intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa các biến động mang tính chu kỳ của kinh tế vĩ mô, thị trường chứng khoán và giá dầu ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:83

27
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này xem xét mối quan hệ giữa chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số sản xuất công nghiệp, thị trường chứng khoán và giá dầu ở Việt Nam. Ban đầu phân tích được thực hiện với một khuôn khổ thống kê bao gồm kiểm định đồng liên kết và mô hình VECM để nghiên cứu các chuỗi dữ liệu gốc. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa các biến động mang tính chu kỳ của kinh tế vĩ mô, thị trường chứng khoán và giá dầu ở Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ------------------ VÕ THỊ THẢO NGUYÊN MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC BIẾN ĐỘNG MANG TÍNH CHU KỲ CỦA KINH TẾ VĨ MÔ, THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ GIÁ DẦU Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2014
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ------------------ VÕ THỊ THẢO NGUYÊN MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC BIẾN ĐỘNG MANG TÍNH CHU KỲ CỦA KINH TẾ VĨ MÔ, THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ GIÁ DẦU Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi tên là Võ Thị Thảo Nguyên, tác giả của luận văn thạc sĩ “Mối quan hệ giữa các biến động mang tính chu kỳ của kinh tế vĩ mô, thị trường chứng khoán và giá dầu ở Việt Nam”. Tôi xin cam đoan: Nội dung của luận văn là kết quả nghiên cứu của cá nhân dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang. Luận văn được thực hiện và hoàn tất một cách độc lập, tự thân. Tất cả các số liệu là trung thực và được thu thập từ các nguồn đáng tin cậy, kết quả nghiên cứu được lấy từ phần mềm kinh tế lượng, không sao chép từ các nguồn khác. Tất cả tài liệu tham khảo được sử dụng trong luận văn này đều có trích dẫn đầy đủ và rõ ràng. Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2014 Tác giả đề tài Võ Thị Thảo Nguyên
  4. MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG DANH MỤC HÌNH TÓM TẮT 1. GIỚI THIỆU....................................................................................................................... 2 2. NỀN TẢNG NGHIÊN CỨU .............................................................................................. 6 2.1. Các thành phần của một chuỗi thời gian .................................................................. 6 2.2. Các yếu tố kinh tế vĩ mô và thị trường chứng khoán ............................................... 9 2.3. Tác động giá dầu trên các chỉ số kinh tế vĩ mô và thị trường chứng khoán ........... 17 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ MÔ TẢ DỮ LIỆU .............................................. 25 3.1. Mô hình VAR / VECM .......................................................................................... 25 3.2. Dữ liệu .................................................................................................................... 26 3.2.1. Biến nghiên cứu và dữ liệu ............................................................................. 26 3.2.2. Các thành phần mang tính chu kỳ................................................................... 28 3.2.3. Kiểm định nghiệm đơn vị ............................................................................... 28 3.3. Các bước thực hiện ................................................................................................. 30 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................................................................ 31 4.1. Phương pháp tiếp cận đồng liên kết và VECM ...................................................... 31 4.1.1. Lựa chọn độ trễ thích hợp ............................................................................... 31 4.1.2. Kiểm định đồng liên kết ................................................................................. 32 4.1.3. Kiểm định tính ổn định của mô hình .............................................................. 34 4.1.4. Kiểm định mối quan hệ nhân quả ................................................................... 35 4.1.5. Kết quả ước lượng mô hình VECM................................................................ 36 4.1.6. Hàm xung động phản hồi ................................................................................ 37 4.1.7. Phân rã phương sai của mô hình VECM ........................................................ 40 4.2. Phương pháp tiếp cận VAR .................................................................................... 43 4.2.1. Kết quả sơ bộ .................................................................................................. 43 4.2.2. Kết quả VAR .................................................................................................. 