intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:133

15
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về cạnh tranh, phân tích thực trạng sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam, đưa ra quan điểm và những giải pháp cơ bản để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐINH THỊ NƯƠNG NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGHÀNH CÔNG NGHIỆP ĐƯỜNG MÍA VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ MÃ SỐ : 60 31 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM VĂN DŨ NĂM 2007
  2. MỤC LỤC NỘI DUNG Trang Phần mở đầu 1 Chương 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh của 5 ngành công nghiệp đường mía 1.1 Lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh 5 1.2 Một số kinh nghiệm quốc tế trong việc nâng cao năng lực 20 cạnh tranh của ngành đường mía Chương 2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp 33 đường mía Việt Nam 2.1 Khái quát tình hình ngành công nghiệp đường mía Việt Nam 33 2.2 Phân tích năng lực cạnh tranh của công nghiệp đường mía 48 Việt Nam những năm qua 2.3 Đánh giá năng lực cạnh tranh của công nghiệp đường mía 58 Việt Nam những năm qua Chương 3 Quan điểm và giải pháp cơ bản để nâng cao năng lực cạnh 74 tranh của công nghiệp đường mía Việt Nam 3.1 Bối cảnh mới và những yêu cầu đặt ra cho ngành công nghiệp 74 đường mía Việt Nam 3.2 Định hướng phát triển và quan điểm nâng cao năng lực cạnh 87 tranh của công nghiệp đường mía Việt Nam 3.3 Những giải pháp cơ bản để nâng cao năng lực cạnh tranh của 96 công nghiệp đường mía Việt Nam Kết luận chương 3 115 Kết luận 117 Phụ lục
  3. PHẦN MỞ ĐẦU 1- Tính cấp thiết của đề tài: Cạnh tranh là qui luật của nền kinh tế thị trường, là động lực cho sự phát triển. Trong cơ chế thị trường, các chủ thể kinh tế không những phải chấp nhận cạnh tranh trên thị trường nội địa mà còn phải chấp nhận cạnh tranh trên thị trường thế giới. Sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng, mức độ cạnh tranh ngày càng quyết liệt khi nền kinh tế của nước ta thực hiện lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, rộng hơn. Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và của hàng hoá Việt Nam trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước ta và doanh nghiệp, khi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đang vào giai đoạn mới. Nâng cao sức cạnh tranh cũng có nghĩa là khắc phục được nguy cơ tụt hậu, tạo ra động lực cho phát triển, sử dụng tốt nhất nguồn lực của đất nước và làm cho hoạt động kinh tế của mỗi doanh nghiệp, của cả quốc gia có hiệu quả cao nhất. Sau hai mươi năm đổi mới kinh tế và hơn mười năm hội nhập kinh tế quốc tế, ở Việt Nam hiện nay đã có một số ngành, một số lĩnh vực đã có thể cạnh tranh được với hàng ngoại nhập, nhiều loại hàng hoá dịch vụ của nước ta chiếm được thị phần đáng kể ở hàng trăm nước trên thế giới. Bên cạnh đó, còn nhiều ngành hàng chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong đó có ngành công nghiệp đường mía. Ngành công nghiệp đường mía Việt Nam đang đứng trước những thách thức rất gay gắt trong qúa trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy có rất nhiều nhà máy đường, nhưng lại chỉ có rất ít nhà máy tầm cỡ có đủ năng lực cạnh tranh trong điều kiện mới, phần lớn các nhà máy có qui mô nhỏ, thiết bị và công nghệ Trung Quốc, (năng suất thiết bị, năng suất lao động, hiệu quả chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao). Vùng nguyên liệu qui mô nhỏ bé, phân tán, năng suất nông nghiệp và năng suất công nghiệp chế biến thấp, chưa được đầu tư tương xứng với yêu cầu sản xuất công nghiệp, diện tích trồng mía ở nhiều đang có chiều hướng thu hẹp dần, các nhà máy thiếu mía nguyên liệu để sản xuất. Công nghiệp đường mía Việt Nam đang phát triển trong tình trạng mâu thuẫn: công suất sản xuất thừa đáp ứng nhu cầu trong nước nhưng năm 2005 và năm 2006 nước ta lại luôn trong tình trạng thiếu đường. Hàng năm, nhà nước phải chi ra một lượng ngoại tệ khá lớn để nhập khẩu đường (năm 2005 là 100.000 tấn, năm 2006 là 250.000 tấn). (Chưa kể đến lượng đường nhập lậu ước tính vài trăm ngàn tấn /năm). Sự sa sút của công nghiệp đường mía đã tác động xấu đến sự phát triển các vùng nông thôn. Là một nước có tiềm năng đất đai, điều kiện tự nhiên, khí hậu phù hợp với sự phát triển cây mía - cây mía đã được chọn là một trong những cây công nghiệp có vị 1
  4. trí quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở nhiều địa phương- Việt Nam hoàn toàn có khả năng phát triển ngành công nghiệp đường mía. Việc phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía được coi là một trong những mũi nhọn chiến lược nhằm khai thác tiềm năng đất đai, giải quyết công ăn việc làm và thu nhập cho hàng triệu người lao động và những người ăn theo, góp phần xoá đói giảm nghèo nhiều vùng ở nông thôn Việt Nam; đồng thời có sản phẩm đường đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Thực tiễn đó là đang vấn đề cấp bách không chỉ trước mắt mà còn là vấn đề lâu dài để phát triển ngành công nghiệp đường mía Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xuất phát từ tình hình ấy, chủ đề "Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam" được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn này. Thông qua nghiên cứu này, luận văn hy vọng đưa ra được những giải pháp nâng thiết thực nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công nghiệp đường mía, khai thác được tiềm năng, thế mạnh của Việt Nam, góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp quan trọng này. 2- Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. * Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài. - Adam Leetham, Trade Review of Sugar Trade, presetation at Asia International Sugar Conference, 24-25 Sep.2003 - Andy Duff, Finace Avaiability for Sugar, a presetation at Asia International Sugar Conference, 24-25 Sep.2003 - Bryce Wenham, Competitiveness in today, s sugar Markets, presetation at Asia International Sugar Conference, 24-25 Sep.2003. * Những nghiên cứu trong nước:. - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Cơ hội và thách thức của ngành Mía Đường trong quá trình hội nhập quốc tế”. Hà Nội 8/2005. - Cục Chế biến Nông sản và Ngành nghề Nông thôn - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: Báo cáo thị trường Đường. Hà Nội 2002/2003 - Cục Chế biến nông sản và Ngành nghề nông thôn - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: Khả năng cạnh tranh ngành Mía Đường Việt Nam. Hà Nội 8/2005. 2
