BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp. HCM
------------
Nguyễn Thùy An
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỨC ĐỘ
ĐỊNH DƯỚI GIÁ IPO TRONG NGẮN HẠN
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI HOSE
Chuyên ngành: Tài Chính – Ngân Hàng
Mã số: 6034201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ HẢI LÝ
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp. HCM
------------
Nguyễn Thùy An
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỨC ĐỘ
ĐỊNH DƯỚI GIÁ IPO TRONG NGẮN HẠN
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI HOSE
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế “Các nhân tố tác động đến mức độ định
dưới giá IPO trong ngắn hạn – Nghiên cứu thực nghiệm tại HOSE” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ trợ từ người hướng dẫn khoa học là TS.Trần Thị
Hải Lý, và chưa từng được công bố trước đây. Các số liệu được sử dụng để phân
tích, đánh giá trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng và được tổng hợp từ những
nguồn thông tin đáng tin cậy. Nội dung luận văn đảm bảo không sao chép bất cứ
công trình nghiên cứu nào khác.
TP.HCM, ngày 14 tháng 10 năm 2013
Tác giả
Nguyễn Thùy An
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA………………………………………………………………. ......
LỜI CAM ĐOAN…………………………………………………………………. ....
MỤC LỤC ………………………………………………………………………. .....
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT………………………………………………. .....
DANH MỤC CÁC BẢNG………………………………………………………. ......
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ……………………………………………………. .....
TÓM LƯỢC…………………………………………………………………….. ..... 1
1. GIỚI THIỆU…………………………………………………………………. 2
2. TỔNG QUAN CÁC LÝ THUYẾT…………………………………………...5
2.1 Khái quát về IPO và sự định dưới giá IPO……………………………….5
2.1.1 Các vấn đề cơ bản về IPO…………………………………………………… 5
2.1.2 Những cơ chế xác lập giá IPO………………………………………………. 7
2.1.3 Định dưới giá IPO……………………………………………………………..8
2.2 Bằng chứng thực nghiệm về định dưới giá IPO trong ngắn hạn…………. 10
2.3 Nghiên cứu các nhân tố tác động đến dưới giá IPO………………………. 13
2.3.1 Tỷ lệ nguồn vốn được nội bộ nắm giữ……………………………….. 14
2.3.2 Sự trợ giá của nhà bảo lãnh phát hành……………………………….. 14
2.3.3 Tỷ lệ mua vượt mức……………………………………………………… 15
2.3.4 Độ trễ niêm yết…………………………………………………………… 16
2.3.5 Giá phát hành…………………………………………………………….. 17
2.3.6 Tuổi của công ty phát hành……………………………………………... 18
2.3.7 Quy mô của công ty phát hành…………………………………………. 18
2.3.8 Quy mô phát hành………………………………………………………. 19
2.4 Thị trường IPO tại Việt Nam…………………………………………... 19
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU…………………………... 27
3.1 Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………. 27
3.2 Dữ liệu……………………………………………………………………. 28
3.3 Mô hình và các biến……………………………………………………… 28
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU…………………………………………………. 31
4.1 Bằng chứng định dưới giá các IPO tại HOSE trong ngắn hạn……………. 31
4.2 Giải thích các nhân tố tác động đến mức độ định dưới giá IPO tại HOSE.. 38
4.3 Kiểm định độ tin cậy của mô hình………………………………………... 43
4.4 Kiểm định mô hình với các biến kiểm soát……………………………….. 46
5. KẾT LUẬN……………………………………………………………….. 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………. ...... .
PHỤ LỤC BẢNG……………………………………………………………. ........ ....
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Diễn giải Gốc Tiếng Anh (nếu có)
Phát hành cổ phiếu ra công Initial Public Offering IPO chúng lần đầu tiên
Phương pháp bình phương Ordinary Least Squares OLS bé nhất
Sở Giao dịch Chứng khoán Hochiminh Stock HOSE Thành phố Hồ Chí Minh Exchange
Sở Giao dịch Chứng khoán Hanoi Stock Exchange HNX Hà Nội
Thị trường đăng ký giao
UPCOM dịch chứng khoán các công
ty đại chúng chưa niêm yết
MH Mô hình
VN Việt Nam
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 - Các điều kiện để được IPO và niêm yết trên sàn HOSE ........................ 23
Bảng 3.1 - Tóm tắt về các biến độc lập .................................................................. 30
Bảng 4.1 - Kết quả thống kê về mức độ định dưới giá trong ba ngày giao dịch đầu
tiên ........................................................................................................................ 33
Bảng 4.2 - Thống kê mức độ định dưới giá trong ba ngày giao dịch đầu tiên theo
năm ....................................................................................................................... 34
Bảng 4.3 - Thống kê mức độ định dưới giá trong ba ngày giao dịch đầu tiên theo
ngành tài chính và phi tài chính ............................................................................. 35
Bảng 4.4 - Thống kê mô tả các biến độc lập .......................................................... 36
Bảng 4.5 - Ma trận hệ số tương quan giữa các biến................................................ 37
Bảng 4.6 - Kết quả mô hình phụ ............................................................................ 38
Bảng 4.7 - Kết quả hồi quy .................................................................................... 39
Bảng 4.8 - Kiểm định phương sai thay đổi trong ba mô hình hồi quy .................... 43
Bảng 4.9 - Kiểm định tự tương quan trong ba mô hình hồi quy ............................. 44
Bảng 4.10 - Kiểm định thiếu biến trong ba mô hình hồi quy .................................. 45
Bảng 4.11 a - Kiểm định với các biến kiểm soát trong mô hình hồi quy MAR1 ..... 48
Bảng 4.11 b - Kiểm định với các biến kiểm soát trong mô hình hồi quy MAR2 ..... 48
Bảng 4.11 c - Kiểm định với các biến kiểm soát trong mô hình hồi quy MAR3 ..... 49
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 2.1 - Bằng chứng định dưới giá tại 19 quốc gia ở Châu Âu .......................... 11
Hình 2.2 - Bằng chứng định dưới giá tại 16 quốc gia ở Châu Á ............................ 12
Hình 2.3 - Bằng chứng định dưới giá tại 11 quốc gia khác ..................................... 12
Hình 2.4 - Giá trị vốn hóa Thị trường chứng khoán Việt Nam (2000-2012) ........... 21
Hình 4.1.a - Các công ty có tỉ suất sinh lợi ngày đầu điều chỉnh thị trường dương . 31
Hình 4.1.b - Các công ty có tỉ suất sinh lợi ngày đầu điều chỉnh thị trường âm ...... 32
-1-
TÓM LƯỢC
Bài nghiên cứu này xem xét mức độ định dưới giá IPO trên mẫu 49 đợt IPO tại
HOSE trong giai đoạn 2005 - 2012. Nghiên cứu làm sáng tỏ các yếu tố quyết định
đến mức độ định dưới giá IPO trong bối cảnh một thị trường chứng khoán sơ khai
được đặc trưng bởi sự bất cân xứng thông tin cao, hiệu quả thông tin thấp, tính thanh khoản thấp và những nhà đầu tư ít thông tin1. Kết quả cho thấy, trung bình tỷ
suất sinh lợi ban đầu được điều chỉnh theo thị trường cho ba ngày giao dịch đầu tiên
lần lượt là 22,99%, 23,6% và 23,16%. Việc định giá thấp có liên quan đến giá phát
hành, quy mô công ty và quy mô phát hành. Tỷ lệ đăng ký vượt mức, tỷ lệ vốn được
nắm giữ nội bộ, độ trễ niêm yết, tuổi của công ty dường như không làm giảm khoản
thu nhập trên danh nghĩa của nhà phát hành. Nó cho thấy việc định dưới giá bị dẫn
dắt bởi những nhà đầu tư phi lý trí tìm kiếm lợi nhuận trong ngắn hạn. Nhìn chung,
kết quả chỉ ra rằng nhà đầu tư dựa vào thông tin xung quanh IPO để đưa ra các định
giá IPOs.
1 Việt Nam được Bloomberg Markets Magazine xếp hạng hấp dẫn nhất trong Top 25 thị trường sơ khai (số liệu tháng 1-2013)
Từ khóa: IPO, định dưới giá
-2-
1. GIỚI THIỆU
Việc cổ phần hóa đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong vòng đời của một công
ty, là con đường để đại chúng vốn cổ phần, từ đó giảm chi phí tài trợ cho hoạt động
của công ty và hoạt động đầu tư. Bên cạnh đó, với chủ trương cổ phần hóa các
doanh nghiệp Nhà nước và chuyển đổi hình thức sở hữu tư nhân. Phát hành lần đầu
cổ phiếu ra công chúng (IPO) trở thành một trong những hoạt động sôi nổi nhất,
được quan tâm nhiều nhất của giới đầu tư diễn ra trên thị trường chứng khoán Việt
Nam trong suốt những năm 2005 – 2012. Bên cạnh đó, một trong những đặc điểm
của IPO trên thế giới đó là định giá IPO thấp, và mức độ định giá thấp này là khác
nhau giữa các quốc gia, giữa thị trường phát triển và thị trường mới nổi. Một số
nghiên cứu dựa trên thực nghiệm đã ghi nhận rằng ban đầu có sự tồn tại của các
hiện tượng dưới giá đối với các công ty mới niêm yết trong những ngày đầu của
giao dịch. Các nghiên cứu trước đây đã nghiên cứu về thành quả của IPO ở thị
trường Mỹ. Ibbotson (1975) cho thấy tỷ suất sinh lợi bất thường trung bình là
11,4%. Purnanadam và Swaminathan (2004) cho thấy tỷ suất sinh lợi từ 14% đến
50% tùy thuộc vào tiêu chí sử dụng phù hợp. Mới đây hơn, Jay R.Ritter (2013) dựa
trên khảo sát của họ về các nghiên cứu IPO dưới giá cho thấy tỷ suất sinh lợi ban
đầu trung bình là 17,9%.. Tuy nhiên đây là một vấn đề vẫn còn đang gây tranh cãi
rất nhiều khi mà với cấp độ quốc tế, hầu hết các nhà nghiên cứu đã tìm thấy các kết
quả khác so với kết quả của các nhà nghiên cứu Mỹ. Ở thị trường Đức, Ljungqvist
(1997) sử dụng một mẫu 189 công ty trong giai đoạn 1970-1993 cho thấy việc định
giá thấp ban đầu khoảng 10,9%. Ở Pháp, Jacquillat cùng MacDonald (1974) và
Dubois (1987) chỉ ra mọi định giá thấp ban đầu tương ứng khoảng 4,2% và 19%.
Trong bối cảnh thị trường mới nổi, một số nghiên cứu nhấn mạnh rằng IPO ở Trung
Quốc có tỷ suất sinh lợi ban đầu cao nhất thế giới. Trong số đó, Mok và Hui (1998),
Tian (2003), Chan và cộng sự (2004), Larry và cộng sự (2008) chỉ ra rằng việc định
giá thấp khoảng giữa 100-300%. Mức độ này cao hơn nhiều so với mức trung bình
60% trong thị trường mới nổi (Jenkinson và Ljungqvist, năm 2001). Ví dụ, Yong và
-3-
Isa (2003) cho thấy lợi nhuận ban đầu trung bình là 80,3% đối với các đợt IPO ở
Malaysia trong giai đoạn 1980-1991. Gần đây hơn, Agarwal và đồng sự (2008) cho
thấy tỷ suất sinh lợi ban đầu trung bình là 20,8% đối với IPO ở Hong Kong. Cuối
cùng, Kiymaz (2000) ghi nhận một mức dưới giá trung bình là 13,6% trong giai
đoạn 1990-1995 cho mẫu các đợt IPO ở Thổ Nhĩ Kì.
Theo đó, một vấn đề được đặt ra là, như vậy liệu ở Việt Nam có xảy ra hiện tượng
định giá thấp trong IPO, nếu có những nhân tố nào sẽ tác động đến mức độ định
dưới giá IPO và các nhân tố ảnh hưởng đến việc định giá thấp trong IPO ở thị
trường chứng khoán Việt Nam có giống như trên các thị trường khác hay không?
Như vậy, việc xác định mức độ định giá thấp cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến
việc định giá thấp là cần thiết để đưa ra các chiến lược IPO cũng như đầu tư vào các
cổ phiếu IPO hiệu quả hơn. Do Sàn Giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) là
một trong những sàn giao dịch lớn và sôi động nhất trong thị trường chứng khoán
Việt Nam. Vì vậy, tôi tiến hành xem xét các vấn đề được nêu trên tại sàn giao dịch
này. Đó là lý do mà tôi chọn đề tài: “Các nhân tố tác động đến mức độ định dưới giá
IPO trong ngắn hạn – Nghiên cứu thực nghiệm tại HOSE”.
(cid:1) Mục tiêu nghiên cứu
Bài nghiên cứ xem xét thực nghiệm về mức độ định giá thấp IPO ở Việt Nam, cụ
thể là tại Sàn Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời nghiên
cứu các nhân tố ảnh hưởng tới việc định giá thấp trong ngắn hạn ở thị trường này. (cid:1) Phương pháp nghiên cứu
Đầu tiên, thông qua các nghiên cứu định tính, xác định ảnh hưởng của các nhân tố
lên mức độ định giá thấp trong IPO. Sau khi thu thập dữ liệu từ website Sở giao
dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh, Ủy ban chứng khoán Việt Nam, và các website
tài chính khác, tôi tiến hành xử lý dữ liệu trên excel để thu thập các biến cần thiết
cho mô hình. Tiếp đó, sử dụng phương pháp định lượng, tôi dùng mô hình hồi quy
đa biến bằng phương pháp bình phương bé nhất OLS để xác định mức độ tác động
-4-
của các yếu tố quyết định đến việc định giá thấp trong IPO tại HOSE, đồng thời
thực hiện các kiểm định để kiểm tra tính tin cậy trong kết quả của mô hình.
(cid:1) Nội dung bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu đã mở rộng các nghiên cứu quốc tế về IPO bằng cách nghiên cứu
IPO ở sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE), một thị trường sơ khai được
đặc trưng bởi bất đối xứng thông tin cao, hiệu quả thông tin thấp, giao dịch kém và
sự có mặt của các nhà giao dịch nhiễu. Bài nghiên cứu này vì vậy làm sáng tỏ các
yếu tố quyết định đến mức độ định dưới giá IPO trong tình huống khảo sát là một
phần thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong thực tế, không quá nhiều nghiên cứu
đã xem xét về IPO dưới giá trong bối cảnh của thị trường sơ khai, đặc biệt trên sàn
giao dịch HOSE. Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả Trần Thị Hải Lý và Dương Kha
(2013) trên toàn bộ thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy mức dưới giá trung
bình là 38% và 49% cho các đợt phát hành được tiến hành trong giai đoạn 2005 -
2012. Thêm đó, hai nhân tố tỉ lệ mua vượt mức và mức giá khởi điểm của các cuộc
đấu giá có tương quan ngược chiều như kì vọng lên mức độ định dưới giá.
Với một kết quả khác, trong bài nghiên cứu này, tôi nghiên cứu các nhân tố chính
quyết định đến thành quả IPO ban đầu dựa trên mẫu 49 đợt IPO được niêm yết trên
sàn HOSE trong giai đoạn 2005-2012. Tôi đưa ra tỷ suất sinh lợi ban đầu trung bình
là 22,99%, 23,6% và 23,16% tương ứng với ngày giao dịch đầu tiên, thứ 2 và thứ 3.
Việc định giá thấp liên quan đến giá phát hành, quy mô công ty và quy mô phát
hành.
Phần còn lại của bài nghiên cứu được trình bày như sau. Phần 2 tóm tắt các lý
thuyết liên quan, giới thiệu về thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong phần 3 sẽ
trình bày về việc lựa chọn dữ liệu, phương pháp nghiên cứu và mô hình thực
nghiệm. Phần 4 là về kết quả nghiên cứu và kết luận sẽ được trình bày trong phần 5.
