BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
----------------
ĐÀO VŨ THIÊN LONG
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TÌNH TRẠNG TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
----------------
ĐÀO VŨ THIÊN LONG
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TÌNH TRẠNG TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Chuyên ngành
: Tài chính – Ngân hàng
Mã số
: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Trần Thị Hải Lý
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi có sự hỗ trợ từ giáo viên
hướng dẫn là TS. Trần Thị Hải Lý. Mọi số liệu phục vụ cho bài nghiên cứu này được
thu thập từ nhiều nguồn khác nhau và được ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Mọi
kết quả trong bài nghiên cứu này là trung thực và chưa từng được công bố trước đây.
Nếu có bất kỳ sai phạm nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng bảo vệ.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2013.
Tác giả
Đào Vũ Thiên Long
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU SỬ DỤNG TRONG BÀI
TÓM LƯỢC ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU .......................................................................................... 2
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ................................................................................................5
2.1 CỞ SỞ LÝ THUYẾT ....................................................................................................... 5
2.1.1 Định nghĩa hạn chế tài chính của Steve N. Kaplan and Luigi Zingales ............ 5
2.1.2 Lý thuyết dòng tiền của đầu tư.......................................................................... 5
2.1.3 Lý thuyết về chi phí sử dụng vốn ..................................................................... 6
2.1.4 Lý thuyết đầu tư của Tobin .............................................................................. 6
2.1.5 Lý thuyết trật tự phân hạng của các lựa chọn tài trợ ...................................... 10
2.2 TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ............................. 14
CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........... 33
3.1 DỮ LIỆU ......................................................................................................................... 33
3.2 PHƯƠNG PHÁP PHÂN LOẠI CÁC DOANH NGHIỆP HẠN CHẾ TÀI
CHÍNH ................................................................................................................... 34
3.3 ƯỚC TÍNH HỒI QUY ........................................................................................... 43
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................... 45
4.1 KẾT QUẢ HỒI QUY CHO TOÀN BỘ MẪU QUAN SÁT .................................... 45
4.2 KẾT QUẢ HỒI QUY CHO NHÓM CÁC CÔNG TY KHÔNG CHI TRẢ
CỔ TỨC (PAY0) .................................................................................................... 51
4.3 KẾT QUẢ HỒI QUY CHO NHÓM CÁC CÔNG TY TRẢ CỔ TỨC TỪ 0%
ĐẾN DƯỚI 30% (PAY30) ..................................................................................... 54
4.4 KẾT QUẢ HỒI QUY CHO NHÓM CÁC CÔNG TY CHI TRẢ CỔ TỨC
TRÊN 30% (PAY>30) ............................................................................................ 57
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ....................................................................................... 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HOSE
:Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
: Công ty Dịch vụ tài chính Standard & Poor.
S&P
: Net present value
NPV
NYSE
: New York Stock Exchange
AMEX
: American Stock Exchange
OTC
: Over the counter Compustat
GMM
: Generalized Method of Moments
: Chỉ số hạn chế tài chính
ZFC
: Phương pháp bình phương nhỏ nhất
OLS
: Các công ty không hạn chế tài chính
NFC
: Các công ty hạn chế tài chính một phần
PFC
: Các công ty hạn chế tài chính
FC
PAY0
: Các công ty không chi trả cổ tức
PAY30
: Các công ty chi trả cố tức với tỷ dưới 30%
PAY>30
: Các công ty chi trả cổ tức với tỷ lệ trên 30%
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU SỬ DỤNG TRONG BÀI
Bảng 3.1 : Thống kê tóm tắt mẫu nghiên cứu (2007 – 2012) ........................................... 37
Bảng 3.2 : Tương quan giữa các biến ............................................................................... 41
Bảng 3.3 : Hệ số tài chính trung bình của các nhóm công ty bị hạn chế tài chính
giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012 ............................................................ 42
Bảng 4.1 : Kết quả hồi quy cho toàn bộ mẫu quan sát ...................................................... 45
Bảng 4.2 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty hạn chế tài chính (FC) ...................... 46
Bảng 4.3 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty hạn chế tài chính một phần (PFC) .... 47
Bảng 4.4 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty không hạn chế tài chính (NFC) ........ 48
Bảng 4.5 : Tổng hợp kết quả hồi quy và so sánh p-values thực nghiệm .......................... 49
Bảng 4.6 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty không chi trả cổ tức và bị hạn
chế tài chính (PAY0_FC) ............................................................................... 51
Bảng 4.7 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty không chi trả cổ tức và bị hạn
chế tài chính một phần (PAY0_PFC) ............................................................. 52
Bảng 4.8 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty không chi trả cổ tức và không bị
hạn chế tài chính (PAY0_NFC) ..................................................................... 53
Bảng 4.9 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty chi trả cổ tức từ trên 0% đến
dưới 30% và bị hạn chế tài chính (PAY30_FC) .............................................54
Bảng 4.10: Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty chi trả cổ tức từ trên 0% đến
dưới 30% và bị hạn chế tài chính một phần (PAY30_PFC) .......................... 55
Bảng 4.11: Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty chi trả cổ tức từ trên 0% đến
dưới 30% và không bị hạn chế tài chính (PAY30_NFC) .............................. 56
Bảng 4.12: Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty chi trả cổ tức trên 30% và bị hạn
chế tài chính (PAY>30_FC) ........................................................................... 57
Bảng 4.13: Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty chi trả cổ tức trên 30% và bị hạn
chế tài chính một phần (PAY>30_PFC) ........................................................ 58
Bảng 4.14: Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty chi trả cổ tức trên 30% và không
bị hạn chế tài chính (PAY>30_NFC) ............................................................. 59
1
TÓM LƯỢC
Trong nghiên cứu này, các kỹ thuật thu thập dữ liệu mẫu và phương pháp nghiên
cứu được thực hiện dựa trên cách thực hiện của Sean Cleary (1999) về đầu tư và
tình trạng tài chính được đăng tải trên Journal of Finance, là người phát hiện ra
rằng các quyết định đầu tư của các công ty rất nhạy cảm với tính thanh khoản
của công ty và người viết cũng sử dụng lý thuyết Q trong đầu tư, sử dụng dữ liệu
bảng về các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Thành
phố Hồ Chí Minh (HOSE), người viết so sánh tính nhạy cảm thanh khoản - đầu
tư giữa các nhóm công ty có sức khỏe tài chính khác nhau như là : nhóm các
công ty hạn chế tài chính, nhóm các công ty hạn chế tài chính một phần và nhóm
các công ty không hạn chế tài chính. Người viết phát hiện ra rằng quyết định
đầu tư của tất cả các công ty đều rất nhạy cảm với tính thanh khoản và có sự
khác nhau đáng kể về các quyết định đầu tư giữa nhóm các công ty bị hạn chế tài
chính và nhóm các công ty không hạn chế tài chính.
Từ khóa : Đầu tư, hạn chế tài chính.
2
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
Tình trạng tài chính của một công ty không liên quan đến các quyết định đầu tư
nếu xét trong thị trường vốn hoàn hảo, như được trình bày bởi Modigliani and
Miller (1958). Tuy nhiên, tình trạng tài chính sẽ liên quan tới các quyết định đầu
tư của các công ty đang phải đối mặt với triển vọng tương lai không chắc chắn,
hoạt động trong thị trường vốn không hoàn hảo, mà trong thị trường này chi phí
sử dụng nguồn vốn bên ngoài cao hơn nguồn quỹ nội bộ. Ví dụ, Greenwald,
Stiglitz, and Weiss (1984), Myers and Majluf (1984), and Myers (1984) đưa ra
một phát hiện cho vấn đề thông tin bất cân xứng trong thị trường vốn. Mặt khác,
Bernanke and Gertler (1989,1990) and Gertler (1992) chứng minh rằng chi phí
đại diện cũng có thể tạo ra một phần bù làm tăng chi phí sử dụng nguồn tài trợ
bên ngoài. Quyết định đầu tư của Công ty hoạt động trong môi trường này thì
nhạy cảm với nguồn quỹ sẵn có nội bộ, bởi vì nó có chi phí thấp hơn so với việc
huy động vốn từ bên ngoài.
Fazzari, Hubbard, and Petersen (1988) và một số nghiên cứu thực nghiệm sau đó
cung cấp bằng chứng mạnh mẽ bổ sung cho sự tồn tại của trật tự tài trợ này, mà
thường thấy nhất là đối với các công ty bị xem là đang phải đối mặt với mức độ
hạn chế tài chính cao. Các nghiên cứu này phân loại các công ty theo đặc điểm
của chúng (như là chi trả cổ tức, quy mô, độ tuổi, nhóm thành viên và tỷ lệ nợ),
được xây dựng để đo lường mức độ hạn chế tài chính công ty đang đối mặt. Kết
quả cho thấy quyết định đầu tư của công ty bị hạn chế tài chính nhiều hơn thì
nhạy cảm hơn với tính thanh khoản so với các công ty ít bị hạn chế tài chính
hơn.
Các tranh luận về vấn đề này đã được châm ngòi bởi nghiên cứu của Kaplan and
Zingales (1997), do không thừa nhận phần lớn các kết luận được tóm tắt ở trên.
Kaplan and Zingales phân loại các công ty theo mức độ hạn chế tài chính, dựa
trên số lượng và chất lượng thông tin trên báo cáo thường niên của các công ty.
3
Trái ngược với các bằng chứng trước đây, họ phát hiện ra rằng quyết định đầu tư
của các công ty hạn chế tài chính thấp nhất thì nhạy cảm nhất với dòng tiền sẵn
có.
Sean Cleary (1999) dựa vào cách tiếp cận của Kaplan and Zingales (1997), căn
cứ vào đặc điểm của các Công ty và các thông tin đã công bố để thực hiện
nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy các Công ty càng hạn chế
tài chính thì càng nhạy cảm với dòng tiền sẵn có.
Việt Nam là một nước có đang phát triển và ngày càng hội nhập với thế giới,
việc nghiên cứu mối quan hệ giữa đầu tư và tình trạng tài chính đối với các nước
đang phát triển, mà cụ thể là Việt Nam thì mối quan hệ này sẽ như thế nào, mức
độ nhạy cảm ra sao, có đạt được kết quả tương tự như một nước đã phát triển hay
không? Vì vậy, bài nghiên cứu này thực hiện dựa trên dữ liệu thu thập được từ
các Công ty đặt trụ sở hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, với mục tiêu chính là là
xem xét mối quan hệ giữa đầu tư và tình trạng tài chính và so sánh tính nhạy cảm
đầu tư – thanh khoản giữa các nhóm công ty khác nhau như thế nào.
Trong nghiên cứu này, dựa theo cách tiếp cận của Sean Cleary (1999), người viết
phân loại các công ty theo biến tài chính có liên quan trực tiếp đến hạn chế tài
chính của công ty. Tình trạng tài chính của công ty được xác định bằng cách sử
dụng phương pháp phân tích đa biệt thức, tương tự như hệ số Z của Altman dùng
để dự đoán sự phá sản. Phương pháp phân loại đa biến này đã đạt được hiệu quả
mong muốn thông qua đặc tính chéo của các công ty. Nó cũng cho phép phân
loại lại tình trạng tài chính của các công ty trong mỗi giai đoạn, và các nhóm
hình thành có thể thay đổi qua thời gian, phản ánh mức độ thay đổi hạn chế tài
chính theo mức độ của công ty. Điều này khác với các nghiên cứu trước là không
cho các nhóm thay đổi và chấp nhận hoàn toàn các trở ngại tài chính mà công ty
đối mặt không thay đổi qua thời gian.
4
Người viết sử dụng phương pháp Boostrap để xác định mức ý nghĩa trong sự
khác nhau giữa các hệ số ước tính. Nghiên cứu này thể hiện một sự cải tiến so
với các nghiên cứu trước đây, khi mà các kết luận trước đây dựa vào chủ yếu là
các khác biệt về độ lớn và mức độ đáng kể các hệ số của biến thanh khoản.
Nghiên cứu của người viết cũng có sự cải thiện hơn so với nghiên cứu của Sean
Cleary (1999), người viết tiến hành hồi quy dữ liệu bảng để giảm bớt vấn đề bỏ
sót biến không quan sát được gắn liền với đặc điểm của từng công ty.
Quyết định đầu tư của công ty được phát hiện là rất nhạy cảm với khả năng
thanh khoản, điều này phù hợp với các nghiên cứu trước đây. Tương tự như kết
quả Kaplan and Zingales (1997) và Sean Cleary (1999), các công ty có tính
thanh khoản cao hơn thể hiện tính nhạy cảm đầu tư – thanh khoản cao hơn so với
các công ty có tính thanh khoản thấp. Điều này cung cấp bằng chứng mạnh mẽ
cho các kết luận của Kaplan and Zingales (1997) và Sean Cleary (1999) bằng
việc sử dụng sơ đồ phân loại mục tiêu và một mẫu quan sát gồm 81 công ty phi
tài chính niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
Phần còn lại của bài viết này được sắp xếp như sau:
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan về các nghiên cứu trước
Chương 3: Dự liệu và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết luận.
5
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN VỀ
CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
Phần này trình bày các lý thuyết kinh tế liên quan đến đầu tư và các nghiên cứu
trước đây, liên quan đến mối quan hệ giữa đầu tư và tình trạng tài chính.
2.1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1.1 Định nghĩa hạn chế tài chính của Steve N. Kaplan and Luigi Zingales
(1997):
Định nghĩa rõ ràng nhất và chính xác nhất để phân loại các công ty bị hạn chế tài
chính là nếu các công ty đó phải đối mặt với khoảng chênh lệch giữa chi phí sử
dụng vốn nội bộ và chi phí sử dụng vốn bên ngoài. Với định nghĩa này thì hầu
hết các công ty đều bị phân loại là bị hạn chế tài chính. Một chi phí giao dịch
nhỏ của nguồn vốn bên ngoài tăng lên cũng đủ để phân loại công ty đó vào nhóm
các công ty bị hạn chế tài chính. Tuy nhiên, định nghĩa đó đưa ra một khuôn khổ
hữu dụng để phân biệt các công ty theo mức độ hạn chế tài chính của chúng. Một
công ty bị coi là bị hạn chế tài chính hơn so với các công ty khác khi khoảng
chênh lệch giữa chi phí sử dụng vốn bên ngoài và chi phí sử dụng vốn nội bộ
tăng lên.
2.1.2 Lý thuyết dòng tiền của đầu tư
Theo lý thuyết của Modigliani – Miller, không tồn tại mối quan hệ giữa dòng
tiền và đầu tư trong thị trường hoàn hảo. Tuy vậy, lý thuyết này cũng tạo ra mối
quan tâm về tác động của dòng tiền đối với đầu tư khi thị trường vẫn bị coi là
chưa hoàn hảo. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng các công ty nhìn
chung thường ưu tiên sử dụng dòng tiền của công ty để tài trợ cho các hoạt động
đầu tư. Chính vì đầu tư của công ty phụ thuộc vào tính thanh khoản của chính
công ty đó, một sự sụt giảm lớn của dòng tiền sẽ dẫn đến sự cắt giảm đầu tư.
6
Một số nghiên cứu cho rằng đây chính là dấu hiệu của một công ty bị hạn chế tài
chính.
2.1.3 Lý thuyết về chi phí sử dụng vốn:
Chi phí sử dụng vốn được xem là một liên kết giữa quyết định tài trợ và quyết
định đầu tư. Chi phí sử dụng vốn trở thành một “tỷ suất rào cản” mà doanh
nghiệp phải đạt được từ một dự án đầu tư trước khi nó làm gia tăng tài sản của
cổ đông. Thuật ngữ chi phí sử dụng vốn thường được sử dụng thay thế cho tỷ
suất sinh lời đòi hỏi của doanh nghiệp, tỷ suất rào cản cho các đầu tư mới, tỷ suất
chiết khấu để đánh giá đầu tư mới và cơ hội phí của việc sử dụng vốn.
Chi phí sử dụng vốn là một khái niệm vô cùng quan trọng khi đề cập đến chiến
lược tài trợ của một doanh nghiệp. Chi phí sử dụng vốn là cầu nối quan trọng
giữa các quyết định đầu tư dài hạn của một doanh nghiệp với việc gia tăng giá trị
tài sản của các chủ sở hữu theo yêu cầu của các nhà đầu tư trên thị trường. Chi
phí sử dụng vốn có thể xem như là tỷ suất sinh lợi mà một doanh nghiệp phải tạo
ra từ những dự án đầu tư để đảm bảo duy trì giá cổ phần trên thị trường. Nó cũng
có thể được hiểu như là mức tỷ suất sinh lợi mà các nhà cung ứng vốn trên thị
trường yêu cầu doanh nghiệp phải trả nhằm đảm bảo tài trợ vốn của họ đối với
doanh nghiệp.
Chi phí sử dụng vốn được đo lường tại một thời điểm xác định. Nó phản ánh chi
phí của nguồn tài trợ trong dài hạn, dựa trên những thông tin có sẵn tốt nhất.
Quan điểm này phù hợp với việc sử dụng chi phí sử dụng vốn để đưa ra quyết
định đầu tư trong dài hạn.
