intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:113

20
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ cở vận dụng lý luận và phân tích thực trạng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Nguyên thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ---------------------- NGÔ SỸ TIỆP CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH THÁI NGUYÊN TRONG QUÁ TRÌNHCÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Chuyên ngành : Kinh tế chính trị Mã số: 60.31.01 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS: Phan Thanh Phố Hà Nội - 2007 MỤC LỤC
  2. MỤC LỤC Tr Mục lục 2 Lời cam đoan 4 Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt 5 Danh mục các bảng, biểu, sơ đồ trong luận văn 6 Lời mở đầu 7 Chương 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công 11 nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thái Nguyên 1.1. Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp, nhân tố ảnh hưởng và sự cần thiết 1 chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp 1 hoá, hiện đại hoá ở nước ta 1.2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở nước ta và các địa phương trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn 2 1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp một số tỉnh 7 trung du và đồng bằng ở Việt Nam Chương 2 Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp 3 thời gian qua ở tỉnh thái nguyên 1 4 0 2.1. Khái quát những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Thái Nguyên 40 Thuận lợi và khó khăn 2.2. Hiện trạng cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp thời gian qua ở Thái Nguyên 51 2.3. Đánh giá chung thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công 60 nghiệp thời gian qua ở tỉnh Thái Nguyên
  3. Chương 3 70 Phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp tỉnh thái nguyên trong thời gian tới 3.1. Phương hướng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp 70 tỉnh Thái Nguyên 3.2. Các giải pháp cơ bản đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công 87 nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên KẾT LUẬN 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101 PHỤ LỤC 106
  4. Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phan Thanh Phố. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng. Đề tài không trùng lặp với bất cứ công trình khoa học nào đã công bố Tác giả luận văn Ngô Sỹ Tiệp
  5. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN XHCN Xã hội chủ nghĩa CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CDCCKTNCN Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp KTTT Kinh tế thị trường UBND Uỷ ban nhân dân QLNN Quản lý nhà nước NSNN Ngân sách nhà nước LLLĐ Lực lượng lao động DN Doanh nghiệp TNHH Trách nhiệm hữu hạn KCN Khu công nghiệp HTX Hợp tác xã GTSXCN Giá trị sản xuất công nghiệp
  6. Danh mục bảng, biểu và đồ thị TÊN BIỂU BẢNG VÀ LƯỢC ĐỒ Trang Bảng 2.1: Tăng trưởng GDP chung của tỉnh và từng ngành giai đoạn 2001- 2005 44 Bảng 2.2: Cơ cấu GDP của công nghiệp dịch vụ và nông nghiệp giai đoạn 2001 - 2005 44 Bảng 2.3: Tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 2001 - 2005 45 Bảng 2.4: Giá trị và tốc độ tăng trưởng thời kỳ 2001 - 2006 51 Bảng 2.5: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp qua các năm từ 2001 - 2005 60 Bảng 2.6: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp thời kỳ 2001 - 2005 62 Bảng 2.7: Giá trị sản xuất công nghiệp và cơ cấu của nó thời kỳ 2001 - 2005. (Phân theo 65 thành phần kinh tế - theo giá cố định 1994) Lược đồ 1: LLLĐ chia theo giới tính 2001 - 2005 46 Lược đồ 2: Cơ cấu lao động chia theo khu vực thành thị, nông thôn 47 Lược đồ 3: Cơ cấu LLLĐ chia theo trình độ CMKT 2001- 2005 48 Lược đồ 4: Cơ cấu lao động có việc làm chia theo khu vực kinh tế 49 Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu GDP/ người, tốc độ tăng trưởng, kinh tế đối ngoại và mức thu 72 ngân sách từ nay đến 2010 và tầm nhìn 2020 Bảng 3.2: Cơ cấu kinh tế tỉnh thái Nguyên qua 2 thời điểm 2010 và 2020 72 Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu về phát triển xã hội qua 2 thời điểm 2010 và 2020 73 Bảng 3.4: Một số sản phẩm chính của nhóm ngành công nghiệp chế biến nông - lâm sản - 81 thực phẩm đến 2010, 2015 và 2020 Bảng 3.5: Nhu cầu vốn cho phát triển công nghiệp thời kỳ 2006 - 2010 của Thái Nguyên 88
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nói chung, của một tỉnh nói riêng đòi hỏi phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó cần xác định rõ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các ngành, các vùng kinh tế và các thành phần kinh tế, các yếu tố, bộ phận, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một trong những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao hàm trong nó có cả sự xây dựng cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thái Nguyên, một tỉnh thuộc trung tâm kinh tế, văn hoá và khoa học - công nghệ khu vực Đông Bắc của đất nước, có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị và xã hội đối với quốc gia. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, đồng bào các dân tộc trong tỉnh đã phát huy tinh thần yêu nước, vượt qua khó khăn, năng động sáng tạo, phấn đấu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Là một tỉnh có nhiều tiềm năng cho sự phát triển ngành công nghiệp, song trong thời gian qua, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp Thái Nguyên còn chậm, chất lượng chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của một tỉnh có truyền thống là một trung tâm công nghiệp của đất nước. Làm thế nào để chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp với tốc độ nhanh và chất lượng cao trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới. Lời giải cho vấn đề đặt ra, cần có sự nghiên cứu, phân tích kỹ trên cả 2 mặt lý luận và thực tiễn. Để góp phần tìm ra những giải pháp trên tác giả chọn đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên trong quá trình công
  8. nghiệp hoá, hiện đại hoá” nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ Kinh tế, chuyên ngành Kinh tế chính trị, mã số 60.31.01. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã có nhiều công trình, nhiều đề tài, nhiều tác giả nghiên cứu ở những khía cạnh và mức độ khác nhau như: - Ngô Đình Giao (chủ biên), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994. - Phạm Khiêm ích - Nguyễn Đình Phan, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước khu vực, NXB Thống kê, Hà Nội, 1994. - Trần Văn Nhưng, Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ, năm 2001. - Gần đây cũng đã có một số luận văn thạc sĩ viết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hoặc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trên địa bàn một số tỉnh như: Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Đồng Nai.... Nhìn chung các đề tài đã nghiên cứu và công bố, phản ánh nhiều mặt của chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước hoặc trên một địa bàn, một địa phương nhất định. Song cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở Tỉnh Thái Nguyên, nhất là nghiên cứu nó như một đề tài độc lập, mang tính hệ thống như đề tài mà tác giả chọn để nghiên cứu và thực hiện trong luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích của luận văn: Trên cơ cở vận dụng lý luận và phân tích thực trạng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Nguyên thời gian tới. * Nhiệm vụ của luận văn:
  9. - Trình bày có hệ thống một số vấn đề lý luận liên quan đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Phân tích, đánh giá thực trạng cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp tỉnh Thái Nguyên thời gian qua. - Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp Thái Nguyên theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Luận văn lấy việc phân tích lý luận, thực trạng, phương hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm đối tượng nghiên cứu. * Phạm vi nghiên cứu: - Lấy địa bàn tỉnh Thái Nguyên làm không gian để nghiên cứu. - Thời gian nghiên cứu khảo sát thực trạng từ 1996 - 2005 và lấy giai đoạn 2006 - 2010 và tầm nhìn đến 2020 để đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận chung, đặc biệt là phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học, chuyên gia, thống kê định lượng so sánh, mô hình.... Bằng cách đó tạo thành tổ hợp phương pháp cho phép tiếp cận nhanh và hiệu quả đối tượng và mục tiêu nghiên cứu mà luận văn đặt ra. 6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn * Những đóng góp :
  10. - Làm rõ thêm khái niệm, những nhân tố, sự cần thiết, nội dung chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Phân tích đưa ra những đánh giá có căn cứ khoa học về thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thái Nguyên trong thời gian qua. - Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản, có tính khả thi nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Nguyên thời gian tới. * Ý nghĩa : Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chiến lược phát triển ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thái Nguyên. Nó cũng có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu giảng dạy ở các Trường đại học và Cao đẳng có liên quan. 7. Tên và kết cấu của luận văn * Luận văn có tên đề: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” * Kết cấu: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, về nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Cở sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH. Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH thời gian qua ở TỉnhThái Nguyên. Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH ở Tỉnh Thái Nguyên thời gian tới.
