Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với việc phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
lượt xem 6
download
Mục đích của luận văn là tìm hiểu lý luận về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và vai trò của nó đối với việc phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Từ đó đề xuất những phương hướng và giải pháp khả thi nhằm thực hiện nghiêm việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với việc phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NGUYỄN THỊ THU TRÀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN: GS.TS ĐỖ THẾ TÙNG LUẬN VĂN ThS KINH TẾ HÀ NỘI 2006
- MỤC LỤC Mở đầu................................................................................................................. 2 Chương 1. Sở hữu trí tuệ và vai trò của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh tế thị trường............................................................................. 7 1.1. Së h÷u trÝ tuÖ vµ viÖc b¶o hé quyÒn së h÷u trÝ tuÖ............................... 7 1.2. Kinh nghiÖm cña mét sè n-íc vÒ b¶o hé quyÒn së h÷u trÝ tôª............ 22 Chương 2. Tình hình về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam trong thời gian qua................................................................................. .... 34 2.1. T×nh h×nh ®¨ng ký quyÒn së h÷u trÝ tôÖ ë ViÖt Nam trong thêi gian qua..... 34 2.2. T×nh tr¹ng x©m ph¹m quyÒn së h÷u trÝ tuÖ ë ViÖt Nam...................... 51 2.3.Thùc tr¹ng ho¹t ®éng b¶o hé quyÒn së h÷u trÝ tuÖ............................... 68 Chương 3. Các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ tại Việt Nam....................................................... 79 3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí 79 tuệ.................................. 3.2. Sắp xếp lại và tăng cường năng lực của các cơ quan bảo đảm thực thi........................................................................................................ 82 3.3. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ............................................................................................ 90 3.4. Trừng trị nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ ...................................................................................................... 94 Kết luận..................................................................................................... 97 Danh mục tài liệu tham khảo...................................................................... 100 1
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong điều kiện cách mạng Khoa học và Công nghệ diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Một số nước phát triển nhất đang chuyển sang nền kinh tế tri thức, thì tri thức ngày càng trở thành nhân tố sản xuất hàng đầu và là một loại hàng hoá công cộng. Hiệu quả sử dụng đòi hỏi phải truyền bá miễn phí các tri thức, nhưng nếu không có phí sử dụng thì không thể khuyến khích sản xuất ra tri thức. Bởi vậy phải bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Vì thế vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên thế giới nói chung có tầm quan trọng đặc biệt. Ở Việt Nam nói riêng theo xu hướng tất yếu của tiến trình hội nhập kinh tế Quốc tế, khung pháp lý để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng ngày càng được hoàn thiện. Số lượng các tổ chức, các nhân đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam đã tăng lên đáng kể đặc biệt là các thành phố lớn như: Hà nội, Hải phòng, Đà nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh… Trong số các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài đăng ký quyền sở hữu trí tuệ vào Việt Nam phải kể đến các nước hàng đầu như: Pháp, Đức, Mỹ, Italia, Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc… Trên cơ sở xác định cơ sở pháp lý để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước an tâm hơn trong việc sản xuất và kinh doanh ở Việt Nam, chống lại việc cạnh tranh không lành mạnh, cấm sản xuất và buôn bán hàng giả, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người sản xuất và người tiêu dùng. Nhiều đơn vị sản xuất và buôn bán hàng giả đã bị phát hiện và xử lý. Tuy nhiên các hoạt động đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam có nhiều hạn chế như: Số lượng các tổ chức, cá nhân trong nước đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn ít, chưa tương xứng với nhịp độ phát triển kinh tế, tình 2