-5-
2. TỔNG QUAN CÁC LÝ THUYẾT
2.1 Khái quát về IPO và sự định dưới giá IPO
2.1.1 Các vấn đề cơ bản về IPO
Phát hành lần đầu ra công chúng, còn gọi là IPO (viết tắt theo tiếng Anh: Initial
Public Offering) là việc chào bán chứng khoán lần đầu tiên ra công chúng. Sau khi
phát hành lần đầu ra công chúng, một công ty cổ phần sẽ trở thành công ty đại
chúng (hay công ty cổ phần đại chúng). Trong định nghĩa về IPO chúng ta cần lưu ý
một số điểm sau:
• Thứ nhất, khái niệm về phát hành cổ phiếu lần đầu là việc một công ty lần
đầu tiên thực hiện đợt phát hành cổ phiếu của mình ra công chúng. • Thứ hai, khái niệm IPO dễ bị lẫn lộn với một khái niệm khác là phát hành sơ
cấp. Phát hành sơ cấp chưa chắc đã là IPO. Điểm khác nhau quan trọng giữa IPO và
phát hành sơ cấp ở chỗ phát hành sơ cấp là việc phát hành chứng khoán mới, còn
IPO phải là lần phát hành chứng khoán mới ra công chúng đầu tiên. Từ đó, có thể
thấy một công ty có thể có nhiều lần phát hành sơ cấp nhưng chỉ có duy nhất một
lần phát hành IPO. Mục đích của việc phân biệt hai hình thức phát hành như trên là
nhằm có các biện pháp bảo vệ cho công chúng đầu tư, nhất là những nhà đầu tư nhỏ
không hiểu biết nhiều về lĩnh vực chứng khoán. Nhằm mục đích này, để được phép
phát hành ra công chúng, tổ chức phát hành phải là những công ty làm ăn có chất
lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đáp ứng được các điều kiện
do cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán (Uỷ ban chứng khoán nhà nước) qui
định. • Thứ ba, đó là tiếp theo lần phát hành IPO, những lần phát hành tiếp thêm các
cổ phiếu ra công chúng của công ty được gọi là phát hành bổ sung (SOEs –
seasoned equity offering). • Thứ tư, một phần của IPO có thể là cung ứng lần đầu (công ty phát hành cổ
phần để huy động vốn mới), hoặc là cung ứng lần thứ hai, đó là việc các cổ đông
-6-
trước IPO của công ty (thường là các nhà sáng lập hoặc các quỹ đầu tư mạo hiểm đã
đầu tư vào công ty trong giai đoạn khởi sự) chuyển giao một phần tài sản của họ cho các cổ đông mới bằng việc bán một số cổ phần của mình trong đợt IPO.2 • Thứ năm, công chúng trong định nghĩa IPO được hiểu là số lượng lớn nhất
định các nhà đầu tư tham gia mua một tỷ lệ nhất định chứng khoán phát hành. Tỷ lệ
này phụ thuộc vào quy định cho phép của nhà nước. Ở Việt Nam, số lượng phải từ một trăm nhà đầu tư trở lên.
Những ưu điểm đến từ việc phát hành cổ phiếu lần đầu tiên ra công chúng:
• Công ty có thể huy động vốn khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh,
nguồn vốn này lại có ưu điểm là không gây áp lực cho công ty như một khoản nợ và
khả năng cân đối thanh khoản cũng giảm rất nhiều. • Tạo ra hình ảnh đẹp và sự nổi tiếng của công ty, nhờ vậy công ty sẽ dễ dàng
và tốn ít chi phí hơn trong việc huy động vốn qua phát hành cổ phiếu ở những lần
sau. khách hàng và nhà cung ứng của công ty cũng sẽ trở thành cổ đông của công ty
và do vậy công ty sẽ rất có lợi trong việc mua nguyên liệu và thuận lợi trong khâu
tiêu thụ sản phẩm. • Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ làm tăng giá trị tài sản ròng, giúp
công ty có được nguồn vốn lớn và có thể vay vốn của ngân hàng với lãi suất ưu đãi
2 Theo điểm 2.1 tại Thông tư 60/2004/TT-BTC ngày 18 tháng 6 năm 2004, hướng dẫn việc phát hành cổ
phiếu ra công chúng. Và điểm 2. 2, phân biệt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) và phát hành
thêm cổ phiếu: Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng để huy động vốn cho công ty cổ phần (chào bán sơ
cấp lần đầu). Phát hành lần đầu cổ phiếu ra công chúng để thay đổi cơ cấu vốn chủ sở hữu (chào bán thứ cấp
lần đầu). Phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng bao gồm: Tổ chức đã phát hành cổ phiếu ra công chúng
chào bán thêm cổ phiếu hoặc quyền mua cổ phần để tăng vốn điều lệ; Tổ chức đã phát hành cổ phiếu ra công
chúng phát hành thêm cổ phiếu để trả cổ tức, hoặc phát hành thêm cổ phiếu thưởng để tăng vốn điều lệ từ
nguồn vốn chủ sở hữu.
hơn cũng như các điều khoản về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hà hơn.
-7-
• Phát hành chứng khoán ra công chúng là tăng chất lượng và độ chính xác của các báo cáo của công ty bởi vì các báo cáo của công ty được lập theo các tiêu chuẩn
chung do cơ quan quản lý quy định. Điều này làm cho việc đánh giá và so sánh kết quả hoạt động của công ty được thực hiện dễ dàng và chính xác hơn nữa. • Một số công ty phát hành chứng khoán ra công chúng bao giờ cũng dành một
tỷ lệ chứng khoán nhất định để bán cho nhân viên của mình. Với quyền mua cổ
phiếu này, nhân viên của công ty trở thành cổ đông và được hưởng lãi trên vốn thay
vì thu nhập thông thường. Điều này làm cho nhân viên của công ty làm việc hiệu
quả và tâm huyết hơn.
2.1.2 Những cơ chế xác lập giá IPO
Việc xác lập giá IPO chủ yếu dựa trên ba cơ chế sau: đấu giá, chào bán với giá cố
định, hoặc đăng ký ghi sổ. Trong cơ chế đấu giá, giá cả được xác định dựa vào giá
đấu được nhà đầu tư đưa ra, kết quả đấu giá theo nguyên tắc lựa chọn giá mua từ
cao xuống thấp đến khi đủ số lượng cổ phần chào bán. Trong cơ chế giá cố định, giá
phát hành được thiết lập trước đó bởi công ty IPO, cơ sở của mức giá trên được
trình bày trong các tài liệu được yêu cầu bởi ủy ban chứng khoán. Nếu cầu vượt quá
cung, việc phân phối sẽ được tiến hành dựa trên tỉ lệ lượng đặt mua của nhà đầu tư.
Cơ chế đăng ký ghi sổ là quá trình nhà bảo lãnh phát hành ghi nhận nhu cầu và mức
giá của nhà đầu tư tiềm năng đối với cổ phiếu IPO thông qua việc roadshow đến họ.
Sau khi đăng ký ghi sổ kết thúc, nhà bảo lãnh phát hành cùng công ty sẽ xác lập
mức giá chào bán. Đây là hình thức phổ biến ở các nước phát triển và gần đây các
nước đang phát triển bắt đầu áp dụng nhiều hơn. Cơ chế đăng ký ghi sổ thường diễn
ra bên ngoài thị trường bởi những nhà điều hành và mức giá được giữ bí mật. Do
vây, trong cơ chế này thì sẽ công chúng sẽ ít biết đến công ty hơn.
Kết quả nghiên cứu của Sherman (2001) cho thấy, trong 44 quốc gia ông khảo sát
thì việc sử dụng cơ chế đăng ký ghi sổ được ưa thích hơn. Nghiên cứu của
Ljungqvist, Jenkinson và Wilhelm (2003) cũng khẳng định điều này, đồng thời
-8-
thống kê rằng 80% những trường hợp IPO ngoài nước Mỹ và Canada đều sử dụng
cơ chế này. Theo kết quả nghiên cứu của Sherman (2004), tác giả cho rằng cơ chế
đăng ký ghi sổ sẽ giúp nhà bảo lãnh phát hành kiểm soát chất lượng nhà đầu tư
tham gia vào đợt IPO tốt hơn, việc định giá công ty được nhà đầu tư nghiên cứu kỹ
và mức giá họ đưa ra chính xác hơn. Nhờ vậy, giảm thiểu rủi ro cho cả công ty IPO
và nhà đầu tư, đồng thời giảm mức độ định dưới giá. Tuy nhiên, nghiên cứu của
Derrien và Womack (2002) trên thị trường Pháp lại cho thấy cơ chế đấu giá làm
giảm định dưới giá hơn các cơ chế khác, do cơ chế này có khả năng kết hợp nhiều
thông tin từ thị trường với giá IPO hơn. Quan điểm này được ủng hộ bởi nghiên cứu
của Kaneko và Pettway (2003) tại thị trường Nhật Bản giai đoạn 1993 – 2001.
2.1.3 Định dưới giá IPO
Định dưới giá là hiện tượng xảy ra phổ biến ở hầu hết các quốc gia, được xem là
một trong 10 vấn đề nghiên cứu tài chính năm 2002 (theo Brealey và Myers) và
được nghiên cứu từ những năm thập niên 70 đến nay. Về mặt lý thuyết, định dưới
giá IPO là giá trị thị trường nhỏ hơn giá trị nội tại, nghĩa là tỷ lệ % chênh lệch giữa
giá trị nội tại và giá phát hành là dương. Trong đó, giá trị nội tại được tính toán dựa
trên các ước tính dòng tiền trong tương lai chiếu khấu về hiện tại. Tuy nhiên việc
ước lượng dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp cũng như suất chiết khấu để
quy dòng tiền đó về hiện giá là việc làm không hề đơn giản, do tính không chắc
chắn của dòng tiền tương lai. Vì vậy, trong nghiên cứu thực nghiệm định dưới giá
IPO là chênh lệch giữa giá phát hành cổ phiếu mới và giá giao dịch đầu tiên trên thị
trường thứ cấp.
Định dưới giá tạo ra một chi phí khá lớn đối với nhà phát hành, tuy nhiên nó lại đem
lại những lợi ích đáng kể cho công ty phát hành. Việc cổ phần hóa đánh dấu một
bước ngoặt quan trọng trong vòng đời của một công ty non trẻ. Nó là con đường để
đại chúng vốn cổ phần và vì vậy có thể giảm chi phí tài trợ cho hoạt động của công
ty và hoạt động đầu tư, tạo ra thặng dư vốn cho công ty. Việc cổ phần hóa giúp đưa
tên tuổi của công ty đến với công chúng, và sự xuất hiện công khai này có thể mang
-9-
lại lợi ích gián tiếp, chẳng hạn như thu hút những nhà quản lý có năng lực. Đồng
thời, công ty có nghĩa vụ mới trong các yêu cầu về tính rõ ràng và minh bạch, và có
trách nhiệm với các cổ đông.
Một số nghiên cứu và giải thích về định dưới giá IPO đã được đưa ra trước đó và
được kiểm tra lại trên dữ liệu nhiều thị trường chứng khoán khác nhau. Tuy nhiên,
không một học thuyết đơn lẻ nào có thể giải thích thành quả ban đầu của các công
ty mới niêm yết suốt những ngày giao dịch đầu tiên (Jenkinson và Ljungqvist, 2001;
Ritter và Welch, 2002).
Một số mô hình sử dụng giả thuyết bất cân xứng thông tin, do việc định giá thấp là
cần thiết để giảm khoảng cách thông tin giữa các bên khác nhau (Rock, 1986; Allen
và Faulhaber, 1989; Grinblatt và Hwang, 1989; Welch, 1989). Như mô hình “cái giá
phải trả cho nguời chiến thắng” với hàm ý rằng định dưới giá là phần thưởng cho
những nhà đầu tư có được thông tin mật. Rock giả định rằng một số nhà đầu tư
được thông tin tốt hơn về giá trị thật của cổ phiếu chào bán hơn các nhà đầu tư
khác. Nhà đầu tư có thông tin chỉ đặt giá cho những đợt IPO giá hấp dẫn, trong khi
nhà đầu tư không có thông tin đặt giá một cách không chủ định. Lý thuyết “cái giá
phải trả cho người chiến thắng” sẽ được áp dụng cho nhà đầu tư không có thông tin:
trong những đợt chào giá không hấp dẫn, họ nhận được tất cả các cổ phiếu mà họ đã
đặt mua, trong khi ở các đợt chào giá tốt, nhu cầu của họ một phần bị chèn ép bởi
các nhà đầu tư có thông tin. Vì vậy, lợi nhuận nhà đầu tư không có thông tin thu
được từ việc nhận được phân phối cổ phiếu IPO thì dưới mức lợi nhuận trung bình,
dẫn đến các nhà đầu tư không có thông tin sẽ không sẵn sàng đặt mua cổ phiếu IPO.
Điều này đòi hỏi lợi nhuận được mong đợi là không âm như vậy nhà đầu tư không
có thông tin ít nhất được hòa vốn, vì vậy các đợt IPO cần phải được định giá thấp
như mong đợi.
Một mô hình khác dựa trên giả thuyết về “dự báo về tính bất ổn” đề xuất rằng mức
độ IPO dưới giá có liên quan tới sự không chắc chắn xung quanh giá trị của công ty
từ IPO đến khi niêm yết (Beatty và Ritter, 1986; Carter và Manaster, 1990;
-10-
Megginson và Weiss, 1991). Giải thích cho mô hình được đưa ra như sau: Một nhà
đầu tư hoàn toàn dựa vào thông tin để đưa ra quyết định đầu tư vào quyền chọn mua
trong đợt IPO, quyền chọn sẽ được thực hiện nếu giá trị “thật sự” vượt quá giá thực
hiện, là mức giá chào bán cổ phiếu. Giá trị của quyền chọn sẽ gia tăng khi độ bất
ổn gia tăng. Vì vậy, nhiều nhà đầu tư trở thành nhà đầu tư có thông tin đồng nghĩa
với mức độ bất ổn càng gia tăng, vấn đề về “cái giá phải trả cho người chiến thắng”
tăng, do đó sẽ đòi hỏi sự định dưới giá IPO.
Cuối cùng, những mô hình “tín hiệu” đề xuất rằng các công ty tốt sử dụng việc định
giá thấp để ngầm ý về chất lượng của họ có thể gia tăng tài sản trong tương lai với
nhiều điều kiện thuận lợi hơn thông qua các phát hành cổ phiếu thích hợp. Mặt
khác, chỉ có những công ty tốt mới có thể chịu đựng được một khoản tổn thất lớn
ban đầu vì họ tin tưởng vào lợi nhuận họ kiếm được từ khoản đầu tư trong tương lai
(Allen và Faulhaber, 1989; Grinblatt và Hwang, 1989, Brennan và Franks, 1997).
2.2 Bằng chứng thực nghiệm về định dưới giá IPO trong ngắn hạn
Các nghiên cứu trước đây cho thấy rằng dưới giá ban đầu là một hiện tượng phổ
biến tại các thị trường trên toàn thế giới. Tuy nhiên, có rất nhiều biến đổi trong mức
độ dưới giá tùy trên mỗi thị trường và khu vực. Cụ thể như sau:
Tại Mỹ, một trong những thị trường năng động nhất thế giới với hơn 7000 cuộc IPO
diễn ra, Ibbotson và các cộng sự (1988) đã thấy tỷ suất sinh lợi trung bình ngày đầu
tiên IPO là 16,3% trong các năm từ 1960-1987; 15% trong hai thập niên cuối theo
Derrien và các cộng sự (2002). Và 17,9% trong suốt giai đoạn 1980 – 2012 trên
mẫu 7.704 cuộc IPO tại Mỹ theo nghiên cứu của Ritter (2013).
Tại khu vực Châu Âu, theo nghiên cứu Ritter (2013) từ 1959 đến 2012, có 8.894 đợt
IPO được thực hiện ở 19 quốc gia với tỷ suất sinh lợi ngày giao dịch đầu tiên trung
bình là 18,73%. Trong đó, mức độ định dưới giá IPO tại Đan Mạch là thấp nhất với
7,4% và cao nhất là các đợt IPO diễn ra tại Hy Lạp với 50,8%. Số liệu IPO từng
-11-
ậ quốc gia như sau: Đan M Đan Mạch (164), Ai Cập (53), Phần Lan (162), Pháp (697), Đứ ần Lan (162), Pháp (697), Đức
(736), Hy Lạp (373), Ireland (31), Ý (273), H ạp (373), Ireland (31), Ý (273), Hà lan (181), Ba Lan (309), B à lan (181), Ba Lan (309), Bồ Đào
Nha (38), Tây Ban Nha (128), Thụy Điển (374), Thụy Sĩ (159), Vươ Nha (38), Tây Ban Nha (128), Th ương quốc Anh
(4877), Bỉ (114), Bungari (9), C , Bungari (9), Cộng hòa Síp (73), Na Uy (153).
ằ Hình 2.1 - Bằng chứng đị ứng định dưới giá tại 19 quốc gia ở Châu Âu
60
50
40
30
20
10
0
Nguồn: Ritter (2013)
ũng theo Ritter (2013) tổng hợp từ các nghi ừ các nghiên cứu về định Tại khu vực Châu Á, cũng
ấ dưới giá 48 quốc gia, trong đ trong đó có 16 nước Châu Á cho thấy kết quả ết quả tỷ suất sinh lợi
ợ ngày giao dịch đầu tiên c ên của 15.299 cuộc IPO như hình 2.2, với tỷ suấ ớ ỷ suất sinh lợi trung
bình ngày đầu tiên là Trung Qu ên là Trung Quốc (137.4%), HongKong (15,4%); Ấ Độ Ấn Độ (88.5%),
Indonesia (25.7%), Israel (13.8%), Israel (13.8%), Nhật (40.2%), Jordan (149%), Jordan (149%), Hàn Quốc
(61.6%), Malaysia (62.6 62.6%), Philippines (21.2%), Ả rập Saudi (264.5%), (264.5%), Singapo
(26.1%), Sri Lanka (33.5%), Sri Lanka (33.5%), Đài Loan (37,2%), Thái Lan (36.6%) và Th và Thổ Nhĩ Kỳ
(10.3%). Theo Islam (1999) nghiên c Theo Islam (1999) nghiên cứu cho thấy ở Bangladesh là 116%. 116%. Từ nghiên
ờ ỷ ấ ả cứu này, tác giả nhận thấ ận thấy tỷ suất sinh lời trung bình ngày đầu tiên t ên tại các quốc gia
Châu Á là 63,98% cao hơ đ cao hơn đáng kể so với thị trường Mỹ và Châu Âu. à Châu Âu.