51 5. KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ADF : Augmented Dickey-Fuller AIC : Akaike Information Criterion (Tiêu chuẩn thông tin Akaike) APT : Arbitrage Pricing Theory (Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá) BK : Baxter – King CF : Christian - Fitzgerald CPI : Consumer price index (Chỉ số giá tiêu dùng) ECM : Error Correction Model EIA : Energy Information Administration (Cơ quan Quản lý Thông tin Năng lượng) FPE : Final prediction error (Sai số dự đoán cuối cùng) GDP : Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội) GSO : General Statistics Office of Vietnam (Tổng cục thống kê Việt Nam) HOSE : Ho Chi Minh Stock Exchange (Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh) HP : Hodrick-Prescott HQ : Hannan-Quinn information criterion (Tiêu chuẩn thông tin của Hannan – Quinn) IFS : International Financial Statistics (Thống kê tài chính Quốc tế) IIP : Index Industry Products (Chỉ số sản xuất công nghiệp) ISE : Istanbul Stock Exchange (Chỉ số chứng khoán Istabul) LR : Likelihood Ratio OECD : Organization for Economic Co-operation and Development (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế) PP : Phillips Perron SC : Schwarz information criterion (Tiêu chuẩn thông tin Schwarz) VAR : Vector AutoRegression VECM : Vector Error Correction Model WTI : West Texas Intermediate
  6. DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1 - Mô tả các biến trong mô hình Bảng 3.2 - Kiểm định nghiệm đơn vị theo tiêu chuẩn ADF và PP Bảng 4.1 - Kết quả lựa chọn độ trễ cho mô hình VECM Bảng 4.2 - Kiểm định đồng liên kết mô hình VECM Bảng 4.3 - Vectơ đồng liên kết Bảng 4.4 - Kiểm định nhân quả Granger Bảng 4.5 - Kết quả VECM Bảng 4.6 - Thống kê mô tả các thành phần mang tính chu kỳ theo bộ lọc Hodrick- Prescott Bảng 4.7 - Thống kê mô tả các thành phần mang tính chu kỳ theo bộ lọc Baxter- King Bảng 4.8 - Kiểm định đồng liên kết các thành phần mang tính chu kỳ theo bộ lọc Hodrick-Prescott Bảng 4.9 - Kiểm định đồng liên kết các thành phần mang tính chu kỳ theo bộ lọc Baxter-King Bảng 4.10 - Kết quả lựa chọn độ trễ cho mô hình VAR của các thành phần mang tính chất chu kỳ theo bộ lọc Hodrick-Prescott Bảng 4.11 - Kết quả lựa chọn độ trễ cho mô hình VAR của các thành phần mang tính chất chu kỳ theo bộ lọc Baxter-King Bảng 4.12 - Kết quả kiểm định tính ổn định của hai mô hình VAR với độ trễ 2 Bảng 4.13 - Kết quả các mô hình VAR
  7. DANH MỤC HÌNH Hình 4.1 - Kết quả kiểm định tính ổn định của mô hình VECM với độ trễ 1 Hình 4.2 - Hàm phản ứng xung của mô hình VECM Hình 4.3 - Phân rã phương sai của chỉ số giá tiêu dùng Hình 4.4 - Phân rã phương sai của chỉ số VNIndex Hình 4.5 - Phân rã phương sai của chỉ số sản xuất công nghiệp Hình 4.6 - Đồ thị biểu diễn các thành phần mang tính chu kỳ theo bộ lọc Hodrick- Prescott Hình 4.7 - Đồ thị biểu diễn các thành phần mang tính chu kỳ theo bộ lọc Baxter- King Hình 4.8 - Hàm phản ứng xung của các thành phần mang tính chu kỳ của chỉ số giá tiêu dùng Hình 4.9 - Hàm phản ứng xung của các thành phần mang tính chu kỳ của chỉ số VNIndex Hình 4.10 - Hàm phản ứng xung của các thành phần mang tính chu kỳ của chỉ số sản xuất công nghiệp Hình 4.11 - Phân rã phương sai của thành phần mang tính chu kỳ của chỉ số giá tiêu dùng Hình 4.12 - Phân rã phương sai của thành phần mang tính chu kỳ của chỉ số VNIndex Hình 4.13 - Phân rã phương sai của thành phần mang tính chu kỳ của chỉ số sản xuất công nghiệp
  8. 1 TÓM TẮT Nghiên cứu này xem xét mối quan hệ giữa chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số sản xuất công nghiệp, thị trường chứng khoán và giá dầu ở Việt Nam. Ban đầu phân tích được thực hiện với một khuôn khổ thống kê bao gồm kiểm định đồng liên kết và mô hình VECM để nghiên cứu các chuỗi dữ liệu gốc. Sau đó một mô hình VAR đa biến được sử dụng để kiểm tra mối quan hệ giữa các thành phần mang tính chu kỳ của các chuỗi dữ liệu. Giai đoạn mẫu của nghiên cứu là từ tháng 01/2001 đến tháng 06/2014. Kết quả phân tích VECM cho thấy giá dầu thế giới có mối tương quan cùng chiều với chỉ số giá tiêu dùng. Trong khi đó, thị trường chứng khoán và chỉ số sản xuất công nghiệp lại có mối tương quan ngược chiều với chỉ số giá tiêu dùng. Phân tích các thành phần mang tính chu kỳ cũng cho thấy một mối quan hệ ngược chiều giữa giá dầu và thị trường chứng khoán. Ngoài ra, giá dầu cũng thể hiện một mối tương quan cùng chiều với chỉ số giá tiêu dùng, trong khi thị trường chứng khoán có mối tương quan ngược chiều với chỉ số giá tiêu dùng như trong kết quả mô hình VECM. Cuối cùng, kết quả của các thành phần mang tính chu kỳ không tìm thấy mối quan hệ giữa chỉ số sản xuất công nghiệp và thị trường chứng khoán Việt Nam. Từ khóa: Các thành phần mang tính chu kỳ, VAR, Giá dầu, Các chỉ số kinh tế vĩ mô, Thị trường chứng khoán
