Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá
lượt xem 5
download
Vận dụng nghị quyết TW5 của Đảng ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, luận văn đi tìm hiểu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá. Từ đó đưa ra một số định hướng và giải pháp cơ bản để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN THỤ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở TỈNH THANH HOÁ LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2004
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN THỤ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở TỈNH THANH HOÁ Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 5.02.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN ANH TÀI HÀ NỘI - 2004
- QUY ƯỚC VIẾT TẮT CNTB: chủ nghĩa tư bản CNXH: chủ nghĩa xã hội CNH, HĐH: công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN: xã hội chủ nghĩa NXB: nhà xuất bản TW: Trung ương THCS: trung học cơ sở
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đề ra mục tiêu: phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp. Vì vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng là nhiệm vụ trọng yếu trong giai đoạn hiện nay. Kinh tế nông nghiệp, nông thôn là trọng yếu chiến lược của nền kinh tế nước ta bởi hiện nay hơn 70% nguồn lực lao động, hơn 80% dân số đang sinh sống, khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên ở lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Cũng chính nơi đây là điều kiện để phát triển, là nội lực to lớn của nước ta để chúng ta phát huy lợi thế so sánh của mình với các nước trong khu vực và trên thế giới... Những thành tựu trong những năm đổi mới vừa qua đã tạo đà phát triển to lớn cho kinh tế nước ta trong đó có sự đóng góp không nhỏ của kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Thanh Hoá là một tỉnh nằm ở phía Bắc miền Trung, có nhiều ưu thế về nguồn tài nguyên đất đai, nguồn nước, nguồn lao động có lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Thực tế trong những năm gần đây nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá đã có những bước tiến quan trọng đang theo hướng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Nhưng ở Thanh Hoá hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần phải được làm rõ. Xuất phát từ những yêu cầu đó đặt ra, bản thân đã lựa chọn vấn đề: "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá" làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế, chuyên nghành kinh tế chính trị. 1
- 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là vấn đề quan trọng, đặc biệt là đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển và đặc trưng là nông nghiệp muốn tiến lên văn minh hiện đại, cho nên đã có nhiều công trình khoa họch nghiên cứu về công nghiệp hoá, hiện đại hoá dưới nhiều góc độ khác nhau như: - Nông nghiệp Việt Nam từ cội nguồn đến đổi mới của Huy Đáp - Nguyễn Điền, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993. - Thực trạng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam của Lê Mạnh Hùng - Nguyễn Sinh Cúc - Hoàng Vĩnh Lê, NXB Thống kê, Hà Nội. 1998. - Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn các nước Châu Á - Việt Nam của Nguyễn Điền, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997. - Nông nghiệp và nông thôn Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đặng Thọ Xương và cộng sự, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Những tác phẩm nói trên đều khẳng định vai trò to lớn của nông nghiệp, nông thôn trong nền kinh tế quốc dân và sự cần thiết khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tuy vậy, mỗi tác giả có cách tiếp cận và luận giải về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn có sự khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và hệ thống hoá về lý luận và thực tiễn vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp , nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá thì chưa có công trình nào đề cập đến một cách có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn + Mục đích: Vận dụng nghị quyết TW5 của Đảng ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, luận văn đi tìm hiểu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại 2
- hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá. Từ đó đưa ra một số định hướng và giải pháp cơ bản để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá. + Nhiệm vụ của luận văn: - Hệ thống hoá quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt nam về công nghiệp hoá, hiện đại hoá và kinh nghiệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của một số nước Châu Á. - Vận dụng cơ sở lý luận để nghiên cứu thực tiễn công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá. - Tìm ra nguyên nhân dẫn đến thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá. Từ đó đưa ra giải pháp thích hợp để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Thanh Hoá. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Luận văn nghiên cứu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá từ năm 1996 đến nay. 5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra luận văn một số phương pháp cụ thể như điều tra khảo sát, phương pháp so sánh - đối chiếu, phương pháp quy nạp ... Nguồn tài liệu chính: - Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin. - Tác phẩm, bài báo của các nhà khoa học. 3
- - Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam. - Nghị quyết Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá. - Niên giám thống kê tỉnh Thanh Hoá. - Báo cáo của Sở Công nghiệp, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Hoá... 6. Đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn. Luận văn dự kiến có những dự kiến đóng góp sau: - Làm rõ thêm tính tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá nói riêng. - Thông qua việc tìm hiểu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá đưa ra những đánh giá có căn cứ lý luận phù hợp với thực tiễn ở Thanh Hoá. - Đưa ra một số đề xuất có tính chất khuyến nghị và những giải pháp cơ bản nhằm thúc đấy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá trong thời gian tới. Kết quả của luận văn có ý nghĩa. - Đóng góp thêm luận chứng khoa học cho việc hoàn thiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Thanh Hoá. - Có tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên quan ở các trường trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. 7. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 7 tiết. Chương 1: Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Chương 2: Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá. 4
- Chương 3: Phương hướng và những giải pháp cơ bản để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá. 5
- Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quy luật tất yếu của mỗi quốc gia đi lên văn minh hiện đại. Là quy luật phổ biến cho mọi quốc gia muốn phát triển trong giai đoạn hiện nay. Nhưng xuất phát từ đặc điểm kinh tế, chế độ xã hội của mỗi quốc gia có sự khác nhau, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trong mỗi giai đoạn lịch sử cũng có những đặc trưng, đặc điểm khác nhau, do đó ở mỗi thời kỳ thì mục tiêu con đường công nghiệp hoá có sự khác nhau và trọng tâm của công nghiệp hoá cũng được xác định khác nhau. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng khẳng định: "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm, xuyên suốt trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam"; nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Xuất phát từ đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã và đang diễn ra trên thế giới, đặc biệt là từ tình hình thực tiễn của đất nước Đảng ta đã xác định Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là nhiệm vụ trọng tâm. 1.1. Những vấn đề lý luận chung về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn 1.1.1. Những khái niệm cơ bản Trong lịch sử đã diễn ra các loại công nghiệp hoá khác nhau như: công nghiệp hoá Tư bản chủ nghĩa và công nghiệp hoá Xã hội chủ nghĩa; các loại công nghiệp hoá này nếu xét về mặt lực lượng sản xuất thì chúng giống nhau song nếu xét về mục đích và phương thức tiến hành thì chúng lại khác nhau. 6
- Công nghiệp hoá diễn ra ở mỗi nước khác nhau vào những thời điểm lịch sử khác nhau trong những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau dẫn đến nội dung khái niệm công nghiệp hoá cũng có sự khác nhau. Công nghiệp hoá ở Liên Xô trước đây diễn ra trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, Liên Xô tiến hành công nghiệp hoá trong vòng vây của CNTB, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản có nền công nghiệp hùng mạnh và luôn luôn mưu toan tiêu diệt CNXH bằng quân sự. Theo các tài liệu của Liên Xô, họ cho rằng: công nghiệp hoá là một quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí mà trong đó phát triển ngành công nghiệp nặng là trung tâm với mục đích là chế tạo ra nhiều máy móc. Quan niệm này của Liên Xô có thể coi là hợp lý trong điều kiện lúc đó để đuổi kịp các nước công nghiệp hoá trước Liên Xô và đáp ứng yêu cầu phát triển quốc phòng để bảo vệ và phòng thủ đất nước trong thế bao vây và âm mưu tiêu diệt bằng quân sự của chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu mang nó áp dụng cho giai đoạn hiện nay và cho mọi quốc gia sẽ không phù hợp. Nước Anh là nước đầu tiên công nghiệp hoá vào năm 1770 và kết thúc vào năm 1857, nội dung chủ yếu là cơ giới hoá các quá