intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn thạc sĩ kinh tế: Các rào cản trong thương mại quốc tế và yêu cầu đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Chia sẻ: Dfxvcfv Dfxvcfv | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:107

311
lượt xem
64
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài Các rào cản trong thương mại quốc tế và yêu cầu đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nêu tổng quan về các rào cản trong thương mại quốc tế. Nghiên cứu các rào cản trong thương mại quốc tế đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam . Một số giải pháp kiến nghị nhằm đối phó với các rào cản trong thương mại quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn thạc sĩ kinh tế: Các rào cản trong thương mại quốc tế và yêu cầu đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

  1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ---------***--------- TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG ---------***--------- PHẠM XUÂN THỤY Phạm Xuân Thụy CÁC RÀO CẢN TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ YÊU CẦU ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦAVIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Các rào cản trong thƣơng mại quốc tế và yêu cầu đối với hoạt động xuất khẩu ngành: Kinh trong tiến trình hội hệ kinh tế quốc tế tế Chuyên củaViệt Nam tế thế giới và Quan nhập kinh tế quốc Mã số: 60.31.07 Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế Mã số: 60.31.07 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Luận văn thạc sỹ Kinh tế NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRỊNH THỊ THU HƢƠNG NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRỊNH THỊ THU HƢƠNG HÀ NỘI - 2006
  2. 2 MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC TỪ VIẾ TẮT LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG I. TỔNG QUAN VỀ CÁC RÀO CẢN TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ 4 1.1 Khái niệm về rào cản trong thƣơng mại quốc tế 4 1.2 Sự hình thành và mục đích sử dụng các rào cản thƣơng mại quốc tế 6 1.2.1 Sự hình thành các rào cản trong thương mại quốc tế 6 1.2.2 Mục đích sử dụng các rào cản trong thương mại quốc tế 8 1.3 Các loại rào cản trong thƣơng mại quốc tế 10 1.3.1 Rào cản thuế quan 10 1.3.1.1 Thuế quan 10 1.3.1.2 Hạn ngạch thuế quan 12 1.3.2 Rào cản phi thuế quan 12 1.3.2.1 Các biện pháp tương đương thuế quan 13 1.3.2.2 Các biện pháp hạn chế định lượng 14 1.3.2.3 Các rào cản kỹ thuật trong thương mại 17 1.3..2.4 Các biện pháp về vệ sinh và kiểm dịch động thực vật 18 1.3.2.5 Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời 18 3.2.2.6 Quản lý tỷ giá hối đoái 19 1.3.2.7 Tỷ lệ nội địa hoá bắt buộc 19 1.3.2.8 Các biện pháp liên quan đến các doanh nghiệp nhà nước và quyền kinh doanh thương mại 20 1.3.2.9 Các rào cản khác 20
  3. 3 1.4 Qui định của WTO về các rào cản trong thƣơng mại quốc tế 20 1.4.1 Qui định của WTO về rào cản thuế quan 21 1.4.1.1 Qui định của WTO về thuế quan 21 1.4.1.2 Qui định của WTO về hạn ngạch thuế quan 23 1.4.2 Qui định của WTO về các rào cản phi thuế quan 24 1.4.2.1 Các biện pháp tương đương thuế quan 24 1.4.2.2 Các biện pháp hạn chế định lượng 25 1.4.2.3 Các biện pháp liên quan đến doanh nghiệp 28 1.4.2.4 Các biện pháp kỹ thuật trong thương mại 28 1.4.2.5 Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời 30 1.4.2.6 Qui định về mua sắm chính phủ 33 1.4.2.7 Các biện pháp khác 34 CHƢƠNG II. NGHIÊN CỨU CÁC RÀO CẢN TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 36 2.1 Rào cản thƣơng mại ở một số thị trƣờng xuất khẩu chính của Việt Nam 36 2.1.1 Các rào cản thương mại của thị trường Hoa Kỳ 36 2.1.1.1 Hàng rào thuế quan Hoa Kỳ 37 2.1.1.2 Hàng rào phi thuế quan Hoa Kỳ 39 2.1.2 Các rào cản thương mại của thị trường EU 46 2.1.2.1 Rào cản thuế quan của EU 47 2.1.2.2 Rào cản phi thuế quan của EU 49 2.1.3 Các rào cản thương mại của thị trường Trung Quốc 55 2.1.3.1 Rào cản thuế quan của Trung Quốc 56 2.1.3.2 Rào cản phi thuế quan của Trung Quốc 57 2.1.4 Các rào cản thương mại của thị trường các nước ASEAN 61
  4. 4 2.1.4.1 Rào cản thuế quan của các nước ASEAN 62 2.1.4.2 Rào cản phi thuế quan của các nước ASEAN 63 2.2 ảnh hƣởng của các rào cản thƣơng mại tại các thị trƣờng chính đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam 66 2.2.1 ảnh hưởng của các rào cản thuế quan 66 2.2.2 Ảnh h-ëng cña c¸c rµo c¶n phi thuÕ quan 67 CHƢƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM ĐỐI PHÓ VỚI CÁC RÀO CẢN TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ, ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 70 1. Chiến lƣợc phát triển xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2000-2010 70 2. Kinh nghiệm đối phó với các rào cản trong thƣơng mại quốc tế của một số nƣớc 72 2.1 Kinh nghiệm đối phó với các rào cản thương mại của Trung Quốc 72 2.2 Kinh nghiệm đối phó với các rào cản thương mại của Thái Lan 76 2.3 Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 78 3. Các biện pháp nhằm vƣợt rào cản trong thƣơng mại quốc tế để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam 80 3.1 Giải pháp chung của Nhà nước 81 3.1 Giải pháp cho các Hiệp hội ngành nghề 88 3.3 Giải pháp đối với các doanh nghiệp 91 KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. 5 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt (Agreement on) Anti-Dumping ADP Hiệp định về chống bán phá giá Practices AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực tự do thương mại ASEAN Asia-Pacific Economic Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - APEC Cooperation Thái Bình Dương Association of South-East Asian ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á Nations Common Effective Preferential Chương trình ưu đãi thuế quan có CEPT Tariff hiệu lực chung của ASEAN DOC Department of Commerce Bộ Thương mại Hoa Kỳ EU European Union Liên minh Châu Âu General Agreement on Tariffs Hiệp định chung về thuế quan và GATT and Trade thương mại Generalized System of GSP Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập Preferences International Standardization ISO Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế Organization MFN Most Favoured Nation Qui chế tối huệ quốc NT National Treatment Chế độ đãi ngộ quốc gia Organization for Economic Tổ chức hợp tác và phát triển kinh OECD Cooperation and Development tế Subsidies and Countervailing Hiệp định về trợ cấp và các biện SCM Measures Agreement pháp đối kháng của WTO WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế giới VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam TMQT Thương mại quốc tế
  6. 6 LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Thương mại quốc tế, từ lâu, đã đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế ở mọi quốc gia. Thông qua thương mại quốc tế, các quốc gia tiến hành trao đổi để phát huy hết các lợi thế và khắc phục các hạn chế của nền kinh tế nước mình. Tuy nhiên, tham gia vào thương mại quốc tế không có nghĩa là tham gia vào một cuộc chơi hoàn toàn bình đẳng, bởi vì, các quốc gia khi tham gia vào thương mại quốc tế đều cố gắng phát huy hết khả năng để thu được lợi ích tối đa nhất nhưng đồng thời cũng luôn bảo hộ thị trường cho các doanh nghiệp nội địa. Để làm được điều này Chính phủ các quốc gia đã lập nên các hàng rào, cả hữu hình lẫn vô hình để ngăn cản hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài thâm nhập và cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước. Trong đó, các nước giàu, các nước có nền kinh tế phát triển, với các ưu thế của mình lại là những nước áp dụng mạnh mẽ nhất các biện pháp này đối với hàng hoá từ các quốc gia đang và chậm phát triển. Ngay cả trong bối cảnh tự do hoá thương mại và quốc tế hoá đời sống kinh tế như hiện nay thì các rào cản thương mại này chẳng những không giảm đi mà nó ngày càng tinh vi, phức tạp hơn. Nếu như trước kia chúng chỉ tồn tại dưới hình thức là các biện pháp bảo hộ thuế quan hay các lệnh cấm, các hạn chế nhập khẩu thì nay chúng tồn tại dưới nhiều hình thức, nhiều biện pháp khác nhau. Trong hơn một thập kỷ qua Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế quốc tế. Hiện chúng ta đã là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với Khu vực tự do mậu dịch ASEAN (AFTA), Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) và sẽ sớm trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong năm 2006 này. Theo đó chúng ta sẽ phải thực hiện các cam kết về mở cửa thị trường cho phù hợp với qui định chung của tổ chức này. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải hiểu và nắm rõ được các rào cản trong thương mại quốc tế để một mặt vượt qua chúng, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Đây chính là lý do mà vấn đề “Các rào cản trong thương mại quốc tế và yêu cầu đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” được chọn làm đề tài cho luận văn này.
  7. 7 Tình hình nghiên cứu Trong thời gian qua đã có rất nhiều bài báo trên các tạp chí kinh tế như: Thời báo kinh tế, Báo Thương mại, Báo đầu tư hay trên các trang báo điện tử như http://www.vnexpress.net, http://www.vneconomy.com.vn, http://www.vnmedia.vn ... đề cập đến vấn đề rào cản và vượt rào cản trong thương mại quốc tế, trang web của Sở thương mại thành phố Hồ Chí Minh www.trade.hochiminhcity.gov.vn cũng có liệt kê hầu hết các qui định chung liên quan đến việc nhập khẩu hàng hoá vào các quốc gia trên thế giới, nhưng những nghiên cứu kể trên vì nhiều lý do chỉ đề cập đến vấn đề rào cản một cách riêng lẻ. Đặc biệt, trong thời gian gần đây cũng đã có những công trình nghiên cứu lớn đề cập đến vấn đề này, có thể nêu ra: “Bảo hộ hợp lý sản xuất và mậu dịch nông sản trong quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế”- Đề tài nghiên cứu cấp bộ của Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội (2002-2003), “Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế và những giải pháp để vượt rào cản kỹ thuật của các doanh nghiệp ở Việt Nam”–Viện Nghiên cứu thương mại, Bộ Thương Mại (2001-2002), “Nghiên cứu các rào cản trong thương mại quốc tế và đề xuất các giải pháp đối với Việt Nam”- Bộ Thương Mại (2003-2004). Tuy nhiên, với việc Việt Nam sẽ sớm trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong năm 2006 này người vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu các rào cản trong thương mại quốc tế dựa trên các qui định của WTO để từ đó tạo đà cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vượt qua các rào cản, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của nước ta. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích các hình thức rào cản trong thương mại quốc tế, đặc biệt là dựa trên các qui định của WTO, luận văn sẽ đi sâu nghiên cứu các rào cản thương mại ở các thị trường xuất khẩu chính mà hàng hoá của Việt Nam đang vấp phải cũng như đề xuất các giải pháp để vượt rào cản, đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Nhiệm vụ nghiên cứu
  8. 8 - Chỉ ra và phân tích các rào cản đang được áp dụng trong thương mại quốc tế dựa trên qui định của WTO - Phân tích các rào cản thương mại của một số thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam - Đề xuất các biện pháp vượt rào cản thương mại cho Việt Nam. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hình thức rào cản đang được áp dụng trong thương mại quốc tế, nhưng xin đề cập đến chúng theo góc độ từ các qui định của WTO. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: thống kê, tổng hợp, phân tích và pháp so sánh. Kết cấu của luận văn Luận văn có kết cấu gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về các rào cản trong thương mại quốc tế Chương II: Nghiên cứu các rào cản trong thương mại quốc tế đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp kiến nghị nhằm đối phó với các rào cản trong thương mại quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam.
  9. 9 CHƢƠNG I. TỔNG QUAN VỀ CÁC RÀO CẢN TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ 1.1 Khái niệm về rào cản trong thƣơng mại quốc tế Khi tham gia vào thương mại quốc tế (TMQT), các quốc gia đều cố gắng phát huy hết các lợi thế của mình, tận dụng các ưu thế trên thị trường quốc tế nhưng mặt khác chính các quốc gia đó lại cũng phải đối mặt với những lợi thế của các quốc gia khác là đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cho quốc gia này đồng nghĩa với sự yếu thế cho quốc gia khác. Để khắc phục, các quốc gia sẽ sử dụng một loạt các công cụ để điều chỉnh hoạt động thương mại. Công cụ truyền thống và hiện vẫn được sử dụng phổ biến hơn cả là đánh thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của các quốc gia khác khi thâm nhập vào thị trường trong nước, cùng với đó là hàng loạt các khoản thu, các qui định, các chính sách nhằm hạn chế hàng hoá của nước ngoài xâm nhập thị trường nội địa. Đối với nước xuất khẩu lúc này hàng hoá của họ sẽ phải đối mặt với một hàng rào mà người ta gọi là rào cản thương mại. Thuật ngữ “rào cản thương mại” (barriers to trade) hay “hàng rào thương mại” đã được sử dụng khá phổ biến, được đề cập đến ở nhều nơi như trong phần “UNDERSTANDING THE WTO: THE AGREEMENTS” của WTO hay trong các nghiên cứu của Nhóm làm việc của Uỷ ban về thương mại thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Tuy nhiên, cho đến nay, có thể nói rằng vẫn chưa có một định nghĩa nào cụ thể về các rào cản trong thương mại. Trong Hiệp định về các rào cản kỹ thuật đối với thương mại của WTO có một khái niệm về rào cản thương mại nhưng mới chỉ dừng lại ở việc thừa nhận như một thoả thuận rằng “không một nước nào có thể bị ngăn cản tiến hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất khẩu của mình, hoặc để bảo vệ cuộc sống hay sức khoẻ con người, động và thực vật, bảo vệ môi trường hoặc để ngăn ngừa các hoạt động man trá, ở mức độ mà nước đó cho rằng phù hợp và phải đảm bảo rằng các biện pháp này không được tiến hành với cách thức có thể gây ra phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện hoặc không thể biện minh được giữa các nước, trong các điều kiện giống nhau, hoặc tạo ra các hạn
  10. 10 chế trá hình đối với TMQT, hay nói cách khác phải phù hợp với các qui định của Hiệp định này” [9]. Trên thực tế, khái niệm rào cản trong thương mại chỉ mang tính chất tương đối. Như ta đã nhắc đến ở phần đầu, để đối phó với luồng hàng hoá được nhập khẩu từ bên ngoài, các quốc gia sẽ thi hành hàng loạt các chính sách, các biện pháp hạn chế nhập khẩu. Nếu các các chính sách, các qui định đó gây cản trở cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, của quốc gia này thì bị qui là rào cản thương mại nhưng đối với doanh nghiệp, quốc gia khác thì chưa hẳn đã vậy. Cụ thể, thuế quan đánh vào hàng nhập khẩu không phải là rào cản nếu mức thuế suất là thấp hoặc rất thấp tới mức không gây cản trở đối với thương mại, thậm chí mức thuế suất được hưởng thấp hơn so với của hàng hoá xuất khẩu cạnh tranh từ một nước khác lại là một sự ưu đãi. Nhưng nó sẽ trở thành rào cản nếu mức thuế suất là cao một cách thực sự hoặc là cao hơn mức thuế suất được áp dụng đối với hàng hoá cùng loại của một nước khác. Với các biện pháp khác cũng vậy, bản thân nó không phải là rào cản nếu biện pháp đó được đặt ra “không quá mức cần thiết” và không vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia, nhưng nó sẽ trở thành hàng rào nếu như nó gây cản trở cho thương mại của quốc gia khác. Từ đây, chúng ta có thể đi đến một nhất trí là “rào cản” hay “hàng rào thương mại” là khái niệm được dùng để chỉ các chính sách, các qui định của một quốc gia, một khu vực hay một khối kinh tế điều chỉnh các hoạt động thương mại của quốc gia, khu vực hay khối kinh tế đó với phần còn lại của thế giới mà các biện pháp đó là nhằm mục đích cản trở và hạn chế việc nhập khẩu hàng hoá. Kết quả các vòng đàm phán thương mại đa phương và song phương trong khuôn khổ của WTO và trước đây là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) về mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại đã chỉ ra rằng: rào cản trong thương mại quốc tế xuất hiện trong hầu hết các lĩnh vực, với các biện pháp rất đa dạng và tinh vi. Chẳng hạn, có biện pháp được áp dụng ngay tại biên giới và có biện pháp áp dụng bên trong biên giới; có biện pháp thuế quan và phi thuế quan; có biện pháp môi trường và biện pháp vệ sinh dịch tễ; có biện pháp tự vệ đặc biệt và có biện pháp mang tính tạm thời; có biện pháp chung nhưng cũng có biện pháp mang tính chuyên ngành; có những biện pháp trực tiếp đối với hàng hoá xuất nhập khẩu và cũng có biện pháp gián tiếp như đầu tư liên quan đến thương mại. Chính vì tính đa dạng và phức
  11. 11 tạp của các rào cản trong TMQT này đã đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu không chỉ bản chất và thực tiễn áp dụng chúng mà phải nắm rõ được vai trò và mục tiêu của các quốc gia khi xây dựng và áp dụng chúng. 1. 2 Sự hình thành và mục đích sử dụng các rào cản thƣơng mại quốc tế 1.2.1 Sự hình thành các rào cản trong thƣơng mại quốc tế Rào cản thương mại nằm trong hệ thống các chính sách thương mại của các quốc gia, chính vì vậy, cũng như các biện pháp khác chúng có vai trò chủ yếu trong trong việc tác động và điều chỉnh hoạt động thương mại theo hướng có lợi nhất, đáp ứng các mục tiêu và yêu cầu xác định của mỗi quốc gia. Rào cản trong TMQT bao gồm nhiều loại khác nhau và mỗi loại rào cản lại có vai trò nhất định riêng của nó. Ví dụ, cả rào cản thuế quan và rào cản phi thuế quan đều có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước. Thuế quan thì có ưu điểm là rõ ràng, minh bạch, có thể dự đoán và là nguồn thu quan trọng cho Chính phủ nhưng thuế quan lại dễ làm sai lệch các tín hiệu thị trường dẫn đến phân bổ các nguồn lực không hợp lý, hơn nữa thuế quan không có tính bảo hộ cao và kịp thời được như các biện pháp phi thuế quan. Trong khi đó, các biện pháp phi thuế quan như cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu... có tác dụng hạn chế nhập khẩu nhanh chóng. Một biện pháp phi thuế quan có thể được áp dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Ví dụ, với các qui định về vệ sinh và kiểm dịch động thực vật vừa nhằm mục đích bảo vệ sức khoẻ, bảo vệ cuộc sống của con người và động thực vật vừa có tác động gián tiếp giúp bảo hộ sản xuất trong nước. Hai nữa, để phục vụ cho một mục tiêu nhất định, ví dụ hạn chế nhập khẩu thịt bò người ta có thể vận dụng cùng lúc nhiều biện pháp phi thuế quan khác nhau như cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu hay kiểm dịch động thực vật. Tất nhiên, các rào cản phi thuế quan cũng có nhược điểm của nó. Đó là, chúng rất khó được lượng hoá, khó dự đoán, không những không tạo nguồn thu mà còn tốn các khoản chi phí quản lý phát sinh và rất dễ gây ra các tiêu cực. Hiện nay, có rất nhiều các biện pháp, các chính sách thương mại. Chúng vừa đa dạng, vừa phức tạp thậm chí đan xen vào nhau. Chính vì vậy, trên thực tiến, rất khó để xác định một biện pháp quản lý nhập khẩu có phải là rào cản thương mại hay không. Các công ước, các Hiệp định chung về thương mại cũng chỉ có thể qui định
  12. 12 xác thực đến một cách tương đối các rào cản không được áp dụng. Mặt khác, trước yêu cầu của quá trình tự do hoá thương mại, hầu hết các quốc gia đều cam kết từng bước dỡ bỏ các hàng rào thương mại này nhưng thực ra yêu cầu bảo hộ vẫn là rất lớn, do đó việc tháo gỡ các rào cản thương mại diễn ra khá chậm chạp. Rào cản trong thương mại được hình thành và áp dụng trên cơ sở các lợi ích mà chúng mang lại. Vô hình chung, chúng đều nhằm lợi ích cho nước nhập khẩu áp dụng chúng, nhưng xét cụ thể hơn, chúng có thể gắn liền với lợi ích của từng nhóm người khác nhau và sự hình thành của các rào cản này liên quan đến khả năng tác động của họ lên việc thực hiện chính sách. Cụ thể, sự hình thành các rào cản trong TMQT có thể xuất phát từ các nhóm chủ thể sau: Từ phía Chính phủ Thông thường các biện pháp thương mại trong đó có các rào cản thương mại được Chính phủ các quốc gia tiến hành là vì mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế hoặc để đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội. Đó là việc xây dựng các rào cản nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ và cuộc sồng của con người và động thực vật; đó cũng có thể là các rào cản nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của quốc gia như áp dụng thuế quan, các khoản thu như phí và lệ phí chẳng hạn. Trong trường hợp này, Chính phủ sẽ phải cân nhắc đến lợi ích của từng nhóm thành phần xã hội cũng như tổng thể để quyết định có nên thực thi rào cản đó hay không. Quá trình này không hề dễ dàng vì việc tính toán lợi ích và thiệt hại là rất khó khăn nhất là khi nó liên quan đến quyền lợi của các quốc gia là đối tác thương mại có liên quan. Từ phía người lao động và người tiêu dùng Bảo vệ người tiêu dùng là một trong những mục tiêu lớn nhất của việc tạo dựng và thực thi các rào cản thương mại, đặc biệt là các rào cản kỹ thuật. Với lý do là bảo vệ sức khoẻ của người tiêu dùng các quốc gia có thể đưa ra các qui định hay tiêu chuẩn kỹ thuật ở mức rất cao và trở thành rào cản thương mại, mặc dù nguy cơ có thể chưa được xác định dựa trên cơ sở khoa học. Một lý do khác dẫn tới việc hình thành rào cản trong thương mại là để bảo vệ người lao động. Thông qua các nghiệp đoàn của mình, người lao động đã kiến nghị lên Chính phủ yêu cầu có những biện pháp để đảm bảo công ăn việc làm và một mức
  13. 13 thu nhập ổn định cho họ. Và trong bối cảnh TMQT hiện nay, các rào cản thương mại nhằm bảo hộ cho ngành sản xuất của họ luôn được tính tới. Thậm chí, vì mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền, đối với người lao động và người tiêu dùng, việc đảm bảo lợi ích cho họ không chỉ là nhiệm vụ của các Chính phủ mà còn là biện pháp để xoa dịu và lấy được sự tín nhiệm của họ. Từ phía các doanh nghiệp Một điều dễ nhận thấy là các nhà sản xuất ở mỗi quốc gia đều cần được bảo hộ trước sự cạnh tranh của hàng hoá ngoại nhập. Chính vì vậy, các nhà sản xuất ở các quốc gia thường liên hợp nhau lại tạo thành hiệp hội, từ đó yêu cầu hoặc thậm chí gây áp lực đối với Chính phủ để thực thi các hàng rào thương mại có lợi cho mình. Các áp lực từ phía các hiệp hội này thường có tổ chức và được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, từ vận động hành lang cho tới quyên góp tài chính. Trong khi đó, đối với các Chính phủ, quyền lợi của các doanh nghiệp trong nước cũng chính là quyền lợi của quốc gia và các Chính phủ này, lấy các cớ như là bảo vệ cho ngành công nghiệp non trẻ, ngành sản xuất dùng nhiều lao động hay bất kỳ một lý do nào để áp dụng các rào cản. Hơn nữa, trong rất nhiều trường hợp sự câu kết của Chính phủ và các doanh nghiệp là vì lợi ích của cả hai bên, ví dụ tăng mức độ bảo hộ bằng thuế quan thì thu ngân sách của Chính phủ khi đó cũng được lớn hơn. Quốc gia có nhiều rào cản thương mại được xây dựng từ tác động của các doanh nghiệp nhất là Hoa Kỳ. Thậm chí, trong Luật bồi thường về thương mại mà chúng ta sẽ nghiên cứu sau đây có một qui định rằng lợi ích thu được từ các biện pháp bồi thường thương mại sẽ được chia sẻ cho chính các doanh nghiệp tham gia khởi kiện (Tu chính án Byrd). Qui định này như một sự cổ vũ cho các doanh nghiệp nước này tham gia vào việc xây dựng và thực thi các rào cản thương mại. 1.2.2 Mục đích sử dụng các rào cản trong thƣơng mại quốc tế Điều tiết vĩ mô nền kinh tế, hướng dẫn tiêu dùng trong nước Mặc dù các rào cản trong thương mại được áp dụng vì nhiều mục đích khác nhau nhưng đây vẫn là mục đích ưu tiên hàng đầu. Trên cơ sở tình hình sản xuất và tiêu dùng nội địa Chính phủ các quốc gia phải tiến hành các biện pháp điều tiết lượng hàng hoá nhập khẩu phù hợp với nhu cầu tiêu dùng nhưng vẫn đảm bảo lợi ích cho các nhà sản xuất nội địa, đồng thời phát huy được các tiềm lực của đất nước. Một
  14. 14 lượng hàng nhập khẩu vừa phải cũng có tác động tích cực đến việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm trong nước. Và biện pháp dễ áp dụng và cho hiệu quả hơn cả chính là các rào cản thương mại. Cũng nằm trong nhóm mục đích này, các rào cản thương mại giúp bảo hộ để phát triển các ngành công nghiệp trong nước, bảo vệ việc làm và thu nhập ổn định cho người dân. Ngoài ra, thông qua việc kiểm soát việc nhập khẩu hàng hoá Chính phủ các quốc gia sẽ định hướng được việc tiêu dùng hàng hoá trong nước. Đối với các mặt hàng không cho sử dụng sẽ bị cấm nhập khẩu, các hàng hoá không được khuyến khích sử dụng sẽ bị đánh thuế cao hoặc chỉ cho nhập khẩu một lượng nhất định thông qua hạn ngạch, giấy phép... Bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã hội và bảo vệ môi trường Vấn đề an ninh quốc gia luôn đòi hỏi các biện pháp cấm hoặc hạn chế tối đa việc nhập khẩu các hàng hoá là vũ khí, chất nổ, phương tiện chiến tranh, nhất là các loại vũ khí, chất độc có thể huỷ diệt hàng loạt. Đạo đức xã hội không cho phép nhập khẩu các văn hoá phẩm không lành mạnh, các chất gây nghiện làm bại hoại đạo đức và lương tri của con người. Ngoài ra, một vấn đề chung hiện nay toàn cầu đang cùng phải giải quyết là bảo vệ môi trường cũng đã làm nảy sinh các rào cản đối với việc luân chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác. Vấn đề đặt ra ở đây là việc áp dụng các biện pháp này phải hợp lý và dựa trên các cơ sở khoa học xác thực. Bảo vệ người tiêu dùng Bảo vệ người tiêu dùng luôn một trong những mục đích quan trọng nhất của việc áp dụng các hàng rào thương mại. Sự an toàn của người tiêu dùng luôn được đưa lên hàng đầu trong việc kiểm soát hàng hoá nhập khẩu với các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh và kiểm dịch, yêu cầu về đóng gói và ghi nhãn hiệu. Các hàng rào cũng giúp ngăn cản các hàng hoá không đảm bảo chất lượng gây ảnh hưởng đến sức khoẻ và sự an toàn của người dân. Chống lại cạnh tranh không lành mạnh và trả đũa thương mại Một điều dễ nhận thấy là mỗi quốc gia khi mở cửa thị trường sẽ gặp rất nhiều khó khăn với sự cạnh tranh không lành mạnh từ các quốc gia khác thông qua bán phá
  15. 15 giá, trợ cấp xuất khẩu... Thông thường, trong những tình huống như vậy, các quốc gia sẽ tiến hành thương lượng nhằm ngăn chặn các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh. Nếu như việc thương lượng không đi đến kết quả, quốc gia đó sẵn sàng thực thi các biện pháp đối kháng và trả đũa thông qua việc áp dụng các rào cản thương mại với hàng hoá xuất khẩu của nước kia. Vì mục đích chính trị Các biện pháp thương mại rất dễ có thể được sử dụng như là các công cụ để “phân biệt đối xử” trong quan hệ giữa các quốc gia. Nổi bật trong số này là việc Hoa Kỳ và EU, các quốc gia thường xuyên sử dụng chúng vì các mục đích chính trị. Họ có thể cấm vận hoàn toàn hoặc cấm vận từng phần đối với hoạt động TMQT của các quốc gia không chịu khuất phục họ (Cuba và Liên bang Nam tư trước đây) hoặc dành những khoản ưu đãi đặc biệt cho hàng hoá của một quốc gia thân cận nào đó (Hoa Kỳ dành cho hàng nông sản và một số mặt hàng khác của Irsael mức thuế nhập khẩu bằng không). Một ví dụ khác, mức thuế GSP mà các quốc gia phát triển dành cho các quốc gia đang phát triển cũng có những ưu đãi khác nhau tùy thuộc từng quốc gia. 1.2 Các loại rào cản trong thƣơng mại quốc tế Khi đề cập đến các rào cản trong TMQT, thông thường người ta sẽ phân chúng thành 2 nhóm rào cản là Các rào cản thuế quan (Tariff barriers) và các rào cản phi thuế quan (Non-tariff barriers). 1.3.1 Rào cản thuế quan (Tariff barriers) 1.3.1.1 Thuế quan Đây là hình thức rào cản thương mại truyền thống và phổ biến nhất trong TMQT. Việc áp dụng thuế quan có ưu điểm là đảm bảo tính minh bạch, dự báo được và nếu như thuế suất được áp dụng ở mức vừa phải thì nó không hề bóp méo thương mại. Vì các lý do này, hiện thuế quan đang là biện pháp được WTO khuyến khích sử dụng. Tuy nhiên, trong bối cảnh thương mại ngày càng tự do hiện nay, nếu như phải thực hiện vai trò là hàng rào thương mại thì nó không phát huy được yêu cầu phân biệt đối xử và không thể áp dụng trong trường hợp cần ngăn chặn nhanh hàng hoá nhập khẩu. Xét về cách tính thuế, thuế quan bao gồm các loại sau:
  16. 16 - Thuế phần trăm: (ad-valorem tariff) được đánh theo tỷ lệ phần trăm trên trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu, ví dụ: mức thuế nhập khẩu cà chua từ Việt Nam vào Hoa Kỳ là 16%. Hiện nay, đây là loại thuế được sử dụng rộng rãi nhất trong TMQT. - Thuế phi phần trăm: (non-ad valorem tariff) bao gồm các loại: Thuế tuyệt đối: là thuế được xác định bằng một khoản tiền cố định trên một đơn vị hàng hoá nhập khẩu. Loại thuế này được áp dụng phổ biến nhất đối với các mặt hàng nông sản. Ví dụ, thuế nhập khẩu hạt tiêu Việt Nam vào Hoa Kỳ hiện là 4,7 cent/kg. Thuế tổng hợp: là sự kết hợp của cả thuế phần trăm và thuế tuyệt đối. Ví dụ, mặt hàng nấm giống Agaricus của Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ có mức thuế là 1,3cent/kg + 1,8%. Căn cứ vào mức độ ưu đãi, có các loại thuế quan sau: - Thuế thông thường: còn gọi là thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN). Đây là mức thuế cao nhất mà các nước thành viên WTO áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu của những nước chưa phải là thành viên hoặc các nước chưa có kí kết các Hiệp định Thương mại song phương với nhau. Mức thuế này có thể nằm trong khoảng từ 20%- 110%. - Thuế tối huệ quốc (MFN): là loại thuế mà các nước thành viên WTO hoặc các nước có kí kết Hiệp định Thương mại song phương với nhau (như trường hợp của Việt Nam và Hoa Kỳ) dành cho nhau. Loại thuế này có mức thuế suất thấp hơn nhiều so với mức thuế suất thông thường. Thực ra, trong bối cảnh thương mại quốc tế hiện nay, khi hầu hết các quốc gia đã tham gia vào WTO hoặc đã kí kết các Hiệp định thương mại song phương thì việc dành cho nhau thuế MFN có thể được coi là “thuế suất thông thường” và mức thuế thông thường lúc này lại trở thành thuế suất “không thông thường”. - Thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP): Đây là loại thuế mà các quốc gia phát triển dành cho hàng hoá nhập khẩu từ các quốc gia đang và chậm phát triển, như trường hợp EU và Nhật Bản dành cho Việt Nam. Mức thuế này thường thấp hơn mức thuế MFN.
  17. 17 - Thuế áp dụng trong các khu vực mậu dịch tự do: Đây là mức thuế suất thấp nhất và thậm chí là bằng không mà các quốc gia trong các khối mậu dịch tự do dành cho hàng hoá của nhau, như trường hợp của Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), hay khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) hoặc giữa 2 quốc gia kí Hiệp định về mậu dịch tự do như Mỹ-Singapore, Mỹ-Irsael, Thái Lan-Trung Quốc... Trong các hình thức thuế quan còn có một số loại thuế quan đặc thù như thuế thời vụ là loại thuế thường được áp dụng cho hàng nông sản với các mức thuế suất khác nhau vào các thời điểm khác nhau của mùa vụ, loại thuế này thường là rất cao khi vào vụ thu hoạch. 1.3.1.2 Hạn ngạch thuế quan (Tariff-rate quota) Hạn ngạch thuế quan là biện pháp quản lý nhập khẩu bằng thuế quan với 2 mức thuế nhập khẩu. Đây là một biện pháp hạn chế nhập khẩu định lượng bằng thuế quan. Hàng hoá sẽ không bị hạn chế về số lượng nhập khẩu nhưng đối với hàng hoá trong khuôn khổ hạn ngạch thì có mức thuế suất thấp, còn với hàng hoá vượt mức hạn ngạch sẽ phải chịu mức thuế suất cao, thậm chí là rất cao. Ví dụ, các nước OECD có mức thuế trong hạn ngạch đối với hàng nông sản là 36%, nhưng nếu vượt quá hạn ngạch mức thuế suất sẽ là 120%. Đây là biện pháp đang được WTO khuyến cáo sử dụng cho hàng nông sản kể từ sau vòng đàm phán Uruguay. 1.3.2. Rào cản phi thuế quan (Non-tariff barriers) Theo Hiệp định CEPT – Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung trong khuôn khổ AFTA: “Rào cản phi thuế quan nghĩa là các biện pháp không phải thuế quan, trên thực tế ngăn cấm hoặc hạn chế việc nhập khẩu hay xuất khẩu các sản phẩm giữa các quốc gia” 33 . Còn theo WTO: “hàng rào phi thuế quan là những biện pháp phi thuế quan mang tính cản trở đối với thƣơng mại mà không dựa trên cơ sở pháp lý, khoa học hoặc bình đẳng” 5 . Liên quan đến các rào cản thương mại phi thuế quan, chúng ta cần phân biệt được chúng với khái niệm các biện pháp thương mại phi thuế quan (Non-tariff Measures). Các rào cản thương mại phi thuế quan là các biện pháp phi thuế quan nhưng không phải tất cả các biện pháp phi thuế quan đều là rào cản phi thuế quan. Biện pháp phi thuế quan chỉ là rào cản phi thuế quan khi nó được áp dụng quá mức cần thiết nhằm mục đích bảo hộ.
  18. 18 Ưu điểm của việc áp dụng các rào cản phi thuế quan là: - Các rào cản phi thuế quan thường rất đa dạng. Có thể áp dụng nhiều biện pháp phi thuế quan khác nhau cho một mục tiêu nhất định, đồng thời, có thể áp dụng một rào cản phi thuế quan cho nhiều mục tiêu khác nhau cùng lúc. - Nhiều rào cản phi thuế quan rất tinh vi, và vì vậy có thể tránh được sự phản đối từ các đối tác bị áp dụng rào cản, nhất là khi các nước muốn sử dụng chúng để bảo hộ cho các ngành nội địa. Ví dụ như việc các rào cản ẩn mình dưới dạng các tiêu chuẩn kỹ thuật. Hơn nữa, rất nhiều các biện pháp trong số này hiện vẫn không bị cấm sử dụng như áp dụng các qui định về an toàn, vệ sinh, kiểm dịch, qui định về bảo vệ môi trường... - Có hiệu lực ngay, khi muốn ngăn chặn việc nhập khẩu một hàng hoá nào đó. Điều này thì thuế quan không thể làm được. Về nhược điểm, các rào cản phi thuế quan không có tác dụng tăng thu ngân sách cho nhà nước, gây bất bình trong quan hệ với đối tác, nhiều khi nó cũng làm sai lệch tín hiệu của thị trường. Đối với các nhà xuất khẩu, các rào cản phi thuế quan thường không rõ ràng và khó dự đoán. Rào cản phi thuế quan bao gồm rất nhiều loại khác nhau, có thể được áp dụng ở biên giới hay nội địa, có thể là biện pháp hành chính và cũng có thể là các biện pháp kỹ thuật, có những biện pháp bắt buộc phải thực hiện nhưng cũng có những biện pháp hoàn toàn tự nguyện. Chính vì tính đa dạng của mình mà các rào cản có thể trùng lắp nhau. Việc phân chia các hình thức rào cản phi thuế quan chỉ mang tính chất tương đối. 1.3.2.1 Các biện pháp tương đương thuế quan (para-tariff measures) Đây là các biện pháp làm tăng giá hàng hoá nhập khẩu và do đó có tác động tương đương với thuế quan. Các biện pháp tương đương thuế quan bao gồm: Xác định trị giá hải quan Vì thuế nhập khẩu hàng hoá được tính trên cơ sở trị giá hải quan của hàng hoá nên việc xác định trị giá hải quan của hàng hoá là vô cùng quan trọng. Nó liên quan trước hết là đến số tiền thuế phải nộp và đồng thời đến giá cả hay khả năng cạnh tranh
  19. 19 của hàng hoá đó trên thị trường nước nhập khẩu. Trong trường hợp việc xác định trị giá hải quan không rõ ràng sẽ là một cản trở đối với thương mại. Về nguyên tắc cơ bản, trị giá hải quan của hàng hoá xuất nhập khẩu được xác định dựa trên trị giá giao dịch của hàng hoá đó hay số tiền thực tế người mua phải trả nhưng ở nhiều quốc gia người ta lại sử dụng bảng giá nhập khẩu tối thiểu như ở Việt Nam thời gian qua. Điều này vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tự do thương mại. Một tình huống khác là khi hải quan nghi ngờ trị giá giao dịch được khai báo là không xác đáng họ sẽ phải sử dụng hệ thống giá kiểm tra bằng cách so sánh trị giá giao dịch với bảng giá do hải quan xây dựng. Việc xây dựng bảng giá này nhiều khi tuỳ tiện và không cập nhật với các diễn biến trên thị trường, đó là chưa kể đến việc hải quan các nước thường xây dựng bảng giá này theo hướng có lợi cho mình. Phụ phí hải quan và các khoản thu khác Bên cạnh thuế quan, hải quan các nước thường thu thêm phụ phí hải quan và một số khoản thu khác. Đây là một biện pháp mà hầu hết các quốc gia đều sử dụng nhằm bình ổn giá cả cho các mặt hàng hay có biến động và tạo thêm nguồn thu, góp phần cùng với thuế quan bảo hộ cho sản xuất trong nước. Mặc dù Điều VIII của GATT yêu cầu lệ phí hải quan và các khoản thu phải bị giới hạn ở mức phù hợp với các dịch vụ được sử dụng, nhưng trên thực tế hầu hết các khoản lệ phí này, cũng như các khoản phí và khoản thu khác, là đánh trên trị giá hàng hoá chứ không phải dựa trên giá trị của các dịch vụ được sử dụng. Theo thống kê của OECD tháng 3/2005 có 51% các khoản lệ phí kiểu này ở các nước phát triển là được tính trên trị giá hàng, ở các nước đang phát triển là 71-76% và ở các quốc gia chậm phát triển là 83%. Ngoài ra, các biện pháp tương đương thuế quan còn có thể còn bao gồm: - Thuế đánh trên việc chuyển đổi ngoại tệ - Thuế tem hải quan - Thuế hoá đơn lãnh sự quán - Phí giấy phép nhập khẩu hàng hoá - Thuế và phí thu thêm đối với các danh mục hàng hoá nhạy cảm - Các khoản thu nội địa đối với hàng hoá nhập khẩu…
  20. 20 1.3.2.2 Các biện pháp hạn chế định lượng (Quantitative Restriction) Đây là nhóm các biện pháp qui định trực tiếp về số lượng hoặc giá trị hàng hoá được nhập khẩu. Các biện pháp này hiện bị chỉ trích nhiều nhất và đang dần được gỡ bỏ. Các biện pháp hạn chế định lượng bao gồm: Cấm nhập khẩu (Prohibition) Đây là biện pháp bảo hộ cao nhất khi một quốc gia tiến hành lệnh cấm toàn diện việc nhập khẩu hàng hoá từ một thị trường nào đó, cấm nhập khẩu một mặt hàng nào đó hoặc cấm phần lớn các doanh nghiệp mà chỉ cho một số doanh nghiệp xác định được nhập khẩu hàng hoá. Thông thường biện pháp này được thực hiện nhằm đảm bảo an ninh quốc gia (ví dụ như cấm nhập khẩu vũ khí, đạn dược), bảo vệ đạo đức xã hội (cấm nhập khẩu các văn hoá phẩm không lành mạnh), bảo vệ tài sản quốc gia về nghệ thuật, lịch sử, khảo cổ, bảo vệ môi trường và các tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, bảo vệ cuộc sống của con người và động thực vật. Nhưng cũng không loại trừ mục đích cấm nhập khẩu là nhằm bảo hộ cho ngành công nghiệp nội địa như trường hợp Thái Lan cấm nhập khẩu đá xây dựng, áo thụng, túi xách và một số sản phẩm may mặc. Hạn ngạch nhập khẩu (Quota) Theo OECD, hạn ngạch nhập khẩu là việc định ra một số lượng hoặc giá trị hàng hoá nhất định được nhập khẩu. Có rất nhiều hình thức hạn ngạch khác nhau: hạn ngạch toàn cầu, hạn ngạch song phương (chỉ áp dụng cho một thị trường nhất định), hạn ngạch có liên quan đến thực hiện xuất khẩu, hạn ngạch với danh mục hàng hoá nhạy cảm, hạn ngạch vì lý do chính trị, hạn ngạch theo thời vụ. Thời gian áp dụng cho hạn ngạch thường là 1 năm. Hạn ngạch là biện pháp được sử dụng phổ biến trong TMQT hiện nay. Lý do áp dụng của hạn ngạch thường cũng giống như của lệnh cấm nhập khẩu, có thể là bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ cuộc sống của con người, động thực vật nhưng chủ yếu vẫn là để bảo hộ sản xuất và tiêu dùng nội địa. Giấy phép nhập khẩu (Import Licensing) Cấp giấy phép nhập khẩu là biện pháp quản lý nhập khẩu mà nước nhập khẩu yêu cầu hàng hoá khi nhập khẩu vào nước này phải có được giấy phép nhập khẩu.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2