intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các yếu tố tác động đến tổng số thu thuế - Nghiên cứu trường hợp các quốc gia Đông Nam Á

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:79

26
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài đã làm rõ tác động của các yếu tố đến tổng số thu thuế của các nước Asean, đặc biệt là Việt Nam. Đề xuất các khuyến nghị cho chính phủ các nước Asean, đặc biệt là chính phủ Việt Nam, liên quan đến các quyết định nhằm tăng tổng số thu thuế, qua đó giảm sự phụ thuộc quá nhiều vào tài chính nước ngoài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các yếu tố tác động đến tổng số thu thuế - Nghiên cứu trường hợp các quốc gia Đông Nam Á

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN PHI KHANH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỔNG SỐ THU THUẾ NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ TP Hồ Chí Minh, năm 2013
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN PHI KHANH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỔNG SỐ THU THUẾ NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Quốc Hùng TP Hồ Chí Minh, năm 2013
  3. Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN NGUYỄN PHI KHANH
  4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt Danh mục các bảng, biểu Danh mục các hình vẽ, đồ thị Chương 1: Lời mở đầu ........................................................................................... 1 1.1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1 1.2. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................. 2 1.3. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 2 1.4. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................ 2 1.5. Dữ liệu nghiên cứu ................................................................................ 2 1.6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ................................................................... 3 1.7. Bố cục của luận văn ............................................................................... 3 Chương 2: Cơ sở lý thuyết ..................................................................................... 5 2.1. Tổng quan về thuế ................................................................................. 5 2.2. Các yếu tố tác động đến tổng số thu thuế ............................................ 26 2.3. Mô hình nghiên cứu ............................................................................. 34 Chương 3: Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 37 3.1. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 37 3.2. Đo lường các biến trong mô hình nghiên cứu ..................................... 38 3.3. Dữ liệu nghiên cứu thực nghiệm ......................................................... 39 3.4. Kỹ thuật hồi qui ................................................................................... 44 Chương 4. Kết quả và thảo luận .......................................................................... 48 4.1. Phân tích bằng đồ thị ........................................................................... 48 4.2. Kết quả ................................................................................................. 51 Chương 5. Kết luận .............................................................................................. 53
  5. 5.1. Kết luận ................................................................................................53 5.2. Hàm ý chính sách .................................................................................53 Tài liệu tham khảo Phụ lục
  6. Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt ADB Ngân hàng Phát triển châu Á ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á FEM Mô hình các ảnh hưởng cố định FTA Hiệp định thương mại tự do GDP Tổng sản phẩm quốc nội GNP Tổng sản phẩm quốc gia OLS Bình phương bé nhất thông thường REM Mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
  7. Danh mục các bảng, biểu Bảng 3.1. Thống kê mô tả dữ liệu của các biến giải thích ...................................40 Bảng 4.1. Kết quả hồi qui theo các phương pháp ................................................51
  8. Danh mục các hình vẽ, đồ thị Hình 2.1. Mô hình nghiên cứu ............................................................................. 34 Hình 3.1. Tổng số thu thuế (%GDP) ................................................................... 41 Hình 3.2. Ln GDP bình quân đầu người .............................................................. 41 Hình 3.3. Độ mở thương mại (%GDP) ................................................................ 42 Hình 3.4. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP (%GDP) .............................. 42 Hình 3.5. Tỷ trọng ngành công nghiệp trong GDP (%GDP) ............................. 43 Hình 3.6. Lạm phát .............................................................................................. 43 Hình 4.1. Tổng số thu thuế và ln của GDP bình quân đầu người ........................ 48 Hình 4.2. Tổng số thu thuế và độ mở thương mại ............................................... 49 Hình 4.3. Tổng số thu thuế và tỷ trọng nông nghiệp ........................................... 49 Hình 4.4. Tổng số thu thuế và tỷ trọng công nghiệp ........................................... 50 Hình 4.5. Tổng số thu thuế và lạm phát ............................................................... 50