-12-
ằ Hình 2.2 - Bằng chứng đị ứng định dưới giá tại 16 quốc gia ở Châu Á
300
250
200
150
100
50
0
Nguồn: Ritter (2013)
ằ Hình 2.3 - Bằng chứng đị ứng định dưới giá tại 11 quốc gia khác
35
30
25
20
15
10
5
0
Nguồn: Ritter (2013)
ự ự ộ ộ ấ ấ ạ Ở một số quốc gia còn lạ ại thuộc các khu vực khác, cho thấy một mứ độ đị ứ độ đị ột mức độ định dưới ộ
ố ỷ ị giá tương đối ngang bằng vớ ằng với thị trường Mỹ và Châu Âu, tỷ suất sinh lợ ất sinh lợi trung bình
-13-
ngày giao dịch đầu tiên ở mức 13,8%. Đáng kể nhất là mức độ định dưới giá của
Brazil là 33,1%, còn lại dao động từ 4,2% đến 21,8%. Hình 2.3 thể hiện tỷ suất sinh
lợi ban đầu tại 11 nước ngoài khu vực Châu Âu, Châu Á.
Ngoài ra, một số nghiên cứu khác xem xét sự khác nhau trong mức độ định dưới giá
giữa thị trường phát triển và thị trường đang phát triển. Loughran và cộng sự (1994)
đã tiến hành một cuộc khảo sát toàn diện các công ty phát hành cổ phiếu ra công
chúng tại 25 quốc gia, trong đó có 7 quốc gia châu Á (với tỷ suất sinh lợi ban đầu
trung bình ở Hồng Kông là 17,6%, Nhật Bản 32,5%, Hàn Quốc 78,1%, của
Malaysia 80,3%, Singapore 27,0%; ở Đài Loan 45,0% và Thái Lan là 58,1%). và
nhận thấy mức độ dưới giá IPO tại các thị trường đang phát triển cao hơn ở thị
trường phát triển.
Trái với quan điểm trên, Robert Bruner và các cộng sự (2006) nghiên cứu mẫu 299
đợt IPO từ 22 thị trường đang phát triển và 18 thị trường phát triển nhận thấy không
có sự khác biệt đáng kể mức độ định dưới giá giữa hai loại thị trường này.
Như vậy, có thể thấy việc định dưới giá các IPO là mẫu hình phổ biến ở hầu hết các
thị trường, tuy nhiên mức độ định dưới giá lại có sự dao động đáng kể giữa các
quốc gia, các thị trường. Nguyên nhân có thể xuất phát từ những yếu tố mang tính
đặc thù của từng thị trường như: cơ chế đấu giá, mức độ kéo dài của thời gian niêm
yết, đặc trưng sở hữu…
2.3 Nghiên cứu các nhân tố tác động đến dưới giá IPO
Ngoài những mô hình dựa trên giả thuyết về bất cân xứng thông tin, tranh luận về
ảnh hưởng từ cơ chế xác định giá IPO, rủi ro thị trường, rủi ro quốc gia để giải thích
về hiện tượng định dưới giá IPO thì còn nhiều nghiên cứu về những nhân tố khác
như: tỷ lệ nguồn vốn được nội bộ nắm giữ, trợ giá của nhà bảo lãnh phát hành, tỷ lệ
đăng ký mua vượt trội, thời điểm niêm yết, giá phát hành, thời gian họat động của
công ty, quy mô công ty và quy mô của đợt phát hành.
-14-
2.3.1 Tỷ lệ nguồn vốn được nội bộ nắm giữ
Nhiều tác giả (Downes và Heinkel, 1982; Allen và Faulhaber, 1989) đã nhấn mạnh
về mối quan hệ giữa mức độ vốn được nắm giữ nội bộ với giá trị của công ty. Theo
quan điểm của thuyết chi phí đại diện, một tỷ lệ vốn được nắm giữ nội bộ cao đồng
nghĩa với các lợi ích của người sở hữu (quản lý) công ty với những cổ đông mới.
Điều này sẽ dẫn tới giá trị của công ty cao hơn (Jensen và Meckling, 1976). Hơn
nữa, các công ty có cấu trúc vốn có sự phân tán trong việc kiểm soát quản lý kinh
doanh nhiều hơn các công ty tập trung, sẽ giảm dòng tiền và do đó làm giảm giá trị
công ty (Ritter, 1984). Mặt khác, nhiều chủ sở hữu hay nhà điều hành tin tưởng vào
triển vọng tương lai của công ty sau khi IPO, vì thế họ sẽ nắm giữ một tỷ lệ vốn
cao, sự nắm giữ này tạo ra một dấu hiệu cho các nhà đầu tư tiềm năng về giá trị thực
sự cho công ty. Điều này sẽ làm mức định dưới giá thấp hơn, vì công ty có thể thiết
lập một mức giá chào bán cao hơn (Mroczkowski và Tanewski, 2004). Ngược lại,
mức nắm giữ vốn cao cũng có thể đồng nghĩa với một mức độ rủi ro cao về việc sử
dụng hợp lý dòng tiền (Bozzolan và Ipino, 2007). Trong trường hợp này, các nhà
đầu tư tiềm năng sẽ chỉ mua cổ phiếu khi nó được định dưới giá.
2.3.2 Sự trợ giá từ nhà bảo lãnh phát hành
Các nghiên cứu trước đây liên quan cho thấy một mối tương quan nghịch chiều giữa
danh tiếng của nhà bảo lãnh phát hành với sự kém hiệu quả ban đầu của IPO (Betty
và Ritter, 1986; Booth và Chua, 1996; Johnson và Miller, 1988; Kim và Ritter,
1999; Chang và cộng sự, 2008). Điều này được lý giải là các nhà bảo lãnh phát hành
uy tín sẽ làm giảm chi phí đại diện của công ty xung quanh việc IPO. Để giữ danh
tiếng tốt, ngân hàng, tổ chức bảo lãnh có uy tín sẽ hạn chế bảo lãnh cho nhà phát
hành có chất lượng thấp. Nội dung thông tin về việc lựa chọn trung gian phát hành
của công ty có thể làm giảm động cơ của nhà đầu tư để tạo thông tin riêng của họ.
Bên cạnh đó, những nhà bảo lãnh luôn mong muốn tối đa hóa doanh thu dựa trên
doanh số phát hành cổ phiếu, điều này cũng sẽ làm giảm mức độ định dưới giá. Mặt
khác, các công ty với lợi thế về thông tin cũng có xu hướng chọn những nhà bảo
-15-
lãnh phát hành có uy tín cao như một dấu hiệu về chất lượng của đợt phát hành mới
(Titman và Trueman, 1986). Sự xuất hiện của nhà bảo lãnh có uy tín sẽ góp phần
làm giảm sự bất cân xứng thông tin giữa chủ sỡ hữu và nhà đầu tư tiềm năng.
Tuy nhiên, uy tín của nhà bảo lãnh phát hành có thể đi cùng với việc định giá thấp
nhiều. Thật vậy, các nhà bảo lãnh dường như quan tâm ảnh hưởng uy tín của mình
đến những nhà đầu tư tiềm năng, đặc biệt là các nhà đầu tư đầu cơ, những người
luôn tìm kiếm lợi nhuận nhanh và ngắn hạn (Spiess và Pettway, 1997). Nói cách
khác, những nhà bảo lãnh danh tiếng sẽ bao gồm chi phí tài chính cao, điều này đưa
đến việc định dưới giá. Như ghi nhận của một số tác giả, các nhà bảo lãnh phát hành
có thể được thúc đẩy để hỗ trợ giá cổ phiếu sau khi IPO vì danh tiếng của họ
(Schultz và Zaman, 1994).
Do chưa có tiêu chí cụ thể để đánh giá uy tín của nhà bảo lãnh phát hành, nên trong
nghiên cứu này, tôi không xem xét yếu tố danh tiếng nhà bảo lãnh tác động đến mức
độ định dưới giá.
2.3.3 Tỷ lệ mua vượt mức
Theo lý thuyết, nhu cầu mua cổ phiếu trong một đợt IPO được đại diện bởi tỷ lệ
mua vượt mức có mối quan hệ cùng chiều với việc định giá thấp. Michaely và Shaw
(1994) tranh luận rằng, mức độ định dưới giá phụ thuộc vào sự bất cân xứng thông
tin giữa các nhà đầu tư. Dựa trên mô hình “cái giá phải trả của người chiến thắng”
(1986), họ chỉ ra rằng, việc định dưới giá là cần thiết để giảm sự bất cân xứng thông
tin. Họ giả định là mức độ bất cân xứng gia tăng cùng với nhu cầu cổ phiếu công ty,
bởi vì cả người nắm thông tin và người không nắm thông tin đều sẽ đặt thầu trong
một IPO “tốt”, nhưng trái lại các đợt phát hành “không tốt” chỉ thu hút các nhà đầu
tư không nắm thông tin. Chowdhry và Sherman (1996) lại tranh luận rằng IPO dưới
giá có thể có tiềm năng thu hút nhiều nhà đầu tư đang tìm kiếm thu nhập vốn tiềm
năng. Họ giải thích là khi giá bị lộ trước khi kết thúc cuộc đấu thầu, nó có thể là một
-16-
sự rò rỉ thông tin đáng kể, điều này sẽ dẫn tới một sự gia tăng trong nhu cầu cổ
phiếu của công ty, đặc biệt khi nhà đầu tư nhận ra giá phát hành thấp hơn.
Bằng thực nghiệm, một số tác giả đã sử dụng tỷ số vượt mức để giải thích độ lớn
của tỷ suất sinh lợi bất thường trong ngày niêm yết đầu tiên (Allen và Faulhaber,
1989; Chowdhry và Sherman, 1994; Booth và Chua, 1996). Hanley (1993) chỉ ra
rằng, có một sự tương quan dương giữa tỷ số vượt mức phát hành và độ lớn của
thành quả ban đầu trong một mẫu các IPO ở Mỹ. Kandel và cộng sự (1999) cũng
cho ra kết quả tương tự trên sàn giao dịch TASE. Agarwal và cộng sự (2008) xem
xét các đợt IPO ở sàn giao dịch Hong Kong tìm thấy một mối tương quan dương
trong ngắn hạn nhưng tương quan âm trong khoảng thời gian dài hơn. Họ giải thích
kết quả này là do sự phản ứng quá mạnh mẽ của nhà đầu tư trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác cho thấy có một mối quan hệ nghịch chiều giữa
tỷ lệ vượt mức và mức độ định dưới giá IPO. Theo Biais và Faugeron-Crouzet
(2000), mức độ định dưới giá sẽ giảm khi số lượng cổ phiếu được đặt mua tăng,
hàm ý tính cạnh tranh giữa các nhà đầu tư cao khiến cho việc định giá IPO chính
xác hơn, và do đó làm giảm mức độ định dưới giá. Chi và Padgett (2005) tìm thấy
mức định giá thấp chủ yếu được giải thích bởi sự mất cân đối giữa cung cầu, và một
tỉ lệ lớn các nhà đầu tư tham gia mua cổ phiếu IPO là các nhà đầu tư cá nhân không
có thông tin trên thị trường Trung Quốc.
2.3.4 Độ trễ niêm yết
Theo Chowdhry và Sherman (1996), sự chậm trễ trong việc niêm yết ảnh hưởng đến
việc định giá thấp. Một mặt, thời gian niêm yết càng dài đi kèm với mức độ không
chắc chắn trong phát hành. Mặt khác, nhà đầu tư phải bù đắp cho mức độ thiếu
thanh khoản cao bằng một mức chiết khấu trong giá cổ phiếu. Khi một công ty cần
quá nhiều thời gian để được niêm yết, thị trường có thể xem xét lại kỳ vọng của nó
về giá trị tương lai của công ty và vì vậy kéo theo việc định giá thấp. Mok và Hui
(1998), Su và Fleischer (1999) chỉ ra một mối tương quan dương giữa tỷ suất sinh
-17-
lợi ban đầu của IPO và độ trễ niêm yết đối với cổ phiếu trên sàn Shangai.
Megginson và Tian (2006) cho thấy số ngày chậm trễ so với ngày phát hành làm gia
tăng tỷ suất sinh lợi ban đầu lên 0,4% ở Trung Quốc. Họ cho rằng điều này là do sự
chậm trễ kéo dài bất thường của việc niêm yết ở Trung Quốc (trên 10 tháng).
Tuy nhiên, do không có thông tin về thời gian niêm yết khi IPO, thời gian chậm trễ
của việc niêm yết có thể do nhiều yếu tố không thể lường trước, và đây là điều mà
các nhà phát hành không mong muốn. Trong trường hợp này, nhà đầu tư không
được khuyến khích giao dịch ngay trên thị trường vì độ trễ của thời gian niêm yết
có thể kéo dài. Quan điểm này lần đầu tiên được nêu bởi Uddin (2008), Uddin cho
rằng việc kéo dài sự chậm trễ trong việc niêm yết thì không được các nhà phát hành
biết đến, khó có thể tin rằng họ sẽ có ý định đưa ra mức giá phát hành thấp hơn.
2.3.5 Giá phát hành
Giá chào bán của một IPO cũng có thể cho thấy sự tồn tại của việc định giá thấp
mặc dù mức độ của nó ít có ý nghĩa kinh tế (Fernando và cộng sự, 1999). Các công
ty không đưa ra một mức giá chào bán một cách tùy ý. Trong thực tế, nếu mục đích
của IPO là để khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư riêng lẻ, nhà phát hành
thiết lập một mức giá tương đối thấp để khuyến khích các nhà đầu tư nhỏ tiềm năng.
Điều này sẽ dẫn tới một nhu cầu vượt mức đối với cổ phiếu và vì vậy mức độ định
dưới giá thấp hơn. Bên cạnh đó, Daily và cộng sự (2003) đã chỉ ra rằng một mức giá
phát hành cao hơn đi kèm với một sự không chắc chắn về thành quả tương lai của
công ty thấp hơn.
Các bằng chứng thực nghiệm cung cấp kết quả khác về mối quan hệ giữa giá phát
hành và mức độ định dưới giá. Ibbotson và cộng sự (1988) đã cho thấy rằng các
công ty phát hành với giá thấp thường có sự định giá thấp nhiều hơn.Họ tranh luận
rằng giá phát hành thấp cho thấy rủi ro cao hơn và là vấn đề đối với các giao dịch
mang tính đầu cơ.
-18-
Mức giá khởi điểm là một chỉ báo cho các mức giá mà những người đấu giá sẽ đặt.
Bên cạnh đó, theo quy định đấu giá IPO tại Việt Nam, một đặt giá chỉ hợp lệ khi nó
không thấp hơn mức giá khởi điểm, nên giá khởi điểm là mốc tham chiếu quan
trọng cho việc đặt giá IPO tại Việt Nam. Do đó, nhân tố này được mong đợi sẽ có
tác động lên mức độ định dưới giá IPO.
2.3.6 Tuổi của công ty phát hành
Tuổi của công ty phát hành được giả thiết là có ảnh hưởng ngược chiều với việc
định dưới giá của IPO (Carter et al. 1998; Ritter, 1984, 1991 và Megginsion và
Weiss, 1991). Đầu tiên, các công ty mới thành lập thể hiện mức độ bất ổn cao hơn
các công ty đã hoạt động lâu năm. Điều này là vì các công ty mới ít được sự quan
tâm của các nhà phân tích tài chính cũng như được định giá đúng vì không có đủ dữ
liệu tài chính lịch sử. Thứ hai, với thông tin có sẵn về hoạt động của công ty trong
một vài năm góp phần làm giảm bất đối xứng thông tin xung quanh việc IPO
(Ritter, 1984 và 1991; Hensler và cộng sự, 1997). Sự không chắc chắn về triển vọng
tương lai của các công ty ứng viên sẽ được phản ánh trong việc định giá thấp nhiều
hơn (Bilson và cộng sự, 2003).
2.3.7 Quy mô của công ty phát hành
Một số nghiên cứu cho thấy mối quan hệ nghịch chiều giữa quy mô công ty và mức
độ định dưới giá IPO (Megginson và Weiss, 1991; Ibbotson và các cộng sự, 1994;
Carter và các cộng sự, 1998). Những công ty lớn hơn có nhiều dòng sản phẩm đa
dạng và những quy trình kiểm soát tốt, có sự tiếp cận với nguồn vốn tốt hơn –
những yếu số quyết định đến lợi nhuận và sự tồn tại của công ty (Finkle, 1998).