  9. 2 1. GIỚI THIỆU Kể từ khi chính thức đi vào hoạt động vào ngày 28/07/2000 đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã không ngừng phát triển và có những đóng góp đáng kể trong sự phát triển của nền kinh tế. Trong năm 2006, vốn hóa của thị trường chứng khoán chỉ chiếm khoảng 22% GDP thì năm 2007 đã lên tới hơn 40% GDP. Chỉ số VNIndex đã lập kỷ lục trong lịch sử 14 năm hình thành thị trường chứng khoán, đạt đỉnh 1170.67 điểm vào ngày 12/3/2007. Tuy nhiên, từ cuối năm 2007 đến nay, tình hình kinh tế thế giới và trong nước có nhiều sự biến động mạnh mẽ về tỷ giá, nhiên liệu, thiên tai, dịch bệnh,... đặc biệt là những biến động của thị trường tài chính do ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính thế giới có nguồn gốc từ khủng hoảng tài chính ở Mỹ, đã dẫn đến tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bên cạnh các tác nhân bên ngoài thì những thông tin tiêu cực về kinh tế vĩ mô cũng đã tác động không nhỏ tới sự suy giảm của thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong thời gian qua, thị trường chứng khoán Việt Nam đã gặp phải rất nhiều khó khăn và thách thức. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế trong và ngoài nước với thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng được quan tâm, nhằm hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách đưa ra các biện pháp phù hợp và hiệu quả, nhằm hỗ trợ cho sự phát triển ổn định của một thị trường chứng khoán còn non trẻ như Việt Nam. Với giả thiết rằng các biến động kinh tế vĩ mô tác động đến giá cổ phiếu thông qua ảnh hưởng của các dòng tiền tương lai và tỷ lệ chiết khấu dòng tiền, mối quan hệ giữa giá cổ phiếu và các biến số kinh tế vĩ mô đã được nghiên cứu rộng rãi. Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá của Ross (1976) đã trở thành động lực chính của nhiều nghiên cứu trước đây và có thể được coi là mô hình định giá tài sản toàn cầu. Các yếu tố kinh tế vĩ mô được đưa vào các mô hình thường là những biến tiền tệ như lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối đoái,... hoặc những biến kinh tế thực như sản xuất, giá dầu,... Trong vài thập kỷ qua, mối quan hệ giữa lợi nhuận của thị trường chứng khoán và các biến kinh tế vĩ mô đã trở thành một chủ đề rất được quan tâm của các nhà nghiên cứu kinh tế thực nghiệm trên toàn thế giới. Những nghiên cứu ban đầu
  10. 3 trong lĩnh vực này hỗ trợ cho lập luận rằng lợi nhuận thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng bởi các thông báo kinh tế. Các nghiên cứu này đã chứng minh sự tồn tại của mối quan hệ đáng kể giữa thị trường chứng khoán với một vài biến số kinh tế vĩ mô được lựa chọn ở mỗi quốc gia. Ngoài ra, các tác giả như Levine và Zervos (1998), Hooker (2004) và Chiarella và Gao (2004) đã đưa ra bằng chứng quan trọng rằng lợi nhuận thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng bởi các chỉ số kinh tế vĩ mô như GDP, năng suất, việc làm và lãi suất. Phản ứng của lợi nhuận thị trường chứng khoán trước những thay đổi trong các biến số kinh tế vĩ mô không thể được xác định sẵn vì những phản ứng này mang tính đặc thù cho từng quốc gia. Nói cách khác, các mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán và các biến kinh tế vĩ mô ở một nền kinh tế nhỏ như Việt Nam có thể khác biệt đáng kể so với những gì đã được ghi nhận ở các nền kinh tế lớn như Mỹ và Anh. Mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển nhanh chóng, nhưng mức độ vốn hóa của thị trường vẫn nhỏ hơn nhiều so với các thị trường phát triển. Vì vậy, gần như chắc chắn rằng chỉ số chứng khoán Việt Nam chủ yếu bị tác động bởi các hoạt động đầu cơ, thao túng và các can thiệp của chính phủ nhiều hơn là từ thị trường thế giới. Thêm nữa, do nhận thức của các nhà đầu tư ở mỗi quốc gia rất khác nhau nên chỉ số giá chứng khoán thường cũng phản ứng với các biến số kinh tế theo những cách khác biệt. Từ đó, dẫn đến có sự khác biệt giữa các nền kinh tế về tầm quan trọng của các chỉ số kinh tế vĩ mô trong nước. Ngoài ra, các nghiên cứu trên thế giới cũng thường xem xét vai trò của các biến toàn cầu trong việc giải thích lợi nhuận của thị trường chứng khoán. Mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô, thị trường chứng khoán và giá dầu cũng đã được nghiên cứu rộng rãi trước đây, điển hình như tại các nước Mỹ, Anh, Nhật Bản, Canada và nhiều quốc gia khác. Giá dầu mỏ là một trong những biến số mang tính thế giới hay được lựa chọn để đưa vào các nghiên cứu nhất. Những năm qua đã chứng kiến một sự đột biến về các nghiên cứu liên quan đến giá dầu, một phần là do sự tăng giá gần đây của mặt hàng chiến lược đóng vai trò không thể thay thế trong nền kinh tế toàn cầu này. Dầu là một trong những mặt hàng được giao dịch nhiều