  9. 1 Chương 1: Lời mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài Chức năng chính của một hệ thống thuế là tạo số thu thuế đủ để tài trợ các khoản chi tiêu cần thiết cho hàng hoá và dịch vụ được cung cấp bởi chính phủ. Theo Kaldore (1963), nếu một quốc gia muốn phát triển, nó phải thu thuế cao hơn các nước đang phát triển từ 10 – 15%. Thuế là một trong những công cụ tốt nhất để thúc đẩy khả năng hoạt động của ngành công cộng, để tài trợ cho chương trình bảo hiểm xã hội và để trả nợ các khoản nợ công. Để đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, cần một nỗ lực phối hợp từ cả các nước phát triển và các nước đang phát triển. Viện trợ từ các nước phát triển sẽ phải tăng đáng kể để đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Các nước phát triển cũng cần tập trung cải thiện việc tiếp cận thị trường cho xuất khẩu của các nước đang phát triển bằng cách loại bỏ thuế quan và trợ cấp trong nước. Tuy nhiên, do sự phụ thuộc quá nhiều vào tài chính nước ngoài trong thời gian dài có thể dẫn đến vấn đề về bền vững nợ, do đó các nước đang phát triển cần phải dựa chủ yếu vào huy động nguồn thu trong nước. Kinh nghiệm với huy động nguồn lực trong các nước đang phát triển trong vòng 25 năm qua đã bị pha trộn. Ở các nước như Botswana, Israel, Kuwait và Seychelles, tỷ trọng số thu thuế/GDP của chính phủ trung ương tăng hơn 40%. Mặt khác, các nước như Argentina, Nigeria, Guatemala và Burkina Faso đã rất khó khăn để tăng số thu thuế của họ trên 11%. Trong bài nghiên cứu này, chúng ta xem những yếu tố cấu trúc như thu nhập bình quân đầu người, độ mở thương mại, tỷ trọng ngành nông nghiệp và công nghiệp trong GDP và lạm phát có thể giải thích sự thay đổi trong nguồn huy động của các nước đang phát triển. Cụ thể hơn, chúng ta nhìn vào những yếu tố chính tác động đến tổng số thu thuế của chính quyền trung ương, và phân tích
  10. 2 mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này. Để các nước Asean, trong đó có Việt Nam giảm sự phụ thuộc quá nhiều vào tài chính nước ngoài, bằng cách dựa chủ yếu vào huy động nguồn thu trong nước, trong đó thuế là nguồn thu chính. Đề tài “Các yếu tố tác động đến tổng số thu thuế - nghiên cứu trường hợp các quốc gia Đông Nam Á” được lựa chọn để thực hiện và nghiên cứu thực nghiệm. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài nghiên cứu và phân tích tác động của các yếu tố đến tổng số thu thuế của các quốc gia Đông Nam Á như thế nào? Kết quả thực nghiệm có thể được dùng như những khuyến nghị cho các chính sách liên quan đến thu thuế ở các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là ở Việt Nam, thông qua các kết quả tác động của các yếu tố đến tổng số thu thuế. 1.3. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu định lượng. 1.4. Đối tượng nghiên cứu Phân tích ảnh hưởng của các biến đến tổng số thu thuế. Biến phụ thuộc: tổng số thu thuế. Các biến độc lập gồm: Trình độ phát triển kinh tế. Độ mở thương mại. Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế: ngành nông nghiệp và ngành công nghiệp. Lạm phát. 1.5. Dữ liệu nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng. Thu thập dữ liệu bảng hàng năm của 7 quốc gia Asean (Cambodia,
  11. 3 Indonesia, Lao, Malaysia, Philippines, Thailand, Viet Nam) trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2012. Các dữ liệu này được trích xuất từ bảng dữ liệu hàng năm của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB). Cả 7 quốc gia được đưa vào mô hình nghiên cứu có nhiều đặc điểm giống nhau như đều là các thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations, viết tắt là ASEAN), có khí hậu và thổ nhưỡng tương tự. Theo kế hoạch đã được đề ra, đến năm 2015 thực hiện Hiệp định Thương mại Tự do (FTA), điều này có nghĩa là tất cả các nước trong khối sẽ mở cửa hoàn toàn cho các sản phẩm và dịch vụ của các thành viên trong khối với thuế suất rất thấp hoặc bằng không. Cả 7 quốc gia khảo sát đều là những nước đang phát triển với mức thu nhập bình quân đầu người từ trung bình thấp đến khá. Thêm vào đó, các quốc gia này có đặc điểm chung là nền kinh tế dựa vào xuất khẩu và có mức tiết kiệm quốc gia trên GDP khá cao với mức trung bình 30%. Việc loại bỏ ba quốc gia còn lại của tổ chức Asean ra khỏi mô hình nghiên cứu vì những lý do sau: Myanmar thì không đủ số liệu. Singapore và Brunei đều là những nước có mức thu nhập bình quân đầu người rất cao, được xếp vào ngưỡng những quốc gia phát triển. 1.6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Làm rõ tác động của các yếu tố đến tổng số thu thuế của các nước Asean, đặc biệt là Việt Nam. Đề xuất các khuyến nghị cho chính phủ các nước Asean, đặc biệt là chính phủ Việt Nam, liên quan đến các quyết định nhằm tăng tổng số thu thuế, qua đó giảm sự phụ thuộc quá nhiều vào tài chính nước ngoài. 1.7. Bố cục của luận văn Chương 1. Lời mở đầu.