- trạng vi phạm luật kéo dài gây nhiều thiệt hại cho chủ sở hữu trí tuệ và người tiêu dùng. Việt Nam đang chuẩn bị gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đặc biệt kể từ ngày 26/10/2004 công ước Berne mà Việt Nam cam kết thực hiện để tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh bắt đầu có hiệu lực. Trong những năm qua, các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ta đã tích cực nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các tổ chức, cá nhân trong nước cũng như các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Song thực tiễn cho thấy rằng số lượng các vụ tranh chấp, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn không giảm mà ngược lại càng gia tăng. Từ tình hình trên buộc chúng ta phải nhìn lại một cách thẳng thắn, khách quan về việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua, từ đó vạch ra những giải pháp đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh của đất nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Do đó “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với việc phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam” được chọn làm đề tài luận văn thạc sỹ này. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trên thế giới việc nghiên cứu sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã được các nước và các tổ chức quan tâm, có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này trong thời gian qua. Ở Việt Nam cho đến nay vấn đề sở hữu trí tuệ vẫn là vấn đề mới mẻ vì vậy việc nghiên cứu quyền sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam còn ít ỏi. Trong Thư viện Quốc gia chỉ có hai luận án tiến sỹ viết về đề tài này: 3
- - Tiến sỹ Lê Xuân Thảo: “Đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế thị trường Việt Nam”- Chuyên ngành Luật học. - Tiến sỹ Nguyễn Thị Quế Anh: “Bảo hộ các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ ở Việt Nam dưới ánh sáng của hiệp định TRIPS (Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ)”- Chuyên ngành Luật học. Năm 2001 - 2005 Trường Đại học Luật Hà Nội và Khoa Luật Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn có một số luận văn thạc sĩ về đề tài này như: Nguyễn Thị Hồng Yến: “Thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo hiệp định TRIPS/WTO trong so sánh với pháp luật Việt Nam” - Chuyên ngành Luật học. Các đề tài trên đều nghiên cứu dưới góc độ pháp luật chưa đi sâu nghiên cứu dưới góc độ kinh tế và ảnh hưởng của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Năm 2005 tại Học viện Nguyễn Ái Quốc, Ngô Tuấn Nghĩa đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ: “Sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế thị trường” - Chuyên ngành Kinh tế chính trị nhưng đó là một đề tài rất rộng nghiên cứu về sở hữu trí tuệ chứ chưa nghiên cứu dưới góc độ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế thị trường. Thời gian gần đây đã có nhiều cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế do Cục sở hữu trí tuệ tổ chức, đã có nhiều báo cáo trình bầy về từng vấn đề cụ thể về Luật sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách hệ thống về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, nhất là phân tích một cách sâu 4
- sắc sự tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích của luận văn là tìm hiểu lý luận về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và vai trò của nó đối với việc phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Từ đó đề xuất những phương hướng và giải pháp khả thi nhằm thực hiện nghiêm việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. - Nhiệm vụ của luận văn: + Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và phân tích tác động của nó đến sự phát triển kinh tế nói chung. + Khảo sát tình hình thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam trong thời gian qua và ảnh hưởng của nó đến việc phát triển kinh tế xã hội. + Đề xuất những giải pháp chủ yếu ở tầm vĩ mô để thực thi nghiêm việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu. Tuy có đề cập cơ sở pháp lý về quyền sở hữu trí tuệ, nhưng luận văn không đi sâu nghiên cứu pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mà dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn làm nổi bật vai trò của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói riêng. * Phạm vi nghiên cứu 5