  5. - Cục Chế biến nông sản và Ngành nghề nông thôn – Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: Các báo cáo tổng kết về các niên vụ sản xuất đường mía từ năm 1994 đến nay. - Cục Quản lý giá - Bộ Tài Chính “Báo cáo kết quả điều tra chi phí sản xuất và giá thành mía, đường”. Năm 2005. Những nghiên cứu trên đây hướng vào việc phân tích, đánh giá một số khía cạnh trong năng lực cạnh tranh của sản phẩm Mía Đường Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, hoặc là những báo cáo đánh giá tình hình sản xuất và thị trường mía đường nhằm phục vụ công tác quản lý ngành. Bên cạnh đó, trên các trang báo và tạp chí cũng không ít các bài báo phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của các nhà máy đường trong nước. Luận văn này kế thừa kết quả phân tích của các nghiên cứu và tài liệu trên đây, kết hợp với việc phân tích tình hình hiện nay, đưa ra những đánh giá mới mang tính tổng thể về thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía, đồng thời đề xuất các quan điểm và giải pháp cho sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía phù hợp với yêu cầu mới của hội nhập kinh tế quốc tế. 3- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về cạnh tranh, phân tích thực trạng sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam, đưa ra quan điểm và những giải pháp cơ bản để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. * Nhiệm vụ nghiên cứu: - Một số lý luận chung về cạnh tranh để nhằm làm rõ một số vấn đề cơ bản của cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam. - Khảo sát ngành công nghiệp đường mía ở một số quốc gia và rút ra bài học kinh nghiệm về nâng cao năng lực cạnh tranh công nghiệp đường mía cho Việt Nam. - Phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh của công nghiệp đường mía Việt Nam, chỉ ra những điểm yếu và hạn chế vê năng lực cạnh tranh của công nghiệp đường mía hiện nay. 3
  6. - Đề xuất quan điểm và những giải pháp cơ bản nhằm phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới. 4- Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. * Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu năng lực cạnh tranh của công nghiệp đường mía Việt Nam dưới góc độ Kinh tế chính trị. Do đó, luận văn đặc biệt quan tâm phân tích năng lực cạnh tranh của công nghiệp đường mía dưới sự tác động của môi trường thể chế, các chính sách của nhà nước… * Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu công nghiệp đường mía Việt Nam lấy thời điểm từ năm 1994 (thời điểm này Chương trình phát triển mía đường ở Việt Nam ra đời và được Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt vào tháng 10-1994 với mục tiêu “đến năm 2000 sản xuất 1 triệu tấn đường”) đến nay. 5- Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, Tác giả sử dụng những phương pháp luận trong nghiên cứu kinh tế chính trị là: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nhưng phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là: phương pháp lôgic kết hợp với lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, kết hợp phân tích với tổng hợp… Đặc biệt luận văn có tham khảo và kế thừa những công trình khoa học có liên quan, các báo cáo tổng kết của các bộ liên quan như Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài chính, Hiệp Hội Mía đường Việt Nam... 6- Đóng góp mới của Luận văn Thứ nhất: Làm rõ thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành đường mía Việt Nam, trên cơ sở đó chỉ ra những ưu điểm, những tồn tại và hạn chế, những vấn đề đặt ra trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam. Thứ hai: Đề xuất quan điểm và những giải pháp cơ bản để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phần Phụ lục, luận văn cấu trúc thành 3 chương. 4
  7. Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam. Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam hiện nay. Chương 3: Quan điểm và những giải pháp cơ bản để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam. 5
  8. CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐƢỜNG MÍA 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH 1.1.1 Một số khái niệm: - Cạnh tranh. Khái niệm về cạnh tranh đã được các nhà nghiên cứu của các trường phái kinh tế khác nhau nghiên cứu, xem xét và phân tích dưới nhiều góc độ, cấp độ khác nhau. Các nhà nghiên cứu kinh tế tư sản Cổ điển cho rằng: "Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng;... nó mang lại cho mỗi thành viên trong thị trường một phần xứng đáng so với khả năng của mình...". C.Mác là người nghiên cứu chủ nghĩa tư bản trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường cũng cho rằng, "cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch"... Trong nền kinh tế thị trường, thuật ngữ cạnh tranh được dùng để chỉ cuộc đấu tranh quyết liệt, sống còn giữa các nhà sản xuất, cung cấp các chủng loại hàng hóa, dịch vụ với nhau; không phân biệt hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất (nhà nước, tập thể hay tư nhân...) với mục đích cuối cùng của cạnh tranh là giành lấy phần thuận lợi hơn cho mình. Theo từ điển Cornu (Pháp), cạnh tranh được hiểu là "Chạy đua trong kinh tế; hành vi của các doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau cung ứng hàng hóa, dịch vụ nhằm làm thỏa mãn nhu cầu giống nhau với sự may rủi của mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo được hoặc để bị mất đi một lượng khách hàng thường xuyên". "Chạy đua trên một thị trường mà cấu trúc và sự vận hành của thị trường đó đáp ứng các điều kiện của quy luật cung cầu giữa một bên là các nhà cung cấp với bên kia là những người sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa hoặc dịch vụ; các hàng hóa, dịch vụ này được tự do tiếp cận trong điều kiện các điều kiện kinh doanh không phải là hệ quả của áp lực hoặc ưu đãi do pháp luật mang lại". Trong Đại từ điển Kinh tế Thị trường (Trung Quốc) khái niệm về cạnh tranh được đề cập đến với thuật ngữ "cạnh tranh hữu hiệu", "cạnh tranh có hiệu quả", "cạnh tranh giá cả", "cạnh tranh phi giá cả" và "cạnh tranh tiềm tàng". 6
  9. Trong Đại từ điển Tiếng Việt, cạnh tranh được định nghĩa là sự "tranh đua giữa các cá nhân, tập thể có chức năng như nhau nhằm giành phần hơn, phần thắng về mình"; "cạnh tranh quốc tế" được hiểu là "cạnh tranh giành nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ của sản phẩm trên thế giới". Cũng về khái niệm này, Từ điển Thuật ngữ Kinh tế cho rằng: "cạnh tranh - sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành được". Vì mục tiêu lợi nhuận, các nhà sản xuất nhất thiết phải chiến thắng trong cạnh tranh hoặc chí ít là cùng phân chia một thị trường có giới hạn với các đối thủ cạnh tranh của mình. Như vậy, rõ ràng là bản chất của cạnh tranh là nhằm tới tối ưu hóa đầu vào (hạ thấp tối đa chi phí sản xuất) và tối đa hoá đầu ra (thu lợi nhuận cao nhất có thể). Một số nhà nghiên cứu kinh tế Việt Nam quan niệm rằng: Cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa, dịch vụ và đó là con đường, phương thức để giành lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế... Tóm lại, còn có nhiều nhìn nhận chưa thật sự thống nhất về khái niệm cạnh tranh, song, xét về bản chất của nó thì cạnh tranh luôn được phân tích, nhìn nhận, đánh giá trong trạng thái động và được ràng buộc trong mối quan hệ so sánh một cách tương đối. Theo cách nhìn nhận đó thì mọi nỗ lực mà các bên tham gia nhằm tìm kiếm, dành giật những lợi thế về mình đều được thống nhất diễn tả trong các khái niệm khác nhau về cạnh tranh. Cạnh tranh bao hàm hai mặt: Tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực thì cạnh tranh đã tạo động lực để các chủ thể vươn tới, đạt tới trạng thái tiến bộ hơn (năng suất cao hơn, mẫu mã đẹp hơn, chất lượng tốt hơn...) nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất có thể. Tuy nhiên, nếu cạnh tranh được tiến hành bằng các động thái tiêu cực thì sẽ trở nên kìm hãm sự hình thành và phát triển cái mới, mang lại một thực trạng cực đoan hơn và kết quả lại trái ngược so với tích cực. Ngày nay, khái niệm cạnh tranh đang ngày càng trở nên phổ biến và được nhìn nhận dưới khía cạnh tích cực nhiều hơn. Mặc dù đã nói tới cạnh tranh là có người thắng, kẻ bại và mục đích kích thích sự phát triển không phải là mục tiêu của các bên tham gia cạnh tranh song bản thân nó đã khuyến khích sự phát triển của nền sản xuất xã hội. - Năng lực cạnh tranh. "Năng lực" được Đại Từ điển Tiếng Việt định nghĩa là: "Những điều kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì" hay "khả năng đủ để thực hiện tốt một công việc". Cũng trong tài liệu này, "năng lực cạnh tranh" được hiểu là: "Khả năng giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh của những hàng hóa cùng loại trên cùng một thị trường tiêu thụ". Một số nhà nghiên cứu cho rằng năng lực cạnh tranh chỉ có ý nghĩa trong quan hệ thương mại và nó được mô tả qua các chỉ số đánh giá khác nhau. Trong khi đó, 7
  10. một số nhà nghiên cứu khác lại xem năng lực cạnh tranh bao gồm cả các điều kiện để triển khai hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh tới điểm cuối cùng của quá trình cung ứng hàng hóa, dịch vụ, là đảm bảo nâng cao mức sống cho người dân. ở Việt Nam, trong quan niệm của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế, năng lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh được đề cập đến dưới nhiều góc độ; sử dụng nhiều thuật ngữ để diễn tả khác nhau. Fafchamps cho rằng, khả năng cạnh tranh chính là khả năng của một doanh nghiệp có thể sản xuất ra một sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của sản phẩm ấy trên thị trường. Theo đó, các doanh nghiệp có đủ điều kiện và khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự với doanh nghiệp khác nhưng chi phí thấp hơn thì được đánh giá là có khả năng cạnh tranh cao hơn (Peters.G.H "Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp" - Dartmouch, 1995 tr 343). Trong khi Randall cho rằng khả năng cạnh tranh chính là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định thì Dunning lại đứng trên quan điểm vể khả năng cung ứng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ để nhìn nhận về năng lực cạnh tranh khi nêu ra: Khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó... Nhìn chung, hiện nay, các nhà nghiên cứu kinh tế đều cho rằng: Năng lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh là trình độ của công nghiệp có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường và duy trì được mức độ thu nhập thực tế của mình. Tuy xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau để nhìn nhận, đánh giá và xem xét song các quan niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh đều liên quan đến hai khía cạnh là khả năng chiếm lĩnh thị trường và có lợi nhuận. Từ đó, chúng ta có thể hiểu một cách tổng quan rằng năng lực cạnh tranh là khả năng nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được. 1.1.2. Các cấp độ cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh - Cạnh tranh quốc gia. Cạnh tranh ở cấp quốc gia được đánh giá chính là năng lực cạnh tranh của nó và bao gồm rất nhiều yếu tố cấu thành từ các yếu tố vĩ mô đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt động trên quốc gia đó cũng như khả năng cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ có xuất xứ từ quốc gia đó trên thị trường quốc tế. Theo đó, năng lực cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, đảm bảo ổn định kinh tế, xã hội và nâng cao đời sống của người dân. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã đưa ra định nghĩa về năng lực cạnh tranh quốc gia là "khả năng đạt và duy trì được mức tăng 8
  11. trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối và các đặc trưng kinh tế khác" (WEF, 1997). WEF cũng đưa ra tám nhóm yếu tố (bao gồm hơn 200 chỉ số) để xác định năng lực cạnh tranh tổng thể của một quốc gia (trọng số của mỗi nhóm chỉ số có sự thay đổi nhất định qua các thời kỳ). Tám nhóm chỉ số đó là: (1) Độ mở của nền kinh tế; (2) Các chỉ số liên quan đến vai trò và hoạt động của Chính phủ; (3) Các yếu tố về tài chính; (4) Các yếu tố về công nghệ; (5) Các yếu tố về kết cấu hạ tầng; (6) Quản trị; (7) Các yếu tố về lao động; (8) Và các yếu tố về thể chế. Theo M.Porter "chỉ có chỉ số năng suất là có ý nghĩa cho khái niệm về năng lực cạnh tranh quốc gia bởi vì đây là nhân tố xác định cơ bản cho việc nâng cao sức sống của một quốc gia xét về dài hạn" (M.Porter, 1990). Cũng theo ông, chỉ số năng suất đến lượt mình lại phụ thuộc vào trình độ phát triển và tính năng động của các công ty. Do vậy, năng lực cạnh tranh quốc gia lại phụ thuộc vào các yếu tố trong nền kinh tế quốc dân giữ vai trò quyết định cho phép các công ty sáng tạo và duy trì lợi thế cạnh tranh trong một lĩnh vực cụ thể. Ông đưa ra bốn nhóm các yếu tố tác động tới năng lực cạnh tranh quốc gia là: (1) Nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất (nguồn lao động, tay nghề lao động, tài nguyên, vốn, tiềm năng về khoa học - công nghệ, hạ tầng cơ sở...). (2) Nhóm các điều kiện về cầu phản ánh bản chất của nhu cầu thị trường trong nước đối với sản phẩm, dịch vụ của một ngành. (3) Nhóm các yếu tố về các ngành phụ trợ và các ngành có liên quan có khả năng cạnh tranh quốc tế. (4) Nhóm các yếu tố liên quan đến cơ cấu, chiến lược của công ty và của các đối thủ cạnh tranh. Với các đánh giá như vậy, năng lực cạnh tranh quốc gia là một chỉ số luôn được các nhà đầu tư quốc tế quan tâm, xem xét trong quá trình lựa chọn địa điểm, lĩnh vực đầu tư. Hơn thế nữa, bản xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia còn có có ý nghĩa quan trọng đối với các chính phủ cũng như doanh nghiệp... - Cạnh tranh ngành. Năng lực cạnh tranh của ngành được định nghĩa là khả năng bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần của sản phẩm và dịch vụ của nó trên thị trường. Theo M.Porter, các yếu tố sau ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của một ngành: (1) Những yếu tố sản xuất là các yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất, giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh; bao gồm các yếu tố sản xuất cơ bản (khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý) và các yếu tố sản xuất mới (cơ sở hạ tầng, thông tin, trình độ lao động, khả năng nghiên cứu phát triển, bí quyết công nghệ...) Các yếu tố sản xuất cơ bản quyết định rất lớn đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành song các yếu tố sản xuất mới còn quan trọng 9
  12. hơn trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh để nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp cũng như toàn ngành. Không giống như yếu tố sản xuất cơ bản, các yếu tố sản xuất mới có được thông qua đầu tư của chính phủ, các ngành, các công ty.... Bên cạnh đó, những yếu tố sản xuất cơ bản thì mọi công ty đều có thể sở hữu và do đó rất khó tạo nên lợi thế cạnh tranh trong dài hạn; trong khi đó, những yếu tố sản xuất mới cần phải được đầu tư và duy trì thế mạnh nếu muốn tạo ra lợi thế cạnh tranh trong dài hạn (vì chúng khó có thể sao chép, rập khuôn). (2) Điều kiện của cầu: Các doanh nghiệp trong một ngành sản xuất luôn phải cạnh tranh với các ngành sản xuất các sản phẩm thay thế khác. Các sản phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng cách đặt ngưỡng tối đa cho mức giá mà các doanh nghiệp trong ngành có thể kinh doanh có lãi. Khả năng lựa chọn về giá cả của các sản phẩm thay thế càng hấp dẫn thì ngưỡng chặn trên đối với lợi nhuận của ngành càng cứng nhắc hơn. Người mua tranh đua với ngành bằng cách bắt ép giá giảm xuống, chất lượng và các dịch vụ tốt hơn; làm cho các đối thủ cạnh tranh chống lại nhau. Điều đó buộc các doanh nghiệp trong ngành phải coi các yêu cầu của khách hàng là trên hết và phải tìm mọi cách để đáp ứng tối đa có thể nhu cầu của họ thì mới thu được lợi nhuận. Vì vậy, nhu cầu đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra động lực để nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp và toàn ngành. Có thể khẳng định rằng, đặc tính của cầu giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành các đặc tính của sản phẩm và tạo ra những áp lực để nâng cao chất lượng, gia tăng giá trị sử dụng và phát triển sản phẩm mới. (3) Các ngành công nghiệp liên quan và phụ trợ: Với mỗi ngành sản xuất, sự hình thành và phát triển cũng như năng lực cạnh tranh của nó luôn có sự phụ thuộc rất lớn vào các ngành công nghiệp liên quan và phụ trợ; không có ngành nào phát triển một cách độc lập, riêng biệt hoàn toàn (nông nghiệp phụ thuộc vào các ngành sản xuất hoá học, thuốc bảo vệ thực vật...; công nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các ngành như: nguồn nguyên, nhiên liệu, công nghiệp chế tạo máy móc...). Nếu những ngành liên quan và phụ trợ này phát triển mạnh mẽ thì sự phát triển của ngành cũng thuận lợi; khả năng cạnh tranh mới cao; nếu ngược lại sẽ có tác động tiêu cực tới khả năng cạnh tranh cũng như sự phát triển của ngành. Như vậy, sự phát triển của một ngành còn bị tác động của rất nhiều ngành khác; giữa các ngành có sự liên quan tới nhau, sản phẩm của ngành này là yếu tố đầu vào của ngành kia và ngược lại. Bên cạnh các nhóm yếu tố trên, cấu trúc thị trường, mức độ cạnh tranh, chiến lược của các chủ thể trong nội bộ ngành, của đối thủ cạnh tranh và đặc biệt là vai trò 10
  13. của nhà nước cũng là những yếu tố có tác động mạnh đến năng lực cạnh tranh của ngành. Các nhóm yếu tố này sẽ có tác dụng tích cực trong việc tạo ra khả năng cạnh tranh cho một ngành và chính phủ có ảnh hưởng lớn đến các nhóm yếu tố đó. Các nhóm yếu tố này cũng là thước đo về năng lực cạnh tranh cho một ngành, một doanh nghiệp: Doanh nghiệp muốn nâng cao năng lực cạnh tranh thì cần tập trung sản xuất các sản phẩm mà các yếu tố trên là thuận lợi hơn cả. Năng lực cạnh tranh của một ngành sẽ được nâng cao nếu năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành được cải thiện. - Cạnh tranh doanh nghiệp và sản phẩm. Có nhiều quan điểm khoa học cũng như cách tiếp cận khác nhau về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; trong đó, tiêu biểu nhất có M.Porter, Oral Singer, Kettani... M.Porter cho rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dựa vào các yếu tố sau: Những đối thủ trong ngành, các đối thủ tiềm năng, các sản phẩm thay thế, nhà cung cấp và khách hàng. Ông đã đồ thị hóa mối liên kết giữa các yếu tố cấu thành này để tạo nên Mô hình hình thoi để chỉ ra các yếu tố chính tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và mối liên hệ giữa chúng (M.Porter (1998), "The compatitive Advantage of Nation", Macmilian Business, Tr 146). Trong khi đó, Oral Singer và Tettani lại cho rằng: Có ba yếu tố tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là: Sự thành thạo về kỹ năng công nghiệp, chi phí liên quan tới kỹ năng và môi trường kinh tế của công ty... Tuy vậy, nhìn chung các nhà nghiên cứu kinh tế đều cho rằng: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm dịch vụ vì vậy còn có thể phân biệt năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với năng lực cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ. Nói cách khác, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được hiểu là tổng hòa năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp ấy; hay năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được đo lường qua lợi nhuận của doanh nghiệp, thị phần của doanh nghiệp đó trên thị trường và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp đó. Với tư cách là tế bào cấu thành nên nền kinh tế thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo sở sỡ vững chắc và hình thành nên năng lực cạnh tranh của quốc gia và năng lực cạnh tranh quốc gia cũng chi phối tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ưu thế cạnh tranh của một doanh nghiệp sản xuất so với đối thủ cạnh tranh của mình được thể hiện qua lợi thế về chi phí và lợi thế về sự khác biệt. Trong đó, lợi thế 11
  14. về chi phí thể hiện qua việc doanh nghiệp có khả năng tạo ra sản phẩm với chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh. Lợi thế về sự khác biệt lại phụ thuộc vào mức độ khác biệt của sản phẩm làm tăng giá trị cho người tiêu dùng hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm hay nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng sản phẩm. Lợi thế này cho phép thị trường có thể chấp nhận mức giá cao hơn của đối thủ... Tóm lại, năng lực cạnh tranh của một sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được hiểu là tất cả các đặc điểm, yếu tố, tiềm năng mà sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đó có thể duy trì và phát triển vị trí của mình trên thị trường cạnh tranh một cách lâu dài và có ý nghĩa. Tuy có sự phân biệt tương đối về khái niệm song, giữa các cấp độ cạnh tranh nêu trên có sự liên hệ mất thiết, gắn bó với nhau; giữa chúng tác có động qua lại, phụ thuộc, chế định nhau và có mối quan hệ nhân quả với nhau. Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao buộc phải bao gồm những doanh nghiệp, các sản phẩm dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao và tới lượt nó môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh đối với các sản phẩm dịch vụ phải thuận lợi thì các doanh nghiệp và các sản phẩm dịch vụ mới có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. 1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm của ngành - Các yếu tố thuộc về sản phẩm: + Giá cả hàng hoá. Giá cả hàng hóa đóng một vai trò rất quan trọng trong cạnh tranh thường được sử dụng trong giai đoạn đầu của doanh nghiệp khi doanh nghiệp bước vào một thị trường mới. Nếu các loại hàng hoá có cùng giá trị sử dụng, chất lượng giống nhau những có sự khác biệt về giá cả thì người tiêu dùng sẽ chọn loại hàng hoá nào có giá rẻ hơn. Tuy nhiên, giá cả hàng hoá được quyết định bởi giá trị của nó và suy cho cùng thì nhà sản xuất nào có thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết thấp hơn sẽ có giá trị cá biệt thấp hơn; tất yếu là giá cả thấp hơn các nhà cung cấp khác.. Cạnh tranh về giá thường được thực hiện qua các biện pháp như: Kinh doanh với chi phí thấp; bán với mức giá hạ. Hạ giá thành là phương pháp cuối cùng mà doanh nghiệp sẽ thực hiện trong cạnh tranh bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp. + Chất lượng hàng hoá (theo nghĩa rộng). Tương tự như yếu tố giá cả, chất lượng hàng hóa là một yếu tố quan trọng mà các doanh nghiệp sử dụng như một công cụ hữu hiệu để chiến thắng các đối thủ cạnh tranh của mình. Song, chất lượng hàng hoá lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của quá trình sản xuất với cùng một giá thành (như: kỹ thuật, công nghệ; vị trí địa lý 12
  15. và nhiều yếu tố đầu vào khác - những yếu tố không giống nhau ở mọi nhà cung cấp). Hơn thế nữa, người tiêu dùng còn sẵn sàng trả giá cao hơn để có được một sản phẩm chất lượng tốt hơn. Cạnh tranh chất lượng sản phẩm thường được xem xét thông qua một số yếu tố sau: (1) Trình độ sản phẩm (tính hữu dụng, mẫu mã, bao bì). (2) Chất lượng sản phẩm (độ bền, lợi ích kinh tế khi sử dụng...). (3) Khai thác hợp lý chu kì sống của sản phẩm: Việc nghiên cứu chính xác yếu tố này sẽ giúp nhà cung cấp quyết định thời điểm tung ra một chủng loại sản phẩm mới thay thế các sản phẩm đang có trên thị trường hoặc tạm dừng cung cấp một chủng loại sản phẩm đã có. + Phân phối và bán hàng. Đây là một yếu tố khá quan trọng vì nó tạo ra sự tiện lợi cho khách hàng; thể hiện ở ba giai đoạn của quá trình bán hàng: trước, trong và sau khi bán hàng. ở giai đoạn trước khi bán hàng, các nhà cung cấp sẽ lôi cuốn khách hàng thông qua các hoạt động quảng cáo, tiếp thị, định hướng thị hiếu người tiêu dùng... Trong khi đó, yêu cầu của quá trình bán hàng lại là nghệ thuật thể hiện sự trọng thị khách hàng; nó đòi hỏi người bán hàng phải thật sự tôn trọng khách hàng... Giai đoạn sau bán hàng chính là yêu cầu phải có các dịch vụ hỗ trợ khách hàng. Những dịch vụ này sẽ tạo sự tin tưởng, uy tín của nhà cung cấp đối với người tiêu dùng. Bên cạnh đó, phương thức thanh toán cũng được sử dụng như một công cụ cạnh tranh hữu hiệu, như: Trả góp. trả chậm và các dịch vụ thanh toán ủy thác khác... Khả năng cạnh tranh về phân phối và bán hàng của một nhà cung cấp thường được thể hiện qua các nội dung chủ yếu như: (1) Khả năng đa dạng hoá các kênh phân phối và chọn được các kênh chủ lực. (2) Khả năng tuyển chọn được những người điều khiển đủ mạnh. (3) Khả năng có được hệ thống bán hàng phong phú và hiện đại. (4) Khả năng có thể kết dính các kênh phân phối lại với nhau. (5) Khả năng hợp tác những người bán trên thị trường nhất là trên các thị trường lớn. (6) Khả năng cung cấp các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng hợp lý (phương thức bán hàng và phương thức thanh toán). + Uy tín của doanh nghiệp và thương hiệu hàng hóa: Uy tín của doanh nghiệp được xây dựng trên cơ sở chất lượng sản phẩm, giá trị sử dụng của các loại sản phẩm mà doanh nghiệp đó cung ứng ra thị trường, các dịch vụ trong và sau bán hàng... và tất nhiên là giá cả sản phẩm phải hợp lý. Điều đáng đề cập đến hơn thế nữa là uy tín của doanh nghiệp chỉ có thể có được khi doanh nghiệp đó đáp ứng được những đòi hỏi nêu trên trong một thời gian đủ để khách hàng đưa ra những đánh giá chín muồi về doanh nghiệp. Nói cách khác, xây dựng thương hiệu 13
  16. sản phẩm, tạo dựng uy tín doanh nghiệp là một hoạt động cần được triển khai thường xuyên trong suốt quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp. Bên cạnh các yếu tố nêu trên, còn có một số yếu tố khác mà các nhà cung cấp cần nghiên cứu để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình như: Tăng cường áp dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất; xây dựng và phát triển thương hiệu; đầu tư cho nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng, mức sống dân cư để có thể thu được những thông tin sát thực giúp đưa ra những dự báo và quyết định chính xác, quản trị rủi ro... - Các yếu tố thuộc về môi trường vi mô: + Nguồn cung ứng đầu vào: Nguồn cung ứng đầu vào được đề cập đến bao gồm nhiều yếu tố tác động tới quá trình sản xuất kinh doanh và chi phối rõ nét tới giá thành và chất lượng sản phẩm. Đây là yếu tố thể hiện sự kiên kết chặt chẽ hay thiếu chặt chẽ giữa các ngành sản xuất trong một quốc gia vì sản phẩm của một ngành công nghiệp này sẽ là nguyên, phụ liệu của một ngành công nghiệp khác và ngược lại. Vì vậy, giá cả, chất lượng của chủng loại sản phẩm do ngành này sản xuất ra sẽ chi phối tới giá thành sản xuất và chất lượng hàng hóa của một ngành khác có sử dụng chúng làm nguyên, phụ liệu, bán thành phẩm đầu vào của mình. Như vậy, có thể khẳng định rằng, nguồn cung ứng nguyên liệu đầu vào là một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với khả năng cạnh tranh của một chủng loại hàng hóa vì nó quyết định các yếu tố khác như: giá cả, chất lượng... (những yếu tố tác động trực tiếp và quyết định năng lực cạnh tranh của sản phẩm). + Nguồn nhân lực: Do yếu tố con người (nhân lực) chi phối tới các chỉ số khác nhau của quá trình sản xuất từ năng suất lao động, ý thức chấp hành tổ chức kỷ luật, thái độ phục vụ khách hàng, khả năng sáng tạo, khả năng quản trị... và tất nhiên nó sẽ tác động tới chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, chất lượng hàng hóa, chất lượng các dịch vụ... Tất yếu là tác động cuối cùng của nó là tác động tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nguồn nhân lực được coi là vấn đề có ý nghĩa sống còn với mọi tổ chức. Trong doanh nghiệp, nguồn nhân lực được chia làm 3 cấp: (1) Quản trị viên cấp cao: Gồm ban giám đốc và các trưởng phó phòng ban. Đây là đội ngũ có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh thông qua hoạch định chiến lược và kế hoạch sản xuất, kinh doanh. (2) Quản trị viên cấp trung gian: Đây là đội ngũ trực tiếp quản lý phân xưởng sản xuất sản phẩm đòi hỏi phải có có kinh nghiệm công tác, khả năng ra quyết định và diều hành công tác tốt. (3) Đội ngũ quản trị viên cấp cơ sở: Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng chịu sự chi phối của đội ngũ này thông qua 14
  17. các yếu tố như: Năng suất lao động, trình độ tay nghề, ý thức trách nhiệm, kỷ luật lao động và sự sáng tạo... + Hoạt động marketing và xúc tiến thương mại: Ngày nay, khi nói tới xúc tiến thương mại người ta thường muốn đề cập tới các hoạt động giúp các doanh nghiệp có thể giới thiệu các sản phẩm phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà họ muốn cung cấp cho khách hàng. Một doanh nghiệp dù có sản phẩm, dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao đến đâu nhưng không có các biện pháp thích hợp và không triển khai đồng bộ các hoạt động xúc tiến thương mại để giúp khách hàng nhận thức đầy đủ về tính ưu việt cũng như lợi thế so sánh của sản phẩm, dịch vụ mình cung cấp thì không thể thành công trong kinh doanh do khách hàng không chủ động tìm tới các nhà cung cấp khi họ không có thông tin về sản phẩm dịch vụ của họ. Vì vậy, hoạt động xúc tiến thương mại là một khâu quan trọng mà doanh nghiệp cần triển khai đồng bộ trước khi tiến hành cung cấp một loại sản phẩm, hàng hóa dịch vụ ra thị trường. Tóm lại, hoạt động xúc tiến thương mại là yếu tố có tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm mặc dù nó không thuộc quá trình sản xuất công nghiệp. + Yếu tố trang thiết bị, công nghệ: Như đã phân tích ở trên về các yếu tố tác động tới năng suất, chất lượng và giá thành sản phẩm thì yếu tố trang thiết bị công nghệ đóng vai trò chủ chốt trong việc nâng cao năng suất, đảm bảo chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Với một dây chuyền máy móc thiết bị, công nghệ phù hợp, chất lượng sản phẩm sẽ được đảm bảo, năng suất lao động được nâng cao, giá thành sản phẩm sẽ hạ và tất yếu năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ sẽ nâng cao. Vì vậy, yếu tố thiết bị công nghệ có tác động mạnh tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Thông thường, yếu tố trang thiết bị, công nghệ thể hiện ở hai mặt sau đây: (1) Trình độ kỹ thuật công nghệ hiện tại của doanh nghiệp và khả năng có được các công nghệ tiên tiến. (2) Quy mô và năng lực sản xuất: Để đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh, khai thác hiệu quả các nguồn đầu tư; giảm thiểu chi phí cố định trong giá thành sản phẩm thì doanh nghiệp phải có quy mô sản xuất và mức sử dụng công suất ít nhất phải gần bằng công suất thiết kế. - Các yếu tố thuộc về môi trường vĩ mô: Bên cạnh các yếu tố thuộc về doanh nghiệp và môi trường vi mô thì những yếu tố thuộc về môi trường vĩ mô cũng có vai trò quan trọng đối với năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Có thể nói tới một số yếu tố thuộc môi trường vĩ mô sau: + Môi trường kinh tế: 15
  18. Môi trường kinh tế của một nước là toàn bộ những hoàn cảnh kinh tế vĩ mô ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, người tiêu dùng và các tác nhân khác trong nền kinh tế (mức độ ổn định của nền tài chính quốc gia, mức độ lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất tiền gửi, chi phí nhân công và các chính sách kinh tế, thương mại khác của quốc gia). Tất cả những yếu tố này sẽ có tác động tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nên tất yếu sẽ tác động tới năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Một quốc gia có nền tài chính thiếu ổn định, tỷ giá hối đoái không thích hợp, chi phí nhân công về một lĩnh vực nhất định cao tương đối so với các quốc gia khác... thì hàng hóa sản xuất tại quốc gia đó rất khó có năng lực cạnh tranh đủ mạnh để tiến hành sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả và ngược lại. + Môi trường chính trị - pháp luật: Môi trường chính trị - pháp luật bao gồm toàn bộ hệ thống thể chế chính trị, kinh tế và hệ thống luật pháp của quốc gia, có tác động tới năng lực cạnh tranh của hàng hóa của quốc gia đó. Rõ ràng là, một quốc gia có nền chính trị ổn định, hệ thống luật pháp rõ ràng và có tính ổn định cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nước đó tiến hành sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả. Khi đó, các nhà quản lý doanh nghiệp sẽ không quá khó khăn khi quản trị rủi ro và điều này sẽ làm tăng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của hàng hóa đó. + Môi trường văn hóa, xã hội: Môi trường văn hóa, xã hội ở một quốc gia cũng có những tác động nhất định đến sức cạnh tranh của hàng hóa của quốc gia đó. Một ví dụ điển hình minh chứng cho vai trò của yếu tố này là việc các quốc gia có truyền thống văn hóa lâu đời thường có lợi thế so sánh tương đối khi tiến hành xuất khẩu các chủng loại hàng hóa mang đậm nét bản sắc văn hóa dân tộc truyền thống (không thể nhầm lẫn với các quốc gia khác), như: Thổ Nhĩ Kỳ tiến hành xuất khẩu các loại thảm dệt thủ công, Trung Quốc thương mại hóa rượu Mao Đài và Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm dệt may từ chất liệu thổ cẩm, đũi, tơ tằm... + Môi trường công nghệ: Môi trường công nghệ đang đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với năng lực cạnh tranh của hàng hóa của mỗi quốc gia vì môi trường công nghệ sẽ chi phối tới khả năng, chi phí cho việc đổi mới công nghệ sản xuất ở quốc gia đó. Hơn thế nữa, với tốc độ phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ như hiện nay thì vòng đời của một dây chuyền công nghệ sản xuất đang ngày càng được rút ngắn. Như vậy, một dây chuyền công nghệ hiện nay đang được đánh giá là hiện đại (tất yếu cho ra 16
  19. đời những sản phẩm có mẫu mã đẹp, chất lượng cao và giá thành chấp nhận được) sẽ trở thành công nghệ trung bình trong một, vài năm sau đó. + Môi trường quốc tế: Ngày nay, trong điều kiện của toàn cầu hoá kinh tế, mọi quốc gia chỉ có thể tồn tại và phát triển trong sự phụ thuộc tương đối lẫn nhau, cùng chịu sự chi phối nhất định của một môi trường chung - môi trường quốc tế. Sự biến động của môi trường quốc tế sẽ có những tác động tới một số hay toàn bộ các quốc gia trên thế giới. Sự phụ thuộc tương đối và những tác động theo kiểu hiệu ứng đominô này đã thể hiện khá rõ ở các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á và Mỹ La tinh trong thập niên 1990 vừa qua... Khi nói đến môi trường quốc tế - đặc biệt là đối với các sản phẩm xuất khẩu - tức là đề cập đến các biến động kinh tế trên thị trường thế giới và các nhân tố chính trị của các quốc gia. Trong đó, (1) Những biến động kinh tế trên thị trường thế giới (sự xuất hiện hay mất đi của các liên minh kinh tế, liên minh thuế quan; các thỏa thuận thương mại đa và song phương...) nhất định sẽ tác động tới năng lực cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu theo nhiều chiều khác nhau. (2) Nhân tố chính trị mà cụ thể hơn là những bất ổn chính trị (chiến tranh, khủng bố...), những biến động chính trị theo chu kỳ (bầu cử Tổng thống, Thủ tướng, Nghị viện...) đều có tác động nhất định tới giá trị đồng tiền của các quốc gia nên sẽ có những tác động tới hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Bên cạnh các yếu tố trên, với các sản phẩm xuất khẩu, năng lực cạnh tranh hàng hoá còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố, như: Quan hệ chính trị, ngoại giao, kinh tế song phương với quốc gia nhập khẩu, Quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao đa phương của các quốc gia là đối tác của nhau thể hiện qua các luật lệ và thông ước quốc tế liên quan... 1.1.4. Một số phương pháp và tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm - Một số phương pháp phân tích và tiêu chí thường dùng: Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là cốt lõi tạo nên sức cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành và năng lực cạnh tranh tổng thể của quốc gia; nó là nhân tố quyết định định hướng chuyển dịch cơ cấu sản phẩm. Có nhiều tiêu chí được sử dụng để đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm, như: Trên cơ sở phân tích lợi thế so sánh, chi phí sản xuất, khả năng xuất khẩu, khả năng chiếm lĩnh thị phần, giá trị gia tăng, mức độ bảo hộ... Mỗi tiêu chí có những điểm manh và tồn tại những hạn chế nhất định. + Về chi phí sản xuất: Một sản phẩm được coi là có năng lực cạnh tranh cao nếu giá thành sản phẩm đó thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh. Chi phí sản xuất là 17
  20. yếu tố đầu tiên hình thành nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm; song đây không phải là yếu tố duy nhất tạo nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Chi phí sản xuất là một tiêu chí tổng hợp nhưng chưa toàn diện để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm vì bên cạnh nó còn một số kỹ năng khác cần được xem xét, như: Marketing, hệ thống phân phối, các dịch vụ hậu mãi... + Lợi thế so sánh: Là những yếu tố mỗi quốc gia có lợi thế tương đối so với quốc gia khác mà có thể tận dụng để sản xuất ra những sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao. Những lợi thế này rất đa dạng tuy nhiên hiện nay nó ít được sử dụng để đánh giá vì nó nhìn nhận các lợi thế và năng lực cạnh tranh trong trạng thái tĩnh, không có sự di chuyển tự do của các nguồn lực từ nơi này sang nới khác (không thật sự phù hợp với xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế hiện nay). + Khả năng chiếm lĩnh thị trường được thể hiện trên hai góc độ: Thứ nhất, đối với sản phẩm sản xuất thay thế nhập khẩu và tiêu thụ nội địa được thể hiện ở khả năng chiếm lĩnh thị phần trong nước. Thứ hai, đối với sản phẩm xuất khẩu là khả năng chiếm lĩnh thị phần ngoài nước. Đây là một tiêu chí được sử dụng tương đối phổ biến vì không quá phức tạp trong cách lượng hóa, phân tích (thể hiện qua: Thị phần, kim ngạch xuất khẩu...) và nó phù hợp với xu thế tự do hóa thương mại hiện nay. Tuy nhiên, tiêu chí này chỉ thể hiện được năng lực cạnh tranh của một sản phẩm trong thời điểm hiện tại mà chưa phản ánh được xu thế phát triển và tiềm năng trong tương lai. - Các hệ số RCA và DRC: Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của thương mại quốc tế, các chỉ tiêu kinh tế đang ngày càng mang tính phổ quát và được áp dụng tương đối rộng rãi trong các báo cáo đánh giá của các tổ chức kinh tế quốc tế. Nó đang trở thành những thước đo tương đối đầy đủ về mức độ phát triển, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm, doanh nghiệp, ngành và các quốc gia trong tổng thể nền kinh tế thế giới thông qua các yếu tố then chốt với trọng số của mỗi chỉ số có thể thay đổi theo từng lính vực, giai đoạn cụ thể. Sau đây xin đưa ra một số chỉ số đánh giá về khả năng cạnh tranh: + Hệ số cạnh tranh RCA (Revealed Comparetive Advantage)- Hệ số lợi thế so sánh hiển thị: Một quốc gia được coi là có lợi thế so sánh cao hơn một quốc gia khác trong sản xuất, cung cấp một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó khi chi phí để sản xuất ra nó thấp hơn tương đối so với các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, các nhà nghiên cứu kinh tế luôn tìm cách để có thể lượng hóa lợi thế so sánh (hay lợi thế cạnh tranh) của quốc gia này về một loại sản phẩn, hàng hóa, dịch vụ nhất định so với một quốc gia khác 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2