2.1.4 Lý thuyết đầu tư của Tobin (Tobin’s Q theory):
Grunfeld (1960) đã đề nghị sử dụng giá trị thị trường của công ty như là đại diện
tiêu biểu cho khả năng tạo lợi nhuận kỳ vọng của công ty. Vì vậy, đầu tư phụ
thuộc vào giá trị thị trường của công ty đó. Cách tiếp cận giá trị thị trường này
của Grunfeld được xem là người đi trước mở đường cho lý thuyết Q của Tobin
7
(Tobin’s Q theory). Brainare và Tobin (1968), và Tobin (1969) đã nỗ lực giải
thích về đầu tư dựa trên một chỉ số Q, chỉ số này là tỷ số của giá trị thị trường
của vốn và chi phí thay thế nó. Ý tưởng của lý thuyết này là khi chỉ số Q lớn hơn
1, thì công ty nên tiến hành đẩy mạnh đầu tư vì lợi nhuận tạo ra sẽ vượt hơn chi
phí mua tài sản của công ty.
Mô hình lý thuyết xác định giá trị của một công ty là giá trị của của các khoản
chi ra trong tương lai.
Vt = П(Kt,St) – It – C(It,Kt,λt) + βEt[Vt+1] (1)
Trong đó :
Vt : giá trị công ty
П(Kt,St) : lợi nhuận công ty
Kt : Vốn cổ phần đầu kỳ
It : khoản đầu tư mới
Et[Vt+1] : giá trị công ty kỳ vọng năm t+1
C(It,Kt,λt) : chi phí liên quan đến khoản đầu tư
t : là các hằng số, nguồn vốn
Để đơn giản, tác giả giả định các yếu tố St và
và tiến triển theo công thức: giảm giá trị dần qua thời gian với một tỷ lệ
Kt+1 = (1-δ)Kt + It
Điều kiện đầu tiên để tối đa hóa giá trị công ty là:
1 + CI(It,Kt,λt) = βEt[VK(Kt+1,St+1,λt+1)] (2)
Trong đó: Vế bên trái là chi phí biên của đầu tư và vế bên phải là giá trị của cơ
hội đầu tư biên, giá trị hiện tại của 1 đồng vốn tăng thêm. Để chi tiết hơn cho
kiểm tra thực nghiệm, chi phí điều chỉnh được giả định là phương trình bậc 2
theo It/Kt :
C = 0.5α(It/Kt – λt)2Kt (3)
8
Dẫn đến CI = (It/Kt – λt). Thay vào (2) và vế bên phải chỉ đơn giản là Qt, tỷ lệ
đầu tư tối ưu sẽ trở thành tuyến tính với Q:
It/Kt = -(1/α) + (1/α)Qt + λt (4)
Trong hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm dùng tỷ số M/B của tài sản hay của
vốn để thay thế cho Q.
Nếu λt là đại diện cho phần ngẫu nhiên, nếu nó không tương quan với Qt và các
biến quan sát khác như lợi nhuận. Phương trình (4) được giải thích như là một
phương trình hồi quy, với hai ý nghĩa chính: (1) đầu tư chỉ phụ thuộc vào Qt, và
(2) độ dốc của Qt cần được xác định bởi tham số điều chỉnh chi phí . Những ý
nghĩa này đại diện cho quan điểm khởi đầu truyền thống về đầu tư không có liên
quan gì đến tình hình tài chính. Quan điểm đầu tiên, cho rằng đầu tư không có
mối liên quan đến dòng tiền (hoặc bất kỳ tài sản khác hoặc tính thanh khoản) sau
khi kiểm soát biến Q.
Đưa dòng tiền vào phương trình hồi quy đầu tư có thể được xem là một thử
nghiệm cơ bản của phương trình (4). Chính xác hơn, dòng tiền là quan trọng nếu
công ty đối mặt với tình hình tài chính khó khăn, nói một cách ngắn gọn là chi
phí sử dụng nguồn vốn nội bộ rẻ hơn so với nguồn vốn bên ngoài. Giả sử rằng
chi phí tài trợ là phương bậc 2 của đầu tư và lợi nhuận :
FCt = 0.5b(It/Kt – Пt/Kt)2Kt với It>Пt (5)
Với tham số b>0. Nếu đưa chi phí này vào phương trình 1, và giữ tất cả những
giả định khác, điều kiện đầu tiên để tối đa hóa giá trị công ty trở thành:
1 + α(It/Kt – λt) + b(It/Kt – Пt/Kt) = Qt (6)
−𝟏
với It>Пt thì phương trình 4 vẫn không đổi. Nếu It≤Пt
𝜶+𝒃
λt (7) + It/Kt = −𝟏 𝜶+𝒃 Qt + 𝐛 𝜶+𝒃 Пt/Kt + 𝛂 𝜶+𝒃
Như vậy, với chi phí của nguồn tài trợ bên ngoài, hệ số của Qt và hệ số của tỷ số
lợi nhuận trên vốn tăng tầm quan trọng khi đưa biến Qt vào phương trình.
9
Đo lường sai sót trong Q :
Về nguyên tắc, cơ hội đầu tư có thể giải thích các ảnh hưởng của dòng tiền nếu
M/B là một biến thay thế cho Q. Việc đo lường sai số trong M/B có thể tạo ra
các vấn đề trong việc so sánh giữa công ty bị khó khăn tài chính và không bị khó
khăn tài chính. Trong phần này, bài nghiên cứu kiểm tra xem sai số thực hiện có
giải thích được kết quả và đưa ra các ước tính sai số của độ dốc hay không.
Phương pháp :
Mục tiêu ở đây là ước tính một phiên bản thực nghiệm của phương trình (7)
INV = C0 + C1Q + C2CF + ε (8)
Nhận ra rằng M/B không phải là một biến thay thế hoàn hảo cho Q
(9) M/B = g0 + g1Q +
Phương pháp mà tác giả sử dụng là phương pháp biến công cụ tiêu chuẩn, sự đổi
mới chính là tác giả sử dụng tỷ suất sinh lời trên cổ phiếu trong quá khứ là một
biến công cụ của Q. Đơn giản hơn, một giả định quan trọng trong thử nghiệm là
dòng tiền và tỷ suất sinh lời trong quá khứ có tương quan với Q, nhưng không có
tương quan với sai số trong đo lường của M/B ( ).
Theo giả định của Erickson and Whited (2000), dòng tiền độc lập với để có
được những ước tính khác nhau trên cơ sở thời gian dữ liệu dài hơn. Giả định vể
tỷ suất sinh lời dường như hợp lý nếu nguồn chính của việc sai số trong đo lường
M/B là từ giá trị sổ sách ở mẫu số, không phải là giá trị thị trường ở tử số ( ví dụ:
nếu giá cổ phiếu cung cấp một phương thức đo lường giá trị một cách hợp lý).
Hơn nữa, thậm chí thị trường không phải là hiệu quả hoàn toàn, nó vẫn có lý
luận hợp lý rằng giá cả là thước đo chủ yếu để quyết định giá trị cơ bản. (xem
Cohen, Polk, and Vuolteenaho, 2009).
10
2.1.5 Lý thuyết trật tự phân hạng của các lựa chọn tài trợ
Thông tin bất cân xứng là gì?
Thông tin bất cân xứng là một cụm từ dùng để chỉ rằng các giám đốc biết nhiều
về các tiềm năng, rủi ro và các giá trị của công ty mình hơn là các nhà đầu tư từ
bên ngoài.
Điều này có thể nhận thấy thông qua việc thay đổi giá cổ phần xuất phát từ các
công bố của nhà quản trị. Khi một công ty công bố gia tăng cổ tức thường xuyên,
giá cổ phần thường tăng vì các nhà đầu tư nghĩ đó là một dấu hiệu về sự tin
tưởng của ban giám đốc công ty về thu nhập tương lai-> thông tin trên được
chuyển tải từ nhà quản trị đến các nhà đầu tư và chắc chắn các nhà quản trị là
người nắm rõ các thông tin này nhất (thông tin bất cân xứng).
Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến sự lựa chọn tài trợ của nhà quản
trị?
Thông tin bất cân xứng tác động đến lựa chọn giữa tài trợ nội bộ và tài trợ từ bên
ngoài, và giữa phát hành mới chứng khoán nợ và chứng khoán vốn cổ phần.
Điều này đưa tới một trật tự phân hạng, theo đó đầu tư sẽ được tài trợ trước tiên
bằng vốn nội bộ, chủ yếu là lợi nhuận tái đầu tư, rồi mới đến phát hành nợ mới
và cuối cùng bằng phát hành vốn cổ phần mới. Phát hành cổ phần mới thường là
phương án cuối cùng khi công ty đã sử dụng hết khả năng vay nợ (vay nợ nhiều
dễ dẫn đến kiệt quệ tài chính).
Nói như vậy không có nghĩa là các công ty chỉ chọn phát hành nợ mà loại bỏ
việc phát hành cổ phần thường. Bởi vì ngoài thông tin bất cân xứng còn có
những yếu tố khác tác động đến việc lựa chọn hình thức tài trợ của các công ty.
Ví dụ: - Công ty Smith đang vay nợ nhiều, nếu tiếp tục phát hành nợ công ty sẽ
lâm vào kiệt quệ tài chính, lúc này việc công bố phát hành cổ phần thường
dường như là sự lựa chọn đúng đắn của công ty, mặc dù có thể làm giảm giá cổ
phần.
11
Trong các công ty công nghệ cao tăng trưởng cao cũng có thể là các nhà phát
hành cổ phần thường đáng tin cậy. Tài sản của các công ty này hầu hết là tài sản
vô hình, và việc phá sản hay kiệt quệ tài chính đặc biệt tốn kém. Điều này đòi
hỏi phương thức tài trợ bảo thủ. Cách duy nhất để tăng trưởng nhanh mà vẫn giữ
được một tỷ lệ nợ bảo thủ là phát hành cổ phẩn thường.
Các hàm ý của trật tự phân hạng:
- Các doanh nghiệp thích tài trợ nội bộ hơn.
- Các doanh nghiệp điều chỉnh tương ứng các tỷ lệ chi trả cổ tức mục tiêu theo
Lý thuyết trật tự phân hạng của tài trợ doanh nghiệp như sau:
- Các chính sách cổ tức cứng nhắc cộng với các dao động không thể dự đoán
các cơ hội đầu tư, trong khi tránh các thay đổi đột xuất trong cổ tức.
trong khả năng sinh lợi và các cơ hội đầu tư, có nghĩa là dòng tiền phát sinh
nội bộ đôi khi lớn hơn các chi tiêu vốn và đôi khi nhỏ hơn. Nếu lớn hơn
doanh nghiệp thanh toán hết nợ vay hay đầu tư vào chứng khoán thị trường.
Nếu nhỏ hơn, doanh nghiệp rút số dư tiền mặt của mình trước hoặc bán các
- Nếu cần đến tài trợ từ bên ngoải, các doanh nghiệp phát hành chứng khoán an
chứng khoán thị trường.
toàn nhất trước. Tức là họ bắt đầu với nợ, rồi đến các chứng khoán ghép như
trái phiếu chuyển đổi được, sau đó cổ phần thường là giải pháp cuối cùng.
Trong lý thuyết này, không có hỗn hợp nợ - vốn cổ phần thường mục tiêu được
xác định rõ, bởi vì có hai loại vốn cổ phần thường, nội bộ và từ bên ngoài, một ở
đầu và một ở cuối trật tự phân hạng. Mỗi tỷ lệ nợ quan sát được của mỗi doanh
nghiệp phản ánh các nhu cầu tích luỹ của doanh nghiệp đối với tài trợ từ bên
ngoài.
Lý thuyết trật tự phân hạng giải thích tại sao các doanh nghiệp có khả năng sinh
lợi nhất thường vay ít hơn. Không phải vì họ có các tỷ lệ nợ mục tiêu thấp mà vì
họ không cần tiền bên ngoài. Các doanh nghiệp có khả năng sinh lợi ít hơn thì
12
phát hành nợ vì họ không có nguồn vốn nội bộ đủ cho chương trình đầu tư vốn
và vì tài trợ nợ đứng đầu trong trật tự phân hạng của tài trợ từ bên ngoài.
Trong lý thuyết trật tự phân hạng, sự hấp dẫn của tấm chắn thuế, lãi từ chứng
khoán nợ được coi là có tác động hạng nhì. Các tỷ lệ nợ thay đổi khi có bất cân
đối của dòng tiền nội bộ, cổ tức và các cơ hội đầu tư thực sự. Các doanh nghiệp
có khả năng sinh lợi cao với cơ hội đầu tư hạn chế sẽ cố gắng đạt tỷ lệ nợ thấp.
Các doanh nghiệp có cơ hội đầu tư lớn hơn các nguồn vốn phát sinh nội bộ
thường buộc phải vay nợ ngày càng nhiều.
Lý thuyết này giải thích mối tương quan nghịch trong ngành giữa khả năng sinh
lợi và đòn bẩy tài chính. Lẽ thường là các doanh nghiệp thường đầu tư theo mức
tăng trưởng của ngành. Như vậy các tỷ lệ đầu tư sẽ tương tự nhau trong cùng
một ngành. Với các tỷ lệ chi trả cổ tức cho sẵn và không thể linh hoạt được thì
các doanh nghiệp sinh lợi ít nhất sẽ có ít nguồn vốn nội bộ hơn và sẽ phải vay
mượn thêm.
Trật tự phân hạng dự báo các thay đổi trong tỷ lệ nợ của nhiều doanh nghiệp ở
giai đoạn phát triển bão hòa. Các tỷ lệ nợ của các doanh nghiệp này tăng khi các
doanh nghiệp có thâm hụt tài chính và giảm khi có thặng dư tài chính. Nếu thông
tin bất cân xứng làm cho việc phát hành hay thu hồi cổ phần thường chính yếu
trở nên hiếm hoi, hành vi này hầu như không thể tránh khỏi.
Trật tự phân hạng kém thành công hơn trong việc giải thích các khác biệt trong
tỷ lệ nợ giữa các ngành. Thí dụ các tỷ lệ nợ có xu hướng thấp trong các ngành
công nghệ cao, tăng trưởng cao ngay cả khi vốn bên ngoài rất lớn. Cũng có các
ngành thành đạt, ổn định như ngành điện công ích, dòng tiền dư thừa không
được dùng để chi trả nợ. Thay vào đó các tỷ lệ chi trả cổ tức cao đã đưa dòng
tiền trở lại cho các nhà đầu tư.
13
Sau đây là kết quả cuộc khảo sát của S & P trong thực tế nhằm kiểm nghiệm tính
xác thực của lý thuyết trật tự phân hạng.
Phân loại Nguồn Điểm
1 Thu nhập giữ lại 5,61
2 Vay nợ trực tiếp 4,88
3 Nợ có thể chuyển đổi 3,02
4 Cổ phần thường 2,42
5 Cổ phần ưu đãi không chuyển đổi 2,22
6 Cổ phần ưu đãi chuyển đổi 1,72
Thừa thãi tài chính
Khi các điều kiện khác bằng nhau, đứng ở đầu trật tự phân hạng tốt hơn là ở
cuối. Các doanh nghiệp đứng ở cuối trật tự phân hạng và cần vốn cổ phần bên
ngoài cuối cùng có thể phải vay quá nhiều nợ hoặc bỏ qua các cơ hội đầu tư tốt
vì không thể ban cổ phần với giá hợp lý.
Nói cách khác, thừa thải tài chính rất quý giá. Có thừa thãi tài chính là có tiền
mặt, chứng khoán thị trường, các bất động sản dễ bán và có sẵn tiếp cận với các
thị trường nợ hay tài trợ ngân hàng. Có sẵn tiếp cận về cơ bản đòi hỏi phương án
tài trợ bảo thủ, để các nhà cho vay tương lai coi nợ của doanh nghiệp như một
đầu tư an toàn.
Về dài hạn, giá trị của một doanh nghiệp nằm ở các quyết định đầu tư vốn và
kinh doanh hơn là ở quyết định tài trợ. Vì vậy, cần bảo đảm doanh nghiệp có
thặng dư tài chính, để có sẵn tài trợ nhanh chóng cho các đầu tư tốt. Thừa thải tài
chính quý giá nhất cho các doanh nghiệp có nhiều cơ hội tăng trưởng, có NPV
dương.
Dòng tiền tự do và mặt trái của thừa thải tài chính:
Thừa thải tài chính cũng có mặt trái của nó. Thừa thải quá nhiều có thể khuyến
khích các giám đốc chủ quan, bành trướng các quyền lực của mình hay xây dựng
14
một đế chế bằng tiền mà đáng lẽ phải trả lại cho các cổ đông.
Chi trả lãi và vốn theo lịch trình là các nghĩa vụ mang tính hợp đồng của doanh
nghiệp. Nợ buộc doanh nghiệp chi trả tiền mặt. Có thể mức nợ tốt nhất sẽ để lại
vừa đủ tiền mặt trong ngân hàng, sau khi chi trả nợ để tài trợ tất cả dự án có
NPV dương.
Tái tư bản hóa bằng vốn vay:
Tái tư bản hóa bằng vốn vay nghĩa là cổ tức được tài trợ đặc biệt bằng vốn vay.
Một tái tư bản hóa bằng vốn vay có thể giúp lật lại trật tự. Một tái tư bản hóa sẽ
làm gia tăng nghiêm trọng lãi từ chứng khoán nợ, buộc công ty phải nhã bớt tiền
mặt và thúc đẩy các giám đốc và các tổ chức phải nỗ lực nhiều hơn để hoạt động
hiệu quả hơn.