  11. 4 nhất trên thế giới. Các nghiên cứu đã quan sát rất nhiều biến động giá cả của dầu mỏ và thấy được những biến động này không chỉ liên quan đến sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thế giới mà còn là nguyên nhân dẫn đến lạm phát kinh tế hoặc suy thoái kinh tế. Điển hình cho các nghiên cứu đã được thực hiện về việc đánh giá mối quan hệ giá dầu - kinh tế vĩ mô có thể kể đến như Hamilton (1983), Park và Ratti (2008), Kilian và Park (2007)... Tất cả đều nghiên cứu mối quan hệ ngẫu nhiên giữa các biến số kinh tế vĩ mô và giá dầu. Ngoài ra, các tác giả như Haung và các cộng sự (1996) và Sadorsky (1999) đã kiểm tra mối quan hệ giữa giá dầu và lợi nhuận chứng khoán. Tất cả họ đều kết luận rằng thay đổi giá dầu là yếu tố quyết định quan trọng đến lợi nhuận thị trường chứng khoán. Tại Việt Nam, xăng dầu tiêu dùng trong nước hiện nay chủ yếu phải nhập khẩu, giá trong nước phụ thuộc vào sự biến động của giá thị trường thế giới. Nhìn chung, ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu hàm chứa nhiều yếu tố tiêu cực dễ thấy như xáo trộn tâm lý, tăng giá và sức ép tăng giá, gây sốc trên thị trường chứng khoán, bất lợi trong khu vực kinh doanh khi yếu tố đầu vào tăng giá và quan trọng nhất là tác động trực tiếp đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Tuy nhiên, thực tế là tại các nền kinh tế quy mô nhỏ, tác động giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô, giá dầu và thị trường chứng khoán không được nghiên cứu đầy đủ trong các tài liệu. Có rất ít sự quan tâm về vấn đề này cho các nước châu Á, cụ thể hơn là Việt Nam. Điều quan trọng là cần kiểm tra mối quan hệ giữa các biến kinh tế vĩ mô, thị trường chứng khoán và giá dầu cho nền kinh tế quy mô nhỏ. Với mong muốn góp phần bổ sung tài liệu nghiên cứu thực nghiệm về vấn đề này ở một nước đang phát triển như Việt Nam, nghiên cứu này đã được thực hiện. Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô, giá dầu và thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 1/2001 đến tháng 6/2014. Cụ thể hơn, nghiên cứu này xem xét mối quan hệ giữa chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số sản xuất công nghiệp, thị trường chứng khoán và giá dầu thô tại Việt Nam. Đầu tiên, một kiểm định đồng liên kết và mô hình VECM được sử dụng để phân tích các chuỗi dữ liệu gốc, tức là xem xét các xu hướng dài hạn của các chuỗi dữ
  12. 5 liệu và các phản ứng trong ngắn hạn của chúng. Kết quả cho thấy giá dầu thế giới có mối tương quan ngược chiều với thị trường chứng khoán và thị trường chứng khoán có mối tương quan ngược chiều với chỉ số giá tiêu dùng. Sau đó nghiên cứu tiến hành tách riêng các thành phần mang tính chu kỳ để kiểm tra xem liệu việc phân rã các chuỗi và rút ra các thành phần không quan sát được của chu kỳ có đưa ra được những bằng chứng bổ sung có ý nghĩa hay không. Phương pháp VAR được sử dụng để phân tích các thành phần mang tính chu kỳ này. Kết quả thu được tương tự với kết luận từ mô hình VECM. Phần còn lại của luận văn được tổ chức như sau:  Phần 2: Giới thiệu tổng quan về các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm quan trọng liên quan đến các thành phần mang tính chu kỳ và mối quan hệ giữa các thành phần này của các chỉ số kinh tế vĩ mô, thị trường chứng khoán và giá dầu.  Phần 3: Thảo luận về mô hình VAR/VECM và tính toán các thành phần mang tính chu kỳ. Đồng thời, phần này cũng trình bày đặc tính của các chuỗi dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này.  Phần 4: Trình bày và thảo luận kết quả thực nghiệm.  Phần 5: Kết luận.
  13. 6 2. NỀN TẢNG NGHIÊN CỨU 2.1. Các thành phần của một chuỗi thời gian Những nghiên cứu trước đây thường chú trọng kiểm tra mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng của các chuỗi dữ liệu. Song nghiên cứu này lại tập trung vào việc kiểm tra các mối quan hệ của các thành phần mang tính chu kỳ của các chuỗi dữ liệu. Tốc độ tăng trưởng đại diện cho sự tiến bộ về năng suất hoặc tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, trong khi chu kỳ kinh doanh đại diện cho những biến động xung quanh tiến trình này (xu hướng), tức là chúng đại diện cho một trong những thành phần biến động trong ngắn hạn của một chuỗi. Để hiểu rõ sự khác biệt của các thành phần trong một chuỗi thời gian thì chúng ta cần tìm hiểu sơ lược về chúng. Bất kỳ chuỗi thời gian nào cũng có thể có một số hoặc tất cả các thành phần sau:  Xu hướng (Trend – T): Xu hướng này là mô hình dài hạn của một chuỗi thời gian. Một xu hướng có thể là gia tăng hay suy giảm tùy thuộc vào việc chuỗi thời gian thể hiện một mô hình tăng dài hạn hoặc một mô hình giảm dài hạn. Nếu một chuỗi thời gian không cho thấy một mô hình tăng hoặc giảm thì chuỗi này dừng ở giá trị trung bình.  Chu kỳ (Cyclical – C): Bất kỳ mô hình nào thể hiện một sự vận động lên xuống xung quanh một xu hướng nhất định thì được định nghĩa là một mô hình có tính chu kỳ. Khoảng thời gian tồn tại của một chu kỳ phụ thuộc vào loại hình kinh doanh hoặc ngành công nghiệp được phân tích.  Mùa vụ (Seasonal – S): Tính mùa vụ tồn tại khi chuỗi thời gian thể hiện sự dao động đều đặn trong cùng một tháng (hoặc nhiều tháng) mỗi năm, hoặc trong cùng một quý mỗi năm. Ví dụ, doanh số bán lẻ cao điểm trong tháng mười hai hàng năm.  Bất thường (Irregular – I): Thành phần này là không thể đoán trước. Mỗi chuỗi thời gian có một số thành phần không thể đoán trước, điều này làm cho nó thành một biến ngẫu nhiên.
  14. 7 Các thành phần này có thể được kết hợp trong những cách khác nhau. Người ta thường giả định rằng chúng được nhân hoặc cộng với nhau, ví dụ: yt = T x C x S x I yt = T + C + S + I Để xác định xu hướng, trong trường hợp một, một sẽ chia cho biểu thức đầu tiên của xu hướng (T). Trong trường hợp thứ hai nó được quy định là phép trừ. Chu kỳ kinh doanh đã là một chủ đề chính của các cuộc thảo luận, đặc biệt là trong thời kỳ diễn ra các biến động lớn trong các biến tổng hợp của nền kinh tế công nghiệp hóa, điển hình như trong cuộc Đại suy thoái. Nhiều nhà nghiên cứu đã dành hết thời gian của họ để giải thích nguyên nhân chính của các biến động này và chỉ ra được hậu quả của chúng lên các hoạt động kinh tế thực. Một nghiên cứu quan trọng của Burns và Mitchell (1946) đã mang lại kết quả quan trọng trong việc đo lường và phân loại các chu kỳ kinh doanh. Kể từ đó, kỹ thuật để xác định chu kỳ kinh doanh được cải thiện đáng kể. Trong những năm 1980, với phương pháp khuếch tán của bộ lọc Hodrick-Prescott (bộ lọc HP) nhằm làm mịn xu hướng, những bước tiến mới đã diễn ra trong việc phân tích các chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế thị trường hiện đại. Chu kỳ kinh doanh kể từ đó đã được xem như là độ lệch của xu hướng của các chuỗi thời gian và những xu hướng này có thể thay đổi theo thời gian. Cụ thể hơn, Burns và Mitchell (1946) định nghĩa một chu kỳ kinh doanh như sau: “Một chu kỳ bao gồm sự phát triển mở rộng xảy ra vào cùng một thời điểm trong nhiều hoạt động kinh tế, kế theo là giai đoạn suy thoái thu hẹp nói chung xảy ra tương tự theo chiều ngược lại, và những phục hồi từ sự suy thoái của chu kỳ trước chính là giai đoạn phát triển mở rộng của chu kỳ tiếp theo; trình tự này của những biến động xảy ra thường xuyên nhưng không mang tính định kỳ; thời gian của một chu kỳ kinh doanh có thể thay đổi từ hơn một năm đến mười hoặc mười hai năm; chúng không thể chia được thành các chu kỳ ngắn hơn mà những chu kỳ này có các đặc tính tương tự với biên độ dao động xấp xỉ của chính chúng" (Burns và Mitchell
  15. 8 (1946) - tr.3). Chu kỳ kinh doanh không thể chỉ được xem là biến động đơn thuần xung quanh xu hướng dài hạn của các hoạt động kinh tế. Chu kỳ kinh doanh có các đặc tính khác biệt với các dao động ngắn hạn khác (ví dụ như mùa vụ), như chúng diễn ra đồng thời ở nhiều yếu tố kinh tế - chúng không có chiều dài hoặc biên độ cố định. Vì vậy, các nghiên cứu hiện nay, theo Diebold và Rudebusch (1996), đã góp phần làm mới tầm quan trọng của các chu kỳ bằng việc kiểm tra các hành vi khác nhau của nền kinh tế trong thời kỳ phát triển và suy thoái, tức trong các giai đoạn khác nhau của chu kỳ kinh doanh. Phân tách chuỗi với các thành phần không quan sát được của chúng và rút ra các thành phần mang tính chu kỳ có thể mang lại lợi ích quan trọng cho hoạt động nghiên cứu. Lợi ích quan trọng nhất của việc kiểm tra các chu kỳ kinh doanh là ý nghĩa của chúng trong hỗ trợ quyết định các chính sách. Đặc tính ngắn hạn của chúng cho phép các nhà làm chính sách có thể xây dựng chiến lược của họ với một nỗ lực nhằm giảm thiểu những biến động tức thời. Diebold và Rudenbusch (2001) lập luận rằng chính sách của chính phủ đã góp phần đáng kể trong sự ổn định của chu kỳ kinh doanh kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngoài ra, Rudebusch và Svensson (1999) viện dẫn quan điểm cho rằng các dự báo của chu kỳ kinh doanh là rất cần thiết trong việc xây dựng được các chính sách thành công. Hiện nay bên cạnh bộ lọc Hodrick-Prescott còn có những bộ lọc khác hỗ trợ cho việc bóc tách các thành phần mang tính chu kỳ của các chuỗi dữ liệu thô, ví dụ như bộ lọc Baxter – King và bộ lọc Christiano – Fitzgerald. Dựa theo Filis (2010), nghiên cứu này sẽ sử dụng đồng thời hai bộ lọc Hodrick-Prescott và Baxter – King để tạo ra các chuỗi thành phần mang tính chu kỳ của các biến xem xét. Đây là hai bộ lọc đã được sử dụng phổ biến trong nhiều nghiên cứu trước đây. Christodoulakis và các cộng sự (1995) đã sử dụng bộ lọc HP trong nghiên cứu so sánh các đặc tính chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế Hy Lạp với các đặc tính tương ứng của các nền kinh tế khác thuộc Ủy ban Châu Âu. Hodrick và Prescott (1997) cũng đã sử dụng