  11. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 1.1. CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP, NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ SỰ CẦN THIẾT CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA 1.1.1. Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH  Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình phát triển tất yếu khách quan của thời đại ngày nay, là con đường đưa mỗi quốc gia thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước khác trên thế giới và khu vực. Trên thực tế không phải đến bây giờ, các quốc gia trên thế giới mới tiến hành công nghiệp hóa mà việc thực hiện công nghiệp hóa đã được khởi đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra ở Anh cuối thế kỷ XVIII và sau đó kéo theo một loạt nước khác ở Tây Âu ( Như: Hà Lan, Pháp, Đức, Italia...). Mặc dù công nghiệp hóa được tiến hành sớm như vậy nhưng phải mãi đến cuối thế kỷ XIX thuật ngữ “công nghiệp hóa” mới xuất hiện với ý nghĩa là biến một lĩnh vực sản xuất bằng phương pháp thủ công sang hoạt động theo tính chất của công nghiệp cơ khí. Cho đến nửa sau thế kỷ XX, khái niệm công nghiệp hóa mới được hiểu như một giai đoạn lịch sử phát triển kinh tế, mà nội dung của nó bao hàm cuộc cách mạng công nghiệp, từ đó đến nay, cùng với hàng loạt các cuộc cách mạng công nghiệp: từ kỹ thuật cơ khí giản đơn với máy hơi nước làm động lực tới cơ khí phức tạp với động cơ đốt trong, rồi điện năng và các dạng năng lượng mới làm động lực, tiếp theo đó là tự động hóa, điện tử hóa... thì quan niệm về công nghiệp hóa dần được mở rộng trên nhiều khía cạnh và lĩnh vực nghiên cứu khác nhau.
  12. * Ví dụ: Quan niệm của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (cũ) cho rằng: "Công nghiệp hóa là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí, có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng với ngành trung tâm là chế tạo máy" [11, tr.49]. Năm 1963 UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc) đã đưa ra định nghĩa: Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận năng lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghiệp hiện đại để chế tạo ra các phương tiện sản xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp tăng trưởng cao trong toàn nền kinh tế và đảm bảo sự tiến bộ kinh tế và xã hội [25, tr.6]. Tóm lại: Tuy có rất nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa nhưng chủ yếu là hai quan niệm sau: Một là: Theo nghĩa hẹp, công nghiệp hóa là quá trình phát triển công nghiệp trong một thời kỳ nhất định, trong đó nền sản xuất xã hội được tổ chức theo lối công nghiệp dựa trên cơ sở thay thế lao động thủ công bằng máy móc và máy móc chiếm ưu thế. Hai là: Theo nghĩa rộng, công nghiệp hóa là quá trình công nghiệp liên tục, cải tổ thường xuyên cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hiện đại, ngày càng đa dạng. Có nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa như vậy là bởi trên thực tế, công nghiệp hóa là quá trình phức tạp, lâu dài mà việc phân biệt các mốc giới, định tính, định lượng và về thời gian không phải là điều dễ dàng. Mặt khác, sự biểu hiện về mô hình của nó gắn với mỗi quốc gia dân tộc do những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau cũng không thể thuần nhất. Dù như vậy, cũng cần hiểu một cách khái quát nhất: Công nghiệp hóa là quá trình phát triển kinh tế diễn ra lâu dài, bắt đầu từ khi xuất hiện công nghiệp và đến khi nền kinh tế với công nghiệp phát triển
  13. cao cũng chưa phải là điểm kết thúc mà lại có thể là mở đầu cho một cuộc cách mạng công nghiệp mới. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh lại phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, Đảng ta đã sớm nhận thức được vị trí vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngay từ Đại hội III Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, cách mạng kỹ thuật giữ vị trí then chốt. Tiếp sau đó Đại hội IV, V, tư tưởng này lại được tiếp tục khẳng định. Tuy nhiên trong thời gian này tư tưởng công nghiệp hóa chủ yếu tập trung phát triển công nghiệp nặng mặc dù có được điều chỉnh qua các kỳ Đại hội IV, V: Công nghiệp hóa chính là “quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện sự phân công mới về lao động xã hội và là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng” [12, tr.182]. Đường lối đưa ra để tiến hành công nghiệp hóa lúc đó được xác định: Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Khách quan mà đánh giá, quan niệm và cách tiến hành đó là phù hợp với điều kiện hiện tại của nước ta và thế giới trong bối cảnh đất nước có chiến tranh và tồn tại sự độc lập giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trên thực tế, chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở công nghiệp quan trọng then chốt cho nền kinh tế quốc dân. Nhưng về cơ bản nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân còn rất thấp. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) bên cạnh việc tiếp tục khẳng định vị trí nền tảng của công nghiệp trong thời kỳ quá độ, đã có sự chuyển hướng chiến lược về công nghiệp hóa từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang lấy nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm. Từ đó đến nay, việc nhận thức về đường lối công nghiệp hóa được đưa ra từng bước phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước. Công nghiệp hóa có thể hiểu một cách cơ bản:
  14. Là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội theo hướng phát triển mạnh công nghiệp, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, áp dụng rộng rãi với hiệu quả cao những tiến bộ khoa học, công nghệ mới hiện đại, làm nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển nhanh, vững chắc của toàn bộ nền kinh tế - xã hội [45, tr.63]. Quan niệm này không những phản ánh được nội dung của quá trình công nghiệp hóa mà nêu bật được mục tiêu công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa chính là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, bao hàm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động chứ không riêng chỉ phát triển ở lĩnh vực công nghiệp. Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã tiến lên một nấc thang mới, loài người đang bước vào kinh tế tri thức. Vì vậy, công nghiệp hóa đòi hỏi phải gắn với quá trình hiện đại hóa, kể cả những nước có nền kinh tế lạc hậu như nước ta. Không thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu "cổ điển" như ở phương Tây thế kỷ XVIII mà công nghiệp hóa phải gắn với việc tận dụng những thành quả khoa học - kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến của thế giới. Công nghệ truyền thống gắn với ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thời đại, là giải pháp quyết định đưa nước ta thoát khỏi đói nghèo lạc hậu và nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế - công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa. Hay nói cách khác, để có quan niệm đúng đắn, đầy đủ về công nghiệp hóa phải đặt nó trong mối quan hệ với hiện đại hóa. Tất nhiên công nghiệp hóa và hiện đại hóa là hai khái niệm khác nhau nhưng lại đan xen, tích hợp, lồng ghép và bổ sung cho nhau. Nếu như công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh công nghiệp thì hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ chỗ theo những quy trình công nghệ thủ công là chính sang chỗ sử dụng một cách phổ biến những quy trình công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên
  15. sự phát triển của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tạo ra năng suất lao động, hiệu quả và trình độ văn minh kinh tế xã hội cao [62, tr.63]. Sự gắn kết giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang trở thành xu thế tất yếu của các nước đang phát triển. Nó trở thành khái niệm "kép" trong nhận thức về mục tiêu phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. Trên tinh thần đó, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã xác định nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [33, tr.65]. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng ta đã phản ánh được phạm vi rộng lớn, xác định được vai trò quan trọng của công nghiệp và khoa học - công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó thực chất là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải biến nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, thực hiện mục tiêu: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đánh giá một cách khách quan, khoa học những tiền đề được tạo ra sau 10 năm đổi mới đã chỉ rõ: nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu:
  16. Xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp [34, tr.80].  Khái niệm cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp. Cơ cấu kinh tế, một phạm trù kinh tế có tầm quan trọng to lớn trong quá trình xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia qua các thời kỳ. Xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ cho phép tạo nên sự cân đối, hài hoà của nền kinh tế, từ đó sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực, tài nguyên, của cải vật chất, tinh thần và sức lao động. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, từ đó tạo nên sự tiến bộ xã hội. Thuật ngữ “cơ cấu” có nguồn gốc ban đầu từ chữ La tinh “Strucke”, nó phản ánh cách xắp xếp các bộ phận của một chỉnh thể. Sau đó, các khái niệm này được sử dụng mở rộng hơn cho các ngành khoa học khác. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam “cơ cấu kinh tế”: là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống C.Mác tiếp cận cơ cấu nền kinh tế như là: Toàn bộ các quan hệ giữa những người làm nhiệm vụ sản xuất với nhau và giữa họ với tự nhiên - tức là những điều kiện trong đó họ tiến hành sản xuất, toàn bộ những quan hệ đó hợp thành xã hội, xét về mặt cơ cấu của nó. Như vậy theo C.Mác, cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ, quá trình phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của xã hội đó, từ những quan điểm trên của C.Mác ta nhận thấy rằng: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ về số lượng và chất lượng tương đối ổn định giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định trong khoảng thời gian nhất định.