trình sản xuất mà khởi đầu là sự xuất hiện "chiếc thoi bay" trong ngành công nghiệp dệt. Tiến trình cách mạng công nghiệp và công nghiệp hoá ở nước Anh đi theo tiến trình: công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng, giao thông vận tải, nông nghiệp, dịch vụ và lưu thông. Những nước công nghiệp mới (NIEs) Châu Á như: Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapo... xuất thân từ một nền nông nghiệp. Trong cơ cấu chung của nền kinh tế, nông nghiệp thường chiếm tới 75% lao động và trên 30% GDP. Nhìn một cách tổng quát, quá trình công nghiệp hoá ở các nước NIEs đi qua hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là tạo tiền đề cho công nghiệp hoá, ở giai đoạn này các nước NIEs tạo ra khâu đột phá trong nông nghiệp, trong xây dựng kết cấu hạ tầng và sản xuất các sản phẩm hướng về xuất khẩu,... Giai 7
- đoạn thứ hai là giai đoạn công nghiệp hoá, giai đoạn này được thực hiện tăng tốc các yếu tố về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong tổng GDP, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, phát triển công nghệ hiện đại, đảm bảo cho nền giáo dục- đào tạo phát triển bền vững, gắn liền công nghiệp hoá với hiện đại hoá. Chỉ trong vòng 30 năm các nước NIEs đã trở thành những nước phát triển, họ đã lợi dụng những cơ hội tốt để “đi tắt”, “nhảy cóc” thông qua tiếp nhận công nghệ, tiến thẳng vào công nghệ hiện đại. Trong quá trình công nghiệp hoá các nước NIEs đã có bước đi thích hợp: lúc đầu là nhập công nghệ; thích nghi và cải tiến chúng dựa trên sự vận dụng của khoa học - công nghệ của thế giới để phát triển khoa học - công nghệ trong nước; tiếp theo là xây dựng một nền khoa học- công nghệ nội sinh... Ở nước ta trong những năm gần đây khi bàn về công nghiệp hoá tất cả các quan điểm đều thống nhất rằng: công nghiệp hoá của các nước đã diễn ra có sự khác nhau về cách thức nhưng đều có một điểm chung đó là công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp. Tại Nghị quyết lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII Đảng ta đã đưa ra quan niệm về CNH, HĐH của nước ta như sau: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ của khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao. Quan niệm trên đây cho thấy quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta phải là sự kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp hoá với hiện đại hoá và quá trình công nghiệp hoá không chỉ đơn thuần là nhằm phát 8
- triển công nghiệp mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta không chỉ tuần tự trải qua các bước về cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đã trải qua, mà còn sử dụng công nghệ truyền thống kết hợp với công nghệ hiện đại và tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang tính quyết định. * Nông nghiệp, nông thôn Nông nghiệp: Hiểu theo nghĩa hẹp là ngành sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, mà ở đó con người phải dựa vào các quy luật tự nhiên, quy luật sinh trưởng của cây trồng vật nuôi để nhằm tạo ra nhiều sản phẩm như lương thực, thực phẩm, nguyên liệu để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của con người. Theo nghĩa rộng nông nghiệp là tổ hợp các ngành kinh tế bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp. Chúng được hình thành trên cơ sở phát triển của phân công lao động xã hội và trình độ quy mô của sản xuất. Nó làm cho nông, lâm, ngư nghiệp phát triển thành những ngành kinh tế cụ thể và độc lập tương đối với nhau. Song quá trình phát triển chúng lại có mối quan hệ biện chứng với nhau, sự tồn tại và phát triển của ngành này là điều kiện tồn tại và phát triển của ngành kia. Do sự kết hợp biện chứng với nhau nó hình thành nên cơ sở trong nông nghiệp. Nông thôn: Là một khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm một tỉ trọng lớn. Nông thôn có thể được xem xét dưới nhiều góc độ: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... kinh tế nông thôn là khu vực của nền kinh tế gắn liền với địa bàn nông thôn. Kinh tế nông thôn vừa mang đặc trưng chung của nền kinh tế về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất về cơ chế kinh tế... nhưng đồng thời nó có những đặc điểm riêng bởi nó gắn liền với nông nghiệp, nông thôn [3, tr.351]. 9
- Nếu xét về mặt kinh tế kỹ thuật kinh tế nông thôn bao gồm nhiều ngành kinh tế như: nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ... Trong đó nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu. Xét về mặt kinh tế xã hội, kinh tế nông thôn cũng bao gồm nhiều thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể kinh tế cá thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Xét về không gian, kinh tế nông thôn cũng bao gồm cơ sở vùng như: vùng chuyên canh lúa, vùng chuyên canh hoa màu và vùng chuyên canh cây ăn quả [3, tr.351]. Theo quan điểm nêu trên chúng ta thấy rằng nông thôn được quy định bởi một số tiêu chuẩn sau đây: số lượng dân cư tập trung và mật độ dân số tình trạng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tương quan về phân công lao động xã hội trong phát triển kinh tế công, nông nghiệp, đặc thủ về văn hoá nếp sống... với những tiêu trí này chúng ta thấy rằng nó là một khái niệm động nó có thể thay đổi trong từng giai đoạn, từng thời kỳ trong chặng đường phát triển đất nước. * Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng dần, bố trí lại ngành nghề nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân. Quá trình này chỉ thực hiện được khi chúng ta đưa cơ giới hoá, sinh học hoá, hoá học hoá, điện khí hoá vào trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Từ những năm 90 của thế kỷ XX có nhiều công trình, nhiều đề tài nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn gắn với những vấn đề như quá trình công nghiệp hoá nói chung với việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thì khái niệm CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn được hiểu theo nhiều nội dung sau đây: 10
- Thứ nhất: Công nghiệp nông thôn là những ngành công nghiệp được phát triển ở nông thôn. Nó bao gồm những hoạt động phi nông nghiệp trong nông thôn. Thứ hai: Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công nghiệp cả nước được bố trí trên địa bàn nông thôn. Nó gắn chặt chẽ với nông nghiệp và sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Thứ ba: Công nghiệp nông thôn là một khái niệm đơn ngành dùng để chỉ một bộ phận của ngành công nghiệp được tiến hành ở nông thôn. Công nghiệp nông thôn là các hoạt động sản xuất mang tính chất công nghiệp diễn ra ở nông thôn do kết quả phân công lao động tại chỗ. Thứ tư: Công nghiệp nông thôn là bộ phận quan trọng của công nghiệp cả nước có trình độ phát triển khác nhau, được phân bố ở nông thôn và có quan hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế, xã hội nông thôn [21]. Tất cả các khái niệm trên chúng ta thấy rằng chúng đều thống nhất với nhau ở điểm chung là: công nghiệp nông thôn là hoạt động công nghiệp ở địa bàn nông thôn. Tuy nhiên nếu xem xét một cách tổng thể trên địa bàn nông thôn, chúng ta thấy rằng khái niệm công nghiệp nông thôn cần phải đề cập cao hơn, bao quát hơn. Bởi vì công nghiệp nông thôn không chỉ đơn thuần là công nghiệp được phát triển trên địa bàn nông thôn mà nó còn nhằm mục đích để giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội trên địa bàn này như: thu nhập, xoá đói giảm nghèo chuyển đổi cơ cấu kinh tế và khai thác thế mạnh và tiềm năng ở nông thôn, đảm bảo môi trường nông thôn trong sạch và bền vững. Từ suy nghĩ đó theo chúng tôi khái niệm công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn sau đây là có ý nghĩa bao quát hơn cả: "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo định hướng sản xuất hàng hoá lớn, hiện đại; gắn nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ cho phép 11
- phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực và lợi thế của nông nghiệp nhiệt đới, mở rộng giao lưu trong nước và quốc tế, nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội trong nông nghiệp, nông thôn; xây dựng nông thôn mới giàu có, công bằng dân chủ văn minh và xã hội chủ nghĩa [4, tr.222]. Từ khái niệm trên chúng ta thấy rằng: thực chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là quá trình phát triển nông thôn theo hướng tiến bộ kinh tế - xã hội của một nước công nghiệp. Điều này có nghĩa không phải phát triển công nghiệp, nông thôn mà còn bao gồm cả việc phát triển toàn bộ các hoạt động, các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ đời sống văn hoá tinh thần ở nông thôn phù hợp với nền sản xuất công nghiệp ở nông thôn và cả nước nói chung. Vì vậy CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn không chỉ là một bộ phận mà còn là giải pháp giữ vị trí quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.1.2. Quan điểm đường lối của Đảng ta về công nghiệp hoá,hiện đại hoá Những vấn đề lý luận về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nằm trong hệ thống lý luận chung về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy phải tuân thủ và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa lý luận về ông nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng là cơ sở khoa học cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Để sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta đạt được mục tiêu đặt ra có mấy điểm chúng ta cần lưu ý sau: Thứ nhất: Xuất phát điểm của nước ta thấp, là một nước nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, cơ cấu kinh tế mất cân đối đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa, từ đặc điểm đó Đảng ta xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. 12