  16. 9 bộ lọc HP để nghiên cứu các đặc tính của chu kỳ kinh doanh ở Mỹ những năm sau chiến tranh. Trong khi đó, Dickerson và các cộng sự (1998), Inklaar và Haan (2001) và Ewing và Thomson (2007) cũng sử dụng bộ lọc HP để xem xét chu kỳ kinh doanh ở các nước châu Âu. Bộ lọc BK đã được đề xuất trong nghiên cứu của Baxter và King (1999). Sau đó, Ewing và Thomson (2007) đã sử dụng bộ lọc BK cùng với bộ lọc HP để xem xét mối quan hệ giữa giá dầu và các nhân tố kinh tế vĩ mô ở Anh. 2.2. Các yếu tố kinh tế vĩ mô và thị trường chứng khoán Trong thập niên 1970, S.A Ross đã triển khai một mô hình nổi tiếng gọi là kinh doanh chênh lệch giá (APT) bằng cách sử dụng các yếu tố đa rủi ro giải thích tỷ suất sinh lợi của chứng khoán. Mô hình APT cho rằng tỷ suất sinh lợi của chứng khoán là một hàm số tuyến tính của tập hợp các yếu tố kinh tế tác động đến tất cả các chứng khoán. Ross (1976) đã triển khai mô hình này như sau: ̅ + β1 F1 + β2 F2 + ⋯ + βn Fn + ∈ R= R (1) Trong đó: R: tỷ suất sinh lợi của chứng khoán ̅: tỷ suất sinh lợi mong đợi của chứng khoán R Fn: yếu tố thứ n : đặc trưng đối với từng chứng khoán riêng biệt và không liên quan gì đến  của các chứng khoán khác Mô hình thể hiện ở phương trình (1) được gọi là mô hình nhân tố và nguồn gốc của rủi ro hệ thống ký hiệu là F được gọi là các yếu tố. Các yếu tố được sử dụng trong mô hình này có thể là lạm phát, GDP, thay đổi trong lãi suất, rủi ro chính trị, giá dầu, khu vực mậu dịch, tỷ giá hối đoái... Nhiều nhà khoa học đã chứng minh bằng các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô đối với thị trường chứng khoán. Theo Ritter (2005), tăng trưởng kinh tế và tỷ suất sinh lợi thị trường chứng khoán muốn tốt hơn đòi hỏi
  17. 10 phải tăng chi phí vốn. Điều này cần phải có một trong hai nguồn tái đầu tư lợi nhuận nhiều hơn (và trả cổ tức ít hơn trong ngắn hạn) hoặc tiết kiệm cá nhân được đầu tư vào các công ty phát hành cổ phiếu cao hơn. Do đó, một mối quan hệ một chiều có thể được giả định là tồn tại giữa tăng trưởng kinh tế và tỷ suất sinh lợi thị trường chứng khoán. Nhiều nghiên cứu đã cố gắng để cung cấp bằng chứng về mối quan hệ một chiều này. Gjerde và Sættem (1999) sử dụng cách tiếp cận VAR, nghiên cứu về mối quan hệ giữa lợi nhuận cổ phiếu và các yếu tố kinh tế vĩ mô ở một số thị trường chính tiêu biểu cho nhóm nước có nền kinh tế nhỏ, mở (Canada, Úc, Thụy Điển và Na Uy). Họ cũng chỉ ra rằng phản ứng của thị trường chứng khoán với những thay đổi trong GDP bị trì hoãn. Bilson và cộng sự (2001) sử dụng mô hình APT để nghiên cứu mối quan hệ giữa cung tiền và hoạt động thị trường chứng khoán trong các thị trường chứng khoán mới nổi. Các kết quả cho thấy GDP đóng vai trò như chỉ số lãnh đạo các biến động thị trường chứng khoán, có nghĩa là tăng trưởng GDP dẫn đến sự phát triển thị trường chứng khoán trong giai đoạn tiếp theo. Glen (2002) sử dụng dữ liệu giai đoạn 1980-2001 của 18 quốc gia thuộc nhóm thị trường mới nổi cho thấy tăng trưởng GDP sau một đợt phá giá tiền tệ sẽ làm tăng lợi nhuận các tài sản trong nước được nắm giữ qua thời gian này. Vassalou (2003) đã kiểm định một mô hình Fama – French ba nhân tố, kết hợp các thông tin liên quan đến tăng trưởng GDP trong tương lai. Kết quả cho thấy khi đi kèm với các yếu tố thị trường, mô hình có thể giải thích lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Tóm lại, tin tức liên quan đến GDP trong tương lai có thể giải thích lợi nhuận thị trường chứng khoán hiện tại, dữ liệu chéo của giá trị ghi sổ trên giá trị thị trường và quy mô danh mục đầu tư. Acikalin và các cộng sự (2008) sử dụng các kiểm tra đồng liên kết và mô hình VECM trên một tập dữ liệu hàng quý để điều tra mối quan hệ giữa lợi nhuận thị trường chứng khoán Istanbul (ISE) và các biến số kinh tế vĩ mô của nền kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ. Kết quả cho thấy mối quan hệ ổn định lâu dài giữa ISE và bốn biến số kinh tế vĩ mô: GDP, tỷ giá, lãi suất, cán cân vãng lai. Trong khi đó, kết quả của các kiểm định quan hệ nhân quả cho thấy có mối quan hệ một chiều
  18. 11 giữa các chỉ số vĩ mô và chỉ số ISE. Theo quan sát từ các kết quả thực nghiệm, những thay đổi trong quá khứ của ISE và GDP có tác động tiêu cực đến những thay đổi hiện tại trong chỉ số ISE. Lạm phát cũng là một yếu tố được xem là có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán. Ở các nước phát triển, lạm phát và thị trường chứng khoán có mối quan hệ ngược chiều. Lạm phát tăng cao luôn là dấu hiện cho thấy nền kinh tế đang nóng, báo hiệu sự tăng trưởng kém bền vững. Thông qua việc sử dụng các phương pháp VAR và đồng liên kết, Pearce và Roley (1983), Gjerde và Sættem (1999) cho rằng lạm phát có mối tương quan ngược chiều với hoạt động thị trường chứng khoán. Điều này có nghĩa là lạm phát càng thấp thì lợi nhuận thị trường chứng khoán càng cao và ngược lại. Cụ thể, Pearce và Roley (1983) sử dụng các dữ liệu hàng tuần của Mỹ bắt đầu vào ngày 29/09/1977 và kết thúc vào ngày 29/01/1982, chia làm ba giai đoạn nhỏ để nghiên cứu. Gjerde và Sættem (1999) lại nghiên cứu ở nền kinh tế nhỏ mở là Na Uy. Kết quả của nghiên cứu này còn cho thấy thị trường chứng khoán có một phản ứng chậm với những thay đổi trong hoạt động kinh tế thực trong nước. Những kết quả giống hệt nhau đã được công bố kể từ đầu thập niên 70 của một số tác giả, chứng minh rằng một mối quan hệ ngược chiều tồn tại giữa lạm phát và lợi nhuận thị trường chứng khoán. Điển hình là nghiên cứu của Fama và Schwert (1977), xem xét mức độ phản ứng của các tài sản khác nhau trước các thay đổi ngẫu nhiên của tỷ lệ lạm phát ở Mỹ trong giai đoạn 1953-1971. Kết quả cho thấy trái phiếu chính phủ Mỹ và các hối phiếu là một rào cản hiệu quả chống lại cả lạm phát dự kiến và lạm phát bất thường. Kết quả bất ngờ nhất là lợi nhuận cổ phiếu phổ thông có mối quan hệ ngược chiều với tỷ lệ lạm phát. Tiếp đến, Fama (1981) lập luận rằng lạm phát được xem như biến số đại diện cho các biến kinh tế thực khi xem xét mối quan hệ giữa lạm phát và lợi nhuận chứng khoán. Khi hoạt động kinh tế dự kiến gia tăng sẽ dẫn đến sự gia tăng lợi nhuận cổ phiếu, nhưng do tính không trung lập trong ngắn hạn của tiền tệ, lạm phát tăng dẫn đến làm giảm hoạt động kinh tế và do đó làm giảm lợi nhuận cổ phiếu. Geske and Roll (1983) cũng nhận định lợi nhuận chứng khoán có mối quan hệ ngược chiều với lạm phát dự kiến và lạm phát
  19. 12 bất thường, nhưng không thể hiện một mối quan hệ nhân quả. Mối quan hệ ngược chiều này báo hiệu một chuỗi các sự kiện dẫn đến kết quả là sự gia tăng mở rộng tiền tệ. Chen và cộng sự (1986), Solnik và Solnik (1997) và Schotman và Schweitzer (2000) cũng cho thấy kết quả tương tự về mối quan hệ nghịch biến giữa lạm phát và thị trường chứng khoán. Bilson và cộng sự (2001) cũng đã chứng minh được rằng chỉ số CPI có ý nghĩa trong việc giải thích cho lợi nhuận thị trường chứng khoán. Engsted và Tanggaard (2002) sử dụng phương pháp VAR để so sánh mối quan hệ của lạm phát và thị trường chứng khoán giữa Mỹ và Đan Mạch. Mặc dù có những khác biệt lớn trong mối quan hệ của lạm phát kỳ vọng và lợi nhuận tài sản kỳ vọng giữa hai quốc gia, song