  17. C.Mác khẳng định, khi phân tích cơ cấu kinh tế phải xem xét trên cả hai mặt, số lượng( quy mô, tỷ trọng, tốc độ) và chất lượng( vị trí, sự tương tác, trình độ công nghệ...). Đó là biểu hiện của mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế. Do đó, cơ cấu là: “ một sự phân chia về chất lượng và một tỷ lệ về số lượng của quá trình sản xuất xã hội” [63; tr103]. Từ nhận định trên ta nhận thấy rằng, cơ cấu kinh tế có cấu trúc bao gồm: Những yếu tố gắn với lực lượng sản xuất (các quan hệ giữa họ với tự nhiên, kỹ thuật) và các nội dung của quan hệ sản xuất (các quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội) hợp thành. Nếu cơ cấu kinh tế bao gồm hai mặt lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì khi phân tích cơ cấu kinh tế không thể không xem xét mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý là một cơ cấu kinh tế được hình thành và phát triển trong đó, các yếu tố của quan hệ sản xuất luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, không nên hiểu cơ cấu kinh tế là con số cộng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà phải hiểu nó là sự tác động qua lại giữa các yếu tố được xem xét về số lượng và chất lượng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được hình thành và phát triển qua các giai đoạn của nền sản xuất xã hội. Do vậy, dưới góc độ ngành, vùng và thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế bao gồm: cơ cấu ngành kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ); cơ cấu vùng kinh tế theo lãnh thổ; và cơ cấu thành phần kinh tế. Trong luận văn này, tác tiếp cận khái niệm cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp cũng bao gồm 3 nội dung nói trên của cơ cấu kinh tế, nhưng đi sâu nghiên cứu trực tiếp trong ngành công nghiệp và các nhóm ngành của ngành công nghiệp ở Thái nguyên. Theo cách tiếp cận nói trên, tác giả hiểu: Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp là một bộ phận của cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế quốc dân; là tổng thể các mối quan hệ về số lượng và chất lượng tương đối ổn định giữa các bộ phận: ngành và nội bộ ngành, vùng và thành phần kinh tế
  18. trong ngành công nghiệp; tương ứng với những điều kiện kinh tế - xã hội xác định và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. 1.1.2. Khái niệm và nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở nước ta  Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp. Khi nghiên cứu khái niệm cơ cấu kinh tế, chúng ta xem xét nó ở trạng thái tĩnh hay trạng thái tĩnh hay trạng thái tương đối ổn định, nhưng khi tiếp cận khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nghiên cứu nó ở trạng thái động có tác dụng làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Như vậy, cùng với việc tổ chức lao động một cách khoa học, kỹ thuật - công nghệ ngày càng phát triển tất yếu làm cho cơ cấu kinh tế của một xã hội cũng thay đổi, phát triển đi từ thấp đến cao, từ chưa hợp lý đến hợp lý, hiện đại và hiệu quả cao theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với cách đặt vấn đề như vậy, chúng ta có thể hiểu: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp là quá trình thay đổi cấu trúc, tỷ trọng, tốc độ và chất lượng các mối quan hệ kinh tế giữa các nhóm ngành, các khu, cụm điểm công nghiệp và các thành phần kinh tế trong ngành công nghiệp nhằm đạt tới một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, tạo thế và lực mới cho tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, trong giai đoạn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.  Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp. Quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu sự chi phối của nhiều nhân tố đa dạng và phức tạp, đó là những nhân tố khách quan và chủ quan sau đây:
  19. Một là: Nhân tố về địa lý, tự nhiên (khí hậu, đất đai, tài nguyên…) Các Mác viết : “ Bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người chiếm hữu lấy những đối tượng của tự nhiên, trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định” [27, tr 282]. Do sản xuất là “ sự chiếm hữu tự nhiên ” nên quá trình chiếm hữu đó cũng luôn luôn chịu ảnh hưởng của chính những điều kiện tự nhiên. Do đó, ảnh hưởng của địa lý, tự nhiên tới sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một tất yếu, một nhân tố không thể thiếu được của một nước, mỗi ngành và mỗi địa phương khi chyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hóa. Vị trí địa lý của một quốc gia góp phần tạo ra sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một nước, đối với những nước có vị trí địa lý sát biển, đồng thời thuận lợi nằm trên các tuyến giao thông quan trọng về đường biển, đường hàng không, nhất là nằm trong một khu vực phát triển năng động về kinh tế sẽ cho phép nước đó phát triển mạnh nghành công nghiệp khai thác các nguồn lợi tự nhiên trong đại dương, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản. Như vậy Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn về biển cả, lại nằm trong khu vực ASEAN với nền kinh tế phát triển năng động sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam cơ hội đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đây là yếu tố quan trọng tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu nghành công nghiệp trong thời gian tới. Tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, lâm sản, hải sản, đất đai, khí hậu) là một trong các yếu tố nguồn lực cơ bản của quá trình sản xuất, là điều kiện cần thiết cho sản xuất công nghiệp, một quốc gia có nguồn tài nguyên phong phú dồi dào nếu biết khai thác và sử dụng có hiệu quả sẽ cho phép phát triển các nghành công nghiệp khai thác khoáng sản và chế biến để thỏa mãn nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Trên thực tế, trong giai đoạn phát triển ở mỗi nước, người ta thường tập trung khai thác các tài nguyên có trữ lượng lớn, có giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận, do đó việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nghành công nghiệp phải làm sao, để sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên đó. Hai là: Nhân tố về kinh tế văn hoá xã hội
  20. Lôgic và lịch sử chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá đều cho rằng: Khi nền sản xuất xã hội còn ở tình trạng lạc hậu ( lực lượng sản xuất thấp kém, trình độ văn hoá và khoa học kỹ thuật của người lao động chưa cao) thì cơ cấu kinh tế của xã hội ấy phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện địa lý tự nhiên. Khi đó những nghành kinh tế dựa vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên như nông - lâm - ngư nhiệp, khai khoáng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngành của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế ngày càng phát triển, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật của con người được nâng cao thì sự phụ thuộc đó ngày càng giảm dần, tỷ trọng của nghành công nghiệp và dịch vụ trong GDP ngày một lớn trong cơ cấu nghành kinh tế quốc dân. Dân số, sức lao động, đây được xem là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế nói chung và nghành công nghiệp nói riêng. Dân số và tốc độ tăng dân số của một nước có ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng kinh tế cũng như chyển dịch cơ cấu kinh tế của một nước. Nếu có nguồn lực lao động dồi dào thì sẽ có nguồn nhân lực phục vụ cho sản xuất nhiều hơn, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tuy nhiên nếu tốc độ tăng dân số quá cao sẽ làm tăng trưởng kinh tế chậm lại. Việc cải thiện chất lượng lao động hay nguồn nhân lực ( Như: kỹ năng kiến thức mà người lao động tích luỹ được trong quá trình lao động, học hỏi, giáo dục) là cơ sở quan trọng để phát triển các nghành công nghiệp kỹ thuật cao, sẽ có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế. Quy mô dân số và thu nhập của dân cư tăng sẽ tạo ra một thị trường tiêu thụ rộng lớn, đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng cho xã hội, làm cho tỷ trọng của ngành công nghiệp cũng tăng lên. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, có tay nghề tinh xảo, người Việt Nam lại cần cù thông minh sẽ nhanh chóng tiếp thu tiến bộ khoa học công nghệ có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu lao động cho nghành công nghiệp. Vốn đầu tư cũng là một yếu tố nguồn lực trong quá trình sản xuất, là nhân tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, nhà nước sử dụng vốn ngân sách và huy động vốn toàn xã hội, trong nước và ngoài nước để đầu tư phát triển sản xuất, sẽ tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nghành công nghiệp nói riêng một cách nhanh chóng. Vốn là chìa khoá cho mọi sự phát triển kinh tế của một
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2