2.2 TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
Steve Fazzari, R.Glenn Hubbard, Bruce C.Petersen 1988 nghiên cứu về hạn
chế tài chính và đầu tư doanh nghiệp.
Để kiểm tra tác động của hạn chế tài chính vào Q và đầu tư, Steve Fazzari và các
cộng sự đã thực hiện phân tích chi tiết theo từng đặc điểm và tính không đồng
nhất của công ty (xem Calomiris, Hubbard and Stock 1986). Vì vậy, họ sử dụng
dữ liệu các công ty sản xuất trên Value Line Data Base. Mục tiêu là xác định sự
khác nhau trong Q, hành vi tài chính, và đầu tư qua các công ty được phân loại
theo hành vi giữ lại lợi nhuận. Steven Fazzari và các cộng sự đặc biệt quan tâm
các công ty đang phát triển với nhu cầu đầu tư hiện tại vượt quá dòng tiền hiện
tại. Trong quá trình thu thập dữ liệu, các tác giả đã loại bỏ những công ty không
có đủ dữ liệu hoặc dữ liệu không liên quan. Họ cũng loại bỏ những công ty sát
nhập vì sát nhập có thể làm cho dữ liệu không phù hợp khi thiết lập độ trễ.
Nghiên cứu này nghiên cứu kết quả hạn chế tài chính từ thông tin bất cân xứng
trong thị trường vốn. Vì vậy, chỉ những công ty có tốc độ tăng trưởng doanh thu
15
tăng giai đoạn từ 1969 đến 1984 được cho vào trong mẫu. Giới hạn này vẫn cho
phép có được mẫu bao gồm 421 công ty sản xuất.
Các tác giả phân loại công ty thành 4 nhóm như sau :
Nhóm 1 : Cổ tức/thu nhập <0,1
Nhóm 2 : Cổ tức/thu nhập <0,2 không thuộc loại 1
Nhóm 3 : Cổ tức/thu nhập <0,4 không thuộc loại 1 hoặc 2
Nhóm 4 : Các công ty còn lại.
Cách tiếp cận này giới hạn tính nhạy cảm của việc phân loại đối với giá trị ngoại
lai của tỷ lệ cổ tức/thu nhập. Trong một năm nào đó, tỷ lệ này có thể rất cao do
thu nhập thấp một cách bất thường, mặc dù công ty giữ lại hầu hết lợi nhuận. Họ
kiểm tra tác động của Q hoặc dòng tiền vào đầu tư theo phương trình sau :
I/Kit = Qit + (CF/K)it
I/Kit = Qit + (CF/K)it-1
Sử dụng phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất để ước tính hệ số hồi
quy của Q và CF/K. Kết quả thực nghiệm được phát hiện như sau :
- Thông tin không hoàn hảo có thể tạo ra “trật tự tài trợ” bằng việc sử dụng
nguồn tài trợ bên trong và bên ngoài, nhấn mạnh trật tự tạo ra từ việc xem xét
thuế.
- Hàm ý rõ ràng là nhiều công ty, đặc biệt là các công ty đang phát triển trong
ngành công nghiệp đang phát triển sẽ có một dãy giá trị Q đáng kể đối với các
công ty không chi trả cổ tức do sử dụng nguồn tài trợ bên ngoài thì phải chịu
mức chi phí cao.
- Thay đổi lớn trong Q sẽ tác động nhỏ vào đầu tư. Hơn nữa, đầu tư bị hạn chế
bởi dòng tiền hiện tại.
- Những cú sốc có thể có tác động mạnh mẽ vào sự phân bổ nguồn tài trợ bên
ngoài cho đầu tư đối với các loại công ty khác nhau.
16
- Các kết quả được trình bày trong nghiên cứu này cung cấp bổ sung thực
nghiệm cho sự tồn tại của thị trường vốn không hoàn hảo và hạn chế tài chính
ảnh hưởng lên hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
Toni M. White (1992) đưa ra kết quả thực nghiệp từ dữ liệu bảng về Nợ,
hạn chế thanh khoản và đầu tư doanh nghiệp.
Toni M. White thực hiện nghiên cứu này để trả lời cho câu hỏi về sự phụ thuộc
lẫn nhau về tài trợ và đầu tư từ một góc nhìn khác, bằng việc sử dụng phương
trình Euler về cấu trúc mô hình đầu tư để tách riêng vai trò của hạn chế tài chính
trong quy trình đầu tư. Cách tiếp cận này đã được sử dụng theo cách tương tự
trong lý thuyết tiêu dùng. Đặc biệt, Zeldes (1989) phát hiện ra những sai sót
trong phương trình tiêu dùng Euler đối với người nghèo. Ứng dụng vào đầu tư,
phương trình Euler bổ sung cho các nghiên cứu trước trong việc khai thác dữ
liệu chéo giữa các công ty khác nhau, để kiểm tra vai trò của yếu tố tài chính.
Tuy nhiên, phương trình này có thể tránh được những cạm bẫy liên quan đến ước
tính hình thức suy giảm trong phương trình đầu tư. Ngoài ra, phương trình này
cũng phát hiện ra tác động đặc thù của yếu tố tài chính vào việc phân bổ nguồn
vốn đầu tư theo thời gian.
Nghiên cứu cũng mở rộng nghiên cứu của Fazzari et al. (1988a, 1988b) bằng
việc tập trung vào nợ thay vì tài trợ bằng vốn cổ phần. Điều này phù hợp với các
công ty có sử dụng tỷ lệ nợ cao, mà đối với các công ty này nguồn vốn đầu tư
tạo ra từ lợi nhuận giữ lại quan trọng hơn các nguồn vốn bên ngoài. Một số
nghiên cứu chỉ ra rằng phát hành cổ phần mới tính thấp hơn 5% trên tổng nguồn
vốn bên ngoài mới. Trong trạng thái nới lỏng, nếu nợ vay là nguồn vốn cận biên
cơ bản của tài trợ bên ngoài, thì giới hạn nợ tiềm tàng sẽ ảnh hưởng đến quyết
định đầu tư của doanh nghiệp.
Tác giả lựa chọn các công ty niêm yết trên sàn NYSE, AMEX hoặc OTC, cụ thể
như sau: đầu tiên, để tối đa hóa tổng số quan sát, tác giả sử dụng giai đoạn mẫu
17
từ 1972 đến 1986. Thứ 2, chỉ xem xét các công ty sản xuất (có mã số SIC từ
2000 đến 3999). Tổng các công ty sản xuất kết hợp hàng năm là 1024 và trên
OTC là 338 công ty. Sau đó tác giả loại bỏ những công ty không đủ dữ liệu hoặc
dữ liệu không phù hợp hoặc liên quan đến sát nhập lớn hơn 15% tổng tài sản.
Sau khi đặt ra những điều kiện đó, mẫu còn lại là 325 công ty, trong đó 39 công
ty từ OTC.
Dữ liệu sơ cấp cho việc ước tính và kiểm tra mô hình là doanh thu, chi phí, đầu
tư, giá của hàng hóa vốn điều chỉnh thuế, tỷ lệ chi trả lãi, và tỷ lệ nợ trên tổng tài
sản, cũng như tất cả công cụ khác. Sử dụng phương pháp GMM để ước tính
phương trình đầu tư Euler.
Kiểm tra đầu tiên sử dụng đầy đủ mẫu để ước tính phạm vi mà phương pháp đo
lường khác về kiệt quệ tài chính tác động đến việc phân bổ chi tiêu đầu tư của
công ty. Hai chỉ số được sử dụng là : (1) giá trị thị trường của nợ liên quan đến
giá trị thị trường của công ty, và (2) tỷ số chi phí lãi vay trong tổng chi phí lãi và
dòng tiền. Trong khuôn khổ phương trình Euler mong muốn từ mô hình, tác giả
ước tính giá trị nhân tử Lagrange trong việc bị hạn chế phát hành nợ. Biến giải
thích đưa vào phương trình có dấu hiệu thích hợp và hầu hết có ý nghĩa. Tương
tự, giá trị của nhân tử Lagrange là hợp lý.
Thiết lập kiểm tra thứ 2 bắt nguồn đầu tiên từ việc phân chia riêng biệt các mẫu
nghiên cứu dựa vào các dấu hiệu này. Ngoài ra, tác động của các biến tài chính
trong tranh luận của phương trình Euler là đáng kể đối với các công ty có sức
khỏe tài chính yếu, nhưng tác động không đáng kể vào những công ty có sức
khỏe tài chính tốt. Tác giả cũng phân chia mẫu nghiên cứu căn cứ vào việc công
ty có tỷ lệ trái phiếu ở giai đoạn bắt đầu. Ý tưởng ở đây là công ty sử dụng thị
trường trái phiếu đã chịu sự giám sát nghiêm ngặt hơn của nhà đầu tư để họ bị
tác động ít hơn của thông tin bất cân xứng. Đối với cả 2 nhóm công ty phương
trình bị loại bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên, tỷ lệ chiết khấu trong một giai đoạn phù
18
hợp với các biến tài chính một cách mạnh mẽ đối với nhóm không vay nợ bằng
trái phiếu.
Nghiên cứu này nghiên cứu hành vi đầu tư khi các công ty tối đa hóa giá trị vay
nợ của họ và trình bày một vài bằng chứng về vấn đề thông tin trong thị trường
nợ tác động đến đầu tư doanh nghiệp. Bằng chứng thực nghiệm cũng cho rằng,
để đáp ứng được nhu cầu đầu tư trong thị trường thì cần phải đưa ra các cách
khác nhau để có thể tiếp cận thị trường vốn, đặc biệt là thị trường nợ. Tuy nhiên,
kết quả thực nghiệm được giải thích bằng một vài vấn đề cần quan tâm, đó là các
khó khăn trong xây dựng ý tưởng về phương pháp đo lường dấu hiệu kiệt quệ tài
chính mà chủ yếu dựa vào việc kiểm tra. Tức là, các tham số của các thành phần
không quan sát được cũng như sự sắp xếp chính xác các quan sát vào nhóm hạn
chế tài chính và nhóm không hạn chế tài chính.
Xét riêng những vấn đề này, bằng chứng cho rằng các khó khăn trong việc có
được khoản nợ có tác động mạnh vào đầu tư.
Thay đổi mô hình đầu tư tân cổ điển tiêu chuẩn bằng việc cho thêm tác động của
các ràng buộc khi công ty rơi vào tình trạng bị hạn chế vay nợ, để đo lường gián
tiếp tỷ lệ chiết khấu của từng công ty, lần lượt cải thiện đáng kể kết quả của
phương trình Euler theo sự phát triển của đầu tư và vốn cổ phần. Hơn nữa, tác
động của hạn chế tài chính xuất hiện là mạnh mẽ đối với những công ty không
tham gia vào thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Việc kiểm tra dựa vào việc phân chia mẫu dựa trên cơ sở sức khỏe tài chính cũng
hỗ trợ kết quả này. Phương trình Euler áp dụng cho các công ty không bị hạn chế
tài chính bị vi phạm bởi các ràng buộc tài chính chỉ xảy ra khi công ty bị hạn chế
tài chính, bởi vì phương trình không thể loại bỏ nhóm các công ty không bị hạn
chế tài chính này được. Ngoài ra, biến động tài chính xuất hiện là đáng kể đối
với những công ty bị hạn chế tài chính nhưng không đáng kể đối với công ty
không bị hạn chế tài chính.
19
Tóm lại, những kết quả này làm tăng thêm bằng chứng liên quan về sự phụ thuộc
đầu tư của công ty trong bối cảnh biến động thanh khoản.
Tác giả mở rộng kết luận chung theo 3 hướng quan trọng : Đầu tiên, các công ty
được phân loại theo sự tiếp cận thị trường trái phiếu tập trung hoặc theo sức
khỏe tài chính thay vì chính sách chi trả cổ tức, được xác định đồng thời với
quyết định đầu tư. Phương pháp phân loại này cũng có cơ sở hơn, với giả thuyết
cho rằng các công ty bị hạn chế trong việc sử dụng vốn vay hơn vốn cổ phần bên
ngoài, đây là cơ sở cho các công ty dựa vào tỷ lệ chi trả cổ tức của họ. Thứ hai,
phân tích này tránh được những phê bình về việc sử dụng dòng tiền, dòng tiền
ngắn hạn làm gia tăng sự kỳ vọng về lợi nhuận tương lai. Cuối cùng, sử dụng
cách tiếp cận phương trình Euler nhấn mạnh tác động của hạn chế thanh khoản
vào tỷ lệ chiết khấu của công ty và vì vậy phân bổ đầu tư theo thời gian.
Fabio Schiantarelli (1995) nghiên cứu về hạn chế tài chính và đầu tư.
Với mục đích là đưa ra các nhận xét về phương pháp sử dụng liên quan đến việc
kiểm tra thực nghiệm sự quan hệ mật thiết giữa thị trường vốn không hiệu quả
đối với đầu tư, và đưa ra các xem xét quan trọng về bằng chứng trong chủ đề
này. Đặc biệt, tác giả tập trung vào phần đóng góp thực nghiệm bằng việc sử
dụng dữ liệu bảng. Các kết quả trong các nghiên cứu thực nghiệm trong những
năm gần đây cho thấy lợi ích của việc sử dụng dữ liệu bảng. Có được điều này
bởi vì với dữ liệu bảng, một người nghiên cứu có thể kiểm tra các thông tin đơn
giản đến phức tạp như thế nào và những vấn đề tác động biến đổi theo các công
ty và theo thời gian, kiểm tra xem các tác động khác nhau vào đầu tư là gì. Cuối
cùng, tác giả thừa nhận và giải thích bằng bằng chứng thực nghiệm về việc hành
vi đầu tư được sử dụng ở các nước phát triển và các nước chưa phát triển khi
xem xét trong bối cảnh quốc tế.
Tác giả nghiên cứu việc sử dụng phương pháp kiểm tra tầm quan trọng của hạn
chế tài chính dựa vào mô hình đầu tư Q. Các kiểm tra sự có mặt của hạn chế tài
20
chính chủ yếu bằng việc bổ sung thêm các biến đại diện cho sự sẵn có của nguồn
vốn nội bộ vào mô hình với giả thuyết thị trường vốn hoàn hảo, và bằng việc
kiểm tra xem các biến này có ý nghĩa đối với các công ty đối mặt với vấn đề về
thông tin. Tác giả thảo luận các điểm yếu tiềm tàng của mô hình Q, đặc biệt là Q
trung bình có phản ánh đầy đủ triển vọng lợi nhuận tương lai hay không, và xem
xét các giải pháp có thể giải quyết vấn đề này.
Phương pháp vừa tiếp cận mô hình Q vừa phương trình Euler là cần thiết để
phân chia các công ty theo đặc điểm của nó, các công ty này sẽ bị ảnh hưởng bởi
vấn đề thông tin.
Tác giả cũng xem xét chi tiết các bằng chứng quốc tế về tác động của thị trường
vốn không hoàn hảo vào quyết định đầu tư. Sắp xếp các thảo luận của ông xoay
quanh các điều kiện phổ biến thường được dùng để xác định các công ty gánh
chịu hạn chế tài chính. Hầu hết các điều kiện này nhấn mạnh sự khác nhau chéo
giữa các công ty. Tuy nhiên, tầm quan trọng của hạn chế tài chính thì biến đổi
qua chu kỳ kinh doanh và chính sách tiền tệ ổn định. Hơn nữa, sự thay đổi cấu
trúc trong thị trường tài chính có thể ảnh hưởng tiềm tàng đến mức độ thay thế
giữa nguồn tài trợ bên trong và nguồn tài trợ bên ngoài. Vì lý do này, tác giả đã
thảo luận bằng chứng liên quan đến sự biến động đơn giản của hạn chế tài chính
qua thời gian.
Kết quả thực nghiệm cho thấy quyết định đầu tư của công ty thì khá nhạy cảm
với nguồn quỹ nội bộ sẵn có.
Kết luận này được suy ra từ mô hình Q và phương trình Euler về vốn, nó cố định
tính độc lập về đặc điểm của công ty được sử dụng trong việc phân loại các công
ty, và nó được bổ sung bởi bằng chứng thực nghiệm ở một số quốc gia.
Vấn đề chi phí đại diện giữa người quản lý công ty và người cung cấp vốn bên
ngoài (bao gồm cổ đông bên ngoài và người cho vay) sẽ trở nên gay gắt. lịch
trình nghiên cứu cho tương lai sẽ bao gồm các nỗ lực xác định cẩn thận bản chất
21
của thông tin và vấn đề chi phí đại diện, những vấn đề này làm cho chi phí sử
dụng nguồn vốn bên ngoài trở nên mắc hơn chi phí sử dụng nguồn vốn bên
trong. Nhìn chung, vấn đề này có thể được sử dụng để nghiên cứu sâu hơn về
khả năng và động cơ của ban quản trị công ty sẽ tạo ra mối quan hệ giữa đầu tư
và nguồn vốn bên trong như thế nào.
Steven N. Kaplan and Luigi Zingales (1997) nghiên cứu để trả lời câu hỏi
“Hạn chế tài chính có giải thích lý do tại sao đầu tư tương quan với dòng
tiền không?