- Thứ hai: Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra trên thế giới và quá trình toàn cầu hoá kinh tế đang tác động đến tất cả các quốc gia, đòi hỏi để hội nhập vào nền kinh tế thế giới chúng ta phải tăng sức cạnh tranh. Muốn làm được điều này chỉ bằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thứ ba: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta không phải là công nghiệp hoá hiện đại hoá bất kỳ mà là công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng ta đã nêu lên các quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá như sau: Một là: Công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Hai là: Xây dựng nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước có khả năng sản xuất có hiệu quả. Ba là: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Bốn là: Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội. Năm là: Khoa học công nghệ là động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại tranh thủ đi vào hiện đại ở những khâu quyết định và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước đi tuần tự vừa có những bước đi nhảy vọt. Sáu là: Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển lựa chọn vụ án đầu tư vào công nghệ. Bảy là: Kết hợp kinh tế với an ninh quốc phòng. Những quan điểm trên về công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng nói lên đặc điểm chủ yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời kỳ 13
- quá độ lên CNXH. Do đó cần phải quán triệt và vận dụng tổng hợp hệ quan điểm đó của Đảng, song phải hết sức chú ý tới những tư tưởng chỉ đạo sau trong quá trình thực hiện. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá được tiến hành trong cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế mới: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mỗi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế mở đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế quốc tế. Vì vậy phải khai thác được hết thế mạnh tiềm năng của đất nước phát huy được lợi thế so sánh của các quốc gia trong sự phát triển. Đặc biệt phải đảm bảo được định hướng Xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế phải gắn liền với phát triển xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII cũng đã xác định nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta như sau: - Tập trung thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế nông nghiệp, nông thôn. - Phát triển công nghiệp, ưu tiên các ngành chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin, phát triển có chọn lọc các cơ sở công nghiệp nặng... - Xây dựng kết cấu hạ tầng. - Phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, thương mại, vận tải, tài chính, ngân hàng... Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: đẩy mạnh xuất khẩu tạo thêm mặt hàng chủ lực, nâng sức cạnh tranh trên thị trường... Trong các nội dung trên chúng ta thấy rằng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được coi là nội dung cơ bản, quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta. Bởi vì, nước ta hiện nay là một nước nông nghiệp lạc hậu với hơn 80% dân số ở nông thôn, 14
- khoảng 76% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tài nguyên thiên nhiên lại nằm hết phần lớn ở vùng nông thôn. Trong khi đó đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân nông thôn lại vẫn thấp. Đặc biệt là khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa. Do đó tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn có ý nghĩa quyết định đối với việc ổn định chính trị, kinh tế xã hội và đời sống nhân dân, từ đó mà củng cố khối liên minh công - nông vững chắc, tạo điều kiện để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.2. Tính tất yếu khách quan và nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn 1.2.1. Tính tất yếu khách quan tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn trong giai đoạn hiện nay Qua thực tiễn phát triển đất nước trong những năm đổi mới chúng ta có thể rút ra những kết luận chủ yếu về tính tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nước ta như sau: Thứ nhất: Nước ta hiện nay có hơn 81 triệu dân, trong đó hơn 80% dân số ở nông thôn và hơn 70% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên cao, trong khi đó diện tích đất bình quân đầu người thấp (khoảng 600m2/người) vẫn có xu hướng giảm xuống do quá trình đô thị hoá mở rộng và xu hướng lấy quỹ đất nông nghiệp để xây dựng kết cấu hạ tầng; trong khi đó trình độ sản xuất nông nghiệp lạc hậu, kỹ thuật mang tính thủ công, mặc dù nông dân đã có nhiều cố gắng quay vòng rất nhanh, thâm canh tăng vụ, nhưng việc làm, thu nhập, đời sống của nông dân vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Thứ hai: Lương thực, thực phẩm là nhu cầu thiết yếu hàng đầu của con người. Con người có thể thiếu nhiều loại sản phẩm nhưng không thể thiếu được lương thực phẩm. Do đó việc thoả mãn các nhu cầu về lương thực phẩm 15
- trở thành điều kiện quan trọng để ổn định xã hội. Vì vậy phát triển nông nghiệp có ý nghĩa quyết định đối với việc thoả mãn nhu cầu này. Đúng như Mác đã nói con người trước khi lo làm chính trị, nghệ thuật v.v... thì trước hết họ phải được ăn, mặc ở và đi lại. Thứ ba: Kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở nước ta đang ở tình trạng kém phát triển, năng suất lao động thấp, kết cấu hạ tầng thấp, trình độ khoa học công nghệ lạc hậu làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh rất thấp sức cạnh tranh của hàng nông sản trên thị trường thấp; cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn nặng tính thuần nông dẫn đến đời sống nhân dân ở khu vực nông thôn còn khó khăn. Thứ tư: Nông nghiệp, nông thôn là nơi cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp chế biến. Các ngành công nghiệp chế biến như: chế biến lương thực, thực phẩm, chế biến hoa quả, công nghiệp dệt, giấy, đường... phải dựa vào nguyên liệu chủ yếu từ nông nghiệp. Vì vậy quy mô và tốc độ phát triển của công nghiệp chế biến phụ thuộc vào quy mô và tốc độ phát triển của nông nghiệp. Tuy nhiên, do công nghiệp chế biến của nước ta chưa phát triển, cho nên nhiều nông sản nguyên liệu phải suất thô ra nước ngoài như: chè, cà phê, hồ tiêu, cao su, thuỷ hải sản... trong tương lai cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xu hướng xuất khẩu nguyên liệu phải được thay thế bằng xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến. Khi đó vai trò của nông nghiệp trong việc cung cấp cho công nghiệp chế biến sẽ được nâng cao. Thực chất mối quan hệ giữa công nghiệp chế biến và nông nghiệp là mối quan hệ biện chứng với nhau. Thứ năm: Công nghiệp hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong suốt cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, đất nước phải giải quyết nhiều vấn đề và cần phải có một lượng vốn lớn, trong khi đó kinh tế nông nghiệp, nông thôn đang 16
- là nội lực lớn của nền kinh tế đang khai thác sử dụng nguồn tài nguyên to lớn của đất nước và tài nguyên đất đai và các nguồn tài nguyên khác, có vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hiện nay nông nghiệp đã đóng góp gần 30% trong tổng GDP của toàn xã hội và hơn 45% giá trị xuất khẩu của cả nước và là nơi cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phát triển. Chính vì vậy nông nghiệp, nông thôn phải là đối tượng chính của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thứ sáu: Nông nghiệp, nông thôn là thị trường quan trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Ở những nước lạc hậu như nước ta, nông nghiệp, nông thôn tập trung phần lớn lao động và dân cư, do đó đây là thị trường rất rộng lớn và quan trọng của công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp, nông thôn càng phát triển thì nhu cầu về hàng hoá tư liệu sản xuất như: máy móc thiết bị nông nghiệp, điện năng, phân bón, thuốc trừ sâu... càng tăng, đồng thời các nhu cầu dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp như: vốn, thông tin, giao thông vận tải, thương mại... cũng ngày càng tăng lên. Mặt khác, sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn làm cho mức sống, thu nhập của dân cư nông thôn tăng lên và nhu cầu của người nông dân về các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ y tế, giáo dục, du lịch và thể thao cũng ngày tăng lên đáp ứng nhu cầu của người dân. Nhu cầu về các loại sản phẩm của thị trường nông nghiệp, nông thôn là rất lớn, góp phần vào việc mở rộng thị trường của ngành công nghiệp và dịch vụ, điều này rất có ý nghĩa khi thị trường ngoài nước của chúng ta còn hạn hẹp. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển ngành công nghiệp và dịch vụ trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Thứ bảy: Phát triển nông nghiệp, nông thôn là cơ sở ổn định kinh tế, chính trị, xã hội ở nông thôn. Nông thôn là khu vực kinh tế rộng lớn, tập trung phần lớn dân cư của đất nước. Phát triển kinh tế nông thôn, một mặt đảm bảo an ninh lương thực 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 8 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 23 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 10 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 3 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 9 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn