intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:105

30
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở phân tích có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của việc chuyển dịch cơ cấu lao động, luận văn đề xuất một số phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An từ nay đến năm 2010.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ NGUYỄN THỊ TRÂM Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An LUẬN VĂN THẠC SỸ Người hướng dẫn: PGS.TS. Phan Thanh Phố Hà nội - 2004
  2. MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, chuyển dịch cơ cấu lao động nói riêng là một tất yếu khách quan phản ánh quá trình phát triển lực lƣợng sản xuất và phân công lao động xã hội. Hình thức, quy mô và bƣớc đi của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố cơ bản nhất là tạo nên sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lƣợng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Chuyển dịch cơ cấu lao động - thực chất là sự phân công và phân công lại lao động xã hội một cách thích ứng với việc xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hóa, hiên đại hóa nền kinh tế quốc dân. Nghệ An là một tỉnh đất rộng ngƣời đông có tiềm năng phát triển kinh tế. Sau gần 17 năm đổi mới, cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu lao động nói riêng Nghệ An, có sự chuyển dịch theo hƣớng tiến bộ, bƣớc đầu tạo nên động lực phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh trong thời gian qua. Tuy vậy, cho đến nay Nghệ An vẫn là một tỉnh nghèo, tiềm năng về lao động chƣa đƣợc phát huy đầy đủ, cơ cấu lao động còn nhiều mặt mất cân đối nghiêm trọng, nhiều lợi thế so sánh của tỉnh chƣa đƣợc khai thác có hiệu quả. Xuất phát từ thực tế, khả năng, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh từ nay đến năm 2010 và thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh, trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu, tìm ra những giải pháp tối ƣu để nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu lao động, nhằm sử dụng lao động có hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo mục tiêu và định hƣớng mà Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XV đã đề ra. 1
  3. Đề tài “Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An” đƣợc chọn để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ kinh tế là trên ý nghĩa đó. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có quan hệ biện chứng với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, nhằm khai thác và phát huy có hiệu quả nguồn lực lao động và các nguồn lực khác của tỉnh. Vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta đề cập trong nhiều chủ trƣơng chính sách. Cho tới nay, cũng đã có nhiều tác giả và công trình nghiên cứu, phân tích vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau nhƣ: - “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân” của GS. TS. Ngô Đình Giao - NXB Chính trị quốc gia năm 1994 - “Vấn đề lao động và việc làm” của GS. TS. Đỗ Thế Tùng - 1996 - “Phát triển nguồn nhân lực để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của PGS.TS Phan Thanh Phố - Tạp chí kinh tế và phát triển số 5/1995. - “Lao động và việc làm - Những bước tiến quan trọng” - Nguyễn Thị Hằng - Tạp chí Cộng sản, số 23 tháng 8, năm 2002. - “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn” của PGS. TS Nguyễn Sinh Cúc - Tạp chí Cộng sản số 5/ 2001. - “Thực trạng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn” của Hoàng Kim Ngọc - Tạp chí Lao động và Xã hội số tháng 12/2001 - “Các giải pháp gắn đào tạo với cầu lao động kỹ thuật trên thị trường lao động ở nước ta” của TS Nguyễn hữu Dũng - Tạp chí Lao động và Xã hội số tháng 10/2002 - “Vấn đề phân công lại lao động xã hội trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Tiền Giang” Luận án Tiến sĩ của Trần Thị Ngọc Lan - năm 2000. 2
  4. - “Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn ở Huyện Gia Lâm theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá” Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Ngọc Diệp - năm 1999. Ở Nghệ An, cũng đã có một số đề tài đƣợc công bố nhƣ: Phân công lao động xã hội ở nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, phát triển kinh tế hộ nông dân... của các tác giả Hồ Minh Đức, Hoàng Trần Ky, Lê Thị Bông... Các đề tài nghiên cứu nói trên, mới đi sâu một số khía cạnh, chƣa thành một đề tài độc lập đƣợc trình bày một cách có hệ thống. Hơn nữa, việc nghiên cứu chủ đề này trong phạm vi tỉnh, nhất là ở tỉnh Nghệ An cho đến nay chƣa nhiều. 3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI Trên cơ sở phân tích có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của việc chuyển dịch cơ cấu lao động, luận văn đề xuất một số phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An từ nay đến năm 2010. Để thực hiện đƣợc mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Khái quát một cách có hệ thống lý luận liên quan đến cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động trong thời gian qua, tìm nguyên nhân và những vấn đề mới nẩy sinh cần giải quyết. - Xây dựng phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản chuyển dịch cơ cấu lao động trong mối quan hệ với chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế ở tỉnh Nghệ An đến năm 2010. 4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3
  5. - Đề tài lấy việc phân tích thực trạng, phƣơng hƣớng và giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An làm đối tƣợng nghiên cứu. - Đề tài chỉ nghiên cứu những giải pháp cơ bản liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao động ở tỉnh Nghệ An trong thời gian từ ngày tái lập tỉnh đến năm 2010. 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Luận văn lấy phƣơng pháp duy vật biện chứng làm phƣơng pháp luận chung trong quá trình nghiên cứu. Đồng thời còn sử dụng một số các phƣơng pháp khác nhƣ: phân tích, so sánh, thống kê và phƣơng pháp điều tra, khảo sát thực tế... 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN - Làm rõ thêm nội dung và xu hƣớng có tính quy luật trong chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nƣớc ta. - Đƣa ra những đánh giá có cơ sở khoa học thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Nghệ An thời gian qua. - Xây dựng phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Nghệ An từ nay đến năm 2010. 7. KẾT CẤU LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng với 7 tiết. 4
  6. CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 1.1. CƠ CẤU LAO ĐỘNG VÀ SỰ CẦN THIẾT CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ 1.1.1. Một số khái niệm 1.1.1.1. Cơ cấu lao động Bàn về cơ cấu lao động, theo Mác có nghĩa là bàn về cấu trúc bên trong của quá trình phân công lao động xã hội. Ngƣời viết: “Cơ cấu là sự phân chia về chất lƣợng và một tỷ lệ về số lƣợng của quá trình sản xuất xã hội” [22, tr 77]. Đó là các quan hệ tỷ lệ cũng nhƣ xu hƣớng vận động, phát triển nguồn lao động giữa các ngành kinh tế (Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...), các vùng kinh tế (đồng bằng, trung du, miền núi, ven biển...), các thành phần kinh tế (Nhà nƣớc, tập thể, cá thể,tiểu chủ, tƣ bản tƣ nhân...). Sự hình thành và phát triển cơ cấu lao động thƣờng gắn với những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội từng nƣớc, từng vùng và từng doanh nghiệp trong từng thời gian nhất định. Cơ cấu lao động tồn tại, biến đổi, thích ứng với sự biến động của các điều kiện đó. Mọi sự thay đổi của cơ cấu lao động không thể áp đặt chủ quan theo ý muốn mà phải dựa vào sự biến đổi của các yếu tố khách quan và các mục tiêu kinh tế - xã hội đƣợc đặt ra. Từ đó có thể hiểu Cơ cấu lao động là mối quan hệ tỷ lệ về số lượng và chất lượng lao động trong các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế; phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động xã hội; biểu hiện xu thế phát triển của các ngành, các thành phần kinh tế và các vùng kinh tế. 5
  7. Cơ cấu lao động biểu hiện sự gắn bó hữu cơ với nhau trong hệ thống phân công lao động xã hội. Việc nghiên cứu cơ cấu lao động phải gắn với điều kiện không gian, thời gian cụ thể mới có thể xác định đƣợc một cách khoa học cơ cấu lao động đang tồn tại và xu hƣớng vận động của nó. Từ đó, đƣa ra cách thức tổ chức và phân bố các yếu tố cơ bản của lực lƣợng sản xuất. 1.1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động Trong tác phẩm “Sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Nga”, khi bàn về sự di chuyển nguồn lao động, Lênin quan niệm cơ cấu lao động không ở trạng thái tĩnh, mà luôn ở trạng thái động, luôn có sự thay đổi điều chỉnh quan hệ tỷ lệ, xu hƣớng vận động của các bộ phận cấu thành nguồn lao động sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia hay một địa phƣơng trong từng thời kỳ nhất định. Thực chất của chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình tổ chức và phân công lại lực lƣợng lao động, qua đó làm thay đổi quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận của nguồn lao động. Từ đó có thể xác định khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động: Chuyển dịch cơ cấu lao động là một phạm trù kinh tế phản ánh sự thay đổi quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận của nguồn lao động trong nội bộ ngành và giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Về mức độ phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu lao động có thể diễn ra các cấp độ sau: - Nếu theo mức độ tích tụ, tập trung của các nguồn lực, thì sự chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra từ chỗ lấy việc tập trung lao động làm chính, sau đó tiếp tục chuyển sang một giai đoạn mới cao hơn là lấy việc tập trung kỹ thuật tri thức làm nội dung cơ bản để chuyển dịch lao động. - Nếu theo năng lực tiếp nhận thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật thì chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra trƣớc tiên từ chỗ lấy khả năng 6
  8. giải quyết việc làm cho ngƣời lao động là chính, sang giai đoạn lấy việc nâng cao trình độ nhận thức và kỹ năng cho ngƣời lao động làm mục tiêu cơ bản. - Nếu theo mức độ tăng dần của giá trị đầu ra, chuyển dịch cơ cấu lao động sẽ diễn ra từ chỗ ban đầu có giá trị đầu ra thấp đến các giai đoạn sau có giá trị đầu ra cao. - Nếu căn cứ vào không gian di chuyển của lao động thì chuyển dịch cơ cấu lao động lại có thể diễn ra theo hai cách thức: Chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ, đây là sự chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các ngành kinh tế khác ở nông thôn. Đặc điểm cơ bản của sự chuyển dịch này là không có sự di chuyển nơi sinh sống, nên không làm thay đổi mật độ dân cƣ sinh sống. Nhƣng cơ cấu lao động lại có sự thay đổi rõ rệt. Đây chính là phƣơng thức chuyển dịch cơ cấu lao động tích cực nhất. Chuyển dịch cơ cấu lao động kèm theo sự di cƣ, đây là sự chuyển dịch lao động về mặt không gian. Hậu quả là tạo ra các dòng di chuyển dân cƣ từ vùng này sang vùng khác. Đặc điểm của sự chuyển dịch này là sẽ làm giảm quy mô cũng nhƣ cơ cấu của nguồn lao động nơi ra đi, nhƣng lại tăng quy mô và thay đổi cơ cấu của nguồn lao động nơi đến. Vì vậy để giảm thiểu hậu quả của việc di dân và lao động cần phải có các giải pháp tích cực để khắc phục sự chênh lệch giữa các vùng và các miền. Về mặt lý thuyết vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động từ trƣớc đến nay ít nhiều đã đƣợc các nhà kinh điển đề cập với những cách lập luận khác nhau. - Trong kinh tế học Mác xít, vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động chủ yếu đƣợc đề cập trong hai học thuyết: Học thuyết về phân công lao động xã hội và học thuyết tái sản xuất tƣ bản xã hội. Trong học thuyết về phân công lao động xã hội, các nhà kinh tế học Mác xít đề cập mối quan hệ giữa phân công lao động xã hội với cách mạng kỹ thuật và cho rằng: tiền đề vật chất và môi trƣờng thể chế rất quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao 7
  9. động. Những tiền đề vật chất đƣợc đề cập ở đây đó là sự tách rời giữa thành thị và nông thôn; quy mô và mật độ của dân số, tăng năng suất lao động xã hội.Về nguyên tắc, năng suất lao động phải có khả năng đáp ứng đƣợc nhu cầu lƣơng thực, thực phẩm cho toàn xã hội. Còn môi trƣờng thể chế đóng vai trò bảo hộ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Các Mác đã khẳng định rằng: “Cơ sở của mọi sự phân công lao động phát triển và lấy sự trao đổi hàng hoá làm môi giới là sự tách rời giữa thành thị và nông thôn”.[22,tr 77] Trong học thuyết về tái sản xuất tƣ bản xã hội, vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành đã đƣợc các nhà kinh tế học Mác xít nghiên cứu; Theo Lênin: “Sản xuất ra tƣ liệu sản xuất để chế tạo tƣ liệu sản xuất phát triển nhanh nhất; sau đó đến sản xuất tƣ liệu sản xuất để chế tạo tƣ liệu tiêu dùng; và chậm nhất là sự phát triển của sản xuất tƣ liệu tiêu dùng” [20,tr 98] Đặt nền móng cho sự phát triển của học thuyết chuyển dịch cơ cấu lao động trƣớc tiên phải kể đến D. Ricardo với việc mô tả hàm sản xuất trong nông nghiệp. Theo ông khi tăng tỷ lệ đầu vào lao động lên thì sản lƣợng đầu ra trong nông nghiệp tăng với tỷ lệ giảm dần và nguyên nhân là do sự hoạt động của quy luật lợi suất giảm dần trong nông nghiệp gây ra. Sau D. Ricardo, có E. Engel với việc đề xƣớng quy luật tiêu thụ sản phẩm. Theo E. Engel: Khi thu nhập của các hộ gia đình phát triển lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lƣơng thực, thực phẩm thấp đi. Do chức năng chính của khu vực nông nghiệp là sản xuất lƣơng thực, thực phẩm nên có thể suy ra tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên. Nhƣ vậy quy luật tiêu thụ sản phẩm của E. Engel đã gián tiếp nói lên xu hƣớng của việc chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình phát triển kinh tế. Còn A. Shiser lại cho rằng nguồn lao động xã hội đƣợc chia vào ba khu vực: Khu vực thứ nhất bao gồm sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp; khu vực thứ hai bao gồm công nghiệp chế biến và xây dựng; khu vực thứ ba bao gồm 8
  10. vận tải, thông tin, thƣơng nghiệp. Theo ông, trong quá trình phát triển, sự tăng cƣờng sử dụng máy móc, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tác động đến sự thay đổi cơ cấu lao động theo hƣớng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp và tăng tỷ lệ lao động cho công nghiệp, dịch vụ. Kế thừa những quan điểm của các nhà kinh điển, các nhà kinh tế học hiện đại tiếp tục đƣa ra cách nhìn nhận của mình về cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động sau: - Lý thuyết các giai đoạn kinh tế của Rostow: Theo Rostow quá trình phát triển kinh tế của một nƣớc có thể chia ra 5 giai đoạn: + Xã hội truyền thống: Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò trung tâm trong hoạt động kinh tế, năng suất lao động thấp do sản xuất chủ yếu bằng công cụ thủ công nên cơ cấu lao động mang tính thuần nông. + Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Đã có sự áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp sang các ngành khác. + Giai đoạn cất cánh: Khoa học - kỹ thuật tác động mạnh vào công nghiệp và nông nghiệp, tạo ra sự thay đổi về nhận thức và lối sống mới trong nông dân, một bộ phận lớn lao động nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ, cơ cấu lao động đã có sự chuyển dịch theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. + Giai đoạn trƣởng thành: Cơ giới hoá trong nông nghiệp đạt năng suất cao, tỷ lệ lao động nông nghiệp chuyển sang các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh hơn. + Giai đoạn mức tiêu dùng cao: Thu nhập bình quân đầu ngƣời tăng nhanh; cơ cấu lao động có sự chuyển dịch theo hƣớng tăng nhanh tỷ lệ lao động làm việc trong các khu công nghiệp, đô thị và tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn tay nghề cao. 9
  11. Từ lý thuyết của Rostow ta nhận thấy rằng sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và việc áp dụng nó vào quá trình sản xuất là nguyên nhân cơ bản tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu lao động. - Lý thuyết nhị nguyên do A. Lewis khởi xƣớng. Lý thuyết này cho rằng mối quan hệ giữa hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp xuất phát từ tƣ tƣởng của Ricardo. Theo A. Lewis do khu vực nông nghiệp có năng suất lao động thấp nên dƣ thừa nhiều lao động, vì vậy xã hội có thể chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp mà không làm ảnh hƣởng tới sản xuất nông nghiệp tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu lao động. Nhìn chung các lý thuyết trên đều có một điểm chung là rất coi trọng tiền đề vật chất cần thiết cho quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, đó là tăng năng suất lao động và mức thu nhập; phƣơng thức để thực hiện các mục tiêu đó là tiến bộ kỹ thuật và việc ứng dụng chúng vào quá trình sản xuất [16; 37]. Lý luận và thực thực tiễn, khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động cần đƣợc hiểu theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp: - Theo nghĩa rộng, chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi trong quan hệ tỷ lệ, cũng nhƣ xu hƣớng vận động của các bộ phận cấu thành nên nguồn lao động của nền sản xuất xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. - Theo nghĩa hẹp, chuyển dịch cơ cấu lao động gắn liền với sự phân công và phân công lại lao động xã hội theo hƣớng: Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm xuống, tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ tăng lên, trong đó: Tỷ trọng lao động dịch vụ tăng nhanh hơn tỷ trọng lao động công nghiệp trong tổng lao động xã hội; tỷ trọng lao động giản đơn giảm dần và tỷ trọng lao động trí tuệ (lao động phức tạp) tăng nhanh và ngày càng chiếm ƣu thế trong cơ cấu lao động. 10
  12. Chuyển dịch cơ cấu lao động là một khái niệm có nội hàm rộng, phức tạp có quan hệ chặt chẽ và song song với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc xác định đúng khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần làm rõ nội dung và vai trò cũng nhƣ phƣơng hƣớng chuyển dịch cơ cấu lao động. Ở nƣớc ta trong một thời gian dài tầm quan trọng của chuyển dịch cơ cấu lao động chƣa đƣợc nhận thức đúng mức nên hiệu quả đem lại rất thấp. Đã đến lúc cần nhận thức đúng đắn khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động, từ đó góp phần giải quyết những vấn dề cụ thể có liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao động mà thực tế đang đặt ra. Dƣới góc độ không gian lãnh thổ của mỗi nƣớc, mỗi vùng ngƣời ta có thể lựa chọn những xu hƣớng thích hợp nhƣ chuyển dịch cơ cấu lao động gắn với sự thay đổi cơ cấu chuyên môn kỹ thuật; chuyển dịch cơ cấu lao động gắn với sự thay đổi của hình thức tổ chức và phƣơng pháp lao động... Song tất cả các xu hƣớng đó cũng đều phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chuyển dịch cơ cấu lao động là xu hƣớng có tính quy luật của các quốc gia đã và đang tiến hành công nghiệp hoá. Thực chất của xu hƣớng này là quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp là chủ yếu sang công nghiệp và dịch vụ để giải quyết việc làm, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống cho nhân dân. Chuyển đổi cơ cấu lao động là quá trình giảm số lƣợng tuyệt đối và tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng số lƣợng tuyệt đối và tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ. Nội dung cơ bản của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá là giải phóng lao động ở ngành có năng suất lao động thấp (nông nghiệp) sang ngành có năng suất cao hơn (công nghiệp và dịch vụ), từ đó tạo ra nhiều của cải vật chất và sản phẩm dịch vụ tiến tới hiện đại hoá nền kinh tế. 11
  13. 1.1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH, HĐH là quá trình biến đổi các hoạt động sản xuất từ chỗ dựa vào khai thác tự nhiên lấy lao động thủ công là chính, sang phƣơng pháp sản xuất công nghiệp với lao động bằng máy móc là chủ yếu, trên cơ sở đó tạo ra một năng suất lao động xã hội cao. Trên thực tế, mặc dù có một số cách hiểu khác nhau về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, song nhƣ Đảng ta đã chỉ rõ: CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phƣơng tiện và phƣơng pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [11] Để tạo sự chuyển biến nền kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với điểm xuất phát thấp nhƣ nƣớc ta, CNH, HĐH phải đƣợc coi là nhiệm vụ trung tâm trong chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Tiến trình CNH, HĐH sẽ tạo ra những động lực có tác dụng to lớn đối với nền kinh tế quốc dân nhƣ: Thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống cho nhân dân, góp phần hình thành cơ cấu kỹ thuật và công nghệ theo hƣớng hiện đại, thông qua chuyển dịch để hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các ngành, các thành phần kinh tế và các vùng, miền của đất nƣớc. Thúc đẩy nhanh quan hệ kinh tế đối ngoại, phát huy lợi thế so sánh của quốc gia, dân tộc. Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ thúc đẩy sự phát triển phân công lao động, tạo điều kiện thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong các 12
  14. ngành công nghiệp và dịch vụ, không ngừng nâng cao chất lƣợng, cơ cấu và trình độ chuyên môn cho ngƣời lao động. Quá trình công nghiệp hoá biểu hiện qua các dấu hiệu: Có sự thay đổi của quy mô sản xuất từ chỗ chỉ lấy quy mô sản xuất gia đình làm chính sang quy mô sản xuất theo kiểu công xƣởng lớn. Tỷ trọng sản xuất công nghiệp, dịch vụ ngày càng tăng, còn tỷ trọng nông nghiệp giảm dần. Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch theo hƣớng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ... tốc độ đô thị hoá tăng lên, thể hiện thông qua việc gia tăng tỷ lệ dân cƣ tập trung tại các đô thị và khu công nghiệp. Hiện đại hoá đƣợc hiểu là việc trang bị, sử dụng những yếu tố khoa học - công nghệ tiên tiến mà thời đại đã đạt đƣợc vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong thời đại ngày nay CNH, HĐH, có quan hệ mật thiết với nhau và in dấu đậm nét sự biến đổi về số lƣợng và chất lƣợng lao động và trong chuyển dịch cơ cấu lao động. Nhƣ vậy, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng CNH, HĐH là một yêu cầu khách quan và là điều kiện không thể thiếu đƣợc để đƣa nền kinh tế tăng trƣởng và phát triển. Từ phân tích về những nội dung chủ yếu của CNH, HĐH và dặt nó trong mối quan hệ với chuyển dịch cơ cấu lao động, chúng ta có thể rút ra khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là: Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự thay đổi quan hệ tỷ lệ, xu hướng vận động của các bộ phận cấu thành nguồn lao động trong các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với trang thiết bị, phương pháp công nghệ tiên tiến hiện đại 13
  15. nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội ngày càng cao trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá không do ý muốn chủ quan mà dựa trên những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và nhu cầu của thị trƣờng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bởi vì lao động của con ngƣời là yếu tố quyết định, sự phát triển kinh tế - xã hội ở mọi thời đại lịch sử. Vì vậy khi nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu lao động phải chú ý nguồn lao động, phải xuất phát từ lao động để nghiên cứu cơ cấu lao động. 1.1.2. Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.1.2.1. Do yêu cầu phát huy vai trò của lao động đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển theo con đường rút ngắn hiện đại Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác Lênin đã từng nhiều lần nhấn mạnh vai trò to lớn của lao động. Mác viết: “Lao động trƣớc hết là một quá trình diễn ra giữa con ngƣời và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động chính mình, con ngƣời làm trung gian điều tiết và kiểm soát sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” [23,tr 230].Ông còn cho rằng: “Con ngƣời không chỉ làm biến đổi hình thái những cái do tự nhiên cung cấp..., con ngƣời cũng đồng thời thực hiện các mục đích tự giác của mình, mục đích ấy quyết định phƣơng thức hành động của họ, giống nhƣ một quy luật và bắt ý chí của họ phải phục tùng nó”[23,tr 321]. Trong bộ tƣ bản Mác còn phân tích một cách khoa học vai trò của tƣ bản khả biến đối với việc sản xuất giá trị thặng dƣ. Lênin đánh giá vai trò của lao động là: “Lực lƣợng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là ngƣời lao động” [21, tr 30]. Kế thừa và phát huy những di sản quý báu của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin và chọn lọc những kiến thức, những thành quả của kinh tế 14
  16. học hiện đại, vận đụng sáng tạo vào thực tiễn nƣớc ta, Đảng, Nhà nƣớc ta luôn luôn quan tâm đến con ngƣời, tạo mọi điều kiện để con ngƣời phát triển hoàn thiện.. Tại Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Đảng đã khẳng định: “Phát huy yếu tố con ngƣời và lấy con ngƣời làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động”[9,tr 82] Đại hội lần thứ VII của Đảng, trong chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội đã đặt con ngƣời vào vị trí trọng tâm, lấy mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con ngƣời, do con ngƣời, Đại hội đã khẳng định: “Nguồn lao động dồi dào, con ngƣời Việt Nam có truyền thống yêu nƣớc, cần cù, sáng tạo... có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ... đó là nguồn lực quan trọng nhất” [8, tr5,23]. Đến Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta lại khẳng định: “ Lấy việc phát huy nguồn lực con ngƣời làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững...” [9,tr 85]. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển theo con đƣờng rút ngắn hiện đại ở nƣớc ta nói chung và mỗi địa phƣơng nói riêng phụ thuộc khá lớn vào việc khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, bao gồm nguồn tài nguyên, nguồn vốn, khoa học - công nghệ đặc biệt là nguồn lao động, trong đó nguồn lực lao động có ý nghĩa quyết định bởi vì mọi hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần rút cuộc đều là hoạt động của ngƣời lao động. Chính vì thế mà Đại hội Đảng IX đã xác định: “Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nƣớc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá...”{10, tr 17, 201] Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng đòi hỏi phải có lực lƣợng lao động có trình độ kỹ thuật, tay nghề và ý thức tổ chức kỷ luật cao. Do vậy, với tƣ cách là ngƣời lao động hơn bao giờ hết phải có nhận thức sâu sắc để không ngừng bồi dƣỡng và nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn là yêu cầu cấp bách để sử dụng và tiếp thu có hiệu quả những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến của thế giới góp phần làm thay đổi cơ cấu lao động phù hợp với quan điểm của đại hội Đảng 15
  17. lần thứ IX: “Con đƣờng CNH, HĐH của nƣớc ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bƣớc tuần tự, vừa có bƣớc nhảy vọt”.[10, tr 91] 1.1.2.2. Do yêu cầu phải đẩy nhanh nhịp độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, một nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta Với điểm xuất phát là một nƣớc nông nghiệp đang ở thời kỳ đầu của quá trình CNH, HĐH, nông thôn nƣớc ta theo số liệu thống kê đến năm 2001chiếm 76% dân số và 74% lao động xã hội. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nƣớc đã chú trọng đến việc chuyển dịch cơ cấu lao động nhằm tạo việc làm, nâng cao thu nhập cải thiện đời sống cho nhân dân bằng nhiều chủ trƣơng, chính sách. Do đó, cơ cấu lao động đã chuyển dịch theo hƣớng tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp. Tuy nhiên quá trình chuyển dịch này diễn ra còn chậm, chƣa đồng đều so với yêu cầu và khả năng thực tế. Nhìn chung cơ cấu lao động còn bất hợp lý giữa các ngành, vùng và thành phần kinh tế. (Xem bảng 1.1) Bảng 1.1: Cơ cấu lao động theo ngành từ 1991 - 2000 [19]. Công nghiệp Tổng số lao động Nông, lâm Dịch vụ Năm xây dựng (Ngàn người ) nghiệp (%) (%) (%) 1991 30.794 72,6 13,9 13,5 1992 31.819 72,9 13,4 13,7 1993 32.716 73,0 13,3 13,7 1994 33.664 70,0 13,2 16,8 1995 34.589 69,7 13,2 17,3 1996 35.792 69,2 12,5 18,2 1997 36.994 68,7 12,5 18,7 1998 38.194 68,2 12,7 19,0 16
  18. 1999 39.394 66,7 12,9 19,3 2000 36.205 62,6 13,1 24,3 Nguồn: Tổng cục Thống kê; niên giám thống kê từ 1991 -2002 Từ số liệu ở bảng1.1 cho thấy: Hàng năm tổng nguồn lao động tăng lên gần 900.000 ngƣời, nhƣng 4/5 số tăng thêm này vẫn còn nằm lại ở khu vực nông nghiệp. Vì vậy, trên thực tế, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp vẫn còn rất cao (hơn 70% so với tổng nguồn lao động xã hội), trong những năm qua chẳng những không hề giảm đi mà lại còn có xu hƣớng tăng lên. Trong khi đó, công nghiệp và dịch vụ năm cao nhất chỉ thu hút đƣợc từ 8,5% đến 12,4% số lao động tăng thêm, thậm chí có năm công nghiệp chỉ nhận thêm 0,3% tổng số lao động tăng thêm của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì thế mà tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ trong tổng nguồn lao động xã hội hầu nhƣ không thay đổi thậm chí có lúc giảm xuống. Mặt khác, sự phân công nội bộ ngành nông nghiệp: chăn nuôi phát triển, nâng tỷ trọng chăn nuôi trong tổng sản phẩm nông nghiệp chiếm độ 30%, còn lại là 70% trồng trọt. Chăn nuôi phát triển thoát khỏi tính tự cung, tự cấp mà chuyển sang sản xuất hàng hoá tạo ra nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và thực phẩm xuất khẩu. Trong lĩnh vực trồng trọt cũng có sự phân bố lại cho phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của thị trƣờng thế giới đƣợc thực hiện thông qua việc quy hoạch các vùng trồng cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu lớn nhƣ: Chè, cà phê, cao su, tiêu...Sự thay đổi đó, đòi hỏi phải có lực lƣợng lao động có trình độ kỹ thuật, chuyên môn sử dụng đƣợc tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ, sử dụng đƣợc công cụ lao động cơ giới trong nông nghiệp, có kiến thức mới về công nghệ sinh học, biết cách chọn giống và chăm sóc giống mới. Có thể nói, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đồi hỏi cơ cấu lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp đã và đang đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn về chất. Chính 17
  19. sự chuyển dịch cơ cấu lao động đã bƣớc đầu hình thành một đội ngũ công nhân nông nghiệp có trình độ khoa học - kỹ thuật. Thế nhƣng do lao động nông thôn tăng nhanh, tỷ lệ nghịch với quỹ đất dai ngày càng thu hẹp, đã gây trở ngại cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động. Hiện nay, cả nƣớc có 29 triệu lao động ở nông thôn, mỗi năm tăng thêm trên một triệu lao động. Trong khi đó đất nông nghiệp chỉ có 8,1 triệu ha, bình quân một lao động chỉ có 0,27 ha. Nhƣ vậy, còn khoảng 9 - 10 triệu lao động ở nông thôn không có việc làm. Ngoài ra số lao động nông nhàn cũng rất đáng kể chỉ sử dụng 30% thời gian làm việc, còn lại 70% thiếu việc làm. Việc hình thành các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất cũng đã thu hút một số lao động có trình độ phổ thông dịch chuyển từ nông thôn vào các khu công nghiệp: may mặc, dệt, da, lắp ráp, điện tử... vào các hoạt động dịch vụ mua bán, ăn uống, giải khát... trong khu vực kinh tế Nhà nƣớc từ 12.300 doanh nghiệp, qua sắp xếp chỉ còn 6.000 doanh nghiệp. Việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nƣớc tuy đã góp phần thay đổi một bƣớc cơ cấu và chất lƣợng lao động, nhƣng số lao động dôi dƣ sau sắp xếp hiện nay đang là một thách thức lớn. Cho đến nay sự phân bố lực lƣợng lao động có trình độ chƣa hợp lý đã dẫn đến tình trạng vừa thừa vừa thiếu lao động có tay nghề cao. Phần lớn cán bộ có trình độ chuyên môn cao đều tập trung ở đô thị, chủ yếu là ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, vì ở những nơi này có nhiều Viện nghiên cứu, nhiều xí nghiệp liên doanh với nƣớc ngoài. Nhiều vùng nông thôn mặc dù còn thiếu nhiều lao động có trình độ chuyên môn, song sức thu hút đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn đang còn hạn chế. Có thể nói cho đến nay, cơ cấu lao động đang còn mất cân đối giữa các ngành, các khu vực( giữa sản xuất và phi sản xuất), giữa các vùng (đô thị và nông thôn), giữa các thành phần kinh tế (nhà nƣớc, tập thể và tƣ nhân..) đã gây ra sự hạn chế cho quá trình phát triển 18
  20. kinh tế-xã hội và tạo ra sự chênh lệch về phân bố lao động giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế trong quá trình CNH, HĐH. 1.1.2.3. Do yêu cầu của sự hình thành và phát triển thị trường sức lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thị trƣờng sức lao động là thị trƣờng mà ở đó cung cầu về sức lao động biểu hiện thông qua hợp đồng lao động đƣợc ký kết giữa ngƣời cung ứng sức lao động và ngƣời sử dụng sức lao động. Thị trƣờng sức lao động phản ảnh các quan hệ kinh tế hình thành thông qua cung cầu sức lao động. Mặc dù, tiền công do giá trị sức lao động chi phối, tuy nhiên trên thị trƣờng sức lao động sự thay đổi mức cung cầu sức lao động cũng ảnh hƣởng tới tiền công và ngƣợc lại sự thay đổi mức tiền công cũng ảnh hƣởng tới cung, cầu về sức lao động. Đối tƣợng tham gia thị trƣờng sức lao động bao gồm những ngƣời sử dụng sức lao động của ngƣời khác và những ngƣời có khả năng cung ứng sức lao động để đƣợc nhận một khoản tiền công nhất định. Thị trƣờng sức lao động là nơi gắn kết giữa cung sức lao động với cầu sức lao động gắn với các thông số nhƣ số lƣợng, chất lƣợng và cơ cấu lao động để ngƣời lao động có nhiều cơ hội tìm việc làm. Trong mối quan hệ gắn kết giữa cung sức lao động với cầu sức lao động và giải quyết việc làm phải dựa trên cơ sở và xoay quanh các trục trung tâm là “cầu sức lao động” trên thị trƣờng sức lao động. Mọi sự thay đổi của cầu sức lao động về số lƣợng, chất lƣợng và cơ cấu lao động giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế trên thị trƣờng sức lao động phải đƣợc nhận biết, phân tích xem xét và điều chỉnh trong cung sức lao động. Đây là sự thay đổi căn bản nhất trong cung sức lao động của nền kinh tế hiện đại so với nền kinh tế truyền thống. Thông qua thị trƣờng sức lao động sẽ giúp cho ngƣời lao động nắm bắt đƣợc những 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2