Thật vậy, quy mô của công ty thường có mối tương quan nghịch chiều với rủi ro
của nó. Những nhân tố trên làm giảm sự bất ổn xung quanh việc IPO của các công
ty lớn đối với các nhà đầu tư tiềm năng (Kiymaz, 2000; Bhabra và Pettway, 2003).
Tuy nhiên, mối quan hệ ngược lại giữa rủi ro và quy mô công ty thì được ủng hộ
-19-
một cách chắc chắn trong nhiều nghiên cứu (Titman và Wessels, 1998; Schultz,
1993).
2.3.8 Quy mô phát hành
Quy mô phát hành của IPO thường được đo lường bằng tổng thu nhập gia tăng từ
thị trường được cho là có mối tương quan âm với mức độ dưới giá. Theo Miller và
Reilly (1987), Clarkson và Simunic (1994) quy mô của đợt phát hành cho thấy sự
không chắc chắn về các công ty IPO. Những công ty danh tiếng lâu năm và được
ghi nhận tốt thường thực hiện IPO lớn hơn. Điều này làm giảm rủi ro từ nhận thức
các nhà đầu tư tiềm năng (Carter và cộng sự, 1998; Jain và Kini, 2000). Carter và
Manaster (1990) nhận thấy bên cạnh sự không chắc chắn xung quanh việc IPO, các
nhà đầu tư thường dựa vào quy mô của nó để đánh giá thành quả của IPO.
Một số nghiên cứu thực nghiệm khác chỉ ra một mối tương quan âm giữa khoảng
gia tăng tài sản và mức độ định dưới giá (Chalk và Peavy, 1990; Clarkson và
Merkley, 1994).
2.4 Thị trường IPO tại Việt Nam
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào
vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và
thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ,
chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ
đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch.Từ đó cho đến
2005, thị trường luôn ở trong trạng thái ảm đảm, loại trừ cơn sốt vào năm 2001 (chỉ
số VN index cao nhất đạt 571,04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng chỉ trong vòng
chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã mất giá tới
70% giá trị, chỉ số VN Index sụt từ 571,04 điểm vào ngày 25/4/2001 xuống chỉ còn
khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001) thì trong 5 năm chỉ số VN-Index lúc cao nhất
chỉ có 300 điểm, mức thấp nhất xuống đến 130 điểm. Lý do chính là ít hàng hoá,
-20-
các doanh nghiệp niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng, không hấp dẫn nhà đầu tư
trong nước, trong khi room cho các nhà đầu tư nước ngoài thì hết. Nhưng bước sang
năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49%
(trừ lĩnh vực ngân hàng), thị trường dần chuyển sắc. Thị trường chứng khoán Việt
Nam nóng lên từ 7/2006, thị trường chứng khoán tăng 67% trong năm 2006, nhà
nước kêu gọi các công ty tiến hành IPO doanh nghiệp, tình hình khá sôi động, hàng
loạt công ty tiến hành IPO, lượng cung cổ phần ra thị trường vô cùng lớn. IPO của
các doanh nghiệp diễn ra rất thuận lợi, khi đó hầu hết các doanh nghiệp tiến hành
IPO đều thành công. Các doanh nghiệp khi IPO chỉ chú trọng đến việc làm thế nào
để bán được với giá cao nhất, còn nhà đầu tư chỉ cần mua là có lợi nhuận. Tình
trạng IPO hàng loạt tiếp diễn trong năm 2007. Với xu hướng của năm 2007, năm
2008 có thể đánh giá là một năm của IPO với rất nhiều kế hoạch IPO lớn đã được
vạch sẵn từ năm 2007 như: tổng công ty Bia rượu Nước giải khát Hà Nội (Habeco),
tổng công ty Bia rượu Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco), Mobifone, Vinafone,
Agribank, BIDV.... Dự tính thì nhiều nhưng diễn biến bất ngờ từ cuộc khủng hoảng
tài chính thế giới đã tác động đáng kể đến Việt Nam, các chỉ số chứng khoán giảm
sút tới mức những chuyên gia lạc quan nhất cũng trở nên “hoảng loạn”, và thậm chí
có những ý kiến yêu cầu “tạm ngưng giao dịch” để ngăn làn sóng rớt giá của thị
trường chứng khoán, kéo theo đó các nhà đầu tư cũng dần trở nên thờ ơ với các
hàng hóa IPO, các dự tính không thành, dù chất lượng của các đợt IPO này được
đánh giá là tốt. Năm 2009, thị trường chứng khoán khởi sắc nhưng các hoạt động
IPO vẫn trong tình cảnh ảm đạm. Cả hai Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí
Minh và Hà Nội thực hiện IPO cho 29 doanh nghiệp, nhưng lượng cổ phần đấu giá
thành công khá khiêm tốn, có doanh nghiệp phải hủy đấu giá vì có ít, thậm chí
không có nhà đầu tư tham gia. Một thực tế, các đợt IPO trong giai đoạn này thiếu
vắng các doanh nghiệp lớn, các thương hiệu mạnh để thu hút nhà đầu tư. Trong tình
hình nhà đầu tư rất dè dặt mua cổ phiếu niêm yết trên sàn thì quyết định mua cổ
phiếu IPO càng được cân nhắc kỹ lưỡng hơn. Có nhiều công ty thực hiện IPO xong
nhưng mãi vẫn không lên sàn. Năm 2010 là năm triển vọng nền kinh tế hồi phục.
-21-
nhiều doanh nghiệp có kế hoạch IPO từ năm 2009 nhưng đã hoãn lại đến năm 2010
với hy vọng nền kinh tế hồi phục có thể giúp cho hoạt động IPO của doanh nghiệp
đạt kết quả cao hơn. Tuy nhiên một số yếu tố vĩ mô bất lợi khiến thị trường chứng
khoán lình xình trong suốt tám tháng đầu năm và bất ngờ sụt giảm mạnh trong
những tháng cuối năm cũng làm cho các thương vụ IPO tiếp theo của các doanh
nghiệp trong năm không được thành công. Những năm tiếp theo 2011, 2012, tình
hình IPO vẫn không khả quan.
Hình 2.4 - Giá trị vốn hóa Thị trường chứng khoán Việt Nam (2000-2012)
Nguồn: dữ liệu theo cophieu68.vn
Như các thị trường mới nổi khác, thị trường chứng khoán Việt Nam áp dụng biên độ
giao dịch từ năm 2000. Tính đến đầu năm 2013, thị trường chứng khoán Việt Nam
đã trải qua 10 lần thay đổi biên độ giao dịch, đặc biệt là có 4 lần được thực hiện
trong năm 2008. Kể từ ngày 15/1/2013, thị trường chứng khoán Việt Nam chính
thức áp dụng biên độ mới: +/-7% đối với HOSE và +/-10% đối với HNX. Mục đích
của việc áp dụng biên độ giao dịch này là nhằm bảo vệ thị trường chứng khoán và
các nhà đầu tư khỏi các bất thường của thị trường và khỏi các cuộc tấn công mang
-22-
tính đầu cơ được gây ra bởi môi trường dễ bị tổn thương ở các thị trường mới nổi.
Quy định được áp dụng cho tất cả các cổ phiếu kể từ ngày giao dịch đầu tiên của nó.
Ví dụ, giá cổ phiếu được niêm yết có thể dao động giữa +/-5%. Khi giá một cổ
phiếu chạm tới mức trần +/-5%, giá cổ phiếu được cố định cho tới khi lượng cầu và
giá cổ phiếu giảm xuống +5% hoặc lượng cung và giá cổ phiếu tăng lên trên -5%
trong cùng ngày. Tuy nhiên, đối với cổ phiếu mới niêm yết, trong ngày giao dịch
đầu tiên, giá giao dịch được biến động trong phạm vi +/-20% so với giá giao dịch
dự kiến. Sự thay đổi này nhằm mục đích cho phép thị trường đánh giá khách quan
giá của cổ phiếu được niêm yết, điều này có thể ảnh hưởng đặc biệt tới mức độ dưới
giá đối với ngày giao dịch đầu tiên.
Ở Việt Nam, theo quy định của Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị
trường chứng khoán, thông tư 01/1998/TT-UBCK hướng dẫn Nghị định
48/1998/NĐ-CP, Luật chứng khoán 2006 và Luật chứng khoán sử đổi năm 2010, tổ
chức phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng phải đáp ứng các điều kiện: Mức
vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ Việt Nam đồng; hoạt động kinh doanh có lãi trong 2
năm gần nhất; thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc) có kinh
nghiệm quản lý kinh doanh; có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ
đợt phát hành cổ phiếu; số cổ đông tối thiểu là 100 người, và 100 người này phải
nắm giữ tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành, trường hợp vốn cổ phần
của tổ chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu này là 15% vốn cổ
phần của tổ chức phát hành; cổ đông sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần
của tổ chức phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 năm kể từ ngày kết thúc
đợt phát hành; cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10 tỷ đồng thì
phải có tổ chức bảo lãnh phát hành.
Để được niêm yết trên thị trường chính thức (HOSE), các công ty phải có vốn điều
lệ tại thời điểm đăng ký là 80 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị sổ sách từ
năm 2006 – 2012 và 120 tỷ đồng từ ngày 15 tháng 9 năm 2012, hoạt động kinh
doanh 2 năm liền trước năm đăng ký niêm yết có lãi và không có lỗ tính đến năm
-23-
đăng ký niêm yết, không có các khoản nợ quá hạn chưa được dự phòng, tối thiểu
20% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông nắm giữ.
Một số quy định này có sự thay đổi đáng kể qua thời gian theo từng Luật, Nghị
định, Thông tư được tổng hợp tại Bảng 2.1. Hiện tại, văn bản hướng dẫn mới nhất là
Nghị định 58/2012/ NĐ-CP ngày 20/7/2012. Do có sự cách biệt khá lớn về mức vốn
điều lệ từ khi IPO đến khi niêm yết cũng như các điều kiện khắt khe hơn nên trong
số 208 đợt IPO chỉ có 49 công ty tiến hành niêm yết trên HOSE.
Bảng 2.1 - Các điều kiện để được IPO và niêm yết trên sàn HOSE.
Các điều kiện IPO Niêm yết trên HOSE
Tài liệu (1) Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998;
(2) Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003
(3) Thông tư 60/2004/TT-BTC ngày ngày 18 tháng 6 năm 2004;
(4) Luật chứng khoán 2006 ngày 29/6/2006;
(5) Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007;
(6) Nghị định 84/2010/NĐ-CP ngày 02/8/2010;
(7) Luật chứng khoán sửa đổi 2010 ngày 24/11/2010;
(8) Nghị định 58/2012/ NĐ-CP ngày 20/7/2012.
10 tỷ Việt Nam đồng (1) 05 tỷ đồng Việt Nam (2) Mức vốn điều lệ tối thiểu 05 tỷ Việt Nam đồng (2) 80 tỷ đồng Việt Nam (5)
Lãi trong 2 năm liền trước (1)
10 tỷ Việt Nam đồng (4) 120 tỷ đồng Việt Nam (8)
Kết quả Lãi 02 năm liền trước (2)
Lãi năm liền trước (2)
Lãi 02 năm liền trước, kinh doanh
Lãi năm liền trước,không lỗ lũy kế (3)
không có lỗ lũy kế (5)
-24-
Nắm giữ ít nhất 20% trong tối thiểu 3 năm (1) Cổ đông sáng lập, Ban quản lý Cam kết giữ ít nhất 50% số cổ phần đang có trong 1 năm (2) Không quy định (2)
Cam kết giữ 100% số cổ phần đang có trong 6 tháng, 50% trong 6 tháng tiếp theo (5)
Nợ quá hạn - Không có nợ quá hạn phải lập dự phòng (5)
Không có nợ quá hạn phải trả trên 1 năm (8)
Cổ đông nhỏ
Tối thiếu 20% được nắm giữ bởi 100 cổ đông. (nếu phát hành trên 100 tỷ đồng thì tỷ lệ tối thiểu là 15%) (1)
Không quy định (2) Tối thiểu 20% do ít nhất 50 cổ đông (vốn cổ phần từ 100 tỷ đồng Việt Nam trở lên thì tỷ lệ tối thiểu là 15%) (2)
Tối thiếu 20% được nắm giữ bởi 100 cổ đông (5)
Tối thiếu 20% được nắm giữ bởi 300 cổ đông (8)
Khác
Có ít nhất 02 năm hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần. (8)
Công ty đại chúng chào bán chứng khoán ra công chúng phải cam kết đưa chứng khoán vào giao dịch trên thị trường trong thời hạn một năm (7) Tỷ lệ ROE năm gần nhất tối thiểu là 5% (8)
Bổ sung áp dụng quy định trên đối với các trường hợp IPO để thành lập mới doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghệ cao, tổ chức tín dụng cổ phần (8)
-25-
Khi quyết định thực hiện IPO, công ty phát hành phải lựa chọn nhà bảo lãnh. Nhà
bảo lãnh thường là một ngân hàng hay một công ty chứng khoán được thực hiện
nghiệp vụ bảo lãnh. Đợt phát hành nhỏ chỉ cần một nhà bảo lãnh chính, nhưng nếu
đợt phát hành lớn thì cần đến một vài nhà bảo lãnh chính để đảm bảo uy tín và sự
thành công cho đợt phát hành (các nhà bảo lãnh sẽ lập thành một tổ hợp bảo lãnh).
Công ty phát hành và nhà bảo lãnh phát hành thỏa thuận với nhau một mức giá nhất
định cho một lượng cổ phiếu xác định, sau đó nhà bảo lãnh phải bán lại số cổ phiếu
đó cho người mua. Tổ chức bảo lãnh sẽ chuẩn bị hồ sơ đăng ký phát hành nộp lên
Ủy ban Chứng khoán Nhà Nước chờ xét duyệt. Vì đây là các công ty lần đầu phát
hành ra công chúng nên thông tin liên quan đến công ty hầu như không được nhiều
người biết đến, cần có một buổi gặp gỡ giữa công ty phát hành, các nhà bảo lãnh và
các nhà đầu tư tiềm năng để thuyết trình về công ty cũng như những kế hoạch kinh
doanh của công ty.
Sau khi được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông qua và cấp giấy phép phát
hành, công ty phát hành phải thông báo phát hành trên các phương tiện thông tin đại
chúng, đồng thời công bố ra công chúng bản cáo bạch chính thức, bản các bạch phải
bao gồm các thông tin kế toán tài chính lịch sử chi tiết về công ty cùng với chi tiết
về lịch sử hoạt động của công ty, đội ngũ quản lý, triển vọng, rủi ro, việc sử dụng
các khoản tiền mới do phát hành, các cổ đông nắm quyền kiểm soát và các công ty
con. Công ty phát hành phải thực hiện việc phân phối chứng khoán trong một thời
gian nhất định kể từ ngày được cấp giấy phép. Cơ chế phân bổ số cổ phần IPO ở
Việt Nam là thông qua đấu giá, xác định kết quả đấu giá theo nguyên tắc lựa chọn
giá đặt mua từ cao xuống thấp đến khi đủ số lượng cổ phần chào bán. Sau khi tổ
chức đấu giá, sẽ tiến hành xử lý các trường hợp vi phạm quy chế đấu giá và xử lý
đối với số cổ phần không bán hết trong đấu giá (nếu có). Nếu số cổ phần nhà đầu tư
từ chối mua nhỏ hơn 30% tổng số cổ phần chào bán thì ban chỉ đạo cổ phần hóa
thực hiện bán tiếp cho các nhà đầu tư đã tham dự đấu giá theo phương thức thỏa
thuận với giá không thấp hơn giá đấu thành công bình quân của cuộc đấu giá.
-26-
Tuy nhiên, hiện nay cơ chế đấu giá cổ phần đang bộc lộ một số khuyết điểm như
một số người tham gia đấu giá có thể bóp méo giá bằng cách đặt mua với khối
lượng nhỏ nhưng giá rất cao, sau đó không mua cổ phần nên giá cao nhất có khi là
giá ảo. Do vậy, các nhà làm chính sách cần thay đổi một số quy định, nhằm giảm
mức dưới giá và thiệt hại do đầu cơ như nâng mức tiền đặt cọc khi các nhà đầu tư
tham gia đấu giá, hiện nay theo Quyết định 895/QĐ-UBCK ngày 29 tháng 10 năm
2012 đang quy định mức đặt cọc là 10% giá trị tổng số cổ phần đăng ký mua tính
theo giá khởi điểm. Hoặc như xem xét một cơ chế xác lập giá IPO khác như hình
thức đăng ký ghi sổ, một trong những cơ chế đang được áp dụng phổ biến ở các thị
trường chứng khoán trên thế giới.
-27-
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU
3.1 Phương pháp nghiên cứu
Để phân tích mối quan hệ giữa mức độ định dưới giá của IPOs với các yếu tố tác
động, tôi sử dụng phương pháp tiếp cận hai bước. Đầu tiên, tôi đo lường mức độ
định dưới giá IPO trong ngắn hạn, sau đó kiểm định sự tác động của các nhân tố lên
tỷ suất sinh lợi đầu tiên gồm: tỷ lệ vốn được nội bộ nắm giữ, tỷ lệ mua vượt mức,
độ trễ niêm yết, giá khởi điểm, tuổi công ty, quy mô công ty và quy mô phát hành.
Phương pháp kiểm định trung bình được sử dụng để tìm kiếm bằng chứng định dưới
giá của các IPO tại HOSE.
Phương pháp hồi quy OLS được dùng để đánh giá các nhân tố giải thích cho mức
độ định dưới giá trong mô hình hồi quy đa biến, do hồi quy OLS là phương pháp
được sử dụng hầu hết trong các nghiên cứu về mức độ định dưới giá IPO trên thế
giới.
Ngoài ra, để đảm bảo độ tin cậy của kết quả từ mô hình hồi quy đa biến, tôi tiến
hành các kiểm định sau:
+ Kiểm định White xem mô hình có bị phương sai thay đổi không
+ Kiểm định về hiện tự tương quan có xảy ra trong mô hình không
+ Kiểm định đa cộng tuyến
+ Kiểm định Ramsey Reset để xem mô hình đã có đầy đủ biến giải thích hay không.
Trong trường hợp kiểm định Ramsey cho kết quả mô hình vẫn còn thiếu biến, tôi sẽ
đưa vào mô hình lần lượt ba biến kiểm soát là biến giả về nhà đầu tư tổ chức, ngành
hoạt động của công ty và biến về điều kiện thị trường là tỷ suất sinh lợi của thị
trường trong 3 tháng trước khi niêm yết.
-28-
3.2 Dữ liệu
Chúng tôi sử dụng một mẫu gồm 49 đợt IPO trên sàn chứng khoán Thành phố Hồ
Chí Minh từ năm 2005 tới năm 2012. Đầu tiên, tôi thu thập danh sách những công
ty tiến hành IPO trên trang web sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
www.hsx.vn, kết quả có 208 đợt phát hành IPO từ năm 2005 đến năm 2013. Sau đó,
từ website www.cophieu68.vn tôi thu thập danh sách các công ty niêm yết trên sàn
HOSE với kết quả 317 mã niêm yết. Qua đối chiếu, loại trừ những mã chứng khoán
không thu được bản cáo bạch, ngày IPO sau ngày niêm yết, mẫu dữ liệu còn lại 49
đợt IPO. Bảng I Phụ lục Bảng trình bày các mã chứng khoán của 49 công ty thực
hiện IPO. Tiếp theo, các dữ liệu sẽ được xử lý trong excel để đưa ra các biến cho
mô hình.
3.3 Mô hình và các biến
Chúng tôi sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính đa biến để kiểm tra các nhân tố quyết
định tới việc định giá thấp trong IPO. Biến phụ thuộc là tỷ suất sinh lợi ban đầu
được điều chỉnh theo thị trường và các biến độc lập gồm: tỷ lệ giữ vốn nội bộ, tỷ lệ
mua vượt mức, độ trễ niêm yết, giá khởi điểm, tuổi công ty, quy mô công ty và quy
mô phát hành
Mô hình hồi quy được trình bày như sau:
b b b b b b b b b b b b MARmi= b b 1(Capret) + b b 2(Over) + b b 3(lDel) + b b 4(lPrice) + b b 5(lAge) +
b b b b b e e e (3.1) b 0 + b b 7(lOsize) + e b 6(lFsize) + b
Biến phụ thuộc: MARmi là mức độ định dưới giá ngắn hạn với i=1, 2, 3 (tỷ suất
sinh lợi ban đầu được điều chỉnh theo thị trường của IPO cho ba ngày giao dịch đầu
tiên của 49 đợt IPO.
Tương tự các nghiên cứu trước đây (Aggarwal và cộng sự, 1993; Chi và Padget,
2005), chúng tôi sử dụng phương pháp sau để đo lường mức độ dưới giá của các đợt
-29-
IPO. Tỷ suất sinh lợi của chứng khoán i ở cuối ngày giao dịch đầu tiên được tính
toán như sau:
− 1 (3.2) (cid:1)(cid:1)(cid:2) = (cid:3)(cid:1)(cid:2) (cid:4)(cid:1)(cid:3)
Trong đó, Pi1 là giá đóng cửa của cổ phiếu i ở ngày giao dịch đầu tiên và Si0 là giá
phát hành (giá trúng bình quân khi đấu giá) và Ri1 là tỷ suất sinh lợi của chứng
khoán trong ngày giao dịch đầu tiên.
Vì giá phát hành của cổ phiếu là cố định ở ngày công bố, tỷ suất sinh lợi giữa giá ở
cuối ngày giao dịch đầu tiên và giá phát hành sẽ phụ thuộc vào sự thay đổi của điều
kiện thị trường mà công ty đang đối mặt.
Để kiểm tra sự ảnh hưởng của sự chênh lệch giá thực tế khi định giá và niêm yết,
mức độ dưới giá được đo lường như tỷ suất sinh lợi bất bình thường được điều
chỉnh theo thị trường cho mỗi đợt IPO ở ngày giao dịch đầu tiên và được tính toán
như sau:
MAR(cid:5)(cid:2) = (cid:1)(cid:1)(cid:2) − (cid:1)(cid:5)(cid:2) (3.3)
Tỷ suất sinh lợi dựa vào chỉ số thị trường ở cùng thời điểm là:
− 1 (3.4) (cid:1)(cid:5)(cid:2) = (cid:3)(cid:4)(cid:2) (cid:3)(cid:4)(cid:3)
Trong đó, Pm1 là giá trị chỉ số thị trường lúc đóng cửa ở ngày giao dịch đầu tiên, Pm0
là giá trị chỉ số thị trường lúc đóng của của ngày đấu giá cổ phần và Rm1 là tỷ suất
sinh lợi thị trường tương ứng với ngày đầu tiên.Trong bài nghiên cứu này, Chúng
tôi sử dụng chỉ số Vnindex làm đại diện cho chỉ số thị trường.
Như đã trình bày ở công thức (3.3) tỷ suất sinh lợi bất thường được điều chỉnh theo
thị trường MARm1 được giả sử rủi ro hệ thống của các đợt IPO là bằng 1.Một số
nghiên cứu (của Ibbotson, 1975; Spiess và Affleck-Graves, 1995) đã chứng minh
rằng mức beta trung bình của các công ty mới niêm yết thì cao hơn rủi ro hệ thống
-30-
của danh mục thị trường. Vì vậy, phương pháp đo lường của tỷ suất sinh lợi bất
thường này bằng cách này hay cách khác cung cấp cung cấp một ước tính cao hơn
so với thành quả ban đầu của IPO trong mối tương quan với thị trường.
Biến độc lập: Dựa vào tổng quan lý thuyết về các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ
định dưới giá IPO đã nêu ở phần 2, tôi xác định các biến độc lập sẽ đưa vao mô
hình. Ký hiệu và cách tính toán các biến giải thích được trình bày trong bảng 3.1.
Bảng 3.1 - Tóm tắt về các biến độc lập
Biến độc lập Giải thích Ký
hiệu
Tỷ lệ nguồn vốn 1- phần trăm giữa số cổ phần tăng lên trên tổng Capret được nội bộ nắm giữ số cổ phần đang lưu hành
Nhu cầu cổ phiếu (số cổ phiếu đăng ký mua) Tỷ số vượt mức phát trên số cổ phiếu phát hành Over hành
Logarit tự nhiên số ngày chênh lệch giữa ngày Độ trễ niêm yết LDel IPO và ngày giao dịch đầu tiên
Logarit tự nhiên của giá phát hành được đặt ra Giá phát hành LPrice bởi nhà phát hành
Logarit tự nhiên của số năm giữa năm thành lập Tuổi của công ty LAge và năm IPO
Logarit tự nhiên của tổng tài sản ở cuối năm của Quy mô công ty LFsize năm trước IPO của công ty phát hành
Logarit tự nhiên của tích giữa số cổ phiếu phát Quy mô phát hành LOsize hành và giá phát hành
-31-
4. KẾT QUẢ NGHIÊN C NGHIÊN CỨU
4.1 Bằng chứng định dư nh dưới giá các IPO tại HOSE trong ngắn hạn
ớ Đầu tiên, tôi xem xét kết quả ề ứ độ đị ết quả về mức độ định dưới giá IPO tại HOSE tr ại HOSE trên mẫu là 49
ợ đợt IPO trong khoảng thờ ảng thời gian từ 2005 -2012. ừ
ớ ủ ấ Hình 4.1 cho thấy mức độ đị ức độ định dưới giá của các công ty trong mẫu khá rộ ẫu khá rộng. Mức
ộ ầ độ dưới giá trong mẫu chạy từ -207,592% tới 754,376% (thuộc về Công ty Cổ độ dưới giá trong mẫu chạy từ ề Công ty Cổ phần
ầ ị Cao su Hòa Bình và Tổng Công ty Cổ ổng Công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ khoan Dầ ụ khoan Dầu khí).
Trong đó, có 33 trên 49 đ đó, có 33 trên 49 đợt IPO MAR 1,2 dương và 32 đợt IPO có MAR ợt IPO có MAR 3 dương.
Hình 4.1.a - Các công ty có t Các công ty có tỉ suất sinh lợi ngày đầu điều chỉnh th ầ đ ều chỉnh thị trường
800,00%
700,00%
600,00%
500,00%
MAR 1
400,00%
MAR 2
300,00%
MAR 3
200,00%
100,00%
0,00%
-100,00%
ợ ồ dương (Nguồn: tác giả tổ ả tổng hợp)
Trung bình tỷ suất sinh lợi ban đầu lên tới 22,98%, 23,60% và 23,16% Trung bình tỷ suất sinh lợi ban đầu lên tới % ứng với ngày
giao dịch đầu tiên, thứ 2 ớ độ ệ đến 149,58%. Giá 2 và thứ 3 với độ lệch chuẩn từ 143,16% đến 149,58%. Giá ẩ ừ
ị độ ệ ứ trị độ lệch chuẩn cao cho thấ độ định dưới giá của các cuộc IPO trong mẫu ẩn cao cho thấy mức độ định dưới giá của các cuộc IPO trong mẫu
Trung vị của MAR thấp hơn trung bình trong tất cả các trường phân tán khá lớn. Trung vị của MAR thấp hơn trung bình trong tất cả các trường Trung vị của MAR thấp hơn trung bình trong tất cả các trường
điều này cho thấy chuỗi tỷ suất sinh lợi ban đầu nghiêng về bên phải. Bảng 4.1 điều này cho thấy chuỗi tỷ suất sinh lợi ban đầu nghiêng về bên phải hợp, điều này cho thấy chuỗi tỷ suất sinh lợi ban đầu nghiêng về bên phải
-32-
cho thấy mức định giá thấp này khác 0 một cách đáng kể cho tất cả các trường hợp cho thấy mức định giá thấp một cách đáng kể cho tất cả các trường hợp.
ệ đị ể ế ứ ộ ằ ề ậ Như vậy, có thể kết luận rằ ận rằng có bằng chứng về việc định dưới giá ở ới giá ở các cuộc IPO
tại Việt Nam. Kết quả này g ày gần với mức độ định giá thấp trên thị trườ ờng Philippines
(22,7%) theo Ritter (201 13); Singapore (27,0% ) theo Loughran và c ; Singapore (27,0% ) theo Loughran và cộng sự (1994),
ự và không cao so với những quố ư Thái Lan (58,1%), ới những quốc gia trong khu vực Châu Á như Thái Lan (58,1%),
Trung Quốc (256,9%), H ốc (256,9%), Hàn Quốc (74,3%); Malaysia (104,1%). Tuy nhi ốc (74,3%); Malaysia (104,1%). Tuy nhiên, kết quả
ự ệ này có sự khác biệt nhỏ vớ ỏ với bài nghiên cứu trước đây tại thị trường Việ ờng Việt Nam, theo
nghiên cứu của hai tác gi tác giả Trần Thị Hải Lý và Dương Kha (2013), m ương Kha (2013), mức độ định
dưới giá trung bình trên m ình trên mẫu cả ba sàn là 49,09% theo MAAR và 38,01% theo AR. àn là 49,09% theo MAAR và 38,01% theo AR.
ể Điều này có thể thấy mứ độ đị ấy mức độ định dưới giá tại HOSE thấp hơn mứ độ ức độ định dưới
giá tại sàn HNX (do sàn UPCOM ch àn HNX (do sàn UPCOM chỉ có 4 mẫu).
0,00%
T I P
F R S
P T T
P T B
C F V
1 V T
T B A
D T C
H S V
P H K
C R H
T O H
M S A
P M B
M O C
M N V
-50,00%
MAR 1
-100,00%
MAR 2
MAR 3
-150,00%
-200,00%
-250,00%
ầ đ ề Hình 4.1.b - Các công ty có t Các công ty có tỉ suất sinh lợi ngày đầu điều chỉnh thị ỉnh thị trường âm
ấ Bảng 4.2 cho thấy mức độ đị ức độ định dưới giá cao nhất 53,47% rơi vào nă ơi vào năm 2008 trong
đợ ệ ỉ khi chỉ có 4 đợt IPO diễn ra, đặ công ty IPO năm này là công ty bất động sản ễn ra, đặc biệt 4 công ty IPO năm này là công ty bất động sản
(3/6) và ngân hàng (1/4). là năm đánh dấu bước ). Điều này chủ yếu là do năm 2007 là năm đánh dấu bước
ngoặc lớn trong tiến trình cổ phần hóa của nhiều doanh nghiệp nhà nước theo cam ngoặc lớn trong tiến trình cổ phần hóa của nhiều doanh nghiệp nhà nước theo cam ngoặc lớn trong tiến trình cổ phần hóa của nhiều doanh nghiệp nhà nước theo cam
kết của chính phủ Việt Nam, hướng tới một nền kinh tế thị trường, kết của chính phủ Việt Nam , các công ty tư
nhân cũng thi nhau lên sàn. Đến đầu năm 2008, các chỉ số chứng khoán giảm sút nhân cũng thi nhau lên sàn các chỉ số chứng khoán giảm sút,
-33-
tâm lý nhà đầu tư năm 2008 không còn ưa chuộng hàng hóa IPO , do đó các đợt
IPO trong năm này buộc phải đưa ra mức giá thấp hơn để thu hút các nhà đầu tư.
Ngược lại năm 2006 có tỷ suất sinh lợi ban đầu trung bình âm với -71,89%, mức tỷ
suất sinh lợi âm nhiều do ảnh hưởng của hai cổ phiếu VFC (-131,37%) và PIT (-
129,49%), hai cổ phiếu trên có mức giá phát hành trung bình cao vượt trội 470.664
và 243.352 so với giá khởi điểm là 15.000 và 125.000. Có thể thấy, năm 2006 là
một trong những năm thị trường chứng khoán nóng và hàng hóa IPO có sức hấp dẫn
lớn đối với các nhà đầu tư nên mới có những mức giá phát hành cao vượt xa mức
giá khởi điểm.
Bảng 4.1 - Kết quả thống kê về mức độ định dưới giá trong ba ngày giao dịch
đầu tiên
Mar 1 Mar 2 Mar 3
Trung bình 0,229863 0,236042 0,231600
Trung vị 0,163631 0,205792 0,165677
GTLN 7,543769 7,065080 6,549102
GTNN -2,238368 -2,10745 -2,07592
Độ lệch chuẩn 1,495829 1,463381 1,431692
Skewness 2,411022 2,187872 2,008427
Kurtosis 13,34078 11,64419 10,21134
-34-
Bảng 4.2 - Thống kê mức độ định dưới giá trong ba ngày giao dịch đầu tiên
theo năm
Số lượng
Năm IPO Mar1 Mar2 Mar3
2005 17 35,38% 34,74% 33,58%
2006 5 -71,89% -69,23% -68,11%
2007 22 29,20% 30,38% 31,15%
2008 4 53,74% 52,56% 47,47%
2009 - - - -
2010 1 26,97% 33,45% 29,28%
Theo thống kê đến năm 2012, có 57 công ty thuộc nhóm ngân hàng bảo hiểm, bất
động sản, chứng khoán được niêm yết trên HOSE. Tuy nhiên, chỉ có 9 công ty
thuộc nhóm ngành này thực hiện IPO. Bảng 4.3 chỉ ra mức tỷ suất sinh lợi trung
bình ngày giao dịch đầu tiên của các công ty thuộc nhóm ngành tài chính và phi tài
chính. Có một điểm lưu ý, do đặc điểm thị trường Việt Nam, nhóm ngành bất động
sản có một mối quan hệ mật thiết với các ngân hàng thông qua việc vay tín dụng
cao, do đó rủi ro của ngành này liên quan đến ngành kia khá cao, đó là lý do tôi xem
xét các công ty bất động sản vào chung nhóm ngành tài chính.
-35-
Bảng 4.3 - Thống kê mức độ định dưới giá trong ba ngày giao dịch đầu tiên
theo ngành tài chính và phi tài chính
Nhóm Số lượng IPO Mar1 Mar2 Mar3
Tài chính 39,95% 41,14% 40,35% 09
Phi tài chính 19,17% 19,66% 19,29% 40
Kết quả cho thấy có một sự khác biệt khá lớn về mức độ định dưới giá giữa nhóm
các công ty tài chính và các công ty phi tài chính. Cụ thể, mức độ định dưới giá IPO
của nhóm tài chính đạt mức 40,35%, trong khi đó nhóm phi tài chính chỉ đạt mức
19,29%. Với khác biệt này, tôi đưa biến giả tài chính và phi tài chính vào phần kiểm
định mở rộng của mô hình để xem xét sự phân nhóm như vậy có thực sự tác động
đến tỷ suất sinh lợi ngày giao dịch đầu tiên hay không.
Tiếp theo, đặc điểm của các biến giải thích trong bài nghiên cứu được trình bày
trong bảng 4.4. Tỷ lệ vốn được nắm giữ nội bộ trung bình đối với 49 cổ phiếu được
phát hành là 89,09%, tỷ lệ thấp nhất là 65,93% và giá trị lớn nhất là 99,87%. Tỷ lệ
vượt mức phát hành trung bình là 3,5 đối với mẫu, tỷ lệ thấp nhất là 0,017 và giá trị
lớn nhất là 11,14. Kết quả này phù hợp với tỷ lệ vượt mức phát hành quan sát được
ở một số thị trường phát triển và mới nổi khác. Trong mẫu 49 đợt IPO của bài
nghiên cứu, các công ty mất trung bình 665 ngày để được niêm yết. Biến độ trễ
niêm yết chạy từ giá trị nhỏ nhất là 35 ngày và lớn nhất là 2.046 ngày. Mức giá
trung bình của các IPO ở Việt Nam là 73.346 đồng Việt Nam, mức giá thấp nhất là
10.000 đồng Việt Nam và mức cao nhất được đưa ra là 1,4 triệu đồng. Độ tuổi trung
bình của các công ty trong mẫu là 18,6 năm, trung vị của tuổi công ty là 15 năm.
Công ty hoạt động lâu đời nhất với 45 năm và công ty mới nhất là 2 năm. Có vẻ như
thị trường IPO đã thu hút được các công ty được thành lập lâu đời, trải qua nhiều
-36-
năm hoạt động. Tuy nhiên, lưu ý rằng độ tuổi được tính từ khi thành lập, theo thông
tin trên bản cáo bạch, khi thành lập một công ty có thể chỉ là một xí nghiệp thuộc sở
hữu nhà nước và hoạt động một thời gian dài trong thời kì bao cấp, không chịu sự
cạnh tranh, cho nên không hẳn công ty càng có thâm niên dài thì có sức cạnh tranh
mạnh và được thị trường nhận biết rõ hơn, bất cân xứng thấp hơn như thông lệ ở các
thị trường đã phát triển. Tổng tài sản trung bình ở năm liền kề trước năm IPO là
8.735.710 tỷ đồng, công ty có tổng tài sản thấp nhất là 71,928 tỷ đồng, tổng tài sản
cao nhất là 166.344 tỷ đồng. Các công ty có quy mô vừa là vượt trội trong mẫu này,
phần lớn các công ty trong mẫu có tổng tài sản trên 100 tỷ đồng. Tổng thu nhập gia
tăng trung bình bởi các công ty niêm yết là 555,974 tỷ đồng. Khoản gia tăng nhỏ
nhất là 0,807 tỷ đồng, khoảng gia tăng lớn nhất là 9.750 tỷ đồng. So với các thị
trường mới nổi khác trên thế giới, tổng giá trị IPO của Việt Nam là tương đối nhỏ vì
mức độ vốn hóa thị trường của các công ty ở Việt Nam là khá thấp.
Bảng 4.4 - Thống kê mô tả các biến độc lập
Trung bình Trung vị GTLN GTNN Độ lệch chuẩn
CAPRET 0,890931 0,912515 0,998714 0,659316 0,093726
OVER 3,539717 2,826021 11,14582 0,017411 2,768296
DEL 665,3469 524,0 2046,0 35,0 516,3827
PRICE 73,34694 18,0 1400,0 10,0 205,1765
AGE 18,59184 15,0 45,0 2,0 12,12422
FSIZE 8.735.710,0 545.963,3 166.334.941 71.928,00 33.196.850
OSIZE 555,974 50,518 9.750.000,0 807,0 1.656.975
-37-
Ma trận hệ số tương quan giữa các biến được trình bày ở bảng 4.5 cho thấy hầu như
không có sự tương quan giữa các biến giải thích khác nhau, chỉ trừ biến quy mô
công ty và quy mô phát hành có một sự tương quan khá cao ở mức 79,18%. Do vậy, tôi kiểm định đa cộng tuyến bằng cách so sánh R2 của hai mô hình lần lượt loại bỏ
một trong hai biến trên. Kết quả kiểm định trong bảng 4.6 cho thấy, trong mô hình chỉ bao gồm biến quy mô phát hành có R2 cao hơn mô hình chỉ gồm biến quy mô công ty, tuy nhiên cả hai mô hình đều thấp hơn R2 của mô hình ban đầu, cũng như
biến giải thích có ý nghĩa ít hơn. Do vậy, tôi vẫn giữ nguyên mô hình như ban đầu,
mô hình (3.1), bao gồm cả biến quy mô công ty (lFsize) và quy mô phát hành
(lOsize).
Bảng 4.5 - Ma trận hệ số tương quan giữa các biến
CAPRET OVER LDEL LPRICE LAGE LFSIZE LOSIZE
CAPRET 1,000000
OVER -0,0353 1,000000
LDEL -0,2056 0,2699 1,000000
LPRICE 0,4808 0,0163 -0,3292 1,000000
LAGE -0,1498 -0,0149 0,1754 -0,4481 1,000000
LFSIZE -0,0405 -0,2531 -0,2427 0,0085 0,2425 1,000000
LOSIZE -0,2746 -0,1431 -0,3422 0,2140 0,0043 0,7918 1,000000
-38-
Bảng 4.6 - Kết quả mô hình phụ
MH 1 MH 2 MH 3
(gồm lfsize và losize) (chỉ gồm lfsize) (chỉ gồm losize)
R2 0,3069 0,2341 0,2587
Pro (F-statistic) 0,0259 0,0686 0,0406
4.2 Giải thích các nhân tố tác động đến mức độ định dưới giá IPO tại HOSE
Chúng tôi hồi quy tỷ suất sinh lợi ban đầu với các nhân tố được xem là có khả năng
ảnh hưởng đến mức độ định dưới giá IPO. Mô hình hồi quy sử dụng tỷ suất sinh lợi
đã điều chỉnh với tỷ suất sinh lợi thị trường trong ba ngày giao dịch đầu tiên
(MARmt) trên 49 đợt IPO tại HOSE.
Kết quả hồi quy được trình bày trong bảng 4.7 cho thấy, giá phát hành, quy mô
công ty và quy mô phát hành có ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi trong ngày giao dịch
đầu tiên và có ý nghĩa. Tuy nhiên, trong mô hình hồi quy cho Mar 2, Mar 3 thì chỉ
còn biến giá phát hành và quy mô phát hành là có ý nghĩa. Những biến còn lại như
tỷ lệ nắm giữ vốn nội bộ, tỷ lệ mua vượt mức, số ngày trễ niêm yết, tuổi của công ty
dường như không có ảnh hưởng nào tới mức độ định giá thấp.
Nhìn chung, dường như các nhà đầu tư Việt Nam có vẻ quan tâm vào các thông tin
trong bản cáo bạch (giá phát hành, quy mô phát hành, quy mô công ty), những
thông tin gần với thời điểm IPO hơn là các thông tin chi tiết hơn về công ty phát
hành (tỷ lệ vốn giữ lại nội bộ, tuổi đời của doanh nghiệp).
-39-
MAR 1
MAR 2
MAR 3
Bảng 4.7 – Kết quả hồi quy
P-value
P-value
P-value
i
i
i
CAPRET
2.2873
0.4982
2.2656
0.4926
2.2133
0.4938
OVER
-0.0479
0.5315
-0.0449
0.5486
-0.0400
0.5851
LDEL
-0.2385
0.3668
-0.2186
0.3972
-0.1907
0.4504
LPRICE
-0.8369
0.0035***
-0.8190
0.0034***
-0.7945
0.0037***
LAGE
0.04741
0.8592
0.0734
0.7786
0.0988
0.6995
LFSIZE
-0.4333
0.0990*
-0.4155
0.1054
-1,4263
0.1027
LOSIZE
0.54526
0.0442**
0.5273
0.0464**
0.5184
0.0457**
INST
1.4108
0.7611
1.1378
0.8019
0.8986
0.8397
R2
0.3069
0,3080
0.3061
Prob
0.0259**
0.0253**
0.02646**
(F-statistic)
b b b
Với *, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5%, 1%
-40-
Giá phát hành (lPrice) được thiết lập bởi nhà phát hành tương quan âm với mức độ
định giá thấp và có ý nghĩa thống kê 1% trong ba cách đo lường tỷ suất sinh lợi ban
đầu (Mar 1, 2 và 3). Mối tương quan âm cho thấy nhu cầu đòi hỏi tỷ suất sinh lời
cao hơn đối với giá IPO thấp, đồng nghĩa với rủi ro cao hơn. Trong tình trạng thị
trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, nguồn cung cổ phiếu IPO lớn hơn cầu
nhiều nên dù giá đấu IPO thấp vẫn có rất ít người mua hoặc các nhà đầu tư thường
thích mua cổ phiếu của các công ty lớn, mà cổ phiếu của các công ty này thường có
mức giá phát hành cao. Bên cạnh đó, có một thực tế là nhiều doanh nghiệp Việt
Nam khi IPO lựa chọn các nhà đầu tư chiến lược là những tổ chức nhằm thu hút
nguồn vốn nên định một mức giá phát hành cao hơn. Theo Gompers và Metrick
(1998) thì các nhà đầu tư tổ chức thường tránh đầu tư vào các cổ phiếu giá thấp. Sự
tham gia của các nhà đầu tư tổ chức vào một IPO có thể ảnh hưởng đến nhu cầu của
các nhà đầu tư nhỏ lẻ, thiếu thông tin làm cho nhu cầu cổ phiếu cao hơn. Tóm lại,
tương tự như các quan điểm trước đó, mức giá phát hành càng cao thể hiện mức độ
rủi ro công ty thấp hơn sẽ đưa đến một mức độ định dưới giá thấp hơn.
Đối với biến quy mô công ty, hệ số ước tính là âm và có ý nghĩa thống kê 10% (chỉ
có ý nghĩa trong Mar 1). Điều này cho thấy rằng các công ty lớn thường có xu
hướng ít định giá thấp khi IPO. Phát hiện này phù hợp với ghi nhận của Carter và
cộng sự (1998) ở thị trường Mỹ cũng như của Filatotchev và Bishop (2002) ở thị
trường Anh. Công ty lớn hơn có sự tiếp cận tốt hơn với vốn đầu tư, có nhiều dòng
sản phẩm được đa dạng và được giám sát tốt hơn, có sự tiếp cận tốt hơn với các
nguồn lực quan trọng với lợi nhuận và sự sống còn của công ty (Finkle, 1998).
Những nhân tố này góp phần làm giảm sự bất ổn xung quanh việc IPO của các công
ty lớn đối với các nhà đầu tư tiềm năng (Kiymaz, 2000; Bhabra và Pettway, 2003),
do đó các công ty lớn thường ít định giá thấp khi IPO.
Đối với biến quy mô phát hành có mối tương quan thuận chiều với tỷ suất sinh lợi
ban đầu được điều chỉnh theo thị trường, có ý nghĩa thống kê ở mức 5% (trong cả
ba cách đo lường MAR). Mối tương quan này trái ngược với những nghiên cứu
-41-
trước đó. Họ cho rằng, những đợt phát hành lớn thường được tổ chức bởi những
công ty danh tiếng, lâu năm, đồng nghĩa với sự chắc chắn về thành quả công ty
trong tương lại cao hơn, dẫn đến mức độ định giá thấp. Tuy nhiên, theo kết quả tại
HOSE lại cho thấy quy mô phát hành cao đi kèm với sự không chắc chắn xung
quanh việc IPO càng lớn. Điều này có thể lý giải bởi tình trạng cung quá nhiều
trong khi cầu không cao, do đó nhà đầu tư đòi hỏi một tỷ suất sinh lời cao hơn để bù
đắp tính thanh khoản khi cổ phiếu công ty được niêm yết. Cũng như, để đảm bảo
đấu giá thành công, nhà phát hành phải đưa ra một mức giá thấp nhằm thu hút
những nhà đầu tư nhỏ lẻ tham gia.
Những biến còn lại dường như không giải thích được mức độ định dưới giá tại
HOSE. Tuổi công ty không có quan hệ với tuổi công ty với p-value cao (0.8592),
(0,7786), (0,6995) lần lượt tương ứng với Mar1, Mar 2, Mar 3; dấu của hệ số hồi
quy này còn trái với kỳ vọng khi có tương quan dương với mức độ định dưới giá.
Theo các nghiên cứu trước, một công ty có tuổi đời càng dài thì được nhà đầu tư
biết rõ hơn so với một công ty mới hoạt động, công ty đó cũng có thị trường, kinh
nghiệm quản lý hơn. Tuy nhiên ở Việt Nam dường như những doanh nghiệp lâu đời
IPO là doanh nghiệp nhà nước, hoạt động trong môi trường thiếu tính cạnh tranh
trong một thời gian dài, nên số năm hoạt động có thể không phản ánh sức mạnh nội
tại như kinh nghiệm quản lý, khả năng kinh doanh, khách hàng lâu năm, … của
doanh nghiệp. Hơn nữa với việc có được nhiều thông tin về công ty nhà nước nhằm
làm giảm tình trạng bất cân xứng thông tin khó được như kỳ vọng.
Độ trễ niêm yết các cổ phiếu IPO không tương quan với mức độ định dưới giá, nhân
tố này có dấu âm và không có ý nghĩa thống kê. Điều này phù hợp với quan điểm
của Uddin (2008). Thực tế hầu hết các IPO nói chung và Việt Nam nói riêng thường
không dự kiến trước thời gian niêm yết cổ phiếu, việc phát hành IPO thường với
mục đích tăng vốn nhằm tài trợ cho các kế hoạch phát triển công ty, do đó cũng
không có kế hoạch niêm yết rõ ràng tại ngày đầu giá, trung bình độ trễ niêm yết của
-42-
các cuộc IPO lên tới 599 ngày. Trong khi ở các thị trường quốc tế, độ trễ niêm yết chỉ là vài tháng như ở Ấn Độ trung bình là 11 tuần sau thời điểm IPO3 (Shah, 1995),
thậm chí ít hơn chỉ trong một đến hai tuần như độ trễ niêm yết tại thị trường Úc
trung bình là 63 ngày, và thấp nhất là 30 ngày (JCY How, JJL Yeo, 2001) thì thực
tế thị trường Việt Nam cho thấy các nhà đầu tư dường như bàng quan với nhân tố
này do độ trễ kéo dài và tổ chức phát hành có kế hoạch không rõ ràng. Nhưng chính
điều này lại này lại tạo ra rủi ro thanh khoản cao cho những nhà đầu tư và cũng như
sẽ khó khăn hơn cho việc huy động vốn trong những đợt phát hành sau đó của
doanh nghiệp. Vì vậy, nhu cầu đẩy nhanh hoạt động niêm yết sau IPO, ban hành
quy định thời hạn tối đa các doanh nghiệp đủ điều kiện phải niêm yết trên sở giao
dịch chính thức sau IPO là cần thiết. Có lẽ chính từ động lực này mà Nghị định
58/2012/NĐ-CP ban hành ngày 20 tháng 07 năm 2012 đã đưa ra một quy định mới
liên quan đến vấn đề nêu trên đối với những doanh nghiệp đặc thù, cụ thể như sau:
tại điểm 6 Điều 12 về điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng của doanh nghiệp
thành lập mới thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng, lĩnh vực công nghệ cao quy định: “Có
cam kết của Hội đồng quản trị hoặc các cổ đông sáng lập về việc đưa cổ phiếu của
công ty vào giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung trong thời hạn 01 năm
kể từ ngày doanh nghiệp chính thức đi vào hoạt động”; và điểm 3 Điều 14 về điều
kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng để thành lập tổ chức tín dụng cổ phần: “Có
cam kết của các cổ đông sáng lập về việc đưa cổ phiếu của tổ chức tín dụng vào
giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung trong thời hạn 01 năm kể từ ngày
khai trương hoạt động.” Bên cạnh việc đưa ra các quy định về thời gian tối đa niêm
yết, các nhà làm chính sách cũng cần đơn giản hóa các thủ tục niêm yết để khuyến
khích các doanh nghiệp rút ngắn khoảng cách này.
cho thấy, theo quy định của Ủy ban chứng khoán tại Ấn Độ, độ trễ thời gian niêm yết phải trên 70 ngày. Hơn
một nửa đợt IPO ở Ấn Độ có độ trễ niêm yết là từ 10 tuần – 13 tuần. Theo nghiên cứu này, độ trễ niêm yết
không là một biến độc lập để đo lường mức độ định dưới giá, mà sẽ dựa trên biến động thị trường trong
khoảng thời gian trễ này.