kết quả nghiên cứu vẫn khẳng định thị trường chứng khoán là một rào chắn hiệu quả trước những biến động bất thường của lạm phát. Kim và In (2005) trình bày một cái nhìn mới về giả thuyết Fisher với cách tiếp cận mới. Nghiên cứu này thực hiện dựa trên phương pháp phân rã các chuỗi được chia thành những độ dài khác nhau theo thời gian. Kết quả thực nghiệm cho thấy có một mối quan hệ cùng chiều giữa lợi nhuận cổ phiếu và lạm phát ở quy mô ngắn nhất (1 tháng) và ở quy mô dài nhất (128 tháng), trong khi một mối quan hệ ngược chiều được tìm thấy ở quy mô trung bình. Lãi suất cũng đã được xem xét trong nghiên cứu của Pearce và Roley (1983) và Gjerde và Sættem (1999) cùng với lạm phát. Và kết quả thu được cho rằng lãi suất và hoạt động thị trường chứng khoán có mối tương quan ngược chiều. Tức là lãi suất càng giảm thì lợi nhuận thị trường chứng khoán càng cao và ngược lại. Hơn nữa, thay đổi lãi suất thực tế sẽ ảnh hưởng đến cả lợi nhuận chứng khoán và lạm phát. Omrana (2003) không đề cập đến lạm phát mà chỉ tập trung xem xét ảnh hưởng của lãi suất lên lợi nhuận của thị trường chứng khoán tại Ai Cập trong giai đoạn 18 năm, từ 1980/1981 đến 1997/1998. Nghiên cứu này cho thấy các hoạt động thị trường chứng khoán tăng lên khi lãi suất thực tăng, ngụ ý một mối quan hệ cùng chiều giữa các biến. Kết luận mâu thuẫn với các nghiên cứu trên. Sự khác biệt này được giải thích là do phản ứng khác nhau của các nhà đầu tư ở thị trường chứng
  20. 13 khoán phát triển và thị trường chứng khoán mới nổi trước một sự gia tăng của lãi suất thực. Acikalin và các cộng sự (2008) đã tìm thấy những thay đổi trong chỉ số thị trường chứng khoán làm ảnh hưởng đến lãi suất, nhưng tác động ròng của ảnh hưởng này là cùng chiều hay ngược chiều thì không thể kết luận chắc chắn. Bên cạnh các yếu tố tiêu biểu kể trên thì còn nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô khác cũng được đưa vào các nghiên cứu. Cung tiền và tỷ giá hối đoái, thường được lựa chọn trong nhiều chỉ số khác để xem xét và đã được xác định là có ảnh hưởng đến lợi nhuận cổ phiếu (Flannery và Protopapadakis (2002)). Dựa trên bằng chứng của Bilson và cộng sự (2001), cung tiền có ý nghĩa trong việc giải thích cho lợi nhuận thị trường chứng khoán. Acikalin và các cộng sự (2008) đã chứng tỏ được rằng những thay đổi trong quá khứ của tỷ giá hối đoái và cán cân vãng lai có tác động tiêu cực đến những thay đổi hiện tại trong thị trường chứng khoán Istanbul của Thổ Nhĩ Kì. Tuy nhiên mối quan hệ một chiều giữa các biến kinh tế vĩ mô và thị trường chứng khoán không phải là luôn luôn rõ ràng. Một số nghiên cứu đã cố gắng để giải thích mối quan hệ giữa các chỉ số kinh tế vĩ mô và tỷ suất sinh lợi thị trường chứng khoán nhưng đã không thể đưa ra một câu trả lời rõ ràng (Balke và Wohar (2001), Rapach (2001)). Theo một số tác giả (Carlstrom và cộng sự (2002), Wongbangpo và Sharma (2002)), có tồn tại mối quan hệ không rõ ràng giữa các chỉ số kinh tế vĩ mô và tỷ suất sinh lợi thị trường chứng khoán. Ví dụ thị trường chứng khoán có thể dự đoán sự chuyển động trong GDP, điều này không luôn luôn có nghĩa là thị trường chứng khoán làm cho GDP thay đổi. Nhìn chung, các nghiên cứu này dù không đưa ra kết luận trực tiếp nhưng vẫn thể hiện có tồn tại mối quan hệ chắc chắn giữa các biến kinh tế vĩ mô và các biến động của thị trường chứng khoán, với “quan hệ nhân quả” chạy từ môi trường kinh tế vĩ mô đến thị trường chứng khoán và do đó, nói chung, tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến tỷ suất sinh lợi thị trường chứng khoán cao hơn. Ngoài ra, theo một số tác giả, không phải tất cả các trường hợp đều là các biến kinh tế vĩ mô gây ra những thay đổi về tỷ suất sinh lợi thị trường chứng khoán, mà
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2