  12. 4 Chương 2. Cơ sở lý thuyết. Chương 3. Phương pháp nghiên cứu. Chương 4. Kết quả và thảo luận. Chương 5. Kết luận.
  13. 5 Chương 2: Cơ sở lý thuyết 2.1. Tổng quan về thuế 2.1.1. Nguồn gốc của thuế Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước. Để duy trì sự tồn tại của mình, nhà nước cần có những nguồn tài chính để chi tiêu, trước hết là chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương, thuộc phạm vi lãnh thổ mà nhà nước đó đang cai quản; chi cho các công việc ban đầu thuộc chức năng của nhà nước như: quốc phòng, an ninh, chi cho xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các vấn đề về phúc lợi công cộng, về sự nghiệp, về xã hội trước mắt và lâu dài. Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu chung, nhà nước thường sử dụng ba hình thức động viên đó là: quyên góp của dân, vay của dân và dùng quyền lực nhà nước bắt buộc dân phải đóng góp. Trong đó, hình thức quyên góp tiền và tài sản của dân và hình thức vay của dân là những hình thức tự nguyện, không mang tính ổn định và lâu dài, thường được nhà nước sử dụng có giới hạn trong một số trường hợp đặc biệt, để bổ sung cho những nhiệm vụ chi đột xuất hoặc cấp bách. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, nhà nước dùng quyền lực buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho ngân sách nhà nước. Đây là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung nguồn tài chính cho đất nước. Hình thức nhà nước dùng quyền lực buộc dân đóng góp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình - chính là thuế. Về quan hệ giữa nhà nước và thuế, Mác đã viết: "Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay sản vật mà người dân phải đóng góp để dùng vào mọi việc chi tiêu của nhà nước" (Mác- Ăng Ghen tuyển tập, Nhà xuất bản Sự thật, 1961 trích trong Chuyên đề lý luận
  14. 6 cơ bản về thuế, 2009). Ăng ghen cũng đã viết: "Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có sự đóng góp của công dân cho nhà nước, đó là thuế" (Ăng Ghen: Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và Nhà nước – Nhà xuất bản Sự thật, 1962 trích trong Chuyên đề lý luận cơ bản về thuế, 2009). Thuế luôn gắn chặt với sự hình thành và tồn tại của hệ thống nhà nước, đồng thời thuế cũng phát triển cùng với sự phát triển của hệ thống nhà nước. 2.1.2. Bản chất của thuế Mặc dù thuế được coi là công cụ chủ yếu để huy động tập trung nguồn lực tài chính cho nhà nước, nhưng không có nghĩa là nhà nước có thể quy định mức động viên thuế cao để tăng thu về thuế bằng mọi giá, mà mức độ động viên thuế chỉ có một giới hạn nhất định. Nếu nhà nước dùng quyền lực để tập trung quá mức phần thu nhập từ tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào cho ngân sách nhà nước, thì phần GDP còn lại dành cho các doanh nghiệp và cá nhân sẽ giảm xuống. Đến một lúc nào đó, nếu họ nhận thấy rằng công sức bỏ vào kinh doanh, vào làm việc được bù đắp không thoả đáng thì họ sẽ nghỉ không kinh doanh hoặc chuyển sang kinh doanh ngầm và tìm mọi cách để trốn thuế. Như vậy, có thể thấy rằng, khả năng thu thuế tối đa cho ngân sách nhà nước là khoản thu nhập mà các doanh nghiệp và người dân sẵn sàng giành ra để trả thuế mà không làm thay đổi mọi hoạt động vốn có của họ. Đứng trên giác độ nền kinh tế quốc dân, khả năng thu thuế của một quốc gia được phản ánh thông qua tỷ lệ phần trăm của GDP được động viên vào ngân sách nhà nước được gọi là hệ số huy động thuế hay hệ số gánh nặng thuế. Hệ số huy động thuế không chỉ là cơ sở chính để tham khảo việc các quốc gia xây dựng chính sách thuế của họ mà còn là một dấu hiệu để so sánh mức độ huy động thuế giữa các quốc gia khác nhau. Hệ số huy động thuế này bao nhiêu thì ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập sau thuế và gián tiếp đến mức tiêu dùng và tiêu chuẩn sống của nhân dân. Đó là điều mà các quốc gia cần cân nhắc. Trong giai đoạn kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, hệ số huy động thuế có thể phản
  15. 7 ảnh xu thế dịch chuyển dòng vốn, lao động giữa các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, để gia tăng sự phồn vinh trong cộng đồng dân cư, tất cả các quốc gia xem thuế là nguồn thu chính, phải đưa ra một mức thuế hợp lý trong chính sách thuế của mình. Độ lớn của hệ số huy động thuế vì thế trở thành một trong những dấu hiệu quan trọng để đánh giá việc hoàn thiện hơn của một nền kinh tế. Nếu gọi T là tổng số thuế có thể thu được vào Ngân sách Nhà nước thì hệ số huy động thuế là: T/GDP x 100 Hệ số này được dùng để chỉ ranh giới phân chia hợp lý thu nhập xã hội giữa các khu vực công cộng và khu vực tư nhân. Nếu Nhà nước động viên thuế chưa đạt tới giới hạn khả năng thu thuế thì nguồn lực xã hội tập trung vào tay Nhà nước chưa đầy đủ. Nếu Nhà nước động viên vượt quá giới hạn khả năng thu thuế thì sẽ làm giảm khả năng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng tại doanh nghiệp, do đó làm giảm số thuế thu được trong tương lai. Hệ số huy động thuế do đó còn gọi là độ lớn của gánh nặng thuế đánh vào cộng đồng, vì vậy mặt nào đó thể hiện sức chịu đựng của nhân dân trong việc huy động thuế của nhà nước. Hệ số huy động thuế của một quốc gia tăng, chứng tỏ tốc độ tăng tiết kiệm của khu vực dân cư sẽ giảm và tất yếu phần đầu tư trong khu vực tư nhân sẽ khó có khả năng gia tăng. Trong trường hợp hệ số huy động tăng, nhưng chi tiêu chính phủ hợp lý, đầu tư của Chính Phủ hiệu quả, thì sự tăng trưởng của nền kinh tế vẫn bình ổn. Tuy nhiên, theo đánh giá thông thường, đầu tư trong khu vực nhà nước thường kém hiệu quả hơn trong đầu tư của lĩnh vực tư nhân, vì vậy việc tăng mức huy động thuế quá cao sẽ làm cho nền kinh tế giảm bớt nhịp độ phát triển. 2.1.3. Khái niệm về thuế Cho đến nay, trong giới các học giả và trên các sách báo kinh tế thế giới vẫn chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm thuế, bởi lẽ giác độ nghiên cứu có nhiều khác biệt. Nhìn chung, các nhà kinh tế khi đưa ra khái niệm về thuế mới
  16. 8 chỉ nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế mà mình muốn khai thác hoặc tìm hiểu, chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung của phạm trù thuế. Chẳng hạn theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản: " Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có những sự đóng góp của những người công dân của Nhà nước đó là thuế khoá..." (Mác- Ăng Ghen tuyển tập, Nhà xuất bản Sự thật, 1962, trang 522 trích trong Chuyên đề lý luận cơ bản về thuế, 2009). Và với quan điểm này, thuế chỉ là sự đóng góp của công dân để duy trì quyền lực nhà nước. Cũng từ luận điểm này, Mác phát triển thêm rằng trong một nhà nước có giai cấp (một giai cấp giành được quyền thống trị) thì thuế thực ra là khoản đóng góp bắt buộc để duy trì quyền lực của giai cấp đó. Khi những giai cấp không phải là giai cấp cai trị, nghĩ rằng việc bắt buộc nộp thuế chỉ dùng để bảo vệ quyền lợi cho giai cấp cai trị, thì họ sẽ không coi thuế là nghĩa vụ công dân và sẽ bằng nhiều cách để tránh thuế và trốn thuế. Quan điểm này đã hỗ trợ rất nhiều cho các nhà kinh tế có quan điểm xã hội trong việc củng cố lập trường đấu tranh giai cấp. Bên cạnh đó, cũng có các quan điểm khác nhau về thuế, được nhìn nhận trên các bình diện khác. Trong cuốn từ điển kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass và Bryan Lowes, đứng trên giác độ đối tượng chịu thuế đã cho rằng: "Thuế là một biện pháp của chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản". Một khái niệm khác về thuế tương đối hoàn thiện được nêu lên trong cuốn sách "Economics" của hai nhà kinh tế Mỹ, dựa trên cơ sở đối giá như sau: "thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao bằng hàng hoá, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho chính phủ, mà trong sự trao đổi đó họ không nhận được trực tiếp hàng hoá, dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật" (Economic. Makkollhell and Bruy-M, 1993,p.14 được trích trong Chuyên đề lý luận cơ bản