3 Trong nghiên cứu của Shah, 2005 trên thị trường Ấn Độ với 2056 đợt IPO diễn ra từ năm 1991 đến 1995
-43-
Tỷ lệ mua vượt mức không có ý nghĩa thống kê như các các nghiên cứu trên thế
giới và nghiên cứu trong nước với mẫu từ cả ba sàn HOSE, HNX và UPCOM, mặc
dù vẫn có mối tương quan nghịch chiều với mức độ định giá thấp. Theo kết quả
nghiên cứu của Trần Thị Hải Lý và Dương Kha (2013), nhân tố trên có tác động với
tỷ suất sinh lợi trong ngày giao dịch đầu tiên với mức ý nghĩa 1%, khác biệt này có
thể đến từ những mẫu IPO tại sàn HNX và UPCOM.
4.3 Kiểm định độ tin cậy của mô hình
Để kiểm tra tính tin cậy của mô hình với tỷ suất sinh lời ban đầu đo lường bằng Mar
1, Mar 2, Mar 3 tôi tiến hành các kiểm định White, Ramsey Reset, tự tương quan.
Với kiểm định White nhằm xác định xem các sai số ngẫu nhiên trong các mô hình
có hiện tượng phương sai thay đổi hay không. Kết quả được trình bày trong bảng
4.8 cho thấy, các sai số ngẫu nhiên trong mô hình có phương sai đồng nhất cho cả
ba biến phụ thuộc Mar 1, Mar 2, Mar 3. Như vậy các hệ số ước lượng trong mô hình
là các ước lượng không chệch và hiệu quả.
Bảng 4.8 - Kiểm định phương sai thay đổi trong ba mô hình hồi quy
Mar 1
F-statistic 6.909067 Prob. F(35,13) 0.0003
Obs*R-squared 46.50017 Prob. Chi-Square(35) 0.0925
Mar 2
F-statistic 4.736678 Prob. F(35,13) 0.0022
Obs*R-squared 45.43704 Prob. Chi-Square(35) 0.1114
-44-
Mar 3
F-statistic 2.786731 Prob. F(35,13) 0.0257
Obs*R-squared 43.23715 Prob. Chi-Square(35) 0.1599
Với kiểm định về hiện tượng tự tương quan, kết quả ở bảng 4.9 cho thấy các sai số
ngẫu nhiên của các quan sát không có sự phụ thuộc lẫn nhau.
Bảng 4.9 - Kiểm định tự tương quan trong ba mô hình hồi quy
Heteroskedasticity Test: Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test
Mar 1
F-statistic 0.409024 Prob. F(2,39) 0.6671
Obs*R-squared 1.006688 Prob. Chi-Square(2) 0.6045
Mar 2
F-statistic 0.318945 Prob. F(2,39) 0.7288
Obs*R-squared 0.788553 Prob. Chi-Square(2) 0.6742
Mar 3
F-statistic 0.313804 Prob. F(2,39) 0.7325
Obs*R-squared 0.776044 Prob. Chi-Square(2) 0.6784
-45-
Theo kết quả từ kiểm định Ramsey Reset từ bảng 4.10, ta thấy Pro từ các kiểm định
cho ba mô hình đều nhỏ hơn mức alpha 1%, bác bỏ giả thuyết Ho – mô hình không
bỏ sót biến. Như vậy, mô hình hiện tại vẫn chưa có đầy đủ biến. Do đó, tôi sẽ tiến
hành kiểm định ba mô hình trên với từng biến kiểm soát để xem xét liệu có thể bổ
sung thêm nhân tố giải thích cho mức độ định dưới giá IPO vào mô hình hiện tại
hay không.
Bảng 4.10 - Kiểm định thiếu biến trong ba mô hình hồi quy
Heteroskedasticity Test: Ramsey RESET Test
Mar 1
F-statistic 13.54371 Prob. F(1,40) 0.0007
Log likelihood ratio 14.28933 Prob. Chi-Square(1) 0.0002
Mar 2
F-statistic 11.60965 Prob. F(1,40) 0.0015
Log likelihood ratio 12.48664 Prob. Chi-Square(1) 0.0004
Heteroskedasticity Test: Ramsey RESET Test
Mar 3
F-statistic 9.903461 Prob. F(1,40) 0.0031
Log likelihood ratio 10.83933 Prob. Chi-Square(1) 0.0010
-46-
4.4 Kiểm định mô hình với các biến kiểm soát
• Sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức trong IPO được xem xét như một
chứng nhận về chất lượng của công ty, nó làm giảm thiểu mức độ bất ổn, từ đó tỷ
suất sinh lợi giao dịch ngày đầu tiên sẽ thấp hơn, nói cách khác mức độ định dưới
giá IPO sẽ giảm đi. Đây là kết quả nghiên cứu của Ljungqvist và cộng sự (2006).
Với nhân tố này, tôi sử dụng biến giả với 1 là cuộc IPO có sự tham gia của các nhà
đầu tư có tổ chức và 0 không có sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức. Tuy
nhiên, qua xem xét mẫu, tất cả các đợt IPO trên sàn HOSE đều có sự tham gia của
nhà đầu tư tổ chức, do đó không đưa biến này vào mô hình.
• Lĩnh vực hoạt động của công ty phát hành. Theo Daily và cộng sự (2005),
Lee và cộng sự (2001) sử dụng lĩnh vực kinh doanh để phân biệt công ty có trình độ
công nghệ cao hay thấp. Tuy nhiên, tại thị trường Việt Nam không thể kiểm định
yếu tố này vì không có công ty nào được xếp loại theo cách này. Một xem xét khác
từ nghiên cứu của của Alli và cộng sự (1994) với mẫu gồm 185 tổ chức tài chính và
1361 tổ chức phi tài chính trong suốt giai đoạn từ tháng 1 năm 1983 đến tháng 12
năm 1987, cho thấy những công ty tài chính có tỷ suất sinh lợi ngày giao dịch đầu
tiên thấp hơn so với những công ty phi tài chính. Kết quả nghiên cứu được củng cố
bởi các nghiên cứu của Cagle và Porter, 1996; Tinic, 1988. Do vậy, tôi chia mẫu
thành hai nhóm theo cách thức phân loại lĩnh vực hoạt động như ba nghiên cứu trên,
đó là những công ty tài chính và phi tài chính. Do mẫu các công ty tài chính nhỏ,
chỉ có 3/49 mẫu theo định nghĩa là tổ chức tín dụng, bảo hiểm. Thêm nữa, tại Việt
Nam trong giai đoạn khảo sát mẫu, các công ty bất động sản có quan hệ mật thiết
trong vay vốn ngân hàng, là những khách hàng lớn nên có sự tương quan về mức độ
suất sinh lợi, mức độ rủi ro khá cao cùng với các ngân hàng, do đó tôi sắp xếp công
ty bất động sản vào nhóm công ty tài chính. Với phân nhóm này, mẫu tăng lên là 9.
Theo đó, biến giả IFi là 1 với công ty tài chính và 0 với công ty phi tài chính. Kết
quả hồi quy trong bảng 4.11 cho thấy mối quan hệ thuận chiều giữa mức độ định
dưới giá IPO trong lần lượt ba ngày giao dịch đầu tiên với những công ty tài chính,
-47-
tuy không có ý nghĩa thống kê nhưng kết quả này là phản ánh đúng thực trạng rút ra
được từ thống kê. Không có sự khác biệt trong mức độ định dưới giá giữa công ty
tài chính và phi tài chính khi IPO thì phù hợp theo nghiên cứu của Firth (1997). Vì
việc phân nhóm không có ý nghĩa thống kế, nên không kiểm tra lại bằng robust test
đối với mẫu nhỏ.
• Nhiều nghiên cứu trước đây đã xem xét về sự ảnh hưởng của điều kiện thị
trường lên tỷ suất sinh lợi ban đầu. Nghiên cứu của Ghosh (2005) đối với 1842 đợt
IPO trên thị trường Ấn Độ tại BSE cho thấy mức độ định dưới giá thấp hơn trong
điều kiện thị trường sôi động, đang đi lên với lý giải, trong điều kiện thị trường như
vậy, mức bù rủi ro cho các nhà đầu tư cũng sẽ ít hơn. Theo Derrien, Francois, và
Kent L. Womack, 2002, nghiên cứu cũng cho thấy điều kiện thị trường nóng hay
đóng băng cũng dự báo được mức độ định dưới giá. Tôi sử dụng phương pháp theo
nghiên cứu của Derrien và các cộng sự (2002), theo đó điều kiện thị trường được đo
lường bằng tỷ suất thị trường trong 3 tháng trước khi niêm yết. Biến IMA được đưa
thêm vào mô hình để tiến hành kiểm định. Kết quả kiểm định trình bày trong bảng
4.11 cho thấy có mối tương quan nghịch chiều giữa mức độ định dưới giá IPO với
điều kiện thị trường tương đồng với các nghiên cứu trước đây, tuy nhiên kết quả
này không có ý nghĩa thống kê. Có thể thời gian lấy mẫu không kéo dài, không trải
qua nhiều giai đoạn thăng trầm của thị trường nên kết quả đưa ra chưa đủ mức tin
cậy.
Tóm lại, từ những xem xét các lý thuyết tổng quan về các nhân tố ảnh hưởng đến
mức độ định dưới giá, tôi đã lựa chọn ba biến kiểm soát để đưa vào mô hình là sự
tham gia của nhà đầu tư có tổ chức, lĩnh vực kinh doanh là tài chính và phi tài
chính, điều kiện thị trường. Tuy nhiên, kết quả đưa ra không như mong đợi, không
có ý nghĩa thống kê. Như vậy, mô hình vẫn chưa đầy đủ các nhân tố giải thích cho
mức độ định dưới giá IPO tại HOSE, những nhân tố này chưa được đề cập trong bài
nghiên cứu. Đây cũng là một trong những hạn chế của bài nghiên cứu này.
-48-
Bảng 4.11a - Kiểm định với các biến kiểm soát trong mô hình hồi quy MAR1
MAR 1 (1) MAR 1(2)
b P-value P-value i b i
LPRICE -0.685285 0.0004*** -0.664258 0.0005***
LFSIZE -0.389514 0.0815* -0.376734 0.0616*
LOSIZE 0.496094 0.0116** 0.480058 0.0095***
IFI 0.537898 0.3459 - -
IMA - - -69.73548 0.1255
Bảng 4.11b - Kiểm định với các biến kiểm soát trong mô hình hồi quy MAR2
MAR 2 MAR 2
(1) (2)
b P-value P-value i b i
LPRICE -0.680132 0.0004*** -0.659857 0.0004***
LFSIZE -0.365114 0.0939* -0.352568 0.0728*
LOSIZE 0.472099 0.0137** 0.456523 0.0114**
IFI 0.518827 0.3514 - -
IMA - - -67.08890 0.1310
-49-
Bảng 4.11c - Kiểm định với các biến kiểm soát trong mô hình hồi quy MAR3
MAR 3 MAR 3
(1) (2)
b P-value P-value i b i
LPRICE -0.672173 0.0003*** -0.652309 0.0003***
LFSIZE -0.358198 0.0923* -0.342318 0.0748*
LOSIZE 0.459531 0.0139** 0.442456 0.0121***
IFI 0.511090 0.3471 - -
IMA - - -63.28574 0.1449
Vơi *, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5%, 1%
Như vậy, mô hình nghiên cứu vẫn chưa có đầy đủ biến, điều này có thể ảnh hưởng
đến nhận định và kết luận của bài nghiên cứu chưa toàn diện, bao quát. Đây cũng là
một trong những hạn chế của đề tài.
-50-
5. KẾT LUẬN
Nghiên cứu này đã xem xét việc định giá thấp ban đầu cho mẫu gồm 49 đợt IPO ở
HOSE trong giai đoạn 2005-2012. Mức độ định giá thấp được xem xét trong 3 ngày
giao dịch đầu tiên. Tỷ suất sinh lợi ban đầu trung bình là khoảng 22,98% trong ngày
giao dịch đầu tiên và 23,60%, 23,16% cho hai ngày giao dịch tiếp sau đó. Tuy
nhiên, có một sự khác biệt giữa các năm, đặc biệt là năm 2006 và 2008. Mức độ
định giá thấp trung bình của các IPO trong mẫu thì gần với kết quả nghiên cứu ở
Philipin và Hồng Kông và tương đối thấp hơn so với các quốc gia trong khu vực
Châu Á.
Chúng tôi cũng xem xét mối quan hệ giữa mức độ định giá thấp với một tập hợp các
biến ngoại sinh được giả định là có ảnh hưởng đến việc định giá thấp. Sự ước tính
dựa trên phân tích hồi quy đa biến cho thấy giá phát hành (lPrice), quy mô phát
hành (lOsize) và quy mô công ty phát hành (lFsize) có ảnh hưởng đáng kể tới mức
độ định giá thấp của các IPO trong mẫu trong ngày giao dịch đầu tiên. Trong hai
ngày giao dịch tiếp theo chỉ có biến giá phát hành (lPrice) và quy mô phát hành
(lOsize) là có ảnh hưởng. Đây là hai nhân tố liên quan trực tiếp đến mỗi cuộc đấu
giá. Kết quả cho thấy các nhà đầu tư Việt Nam thường tập trung vào các IPO của
công ty lớn hơn là các công ty vừa và nhỏ, cũng như quan tâm đến các thông tin
xung quanh về IPO hơn là những thông tin chi tiết của đơn vị IPO (tỷ lệ vốn được
nộ bộ nắm giữ, thời gian hoạt động của công ty, ngành nghề kinh doanh). Bên cạnh
đó, độ trễ niêm yết, tỷ lệ mua vượt mức là những thông tin có được sau khi IPO thì
không có tác động đến mức độ định dưới giá. Cuối cùng, mặc dù thị trường IPO có
nhiều thăng trầm, nhưng điều kiện thị trường cũng không ảnh hưởng đến tỷ suất
sinh lợi ban đầu IPO, cũng như không có sự khác biệt về mức độ định dưới giá IPO
giữa các công ty tài chính và phi tài chính. Những kết quả này khác với kết quả của
các nghiên cứu trên thế giới.
-51-
Bài nghiên cứu này đóng góp một mô hình định lượng mức độ định giá thấp trong
IPO tại sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE). Hơn nữa,
thông qua kết quả này, các nhà đầu tư và các nhà phát hành sẽ có cái nhìn đúng đắn
hơn về chiến lược đầu tư của mình cũng như giải pháp để có được một IPO thành
công.
Nghiên cứu thêm các nguyên nhân ảnh hưởng đến việc định giá tại các thị trường
riêng lẻ của Việt Nam sẽ giúp hoàn thiện hơn kết quả nghiên cứu của tôi, do hiện
mô hình nghiên cứu vẫn chưa đầy đủ biến. Bên cạnh đó, có thể phát triển nghiên
cứu này theo hướng mở rộng số lượng nhân tố có ảnh hưởng đến mức độ định giá
thấp trong IPO của Việt Nam với các giai đoạn kéo dài hơn để xem xét về mức độ
định dưới giá IPO trong dài hạn như theo tuần, tháng, hay năm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Hoàng Ngọc Nhậm và các cộng sự (2007), giáo trình kinh tế lượng, Khoa toán
thống kê, Trường đại học kinh tế TP.HCM, năm 2007
2. Luật chứng khoán 2006 ngày 29/6/2006;
3. Luật chứng khoán sửa đổi 2010 ngày 24/11/2010;
4. Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 Quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật chứng khoán
5. Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng
khoán
6. Nghị định 58/2012/ NĐ-CP ngày 20/7/2012 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật chứng khoán
7. Nghị định 84/2010/NĐ-CP ngày 02/8/2010 Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật chứng khoán
8. Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 về chứng khoán và thị
trường chứng khoán
9. Thông tư 60/2004/TT-BTC ngày ngày 18 tháng 6 năm 2004 về việc hướng dẫn
việc phát hành lần đầu ra công chúng
10. Trần Thị Hải Lý và Dương Kha (2013), “Bằng chứng về hiện tượng định dưới
giá của các IPO tại Việt Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế, Số 270, tháng 4 năm
2013
Tài liệu tiếng Anh
1. Aggarwal, R.., R. Leal and L. Hernandez (1993), ‘The aftermarket performance
of initial public offerings in Latin America’, Financial Management, (Spring )
: 42 –53
2. Agarwal, S., C. Liu and S.G. Rhee (2008), ‘Investor demand for IPO’s and
aftermarket performance: Evidence from the Hong Kong stock market’, Journal
of International Financial Markets, Institutions and Money, 18 (2): 176 -19
3. Allen, F., and G.R. Faulhaber, 1989, Signaling by Underpricing in the IPO
Market, Journal of Financial Economics 23, 303-323
4. Alli, K.; Yau, J.; Yung, K. (1994), “The Underpricing of IPOs of
Financial Institutions”, Journal of Business Finance & Accounting, Vol. 21, No. 7, October 1, pp. 1013‐ 1030
5. Beatty, R.P., and J.R. Ritter, 1986, Investment Banking, Reputation, and the
Underpricing of Initial Public Offerings, Journal of Financial Economics 15,
213-232
6. Bhabra, H. S. and R. H. Pettway (2003), ‘IPO prospectus information and
subsequent performance’, Financial Review, (38 ): 369-397
7. Bilson, C., R. Heanry, J. G. Powell and J. Shi (2003), ‘The Decision to
Voluntary Provide an IPO Prospectus Earnings Forecast: Theoretical
Implication and Empirical Evidence’, Working paper, Australian National
University
8. Booth, J. and L. Chua (1996), ‘Ownership dispersion, costly information and
IPO underpricing’, Journal of Financial Economics , (41): 291−310
9. Bozzolan, S. and E. Ipino (2007 ), ‘Information Asymmetries and IPO
Underpricing: The Role of Voluntary Disclosure of Forward-Looking
Information in the Prospectus’, working paper
10. Cagle, J.; Porter, G.E. (1996), “IPO Underpricing in Regulated
Industries”, Journal of Economics and Finance, Vol. 4, No. 20, Supplement Issue, pp. 27‐ 37
11. Carter, R.B., and S. Manaster (1990), Initial Public Offerings and Underwriter
Reputation, Journal of Finance 45, 1045-1067
12. Carter R., F. Dark and A. Singh (1998), ‘Underwriter reputation, initial returns,
and the long-run performance of IPO stocks’, The Journal of Finance, 53:
285-311
13. Chalk A.J. and J.W. Peavy (1987), ‘Initial Public Offerings: Daily Returns,
Offering Types and the Price Effect’ , Financial Analysts Journal , 43: 65-69
14. Chan K.L., K.J. Wei and J.B. Wang (2004), ‘Underpricing and long-term
performance of IPO’s in China’, Journal of Corporate Finance, 10: 409-430
15. Chang X., A.F. Gygax, E. Oon and H.F. Zhang (2008), ‘Audit quality, auditor
compensation and initial public offering underpricing’, Accounting and
Finance , 48 (3): 391 – 416
16. Chi, J. and C. Padgett (2005), ‘Short-run underpricing and its characteristics in
Chinese initial public offering (IPO) markets’, Research in International
Business and Finance, 19 (1) : 71-93
17. Chowdhry, B. and A. Sherman (1996), ‘The winner’s curse and international
methods of allocating initial public earnings’, Pacific-Basin Finance Journal, 4:
15-30
18. Clarkson, P. M., and D. Simunic (1994), ‘The association between audit quality,
retained ownership, and firm -specific risk in U.S. and Canadian IPO markets’,
Journal of Accounting and Economics, 17: 207-228
19. Clarkson, P. M. and J. Merkley (1994), ‘Ex Ante Uncertainty and the
Underpricing of Initial Public Offerings: Further Canadian Evidence’, Canadian
Journal of Administrative Sciences, II(1): 54-67
20. Daily C.M., Certo S.T. , Dalton D. R. (2005) , ‘Investment bankers and IPO
pricing: does prospectus information matter?’, Journal of Business Venturing 20
(2005) 93–11
21. Derrien, Francois, and Kent L. Womack, 2002, ‘Auctions vs. bookbuilding and
the control of underpricing in hot IPO markets’, Review of Financial Studies,
forthcoming
22. Downes, D. and R. Heinkel (1982), ‘Signaling and the valuation of unseasoned
new issues’, Journal of Finance, 37 : 1–10
23. Dubois M.(1989), ‘Les entreprises qui s'introduisent en Bourse sont-elles sous
évaluées?’, Journal de la Société de Statistique de Paris 130 (1989), pp. 4–616
24. Finkle, T. A. (1998), ‘The relationship between boards of directors and initial
public offerings in the biotechnology industry’, Entrepreneurship Theory and
Practice, 22 : 5–29
25. Fernando, C., S. Krishnamurthy and P. A. Spindt (1999), ‘Offer Price, Target
Ownership Structure and IPO Performance’, work paper
26. Ghost (2005), ‘Underpricing of Initial Public Offerings: The Indian
Experience’; Emerging Markets Finance and Trade, Volume 41, Number 6 /
November-December 2005, Pages 45 – 57
27. Gompers, P. and A. Metrick (1998), ‘How are large institutions different from
other investors? Why do these differences matter? ’, Working paper, Harvard
Busine ss School
28. Grinblatt, M., and C.Y. Hwang, 1989, Signaling and the Pricing of New
Issues, Journal of Finance 44, 393-420
29. Hanley, K. W. (1993), ‘Underpricing of initial public offerings and the partial
adjustment phenomenon’, Journal of Financial Economics , 34 : 231–250
30. Hensler, D. A., R. C. Rutherford and T. M. Springer (1997) ‘The survival of
initial public offerings in the aftermarket’, Journal of Financial Research, 20:
93-110
31. Ibbotson, R.G. (1975), ‘Price performance of common stock new issues’ ,
Journal of Financial Economics, 2: 232-272
32. Ibbotson, R.G., Sindelar, J., and Ritter, J.R. (1988). ‘Initial Public Offerings’,
Journal of Applied Corporate Finance, 1(2), 37 – 45
33. Jacquillat, B. and J. G. Mac Donald (1974) , ‘ L’efficacité de la procédure
française d’introduction en Bourse’, Revue Banque, 31 –39
34. JCY How, JJL Yeo - Journal of Accounting, Auditing & Finance, 2001, The
impact of forecast disclosure and accuracy on equity pricing: the IPO
perspective
35. Jenkinson, T.J., Ljungqvist, A.P., 2001, ‘Going Public: The Theory and
Evidence on How Companies Raise Equity ’ Finance’, Second ed. Oxford
University Press.
36. Jensen, M. C. and H.W. Meckling (1976), ‘Theory of the Firm: Managerial
Behavior, Agency Costs, and Ownership Structure’, Journal of Financial
Economics , 3 (4): pp. 305- 360
37. Johnson, J.M. and R.E. Miller (1988), ‘Investment banker prestige and the
underpricing of initial public offering’, Financial Management, (17):19–29
38. Kandel, S., O. Sarig and A. Wohl (1999), ‘The demand for stocks: an analysis
of IPO auctions’, Review of Financial Studies, 12: 227–247
39. Kaneko and Pettway (2003), ‘Auctions versus book building of Japanese IPOs’,
Pacific-Basin Finance Journal Volume 11, Issue 4, September 2003, Pages 439–
462
40. Kim, M. and J.R. Ritter (1999), ‘Valuing IPO’s’, Journal of Financial
Economics’, 53:409 −437
41. Kiymaz, H. (2000), ‘The initial and aftermarket performance of IPO’s in an
emerging market: evidence from Istanbul Stock Exchange’, Journal of
Multinational Financial Management, 10: 213-227
42. Larry Li , John Fowler and Tony Naughton (2008), ‘ Short Term Equity
Returns of Chinese IPOs, 1999 to 2004 Excess Demand, Social Policy and
Wealth Effects’, Journal of Emerging Market Financ e, Vol. 7, No. 2, 197-214
(2008)
43. Ljungqvist, A.P. (1997), ‘Pricing initial public offerings: further evidence from
Germany’, European Economic Review, 41: 1309-1320
44. Ljungqvist, Jenkinson and Wilhelm (2003), ‘IPO Pricing in the Dot-com
Bubble’, The Journal of Finance Volume 58, Issue 2, pages 723–752, April
2003
45. Loughran, T., Ritter, J.R., Rydqvist, K., (1994). Initial public offerings:
international insights. Pacific-Basin Finance Journal 2, 165 – 199
46. Megginson, W., and K.A. Weiss, 1991, Venture Capitalist Certification in
Initial Public Offerings, Journal of Finance 46, 879-903
47. Megginson, W.L and L. Tian (2006), ‘Extreme underpricing: determinants of
Chinese IPO initial Returns’, working paper , Peking University and the
University of Oklahoma
48. Michaely, R. and W. H. Shaw (1994), ‘The Pricing of Initial Public Offerings:
Tests of Adverse Selection and Signaling Theories’, Review of Financial
Studies, 7: 279-315
49. Miller, R. E. and F. Reilly (1987), ‘An examination of mispricing, returns, and
uncertainty for initial public offerings’, Financial Management, 16: 33–38
50. Mok H.M.K. and Y.V. Hui (1998) ‘Underpricing and aftermarket performance
of IPO’s in Shanghai, China’, Pacific -Basin Finance Journal, 6: 453-474
51. Mroczkowski, N. A. and G. Tanewski (2004), ‘Using accounting standards to
delineate family and non-family controlled firms’ . Caulfield East, Victoria,
Australia: Working Paper, Faculty of Business and Economics, Monash
University
52. Purnanandam, A.K., and B. Swaminathan (2004), ‘Are IPO’s really
underpriced?’, Review of Financial Studies , 17(3): 811 -848
53. Ritter, J. R. (1984), ‘Signalling and the valuation of unseasoned new issues: A
comment’, Journal of Finance, 39: 1231-1237
54. Ritter, J. R. and I. Welch (2002), ‘A review of IPO activity, pricing, and
allocations’, Journal of Finance , 57: 1795-1828
55. Robert Bruner, Susan Chaplinsky, and Latha Ramchand (2006), Coming to
America: IPOs from emerging market issuers Emerging Markets Review,
Volume 7, Issue 3, September 2006, Pages 191–212
56. Rock, K., 1986, ‘Why New Issues Are Underpriced’, Journal of Financial
Economics 15, 187-212
57. Sarra Ben Slama Zouari, Abdelkader Boudriga and Neila Boulila Taktak
(2011), “Determinants of IPO Underpricing: Evidence from Tunisa”, The
International Journal of Business and Finance Research, Vol 5, No.1, pp. 13-
32, 2011
58. Schultz, P. (1993), ‘Unit initial public offerings’, Journal of Financial
Economics, 34: 199-229
59. Spiess, D.K. and R.H. Pettway (1997), ‘The IPO and first seasoned equity sale:
Issue proceeds, owner/manager wealth, and the underpricing signal’, Journal of
Banking and Finance , 21: 967–988
60. Su, D. and B. M. Fleischer (1999), ‘An Empirical Investigation of Underpricing
in Chinese IPO’s’, Pacific -Basin Finance Journal , 7: 173-202
61. Schultz.P.H and M.A. Zaman (1994), ‘Aftermarket support and underpricing of
initial public offerings ’, Journal of Financial Economics , 35 (2): 199 -219.
62. Sherman. A (2001), ‘A survey of international IPO methods, working paper,
University of Notre Dame’
63. Sherman. A (2004), ‘Global trends in IPO methods: Book building versus
auctions with endogenous entry’, Journal of Financial Economics 78 (2005) 615
– 649
64. Tian , G.L. (2003), ‘Financial Regulations, Investment Risks, and Determinants
of Chinese IPO Underpricing’, Working paper , Peking University
Management School and London
65. Tinic, S.M. (1988), “Anatomy of Initial Public Offering of Common
Stocks,” Journal of Finance, Vol. 43, No. 4, pp. 789 ‐ 822
66. Tim Loughran, Jay R. Ritter, and Kristian Rydqvis (2013), “Initial Public
Offerings: International Insights," t, Pacific-Basin Finance Journal, Vol. 2, No.
2-3. (May 1994), pp. 165-199, Update March 1, 2013
67. Titman, S., and B. Trueman, 1986, Information Qua lity and the Valuation of
New Issues, Journal of Accounting and Economics 8, 159-17
68. Uddin, M.H. (2008), “An Empirical Examin ation of Intended and Unintended
IPO
69. Underpricing in Singapore and Malaysia,” International Research Journal of
Finance and Economics 20 , 55-74
70. Yong, O. and Z. Isa (2003), ‘Initial performance of new issues of shares in
Malaysia’, Applied Economics, 8: 919-930
PHỤ LỤC BẢNG
Bảng I: Danh sách 49 đợt IPO của các công ty trên sàn HOSE trong giai đoạn
2005-2010
Ngày giao Mã Tên công ty STT CK dịch đầu tiên Ngày IPO
1 KHP Công ty cổ phần Điện lực Khánh Hòa 17.03.2005 27.12.2006
2 TYA Công ty Cổ phần Dây và Cáp điện Taya Việt Nam 27.05.2005 15.02.2006
3 COM Công ty cổ phần Vật Tư Xăng Dầu 6.07.2005 7.08.2006
4 KDC Công ty cổ phần Kinh Đô 12.08.2005 12.12.2005
5 RAL Công ty cổ phần Bóng đèn Phích nước Rạng Đông 11.09.2005 12.06.2006
6 VTO Công ty cổ phần Vận tải xăng dầu VITACO 12.09.2005 10.09.2007
7 VSH CTCP Thủy điện Vĩnh sơn Sông hinh 3.10.2005 20.12.2006
8 ABT Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu thủy sản Bến Tre 4.10.2005 25.12.2006
9 HRC Công Ty Cổ Phần Cao su Hòa Bình 10.10.2005 26.12.2006
10 BMP Công ty cổ phần nhựa Bình Minh 21.10.2005 11.07.2006
11 TTP Công ty cổ phần bao bì Nhựa Tân Tiến 22.10.2005 12.05.2006
12 PPC Công ty cổ phần Nhiệt điện Phả Lại 25.11.2005 26.01.2007
13 VNM Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam 29.11.2005 19.01.2006
14 CSM Công ty cổ phần Công nghiệp Cao su Miền Nam 2.12.2005 11.08.2009
15 VIP Công ty Cổ phần Vận tải Xăng dầu VIPCO 12.12.2005 21.12.2006
16 TBC Công ty Cổ phần Thủy điện Thác Bà 14.12.2005 19.10.2009
17 PVD Tổng công ty cổ phần Khoan và Dịch vụ khoan dầu khí 27.12.2005 12.05.2006
18 KSB Công ty cổ phần Khoáng sản và Xây dựng Bình Dương 16.02.2006 20.01.2010
19 VFC Công ty cổ phần Vinafco 17.02.2006 24.07.2006
20 HOT Công ty Cổ phần Du lịch Dịch vụ Hội An 13.03.2006 21.07.2011
21 TV1 Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng điện 1 4.06.2006 23.09.2010
22 PIT Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Petrolimex 28.06.2006 24.01.2008
23 TTF Công ty cổ phần Tập đoàn Kỹ nghệ gỗ Trường Thành 10.01.2007 18.02.2008
24 FBT Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu lâm thủy sản Bến Tre 22.01.2007 14.01.2008
25 VIC Tập Đoàn VINGROUP - Công ty cổ phần 7.03.2007 19.09.2007
26 BTP Công ty cổ phần Nhiệt điện Bà Rịa 15.03.2007 25.11.2009
27 DPM Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí - CTCP 21.04.2007 5.11.2007
28 EMC Công ty Cổ phần Cơ Điện Thủ Đức 24.04.2007 29.11.2012
29 CTD Công ty cổ phần Xây dựng Cotec 14.05.2007 20.01.2010
30 BVH Tập đoàn Bảo Việt 31.05.2007 26.06.2009
31 ANV Công ty cổ phần Nam Việt 21.06.2007 7.12.2007
32 TMP 29.06.2007 18.06.2009 Công ty cổ phần Thủy điện Thác Mơ
33 PTC Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng Bưu điện 27.08.2007 15.12.2008
34 AGM Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu An Giang 10.09.2007 14.12.2012
35 VST Công ty cổ phần Vận tải và Thuê tàu biển Việt Nam 21.09.2007 26.02.2009
36 HT1 Công ty cổ phần xi măng Hà Tiên 1 9.10.2007 13.11.2007
37 CMV Công ty Cổ phần Thương Nghiệp Cà Mau 22.10.2007 21.06.2010
38 SRF 25.10.2007 21.10.2009 Công ty cổ phần Kỹ Nghệ Lạnh
39 NBB Công ty Cổ phần Đầu tư Năm Bảy Bảy 29.10.2007 18.02.2009
40 ASM Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng Sao Mai tỉnh An Giang 13.11.2007 18.01.2010
41 DIG Tổng công ty cổ phần Đầu tư Phát triển Xây dựng 26.11.2007 19.08.2009
42 HVX CTCP xi măng Vicem Hải Vân 22.12.2007 28.09.2010
43 VCB 26.12.2007 30.06.2009 Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
44 PHR Công ty cổ phần Cao su Phước Hòa 31.12.2007 18.08.2009
45 D2D Công ty cổ phần Phát triển Đô thị Công nghiệp Số 2 14.03.2008 14.08.2009
46 C32 Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng 3-2 14.07.2008 30.11.2012
47 UDC CTCP xây dựng và phát triển đô thị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 28.11.2008 7.05.2010
48 CTG Ngân hàng Thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam 25.12.2008 16.07.2009
49 GAS Tổng Công ty Khí Việt Nam - CTCP 17.11.2010 21.05.2012