp. Giả thiết không thực tế của lý
thuyết này đã khám phá ra các lý thuyết khác như lý thuyết đánh đổi cấu trúc
vốn, lý thuyết trật tự phân hạng và lý thuyết định thời điểm thị trường đã giải
thích các quyết định trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp.
19
Lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn được giới thiệu bởi Bradley et al.
(1984) dựa trên việc tối đa giá trị doanh nghiệp bằng cách tối ưu tỉ lệ nợ. Dựa
trên việc khấu trừ khoản tiền lãi từ khoản thuế phải trả là một thuận lợi, rủi ro
phá sản gia tăng từ việc vượt nợ quá mức là một bất lợi của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp xem xét lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn để có thể tối đa hóa giá
trị doanh nghiệp bằng cách đặt ra mục tiêu tỉ lệ nợ ảnh hưởng đến lợi ích của
thuế và chi phí phá sản của nợ.
Ngược lại với lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn, lý thuyết trật tự phân
hạng không cần phải đặt ra tỉ lệ nợ/vốn cổ phần, mà chỉ đưa ra giải pháp tài
chính bên trong của doanh nghiệp. Theo lý thuyết trật tự phân hạng, hệ thống
phân cấp tài chính của việc sử dụng nguồn tài nguyên theo một trật tự là quỹ
nội bộ, vay mượn không có rủi ro và vốn cổ phần. Lý thuyết trật tự phân hạng
được ra đời dựa trên thông tin bất đối xứng giải thích tại sao công ty có lợi
nhuận càng cao càng vay mượn nhiều và ngược lại. Trong thị trường không
hiệu quả và phân khúc thị trường, các doanh nghiệp có thể hình thành cấu trúc
nợ/vốn cổ phần khác nhau dựa trên tiền mặt và điều kiện thị trường vốn.
Lý thuyết định thời điểm thị trường được phát triển bởi Baker và
Wurgler (2002), dựa trên quan điểm là doanh nghiệp có thể đạt đến cấu trúc
vốn tối ưu trong các thời điểm hoạt động của tiền mặt và cấu trúc vốn. Doanh
nghiệp chỉ nên vay mượn hay phát hành vốn cổ phần chỉ khi điều kiện thị
trường là thích hợp. Theo lý thuyết, việc phát hành chứng khoán của công ty
phụ thuộc vào các thời điểm thay đổi liên quan đến chi phí vốn cổ phần và nợ.
Thời gian doanh nghiệp phát hành vốn cổ phần khi giá cổ phiếu được đánh
giá cao và ngược lại. Theo lý thuyết, nếu như cổ phiếu bị đánh giá thấp trong
hoạt động IPO thì việc tốt hơn là doanh nghiệp nên đi vay, ngược lại thì
doanh nghiệp nên phát hành cổ phiếu. Doanh nghiệp mà nắm giữ cổ phiếu có
20
thể giao dịch thì được kỳ vọng là nên đi vay khi giá trị thị trường của cổ phiếu
giảm và phát hành cổ phần mới khi giá trị thị trường cổ phiếu tăng. Với kỳ
vọng này, nếu giá trị thị trường lớn hơn giá trị sổ sách, việc tốt hơn là nên
phát hành cổ phiếu mới hơn là đi vay cho doanh nghiệp, tuy nhiên trong hoạt
động dài hạn cổ phiếu sẽ giảm.
Doanh nghiệp có thể nhận được lợi nhuận trong từng thời điểm và lợi
nhuận bất thường dựa vào hoạt động IPO khi giá trị thị trường cổ phiếu hay
số lượng IPO gia tăng. Mục đích của bài nghiên cứu là kiểm định lý thuyết
định thời điểm thị trường ảnh hưởng đến cấu trúc vốn dựa vào hoạt động IPO
ở Thổ Nhĩ Kỳ. Mục đích đầu tiên là kiểm định tác động của lý thuyết định
thời điểm thị trường đến số lượng vốn cổ phần phát hành bởi doanh nghiệp
IPO, thứ hai là kiểm định tác động của lý thuyết định thời điểm thị trường lên
cấu trúc vốn. Chúng tôi kết luận lý thuyết định thời điểm thị trường không có
giá trị ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Khi kiểm định thống kê mô tả của các công ty, chúng tôi nhận ra rằng
giá trị sổ sách của đòn bẩy giảm đáng kể trong năm IPO và tăng sau đó
(ALTI, 2006). Đồng thời, lợi nhuận của công ty giảm đáng kể trong năm IPO.
Phát hiện này phù hợp với nghiên cứu của Jain và Kini (1994), ALTI (2006),
Guney và Hussain (2010). Khác với kết luận trên, tỷ lệ M/B tăng sau sự kiện
IPO (ALTI, 2006; Guney và Hussain, 2010). Ở Thổ Nhĩ Kỳ, một số bài
nghiên cứu tìm thấy bằng chứng việc của định giá thấp của IPO ở Thổ Nhĩ Kỳ
(Eraydin, 2008). Chúng tôi nghĩ rằng phát hiện của chúng tôi về việc gia tăng
tỉ lệ M/B sau sự kiện IPO có thể phát sinh từ việc định giá thấp của IPO ở Thổ
Nhĩ Kỳ.
Trong giai đoạn tiếp theo, chúng tôi kiểm tra sự khác nhau của các
doanh nghiệp trong thị trường HOT - COLD và cố gắng giải thích tại sao các
21
doanh nghiệp trong thị trường HOT có khuynh hướng phát hành nhiều vốn cổ
phần hơn, ngoại trừ việc quan tâm đến thời điểm thị trường. Thứ nhất, các
doanh nghiệp có xu hướng nổ lực giảm tỷ lệ đòn bẩy từ mức tỷ lệ đòn bẩy cao
trước đó. Chúng tôi thấy rằng các công ty thị trường HOT có tỷ lệ đòn bẩy
cao trước thời điểm IPO. Tuy nhiên, sự khác biệt này không đáng kể. Vì vậy,
đòn bẩy không phải là lý do giải thích để phát hành nhiều cổ phiếu hơn. Lời
giải thích thứ hai, các công ty thị trường HOT có nhiều cơ hội phát triển hơn
và vì vậy có khuynh hướng gia tăng vốn nhiều hơn các doanh nghiệp trên thị
trường COLD. Tuy nhiên, chúng tôi không thể tìm thấy bất kỳ bằng chứng
nào cho thấy các công ty trên thị trường HOT có nhiều cơ hội phát triển hơn,
do vậy chúng có mức độ đầu tư thấp hơn so với các công ty trên thị trường
COLD. Lời giải thích thứ ba là tại sao các công ty thị trường HOT có xu
hướng phát hành nhiều cổ phiếu hơn lại có ít lợi nhuận hơn các công ty có xu
hướng phát hành nhiều cổ phiếu trong điều kiện thị trường thuận lợi, vì trên
thị trường HOT thì các công ty khó huy động vốn hơn so với trong điều kiện
thuận lợi. Chúng tôi nhận ra rằng các công ty thị trường HOT đạt ít lợi nhuận
hơn so với những công ty thị trường COLD và điều này có thể là một lý do tại
sao các công ty thị trường HOT có xu hướng phát hành nhiều cổ phiếu hơn.
Các công ty thị trường HOT có xu hướng huy động vốn nhiều hơn các công
ty trên thị trường COLD. Trong khi mức độ đòn bẩy và lợi nhuận thấp của các
công ty có thể gây ra ảnh hưởng đến thị trường HOT, các cơ hội phát triển
không thể giải thích lý do tại sao các công ty thị trường HOT có xu hướng
phát hành nhiều cổ phiếu hơn.
Sau đó, chúng tôi kiểm định tác động của thời điểm thị trường đến cấu
trúc vốn nhưng lại không tìm thấy bằng chứng về tác động của thời điểm thị
trường lên cấu trúc vốn. Nói cách khác, cấu trúc vốn của công ty không bị ảnh
hưởng bởi việc công ty đang trong thị trường HOT hoặc COLD trong ngắn
22
hạn. Bởi vì theo lý thuyết thời điểm thị trường đề nghị nên phát hành cổ phiếu
khi cổ phiếu được định giá cao và vay khi giá cổ phiếu bị định giá thấp, chúng
ta có thể nói rằng các nhà quản lý không đạt được lợi nhuận qua việc định giá
cao bởi việc phát hành cổ phiếu ở Thổ Nhĩ Kỳ.
2.2.3. Tiếp cận thị trường HOT và COLD.
Năm 2006, Alti với bài nghiên cứu “Tính ổn định về tác động của thời
điểm thị trường lên cấu trúc vốn” kiểm tra ảnh hưởng của cấu trúc vốn lên
thời điểm thị trường thông qua hoạt động IPO. Bài nghiên cứu đưa ra rằng các
doanh nghiệp IPO trên thị trường HOT phát hành nhiều vốn cổ phần hơn và
có tỉ lệ đòn bẩy thấp hơn các doanh nghiệp trên thị trường COLD. Tuy nhiên
sau thời điểm IPO, các doanh nghiệp trên thị trường HOT sẽ gia tăng tỉ lệ đòn
bẩy bằng việc phát hành nợ và giảm vốn cổ phần so với các doanh nghiệp
trong thị trường COLD. Vào cuối năm thứ hai sau thời điểm IPO, tác động
của thời điểm thị trường lên cấu trúc vốn hoàn toàn biến mất.
Định thời điểm thị trường vốn cổ phần là một trong những nhân tố cơ
bản hình thành nên các quyết định tài chính của doanh nghiệp. Khuynh hướng
của doanh nghiệp khi phát hành vốn cổ phần là chi phí của vốn cổ phần thấp.
Bằng chứng này có sức thuyết phục. Nghiên cứu việc đánh giá thị trường qua
việc phát hành vốn cổ phần được thực hiện bởi những nghiên cứu khác nhau
qua việc định giá của các nhà phát hành vốn cổ phần và bởi kết quả khảo sát
của các nhà quản lý trong dài hạn. Trong khi việc thu thập bằng chứng tạo ra
một tác động mạnh mẽ lên sự tồn tại lý thuyết định thời điểm thị trường. Hầu
hết các kiểm định thực tế của thời điểm thị trường dựa vào mối quan hệ tích
cực giữa việc đánh giá giá trị thị trường của doanh nghiệp và việc phát hành
vốn cổ phần của nó.