  17. 9 về thuế, 2009). Trong các quan điểm này, người ta chỉ nhìn nhận thuế trên giác độ các đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế, không nói đến việc sử dụng tiền thuế để làm gì, chỉ thể hiện việc đánh thuế như là một nghĩa vụ công dân của các doanh nghiệp và hộ gia đình với đất nước mà mình đang kinh doanh hoặc đang sinh sống. Các quan điểm này cũng chỉ phù hợp với giai đoạn phát triển của thuế trong thời đoạn lịch sử nhất định lúc đó. Trên giác độ phân phối thu nhập, người ta định nghĩa: Thuế là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành các quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. Trên giác độ người nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ Nhà nước. Trên giác độ kinh tế học, thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công, nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của Nhà nước. Ở nước ta, đến nay cũng chưa có một khái niệm thống nhất về thuế. Theo từ điển tiếng Việt - Trung tâm từ điển học (1998) thì thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân hoặc các tổ chức kinh doanh, tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp,… buộc phải nộp cho nhà nước theo mức quy định. Những khái niệm về thuế nêu trên mới nhấn mạnh một chiều theo quan niệm của từng góc độ khác nhau, nên chưa thật đầy đủ và chính xác được bản chất của thuế. Đến nay, tuy chưa có một định nghĩa về thuế thống nhất, nhưng các nhà kinh tế đều nhất trí cho rằng, để làm rõ được bản chất của thuế thì định nghĩa về thuế phải nêu bật được các khía cạnh sau đây: Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa nhà nước với các pháp nhân và các thể nhân, không mang tính hoàn trả trực tiếp;
  18. 10 Những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt- việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của nhà nước; Các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế đã được pháp luật quy định. Và việc sử dụng tiền thuế phải dành cho mục đích chung. Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển xã hội, việc quy định thuế phải được sử dụng chung cũng là một vấn đề cần xem xét. Có những loại thuế được thu chỉ nhằm một mục đích định trước và trao cho một số đối tượng quy định. Dù trải qua nhiều giai đoạn và được nhận định trên nhiều giác độ khác nhau, nhưng hiện nay một định nghĩa về thuế theo xu hướng cổ điển vẫn còn đang được áp dụng phổ biến, đặc biệt trong cơ chế kinh tế thị trường, điển hình là khái niệm về thuế của Gaston Jèze đưa ra trong Giáo trình Tài chính công. Dựa vào định nghĩa này và các yêu cầu nêu trên, có thể đưa ra một khái niệm tổng quát về thuế phù hợp với giai đoạn hiện nay như sau: Thuế là một khoản nộp bằng tiền mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện theo luật đối với nhà nước; không mang tính chất đối khoản, không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế và dùng để trang trải cho các nhu cầu chi tiêu công cộng. 2.1.4. Đặc điểm của thuế Qua phân tích nguồn gốc của sự ra đời của thuế và khái niệm chung về thuế nêu trên, có thể khẳng định rằng: Thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, được sử dụng để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung nhằm sử dụng cho mục đích công cộng. Tuy nhiên, thuế khác với các công cụ tài chính khác như phí, lệ phí, tiền phạt, giá cả.v.v. Điều này thể hiện qua các đặc điểm cơ bản của thuế trong kinh tế thị trường như sau: Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền
  19. 11 Theo phương thức đánh thuế trong nền kinh tế thị trường, về nguyên tắc, thuế là một khoản trích nộp dưới hình thức tiền tệ, khác với hình thức nộp thuế bằng hiện vật đã tồn tại từ thời xa xưa hoặc khác với chế độ giao nộp sản phẩm trong nền kinh tế phi thị trường. Nhiều quan điểm cho rằng, đây chính là sự khác biệt cơ bản và đầu tiên của thuế trong nền kinh tế thị trường và thuế trong các nền kinh tế khác. Chính sự phát triển của hoạt động trao đổi hàng hoá bằng tiền đã làm cho thuế phát triển, và ngược lại, việc bắt buộc nộp các khoản thuế bằng tiền đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường bằng cách đòi hỏi người nộp thuế trong trường hợp không có tiền phải đổi những tài sản hiện vật của mình ra thành tiền để thanh toán nợ thuế. Tuy nhiên, hình thức trả thuế bằng hiện vật cũng không hoàn toàn mất đi trong hệ thống chính sách thuế đương đại. Một số quốc gia vẫn duy trì hình thức này dưới dạng thanh toán thuế bằng tặng vật với một số hiện vật qúy, như khi đào được cổ vật phải nộp thuế cho nhà nước với một tỷ lệ hiện vật tùy theo quy định cụ thể. Kỹ thuật này giúp Nhà nước sưu tập được những di sản quốc gia quý giá từ dân chúng để bảo tồn tập trung những giá trị văn hoá của dân tộc, nhân loại. Luôn gắn liền với quyền lực nhà nước. Đặc điểm này thể hiện tính pháp lý tối cao của thuế. Thuế là nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến Pháp - Đạo luật gốc của một quốc gia. Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung, hay bãi bỏ bất kỳ một thứ thuế nào cũng chỉ có một cơ quan duy nhất có thẩm quyền, đó là Quốc Hội - Cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao. Mặt khác tính quyền lực Nhà nước cũng thể hiện ở chỗ Nhà nước không thể thực hiện thu thuế một cách tuỳ tiện mà phải dựa trên những cơ sở pháp luật nhất định đã được xác định trong các văn bản pháp luật do các cơ quan quyền lực Nhà nước ban hành. Ở các quốc gia, do vai trò quan trọng của thuế đối với việc hình thành qũy ngân sách Nhà nước và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội nên thẩm quyền quy định, sửa đổi, bãi bỏ
  20. 12 các Luật thuế đều thuộc cơ quan lập pháp. Ðây là nguyên tắc sớm được ghi nhận trong pháp luật của các nước. Chẳng hạn ở nước Anh đạo Luật về dân quyền năm 1688 quy định: cấm mọi sự thu thuế để dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước nếu không được Quốc hội chấp thuận. Ở Pháp, Quốc hội Pháp quy định: bất cứ một khoản thuế nào nếu không được Quốc hội chấp thuận thì không được áp dụng. Hiến pháp của nước Cộng hòa Pháp năm 1791 quy định Quốc hội Pháp có quyền biểu quyết và định đoạt các Luật thuế. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Luật thuế. Tuy vậy, do yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế, Quốc hội có thể giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ một số loại thuế thông qua hình thức ban hành Pháp lệnh hoặc Nghị quyết về thuế. Đây là quan điểm “No Tax, No Law” mà nhiều nước áp dụng. Nghĩa là, công dân không phải nộp bất kỳ loại thuế nào nếu loại thuế đó chưa được ban hành dưới dạng Luật. Theo quan điểm này, công dân không có quyền từ chối trả thuế, cũng không có quyền tự ấn định hay thỏa thuận mức đóng góp của mình, mà chỉ có quyền chấp hành. Trường hợp đối tượng nộp thuế nào cố tình không chấp hành sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật để buộc họ phải làm tròn nghĩa vụ nộp thuế của mình theo luật định. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của thuế nhằm phân biệt với tất cả các hình thức động viên tài chính cho Ngân sách Nhà nước khác. Luôn gắn liền với thu nhập. Đặc điểm này thể hiện rõ nội dung kinh tế của thuế. Nhà nước thực hiện thu thuế thông qua quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, mà kết quả của nó là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao bắt buộc cho Nhà nước mà không kèm theo bất kỳ một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế. Thuế, cho dù dưới bất kỳ hình thức nào đều buộc người trả thuế phải lấy một khoản thu nhập của mình ra
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2