- Tập trung vào bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bản quyền tác giả, có tham khảo kinh nghiệm của một số nước về vấn đề này. 5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của Kinh tế Chính trị, nhất là phương pháp trừu tượng hoá khoa học, kết hợp lôgíc với lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, sử dụng số liệu thống kê. 6. Những đóng góp của luận văn - Nêu rõ được tầm quan trọng của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế ở Việt Nam nói riêng. - Khắc họa thực trạng hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam trong thời gian qua và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết. - Luận giải có cơ sở khoa học một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Sở hữu trí tuệ và vai trò của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh tế thị trường. Chương 2: Tình hình về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam trong thời gian qua. Chương 3: Các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động bảo vệ quyền Sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. 6
- Chương 1 SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.1. Sở hữu trí tuệ và việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ 1.1.1. Quyền sở hữu trí tuệ Sang đầu thế kỷ XXI, nhiều nước phát triển trên thế giới đang chuyển biến mạnh mẽ từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh trí tuệ. Trong bối cảnh đó, tri thức trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất, đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội. Con người có tri thức khoa học và công nghệ cùng với kỹ năng lao động cao là lợi thế có ý nghĩa quyết định sự phát triển của mọi quốc gia, các lợi thế tự nhiên (tài nguyên thiên nhiên, nhân lực rẻ, vốn…) ngày càng lui xuống hàng thứ yếu. Chính vì vậy trong nền kinh tế tri thức, quyền sở hữu đối với tri thức hay là quyền sở hữu trí tuệ trở thành quan trọng nhất hơn cả quyền sở hữu về vốn, tài nguyên thiên nhiên và đất đai. Giá trị xã hội cũ lấy sản phẩm vật chất làm chủ đạo nay đang được thay thế bằng giá trị mới lấy việc sản xuất thông tin, tri thức để tiến hành sản xuất làm chủ đạo. Ai nắm được tri thức thì người đó dành được ưu thế và thắng lợi trong cuộc cạnh tranh. Đây là tài sản vô hình nhưng có khả năng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần to lớn, mang lại sức mạnh và ưu thế cạnh tranh cho chủ sở hữu. Sở hữu trí tuệ được thể chế hoá thành các quyền cụ thể bao gồm quyền tác giả (đối với tác phẩm), quyền liên quan đến quyền tác giả (quyền đối với sự trình diễn tác phẩm) và quyền sở hữu công nghiệp (quyền đối với phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bí mật kinh doanh...). 7
- 1.1.2. Những đặc điểm của tài sản trí tuệ + Thứ nhất: Đó là tài sản vô hình, không tồn tại dưới dạng vật thể và khó kiểm soát. Tài sản trí tuệ là nguồn khai thác vô tận không bao giờ cạn kiệt, có thể rất nhiều người chiếm hữu và sử dụng nó mà không làm giảm đi giá trị thực tế của nó. Một tri thức có thể thuộc quyền sở hữu của nhiều người. Có thể vô số người cùng sử dụng một tri thức mà không ai mất phần. Một người có thể sử dụng nhiều lần mà không phải trả thêm tiền. Người sau có thể kế thừa “tài sản trí tuệ” của người đi trước để tạo ra một tri thức mới. Bởi vậy, tài sản trí tuệ là tài sản khó kiểm soát nhất. + Thứ hai: Chi phí cho nghiên cứu rất lớn nhưng sản phẩm lại rẻ. Ví dụ: Chi phí cho việc nghiên cứu đĩa CD đầu tiên tổn phí hết 50 triệu USD, nhưng đĩa thứ hai và các đĩa tiếp theo chỉ tốn 3 USD [51]. Như vậy sản phẩm phải được bán với giá bao gồm cả chi phí cho nghiên cứu thì mới thu hồi được vốn, có lợi nhuận và bản quyền dành cho tác