23
Một câu hỏi nghiên cứu gần đây đã nhận được sự chú ý đáng kể là tác
động lâu dài của thời điểm thị trường lên cấu trúc vốn. Xác định thời điểm thị
trường đối với những công ty có lịch sử huy động vốn có tỷ lệ giá trị thị
trường trên sổ sách cao, Baker and Wurgler tìm thấy tính ổn định của thời
điểm thị trường lên đòn bẩy kéo dài hơn 10 năm. Tuy nhiên, biện pháp đo đạc
thời điểm thị trường của các công ty phụ thuộc vào những lời phê bình tương
tự như trong các nghiên cứu trước đây.
Trong bài nghiên cứu này, tôi tập trung vào một sự kiện tài chính duy
nhất, phát hành lần đầu ra công chúng, nhằm để nắm bắt thời điểm thị trường
và tác động của nó đến cấu trúc vốn. Thị trường IPO xem như một phòng thí
nghiệm để phân tích thời điểm thị trường bởi một số lý do. Đầu tiên, IPO
được xem như là một sự kiện tài chính quan trọng nhất trong cuộc đời của
một doanh nghiệp cổ phần. Do đó, tiền chi trả từ việc tính toán thời điểm IPO,
dù căn cứ thực tế hay cảm nhận của tổ chức phát hành, cũng có tiềm năng khá
cao. Thứ hai, các nhà đầu tư phải đối mặt với nhiều bất ổn và thông tin bất đối
xứng ở một mức độ cao hơn khi định giá các công ty IPO so với các công ty
đại chúng trưởng thành. Do đó, IPO cung cấp nhiều cơ hội hơn cho việc định
giá sai, đó cũng là nguồn gốc sâu xa của việc cân nhắc thời điểm thị trường.
Thứ ba, và quan trọng nhất, các ảnh hưởng của thời điểm thị trường không
xuất hiện ở đâu nhiều bằng trong thị trường IPO. Dựa vào kết quả của hai lý
do đầu tiên được đề xuất ở trên, chu kỳ khối lượng tại thời điểm IPO nhiều
hơn rõ rệt và phổ biến hơn so với chu kỳ các loại hoạt động tài chính khác. Do
vậy, các mẫu IPO có thể được đánh giá cao nhằm tiết lộ về động cơ của thời
điểm thị trường phân biệt với nhu cầu chính sách tài chính dài hạn.
Thước đo thời điểm thị trường trong bài rất trực tiếp và đơn giản: IPO
diễn ra trên thị trường HOT được đặc trưng bởi khối lượng IPO lớn của tổ
chức phát hành, và ngược lại đối với thị trường COLD. Lý do nếu tổ chức
24
phát hành coi thị trường HOT là cơ hội với chi phí vốn chủ sở hữu thấp, họ sẽ
phản ứng bằng cách phát hành cổ phiếu nhiều hơn bình thường. Ngược lại,
đối với hoạt động IPO trong thị trường COLD, họ sẽ giữ vốn phát hành ở một
mức tối thiểu vì điều kiện thị trường kém thuận lợi hơn so với bình thường.
Do đó, việc cố gắng nắm bắt hành vi của thời điểm thị trường bằng
cách liên kết số lượng vốn chủ sở hữu mà một công ty IPO phát hành trên thị
trường HOT hoặc COLD tại thời điểm phát hành của nó. Phương pháp đo đạc
thị trường là một hàm của điều kiện thị trường. Nếu có một ảnh hưởng đáng
kể của việc phát hành cổ phần trên thị trường HOT, nó có khả năng làm giảm
tỷ lệ đòn bẩy trong ngắn hạn. Câu hỏi chính cần quan tâm là các doanh nghiệp
trên thị trường HOT có tiếp tục tác động để giảm tỷ lệ đòn bẩy thấp trong
những năm tiếp theo của IPO.
Các công ty trên thị trường HOT và COLD không khác nhau về mức
độ đòn bẩy trước thời điểm IPO, vì vậy nguyên nhân tránh khủng hoảng tài
chính không phải là khả năng phát hành vốn cổ phần nhiều hay ít trong thị
trường HOT. Sự khác biệt về đặc điểm tăng trưởng không giải thích ảnh
hưởng của thị trường HOT hoặc tại sao các công ty thị trường HOT đầu tư ít
hơn so với thị trường COLD trong năm IPO, và đầu tư tương tự trong những
năm tiếp theo. Vốn chủ sở hữu thêm vào của các công ty trong thị trường
HOT chủ yếu là phát hành thêm với số dư tiền mặt. Điều này phù hợp với ý
tưởng rằng định thời điểm thị trường phát hành nhiều vốn cổ phần hơn so với
nhu cầu vốn của họ. Hai nhóm của tổ chức phát hành cũng khác nhau về tỷ lệ
lợi nhuận của họ. Thị trường HOT dường như thu hút các công ty có lợi
nhuận tương đối thấp, cảm thấy khó khăn hoặc quá rủi ro để hoạt động IPO
vào những thời điểm hoạt động thấp.
25
Có một sự khác biệt đáng kể trong tỷ lệ chi trả cổ tức của các công ty
trên thị trường HOT và COLD trong đợt IPO. Các công ty IPO không có hoặc
thậm chí chi trả cổ tức rất thấp trong nhiều năm sau hoạt động IPO; điều này
cũng đúng cho hầu hết các tổ chức phát hành trong thị trường COLD. Trường
hợp ngoại lệ là trước thời điểm IPO, một phần khá lớn các công ty thị trường
HOT chi trả cho cổ đông lượng cổ tức đặc biệt lớn được tài trợ từ hoạt động
IPO. Kết quả này phản ánh nhận thức của các tổ chức phát hành trên thị
trường HOT là cơ hội cho phép các cổ đông thanh lý tài khoản tương đối dễ
dàng.
Sau khi thiết lập phân loại thị trường HOT – COLD như một thước đo
thời gian, tôi chuyển sang các tác động của cấu trúc vốn đến thời điểm thị
trường và thời điểm thị trường làm giảm đòn bẩy trong ngắn hạn. Trong khi
tỷ lệ đòn bẩy giảm đáng kể tại thời điểm IPO trên cả thị trường HOT và
COLD, thì cũng có sự suy giảm đáng kể đối với các công ty trên thị trường
HOT.
Tác động tiêu cực của thời điểm thị trường lên đòn bẩy có sự ổn định
rất thấp, tuy vậy một năm sau IPO vẫn còn ảnh hưởng hơn một nửa. Hai năm
sau khi IPO, ảnh hưởng thị trường HOT hoàn toàn đảo ngược. Do đó, thời
điểm thị trường dường như chỉ có tác động ngắn hạn đến cấu trúc vốn. Một
phân tích về hoạt động tài chính trong 2 năm phát giác rằng các công ty thị
trường HOT theo một chính sách đảo ngược của việc ảnh hưởng của thời
điểm thị trường lên đòn bẩy, trong khi các công ty trên thị trường COLD phát
hành tỷ lệ đòn bẩy cao hơn tại thời điểm IPO, sau đó đòn bẩy không thay đổi
đáng kể. Sự đảo ngược của nợ và tài khoản phát hành vốn chủ sở hữu của các
công ty trên thị trường HOT là phát hành nhiều nợ và ít vốn cổ phần hơn so
với các công ty trên thị trường COLD. Vào cuối năm thứ hai sau khi IPO,
công ty trên thị trường HOT và COLD không còn phân biệt trong tỷ lệ đòn
26
bẩy của họ. Do đó, sự khác biệt vốn chủ sở hữu và hoạt động phát hành nợ
biến mất từ thời điểm đó.
Nhìn chung, kết quả này phù hợp với một phiên bản sửa đổi của điểm
cân bằng truyền thống về cấu trúc vốn, trong đó thời điểm thị trường là một
yếu tố ngắn hạn. Thời điểm thị trường đóng một vai trò rất quan trọng trong
việc hình thành hoạt động tài chính và kết quả là dẫn đến sai lệch mục tiêu
đòn bẩy trong ngắn hạn. Tuy nhiên, những sai lệch bị đảo ngược một cách
nhanh chóng, cho thấy sự cân bằng cơ bản các mục tiêu có tác động không
đáng kể đến giá trị công ty. Kết quả không ủng hộ quan điểm Baker và
Wurgler (2002) cho rằng cấu trúc vốn chủ yếu là kết quả tích lũy của những
nỗ lực trong quá khứ tác động đến thời điểm của thị trường vốn.
2.2.4. Phương pháp đo đạc thời điểm thị trường
Chứng cứ đo đạc thời điểm thị trường đến từ nhiều nguồn khác nhau.
Bắt đầu với Taggart (1977), nhiều bài nghiên cứu minh họa xu hướng của
doanh nghiệp phát hành vốn cổ phần khi việc định giá trên thị trường cao liên
quan đến giá trị M/B hay giá trị trong quá khứ. Một phương pháp khác để
phát hiện việc định giá cao của vốn cổ phần là lần lượt phân tích hiệu suất lợi
nhuận chứng khoán của các tổ chức phát hành. Ritter (1991), Loughran và
Ritter (1995) đưa ra tài liệu rằng IPO và việc phát hành vốn cổ phần có hiệu
quả thấp hơn thương hiệu của họ trong dài hạn. Hiệu quả thấp được biểu lộ rõ
hơn đối với hoạt động IPO trên thị trường HOT (Ritter (1991)) và hoạt động
IPO của các doanh nghiệp mà ban đầu được các nhà phân tích đánh giá cao
(Rajan and Servaes (1997)). Những phát hiện này đưa ra sự chứng minh hơn
nữa cho việc tập trung vào sự khác nhau giữa thị trường HOT và COLD để
xác định ảnh hưởng của thời điểm thị trường. Cuối cùng, bằng chứng khảo sát
của Graham và Harvey (2001) tiết lộ rằng định thời điểm thị trường là mối
27
quan tâm cơ bản trong hoạt động của doanh nghiệp: các CFO của doanh
nghiệp thừa nhận rằng xem xét thời điểm thị trường đóng vai trò quan trọng
trong các quyết định tài chính của doanh nghiệp.
Nhấn mạnh về sự tồn tại ảnh hưởng của thời điểm thị trường, Baker và
Wurgler (2002) đã nghiên cứu ảnh hưởng của thời điểm thị trường bằng cách
tập trung vào chuỗi thời gian tỉ lệ M/B trong lịch sử. Đặc biệt, cách đo đạc
thời điểm thị trường của họ được tính bằng trung bình trọng số của tỉ lệ M/B
trong quá khứ của các doanh nghiệp, trong đó các trọng số chính là số lượng
vốn bên ngoài gia tăng bởi doanh nghiệp. Baker và Wurgler (2002) chỉ ra
rằng các biến thời điểm trong lịch sử sẽ tiên đoán tỉ lệ đòn bẩy ở hiện tại và
trong tương lai. Để ngăn chặn mối liên kết giả tạo do quan hệ tương quan giữa
việc đo đạc thời điểm thị trường và các cơ hội đầu tư, Baker và Wurgler đã
phát hiện ra một sức mạnh tiềm năng trong hồi quy là kiểm soát tỉ lệ M/B tại
thời điểm đòn bẩy được quan sát. Thêm vào khía cạnh tăng trưởng, tỉ lệ M/B
bị ảnh hưởng bởi một số nhân tố như tình trạng hiện tại của nền kinh tế hay
kỹ thuật vốn của doanh nghiệp. Tóm lại 2 doanh nghiệp có tỉ lệ M/B khác
nhau thì sẽ có cơ hội tăng trưởng khác nhau. Nếu một trong những doanh
nghiệp này có lịch sử tăng trưởng vốn với tỉ lệ M/B cao thì sẽ dễ dàng trở
thành một doanh nghiệp tăng trưởng, khi hoạt động tài chính trong quá khứ
ổn định với khuynh hướng tăng trưởng.
Trong những bài gần đây, Kayhan và Titman (2006) cũng tạo ra quan
điểm rằng sự quan trọng của các chuỗi M/B lịch sử trong hồi quy đòn bẩy có
thể làm giảm nhiễu đối với tỉ lệ M/B trong hiện tại. Đặc biệt, Kayhan và
Titman đã phân tích trung bình trọng số tỉ lệ M/B và hiệp phương sai giữa tỉ
lệ M/B và thiếu hụt tài chính. Họ đưa ra rằng kết quả ổn định của Baker và
Wurgler được tác động chủ yếu bởi trung bình tỉ lệ M/B hơn là hiệp phương
sai giữa tỉ lệ M/B và thiếu hụt tài chính. Tương tự, Leary và Roberts (2005)
28
tranh cãi với các ảnh hưởng của lịch sử bằng việc đưa ra bằng chứng là doanh
nghiệp có khuynh hướng cân bằng lại đòn bẩy trong một khoảng tối ưu. Phát
triển theo lối phê bình khác, Hennessy and Whited (2004) đưa ra câu hỏi để
giải thích về lịch sử của cấu trúc vốn, bằng cách đưa ra một mô hình cân bằng
động không có cơ hội thời điểm thị trường để có thể sao chép lại mối liên kết
quan sát thực nghiệm giữa chuỗi M/B trong lịch sử và đòn bẩy trong hiện tại.
Trong mô hình của họ, tài chính của một doanh nghiệp có tỉ lệ M/B tăng
trưởng cao cùng với vốn cổ phần để tránh khủng hoảng tài chính. Vấn đề lợi
nhuận khi một công ty không thu hút sự gia tăng đòn bẩy vì lý do thuế cá
nhân, thì việc cần thiết là phát hành nợ làm gia tăng cổ tức cho các cổ đông.
Bằng cách nhận dạng các doanh nghiệp thị trường HOT, bài nghiên cứu
không quan tâm việc sử dụng tỉ lệ M/B. Việc phân loại thị trường HOT –
COLD không phản ánh được toàn bộ thị trường. Hơn nữa một tranh cãi rằng
xác định thời điểm thị trường là một xem xét quan trọng, thậm chí ngay cả
trong thị trường COLD, do đó hoạt động trong thị trường HOT đại diện cho
khía cạnh lợi nhuận của thời điểm thị trường. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng
mục tiêu cơ bản của bài nghiên cứu của Alti (2006) là phân loại thị trường
HOT- COLD như một công cụ để phục vụ cho hiện tượng định thời điểm thị
trường tổng quát hơn.
Định thời điểm thị trường qua việc phân loại thị trường HOT được xem
như là chủ đề làm phát sinh việc đo đạc dựa trên đánh giá thị trường, mặc dù
ở mức độ thấp hơn. Ví dụ, các doanh nghiệp trong thị trường HOT có cơ hội
phát triển cao nhưng không được phản ánh toàn bộ qua các biến kiểm soát sử
dụng cho mục tiêu đòn bẩy. Bằng chứng trước đó cho thấy rằng các mối quan
tâm không giống nhau, có một số điểm khác nhau trong hoạt động của thị
trường HOT và COLD (Helwege và Liang (2004)).
29
Tóm lại bài nghiên cứu của Alti (2006) phân tích ảnh hưởng của cấu
trúc vốn đến thời điểm thị trường của doanh nghiệp. Trong khi những bài
nghiên cứu trước tìm ra được vấn đề đặc biệt khi nghiên cứu mối quan hệ
giữa tác động của thời điểm thị trường và cấu trúc vốn động, các bằng chứng
thuyết phục cho thấy ảnh hưởng của thời điểm thị trường đến doanh nghiệp,
xem xét ảnh hưởng của các hoạt động tài chính để chứng tỏ nhiều vấn đề: đó
là cách đo đạc phổ biến của thời điểm thị trường tương ứng với các nhân tố
khác của chính sách tài chính. Trong bài nghiên cứu này, giả định IPO như là
một điều kiện để tìm thấy nhiều chuỗi đo đạc thời điểm thị trường. Chu kỳ
của lượng IPO rất rõ ràng và khi giá trị lên đến đỉnh thì thu hút một lượng lớn
các doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp khác nhau tạo cho thị trường
IPO như là một phòng thí nghiệm để xem xét ảnh hưởng của thời điểm thị
trường. Phân tích thực nghiêm đã chứng minh quan điểm này. Thời điểm thị
trường xác định doanh nghiệp tham gia vào thị trường và phát hành nhiều vốn
cổ phần hơn trên thị trường HOT so với thị trường COLD. Cuối cùng, kết quả
cho thấy thời điểm thị trường là một yếu tố quan trọng của hoạt động tài chính
trong ngắn hạn, nhưng ảnh hưởng trong dài hạn còn bị hạn chế. Chính sách
cấu trúc vốn của doanh nghiệp trong dài hạn phần lớn ổn định với sự tồn tại
của mục tiêu đòn bẩy.
2.3. Tóm tắt các nghiên cứu khác liên quan lý thuyết định thời điểm thị
trường
Ritter (1984) nhận thấy rằng trên thị trường HOT sẽ có lượng IPO cao
hơn và phù hợp với điều kiện thị trường hơn IPO trên thị trường COLD. Do
vậy, doanh nghiệp phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng với giá và tỉ lệ
M/B cao trên thị trường HOT và vì vậy những doanh nghiệp này sẽ phát hành
lượng IPO nhiều hơn phát hành vốn cổ phần.
30
Stultz (1990) nhận thấy rằng tỉ lệ M/B là thước đo cấu hình tăng trưởng
và doanh nghiệp đẩy mạnh sự tăng trưởng này thông qua việc huy động vốn
cổ phần hơn là phát hành nợ để tránh những vấn đề liên quan đến nợ. M/B
được sử dụng như một cấu hình tăng trưởng hay lựa chọn chi phí và doanh
nghiệp phát hành vốn cổ phần khi tỉ lệ M/B thấp.
Welch (2004) kết luận rằng giá trị thị trường của cấu trúc vốn được
quyết định mạnh mẽ bởi giá cổ phiếu trong quá khứ và sự thay đổi trong tỉ lệ
đòn bẩy không bị ảnh hưởng bởi lý thuyết định thời điểm thị trường và những
cú sốc về giá có ảnh hưởng lâu dài đến cấu trúc vốn.
Huang and Ritter (2005) khảo sát mô hình chuỗi thời gian của các
quyết định tài chính bên ngoài. Phù hợp với lý thuyết định thời điểm thị
trường của cấu trúc vốn, quỹ giao dịch công khai các công ty Hoa Kỳ lớn hơn
nhiều tỉ lệ thâm hụt tài chính của họ với vốn bên ngoài khi chi phí vốn chủ sở
hữu thấp. Các công ty có thể điều chỉnh chi phí thấp hơn để nhận thấy việc
phát hành cổ phiếu tương quan âm ngược chiều với phí bảo hiểm rủi ro vốn
cổ phần và việc phát hành nợ thì liên quan mạnh đến lãi suất thực. Dưới ảnh
hưởng của lý thuyết định thời điểm thị trường, thì việc phát hành cổ phiếu thì
không cần thiết do mắc hơn việc phát hành nợ khi phí bảo hiểm rủi ro của vốn
cổ phần là âm.
Alti (2006) đã sử dụng việc phân loại thị trường “HOT - COLD” như là
việc đo đạc thời điểm phát hành cổ phần và phát hiện ra rằng các doanh
nghiệp IPO hoạt động trên thị trường “HOT” được coi là thời điểm có ý nghĩa
để phát hành cổ phiếu trên thị trường so với các doanh nghiệp IPO trên thị
trường “COLD” và tỉ lệ đòn bẩy của các doanh nghiệp IPO hoạt động trên thị
trường “HOT” thì thấp hơn trên thị trường “COLD”.
31
Hovakimian (2006) nhận thấy tầm quan trọng của tỉ lệ M/B trong lịch
sử trong hồi quy đòn bẩy không phải phụ thuộc vào thời điểm thị trường cổ
phần trong quá khứ. Ông nhận thấy rằng chỉ có việc phát hành vốn cổ phần có
thể được định đúng thời điểm trong điều kiện thị trường vốn, nhưng lại không
có hiệu quả kéo dài đáng kể lên cấu trúc vốn. Họ không thừa nhận lý thuyết
định thời điểm thị trường trong dài hạn. Tuy nhiên, việc mua lại vốn cổ phần,
các vấn đề về nợ và giảm nợ thì không có khả năng tạo ra mối quan hệ tiêu
cực giữa tỉ lệ M/B và đòn bẩy.
Kayhan và Titman (2007) sử dụng 1 mô hình trộn lẫn lý thuyết định
thời điểm thị trường, lý thuyết trật tự phân hạng, lý thuyết đánh đổi cấu trúc
vốn và tách biệt việc đo đạc lý thuyết định thời điểm thị trường của Baker và
Wurgler thành 2 thành phần là trong ngắn hạn và dài hạn. Họ xác định rằng
việc thay đổi đòn bẩy bị tác động bởi lý thuyết định thời điểm thị trường trong
ngắn hạn nhưng họ lại không xác nhận việc tác động của lý thuyết này trong
dài hạn.
Bruinshoofd và Haan (2007) nghiên cứu một cuộc so sánh kết hợp giữa
thời điểm thị trường và cấu trúc vốn các doanh nghiệp ở US, UK và thuộc địa
của Châu Âu. Họ nhận thấy rằng đòn bẩy và tỉ lệ giá trị thị trường trên sổ sách
trong lịch sử liên hệ ngược chiều nhau đối với các mẫu ở US. Việc phát hiện
này nâng cao việc cải thiện giả thuyết trật tự phân hạng và một ít ảnh hưởng
của thời điểm thị trường đến các doanh nghiệp ở Châu Âu.
Andreas, Roland và Maik (2007) phân tích việc thực hiện chiến lược
đầu tư đơn giản trong đợt IPO dựa trên một mẫu lớn các đợt IPO ở Đức từ
năm 1985 đến năm 2002. Tác giả thấy rằng đầu tư vào IPO và bán ra sau một
thời gian nắm giữ nhất định mang lại hiệu quả tiêu cực bất thường đáng kể so
32
với chỉ số trung bình thị trường. Ngược lại, đầu tư vào một danh mục đầu tư
IPO gần đây không có ý nghĩa trong kết quả thống kê.
Guney và Hussain (2007) kiểm định lý thuyết định thời điểm thị trường
tác động đến cấu trúc vốn các doanh nghiệp ở UK thông qua hoạt động IPO
đưa ra kết luận rằng việc xem xét lý thuyết định thời điểm thị trường ảnh
hưởng đến quyết định cấu trúc vốn. Trong dài hạn, các công ty đề ra các tỉ lệ
đòn bẩy được xác định trước. Kết luận này cũng tương tự như Hovakimian
(2004), người đưa ra bằng chứng là các công ty có đặt ra mục tiêu tỷ lệ nợ có
thể tham gia vào tính toán thời điểm thị trường. Myers (2001) lặp đi lặp lại
quan điểm này bằng cách gợi ý rằng hiện nay không có lý thuyết tổng quát
nào để giải thích cơ cấu vốn và không có lý do để hy vọng vào điều này. Các
doanh nghiệp tham gia vào thị trường HOT gia tăng vốn cổ phần nhiều hơn
và có mức đòn bẩy thấp hơn trong thị trường COLD, đồng thời cũng có cơ
hội đầu tư thấp hơn trong những năm IPO và những năm tiếp theo do đó dẫn
đến lợi nhuận cũng thấp hơn. Điều này phủ định lý thuyết đưa ra là doanh
nghiệp trong thị trường HOT tăng trưởng nhanh hơn trong thị trường COLD.
Eraydin (2008) chọn nước Thổ Nhĩ Kỳ để nghiên cứu về việc định giá
thấp và ảnh hưởng của hoạt động IPO trong dài hạn trong một nền kinh tế thị
trường mới nổi, bằng cách sử dụng phương pháp nghiên cứu sự kiện. Phù hợp
với bằng chứng từ kinh nghiệm quốc tế, hoạt động IPO bị định giá thấp ở Thổ
Nhĩ Kỳ khoảng 7,3 phần trăm trên trung bình giai đoạn 1999-2007. Việc định
giá thấp trong ngành tài chính thì cao hơn trong ngành phi tài chính được đo
bằng thị trường giao dịch ngày đầu tiên điều chỉnh lợi nhuận. IPO Thổ Nhĩ
Kỳ được định giá thấp hơn trên thị trường phù hợp với thị trường HOT.
Elliot et al (2008) nghiên cứu ảnh hưởng của lý thuyết định thời điểm
thị trường lên cấu trúc vốn trong một vấn đề khuôn khổ để tránh vấn đề lặp lại
33
của tỉ lệ M/B, được đo bằng cơ hội tăng trưởng, thông tin bất cân xứng và
định giá bất hợp lý. Họ nhận thấy rằng việc định giá sai thị trường vốn cổ
phần đóng vai trò quan trọng trong quyết định lựa chọn của doanh nghiệp và
khi vốn cổ phần được đánh giá cao, đó là thời điểm thích hợp để phát hành
vốn cổ phần.
Bougatef and Chichti (2010) nghiên cứu tính phù hợp của lý thuyết
định thời điểm thị trường liên quan đến sự lựa chọn giữa nợ - vốn cổ phần sử
dụng dữ liệu các doanh nghiệp được liệt kê của nước Tuy-ni-di và Pháp, và
họ nhận thấy rằng tỉ lệ giá trị thị trường trên sổ sách càng cao thì càng liên
quan nhiều đến việc phát hành cổ phiếu. Các doanh nghiệp ở Tuy-ni-di và
Pháp có được nhiều thuận lợi từ lý thuyết định thời điểm thị trường để gia
tăng vốn. Họ phát hành cổ phiếu khi giá trị thị trường được đánh giá cao hơn
giá trị sổ sách và sau việc cải tiến giá trị thị trường đồng thời đạt lợi nhuận từ
việc đánh giá tạm thời bằng việc phát hành cổ phiếu. Việc phát hiện này thì
ổn định đối với lý thuyết định thời điểm thị trường. Kết quả là, các công ty có
mức đòn bẩy thấp trong ngắn hạn tác động đến thời điểm thị trường vốn chủ
sở hữu trên cơ cấu vốn vẫn tồn tại quá 8 năm.
Guney and Hussian (2010) nhận thấy mức đòn bẩy trước khi phát hành
đối với các doanh nghiệp IPO ở UK thì liên quan đến các doanh nghiệp trên
thị trường HOT – COLD. Các doanh nghiệp trên thị trường HOT gia tăng vốn
cổ phần hơn các doanh nghiệp trên thị trường COLD, đồng thời gia tăng đòn
bẩy của họ sau 2 năm tham gia hoạt động IPO.
Li and Feng (2011) nghiên cứu tác động của thời điểm thị trường đến
cấu trúc vốn của các công ty bất động sản hoạt động IPO trong chu kỳ từ
1992 đến 2009 ở HongKong. Họ sử dụng tỉ lệ giá trị thị trường trên sổ sách và
tấm chắn thuế như phương pháp đo đạc thời điểm thị trường và sự tăng
34
trưởng, quy mô công ty và tính thanh khoản của tài sản như là các biến kiểm
soát. Họ nhận thấy rằng thời điểm thị trường không có tác động đến cấu trúc
vốn trong ngắn hạn nhưng có một sự tương quan âm giữa việc đánh giá lịch
sử và cấu trúc vốn.
Ignatius Rony Setyawan (2011) đề ra mục tiêu chung của bài nghiên
cứu là để chứng minh tính hợp lệ lý thuyết định thời điểm thị trường của
Baker và Wurgler (2002) đã đạt được cho các trường hợp IPO (năm 2008-
2009) trong BEI. Các kết quả cũng dựa trên việc hỗ trợ từ nghiên cứu của các
tác giả như Dahlan (2004), Kusumawati và Danny (2006), Susilawati (2008)
và Saad (2010). Sau khi phân tích các mục đích cụ thể, tất cả các yếu tố quyết
định đòn bẩy thị trường và tỉ lệ giá trị thị trường trên sổ sách, lợi nhuận sau
thuế, tài sản hữu hình và tổng tài sản được chứng minh có mối quan hệ có ý
nghĩa cả khi thử nghiệm với mô hình OLS và GLS với giá trị R2 cao (trên
70%). Điều này cho thấy tính hợp lệ của lý thuyết định thời điểm thị trường
trong mô hình Baker và Wurgler (2002) với 4 biến như là yếu tố quyết định
cho đòn bẩy thị trường có thể được áp dụng ở điều kiện khác nhau với điều
kiện là các mẫu là công ty IPO. Nếu là các công ty không IPO, thì nó cần thiết
để thêm một biến yếu tố quyết định có liên quan như một hạn chế tài chính
được đo bằng chỉ số Kaplan-Zingales Index [xem nghiên cứu của Saad
(2010)]. Mục tiêu chính của nghiên cứu này là kiểm tra giả thuyết của lý
thuyết định thời điểm thị trường xây dựng bởi Dahlan (2004) và Kusumawati
và Danny (2006) đã được chứng minh bằng các mô hình GLS, và OLSnhư
trong mô hình Baker và Wurgler (2002), Susilawati (2008) và Saad (2010).
Nghiên cứu này kết luận rằng tỷ lệ giá trị thị trường trên sổ sách có ảnh hưởng
tiêu cực đến đòn bẩy thị trường. Điều này có nghĩa rằng khi công ty đạt được
mức độ thu nhập tăng trưởng nhất định, giá cổ phiếu sẽ được định giá quá cao
vì vậy nó sẽ là thời điểm để các công ty tiến hành vốn cổ phần.
35
Roni Setyawan và Budi Frensidy (2012) kiểm tra thực nghiệm lý thuyết
định thời điểm thị trường tác động đến cấu trúc vốn trên sàn chứng khoán
Indonesia. Nghiên cứu này nhằm mục đích kiểm tra tính hợp lệ của lý thuyết
định thời điểm thị trường (MTT) từ Baker và Wurgler (2002) trong bối cảnh
Indonesia. Bản chất của MTT là khi giá thị trường của cổ phiếu của một công
ty được định giá quá cao, các công ty sẽ huy động vốn cổ phần và vốn vay
cho tình trạng bị đánh giá thấp. MTT thực sự là sự phát triển của lý thuyết trật
tự phân hạng (POT) và lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn (STT). Động cơ của
nghiên cứu này là để kiểm tra mức độ tranh chấp ưu và nhược điểm của
nghiên cứu thực nghiệm về MTT như ALTI (2003) và Wagner (2007) và để
kiểm tra sự phù hợp kết quả nghiên cứu thực nghiệm của MTT ở Indonesia từ
Dahlan (2004), Kusumawati và Danny (2006), Susilawati (2008), và Saad
(2010). Để thực hiện mục tiêu, nghiên cứu này sẽ sử dụng lại mô hình thực
nghiệm OLS từ Baker và Wurgler (2002) với một số thích ứng với bối cảnh
Indonesia. Mô hình thực nghiệm OLS từ Baker và Wurgler (2002) có tính độc
đáo cụ thể tức là mối quan hệ tiêu cực giữa đòn bẩy và tỉ lệ giá trị thị trường
trên sổ sách. Mối quan hệ tiêu cực được kiểm soát bởi một số yếu tố như thu
nhập sau thuế, tổng tài sản và tài sản hữu hình. Sự độc đáo cụ thể khác là các
mô hình thực nghiệm của MTT thường được áp dụng cho các công ty IPO.
Kết quả của nghiên cứu này ủng hộ giả thuyết của MTT từ Baker và Wurgler
(2002) trên sàn chứng khoán Indonesia (IDX) với việc tìm kiếm chính là tỉ lệ
thị trường trên sổ sách có tác động tiêu cực đến đòn bẩy thị trường. Trong khi
yếu tố có liên quan chỉ để hỗ trợ cho giả thuyết của MTT là EAT.
Tóm lại, mục đích bài luận văn này là kiểm định lý thuyết định thời
điểm thị trường ảnh hưởng đến cấu trúc vốn dựa vào hoạt động IPO trên thị
trường HOT và COLD của các doanh nghiệp Việt Nam. Mục đích đầu tiên là
kiểm định tác động của lý thuyết định thời điểm thị trường đến số lượng vốn
36
cổ phần phát hành bởi doanh nghiệp IPO, thứ hai là kiểm định tác động của lý
thuyết định thời điểm thị trường lên cấu trúc vốn. Dựa trên bảng dữ liệu thu
thập từ 234 doanh nghiệp đã tham gia IPO từ tháng 1/2006 đến tháng
12/2012, bằng sử dụng phương pháp hồi quy Pooled OLS để kiểm định lý
thuyết định thời điểm thị trường ảnh hưởng đến cấu trúc vốn. Câu hỏi cơ bản
là liệu tính thời điểm thị trường có tác động ngắn hạn hay dài hạn? Câu trả lời
cũng có thể cho rằng ít nhất là tác động thuần túy và ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu
các công ty sau đó cân bằng lại thoát khỏi ảnh hưởng của quyết định tài trợ
mang tính thời điểm thị trường, như lý thuyết cấu trúc vốn chuẩn mực khuyến
nghị, thì tính thời điểm thị trường sẽ không có tác động lâu dài đối với cấu
trúc vốn. Vì vậy, tầm quan trọng của tính thời điểm thị trường đối với cấu trúc
vốn là một vấn đề thực nghiệm. Mục đích là để kiểm định tác động của lý
thuyết định thời điểm thị trường tác động đến đòn bẩy và cấu trúc vốn của
doanh nghiệp IPO. Để giúp các nhà quản lý xem xét chiến lược đầu tư của
công ty mình dựa trên giá trị thị trường để tác động đến đòn bẩy hoặc huy
động vốn cổ phần thông qua kiểm định tác động của lý thuyết định thời điểm
thị trường ở Việt Nam.
37
Chương 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Phương pháp nghiên cứu (Methodology and Data)
Câu hỏi đặt ra của bài nghiên cứu là kiểm định tác động của lý thuyết
định thời điểm thị trường đến số lượng vốn cổ phần phát hành bởi doanh
nghiệp IPO, thứ hai là kiểm định tác động của lý thuyết định thời điểm thị
trường lên cấu trúc vốn. Bài luận văn này sử dụng phương pháp hồi quy
Pooled OLS, mô hình dựa trên bài nghiên cứu của Sibel và Deniz (2013).
Phương pháp kiểm định lý thuyết định thời điểm thị trường bằng
phương pháp OLS trước đây đã được sử dụng bởi Baker và Wurgler (2002),
là tác giả đầu tiên sử dụng biến M/B trong quá khứ để kiểm định ảnh hưởng
của lý thuyết định thời điểm thị trường qua tác động lên đòn bẩy của các
doanh nghiệp IPO của Mỹ trong vòng 10 năm, đồng thời định thời điểm thích
hợp để phát hành vốn cổ phần. Mô hình của bài nghiên cứu được sử dụng
trong luận văn cũng dựa trên quan điểm này và tất cả các biến sử dụng trong
mô hình của 2 bài nghiên cứu đều tương tự nhau. Tuy nhiên, bài nghiên cứu
của Baker và Wurgler (2002) không sử dụng biến HOT để kiểm định mô
hình. Đó là điểm khác nhau cơ bản khi tôi quyết định chọn mô hình của bài
nghiên cứu của Sibel và Deniz (2013) để phân tích ảnh hưởng lý thuyết định
thời điểm thị trường đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam.
Trong bài nghiên cứu này, tôi kiểm định lý thuyết định thời điểm thị
trường từ sự kiện IPO. Tập dữ liệu bao gồm tất cả các doanh nghiệp Việt Nam
tham gia vào hoạt động IPO trong chu kỳ từ tháng 1/2006 đến tháng 12/2012
có giá trị trong cơ sở dữ liệu trên sàn chứng khoán HOSE.
38
3.2. Định nghĩa các biến
Ý nghĩa
Công thức tính
No Tên biến viết tắt D B
1 2
Tổng nợ - thuế và các khoản phải nộp Tổng tài sản trừ nợ sổ sách.
3
M
Giá trị nợ trên sổ sách Giá trị sổ sách vốn chủ sỡ hữu. Giá trị thị trường của vốn chủ sỡ hữu.
4
D/A
Tỉ lệ đòn bẩy tài chính.
5
M/B
Tỉ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách
6
EBITDA Lợi nhuận trước thuế
7 8 9
SIZE A PPE/A
Quy mô doanh nghiệp Tổng tài sản Tỷ lệ tài sản hữu hình
Giá trị thị trường của vốn chủ sở hữubằng cổ phiếu phổ thông đang lưu hành nhân với giá. Nợ sổ sách chia cho tổng tài sản, tính theo % Tỷ lệ giá trị thị trường trên sổ sách được xác định bằng cách lấy tài sản trừ giá trị sổ sách của cổ phần cộng giá trị thị trường của cổ phần(cổ phiếu phổ thông đang lưu hành x giá cổ phiếu), tất cả chia cho tổng tài sản. (Lợi nhuận trước thuế + chi phí lãi vay + khấu hao) chia cho tổng tài sản. Tính logarithm của doanh thu thuần. Tài sản ngắn hạn + tài sản dài hạn Giá trị thuần của nhà xưởng, đất đai, trang thiết bị chia cho tổng tài sản, được tính bằng phần trăm
10
HOT
Biến giả (HOT = 1, COLD = 0). Biến HOT là mục tiêu chính của bài nghiên cứu trong việc đo đạc ảnh hưởng thị trường đến doanh nghiệp.
Biến thị trường HOT được định nghĩa dựa trên lượng IPO hàng tháng. Chu kỳ hoạt động IPO từ 2006 – 2012. Số lượng IPO hàng tháng được làm phẳng bằng cách tính trung điểm trung bình di động 3 tháng số lượng IPO trong mỗi tháng. Thị trường HOT (COLD) được định nghĩa nằm trên (nằm dưới) lượng IPO trung bình trong phân phối của lượng trung bình di động IPO hàng tháng của tất cả các tháng trong mẫu. Do đó, biến giả HOT nhận giá trị 1 nếu doanh nghiệp tham gia vào thị trường trong tháng HOT và ngược lại.
39
11
T
12
N IPO
13
t
14 HOT*M/B
15
t HOT* SIZE
Ngày IPO (Ngày phát hành cổ phần lần đầu ra công chúng.) Số cổ phiếu phát hành lần đầu ra công chúng Năm IPO (năm tài chính diễn ra hoạt động IPO) Các cơ hội tăng trưởng của doanh nghiệp Quy mô của doanh nghiệp liên quan đến thời điểm thị trường
2.5E+09
2E+09
1.5E+09
So luong IPO
trung binh theo quy
1E+09
MA
500000000
0
20 06
20 07
20 08
20 09
20 10
20 11
20 12
Hình 1.1: Đường trung bình di động 3 tháng số lượng IPO hàng
tháng
Nguồn: Dữ liệu lấy trên trang web
http://www.cophieu68.vn/profilesymbol.php?id của SGDCK TPHCM, tác giả
tính toán
40
3.3. Thu thập dữ liệu
Dữ liệu bài luận văn được chọn lấy từ thời điểm năm 2006 khi thị
trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn đang HOT, chu kỳ dữ liệu
được lấy từ tháng 1/2006 đến 12/2012. Ngày tham gia IPO và các báo cáo tài
chính theo từng năm được lấy trên trang web của Sở giao dịch chứng khoán
TPHCM và cafef theo từng công ty.
Tôi thu thập danh sách các công ty phi tài chính được niêm yết trên sàn
HOSE của Sở giao dịch chứng khoán TPHCM. Sau đó, lấy dữ liệu theo ngày
tham gia IPO của từng công ty trên trang web
http://www.cophieu68.vn/profilesymbol.php?id. Dựa vào ngày giao dịch đầu
tiên của hoạt động IPO, loại trừ ra những công ty có ngày gia nhập IPO từ
năm 2004 đến 2005. Cuối cùng, mẫu dữ liệu còn lại là 234 công ty được niêm
yết trên sàn giao dịch HOSE đều tham gia IPO từ tháng 1/2006 đến tháng
12/2012. Do đó, số công ty tôi sẽ chọn để kiểm định trong mô hình là 234
công ty.
3.4. Các biến nghiên cứu sử dụng trong mô hình
Dựa vào số liệu của trong báo cáo tài chính của từng công ty theo từng
năm từ 2006 – 2012 lấy ra các giá trị cần tính toán theo từng biến, rồi dựa vào
công thức ở phần 3.2 để tính giá trị của các biến độc lập và biến phụ thuộc.
Biến phụ thuộc gồm:
- Số lượng vốn cổ phần phát hành bởi doanh nghiệp được định nghĩa
thông qua lợi nhuận IPO tại thời điểm năm bắt đầu IPO và cuối năm IPO, ký
hiệu là: Proceeds/At, Proceeds/At-1
41
- Cấu trúc vốn của doanh nghiệp được định nghĩa qua biến thiên tỉ lệ đòn
bẩy tài chính: D/At - D/At-1
Biến độc lập gồm: M/Bt, EBITDA/At-1, SIZEt-1, PPE/At-1, D/At-1
Đối với biến kiểm soát HOT được tính dựa vào đường trung bình di
động 3 tháng số lượng IPO trong mỗi tháng rồi xác định biến HOT dựa trên
lượng IPO nằm trên hay nằm dưới đường trung bình.
Sau đó tính biến tương tác: HOT*M/Bt, HOT*SIZE
42
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
4.1. Bảng thống kê mô tả của các doanh nghiệp
Bảng 4.1: Bảng thống kê mô tả của các doanh nghiệp
Bảng 4.1 đưa ra giá trị trung bình và phương sai chuẩn của 234 doanh
nghiệp với số lượng quan sát là 1638 mẫu. Dựa vào bảng 3.1, có thể thấy nếu
lợi nhuận trung bình của các doanh nghiệp trước năm IPO là 1959.108, giá trị
nhỏ nhất là 62.67146 và giá trị lớn nhất là 52409.7 thì sau khi tham gia IPO
giá trị trung bình lợi nhuận giảm còn 1284.405, giá trị nhỏ nhất là 56.98045
và lớn nhất là 10388.17. Do đó, có thể kết luận lợi nhuận trung bình của các
doanh nghiệp giảm sau khi tham gia IPO. Biến thị trường HOT có giá trị
trung bình là 0.4487179 cho thấy giá trị 0 có xu hướng xuất hiện nhiều hơn.
Do đó các doanh nghiệp tham gia vào thị trường COLD chiếm hơn 50% các
doanh nghiệp tham gia vào thị trường HOT trong thời gian từ năm 2006-
2012. Vì lợi nhuận trước thuế và tỉ lệ tài sản hữu hình có giá trị trung bình
gần bằng nhau, nhưng độ lệch chuẩn của lợi nhuận trước thuế là 0.7090503
43
lớn hơn của tỉ lệ tài sản hữu hình 0.3209948 do đó tập dữ liệu của lợi nhuận
sẽ biến thiên nhiều hơn.
4.2. Kiểm định ma trận hệ số tương quan giữa các biến độc lập và biến
soát
Bảng 4.2: kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa các biến
Kết quả kiểm định của bảng 4.2 cho thấy hệ số tương quan của các biến
có giá trị xấp xỉ bằng 0 và có giá trị tuyệt đối đều nhỏ hơn 1, do đó các biến
để sử dụng trong mô hình không có tương quan với nhau.
4.3. Ảnh hưởng của lý thuyết định thời điểm thị trường lên việc phát
hành vốn cổ phần
Trong bài nghiên cứu, lý thuyết định thời điểm thị trường được xem xét
lần lượt từ 2 khía cạnh: Thứ nhất, doanh nghiệp có khả năng phát hành lần
đầu ra công chúng khi điều kiện thị trường là thuận lợi, thứ 2 khi điều kiện thị
trường thích hợp thì doanh nghiệp khi phát hành lần đầu ra công chúng sẽ
phát hành nhiều vốn cổ phần hơn (Alti, 2006). Tôi xây dựng biến giả HOT để
đặc trưng cho thị trường, đồng thời đưa ra kết quả thực nghiệm liên quan đến
44
việc tác động của lý thuyết thời điểm thị trường đến số lượng vốn cổ phần đã
phát hành. Tôi định nghĩa số lượng vốn cổ phần đã phát hành tại thời điểm
IPO là lợi nhuận IPO được tính bằng lợi nhuận từ việc bán cổ phiếu phổ
thông chia cho tổng tài sản tại cuối năm IPO (Proceed/At) và lợi nhuận IPO từ
việc bán cổ phiếu phổ thông chia cho tổng tài sản tại năm bắt đầu IPO
(Proceed/At-1). Kiểm định hồi quy theo phương trình sau:
Yt = α + β1HOT + β2M/Bt + β3EBITDA/At-1 + β4SIZEt-1 + β5PPE/At-1 +
β6D/At-1 + εt (1)
Yt = α + β1HOT + β2M/Bt + β3EBITDA/At-1 + β4SIZEt-1 + β5PPE/At-1 +
β6D/At-1 + β7HOT*M/Bt + β8HOT*SIZEt-1 + εt (2)
Bước đầu tiên khi kiểm định hồi quy, tôi kiểm tra phương sai thay đổi
của mô hình như sau: khi dùng kiểm định White để kiểm tra phương sai thay
đổi thì 2 mô hình trên đều bị phương sai thay đổi, do đó dùng kiểm định
“Robust” để khắc phục phương sai thay đổi làm tăng độ tin cậy của hệ số hồi
quy.
Kết quả sau khi chạy hồi quy mô hình (1) như sau:
Bảng 4.3: Kết quả hồi quy của biến Proceeds/At-1 khi không có biến tương
tác
45
Bảng 4.4: Kết quả hồi quy của biến Proceeds/At khi không có biến tương
tác
Bảng 4.3 và bảng 4.4 cho thấy kết quả hồi quy của mô hình (1), biến
giả HOT để chỉ ra ảnh hưởng thời điểm thị trường của vốn cổ phần. Tôi sử
dụng tỉ lệ M/B, lợi nhuận, quy mô, tài sản hữu hình của tài sản và tỉ lệ đòn
bẩy tài chính năm trước IPO như là các biến kiểm soát để kiểm tra sự khác
nhau giữa các cơ hội đầu tư và quy mô của doanh nghiệp liên quan đến lý
thuyết định thời điểm thị trường.
Kết quả thực nghiệm của bảng 3.3 có R2 = 20.17% với p-value của R2 =
0 nên các hệ số hồi quy đều có ý nghĩa. Hệ số hồi quy của biến HOT, M/Bt và
SIZEt-1 có mức ý nghĩa 5%; biến PPE/At-1 có mức ý nghĩa 10%; còn lại biến
EBITDA/At-1 và D/At-1 không có ý nghĩa thống kê. Do đó, doanh nghiệp trước
khi tham gia IPO đều bị ảnh hưởng bởi thị trường HOT hay COLD, đồng thời
quy mô và cơ hội đầu tư cũng quyết định số lượng vốn cổ phần của doanh
nghiệp. Hệ số hồi quy của biến HOT là 1402.888 và của biến M/Bt là
28406.04 nên số lượng vốn cổ phần phát hành bởi doanh nghiệp sẽ có mối
quan hệ cùng chiều với biến HOT và M/Bt. Trong khi đó, hệ số hồi quy của
46
biến SIZEt-1 là -362.6794 do đó quy mô doanh nghiệp sẽ có mối quan hệ
ngược chiều với số lượng vốn cổ phần.
Kết quả thực nghiệm của bảng 4.4 cho thấy R2 = 9.07% với p-value của
R2 = 0 nên các hệ số hồi quy có ý nghĩa. Hệ số hồi quy của biến HOT, M/Bt
1không có ý nghĩa thống kê. Hệ số hồi quy của biến HOT và M/Bt đều mang
và D/At-1 có mức ý nghĩa 5%; còn lại biến EBITDA/At-1, SIZEt-1 và PPE/At-
giá trị dương do đó thị trường và cơ hội đầu tư có mối quan hệ cùng chiều với
số lượng vốn cổ phần phát hành bởi doanh nghiệp. Hệ số hồi quy của D/At-1
là -508.8617 do đó doanh nghiệp tham gia IPO sẽ chịu ảnh hưởng bởi tác
động ngược chiều của tỉ lệ đòn bẩy tài chính năm trước đó.
Kết quả sau khi chạy hồi quy mô hình (2) như sau:
Bảng 4.5: Kết quả hồi quy của biến Proceeds/At-1 khi có biến tương tác
trong mô hình
47
Bảng 4.6: Kết quả hồi quy của biến Proceeds/Atkhi có biến tương tác trong
mô hình.
Sau khi đưa biến tương tác HOT*M/Bt và HOT*SIZE vào mô hình (2),
kết quả thực nghiệm của bảng 4.5 cho thấy R2 = 20.32% với p-value của R2 =
0 nên các hệ số hồi quy có ý nghĩa.Hệ số hồi quy của biến SIZEt-1có mức ý
nghĩa 5%; biến PPE/At-1có mức ý nghĩa 10%; còn lại biến HOT, M/Bt,
EBITDA/At-1,D/At-1, HOT*M/Bt và HOT*SIZE không có ý nghĩa thống kê.
Hệ số hồi quy của biến SIZEt-1 mang giá trị âm là -112.1154 nên quy mô công
ty có mối quan hệ ngược chiều với số lượng vốn cổ phần và PPE/At-1 mang
giá trị dương là 185.5319 do đó tỉ lệ tài sản hữu hình có mối quan hệ cùng
chiều với số lượng vốn cổ phần phát hành.
Kết quả thực nghiệm của bảng 4.6 cho thấy R2 = 10.31% với p-value
của R2 = 0 nên các hệ số hồi quy có ý nghĩa.Hệ số hồi quy của biến HOT,
SIZEt-1, D/At-1, HOT*SIZE có mức ý nghĩa 5%; còn lại biến M/Bt,
EBITDA/At-1, PPE/At-1 và HOT*M/Bt không có ý nghĩa thống kê. Biến
HOT*SIZE mang giá trị dương 193.131 có ý nghĩa rằng khi quy mô của
doanh nghiệp trên thị trường HOT gia tăng thì lợi nhuận từ việc bán cổ phần
48
trên thị trường HOT cũng tăng theo. Biến tương tác HOT*M/Bt không có ý
nghĩa đối với số lượng vốn cổ phần phát hành. Tỉ lệ đòn bẩy tài chính mang
giá trị âm -473,5905 do đó số lượng vốn cổ phần phát hành có mối quan hệ
ngược chiều với đòn bẩy năm trước đó. Tuy nhiên, khi có biến tương tác thì
biến HOT lại mang giá trị âm -2067.817 cho thấy mối quan hệ ngược chiều
của thị trường HOT và số lượng vốn cổ phần phát hành.
Dấu kỳ vọng
Proceeds/At
Proceeds/At
Proceeds/At-1
Proceeds/At-1
+/-
HOT
483.4704 **
-2067.817 **
1402.88 **
4189.947
(0)
(0.021)
(0)
(0.224)
+/-
M/Bt
2024.637 **
-84612.8
28406.04 **
-81451.07
(0)
(0.142)
(0)
(0.534)
+
EBITDA/At-1
558.1244
537.8822
1751.388
1786.868
(0.192)
(0.214)
(0.263)
(0.258)
-
SIZEt-1
-30.22868
-112.1154 **
-362.6794 **
-272.3924 **
(0.396)
(0.02)
(0.009)
(0)
+/-
PPE/At-1
223.9781
185.5319
-1091.261 *
-1045.115 *
(0.307)
(0.375)
(0.053)
(0.052)
+/-
D/At-1
-508.8617 **
-473.5905 **
1038.656
996.1012
(0)
(0)
(0.175)
(0.169)
HOT*M/Bt
-
86759.78
-
109732
(0.132)
(0.402)
HOT*SIZE
-
193.131 **
-
-212.596
(0.004)
(0.396)
R2
0.1031
0.0907
0.2017
0.2032
p-value
0
0
0
0
Hệ số hồi quy (**) mang ý nghĩa 5% và (*) mang ý nghĩa 10%. Các hệ số trong ( ) là giá trị p-value của các hệ số hồi quy. Bảng 4.7: Ảnh hưởng thời điểm thị trường đến số lượng vốn cổ phần phát
hành bởi các doanh nghiệp IPO.
49
Tóm lại, số lượng vốn cổ phần phát hành bởi các doanh nghiệp IPO đều
chịu ảnh hưởng bởi tác động của thị trường HOT – COLD. Biến giả HOT
mang giá trị dương ở cột 1 và cột 3, có ý nghĩa các doanh nghiệp trên thị
trường HOT có khuynh hướng gia tăng vốn cổ phần nhiều hơn các doanh
nghiệp trên thị trường COLD (phù hợp với kết luận của Alti, 2006), đồng thời
cũng hỗ trợ cho nghiên cứu của Gunney và Hussian (2010). Biến giả HOT
không có ý nghĩa ở cột 4 nhưng lại mang giá trị âm ở cột 2 chỉ ra mối quan hệ
rằng khi xét đến biến tương tác HOT*SIZE, thì các doanh nghiệp khi tham
gia vào thị trường HOT sẽ phát hành số lượng vốn cổ phần ít hơn nhưng khi
quy mô các doanh nghiệp gia tăng thì lợi nhuận từ việc bán cổ phiếu cũng
tăng theo.
Tỉ lệ giá trị thị trường trên sổ sách (M/Bt) mang giá trị dương ở cột 1 và
cột 3 chỉ ra rằng các doanh nghiệp có nhiều cơ hội đầu tư sẽ gia tăng vốn
nhiều hơn, trong khi đó lại không có ý nghĩa ở cột 2 và cột 4.
Biến SIZE đều mang giá trị âm cho thấy rằng các doanh nghiệp có quy
mô nhỏ hơn sẽ gia tăng vốn cổ phần nhiều hơn. Tỉ lệ đòn bẩy tài chính không
có ý nghĩa ở cột 3 và cột 4 nhưng lại mang giá trị âm ở cột 1 và cột 2 chỉ ra
rằng mức đòn bẩy trước năm IPO tương quan âm với mức lợi nhuận thu được
từ hoạt động IPO, tức là nếu đòn bẩy năm trước đó càng cao thì lợi nhuận
cuối năm IPO càng giảm.
Tỉ lệ tài sản hữu hình (PPE/A) không có ý nghĩa ở cột 1 và cột 2 nhưng
lại có ý nghĩa ở cột 3 và cột 4, đồng thời lại mang giá trị âm cho thấy rằng nếu
tỉ lệ tài sản hữu hình của doanh nghiệp năm trước IPO thấp thì số lượng vốn
cổ phần phát hành của doanh nghiệp năm IPO sẽ gia tăng nhiều hơn. Hệ số
hồi quy kiểm định từ mô hình mang giá trị rất lớn do đó có sức giải thích
mạnh mẽ cho các biến độc lập.
50
Tóm lại, dựa vào kết quả nghiên cứu thực nghiệm ở trên, ta kết luận
rằng lý thuyết định thời điểm thị trường có tác động đến việc phát hành vốn
cổ phần đối với các doanh nghiệp IPO ở Việt Nam, đó là các doanh nghiệp
trên thị trường HOT có khuynh hướng gia tăng vốn cổ phần nhiều hơn các
doanh nghiệp trên thị trường COLD, đồng thời các doanh nghiệp có quy mô
nhỏ sẽ gia tăng vốn cổ phần nhiều hơn, các doanh nghiệp khi có nhiều cơ hội
đầu tư sẽ gia tăng vốn cổ phần và mức đòn bẩy năm trước khi tham gia IPO
càng cao thì lợi nhuận cuối năm IPO càng giảm. Tuy nhiên, khi xét ảnh
hưởng của biến tương tác bởi các cơ hội đầu tư tăng trưởng hay xem xét quy
mô khác nhau của doanh nghiệp, thì các doanh nghiệp trong thị trường HOT
lại phát hành vốn cổ phần ít hơn, và khi quy mô của doanh nghiệp trên thị
trường HOT gia tăng thì lợi nhuận từ việc bán cổ phần trên thị trường HOT
cũng tăng theo.
4.4. Ảnh hưởng của vấn đề định thời điểm thị trường lên cấu trúc vốn
Phần này chúng tôi kiểm tra ảnh hưởng của lý thuyết định thời điểm thị
trường đến cấu trúc vốn thông qua biến phụ thuộc là biến thiên tỉ lệ đòn bẩy
tài chính từ năm bắt đầu IPO đến cuối năm IPO. Đầu tiên, tôi tập trung vào sự
thay đổi mức đòn bẩy từ trước năm IPO đến năm IPO, hồi quy biến giả HOT
và các biến độc lập theo mô hình sau:
D/At - D/At-1 = α + β1HOT + β2M/Bt + β3EBITDA/At-1 + β4SIZEt-1 +
β5PPE/At-1 + β6D/At-1 + εt (3)
D/At - D/At-1= α + β1HOT + β2M/Bt + β3EBITDA/At-1 + β4SIZEt-1 +
β5PPE/At-1 + β6D/At-1 + β7HOT*M/Bt + β8HOT*SIZEt-1 + εt (4)
Đầu tiên, dùng kiểm định White để kiểm định phương sai thay đổi của
các biến kiểm soát và các biến độc lập.
51
Bảng 4.8: Kết quả kiểm định Phương sai thay đổi của các biến tác động lên
cấu trúc vốn của doanh nghiệp.
Dựa vào kết quả kiểm định của bảng 4.8, ta thấy 0.999 < 11.46 và
0.999 < 9.12 nên chấp nhận giả thiết Ho, tức là mô hình không bị phương sai
thay đổi, do đó các hệ số hồi quy có mức tin cậy đáng kể.
52
Kết quả của mô hình (3) như sau:
Bảng 4.9: Kết quả hồi quy của biến thiên tỷ lệ đòn bẩy tài chính khi
không có biến tương tác
Dựa vào kết quả bảng 4.9, ta thấy giá trị R2 = 0.85% với p-value của R2
= 0.0935 > α nên hệ số hồi quy có ý nghĩa. Trong kết quả trên, hệ số hồi quy
của biến HOT, PPE/At-1, SIZEt-1 có mức ý nghĩa 10%; còn lại các biến D/At-1,
M/Bt và EBITDA/At-1 không có ý nghĩa thống kê. Hệ số hồi quy của biến
HOT,PPE/At-1 và SIZEt-1 đều mang giá trị dương do đó có mối quan hệ cùng
chiều với sự biến thiên tỉ lệ đòn bẩy tài chính. Khi doanh nghiệp tham gia vào
thị trường HOT thì doanh nghiệp sẽ gia tăng đòn bẩy tài chính nhiều hơn so
với năm trước đó. Đồng thời quy mô doanh nghiệp càng lớn thì doanh nghiệp
sẽ càng gia tăng tỉ lệ đòn bẩy.
53
Kết quả hồi quy của mô hình (4) như sau:
Bảng 4.10: Kết quả hồi quy của biến thiên tỷ lệ đòn bẩy tài chính khi có
biến tương tác
Dựa trên kết quả hồi quy bảng 4.10, khi xét đến 2 biến tương tác, ta
thấy giá trị R2 = 1.62% với p-value của R2 = 0.0075 nên hệ số hồi quy có ý
nghĩa. Hệ số hồi quy của biến HOT, SIZEt-1, PPE/At-1, HOT*SIZE có mức ý
nghĩa 5%; biến M/Bt, HOT*M/Bt có mức ý nghĩa 10%, còn lại biến D/At-1,
1 và PPE/At-1 mang giá trị dương, do đó các biến này tác động cùng chiều với
EBITDA/At-1 không có ý nghĩa thống kê. Hệ số hồi quy của biến HOT, SIZEt-
biến thiên tỉ lệ đòn bẩy tài chính. Còn lại hệ số hồi quy của biến M/Bt,
HOT*SIZE mang giá trị âm chỉ ra mối quan hệ ngược chiều với biến thiên tỉ
lệ đòn bẩy tài chính.
54
Dấu kỳ vọng
D/At - D/At-1
D/At - D/At-1
+
HOT
0.0166906*
0.232609 **
(0.062)
(0.006)
+/-
M/Bt
0.0195651
-25.17757 *
(0.833)
(0.071)
-
EBITDA/At-1
-0.148623
-0.0110229
(0.405)
(0.536)
+
SIZEt-1
0.0060472 *
0.131098 **
(0.053)
(0.001)
+
PPE/At-1
0.0271011 *
0.0310145**
(0.076)
(0.042)
+/-
D/At-1
0.0020715
-0.0015537
(0.827)
(0.87)
HOT*M/Bt
25.18814 *
(0.071)
HOT*SIZE
(-0.166021)
0.009 **
R2
0.0085
0.0162
p-value
0.0935
0.0075
Hệ số hồi quy (**) mang ý nghĩa 5% và (*) mang ý nghĩa 10%.
Các hệ số trong ( ) là giá trị p-value của các hệ số hồi quy.
Bảng 4.11: Tác động của thời điểm thị trường lên cấu trúc vốn của các
doanh nghiệp IPO
Biến giả HOT mang giá trị dương có ý nghĩa rằng khi các doanh nghiệp
IPO tham gia vào thị trường HOT thì sẽ gia tăng mức đòn bẩy nhiều hơn so
với năm trước đó. Biến HOT*M/Bt mang giá trị dương và có ý nghĩarằng các
doanh nghiệp trên thị trường HOT có nhiều cơ hội đầu tư thì sẽ gia tăng tỉ lệ
đòn bẩy tài chính để phát hành vốn cổ phần. Tỉ lệ M/B mang giá trị âm -
25.17757 cho thấy khi có sự gia tăng về giá trị thị trường của cổ phiếu thì
55
doanh nghiệp sẽ huy động vốn để giảm tỉ lệ đòn bẩy và ngược lại. Biến SIZE
mang giá trị dương, cho thấy các doanh nghiệp có quy mô năm trước IPO
càng lớn thì sẽ gia tăng tỉ lệ đòn bẩy tài chính sau khi tham gia IPO. Biến
HOT*SIZE mang giá trị âm có ý nghĩa khi các doanh nghiệp tham gia vào
hoạt động IPO trên thị trường HOT, thì doanh nghiệp có quy mô càng nhỏ thì
càng gia tăng tỉ lệ đòn bẩy tài để phát hành vốn cổ phần càng nhiều. Nói cách
khác, sự thay đổi trong đòn bẩy sẽ bị ảnh hưởng khi các doanh nghiệp tham
gia vào thị trường HOT và COLD. Do đó, lý thuyết thời điểm thị trường có
ảnh hưởng đến cấu trúc vốn hay làm thay đổi tỉ lệ đòn bẩy tài chính của các
doanh nghiệp khi tham gia hoạt động IPO ở Việt Nam.
56
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN
5.1. Kết luận:
Kết quả bài nghiên cứu đã trả lời câu hỏi đặt ra là lý thuyết thời điểm
thị trường có tác động đến số lượng vốn cổ phần và cấu trúc vốn của các
doanh nghiệp IPO Việt Nam, trong khi so với một số bài nghiên cứu thực
nghiệm trước đây về lý thuyết thời điểm thị trường ở Việt Nam, các kết quả
nghiên cứu của lý thuyết thời điểm thị trường không ảnh hưởng đến cấu trúc
vốn của các doanh nghiệp IPO ở Việt Nam hoặc việc định thời điểm thị
trường có tồn tại ở Việt Nam, tuy nhiên tác động này khá yếu trong ngắn hạn
nhưng giá trị tích lũy những tác động trên lại có ảnh hưởng không nhỏ đến
chọn lựa cấu trúc vốn của doanh nghiệp.
Trong bài nghiên cứu này, tôi kiểm định ảnh hưởng của lý thuyết thời
điểm thị trường đến cấu trúc vốn dựa vào hoạt động IPO của các doanh
nghiệp Việt Nam được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TPHCM.
Mục đích đầu tiên, kiểm định tác động của thời điểm thị trường lên số lượng
vốn cổ phần phát hành bởi các công ty IPO. Thứ hai, kiểm định tác động của
thời điểm thị trường đến cấu trúc vốn. Kết quả chủ yếu của chúng tôi như sau:
Khi kiểm định mô hình hồi quy của các công ty bằng phương pháp
Pooled OLS, kết quả hồi quy cho thấy biến giả HOT có ý nghĩa ảnh hưởng
đến thời điểm phát hành vốn cổ phần của các công ty, các công ty có xu
hướng phát hành nhiều vốn cổ phần hơn khi tham gia vào thị trường HOT,
phù hợp với nghiên cứu của Alti (2006). Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ
hơn thì có khuynh hướng gia tăng vốn cổ phần nhiều hơn, đồng thời mức đòn
bẩy trước năm IPO tương quan âm với lợi nhuận thu được từ IPO, lợi nhuận
của công ty tăng đáng kể trong năm IPO, tỉ lệ M/B giảm sau sự kiện IPO.
Phát hiện này phù hợp với nghiên cứu của Guney và Hussian (2007). Tuy
57
nhiên, biến giả HOT lại không có ý nghĩa khi xem xét các doanh nghiệp IPO
trong mối quan hệ tương tác giữa các cơ hội đầu tư tăng trưởng và quy mô
của các doanh nghiệp trên thị trường HOT.
Sau đó, chúng tôi kiểm định ảnh hưởng của thời điểm thị trường đến
cấu trúc vốn, dẫn đến kết luận sự gia tăng về tỉ lệ giá trị thị trường trên giá trị
sổ sách sẽ dẫn đến việc thay đổi biến thiên tỉ lệ đòn bẩy tài chính đối với các
doanh nghiệp trên thị trường HOT, cụ thể nếu giá trị thị trường của cổ phiếu
tăng thì các doanh nghiệp có xu hướng huy động vốn cổ phần để bán thêm cổ
phiếu ta thị trường, khi đó làm giảm tỉ lệ đòn bẩy của doanh nghiệp.Đối
vớicác doanh nghiệp có quy mô càng lớn thì càng sử dụng nhiều đòn bẩy hơn
nhưng khi các doanh nghiệp này tham gia vào thị trường HOT thì doanh
nghiệp càng lớn thì càng sử dụng ít đòn bẩy hơn. Sự biến thiên đòn bẩy không
làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp, nhưng lại bị ảnh hưởng khi
các doanh nghiệp tham gia vào thị trường HOT – COLD. Dựa vào giá phát
hành cổ phiếu của các doanh nghiệp, tôi nhận thấy mức giá phát hành trên thị
trường cao hơn rất nhiều so với giá niêm yết do đó phù hợp với lý thuyết thời
điểm thị trường là các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu khi giá cao và mua lại
khi giá thấp. Tóm lại, lý thuyết định thời điểm thị trường có tác động đến các
doanh nghiệp ở Việt Nam khi tham gia hoạt động IPO.
5.2. Hạn chế:
Bài nghiên cứu chỉ kiểm định ảnh hưởng của lý thuyết định thời điểm
thị trường tác động đến các số lượng vốn cổ phần và cấu trúc vốn của các
doanh nghiệp IPO ở Việt Nam dựa trên hồi quy Pooled OLS, mà chưa kiểm
tra được sự khác nhau của các doanh nghiệp trên thị trường HOT – COLD để
giải thích tại sao các doanh nghiệp trên thị trường HOT có khuynh hướng
58
phát hành nhiều vốn cổ phần hơn nhưng đạt ít lợi nhuận hơn các công ty trên
thị trường COLD, mặc dù xác định đúng thời điểm thị trường.
Bài nghiên cứu chỉ mới kiểm định tác động của lý thuyết định thời
điểm thị trường đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp trong ngắn hạn, còn trong
dài hạn vẫn chưa kiểm định được ảnh hưởng của lý thuyết này.
Vì dữ liệu thu thập để tính toán kiểm định mô hình chủ yếu lấy từ báo
cáo tài chính của các doanh nghiệp có giá trị trên Sở giao dịch chứng khoán
TPHCM, tuy nhiên không tránh khỏi việc một số công ty có thể báo cáo
không đúng sự thật tình hình tài chính của công ty mình vì nhiều lý do, làm
sai lệch phần nào kết quả trên lý thuyết của mô hình so với thực tế.
5.3. Hướng phát triển của đề tài
Các quyết định về cấu trúc vốn là các quyết định dài hạn, nên cần thiết
mở rộng việc thu thập dữ liệu để có thể kiểm định tác động của lý thuyết định
thời điểm thị trường đến các doanh nghiệp IPO ở Việt Nam. Kayhan và
Titman (2007) xác định rằng việc thay đổi đòn bẩy bị tác động bởi lý thuyết
định thời điểm thị trường trong ngắn hạn nhưng họ lại không xác nhận việc
tác động của lý thuyết này trong dài hạn.
Cần tìm thêm các yếu tố tài chính khác để đưa vào mô hình kiểm định
mức độ ảnh hưởng của các biến tài chính bên ngoài đến số lượng vốn cổ phần
phát hành và cấu trúc vốn của doanh nghiệp, tăng độ tin cậy của lý thuyết
định thời điểm thị trường.
Có thể phân loại theo từng nhóm ngành công nghiệp và kiểm định ảnh
hưởng của lý thuyết định thời điểm thị trường. Điều này là quan trọng để
phân tích tính hợp lệ của tâm lý thị trường từ các nhà đầu tư toàn cầu trong
việc đáp ứng hiệu quả lý thuyết định thời điểm thị trường của công ty. Họ
59
không nên chỉ quan sát thông tin về các vấn đề tài chính trên các báo cáo tài
chính để ước tính giá trị thị trường trên sổ sách mà cũng nên quan sát thông
tin về các vấn đề phi tài chính như CGPI (chỉ số nhận thức Quản trị doanh
nghiệp) và CSRI (Chỉ số Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp).
60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Alti, A. (2006). How Persistent Is the Impact of Market Timing on Capital
Structure?. Journal of Finance, 61(4): 1681-1710.
Andreas Trauten, Roland C. Schulzand Maik Dierkes, 2007. The Performance
of IPO Investment Strategies and Pseudo Market Timing – Evidence from
Germany. JEL-classification : G10, G11, G14.
Baker and Wurgler, 2002. Market Timing and capital Structure. The Journal
of Finance, Vol. 57, No. 1 : 1-32.
Bougatef, Tunisie and Chichti, 2010. Equity Market Timing and Capital
Structure: Evidence from Tunisia and France. International Journal of
Business and Management, Vol. 5, No. 10.
Gunney and Hussian, 2007. Capital structure and IPO market timing in the
UK. Availble at:
http://cafef.vn/
http://idoc.vn/tai-lieu
http://vi.wikipedia.org/wiki
http://www.cophieu68.vn
http://youth.ueh.edu.vn/modules.php?name=Files&go=view_file&lid=355
Ignatius Roni Setyawan, Budi Frensidy, 2012. Empirical Tests for Market
Timing Theory of Capital Structure on the Indonesian Stock Exchange. JEL
Classification: G3;G31;G32
Ignatius Rony Setyawan, 2011. An Empirical Study on Market Timing
Theory of Capital Structure. ISSN: 2089-6271
Kivilcim Eraydin, 2008. The Underpricing and Long run Performance of
Initial Public Offerings – Evidence from Turkey.
61
Rongbing Huang and Jay R. Ritter, 2005. Testing the Market Timing Theory
of Capital Structure.
Sibel and Deniz, 2013. Does market timing drive capital structure? Empirical
Evidence from an Emerging Market. International Journal of Economics and
Financial Issues, Vol. 3, No. 1 : 140-152, ISSN: 2146-4138
Thanh Van Nguyen, 2012. Market Timing, Taxes and Capital Structure:
Evidence from Vietnam. Master Thesis Business Administrator, track
Financal Management.
William B. Elliott, Johanna Koëter-Kant and Richard S. Warr, 2004. Further
Evidence on the Financing Deficit: The Impact of Market Timing. SSRN-ID
637282