Nghiên cứu này kiểm tra nguồn gốc tương quan giữa dòng tiền và đầu tư bằng
việc thực hiện phân tích theo chiều sâu 49 công ty chi trả cổ tức thấp được xác
định bởi Fazzari, Hubbard, and Petersen (1988), các công ty này có tính nhạy
cảm của đầu tư với dòng tiền cao bất thường và được xác định là bị hạn chế tài
chính xét theo tiêu chuẩn đầu tư – dòng tiền.
Bằng việc sử dụng nguồn dữ liệu chi tiết và chưa được nghiên cứu trước đây,
Kaplan and Zingales đã cố gắng xác định lợi ích và nhu cầu về vốn đối với mỗi
công ty trong mẫu. Các tác giả kiểm tra báo cáo thường niên của các công ty
hàng năm, và đọc các biên bản họp về thanh khoản của Ban quản trị công ty về
nhu cầu vốn trong tương lai của công ty và việc sử dụng nguồn vốn để đáp ứng
nhu cầu này. Kết hợp thông tin này với dữ liệu chất lượng và với các thông tin
đã công bố để hoàn thành một bức tranh về nguồn vốn sẵn có nội bộ và nguồn
vốn bên ngoài đối với mỗi công ty cũng như nhu cầu sử dụng vốn. Theo nội
dung cơ bản này, họ sắp xếp các công ty là hạn chế tài chính theo từng năm. Các
tác giả sử dụng phân loại theo công ty – năm để nhóm các công ty thành các giai
đoạn 7 hoặc 8 năm, và cho toàn giai đoạn mẫu. Cuối cùng họ so sánh tính nhạy
cảm đầu tư – dòng tiền qua các nhóm khác nhau.
Các kết quả phát hiện như sau :
22
Đầu tiên, các kết quả chỉ ra rằng tính nhạy cảm của đầu tư với dòng tiền không
cung cấp bằng chứng hợp lý về chênh lệch lớn giữa chi phí sử dụng vốn nội bộ
và chi phí sử dụng nguồn vốn bên ngoài công ty. Sắp xếp theo tỷ lệ chi trả cổ tức
có ảnh hưởng đến các nhóm công ty khác nhau trong mỗi vị thế tài chính khác
nhau. Trong nhóm các công ty chi trả cổ tức thấp, họ phát hiện là các công ty bị
hạn chế tài chính thấp nhất thể hiện sự nhạy cảm đầu tư – dòng tiền mạnh nhất
và tạo ra sự khác nhau về tính nhạy cảm giữa các nhóm.
Thứ hai, trong khi họ nghĩ rằng một vài kết hợp giữa chi phí điều chỉnh và mô
hình theo thời gian có thể giải thích lý do tại sao các công ty bị hạn chế tài chính
có tính nhạy cảm đầu tư – dòng tiền thấp, họ không hoàn toàn hiểu tại sao tính
nhạy cảm đầu tư – dòng tiền lại quá cao đối với các công ty không hạn chế tài
chính. Ngay cả khi họ loại bỏ các quan sát có dòng tiền gần như đại diện cho cơ
hội đầu tư, nhưng họ vẫn thấy là công ty hạn chế tài chính có tính nhạy cảm cao.
Tính nhạy cảm đầu tư – dòng tiền cao xuất hiện bị tác động bởi những người
quản lý chọn lựa dòng tiền nội bộ để đầu tư bất kể các quỹ chi phí thấp tăng
thêm. Vì vậy, các công ty bị hạn chế tài chính thấp nhất trong mẫu xét theo quy
luật này thể hiện tính nhạy cảm đầu tư – dòng tiền cao. Câu hỏi quan trọng mà
họ không thể trả lời chắc chắn là việc các công ty bị hạn chế tài chính thấp nhất
thì không bị hạn chế tài chính một cách tuyệt đối.
Thực vậy, nếu các công ty bị hạn chế tài chính thấp nhất thì không bị hạn chế tài
chính một cách tuyệt đối, thì chính sách đầu tư/tài chính có thể được giải thích
như là sự lựa chọn không hợp lý hoặc sự lựa chọn chấp nhận rủi ro của những
người quản lý theo lợi ích của bản thân họ.
Ngược lại, nếu các công ty bị hạn chế tài chính thấp nhất là bị hạn chế trong
trạng thái thay đổi theo thời gian, thì chính sách đầu tư/tài chính có thể được giải
thích như là sự lựa chọn tối đa hóa giá trị của ban quản trị công ty dựa trên chi
phí tiềm tàng khi trở thành công ty hạn chế tài chính trong tương lai. Tuy nhiên,
việc giải thích này hàm ý rằng một vài công ty chọn chính sách tài chính bảo
23
toàn – nợ thấp với số dư tiền mặt cao – là những công ty không bị hạn chế tài
chính.
Thứ ba, kết quả của họ cho rằng, khi suy thoái xảy ra, các chính sách được đưa
ra để làm tăng thêm khả năng sử dụng nợ vay, nhưng sẽ không làm cho các
khoản đầu tư tăng lên đối với các công ty có tính nhạy cảm đầu tư – dòng tiền
cao. Các công ty này giảm đầu tư của họ cho phù hợp với dòng tiền thấp bất kể
có nguồn vốn nội bộ và nguồn vốn bên ngoài sẵn có hiện hành.
Kết quả của họ chỉ ra những kết quả nào họ nghĩ là yếu tồn tại trong các nghiên
cứu trước cũng như là một cơ hội cho nghiên cứu trong tương lai.
Steven N. Kaplan and Luigi Zingales (1997) nghiên cứu về tính nhạy cảm
của đầu tư – dòng tiền có cung cấp phương pháp đo lường hạn chế tài chính
hữu dụng không ?
Nghiên cứu này kiểm tra mối quan hệ giữa hạn chế tài chính và tính nhạy cảm
đầu tư – dòng tiền bằng việc phân tích các công ty được xác định bởi Fazzari,
Hubbard, and Petersen như là tính nhạy cảm đầu tư – dòng tiền cao bất thường.
Họ phát hiện ra rằng các công ty bị hạn chế tài chính thấp thể hiện tính nhạy cảm
cao hơn đáng kể so với các công ty bị hạn chế tài chính cao. Kết quả này cho
rằng tính nhạy cảm cao không thể được giải thích bằng bằng chứng về các công
ty bị hạn chế tài chính cao hơn. Những phát hiện này giải thích rõ hơn cho các
giải thích trong các nghiên cứu trước sử dụng phương pháp này.
Họ cũng xem xét vài lý do tại sao tính nhạy cảm đầu tư – dòng tiền có thể giảm
mức độ hạn chế tài chính ngay cả khi quan hệ thực đang tăng.
Đầu tiên, dòng tiền sẽ hoạt động như là đại diện cho cơ hội đầu tư, không được
thể hiện bằng Q của Tobin và thực hiện trên sự khác nhau qua các công ty. Tuy
nhiên, kết quả của họ là đáng tin cậy khi sử dụng phương trình Euler (Bond and
Meghir 1994), mà không phụ thuộc vào Q của Tobin và vì vậy không bị ảnh
hưởng bởi sai sót do đo lường.
24
Thứ hai, sự khác nhau về tính nhạy cảm có thể bị tác động bởi các yếu tố ngoại
lai. Họ tìm thấy bằng chứng về tính nhạy cảm tổng thể của toàn bộ mẫu có quan
hệ mật thiết với các công ty chi trả cổ tức cao trong nghiên cứu của Steve
Fazzari, R. Glenn Hubbard, Bruce C. Petersen (1988), được giải thích bằng quan
hệ về đặc tính công ty-năm có tốc độ tăng trưởng doanh thu cao bất thường. Tuy
nhiên, họ cũng phát hiện những yếu tố ngoại lai này không giải thích được
nguyên nhân các công ty bị hạn chế tài chính thấp nhất lại có tính nhạy cảm cao
nhất.
Thứ ba, phát hiện của họ sẽ là đặc thù với một vài công ty kiệt quệ tài chính, các
công ty này bị buộc phải sử dụng dòng tiền tạo ra để trả nợ. Mặc dù, các điều
kiện tài chính của các công ty bị hạn chế tài chính không phù hợp với giả thuyết
này.
Tóm lại, họ đưa ra cả nguyên nhân lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm về tính
nhạy cảm của đầu tư đối với dòng tiền cao hơn không phải là đo lường hợp lý về
chi phí khác nhau giữa việc sử dụng nguồn vốn nội bộ và sử dụng nguồn vốn bên
ngoài.
Phân tích của các tác giả chỉ ra rằng tiêu chuẩn về tính nhạy cảm đầu tư-dòng
tiền như là một phương pháp đo lường hạn chế tài chính, không dựa hoàn toàn
vào lý thuyết và không được bổ sung bằng bằng chứng thực nghiệm trong trường
hợp họ nghiên cứu. Trong khi họ tin rằng vần đề đơn điệu mà họ đã chứng minh
là không lan tỏa và ảnh hưởng nhiều đến kết quả trong nghiên cứu này, nghiên
cứu tương lai sẽ được yêu cầu để xác định lý thuyết này.
Nếu kết quả không đơn điệu là phổ biến, thì nó sẽ rất quan trọng để hiểu nguồn
gốc của nó. Một sự giải thích liên quan đến việc hiểu biết hình dạng của hàm số
chi phí khi tăng sử dụng nguồn vốn bên ngoài là do thông tin hoặc vấn đề chi phí
đại diện. Ngược lại, tính nhạy cảm đầu tư – dòng tiền bị tác động bởi các đặc
tính không phù hợp về lý do tại sao các công ty không thích tăng sử dụng nguồn
25
bên ngoài. Các công ty bị hạn chế tài chính thấp nhất trong mẫu nghiên cứu của
họ xuất hiện phụ thuộc vào dòng tiền nội bộ, dùng để đầu tư bất kể nguồn vốn có
chi phí thấp có được bổ sung hay không và vì vậy thể hiện tính nhạy cảm đầu tư
– dòng tiền cao.
Owen Lamont (1997) đưa ra bằng chứng từ thị trường vốn nội địa về quan
hệ giữa dòng tiền và đầu tư.
Tác giả cho rằng dòng tiền của công ty giảm, nhưng lợi nhuận của cơ hội đầu tư
vẫn không đổi (hoặc tăng lên). Các công ty này có thể giảm đầu tư của nó
không? Trong nghiên cứu này, Owen Lamont cố gắng trả lời câu hỏi này bằng
việc kiểm tra các thành phần khác nhau của cùng một công ty phản ứng lại như
thế nào với giá dầu giảm 1986, làm giảm dòng tiền của các công ty dầu. Sử dụng
dữ liệu COMPUSTAT, ông xác định một nhóm các công ty vừa có bộ phận
trong ngành khai thác dầu mỏ vừa có bộ phận kinh doanh các ngành khác, mà
các ngành không phải là dầu mỏ được xác định như một ngành có lợi nhuận
không có tương quan dương với giá dầu. Sau đó ông kiểm tra giả thuyết : giá trị
dòng tiền của bộ phận kinh doanh dầu mỏ giảm có làm giảm đầu tư vào bộ phận
khác không?
Ông kết luận, dựa trên sự phản ứng của bộ phận không kinh doanh dầu mỏ của
công ty dầu là sự sụt giảm lớn trong dòng tiền làm giảm đầu tư. Xác nhận những
phát hiện từ việc nghiên cứu về dòng tiền và đầu tư: vấn đề tiền mặt. Quy mô
mẫu là khá nhỏ, đến nỗi việc nghiên cứu bị giới hạn về phạm vi; ông cho rằng
ông chỉ tự tin trong việc kiểm tra các giả thuyết đơn giản có liên quan.
Ông cũng kết luận rằng các bộ phận doanh nghiệp là phụ thuộc lẫn nhau, các bộ
phận đó liên kết với nhau thành 1 công ty có kết quả thực tế. Vấn đề trong lý
thuyết về bản chất của việc sát nhập công ty bắt nguồn từ việc nghiên cứu thực
nghiệm này.
26
Các công ty được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm một số những công ty lớn
nhất trên thế giới. Nếu một công ty không tin có thông tin bất cân xứng hoặc tiếp
cận thị trường vốn giống như là một vấn đề của những công ty này, thì công ty
đó phải tìm ra sự giải thích khác cho sự tương quan giữa dòng tiền của bộ phận
dầu với đầu tư của bộ phận khác.
Dữ liệu thể hiện ở đây quan trọng vì 2 lý do. Thứ nhất, dữ liệu có thể cung cấp
công cụ hữu dụng để kiểm tra câu hỏi về lãi truyền thống trong tài chính doanh
nghiệp. Ví dụ, nghiên cứu này đã khám phá sự tương quan giữa quỹ nội bộ và
đầu tư, While Lang, Ofek, and Stulz (1996) sử dụng dữ liệu để phát hiện sự tác
động của đòn bẩy vào đầu tư và tăng trưởng. Thứ hai, dữ liệu cũng sẽ hữu dụng
trong việc nghiên cứu thực nghiệm, vì nó cho phép họ xem xét kỹ các công việc
bên trong doanh nghiệp.
Larry Lang, Eli Ofek, Rene M. Stulz (1997) nghiên cứu về đòn bẩy, đầu tư
và tăng trưởng công ty
Nghiên cứu này kiểm tra quan hệ giữa đòn bẩy và tốc độ tăng trưởng qua giai
đoạn 20 năm và phát hiện có một sự liên quan ngược chiều mạnh mẽ. Quan hệ
này cố định bất kể quy mô công ty, đòn bẩy được đo lường như thế nào và biến
nào được sử dụng để dự đoán tăng trưởng. Sử dụng hồi quy đầu tư trên thành
phần của dòng tiền, họ chỉ ra rằng 1 đô la ít hơn trong dòng tiền hoạt động liên
quan với một sự sụt giảm nhỏ hơn vào đầu tư, hơn là 1 đô la ít hơn trong dòng
tiền được mang về tư việc tăng nợ.
Ban quản trị công ty chọn đòn bẩy dựa vào thông tin riêng của họ về tăng trưởng
tương lai. Lý thuyết cấu trúc vốn hiện tại cho rằng những người quản trị công ty
với cơ hội tăng trưởng cao sẽ chọn mức đòn bẩy thấp hơn bởi vì các công ty này
sẽ không thể tận dụng lợi thế cơ hội đầu tư của họ nếu họ phải tăng sử dụng
nguồn vốn huy động bên ngoài. Kết quả là, mối quan hệ ngược chiều giữa tăng
trưởng tương lai và đòn bẩy có thể tăng lên, bởi vì những người quản lý của các
27
công ty có cơ hội tăng trưởng cao sẽ chọn đòn bẩy thấp. Kết quả này có thể đạt
được khi thực hiện hồi quy các kiểm soát cơ hội tăng trưởng, bởi vì đòn bẩy ảnh
hưởng đến thông tin quản trị về cơ hội tăng trưởng. Trong trường hợp này, việc
gạt bỏ quan hệ với đòn bẩy của Miller có thể đúng, mặc dù có quan hệ ngược
chiều giữa tăng trưởng tương lai và đòn bẩy.
Để chỉ ra vấn đề mà đòn bẩy là đại diện cho cơ hội tăng trưởng, họ sử dụng cách
tiếp cận đầu tiên của Owen Lamont (1993). Trong nghiên cứu về các công ty dầu
mỏ, ông ta kiểm tra xem liệu sự thu hẹp bộ phận kinh doanh chính của công ty
ảnh hưởng đến đầu tư của bộ phận khác không? Nếu đòn bẩy chỉ đại diện cho cơ
hội tăng trưởng của công ty, họ có thể không kỳ vọng quan sát một mối quan hệ
mạnh mẽ giữa tăng trưởng và đòn bẩy đối với các bộ phận nhỏ hơn trong công
ty. Nói chung, cơ hội tăng trưởng của bộ phận khác sẽ có tác động vào quyết
định đòn bẩy ít hơn so với cơ hội tăng trưởng của bộ phận kinh doanh chính của
công ty.
Lý thuyết cấu trúc vốn tối ưu dựa trên chi phí đại diện cho rằng, trong một vài
trường hợp, tác động ngược của đòn bẩy vào tăng trưởng làm tăng giá trị công ty
bằng việc ngăn chặn những người quản lý lựa chọn các dự án xấu (Jensen, 1986,
Stulz 1990). Vì vậy quan hệ ngược chiều giữa đòn bẩy và tăng trưởng có thể là
do thực tế đòn bẩy hạn chế những người quản trị đầu tư vào các dự án không
hiệu quả. Trong mẫu nghiên cứu của họ, quan hệ ngược chiều giữa đòn bẩy và
tăng trưởng ổn định một cách mạnh mẽ chỉ đối với những công ty có tỷ số Q của
Tobin thấp, hoặc các công ty không có cơ hội đầu tư có giá trị.
Họ đã chỉ ra rằng có mối quan hệ ngược chiều giữa đòn bẩy và tăng trưởng.
Chứng minh quan hệ này là quan trọng, vì nhiều lý thuyết cấu trúc vốn cho rằng
quan hệ như này sẽ tồn tại bởi vì các công ty có đòn bẩy cao sẽ không thể tận
dụng lợi thế của cơ hội đầu tư, và bởi vì các công ty có cơ hội tăng trưởng thấp
sẽ bị ngăn chặn đầu tư phung phí dòng tiền vào dự án xấu. Vì các nhà quản trị
28
lựa chọn đòn bẩy bằng việc sử dụng thông tin riêng của họ về cơ hội tăng trưởng
của công ty, nên có thể là đòn bẩy đại diện cho cơ hội đầu tư. Các tác giả chỉ ra
vấn đề này bằng việc trình bày quan hệ ngược chiều giữa tăng trưởng và đòn bẩy
cũng giữ vững cho các bộ phận kinh doanh phụ trong công ty đa ngành nghề,
mặc dù cơ hội tăng trưởng của bộ phận phụ có tác động một ít vào cấu trúc vốn
của công ty.
Đòn bẩy quan trọng hơn dòng tiền hoạt động.
Đòn bẩy có quan hệ ngược chiều với tăng trưởng chỉ đối với các công ty có Q
thấp, điều này cho rằng tác động ngược chiều của đòn bẩy vào tăng trưởng chỉ
ảnh hưởng với những công ty có cơ hội đầu tư tốt mà thị trường không nhận ra
và đối với những công ty không có cơ hội đầu tư tốt nhưng dù sao cũng muốn
tăng trưởng.
Sean Cleary (1999) nghiên cứu về mối quan hệ giữa đầu tư và tình trạng tài
chính
Tình trạng tài chính của công ty không liên quan với các quyết định đầu tư thực
tế trong thị trường vốn hoàn hảo, như đã được trình bày bởi Modigliani and
Miller (1958). Tuy nhiên, cấu trúc tài chính có lẽ liên quan với các quyết định
đầu tư của các công ty đối mặt với triển vọng tương lai không chắc chắn, hoạt
động trong thị trường vốn không hoàn hảo, mà trong thị trường này, chi phí sử
dụng vốn bên ngoài cao hơn chi phí sử dụng vốn nội bộ.
Fazzari, Hubbard, and Petersen (1988) và một số kết quả nghiên cứu thực
nghiệm cung cấp bằng chứng mạnh mẽ bổ sung cho sự tồn tại của lý thuyết trật
tự phân hạng, mà thường thấy nhất trong các công ty đối mặt với mức hạn chế
tài chính cao. Nghiên cứu này phân loại các công ty theo đặc tính (như là chi trả
cổ tức, quy mô công ty, độ tuổi, nhóm quan hệ, hoặc tỷ lệ nợ) được thiết kế để
đo lường mức độ hạn chế tài chính mà công ty đang đối mặt. Kết quả cho thấy
29
các quyết định đầu tư của các công ty càng hạn chế tài chính thì càng nhạy cảm
với tính thanh khoản của công ty.
Tranh luận về vấn đề này được châm ngòi bởi nghiên cứu gần đây của Kaplan
and Zingales (1997) thách thức phần lớn các kết luận tóm tắt ở trên. Kaplan and
Zingales phân loại các công ty theo mức độ hạn chế tài chính, dựa trên chất
lượng và số lượng thông tin trong báo cáo hàng năm của các công ty. Trái ngược
với bằng chứng của các nghiên cứu trước, họ phát hiện các quyết định đầu tư của
các công ty bị hạn chế tài chính thấp nhất thì nhạy cảm nhất với dòng tiền sẵn có.
Nghiên cứu này thực hiện theo cách tiếp cận của Kaplan and Zingales bằng cách
phân loại các công ty theo các biến liên quan đến hạn chế tài chính. Tình trạng
tài chính của công ty được xác định bằng cách sử dụng phương pháp phân tích
biệt thức, tương tự chỉ số Z của Altman dùng để dự đoán sự phá sản của các
công ty. Phương pháp phân loại theo biệt thức này đạt được hiệu quả mong
muốn, và các nhóm có thể thay đổi theo thời gian để phản ánh mức độ thay đổi
hạn chế tài chính tùy theo mức độ của công ty. Điều này khác so với các nghiên
cứu trước là không cho phép các nhóm thay đổi, tức là chấp nhận hoàn toàn rằng
các trở ngại mà công ty đối mặt thì không thay đổi theo thời gian.
Mục đích chính của nghiên cứu này là so sánh tính nhạy cảm của đầu tư - thanh
khoản giữa các nhóm khác nhau của các công ty. Tác giả sử dụng phương pháp
Bootstrap để xác định mức độ khác nhau đáng kể về độ lớn và các hệ số hồi quy
của biến thanh khoản.
Sử dụng dữ liệu của 1.317 công ty của Mỹ để nghiên cứu và kết quả cho thấy các
quyết định đầu tư của tất cả các công ty thì rất nhạy cảm với tính thanh khoản
của công ty, điều này phù hợp với bằng chứng trước đây.
30
Heitor Almeida và Murillo Campello (2002) nghiên cứu về hạn chế tài chính
và tính nhạy cảm đầu tư – dòng tiền.
Heitor Almeida và Murillo Campello thực hiện nghiên cứu phát triển lý thuyết
để giải thích mối quan hệ giữa đầu tư và dòng tiền khi các công ty đối mặt với
việc hạn chế gia tăng số lượng nợ. Mô hình của các tác giả mô tả rõ ràng, chính
xác mối quan hệ giữa tính nhạy cảm đầu tư – dòng tiền và hạn chế tài chính. Họ
thực hiện nghiên cứu bằng cách kiểm tra cẩn thận tác động của các cú sốc dòng
tiền vào đầu tư của các công ty. Khi các công ty bị hạn chế tài chính đầu tư tất cả
nguồn vốn nội bộ của chúng thì tác động trực tiếp của các cú sốc vào đầu tư là
tương tự nhau đối với tất cả các công ty này. Tuy nhiên, cũng có ảnh hưởng gián
tiếp liên quan đến các cú sốc thu nhập.
Tác động cuối cùng này bắt nguồn từ sự thay đổi nội sinh trong khả năng vay
mượn. Đối với những thay đổi trong đầu tư, sự thay đổi về khả năng vay mượn
sẽ lớn hơn đối với các công ty có khả năng vay mượn, tương phản với tỷ lệ cao
hơn của giá trị đầu tư. Tác động khuếch đại gián tiếp này dẫn đến chênh lệch
giữa tính nhạy cảm đầu tư – dòng tiền với các công ty bị hạn chế tài chính trong
mô hình của họ.
Trong quá trình nghiên cứu thực nghiệm, việc phân tích của họ đã đưa ra các xác
định ảnh hưởng của hạn chế tài chính vào đầu tư phù hợp với lý thuyết. Tuy
nhiên, mối quan hệ không như vậy mà tính nhạy cảm đầu tư – dòng tiền sẽ tăng
với mức độ hạn chế tài chính. Hơn nữa, mô hình dự đoán của họ về tính nhạy
cảm sẽ giảm cùng với hạn chế tài chính, trong điều kiện các công ty không hoàn
toàn không hạn chế tài chính. Nếu các công ty không bị hạn chế tài chính, thì
tính nhạy cảm đầu tư – dòng tiền giảm xuống 0. Vì vậy, phân tích của họ xác
định chính xác quan hệ giữa tính nhạy cảm và hạn chế tài chính. Mặc dù luôn là
nhiệm vụ khó khăn với phương pháp dự đoán mô hình lý thuyết với dữ liệu quan
sát, họ thảo luận một số quan hệ thực nghiệm của mô hình. Họ tập trung vào câu
31
hỏi là liệu các công ty bị hạn chế tài chính cao thì tính nhạy cảm với các cú sốc
dòng tiền sẽ cao hơn, mà không liên quan đến cơ hội đầu tư.
Sau khi thực hiện nghiên cứu thực nghiệm, họ đưa ra kết quả là nếu hạn chế tài
chính tác động đến hạn chế khả năng vay mượn của công ty, thì tính nhạy cảm
đầu tư – dòng tiền là phương pháp đo lương hữu dụng hạn chế tài chính. Tóm
lại, họ tin rằng sự đóng góp của họ là hướng nghiên cứu mới cho các nghiên cứu
về đầu tư trong thị trường vốn không hoàn hảo.
Nathalie Moyen (2004) thực hiện nghiên cứu về sự khác nhau giữa tính
nhạy cảm đầu tư – dòng tiền của các công ty bị hạn chế tài chính so với các
công ty không bị hạn chế tài chính
Các nghiên cứu trước đây chưa trình bày rõ ràng các tác động của hạn chế tài
chính vào tính nhạy cảm các quyết định đầu tư của công ty với dòng tiền. Vì vậy,
tác giả thực hiện nghiên cứu này để đưa ra một lời giải thích làm hòa giải các
tranh luận trong các nghiên cứu trước đây. Tác giả trình bày hai mô hình : mô
hình không bị hạn chế tài chính, các công ty trong mô hình này có thể huy động
thêm các nguồn vốn bên ngoài, và mô hình hạn chế tài chính, các công ty trong
mô hình này không thể huy động thêm các nguồn vốn bên ngoài. Sử dụng yếu tố
chi trả cổ tức thấp của các công ty để xác định các công ty bị hạn chế tài chính
và không bị hạn chế tài chính.
Rất khó để xác định các công ty bị hạn chế tài chính. Tác giả kiểm tra các điều
kiện khác nhau như : chi trả cổ tức thấp, dòng tiền tạo ra thấp, mô hình các công
ty bị hạn chế tài chính, các công ty trong mô hình bị hạn chế tài chính đầu tư cạn
kiệt các nguồn vốn nội bộ và chỉ số của Cleary. Nếu tác giả sử dụng điều kiện
mô hình hạn chế tài chính và chỉ số của Cleary, thì kết quả của Kaplan and
Zingales là : các công ty được xác định đã trải qua giai đoạn bị hạn chế tài chính
thể hiện tính nhạy cảm dòng tiền thấp hơn các công ty không trải qua giai đoạn
bị hạn chế tài chính. Nếu tác giả sử dụng các điều kiện còn lại, thì kết quả của
32
Fazzari, Hubbard and Petersen là : các công ty được xác định đã trải qua giai
đoạn bị hạn chế tài chính thể hiện tính nhạy cảm dòng tiền cao hơn.
Kết quả của Kaplan and Zingales là việc các công ty bị hạn chế tài chính có được
trình bày trong mô hình các công ty bị hạn chế hay không. Bởi vì dòng tiền là
đại diện tốt nhất cho các cú sốc thu nhập của công ty, nên dòng tiền tạo ra cao
hơn sẽ dẫn đến đầu tư nhiều hơn. Các công ty không bị hạn chế tài chính cũng
vay nợ nhiều hơn khi các công ty này trải qua nhiều sốc thu nhập. Do phương
pháp hồi quy không thực hiện tính toán các tác động của nguồn vốn bên ngoài
vào đầu tư, nên tính nhạy cảm dòng tiền của các công ty không bị hạn chế tài
chính bị phóng đại. Tương tự, không như các công ty không bị hạn chế tài chính,
các công ty bị hạn chế tài chính sẽ phải lựa chọn dùng dòng tiền tạo ra để chi trả
cổ tức hay là để đầu tư. Điều này làm yếu đi sự liên kết giữa dòng tiền của các
công ty bị hạn chế tài chính và đầu tư của chúng. Vì vậy, các công ty bị hạn chế
tài chính có các chính sách đầu tư ít nhạy cảm với dòng tiền hơn so với các công
ty không bị hạn chế tài chính.
Kết quả của Fazzari, Hubbard and Petersen là các công ty bị hạn chế tài chính
khi các công ty này chi trả cổ tức thấp (hoặc dòng tiền tạo ra thấp). Các công ty
trong mô hình không bị hạn chế tài chính duy trì một gánh nặng nợ nần cao hơn
các công ty trong mô hình không bị hạn chế. Các công ty chi trả cổ tức thấp thì
hầu hết là các công ty không bị hạn chế tài chính, các công ty này có chính sách
đầu tư nhạy cảm đối với dòng tiền hơn các công ty chi trả cổ tức cao (hầu hết là
các công ty bị hạn chế tài chính).
Kết quả của Fazzari, Hubbard and Petersen còn cho thấy các công ty bị hạn chế
tài chính không chỉ được diễn tả bằng mô hình hạn chế tài chính mà còn được
diễn tả bằng các chính sách đầu tư làm cạn kiệt nguồn vốn nội bộ. Khi các công
ty bị hạn chế tài chính không có đủ nguồn vốn đề đầu tư, thì họ dùng dòng tiền
và bán tài sản để đầu tư. Trong trường hợp này, sự liên kết giữa đầu tư và dòng
33
tiền rất mạnh mẽ. Các công ty bị hạn chế tài chính không có nguồn vốn đề đầu tư
thêm thì các quyết định đầu tư sẽ nhạy cảm hơn với dòng tiền so với các công ty
khác.
Mô hình hạn chế tài chính và không hạn chế tài chính sẽ hữu dụng trong việc xác
định các công ty bị hạn chế tài chính bằng dữ liệu. Sự tượng quan giữa đầu tư –
cổ tức phát sinh từ hai mô hình khác nhau một cách đột ngột : Các công ty bị hạn
chế tài chính thể hiện tương quan ngược chiều giữa đầu tư – cổ tức, trong khi các
công ty không bị hạn chế tài chính thể hiện tương quan cùng chiều. Phân tích
thực nghiệm có thể giúp đánh giá các giải thích khác nhau về tính nhạy cảm
dòng tiền quan sát được.
CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
3.1 DỮ LIỆU :
Người viết thu thập dữ liệu của các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE), người viết chỉ lựa chọn các công ty có
dữ liệu từ năm 2007 đến năm 2012. Những công ty Bảo hiểm, Ngân hàng và các
công ty tài chính khác người viết sẽ loại bỏ khỏi mẫu nghiên cứu này. Sau khi
thực hiện các điều kiện này, mẫu nghiên cứu còn lại là 81 công ty. Các dữ liệu
cần thu thập bao gồm : doanh thu, tổng tài sản, tài sản cố định thuần, tiền và các
khoản tương đương tiền, đầu tư ngắn hạn, nợ phải thu khách hàng, hàng tồn kho,
tài sản ngắn hạn, vay ngắn hạn, vay dài hạn, lợi nhuận chưa phân phối, chi phí
lãi vay, lợi nhuận kế toán trước thuế, dòng tiền chi cho đầu tư và tỷ lệ giá trị thị
trường trên giá trị sổ sách.
Người viết xử lý dữ liệu theo cách tương tự như nghiên cứu của Sean Cleary
(1999), với mục đích làm giảm tác động của các quan sát đặc biệt và có thể sử
dụng tối đa số quan sát có thể. Cụ thể như sau :
34
- Ấn định giá trị là 100% (-100%) nếu tốc độ tăng trưởng doanh thu lớn hơn
100% (nhỏ hơn -100%);
- Ấn định giá trị là 2 (-2) nếu tỷ lệ đầu tư/tài sản cố định thuần lớn hơn 2 (nhỏ
hơn -2);
- Ấn định giá trị là 5 (-5) nếu tỷ lệ dòng tiền/tài sản cố định thuần lớn hơn 5
(nhỏ hơn -5);
- Ấn định giá trị là 10 nếu tỷ lệ thanh toán hiện hành lớn hơn 10;
- Ấn định giá trị là 100% (-100%) nếu thu nhập ròng lớn hơn 100% (nhỏ hơn -
100%);
- Ấn định giá trị là 100 (-0.1) nếu hệ số thanh toán lãi vay lớn hơn 100 (nhỏ
hơn 0).
Thống kê dữ liệu cho toàn bộ mẫu được thể hiện trong Phần A của Bảng 3.1.
3.2 PHƯƠNG PHÁP PHÂN LOẠI CÁC DOANH NGHIỆP HẠN CHẾ
TÀI CHÍNH :
Các công ty được phân loại thành các nhóm theo chỉ số hạn chế tài chính (ZFC).
Phân loại công ty được thực hiện lại cho mỗi năm, việc này phản ánh thực tế là
tình trạng tài chính liên tục thay đổi. Chỉ số này được xác định bằng việc sử dụng
phân tích biệt số, tương tự như Z của Altman về dự báo phá sản. Lợi thế của
cách tiếp cận này là xem xét đặc tính đặc thù của công ty của toàn bộ mẫu, và
biến đổi chúng thành một chỉ số.
Bước đầu tiên trong phân tích biệt số là phân biệt mẫu thành 2 hoặc nhiều nhóm
xung khắc lẫn nhau. Ví dụ, hai nhóm của Altman bao gồm các công ty phá sản
và không phá sản. Rất khó và không thể phân loại rõ ràng các công ty bị hạn chế
tài chính mà không xem xét đến các biến. Tuy nhiên, vẫn có thể thực thiết lập 2
nhóm xung khắc lẫn nhau này bằng cách sử dụng thông tin về các công ty như là
các công ty không cắt giảm cổ tức và do dự tăng cổ tức, trừ khi cổ tức được duy
trì. Vì vậy, người viết chia mẫu nghiên cứu thành 3 nhóm : nhóm 1 bao gồm các
35
công ty tăng cổ tức và không bị hạn chế tài chính; nhóm 2 bao gồm các công ty
cắt giảm cổ tức và bị hạn chế tài chính; và nhóm 3 bao gồm các công ty không
thay đổi chi trả cổ tức. Nhóm 3 không phù hợp cho mục đích phân tích biệt số,
nhưng theo quan sát của tác giả thì hầu như toàn bộ các công ty không thay đổi
tỷ lệ chi trả cổ tức trong mẫu đều có tỷ lệ chi trả cổ tức là 0%, vì vậy, người viết
phân loại các công ty này vào nhóm 2, nhóm các công ty bị hạn chế tài chính.
Người viết sử dụng phần mềm SPSS để thực hiện phân tích biệt số và sử dụng
một số biến như là đặc điểm của một công ty thuộc một trong 2 nhóm xung khắc
lẫn nhau. Tương tự bài nghiên cứu của Sean Cleary (1999), người viết sử dụng
các biến dữ liệu đại diện cho tính thanh khoản, đòn bẩy, lợi nhuận và tăng trưởng
của công ty : hệ số thanh toán hiện hành (Current), hệ số nợ vay (Debt), hệ số
thanh toán lãi vay (FCCov), tỷ lệ thu nhập ròng (NI%), tốc độ tăng trưởng doanh
thu (Sales growth) và Slack/tài sản cố định thuần (SLACK/K). Theo giả thuyết là
các biến này có thể giúp chúng ta dự đoán liệu các công ty có tăng hoặc giảm chi
trả cổ tức trong một khoảng thời gian nào hay không. Giá trị hệ số được ước tính
để thực hiện phân biệt tốt nhất mỗi biến độc lập giữa 2 nhóm theo giá trị ZFC
theo công thức sau :
ZFC = β1Current + β2FCCov + β3SLACK/K + β4NI% + β5Sales growth + β6Debt(1)
Tài sản ngắn hạn
Trong đó, các hệ số được tính toán như sau :
Nợ ngắn hạn
Nợ vay ngắn hạn+Nợ vay dài hạn
Current = ;
Tổng tài sản
Lợi nhuận trước lãi và thuế
Debt = ;
Chi phí lãi vay+chi trả cổ tức ưu đãix(
FCCov = ; 1 ) 1−tỷ lệ thuế
Thu nhập ròng Doanh thu ròng
doanh thu ròng (năm t)−doanh thu ròng (năm t−1)
NI% = ;
doanh thu ròng (năm t−1)
Sales growth = ;
36
SLACK = Tiền mặt + đầu tư ngắn hạn + (0.5 x hàng tồn kho) + (0.7 x khoản
phải thu) – Cho vay ngắn hạn ;
SLACK là chỉ số đo lường tính khoản của của công ty, được sử dụng bởi Kaplan
and Zingales (1997). Tính toán dựa vào sự sắp xếp các khoản nợ truyền thống
mà các công ty có thể thiết lập các khoản cho vay hoạt động lên tới 50% giá trị
hàng tồn kho và 70 – 75% các khoản phải thu.
K = tài sản cố định thuần;
Tổng cổ tức đã trả Thu nhập ròng
Tỷ lệ chi trả cổ tức = ;
Cash flow = thu nhập ròng + chi phí khấu hao + thay đổi thuế thu nhập hoãn
lại;
I = Chi tiêu vốn cho đầu tư thuần;
Giá trị thị trường của vốn cổ phần thường Giá trị sổ sách của vốn cổ phần thường
M/B =
Sau khi thực hiện phân tích đa biệt thức phương trình (1) bằng phần mềm SPSS,
ta thu được giá trị ZFC của từng công ty theo từng năm.
Sau đó, người viết thực hiện tính toán các hệ số tài chính trung bình cho giai
đoạn từ năm 2007 đến năm 2012, được thể hiện trong Bảng 3.1 như sau :
37
Bảng 3.1 : Thống kê tóm tắt mẫu nghiên cứu (2007 – 2012)
Phần A : Hệ số tài chính trung bình (2007-2012)
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Tổng mẫu
(tăng cổ
(giảm cổ
(không đổi
tức)
tức)
cổ tức)
Tài sản cố định thuần
496 tỷ
451 tỷ
524 tỷ
577 tỷ
(K)
Hệ số thanh toán hiện
2.25
2.47
2.11
1.90
hành (Current)
Hệ số nợ (Debt)
0.24
0.21
0.24
0.33
Hệ số thanh toán lãi vay
23.70
27.14
23.78
11.77
(FCCov)
Thu nhập ròng (NI%)
13%
15%
13%
8%
Hệ số giá trị thị trường
2.30
2.15
2.46
2.33
trên giá trị sổ sách (M/B)
Tỷ lệ tăng trưởng doanh
18%
18%
19%
15%
thu (Sales growth %)
Slack/K
4.39
4.16
2.27
9.77
Cash flow/K
0.99
1.09
0.95
0.79
Investment/K
0.39
0.45
0.35
0.28
0.00
0.16
(0.03)
(0.46)
Hệ số biệt thức (ZFC)
Phần B : Số lượng công ty theo nhóm chi trả cổ tức
Nhóm
Mẫu
2007
2008
2009
2010
2011
2012
1(tăng cổ tức)
33
52
21
232 (48%)
42 (41%) (64%) (26%) (52%)
45 (56%)
39 (48%)
2(giảm cổ tức)
30
18
52
186 (38%)
29 (37%) (22%) (64%) (36%)
27 (33%)
30 (37%)
18
11
8
3(không đổi cổ tức)
68 (14%)
10 (22%) (14%) (10%) (12%)
9 (11%)
12 (15%)
38
Phần A của Bảng 3.1, người viết trình bày thống kê tóm tắt dữ liệu mẫu nghiên
cứu giai đoạn từ 2007 đến 2012. Bảng này cho thấy rằng các công ty cắt giảm
chi trả cổ tức bị hạn chế tài chính theo các hệ số tài chính truyền thống. Các công
ty cắt giảm cổ tức có hệ số thanh toán hiện hành thấp hơn, hệ số nợ cao hơn, hệ
số thanh toán lãi vay thấp hơn, thu nhập thuần thấp hơn, hệ số Slack/tài sản cố
định thuần thấp hơn những công ty tăng chi trả cổ tức, nhưng hệ số giá trị thị
trường trên giá trị sổ sách của các công ty cắt giảm cổ tức lại cao hơn những
công ty tăng chi trả cổ tức, điều này có vẻ không hợp lý nếu xét theo những quy
luật thông thường, và nó cũng ngược với nghiên cứu của Sean Cleary (1999)
“Những công ty cắt giảm chi trả cổ tức có hệ số giá trị thị trường trên giá trị sổ
sách thấp hơn những công ty tăng chi trả cổ tức”. Vấn đề này xảy ra đối với các
công ty niêm yết trên sàn giao dịch Thành phố Hồ Chí Minh, có thể giải thích là
do thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển đúng mức, các nhà đầu tư
trên thị trường có lẽ chưa có đầy đủ kiến thức để có thể nghiên cứu đầy đủ về các
công ty mình đầu tư, mà có thể họ đầu tư theo kiểu phong trào và hình thức đầu
tư theo kiểu bầy đàn. Để hiểu rõ cặn kẽ vấn đề này, có lẽ phải xem xét thêm về
lý thuyết tài chính hành vi và nghiên cứu thực nghiệm. Trong nghiên cứu này,
người viết sẽ không đề cập thêm về vấn đề này.
Ngoài ra, Phần A Bảng 3.1 cũng cho thấy các công ty không thay đổi tỷ lệ chi trả
cổ tức (nhóm 3) có hệ số tài chính thấp nhất trong 3 nhóm, điều này khác với
nghiên cứu của Sean Cleary (1999) do các công ty không thay đổi tỷ lệ chi trả cổ
tức trong mẫu nghiên cứu phần lớn là các công ty không chi trả cổ tức, khác với
các công ty trong mẫu của Sean Cleary (1999) là các công ty có chi trả cổ tức
nhưng với tỷ lệ không đổi qua các năm.
Phần B Bảng 3.1 trình bày số lượng các công ty tăng (hoặc giảm) cổ tức thay đổi
qua các năm theo sự thay đổi điều kiện kinh tế. Theo đó, số lượng công ty tăng
chi trả cố tức nhiều nhất là 52 công ty vào năm 2008, số lượng công ty cắt giảm
cổ tức nhiều nhất là 52 công ty vào năm 2009. Bằng chứng này bổ sung cho giả
39
thuyết rằng các công ty đối mặt với sự thay đổi mức độ hạn chế tài chính mỗi
năm. Do mục đích của việc phân loại các công ty là để kiểm tra hành vi của các
nhóm mà đối mặt với các mức độ khác nhau về rào cản tài chính, cho phép thành
phần các nhóm thay đổi theo thời gian. Schiantarelli (1995,p.21) tranh luận rằng
các nghiên cứu xác định một công ty vào một nhóm cho toàn bộ thời gian nghiên
cứu là “bỏ qua thông tin là hạn chế tài chính sẽ bị ràng buộc một công ty trong
vài năm nhưng các năm khác có thể không bị ràng buộc”. Điều này cũng phù
hợp trong những trường hợp cho phép các công ty vượt qua trạng thái tài chính”.
Mức ý nghĩa của các chỉ số chỉ ra rằng hệ số thu nhập ròng, hệ số nợ vay, hệ số
khả năng thanh toán lãi vay có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 1%, và tăng
trưởng doanh thu có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Bảng 3.2 trình bày sự tương
quan giữa các biến. Theo đó, biến ZFC có tương quan với hầu hết các biến với
mức ý nghĩa 1%. Biến ZFC có tương quan ngược chiều với biến Debt với giá trị
là -0.84, và có tương quan cùng chiều cao với biến Current, biến FCCov và biến
NI% với giá trị lần lượt là 0.79, 0.61 và 0.49. Biến Current và biến SLACK/K là
2 biến đại diện cho tính thanh khoản của công ty, nhưng biến SLACK/K lại có
tương quan ngược chiều với ZFC với giá trị không đáng kể, theo nghiên cứu của
Sean Cleary (1999), thì biến SLACK/K sẽ tương quan cùng chiều với biến ZFC,
nhưng đối với các công ty Việt Nam, biến này lại ngược chiều, điều này cho thấy
cách tính biến SLACK của Kaplan and Zingales (1997) không phù hợp, điều này
có thể giải thích là do thị trường Việt Nam chưa phát triển nên việc phân loại các
khoản nợ truyền thống và xác định tỷ lệ hàng tồn kho không chính xác, nên làm
cho việc xác định giá trị biến SLACK không đạt được kỳ vọng như mong muốn .
Nhìn chung, các biến này thực hiện tốt công việc dự đoán các công ty cắt giảm
hoặc tăng cổ tức của họ. Tiếp theo, người viết sử dụng ZFC để phân loại các công
ty. Mục đích chính của người viết ở đây là phân loại các công ty theo tình trạng
tài chính, và thống kê tóm tắt về phân loại các nhóm công ty được dự đoán được
trình bày trong Bảng 3.3, thể hiện thành công trong việc đạt được mục tiêu này.
40
Các công ty được phân loại hàng năm theo giá trị ZFC của chúng, phản ánh thực
tế là tình trạng tài chính liên tục thay đổi. Mỗi năm, người viết sắp xếp các công
ty theo giá trị ZFC của từng công ty theo thứ tự từ thấp nhất đến cao nhất, sau đó
phân chia toàn bộ số lượng mẫu của một năm thành 3 nhóm bằng nhau, các công
ty trong nhóm có giá trị ZFC cao nhất được xem là các công ty không bị hạn chế
tài chính (NFC), nhóm các công ty có giá trị ZFC thấp nhất là các công ty bị hạn
chế tài chính (FC), và các công ty còn lại là các công ty bị hạn chế tài chính một
phần (PFC).
41
Bảng 3.2 : Tương quan giữa các biến
Sales Cash Slack/ Current Debt FCCov I/K M/B NI% growth ZFC flow/K K (%)
1 Cash flow/K
0.15** 1 Current
-0.29** -0.43** 1 Debt
1 0.29** 0.29** -0.54** FCCov
-0.03 0.33** 0.19** -0.10* I/K 1
0.12* 0.22** -0.05 0 M/B 0.31** 1
0.53** NI% 0.21** -0.32** 0.41** 0.09* 0.21** 1
0.11* -0.03 0 Sales growth (%) 0.05 0.13** 0.23** 0.03 1
0.42** Slack/K 1 0 0.01 0.02 0.20** 0.13** 0.07 0.05
** Tương quan với mức ý nghĩa 1%.
* Tương quan với mức ý nghĩa 5%
0.32** ZFC 0.79** -0.84** 0.61** 0.15** 0.02 0.49** 0.05** -0.09** 1
42
Bảng 3.3 : Hệ số tài chính trung bình của các nhóm công ty bị hạn chế tài chính
giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012.
Nhóm dự Nhóm dự FC PFC NFC
đoán 1 đoán 2 (hạn chế) (hạn chế 1 (không
(tăng cổ (giảm cổ phần) hạn chế)
tức) tức)
K 330 tỷ 594 tỷ 856 tỷ 290 tỷ 345 tỷ
Current 3.55 1.50 1.19 1.91 3.66
Debt 0.05 0.35 0.46 0.21 0.04
FCCov 53.58 6.28 10.84 56.37 3.90
NI% 24% 7% 5% 10% 25%
M/B 2.39 2.24 2.24 2.17 2.47
Sales 18% 18% 16% 18% 20%
growth (%)
Slack/K 4.45 4.36 5.47 3.74 3.96
Cashflow/K 1.50 0.70 0.58 0.91 1.49
I/K 0.40 0.38 0.33 0.41 0.43
ZFC 1.08 1.15 (0.63) (1.03) (0.11)
Theo Bảng 3.3, ta thấy nhóm dự đoán tăng cổ tức đều có các hệ số cao hơn so
với nhóm dự đoán giảm cổ tức, đặc biệt nhóm dự đoán tăng cổ tức có hệ số
thanh toán ngắn hạn, FCCov, NI% cao hơn đáng kể so với nhóm dự đoán giảm
cổ tức và hệ số nợ thấp hơn đáng kể so với nhóm dự đoán giảm cổ tức. Đặc biệt,
biến ZFC của dự đoán tăng cổ tức có giá trị dương và nhóm giảm cổ tức có giá trị
âm, mà biến ZFC theo Atman có thể dự đoán các công ty bị phá sản trong vòng 2
năm. Như vậy, biến ZFC của các công ty Việt Nam, phần nào cho kết quả dự
đoán phù hợp với nghiên cứu của Atman về dự đoán sự suy giảm giá trị công ty.
43
Ngoài ra, khi so sánh chỉ số của các nhóm FC, PFC và NFC, ta thấy các chỉ số
này đều phù hợp với nội dung của các nhóm. Riêng hệ số Slack/K của nhóm FC
lại cao hơn hai nhóm còn lại.
3.3 ƯỚC TÍNH HỒI QUY
Các biến trong phương trình hồi quy của Steve Fazzari, R.Glenn Hubbard, Bruce
C. Petersen (1988) được ước tính bằng việc sử dụng dữ liệu cố định theo công ty
và theo năm như công thức sau :
I/Kit = βM/B(M/B)it + βCF/K(CF/K)it + uit (2)
I : là các khoản đầu tư vào trang thiết bị và nhà xưởng trong giai đoạn t;
K : là giá trị sổ sách của tài sản cố định thuần năm trước.
CF : là dòng tiền hiện hành được đo lường bằng thu nhập ròng cộng khấu hao
và thay đổi thuế thu nhập hoãn lại.
M/B : là hệ số giá trị thị trường tại thời điểm cuối năm so với giá trị sổ sách.
Sử dụng hệ số M/B đại diện cho cơ hội tăng trưởng theo cách tiếp cận của
Kaplan and Zingales (1997), việc này khác so với cách tiếp cận của Steve
Fazzari, R.Glenn Hubbard, Bruce C. Petersen (1988) là tính toán Q của Tobin
dựa trên chi phí thay thế và giá trị thị trường trung bình của quý 4 năm trước.
Vấn đề chính của nghiên cứu này là so sánh tính nhạy cảm đầu tư – thanh khoản
qua các nhóm công ty khác nhau. Người viết sử dụng bằng chứng mô phỏng để
xác định sự khác nhau đáng kể trong các hệ số hồi quy.
Người viết sử dụng phương pháp OLS để thực hiện hồi quy dữ liệu bảng và thực
hiện trên phần mềm EVIEWS. Ngoài ra, người viết thực hiện hồi quy theo 2
cách : random effect (hiệu ứng ngẫu nhiên) và fixed effect (hiệu ứng cố định).
Để tìm hiểu xem phương pháp hồi quy nào là phù hợp nhất trong ba phương
pháp trên, người viết sử dụng kiểm định LM và kiểm định Hausman.
Trong đó :
44
Kiểm định LM test :
- Giả thuyết H0 : Phương sai qua các thực thể là không đổi (hoặc phương pháp
- Giả thuyết H1 : Phương pháp Random effect phù hợp hơn.
- Nếu p-value < Zα : bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1.
Kiểm định Hausman test :
- Giả thuyết H0 : Không có sự tương quan giữa biến giải thích và yếu tố ngẫu
Pooling phù hợp hơn phương pháp Random effect)
nhiên (hoặc phương pháp Random effect phù hợp hơn phương pháp Fixed
- Giả thuyết H1 : Phương pháp Fixed effect phù hợp hơn.
- Nếu p-value < Zα : bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1.
effect)
Người viết thực hiện hồi quy phương trình (2) lần lượt cho toàn bộ dữ liệu mẫu,
các công ty bị hạn chế tài chính (FC), các công ty bị hạn chế tài chính một phần
(PFC) và các công ty không bị hạn chế tài chính trong mẫu (NFC). Kết quả hồi
quy được trình bày ở Chương 4.
Người viết sử dụng thủ tục bootstrap để tính toán p-values thực nghiệm bằng
cách kết hợp số lượng quan sát giữa 2 nhóm cần so sánh. Mỗi mô phỏng lựa
chọn ngẫu nhiên số quan sát của mỗi nhóm trong mỗi năm tương ứng. Sau đó, hệ
số ước tính được xác định cho mỗi nhóm bằng việc sử dụng các quan sát này,
công việc này được lập lại 5000 lần.
45
CHƯƠNG 4 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 KẾT QUẢ HỒI QUY CHO TOÀN BỘ MẪU QUAN SÁT
Sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất, random effect và fixed effect để
ước tính các hệ số hồi quy ta được kết quả trình bày trong Bảng 4.1:
Bảng 4.1 : Kết quả hồi quy cho toàn bộ mẫu quan sát
Số trong ngoặc là t-Statistic
Pooling Random Effect Fixed Effect
M/B 0.0519*** 0.0526*** 0.0533***
(6.7545) (6.2124) (6.0129)
Cash flow/K 0.1102*** 0.1228*** 0.1558***
(7.0743) (6.7969) (6.8120)
LM test Chi2(1)=32.046***
Hausman test Chi2(2)=5.8918*
*
R2 0.1717 0.1801 0.3964
** Có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
*** Có ý nghĩa thống kê ở mức 1%
Có ý nghĩa thống kê ở mức 10%
Theo kết quả Bảng 4.1 trình bày kết qua cho toàn bộ mẫu, hệ số Chi2 của kiểm
định LM và kiểm định Hausman cho thấy mô hình hồi quy theo fixed effect
(hiệu ứng cố định) là thích hợp nhất trong trường hợp này. Các hệ số của các
biến độc lập trong cả 3 trường hợp đều dương và có ý nghĩa ở mức 1%, tức là có
tác động cùng chiều với biến đầu tư. Nhưng hệ số của phương pháp fixed effect
là cao nhất và có R2 là 39,64%. Điều này chứng tỏ rằng đầu tư có quan hệ cùng
chiều với cơ hội đầu tư và tính thanh khoản của công ty, khi công ty giữ lại 1
đồng lợi nhuận thì công ty sẽ sử dụng từ nguồn tài trợ nội bộ này là 0,1558 đồng
46
để đầu tư. Và khả năng đầu tư của công ty được giải thích tốt bởi cơ hội đầu tư
và tính thanh khoản của chính công ty đó, mới mức độ giải thích là 39,64%.
Bảng 4.2 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty hạn chế tài chính (FC)
Số trong ngoặc là t-Statistic
Pooling Random Effect Fixed Effect
M/B 0.0271** 0.0271** 0.0315*
(2.0984) (2.1054) (1.8798)
Cash flow/K 0.1606*** 0.1606*** 0.0916**
(5.1186) (5.1356) (2.0864)
LM test Chi2(1)=3.2829*
Hausman test Chi2(2)=5.2516*
*
R2 0.1992 0.1992 0.4446
** Có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
*** Có ý nghĩa thống kê ở mức 1%
Có ý nghĩa thống kê ở mức 10%
Bảng 4.2 trình bày kết quả hồi quy đối với nhóm các công ty bị hạn chế tài chính
(FC), hệ số kiểm định LM và kiểm định Hausman với mức ý nghĩa 10% cho thấy
phương pháp hồi quy theo fixed effect là thích hợp nhất, các hệ số của phương
pháp này đều dương, trong đó, hệ số của biến M/B có ý nghĩa ở mức 10% và hệ
số của biến Cash flow/K có ý nghĩa ở mức 5%. Ngoài ra, R2 của phương pháp
hồi quy theo fixed effect có giá trị cao nhất trong 3 phương pháp với giá trị là
44,46%. Như vậy, đối với nhóm các công ty bị hạn chế tài chính, thì cơ hội đầu
tư và tính thanh khoản của công ty cũng giải thích tốt cho việc đầu tư của công
ty, theo đó, khi giá trị thanh khoản của công ty tăng lên 1 đồng, thì công ty sẽ sử
dụng 0,0916 đồng để đầu tư.
47
Bảng 4.3 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty hạn chế tài chính một phần
(PFC)
Số trong ngoặc là t-Statistic
Pooling Random Effect Fixed Effect
M/B 0.0949*** 0.0978*** 0.1015***
(6.1724) (6.9122) (6.0473)
Cash flow/K 0.0817** 0.1170*** 0.1996***
(2.5172) (3.5279) (4.0523)
LM test Chi2(1)=4.4423**
Hausman test Chi2(2)=7.0780**
*
R2 0.2800 0.3243 0.6651
** Có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
*** Có ý nghĩa thống kê ở mức 1%
Có ý nghĩa thống kê ở mức 10%
Bảng 4.3 trình bày kết quả hồi quy đối với nhóm các công ty bị hạn chế tài chính
một phần (PFC), hệ số kiểm định LM và kiểm định Hausman với mức ý nghĩa
5% cho thấy phương pháp hồi quy theo fixed effect là thích hợp nhất, các hệ số
của phương pháp này đều dương và có ý nghĩa ở mức 1%. Ngoài ra, R2 của
phương pháp hồi quy theo fixed effect có giá trị cao nhất trong 3 phương pháp
với giá trị là 66,51%. Với kết quả này, các công ty bị hạn chế tài chính một phần
thì việc đầu tư của công ty càng bị tác động nhiều bởi tính thanh khoản của công
ty, có thể các công ty này đang thấy được những cơ hội đầu tư nên các công ty
này sử dụng nguồn tài trợ nội bộ để tài trợ cho các cơ hội đầu tư, một phần để
tránh kiệt giá tài chính, một phần để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
48
Bảng 4.4 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty không hạn chế tài chính
(NFC)
Số trong ngoặc là t-Statistic
Pooling Random Effect Fixed Effect
M/B 0.0384** 0.0374** 0.0393*
(2.1919) (2.1623) (1.8634)
Cash flow/K 0.0942*** 0.1111*** 0.1550***
(3.2962) (3.6149) (3.7759)
LM test Chi2(1)=3.5380*
Hausman test Chi2(2)=5.9128*
*
R2 0.0965 0.1022 0.5112
** Có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
*** Có ý nghĩa thống kê ở mức 1%
Có ý nghĩa thống kê ở mức 10%
Bảng 4.4 trình bày kết quả hồi quy đối với nhóm các công ty không bị hạn chế
tài chính (NFC), hệ số kiểm định LM cho thấy phương pháp random effect là
thích hợp hơn phương pháp pooling và kiểm định Hausman cho thấy phương
pháp hồi quy theo fixed effect thích hợp hơn phương pháp random effect, như
vậy, trong 3 phương pháp, phương pháp fixed effect thích hợp nhất trong trường
hợp này, các hệ số của phương pháp này đều dương, hệ số M/B có ý nghĩa ở
mức 10% và hệ số Cash flow/K có ý nghĩa ở mức 1%. Ngoài ra, R2 của phương
pháp hồi quy theo fixed effect có giá trị là 51.12%.
Như vậy, kết quả hồi quy từng nhóm mẫu (toàn bộ mẫu, nhóm các công ty bị hạn
chế tài chính (FC), nhóm các công ty bị hạn chế tài chính một phần (PFC), và
49
nhóm các công ty không bị hạn chế tài chính (NFC)) cho thấy sử dụng phương
pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất theo fixed effect là thích hợp nhất.
Mục tiêu của nghiên cứu này là xem xét quan hệ giữa các quyết định đầu tư của
công ty với tình trạng tài chính của nó, đồng thời so sánh mức độ khác nhau giữa
các nhóm công ty này về việc thực hiện các quyết định đầu tư của mình như thế
nào đối với tình trạng tài chính mà công ty đó đang phải đối mặt. Vì vậy, để có
thể so sánh được sự khác nhau này, đòi hỏi các nhóm công ty phải sử dụng cùng
một phương pháp nghiên cứu. Trong các kết quả trên cho thấy, phương pháp hồi
quy bình phương nhỏ nhất theo fixed effect là thích hợp hơn cho việc so sánh
này. Kết quả hồi quy theo phương pháp fixed effect và sử dụng kỹ thuất
Bootstrap để so sánh sự khác nhau giữa các nhóm được trình bày trong Bảng 4.5.
Bảng 4.5: Tổng hợp kết quả hồi quy và so sánh p-values thực nghiệm
Số quan M/B Cashflow/K R2 sát
Hệ số hồi quy
Tổng mẫu 0.0533(6.0129) 0.1558(6.8120) 39.64% 486
FC 0.0315(1.8798) 0.0916(2.0864) 44.46% 162
PFC 0.1015(6.0473) 0.1996(4.0523) 66.51% 162
NFC 0.0393(1.8634) 0.1550(3.7759) 51.12% 162
p-values thực nghiệm
PFC so với FC 0.0491 0.0398
NFC so với FC 0.0694 0.1433
NFC so với PFC 0.0096 0.5037
Kết quả hồi quy trong Bảng 4.5 cho thấy các quyết định đầu tư của công ty nhạy
cảm với cơ hội đầu tư, mà đại diện bởi M/B, nhưng biến thanh khoản nhạy cảm
50
hơn. Các kết quả hồi quy cho các nhóm FC, PFC và NFC cũng cho thấy điều
này. Các kết quả này cho thấy tính thanh khoản và tỷ lệ giá trị thị trường trên giá
trị sổ sách giải thích đáng kể cho các quyết định đầu tư.
Hệ số của biến thanh khoản tất cả đều dương và đáng kể, cho thấy các quyết định
đầu tư của công ty rất nhạy cảm với nguồn vốn nội bộ. Quan trọng hơn, chi tiêu
đầu tư của các công ty bị hạn chế tài chính thì nhạy cảm với tính thanh khoản
hơn các công ty không hạn chế tài chính và công ty bị hạn chế tài chính một
phần. Sự khác nhau giữa hệ số của nhóm NFC với nhóm FC và PFC lần lượt là
14.33% và 50.37%. Sự khác nhau giữa PFC và FC ở mức 3.98%.
Người viết tiếp tục thực hiện phân loại các công ty thành 3 nhóm : nhóm các
công ty không chi trả cổ tức (PAY0), nhóm các công ty chi trả cổ tức từ 0% đến
dưới 30% (PAY30) và nhóm các công ty chi trả cổ tức từ 30% trở lên. Kế tiếp,
người viết phân loại các công ty trong các nhóm chi trả cổ tức này thành các
công ty FC, PFC và NFC. Sau đó, người viết thực hiện ước tính hệ số hồi quy và
thủ tục Bootstrap tương tư như trên để so sách các loại công ty này trong mỗi
nhóm.
51
4.2 KẾT QUẢ HỒI QUY CHO NHÓM CÁC CÔNG TY KHÔNG CHI
TRẢ CỔ TỨC (PAY0)
Bảng 4.6 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty không chi trả cổ tức và bị hạn
chế tài chính (PAY0_FC)
Số trong ngoặc là t-Statistic
Pooling Random Effect Fixed Effect
M/B 0.0570*** 0.0491*** 0.0158
(2.9769) (2.7816) (0.6838)
Cash flow/K 0.0467 0.0539 0.1401**
(1.0289) (1.2943) (2.3850)
LM test Chi2(1)=2.1195
Hausman test Chi2(2)=6.6783**
*
0.1749 0.1513 0.7066 R2
** Có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
*** Có ý nghĩa thống kê ở mức 1%
Có ý nghĩa thống kê ở mức 10%
Bảng 4.6 trình bày kết quả hồi quy cho nhóm các công ty không chi trả cổ tức và
bị hạn chế tài chính (PAY0_FC). Hệ số kiểm định LM và kiểm định Hausman
cho thấy phương pháp hồi quy theo fixed effect thích hợp hơn, hệ số hồi quy của
biến M/B cùng chiều với biến phụ thuộc I/K nhưng lại cho kết quả yếu (không
có ý nghĩa thống kê), hệ số hồi quy của biến Cash flow/K cùng chiều và có ý
nghĩa ở mức 5%. R2 tương đối cao là 70.66%.
52
Bảng 4.7 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty không chi trả cổ tức và bị hạn
chế tài chính một phần (PAY0_PFC)
Số trong ngoặc là t-Statistic
Pooling Random Effect Fixed Effect
M/B 0.1568*** 0.1425*** 0.0898***
(6.5627) (3.1803) (5.4608)
0.1034* 0.3220*** Cash flow/K 0.0165*
(1.8645) (3.5084) (0.2626)
LM test Chi2(1)=3.0149*
Hausman test Chi2(2)=9.5277***
*
0.4761 0.5810 0.9172 R2
** Có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
*** Có ý nghĩa thống kê ở mức 1%
Có ý nghĩa thống kê ở mức 10%
Bảng 4.7 trình bày kết quả hồi quy cho nhóm các công ty không chi trả cổ tức và
bị hạn chế tài chính một phần (PAY0_PFC). Hệ số kiểm định LM và kiểm định
Hausman cho thấy phương pháp hồi quy theo fixed effect thích hợp hơn, hệ số
hồi quy của cả hai biến M/B và biến Cash flow/K cùng chiều và có ý nghĩa ở
mức 1%. R2 khá cao là 91.72%.
53
Bảng 4.8 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty không chi trả cổ tức và không
bị hạn chế tài chính (PAY0_NFC)
Số trong ngoặc là t-Statistic
Pooling Random Effect Fixed Effect
M/B 0.0304 0.0304 0.0268
(0.6752) (0.4283) (0.1784)
Cash flow/K 0.0539 0.0539 -0.0036
(1.0191) (0.6464) (-0.0281)
LM test Không kiểm định được
Hausman test Không có sự khác nhau fixed effect và random effect
*
R2 0.1103 0.1103 0.6841
** Có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
*** Có ý nghĩa thống kê ở mức 1%
Có ý nghĩa thống kê ở mức 10%
Bảng 4.8 trình bày kết quả hồi quy cho nhóm các công ty không chi trả cổ tức và
không bị hạn chế tài chính (PAY0_NFC). Hệ số kiểm định LM và kiểm định
Hausman không cho kết quả kiểm định. Cả 3 phương pháp hồi quy thực hiện cho
nhóm này đều không có ý nghĩa.
Tóm lại, kết quả hồi quy cho nhóm các công ty không chi trả cổ tức cho thấy các
công ty bị hạn chế tài chính trong nhóm này, biến thanh khoản cash fow/K giải
thích tốt cho biến đầu tư I/K, tức là đầu tư rất nhạy cảm với tính thanh khoản của
công ty. Nhóm các công bị hạn chế tài chính một phần thì cả hai biến cơ hội đầu
tư (M/B) và biến thanh khoản (Cash flow/K) đều giải thích tốt cho biến đầu tư
(I/K). Còn nhóm các công ty không hạn chế tài chính thì không cho kết quả thực
nghiệm.
54
4.3 KẾT QUẢ HỒI QUY CHO NHÓM CÁC CÔNG TY CHI TRẢ CỔ
TỨC TỪ 0% ĐẾN DƯỚI 30% (PAY30)
Bảng 4.9 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty chi trả cổ tức từ trên 0% đến
dưới 30% và bị hạn chế tài chính (PAY30_FC)
Số trong ngoặc là t-Statistic
Pooling Random Effect Fixed Effect
M/B -0.0099 -0.0125 -0.0477
(-0.4267) (-0.5296) (-0.9771)
Cash flow/K 0.4039*** 0.4057*** 0.4876**
(4.5527) (4.3638) (2.6845)
LM test Chi2(1)=18.3243***
Hausman test Chi2(2)=0,6910
*
0.3820 0.3557 0.8833 R2
** Có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
*** Có ý nghĩa thống kê ở mức 1%
Có ý nghĩa thống kê ở mức 10%
Kết quả Bảng 4.9 cho thấy phương pháp hồi quy theo random effect thích hợp
hơn, nhưng hệ số M/B có tác động ngược chiều với I/K và không có ý nghĩa
thống kê, còn hệ số Cash flow/K tác động thuận chiều và có ý nghĩa thống kê.
55
Bảng 4.10 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty chi trả cổ tức từ trên 0% đến
dưới 30% và bị hạn chế tài chính một phần (PAY30_PFC)
Số trong ngoặc là t-Statistic
Pooling Random Effect Fixed Effect
M/B 0.0571 0.0571 0.0828
(1.6769) (1.5348) (0.8363)
Cash flow/K 0.1144 0.1144 0.4411
(1.4679) (1.3434) (1.2395)
LM test Chi2(1)=3.1492*
Hausman test Không có sự khác nhau fixed effect và random effect
*
0.2149 0.2149 0.7780 R2
** Có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
*** Có ý nghĩa thống kê ở mức 1%
Có ý nghĩa thống kê ở mức 10%
Bảng 4.10, kết quả kiểm định LM cho biết phương pháp hồi quy theo random
effect thích hợp hơn giữa phương pháp pooling và random effect, nhưng kiểm
định Hausmen không cho kết quả rõ ràng là phương pháp nào thích hợp hơn.
Ngoài ra, các hệ số của cả 3 phương pháp pooling, random effect và fixed effect
tuy là thuận chiều, nhưng không có ý nghĩa thống kê.
56
Bảng 4.11 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty chi trả cổ tức từ trên 0% đến
dưới 30% và không bị hạn chế tài chính (PAY30_NFC)
Số trong ngoặc là t-Statistic
Pooling Random Effect Fixed Effect
M/B 0.0232 0.0316 0.0415
(0.8493) (1.1703) (1.1678)
Cash flow/K 0.0834 0.0705 0.0750
(1.6060) (1.1647) (0.4444)
LM test Không kiểm định được
Hausman test Chi2(2)=0.2556
0.0601 0.0525 0.6688 R2
*
** Có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
*** Có ý nghĩa thống kê ở mức 1%
Có ý nghĩa thống kê ở mức 10%
Bảng 4.11, kết quả kiểm định LM không cho kết quả và kiểm định Hausman cho
biết phương pháp hồi quy theo random effect thích hợp hơn giữa 2 phương pháp
random effect và fixed effect. Ngoài ra, các hệ số của cả 3 phương pháp pooling,
random effect và fixed effect tuy là thuận chiều, nhưng không có ý nghĩa thống
kê.
Kết quả hồi quy thực hiện cho nhóm các công ty chi trả cổ tức từ 0% đến dưới
30% cho thấy hầu như các quyết định đầu tư của các công ty trong nhóm này đều
không được giải thích tốt bởi các cơ hội đầu tư và tính thanh khoản.
57
4.4 KẾT QUẢ HỒI QUY CHO NHÓM CÁC CÔNG TY CHI TRẢ
CỔ TỨC TRÊN 30% (PAY>30)
Bảng 4.12 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty chi trả cổ tức trên 30% và bị
hạn chế tài chính (PAY>30_FC)
Số trong ngoặc là t-Statistic
Pooling Random Effect Fixed Effect
M/B 0.0025 -0.0009 -0.1648
(0.0735) (0.0308) (-2.9112)
Cash flow/K 0.1901*** 0.1951*** 0.4781***
(3.8136) (4.3658) (5.6006)
LM test Chi2(1)=14.3806***
Hausman test Chi2(2)=20.7321***
*
0.2335 0.2286 0.7298 R2
** Có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
*** Có ý nghĩa thống kê ở mức 1%
Có ý nghĩa thống kê ở mức 10%
Kết quả Bảng 4.12 cho thấy phương pháp hồi quy theo fixed effect thích hợp hơn
trong trường hợp này, nhưng hệ số hồi quy của biến M/B ngược chiều và không
có ý nghĩa thống kê, còn biến Cash flow/K thuận chiều và có ý nghĩa ở mức 1%.
Điều này cho thấy các quyết định đầu tư của các công ty chi trả cổ tức trên 30%
và bị hạn chế tài chính thì rất nhạy cảm với tính thanh khoản của nó.
58
Bảng 4.13 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty chi trả cổ tức trên 30% và bị
hạn chế tài chính một phần (PAY>30_PFC)
Số trong ngoặc là t-Statistic
Pooling Random Effect Fixed Effect
M/B 0.0461* 0.0473* 0.0274
(1.7585) (1.8535) (0.6827)
Cash flow/K 0.0997** 0.1145** 0.2061*
(2.3668) (2.5946) (1.8536)
LM test Chi2(1)=22.6615***
Hausman test Chi2(2)=1.1157
*
0.1061 0.1110 0.7264 R2
** Có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
*** Có ý nghĩa thống kê ở mức 1%
Có ý nghĩa thống kê ở mức 10%
Kết quả trên cho thấy cả hai kiểm định LM và Hausmen đều cho kết quả là
phương pháp hồi quy theo random effect là thích hợp nhất trong 3 phương pháp.
Các hệ số hồi quy theo random effect đều thuận chiều và có ý nghĩa thống kê,
tức là các biến này giải thích tốt cho các quyết định đầu tư ở mức R2 là 11.10%.
Điều này cho thấy các quyết định đầu tư của các công ty trong nhóm này đều rất
nhạy cảm với các cơ hội đầu tư và tính thanh khoản của công ty.
59
Bảng 4.14 : Kết quả hồi quy cho nhóm các công ty chi trả cổ tức trên 30% và
không bị hạn chế tài chính (PAY>30_NFC)
Số trong ngoặc là t-Statistic
Pooling Random Effect Fixed Effect
M/B 0.0593** 0.0394* 0.0177
(2.1392) (1.6862) (0.6545)
Cash flow/K 0.1520*** 0.2985*** 0.4706***
(3.0717) (5.7659) (6.1088)
LM test Chi2(1)=6.4194**
Hausman test Chi2(2)=11.1671***
*
R2 0.1425 0.2592 0.7933
** Có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
*** Có ý nghĩa thống kê ở mức 1%
Có ý nghĩa thống kê ở mức 10%
Bảng 4.14 trình bày kết quả hồi quy cho nhóm các công ty chi trả cổ tức trên
30%, các kết quả kiểm định LM và Hausmen cho thấy phương pháp hồi quy theo
fixed effect là thích hợp nhất trong 3 phương pháp. Tuy nhiên, hệ số hồi quy của
biến M/B có giá trị nhỏ và không có ý nghĩa thống kê, tức là các cơ hội đầu tư
không giải thích tốt cho các quyết định đầu tư. Hệ số hồi quy của biến Cash
flow/K giải thích tốt cho các quyết định đầu tư và với mức độ giải thích khá cao
(R2=79.33%).
Tương tự nhóm các công ty chi trả cố tức từ 0% đến dưới 30%, kết quả thực
nghiệm của nhóm này cho thấy các cơ hội đầu tư không giải thích được cho các
quyết định đầu tư, nhưng tính thanh khoản của công ty thì giải thích tốt. Như
60
vậy, Các quyết định đầu tư của công ty càng tăng khi tình hình thanh khoản của
công ty càng tăng lên.
CHƯƠNG 5 : KẾT LUẬN
Người viết sử dụng dữ liệu của 81 công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012 để kiểm tra
tính nhạy cảm của các quyết định đầu tư với tình trạng tài chính của công ty. Sử
dụng phương pháp phân tích biệt thức để tính toán và xác định tình trạng tài
chính của công ty. Ngoài ra, người viết sử dụng phương pháp Bootstrap để xác
định mức độ khác nhau của các hệ số hồi quy đáng kể giữa các nhóm công ty với
nhau.
Bằng chứng thực nghiệm cho thấy các quyết định đầu tư của công ty nhạy cảm
với cơ hội đầu tư, mà đại diện bởi M/B, nhưng biến thanh khoản nhạy cảm hơn.
Sự khác nhau giữa hệ số của nhóm các công ty không hạn chế tài chính và nhóm
các công ty hạn chế tài chính một phần, nhóm các công ty bị hạn chế tài chính là
đáng kể lần lượt là 50.37% và 14.33%. Điều này cho thấy, đối với các doanh
nghiệp Việt Nam, mà cụ thể là các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh, đầu tư của công ty rất nhạy cảm với tình thanh
khoản của công ty, và công ty nào bị hạn chế tài chính thấp nhất thì nhạy cảm
nhất với tính thanh khoản, điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của Kaplan
and Zingales (1997) và Sean Cleary (1999).
Mặt khác, kết quả thực nghiệm cũng cho thấy các quyết định đầu tư của công ty
rất nhạy cảm với tính thanh khoản đối với từng nhóm chi trả cổ tức khác nhau.
Nhưng, sự khác nhau giữa hệ số của các nhóm không hạn chế tài chính (NFC),
hạn chế tài chính một phần (PFC) và hạn chế tài chính (FC) trong nhóm các công
ty không chi trả cổ tức (PAY0), nhóm các công ty chi trả cổ tức dưới 30%
(PAY30) và nhóm các công ty chi trả cổ tức trên 30% (PAY>30) thì chưa tìm
thấy bằng chứng về sự khác nhau giữa các nhóm công ty này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
Nguyễn Thị Ngọc Trang và Trang Thúy Quyên, 2013. Mối quan hệ giữa sử dụng
đòn bẩy tài chính và quyết định đầu tư. Tạp chí Phát triển và Hội Nhập, số 9,
trang 10–15.
Trần Ngọc Thơ và cộng sự, 2003. Tài chính doanh nghiệp hiện đại. Tp. Hồ Chí
Minh: Nhà xuất bản Thống kê.
TIẾNG NƯỚC NGOÀI
Altman, Edward I., 1968, Financial ratios, discrimant analysis and the prediction
of corporate bankruptcy, Journal of Finance 23, 589-609.
Altman, Edward I., Robert G. Haldeman, and P. Narayanan, 1977, Zeta anlysis:
A new model to identify bankruptcy risk of corporations, Journal of Banking and
Finance 1, 29-54.
Bernanke, Ben, and Mark Fertler, 1990, Agency costs, net worth, and business
fluctuations, American Economic Review 79, 14-31.
Bernanke, Ben, and Mark Gerrler, 1990, Financial fragility and economic
performance, Quarterly Journal of Economics 105, 97-114.
Bond, Sterphen, and Costas Meghir, 1994, Dynamic investment models and the
firm’s financial policy, Review of Economic Studies 61, 197-222.
Cohen, Randy, Christopher Polk, and Tuomo Vuolteenaho, 2009. The price
is (almost) right. Journal of Finance 64, 2739–2782.
Erickson, Timothy and Toni Whited, 2000. Measurement error and the
relationship between investment and q. Journal of Political Economy 108, 1027–
1057.
Fazzari, Steven, R. Glenn Hubbard, and Bruce Petersen, 1988, Financing
constraints and corporate investment: Response to Kaplan and Zingales, NBER
Working Paper No. 5462.
Gertler, Mark, 1992, Financial capacity and output fluctuation in an economy
with multi-period financial relationship, Review of Economic Studies 59, 455-
472.
Greenwald, Bruce, Joseph Stiglitz, and Andrew Weiss, 1984, Information
imperfections and macroeconomic fluctuations, American Economic Review 74,
194-199.
Jensen, Michael C., 1986, Agency costs of free cash flow, corporate finance, and
takeovers, American Economic Review 76, 323-329.
Jonathan Lewellen, Katharina Lewellen (2012). Investment and Cashflow: New
evidence. Working paper, Dartmouth College.
Kaplan, Steven N., and Luigi Zingales, 1997, Do financing constrains explain
why investment is correlated with cash flow?, Quarterly Journal of Economics
112, 169-215.
Lamont, Owen, 1997, Cash flow and investment: Evidence from internal capital
markets, Journal of Financial 52, 83-109.
Lang, Larry, Eli Ofek, and René M. Stulz, 1996, Leverage, Investment and firm
growth, Journal of Financial Economics 40, 3-29.
Modigliani, Franco, and Merton H. Miller, 1958, The cost of capital, corporation
finance, and the theory of investment, American Economic Review 48, 261-297.
Myers, Stewart C., 1984, The capital structure puzzle, Journal of Financial 39,
575-592.
Myers, Stewart C., and Nicholas Majluf, 1984, Corporate financing and
investment decisions when firms have information that investor do not have,
Journal of Financial Economics 13, 187-221.
Schiantarelli, Fabio, 1995, Financial constraints and investment: A critical
review of methodological issues and international evidence, Working paper,
Boston College.
Sean Cleary, 1999, The Relationship between Firm Investmetn and Financial
Status, Journal of Financial 54, 673-692.
Whited, Toni, 1992, Debt, liquidity constraints, and corporate investment:
Evidence from panel data, Journal of Finance 47, 1425-1460.
PHỤ LỤC
Dữ liệu thu thập xử lý của các công ty sau :
STT TÊN CÔNG TY
MÃ CHỨNG KHOÁN
1 Công ty Cổ phần Xuất Nhập khẩu Thủy sản Bến Tre ABT
Công ty Cổ phần Xuất Nhập Khẩu Thủy Sản Cửu Long An 2 ACL Giang
3 Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thủy sản An Giang AGF
4 Công ty Cổ phần Bibica BBC
5 Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa BHS
6 Công ty Cổ phần Khoáng sản Bình Định BMC
7 Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh BMP
8 Công ty Cổ phần Gạch men Chang Yih CYC
9 Công ty Cổ phần Dược Hậu Giang DHG
10 Công ty Cổ phần Xuất Nhập khẩu Y tế Domesco DMC
11 Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí - CTCP DPM
12 Công ty Cổ phần Cao su Đồng Phú DPR
13 Công ty Cổ phần Cao su Đà Nẵng DRC
Công ty Cổ phần Sản xuất Kinh doanh Xuất Nhập khẩu Bình 14 GIL Thạnh
15 Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại May Sài Gòn GMC
16 Công ty Cổ phần Chế biến Gỗ Thuận An GTA
17 Công ty Cổ phần Tập đoàn Hapaco HAP
18 Công ty Cổ phần HACISCO HAS
19 Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh địa ốc Hòa Bình HBC
20 Công ty Cổ phần Phát triển Nhà Bà Rịa Vũng Tàu HDC
21 Công ty Cổ phần Kim Khí Thành phố Hồ Chí Minh HMC
22 Công ty Cổ phần Tập đoàn Hòa Phát HPG
23 Công ty Cổ phần Cao su Hòa Bình HRC
24 Công ty Cổ phần Xi măng Hà Tiên 1 HT1
25 Công ty Cổ phần Vận tải Hà Tiên HTV
26 Công ty Cổ phần Đầu tư Thương mại Thủy sản ICF
27 Công ty Cổ phần Dược phẩm Imexpharm IMP
28 Công ty Cổ phần Đầu tư và Công nghiệp Tân Tạo ITA
29 Công ty Cổ phần Kinh Đô KDC
30 Công ty Cổ phần Xuất Nhập khẩu Khánh Hội KHA
31 Công ty Cổ phần Điện Lực Khánh Hòa KHP
32 Công ty Cổ phần Chế biến Hàng Xuất khẩu Long An LAF
33 Công ty Cổ phần Khoáng sản và Vật liệu xây dựng Lâm Đồng LBM
34 Công ty Cổ phần Cơ khí Điện Lữ Gia LGC
35 Công ty Cổ phần Mía Đường Lam Sơn LSS
36 Công ty Cổ phần In và Bao bì Mỹ Châu MCP
37 Công ty Cổ phần Hàng Hải Hà Nội MHC
38 Công ty Cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú MPC
39 Công ty Cổ phần Nam Việt NAV
40 Công ty Cổ phần Giống Cây trồng Trung Ương NSC
41 Công ty Cổ phần Phát triển Đô Thị Từ Liêm NTL
42 Công ty Cổ phần Pin Ắc quy Miền Nam PAC
43 Tổng Công ty Gas Petrolimex – CTCP PGC
44 Công ty Cổ phần Vận tải Xăng dầu Đường thủy Petrolimex PJT
45 Công ty Cổ phần Văn hóa Phương Nam PNC
46 Công ty Cổ phần Nhiệt điện Phả Lại PPC
47 Tổng Công ty Cổ phần Khoan và dịch vụ Khoan Dầu khí PVD
48 Tổng Công ty Cổ phần Vận tải Dầu khí PVT
49 Công ty Cổ phần Bóng đèn Phích nước Rạng Đông RAL
50 Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Sacom SAM
51 Công ty Cổ phần Hợp tác kinh tế và Xuất Nhập khẩu Savimex SAV
52 Công ty Cổ phần Xây dựng Số 5 SC5
53 Công ty Cổ phần Nước Giải khát Chương Dương SCD
54 Công ty Cổ phần Nhiên liệu Sài Gòn SFC
55 Công ty Cổ phần Đại lý Vận tải Safi SFI
56 Công ty Cổ phần Thủy điện Cần Đơn SJD
57 Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đô thị và KCN Sông Đà SJS
58 Công ty Cổ phần Đầu tư Thương mại SMC SMC
59 Công ty Cổ phần Giống Cây trồng Miền Nam SSC
60 Công ty Cổ phần Dầu Thực vật Tường An TAC
61 Công ty Cổ phần Dệt may – Đầu tư – Thương mại Thành TCM
Công
62 Công ty Cổ phần Công nghiệp Gốm sứ Taicera TCR
63 Công ty Cổ phần Phát triển Nhà Thủ Đức TDH
64 Công ty Cổ phần Thương mại Xuất Nhập khẩu Thiên Nam TNA
65 Công ty Cổ phần Cao su Thống Nhất TNC
66 Công ty Cổ phần Nhựa Tân Đại Hưng TPC
67 Công ty Cổ phần Cao su Tây Ninh TRC
68 Công ty Cổ phần Thủy sản Số 4 TS4
69 Công ty Cổ phần Bao bì Nhựa Tân Tiến TTP
70 Công ty Cổ phần Dây và Cáp điện Taya Việt Nam TYA
71 Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Nhà và Đô thị Idico UIC
72 Công ty Cổ phần Vĩnh Hoàn VHC
73 Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Thương mại Viễn Đông VID
74 Công ty Cổ phần Vận tải Xăng dầu Vipco VIP
75 Công ty Cổ phần Thép Việt Ý VIS
76 Tổng Công ty Cổ phần Xây dựng Điện Việt Nam VNE
77 Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam VNM
78 Công ty Cổ phần Bao bì Dầu Thực vật VPK
79 Công ty Cổ phần Container Việt Nam VSC
80 Công ty Cổ phần Viettronics Tân Bình VTB
81 Công ty Cổ phần Vận tải Xăng dầu Vitaco VTO