giả. Nếu không những người có phát minh hay sáng chế sẽ bị phá sản. + Thứ ba: Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế, một tri thức mới ra đời dễ dàng được lưu chuyển khắp thế giới. Bởi vậy lợi ích thu được từ tri thức và công nghệ mới không nhất thiết thuộc về nơi phát minh ra chúng mà tuỳ vào khả năng ứng dụng và việc tổ chức sản xuất ra sản phẩm với chi phí thấp nhất. Ví dụ: Hoa Kỳ đã phát minh ra máy quay phim và máy ghi âm, máy fax. Hà Lan phát minh ra máy CD nhưng phần lớn lợi nhuận của sản phẩm này lại rơi vào tay Nhật Bản [72]. Do những đặc điểm trên việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ giữ vai trò cực kỳ quan trọng, ở đây nảy sinh hai xu thế đối lập nhau: Muốn sử dụng tài sản trí 8
- tuệ có hiệu quả phải phổ biến nhanh, rộng rãi và toàn bộ tri thức với giá rẻ, thậm chí bằng không. Nhưng việc sản xuất ra tri thức rất tốn kém, đòi hỏi phải tạo điều kiện cho những người đã sáng tạo ra tri thức bù lại được những chi phí và có lãi gắn với việc sử dụng tri thức để họ tiếp tục sáng tạo ra tri thức mới. Mâu thuẫn giữa một bên là mục tiêu bảo đảm quy mô toàn xã hội được sử dụng tri thức với một bên là động lực khuyến khích sáng tạo tri thức bằng đãi ngộ vật chất, chỉ có thể giải quyết bằng việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Pháp luật phải thừa nhận quyền sở hữu trí tuệ của người đã sáng tạo ra tri thức như một tài sản cá nhân, cho phép họ độc quyền các phát minh, sáng chế của mình trong một thời gian và không gian nhất định. Hoặc là nhà nước trả cho họ những chi phí để sáng tạo ra tri thức mới ấy, khi đó họ sẽ từ bỏ quyền chuyên hữu tri thức của mình, cái đã được sản xuất ra thuộc quyền sở hữu của toàn xã hội. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ khuyến khích người có óc sáng chế, dọn đường cho những phát minh tiếp theo. Người phát minh muốn được cấp bằng sáng chế thì phải công bố chi tiết phát minh của mình và dựa vào những thông tin này, có thể sẽ xuất hiện những phát minh tiếp theo. Tuy nhiên, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ thông qua cấp bằng sáng chế nhiều khi lại hạn chế việc sử dụng và khai thác tri thức mà nếu được tự do sử dụng sẽ đem lại nhiều lợi ích cho xã hội hơn. Do đó thời gian bảo hộ quá dài, sẽ cản trở tiến bộ khoa học kỹ thuật. Ví dụ: Việc Quốc hội Anh kéo dài thời gian bảo hộ bằng sáng chế cấp cho Watt tới 25 năm đã dẫn tới chỗ Watt cản trở việc ứng dụng hơi nước có áp lực cao vào nghành đường sắt. Nếu độc quyền của Watt chấm dứt trước năm 1783 thì nước Anh sẽ có đường sắt sớm hơn [84]. Việc công nhận và ứng dụng những thành tựu sáng tạo của con người, khai thác nó như một tài sản kinh tế sẽ là chìa khoá để đạt được sự thịnh vượng 9
- của các quốc gia. Chính phủ của nhiều nước trên thế giới đã nhận thức sâu sắc vai trò của sở hữu trí tuệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nên đã chủ động gắn các chính sách về sở hữu trí tuệ với chiến lược phát triển tổng thể kinh tế xã hội của nước mình. Khái niệm “tài sản trí tuệ” và “luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” đã được đưa vào hệ thống luật của các nước phát triển từ cuối thế kỷ XIX và trở thành một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Tại Vương quốc Anh, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được luật hoá tại bộ luật Anne năm 1709, tại Pháp hệ thống bảo hộ được triển khai từ năm 1789 và tại Mỹ từ năm 1787. Khái niệm “quyền sở hữu trí tuệ” được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Có học giả cho rằng không có một khái niệm chung đơn nhất có thể bao quát được tất cả các tài sản trí tuệ. Có học giả lại cho rằng quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các đối tượng như: Sáng chế, quyền tác giả, bí mật thương mại, tên thương mại, và tập hợp các quyền khác. Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã đưa ra một định nghĩa được chấp nhận rộng rãi nhất: “Sở hữu trí tuệ được hiểu rộng rãi hơn và bao gồm các quyền liên quan tới các sản phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, sự trình diễn của các nghệ sĩ, các chương trình phát và truyền thanh, phát và truyền hình, các sáng chế thuộc mọi lĩnh vực, các phát minh khoa học, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, các tên thương mại và chỉ dẫn thương mại, chống cạnh tranh không lành mạnh và các quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực Khoa học, Công nghệ, Văn học nghệ thuật” (Điều 2 Công ước Stockholm 1967 về việc thành lập WTO). Hiệp định TRIPS (1994) đã quy định 7 đối tượng thuộc phạm vi của quyền sở hữu trí tuệ là: Sáng chế, quyền tá giả, nhãn hiệu hàng hoá, chỉ dẫn địa 10
- lý, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, thông tin bí mật. Tại Việt Nam, vấn đề sở hữu trí tuệ đã được đề cập từ những năm 1980 nhưng trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, pháp luật đã coi sở hữu trí tuệ là sở hữu toàn dân, nhà sáng chế được cấp bằng tác giả sáng chế, được trả thù lao, xong quyền sở hữu thuộc về nhà nước. Do vậy, không phát huy được trí sáng tạo của các cá nhân. Kể từ năm 1989 khi pháp lệnh về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ra đời thì nhà nước thừa nhận quan điểm cho rằng: Các sản phẩm trí tuệ do con người sáng tạo ra và chính con người có quyền sở hữu chúng. Nhà nước phải bảo hộ quyền tư hữu đó. Chính vì vậy, nhà nước đã cấp bằng độc quyền sáng chế, công khai thừa nhận quyền tư hữu đối với các tài sản trí tuệ. Đến năm 1995 sau khi quốc hội ban hành “Bộ luật dân sự” chúng ta mới có những quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ mang đầy đủ hiệu lực pháp lý. 1.1.3. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là việc pháp luật bảo đảm các điều kiện để chủ sở hữu trí tuệ có thể thực thi các quyền của mình, đồng thời ngăn chặn, xử lý mọi hành vi sử dụng quyền nói trên do người thứ ba thực hiện nếu không được phép của chủ sở hữu. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện bằng việc nhà nước cấp văn bằng độc quyền cho chủ sở hữu trí tuệ trong một thời gian nhất định, nhằm chống lại bất kỳ một sự xâm phạm nào của bên thứ ba. Đặc điểm của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là phải dựa vào pháp luật và các cơ chế thực thi đủ mạnh để ngăn chặn việc sử dụng các tài sản trí tuệ một cách bất hợp pháp của bên thứ ba. Bởi vì tài sản trí tuệ là một tài sản vô hình và công khai với công chúng (trừ bí mật thương mại) tài sản trí tuệ có thể bị lấy đi tự do nếu không có sự bảo hộ nghiêm ngặt của pháp luật. 11
- Ví dụ: Một tác phẩm văn học vừa được in ra nếu thiếu sự bảo hộ ngay lập tức nó sẽ bị sao chép và bán với giá rẻ hơn, làm cho nhà sản xuất bản gốc không những không thu được lợi nhuận và còn không thu hồi được vốn và những chi phí dành cho tác giả. Công nghệ cho phép số hoá các từ ngữ, âm thanh, hình ảnh cũng chính là công nghệ cho phép bất kỳ người nào cũng đều dễ dàng sao chép một cách trái phép, công nghệ cũng cho phép người khác giả mạo một cách dễ dàng nhãn mác của người khác và dán nhãn mác đó vào hàng hoá của mình. Và sáng chế một khi đã được cấp bằng trở thành tài liệu công khai mà người khác có thể sao chép lại mà không xin phép. Do đó, biện pháp duy nhất để phòng chống “trộm cắp” sáng chế đã được cấp bằng, tác quyền, hoặc nhãn hiệu hàng hoá… là thực hiện các chế tài nghiêm khắc như chế tài hành chính, dân sự, hình sự. Tác phẩm được bảo hộ phải là tác phẩm nguyên gốc trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, bao gồm phần mềm máy tính và cơ sở dữ liệu. Bảo hộ quyền tác giả không phân biệt hình thức, ngôn ngữ thể hiện và chất lượng tác phẩm. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được thể hiện bằng việc nhà nước cấp bằng bảo hộ cho chủ thể sở hữu công nghiệp. Bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp là chứng chỉ duy nhất của nhà nước xác nhận quyền sở hữu công nghiệp của chủ thể được cấp văn bằng, quyền tác giả của các tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và xác nhận khối lượng bảo hộ đối với quyền sở hữu công nghiệp (Khoản 1, Điều 9 Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996). Quyền sở hữu công nghiệp của một chủ thể phát sinh từ thời điểm được cấp bằng bảo hộ. 12
- Ví dụ: Một người có sáng chế nhưng không nộp đơn đăng ký với Cục Sở hữu trí tuệ nên chưa được cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc họ làm thủ tục nói trên sau một người thứ hai thì họ không được nhận sự bảo hộ bằng pháp luật từ phía nhà nước. Đây là điểm khác với quyền tác giả, quyền tác giả được bảo hộ từ khi tác phẩm được sáng tạo dưới một hình thức nhất định. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phụ thuộc vào hệ thống pháp luật của từng nước và các hiệp ước quốc tế mà nước đó cam kết tham gia. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả theo quy định tại điều 766 (Bộ luật Dân sự) và Điều 14 Nghị định 76/CP là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết cho mọi loại hình tác phẩm, không có quy định về thời gian bảo hộ quyền của người biểu diễn. Như vậy pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả và các quyền liên quan về cơ bản tương thích với pháp luật quốc tế. Tuy nhiên cần bổ sung quy định cụ thể về chương trình máy tính và sưu tập dữ liệu. Về nội dung và thời hạn bảo hộ đối với các quyền liên quan, đồng thời quy định về quyền tác giả không tính theo đời người trong Nghị định 76/CP (cần được sửa đổi). Điều 759 (Bộ luật dân sự) quy định: “Tác giả chủ sở hữu tác phẩm khi bị người khác xâm phạm quyền tác giả, quyền của chủ sở hữu tác phẩm, có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người đó phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại”. Điều này thể hiện quan điểm và cơ chế bảo hộ đối với quyền tác giả. Pháp luật không dùng từ “Bảo vệ” mà dùng từ “Bảo hộ” hàm ý tác giả và chủ sở hữu tác phẩm có quyền tự bảo vệ trong trường hợp không tự bảo vệ được mới yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực thi các biện pháp cần thiết để 13
- chấm dứt hành vi xâm phạm và phục hồi quyền bị xâm phạm. Tức là theo cơ chế bảo hộ tự động. Về thời hạn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được quy định tại điều 791 (Bộ luật Dân sự), các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ trong thời hạn bảo hộ có hiệu lực và có thể được gia hạn theo quy định của pháp luật. Bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp có hiệu lực kể từ ngày cấp cho đến khi kết thúc hoặc chấm dứt thời hạn hiệu lực đăng ký quốc tế về nhãn hiệu. Thời gian bảo hộ ở đây là thời gian nhà nước bảo đảm cho chủ sở hữu, chủ sử dụng có quyền khai thác các đối tượng của mình nhằm bù đắp lại các chi phí đã bỏ ra và để hưởng lợi từ các đối tượng đó. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì: + Bằng độc quyền sáng chế có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 20 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ. + Bằng độc quyền giải pháp hữu ích có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ. + Bằng đối tượng kiểu dáng công nghiệp có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 5 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ, có thể gia hạn liên tiếp hai lần mỗi lần 5 năm. + Giấy chứng nhận quyền sử dụng tên gọi xuất sứ hàng hoá có hiệu lực vô thời hạn từ ngày cấp. Cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường là cơ quan có thẩm quyền xem xét và quyết định gia hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ. Thời gian bảo hộ theo pháp luật Việt Nam phù hợp với thông lệ của các nước trên thế giới, bảo đảm thời gian cần thiết bù đắp những chi phí mà tác giả 14
- chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích đã bỏ ra, do đó khuyến khích sự sáng tạo của các thành viên trong xã hội. Phạm vi bảo hộ mang tính lãnh thổ. Tất cả các nhà đầu tư đến nước nào đều phải tuân theo pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ ở nước đó. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hoá ngày càng phát triển với mức độ nhanh chóng như hiện nay thì các nước cần hoàn thiện luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho phù hợp với những quy định của hệ thống pháp luật quốc tế. Hệ thống luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hoàn thiện và bộ máy thực thi đủ mạnh sẽ đạt các mục đích: Ngăn ngừa và xử lý nghiêm khắc các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh. WIPO là tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới đang quản lý hai văn bản lâu đời nhất điều chỉnh về quyền sở hữu trí tuệ. Đó là Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883 (sửa đổi năm 1979) và công ước Berne về bảo hộ đối với tác phẩm văn học nghệ thuật năm 1886 (sửa đổi năm 1971). Những văn bản này đã điều chỉnh hai lĩnh vực quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền sở hữu công nghiệp và quyền tác giả. Theo quy định mới đây những nước nào muốn trở thành thành viên của WTO thì phải tham gia vào công ước Paris và công ước Berne. Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cũng quy định “Để bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ và có hiệu quả, mỗi bên tối thiểu phải thực hiện chương trình này và các quy định có nội dung kinh tế của: Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật; Công ước Paris về quyền sở hữu công nghiệp và một số công ước khác” [18]. Tại Việt Nam từ năm 1990 đến nay hệ thống quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ không ngừng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với hệ thống pháp 15
- luật và thông lệ quốc tế. Nó được thể hiện ở Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự (Phần thứ 6 chương II và chương III), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1997 (được sửa đổi bổ sung năm 2002), Bộ luật hình sự 1999 (được sửa đổi bổ sung 2001), Luật Khoa học và Công nghệ năm 2000, Pháp lệnh giống cây trồng năm 2004, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật hải quan năm 2002… và các văn bản khác hướng dẫn thi hành luật. 1.1.4. Mục đích của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trở nên đặc biệt quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Chưa bao giờ vấn đề sở hữu trí tuệ lại được đưa ra một cách cấp bách như hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế tri thức, dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ với hàm lượng trí tuệ ngày càng cao. Thực tiễn cho thấy muốn khuyến khích đầu tư sáng tạo, chuyển giao công nghệ mới tiên tiến hiện đại thì phải ngăn chặn có hiệu quả nguy cơ sử dụng bất hợp pháp các thành quả sáng tạo. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm các mục đích sau: Một là: Bảo vệ lợi ích của người phát minh, khuyến khích phát hiện cái mới. Quyền sở hữu trí tuệ quyết định khả năng tồn tại và hoạt động trong tương lai của mỗi doanh nghiệp. Một cuộc điều tra gần đây cho thấy: Năm 1982 khoảng 62% tài sản của doanh nghiệp ở Hoa Kỳ là tài sản vật chất nhưng đến năm 2000 con số đó giảm xuống chỉ còn 30%. Vào đầu những năm 1990 ở châu Âu tài sản vô hình chiếm 1/3 tổng số tài sản. Tại Hà Lan năm 1992 tài sản vô hình chiếm 35% tổng đầu tư của nhà nước và tư nhân [85, tr.54]. 16
- “Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của một nước chịu ảnh hưởng của chính sách sở hữu trí tuệ của chính phủ” [85, tr.93]. Chủ sở hữu có thể tự mình ứng dụng hoặc chuyển nhượng bằng độc quyền sáng chế để thu lại chi phí đã bỏ ra tái sản xuất ra tri thức. Nhiều khi sản phẩm trí tuệ có tính ứng dụng cao cho hoạt động kinh tế - xã hội nhưng do hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không nghiêm ngặt khiến chủ sở hữu chưa thu được đủ chi phí sản xuất nên họ không muốn đăng ký với cơ quan hữu quan. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trước hết là bảo vệ lợi ích của người phát minh nhằm khuyến khích các viện nghiên cứu chuyển giao và triển khai trí thức thông qua việc gắn kết các nỗ lực của nhà nước và giới khoa học với các nỗ lực của khu vực thương mại. Đặc biệt ở các nước đang phát triển như ở nước ta khi kinh phí dành cho nghiên cứu và triển khai trong khu vực công nghiệp còn thấp thì cần bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mạnh hơn để gia tăng tài trợ tư nhân trong khu vực này hoặc để tăng lợi nhuận từ sản phẩm và dịch vụ đạt được trong thương mại, có sử dụng kết quả nghiên cứu để đầu tư tiếp cho nghiên cứu và triển khai. Những nghệ sĩ, người sáng tạo và doanh nhân cạnh tranh trực tiếp với những sản phẩm bất hợp pháp là người cảm nhận trực tiếp nhất hậu quả về mặt xã hội của nạn bằng giả và chiếm đoạt. Ví dụ: Những nhạc sĩ, ban nhạc, công ty ghi âm và nhà phân phối trong nước không thể phát hành một đĩa CD vì các sản phẩm của họ bị đẩy ra khỏi thị trường bởi các bản sao làm giả được bán với giá thấp và không bảo đảm chất lượng. Hai là: Bảo vệ lợi ích người sản xuất. 17
- Việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ nhất là sở hữu công nghiệp làm cho doanh nghiệp nắm quyền sở hữu mất thị phần trên thị trường, không chỉ giảm bớt doanh thu và lợi nhuận mà còn ảnh hưởng xấu đến vị trí và hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường. Sự điêu đứng của các doanh nghiệp làm ăn chân chính và của những nghành công nghiệp non trẻ do nạn hàng giả, hàng nhái, hàng sao chép lậu đang đe dọa nghiêm trọng sự phát triển kinh tế - xã hội. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không có hiệu quả sẽ làm cho môi trường kinh doanh trở nên không lành mạnh. Hàng giả, hàng nhái và hàng sao chép với hàng thật đan xen lẫn nhau, gây tổn thất và làm mất lòng tin của người tiêu dùng và hậu quả sẽ rất lâu dài, không thể lường trước được. Hậu quả là nhà sản xuất chân chính bị thiệt thòi, uy tín của doanh nghiệp bị suy giảm. Trong khi đó lợi ích của các doanh nghiệp vi phạm lại càng gia tăng. Ví dụ: Hiệp hội Điện ảnh Hoa Kỳ ước tính rằng các phim bị quay trộm bằng máy ghi âm và phim ăn cắp làm cho nghành công nghiệp phim ảnh Hoa Kỳ thiệt hại khoảng 2,5 tỷ USD mỗi năm. Tại Việt Nam, nhiều doanh nghiệp đang phải đối mặt với nạn hàng giả và hầu hết bị giảm thị phần bởi hàng giả. Ông Thịnh Sỹ, phó Giám đốc Công ty bánh kẹo Tràng An cho biết: Do sự gia tăng của hàng giả nên thu nhập của công ty Tràng An về mặt hàng bánh kẹo giảm 30% so với năm ngoái. Công ty bánh kẹo Hải Hà cũng bị giảm 40% sản lượng so với trước đây. Ông Chấn Văn Thành, phó Giám đốc công ty TNHH Hữu Tiến cho biết, trong năm 2000 năng suất và doanh thu của công ty đã giảm xuống đến 70% so với năm trước đây do bị hàng giả lấn át [47]. Theo luật pháp, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên vi phạm phải bồi thường, nhưng đây là vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm, không phải lúc nào người 18
- bị thiệt hại cũng có thể đưa ra bằng chứng để chứng minh thiệt hại của mình, đặc biệt là các thiệt hại vô hình như uy tín trên thương trường. Ba là: Bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Chất lượng của sản phẩm là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Nhãn hiệu và uy tín của sản phẩm là chỉ dẫn thương mại giúp người tiêu dùng tìm đến sản phẩm yêu thích đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của mình. Người tiêu dùng thường có thói quen mua hàng mang nhãn hiệu mà họ đã quen dùng vì họ tin tưởng hàng hoá đó có chất lượng tốt như họ đã được biết. Hiện nay nạn hàng giả phát triển với quy mô quốc tế. Việc ăn cắp bản quyền và giả mạo hàng hoá không chỉ diễn ra với các hàng tiêu dùng như túi sách, nước hoa và quần áo mà cả dược phẩm. Thậm chí cả những phụ tùng của máy bay. Việc mua nhầm một túi sách tay dởm nhãn hiệu Chanel hoặc đồng hồ Rolex có thể gây ra nỗi kinh hoàng, tức giận hoặc căng thẳng về tâm lý. Việc mua phải dược phẩm giả mạo có thể gây ra hậu quả chết người. Đã có trường hợp một máy bay được lắp ráp bằng êcu và bulông giả mạo khi ở độ cao 12.000m đinh ốc long ra làm máy bay rơi. Tại Việt Nam, điều đáng lo ngại là hiện tượng hàng giả ngày càng phát triển một cách tinh vi, khó phát hiện [71]. Ví dụ: Máy tính Casio giả đã bắt chước toàn bộ kiểu dáng và nhãn hiệu của loại máy LC - 403LB, Fx - 500… Sách giáo khoa do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản được in lậu bán tràn lan trên thị trường chỉ khi người tiêu dùng sử dụng mới phát hiện ra hàng in lậu. Mì chính giả nhãn hiệu AJINOMOTO hiện nay đang lưu hành trên thị trường với lôgô hình thức mẫu mã giống hệt hàng thật, Xi -rô paracentamol giả đã cướp đi sinh mạng của 109 trẻ em ở Nigeria (nguồn: http:// www.interpol.int). Một phiên bản giả thuốc kháng sinh loại kháng sinh 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 8 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 17 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 9 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 3 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 7 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn