BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH * ĐẶNG THỊ TRÚC PHƯƠNG

PPHHÂÂNN TTÍÍCCHH MMỐỐII QQUUAANN HHỆỆ GGIIỮỮAA GGIIÁÁ VVÀÀNNGG

VVÀÀ TTỶỶ GGIIÁÁ HHỐỐII ĐĐOOÁÁII TTẠẠII VVIIỆỆTT NNAAMM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH * ĐẶNG THỊ TRÚC PHƯƠNG

PPHHÂÂNN TTÍÍCCHH MMỐỐII QQUUAANN HHỆỆ GGIIỮỮAA GGIIÁÁ VVÀÀNNGG

VVÀÀ TTỶỶ GGIIÁÁ HHỐỐII ĐĐOOÁÁII TTẠẠII VVIIỆỆTT NNAAMM

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

MÃ SỐ: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. NGUYỄN THANH PHONG Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ Kinh tế với đề tài “Phân tích mối quan hệ

giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái tại Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng

tôi.

Các cở sở lý luận được tôi tham khảo trực tiếp từ các tài liệu về ngoại hối có

liên quan đến giá vàng và tỷ giá hối đoái. Các kết quả nghiên cứu trước đều được

trích dẫn nguồn và tên tác giả. Các số liệu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,

đáng tin cậy và được xử lý khách quan, trung thực.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2013

Học viên thực hiện

Đặng Thị Trúc Phương

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU

DANH MỤC ĐỒ THỊ

LỜI MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ

VÀNG VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

1.1 Tổng quan về giá vàng .....................................................................................3

1.1.1 Vàng ...............................................................................................................3

1.1.2 Cơ chế hình thành giá vàng ............................................................................3

1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng .............................................................5

1.1.4 Vàng hóa và nguyên nhân dẫn đến vàng hóa .................................................6

1.1.5 Vai trò của vàng trong họat động kinh tế .......................................................7

1.2 Tỷ giá hối đoái ...................................................................................................8

1.2.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái ...............................................................................8

1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn .........................8

1.3 Mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái .............................................. 10

1.4 Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái ............. 13

1.5 Đề xuất mô hình phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá .............. 14

1.5.1 Xây dựng phương trình hồi quy ................................................................. 14

1.5.2 Các kiểm định hỗ trợ ................................................................................... 16

Kết luận Chương 1 ................................................................................................. 19

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ

VÀNG VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TẠI VIỆT NAM

2.1 Phân tích thực trạng thị trường vàng Việt Nam ......................................... 20

2.1.1 Cơ chế hình thành giá vàng trong nước ...................................................... 20

2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng trong nước ....................................... 21

2.1.3 Mối quan hệ giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới ...................... 23

2.1.4 Hình thức kinh doanh vàng ở Việt Nam ..................................................... 24

2.1.5 Một số rủi ro trong họat động kinh doanh vàng hiện nay ........................... 25

2.1.6 Cơ chế điều hành thị trường vàng giai đọan 2008-2013 ............................. 27

2.2 Phân tích thực trạng thị trường ngoại tệ ..................................................... 31

2.2.1 Nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường ngoại tệ còn hạn chế ...................... 31

2.2.2 Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động chưa hiệu quả .................... 31

2.2.3 Thị trường ngoại tệ tự do chưa được kiểm soát chặt chẽ ........................... 32

2.2.4 Tồn tại hiện tượng đôla hóa trong nền kinh tế ........................................... 32

2.2.5 Tình trạng đầu cơ, tích trữ trên thị trường ngoại tệ .................................... 33

2.2.6 Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái thời gian qua ................................... 33

2.3 Phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái ............................. 35

2.3.1 Phân tích diễn biến giá vàng và biến động tỷ giá giai đọan 2008-2013 ... 35

2.3.2 Kiểm định mô hình phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá ........ 39

2.3.3 Đánh giá kết quả kiểm định ..................................................................... 47

Kết luận Chương 2 ................................................................................................. 47

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ VÀNG

VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

3.1 Định hướng NHNN quản lý thị trường ngoại hối giai đọan 2015-2020.....49

3.2 Giải pháp NHNN kiểm soát mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái

nhằm ổn định thị trường ngoại hối…………………………………………….50

3.2.1 Tiến tới thành lập sở giao dịch vàng quốc gia ............................................ 50

3.2.2 Giảm lạm phát, tăng niềm tin đồng nội tệ, hạn chế tình trạng đôla hóa ..... 52

3.2.3 Từng bước tạo sự liên thông với thị trường vàng thế giới .......................... 54

3.2.4 Chuyển đổi dần từ thị trường vàng vật chất sang thị trường có ứng dụng các

sản phẩm phòng ngừa rủi ro ....................................................................... 56

3.2.5 Ổn định tâm lý thị trường, triệt tiêu họat động đầu cơ trục lợi ................... 57

3.2.6 Quản lý thị trường vàng của NHNN theo hướng linh hoạt, loại bỏ yếu tố độc

quyền ..................................................................................................................... 59

3.2.7

Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh tỷ giá hối đoái ............................................. 62

3.2.8 Điều chỉnh tỷ giá phải xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế ............. 62

3.2.9 Nâng cao hiệu quả của các công cụ can thiệp tỷ giá ................................... 63

3.2.10 Đa dạng hóa công cụ giao dịch trên thị trường ngoại hối ........................... 65

3.2.11 Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam .................................... 65

Kết luận Chương 3 ................................................................................................. 68

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1. NHNN

Ngân hàng nhà nước

2. NHTM

Ngân hàng thương mại

3. NHTW

Ngân hàng trung ương

4. TCTD

Tổ chức tín dụng

5. TGHĐ

Tỷ giá hối đoái

6. VND

Việt Nam đồng

7. ADF

Augmented Dickey Fuller Test

Kiểm định nghiệm đơn vị

8. CBRC

China Banking Regulatory Commission

Ủy ban giám sát ngân hàng Trung Quốc

9. FED

Federal Reserve System

Cục dự trữ liêng bang Mỹ

10. FOMC

Federal Open Market Committee

Ủy ban Thị trường mở Liên bang

11. OLS

Ordinary least square

Phương pháp bình phương nhỏ nhất

12. PBOC

People's Bank of China

Ngân hàng Trung ương Trung Quốc

13. SFE

Shanghai Futures Exchange

Trung tâm giao dịch hợp đồng tương lai Thượng Hải.

14. SGE

Shanghai Gold Exchange

Trung tâm giao dịch vàng Thượng Hải

15. VAR

Vector-autoregression

Véc tơ tự tương quan

16. VECM

Vector error correction model

Mô hình vector hiệu chỉnh sai số

DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU

Bảng

Tên bảng

Trang

2.1 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị chuỗi giá vàng (dữ liệu gốc)

41

2.2 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị chuỗi giá vàng (sai phân bậc 1)

41

2.3 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị chuỗi tỷ giá USD/VND(dữ liệu gốc)

42

2.4 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị chuỗi tỷ giá USD/VND(sai phân bậc 1)

42

Kết quả kiểm định đồng liên kết giá vàng và tỷ giá USD/VND (mức ý

43

2.5

nghĩa 1%)

Kết quả kiểm định đồng liên kết giá vàng và tỷ giá USD/VND (mức ý

43

2.6

nghĩa 5%)

2.7 Kết quả kiểm định nhân quả Granger giá vàng và tỷ giá với độ trễ 2 ngày

44

2.8 Kết quả kiểm định nhân quả Granger giá vàng và tỷ giá với độ trễ 3 ngày

44

2.9 Kết quả kiểm định nhân quả Granger giá vàng và tỷ giá với độ trễ 4 ngày

44

2.10 Kết quả kiểm định nhân quả Granger giá vàng và tỷ giá với độ trễ 5 ngày

45

2.11 Kết quả kiểm định nhân quả Granger giá vàng và tỷ giá với độ trễ 6 ngày

45

2.12 Tóm tắt kết quả kiểm định nhân quả Granger giá vàng và tỷ giá

45

2.13 Ma trận hiệp phương sai giữa giá vàng và tỷ giá

46

Kết quả ước lượng mô hình xem xét mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá

2.14

46

USD/VND

DANH MỤC ĐỒ THỊ

Tên đồ thị

Đồ thị

Trang

Diễn biến giá vàng và biến động tỷ giá năm 2008 - 2009

2.1

35

Diễn biến giá vàng và biến động tỷ giá năm 2010 và 2011

2.2

37

Diễn biến giá vàng và biến động tỷ giá năm 2012 và 3 tháng đầu năm 2013

2.3

38

1

LỜI MỞ ĐẦU

i. Tính cấp thiết của đề tài

Thị trường vàng là một bộ phận hữu cơ của thị trường tài chính tiền tệ. Ở bất kỳ

quốc gia nào cũng cần có sự quản lý, giám sát của Nhà nước đối với thị trường vàng.

Mục tiêu là đưa thị trường vàng phát triển lành mạnh và đúng hướng, gắn kết mật thiết,

đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội. Hiện thị trường vàng trong nước vẫn

đang bị nhìn nhận một cách tiêu cực, phiến diện luôn gây sự bất ổn cho kinh tế vĩ mô.

Thời gian gần đây, do bất ổn kinh tế thế giới và trong nước, thị trường vàng có

nhiều biến động hết sức thất thường. Thói quen tích trữ vàng của người dân, cộng với

các yếu tố đầu cơ, lũng đoạn thị trường làm cho tình trạng vàng hóa càng thêm trầm

trọng. Theo đánh giá không chính thức sơ bộ ban đầu, nền kinh tế của nước ta có

khoảng 300-400 tấn vàng, tương đương khoảng 15-20 tỷ USD đã không được đầu tư

vào sản xuất kinh doanh mà bị chôn chặt vào vàng. Sự biến động mạnh của thị trường

vàng, tỷ giá có thể chịu sức ép nhất thời, tạo ra bất ổn kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng đến

điều hành chính sách tiền tệ.

Tác hại lớn nhất của vàng là ảnh hưởng đến tỷ giá, trong khi mục tiêu xuyên suốt

và lâu dài của chúng ta là ổn định tỷ giá. Những gì đã diễn ra trong nhiều năm qua là

thực trạng đã thành quy luật là giá vàng luôn “kích động” giá USD. Mục tiêu của

NHNN là ổn định thị trường vàng, ổn định thị trường ngoại hối, tỷ giá hối đoái và sức

mua VND. Cùng với việc lựa chọn SJC làm thương hiệu vàng quốc gia và độc quyền

sản xuất vàng miếng, NHNN ban hành nghị định 24/NĐ-CP - về quản lý họat động

kinh doanh vàng, thông tư 12/2012/TT-NHNN - về chấm dứt huy động vàng, theo sau

đó, NHNN đã tổ chức đấu thầu vàng miếng với sự tham gia của các TCTD và doanh

nghiệp nhưng trên nhiều phương diện thị trường vàng vẫn vướng những bất ổn cũ. Vì

vậy, rất cần thiết khi tìm ra được mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái, trả lời

cho câu hỏi giá vàng tác động tỷ giá hối đoái hay tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến giá

vàng.

2

ii. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu là kiểm định mối quan hệ giữa giá vàng trong nước với tỷ giá

hối đoái. Từ đó, đưa ra giải pháp quản lý thị trường vàng và ổn định tỷ giá hối đoái để

ổn định thị trường ngoại hối.

iii. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái

tại Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu từ nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tháng 3/2008 – tháng

3/2013.

iv. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu là kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và phương

pháp nghiên cứu định lượng.

Phương pháp nghiên cứu định tính bao gồm phương pháp phân tích, so sánh và

phương pháp thống kê.

Phương pháp nghiên cứu định lượng bằng hồi quy chuỗi dữ liệu thời gian và kiểm

định nhân quả Granger để tìm ra mối quan hệ giữa giá vàng trong nước với tỷ giá hối

đoái.

v. Kết cấu của đề tài

Chương 1: Cơ sở lý luận về giá vàng và tỷ giá hối đoái

Chương 2: Phân tích thực trạng mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái tại Việt

Nam

Chương 3: Giải pháp kiểm soát mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái

3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ

VÀNG VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

1.1 Tổng quan về giá vàng

1.1.1 Vàng

Vàng với vai trò ban đầu được sử dụng như hàng hóa trao đổi ngang giá. Cùng với

lịch sử, vàng được nhiều quốc gia trên thế giới chọn làm vật đảm bảo cho giá trị tài sản

của mình. Vàng tiền tệ được coi như là một loại ngoại tệ và là tài sản dự trữ quốc tế vì

những đặc điểm sau:

(cid:153) Vàng là kim loại quý

Vàng là kim loại quý trong ngành trang sức, điêu khắc và trang trí kể từ khi được

xuất hiện trong lịch sử.

(cid:153) Vàng là hàng hóa đặc biệt

Với tính chất ưu việt và được công nhận rộng rãi, vàng đã trở thành một vật chất

đặc biệt mang hình thái hàng hóa – tiền tệ. Khi đóng vai trò là tiền thì vàng đã có đầy

đủ các chức năng của tiền tệ nói chung và cho đến ngày nay chưa có loại tiền nào có

chức năng đầy đủ như thế, bao gồm: chức năng phương tiện thanh toán, thước đo giá

trị và phương tiện tích trữ.

Vàng khi được sử dụng để thanh toán hay tích trữ thay cho tiền thì nó không còn là

vàng nữa mà đóng vai trò như tiền tệ, chịu sự chi phối của cung cầu về tiền tệ.

(cid:153) Vàng là dự trữ quốc gia

Các quốc gia, ngân hàng và quỹ đầu tư trên toàn thế giới tăng cường giữ vàng

trong danh mục đầu tư của mình để tránh nguy cơ giảm giá trị tài sản do lạm phát và

phá giá tiền tệ trong điều kiện suy thoái toàn cầu kinh tế như hiện nay.

1.1.2 Cơ chế hình thành giá vàng

Giá vàng được hình thành trên cơ sở cung cầu. Bất cứ sự thay đổi nào trong nguồn

cung và nhu cầu vàng sẽ dẫn đến sự thay đổi trong giá vàng.

(cid:153) Cầu vàng

Nhu cầu tiêu thụ vàng phân bố rộng rãi trên phạm vi toàn cầu. Sự khác biệt giữa

các nền văn hóa, kinh tế, xã hội khác nhau tạo nên mức độ nhu cầu khác nhau trên các

thị trường. Nhu cầu vàng thể hiện qua 3 hình thức.

(cid:131) Nhu cầu vàng trang sức

4

Nhu cầu sử dụng vàng làm đồ trang sức chiếm phần lớn trong nhu cầu tiêu thụ

vàng toàn cầu. Trong đó, Ấn Độ và Trung Quốc tiêu thụ nhiều vàng trang sức nhất,

xuất phát từ những yếu tố văn hóa truyền thống tín ngưỡng, những yếu tố này không

liên quan trực tiếp đến xu hướng kinh tế thế giới.

(cid:131) Nhu cầu đầu tư

Những năm gần đây, nhu cầu vàng cho đầu tư tăng trưởng mạnh mẽ trong cơ cấu

nhu cầu tiêu thụ vàng. Hàng loạt yếu tố thúc đẩy các nhà đầu tư tổ chức và tư nhân tìm

kiếm các khoản đầu tư vàng. Trong số những yếu tố quyết định, một yếu tố xuyên suốt

và tất cả đều có gốc rễ từ đó là khả năng kháng cự sự bất ổn và giúp chống lại các

nguy cơ tiềm ẩn của nền kinh tế.

(cid:131) Nhu cầu sử dụng trong công nghệ, công nghiệp

Việc sử dụng vàng trong các ngành điện tử, công nghiệp, y tế và nha khoa. Ngày

nay, vàng được ứng dụng nhiều nhờ thuộc tính tương thích sinh học, khả năng chống

vi khuẩn và chống ăn mòn.

(cid:153) Cung vàng

Vàng được cung cấp chủ yếu thông qua các hình thức sau:

(cid:131) Khai thác mỏ

Vàng được khai thác khắp các mỏ hầu hết các châu lục trừ Đại Tây Dương do hoạt

động khai thác bị cấm. Hàng trăm mỏ vàng hoạt động toàn cầu với quy mô đa dạng.

Nhìn chung khai thác vàng từ các mỏ khá ổn định, sản lượng khai khoáng tương

đối ít dao động. Tuy nhiên, nguồn cung vàng đôi khi bị gián đoạn do các cuộc đình

công ngừng sản xuất ở Nam Phi.

(cid:131) Tái chế vàng

Trong khi sản lượng vàng khai thác từ các mỏ là tương đối ít dao động, vàng tái

chế giúp đảm bảo nguồn cung thương mại dễ dàng hơn khi cần thiết, góp phần ổn định

giá vàng.

(cid:131) Ngân hàng trung ương các nước

Ngân hàng trung ương và các tổ chức đa quốc gia (như Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế) hiện

giữ một tỷ lệ lớn tổng lượng vàng dự trữ toàn cầu làm tài sản dự trữ. Mặc dù một số

các ngân hàng trung ương đã tăng lượng dự trữ vàng trong những năm đây, nhưng đây

cũng chính là nguồn cung cấp lượng vàng lớn ra thị trường.

5

1.1.3 Các nhân tố đến ảnh hưởng giá vàng

Giá vàng thế giới chịu ảnh hưởng của các yếu tố:

(cid:153) Quyết định của các ngân hàng Trung ương

Quyết định tăng/giảm lãi suất hay xu hướng thay đổi dự trữ bằng vàng hay USD

của các NHTW các nước lớn giữ một vai trò quan trọng trong ảnh hưởng đối với giá

vàng.

(cid:153) Giá trị đồng USD

Trong điều kiện kinh tế bình thường, giá trị đồng USD có tương quan tỷ lệ nghịch

với giá vàng, nhưng khi nền kinh tế khủng hoảng thì giá vàng và giá trị USD có tương

quan cùng chiều với nhau, vì cả 2 đều được xem là hầm trú ẩn an tòan nhất.

Khi xem xét giá trị đồng USD, người ta thường đánh giá thông qua những quyết

định thay đổi lãi suất và cung tiền của FED công bố qua các kỳ họp của FOMC cũng

như những yếu tố được xem là chỉ báo phản ánh sức mạnh hay suy yếu của nền kinh tế

Mỹ :

- Tin bảng lương phi nông nghiệp

- Tin tỷ lệ thất nghiệp

- Tin lạm phát

- Tình trạng thị trường nhà ở

- Thị trường tín dụng

- Thị trường vốn

- Tin niềm tin tiêu dùng

(cid:153) Sức khỏe của các nền kinh tế lớn

Tình hình kinh tế của các cường quốc, đặc biệt là Mỹ, khu vực đồng tiền chung

Châu Âu hay Trung Quốc có ảnh hưởng lớn đến giá vàng thế giới. Các nước này có

nền kinh tế thị trường và một nền tài chính phát triển mạnh, khi nền kinh tế của các

nước này biến động, sẽ ảnh hưởng đến kinh tế của các quốc gia khác.

(cid:153) Lạm phát

Giá vàng thường tỷ lệ thuận với sự gia tăng của lạm phát. Vàng là công cụ tài chính

hữu hiệu để phòng ngừa lạm phát. Thông thường để đối phó với tình trạng lạm phát

tăng cao, thị trường có khuynh hướng mua vàng với kỳ vọng giá trị tài sản sẽ không bị

giảm sút. Các quỹ đầu tư, đầu cơ cũng mua vàng với mục tiêu là sử dụng vàng như

6

một phần tài sản đảm bảo giá trị quỹ trong trường hợp lạm phát cao hay kinh tế suy

thoái, giá chứng khoán sụt giảm….

(cid:153) Giá dầu

Giá vàng thường theo sát giá dầu quốc tế như biểu hiện của lạm phát toàn cầu.

(cid:153) Cung và cầu vàng vật chất

Nhu cầu vàng cho tích trữ, làm nữ trang, dùng trong công nghiệp…ngày một tăng

làm giá vàng tăng theo. Điều này thể hiện rõ nét trong chu kỳ kinh doanh vàng đặc biệt

của một số nước như mùa cưới hỏi ở Ấn Độ, dịp tết ở Trung Quốc…Lượng cầu tăng

làm giá vàng tăng và ngược lại. Hiện tại Úc, Trung Quốc, Châu Phi là những nơi sản

xuất vàng chủ yếu của thế giới.

(cid:153) Bất ổn chính trị

Khủng hoảng chính trị, khủng hoảng kinh tế, chiến tranh, khủng bố, thiên tai…là

các yếu tố tác động mạnh tới giá vàng. Vàng là nơi trú ẩn an toàn khi có bất ổn xảy ra.

(cid:153) Các mức giá tâm lý và kĩ thuật

Các mức giá tâm lý và kỹ thuật ảnh hưởng lớn đến hành động mua và bán trên thị

trường vàng.

(cid:153) Các yếu tố khác

Tác động của hoạt động đầu cơ vàng .

Thị trường chứng khoán.

Nhận định của các nhân vật nổi tiếng có ảnh hưởng trên thị trường tài chính quốc tế.

1.1.4 Vàng hóa và nguyên nhân dẫn đến vàng hóa

1.1.4.1 Khái niệm vàng hóa

Vàng hóa là việc sử dụng vàng như phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Vàng

hóa chỉ xuất hiện khi nào vàng trở thành một phương tiện thanh toán, định giá mua bán,

trao đổi với các hàng hóa khác. Việc người dân mua vàng để tích trữ, như công cụ tiết

kiệm, để phòng ngừa lạm phát không được coi là vàng hoá.

Để đo lường mức độ USD hóa nền kinh tế người ta thường sử dụng chỉ số tổng tiền

gửi bằng ngoại tệ so với tổng phương tiện thanh toán. Hiện tại chưa có chỉ số nào đo

lường mức độ vàng hóa, chỉ có thể xét mức độ vàng hóa theo các chức năng tiền tệ mà

vàng đã thay thế hay lấn át đồng nội tệ:

7

Thứ nhất, thanh toán hàng hóa, dịch vụ: vàng được chấp nhận rộng rãi và thanh

toán không hạn chế một cách khá dễ dàng, đặc biệt cho các giao dịch lớn.

Thứ hai, định giá hàng hóa lớn: vàng có vai trò định giá trong các giao dịch hàng

hóa lớn.

1.1.4.2 Nguyên nhân dẫn đến vàng hóa

Đồng nội tệ bị mất giá do áp lực lạm phát cùng với nền kinh tế có vị thế yếu trên

trường quốc tế đã làm suy giảm niềm tin và nhu cầu đối với đồng nội tệ, vàng được sử

dụng như phương tiện thanh toán, định giá tài sản. Khi đó vàng được sử dụng như một

đồng tiền, chèn lấn các chức năng tiền tệ của đồng nội tệ và đây là điều vô cùng nguy

hiểm. Nếu vàng có vai trò như nội tệ, nghĩa là bất cứ ai giữ vàng cũng có vai trò như

NHNN, muốn rút ra hoặc đưa vào trong lưu thông đều không thể kiểm soát. Thị

trường sẽ hỗn loạn và đồng tiền thực tế bị giết chết.

1.1.5 Vai trò của vàng trong họat động kinh tế

Việt Nam là quốc gia tiêu thụ vàng với số lượng lớn, điểm đặc biệt ở Việt Nam đó

là vàng vừa được dùng như một loại tiền, vừa như một phương tiện cất giữ, vàng được

sử dụng rộng rãi cho mục đích đầu tư và thậm chí là phương thức thanh toán thay thế

tiền mặt trong những giao dịch lớn. Trong những năm gần đây, vàng còn được sử dụng

như một biện pháp chống lại lạm phát và suy thoái kinh tế.

Thứ nhất, vàng là một phương tiện tích lũy đáng tin cậy. Nguyên nhân khiến nhu

cầu vàng tại Việt Nam ở mức cao là từ yếu tố văn hóa, nhu cầu vàng còn trở thành tâm

lý và thói quen của người dân. Phần lớn người dân Việt Nam giữ vàng miếng và trang

sức bằng vàng tại nhà, chỉ một lượng vàng nhỏ được gửi tại ngân hàng.

Thứ hai, vàng đóng vai trò phương tiện cất trữ nhằm mục đích bảo toàn giá trị tài

sản trước những biến động kinh tế, tài chính tiền tệ. Không chỉ cá nhân, các doanh

nghiệp mà Ngân hàng Trung ương các nước cũng coi vàng là một phần quan trọng

trong tài sản của họ. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động cả về kinh tế, chính trị

và xã hội, không chỉ người dân Việt Nam, mà cả các quốc gia khác trên thế giới đều

đang coi vàng là một công cụ bảo đảm tài sản của họ.

Thứ ba, vàng trở thành phương tiện thanh toán, đặc biệt là đối với những giao dịch

tài sản có giá trị lớn, khi các phương tiện thanh toán khác tỏ ra không đáng tin cậy.

8

Cuối cùng, trong trường hợp các thước đo giá trị khác biến động quá lớn thì vàng

đóng nốt vai trò là thước đo giá trị.

Với giá trị bền vững của vàng trong các hình thái giá trị khác, và với khả năng

chuyển đổi cao trong mọi quan hệ thanh toán không chỉ một quốc gia mà trên phạm vi

toàn cầu. Vì vậy, sự biến động phức tạp của giá vàng tiếp tục có tác động ảnh hưởng

trực tiếp đến việc điều hành chính sách tiền tệ. Việc nắm giữ vàng với số lượng lớn

gây ra nhiều rủi ro cho nền kinh tế như tình trạng đầu cơ, buôn lậu vàng, tác động tiêu

cực lên cán cân thương mại và tỷ giá. Với thực tế trên, Chính phủ và Ngân hàng Nhà

nước gặp phải thách thức trong việc giảm thiểu những tác động tiêu cực của vàng lên

nền kinh tế.

1.2 Tỷ giá hối đoái

1.2.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ trao đổi giữa đơn vị tiền tệ nước này với đơn vị tiền tệ nước

khác. Tỷ giá hối đoái phản ánh giá cả đồng tiền này so với đồng tiền khác, nó còn thể

hiện sự so sánh giá trị giữa hai đồng tiền với nhau.

1.2.2 Các nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn

1.2.2.1 Lãi suất

Lãi suất là công cụ được các ngân hàng trung ương sử dụng để điều chỉnh tỷ giá

hối đoái trên thị trường.

⎯ Chính sách lãi suất cao sẽ dẫn đến việc tăng giá đồng nội tệ, vì nó thu hút các

luồng vốn nước ngoài chảy vào trong nước. Điều này làm cho tăng cung ngoại tệ trên

thị trường (cũng có nghĩa làm tăng cầu đối với đồng nội tệ), từ đó đồng ngoại tệ sẽ có

xu hướng giảm giá trên thị trường, hay đồng nội tệ sẽ tăng giá.

⎯ Ngược lại, nếu lãi suất trong nước thấp hơn so với lãi suất nước ngoài hay lãi

suất ngoại tệ, đồng ngoại tệ có xu hướng tăng giá hay đồng nội tệ sẽ giảm giá.

1.2.2.2 Lạm phát

Lạm phát cao làm tăng lãi suất tương đối của tiền gửi ngọai tệ so với nội tệ và dẫn

đến giảm giá của đồng nội tệ. Lạm phát cao còn làm cho sức mua của nội tệ giảm so

với ngọai tệ.

Trên thị trường tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân chuyển sang

nắm giữ các tài sản nước ngoài, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng.

9

1.2.2.3 Cung cầu ngoại tệ

Giá cả ngọai tệ là tỷ giá hối đoái cũng được xác định theo quy luật cung cầu như

đối với các hàng hóa thông thường.

Khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, thị trường sẽ có một số người không bán

được sẽ sẵn sàng bán với mức giá thấp hơn làm cho tỷ giá hối đoái giảm.

Khi cung ngoại tệ nhỏ hơn cầu ngoại tệ, một số người không mua được sẵn sàng trả

giá cao hơn và gây sức ép làm giá ngoại tệ trên thị trường tăng.

1.2.2.4 Cán cân thương mại

Cán cân thương mại của một nước là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim

ngạch nhập khẩu. Khi xét tác động của vấn đề này đến tỷ giá, ta phải bỏ ra những

khoản mục phản ánh sự can thiệp của Chính phủ và tương quan cầu ngọai hối trên thị

trường.

- Một nền kinh tế xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sẽ thu được ngoại tệ, trên thị

trường, cung ngoại tệ sẽ tăng, làm tỷ giá hối đoái giảm.

- Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hóa dịch vụ, các nhà nhập khẩu cần ngọai tệ để

thanh toán và đi mua trên thị trường, làm tỷ giá hối đoái tăng.

1.2.2.5 Tăng trưởng kinh tế

Nếu thu nhập quốc dân của một nước tăng lên so với nước khác với điều kiện các

nhân tố khác không đổi thì sẽ làm tăng nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu, tỷ

giá hối đoái tăng do nhu cầu ngọai tệ để thanh toán.

1.2.2.6 Họat động đầu tư

Đầu tư ra nước ngoài ròng là hiệu số giữa luồng vốn chảy ra và chảy vào một nước.

Khi đầu tư ra nước ngoài ròng dương, luồng vốn chảy vào trong nước nhỏ hơn luồng

vốn chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái tăng. Tỷ giá hối đoái sẽ giảm trong trường hợp

ngược lại, đầu tư ra nước ngoài ròng âm. Theo quy luật tối ưu hóa, luồng vốn sẽ chảy

đến nơi nào có hiệu suất sinh lời cao nhất.

1.2.2.7 Yếu tố tâm lý

Người dân, nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh ngọai tệ thực hiện

các vị thế tiền tệ dựa trên các tin đồn cũng như kỳ vọng vào tương lai cũng như bị chi

phối bởi yếu tố tâm lý.

1.2.2.8 Sự can thiệp của Chính phủ

10

Bất cứ sự can thiệp nào của Chính Phủ mà có ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát, thu

nhập thực tế và mức lãi suất trong nước đều ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Chính phủ

có thể sử dụng 3 lọai can thiệp chủ yếu: can thiệp vào thương mại quốc tế, đầu tư quốc

tế và can thiệp trực tiếp vào thị trường ngọai hối.

1.3 Mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái

Trong lịch sử của vàng, đồng USD và vàng có mối quan hệ chặt chẽ, một mặt USD

được chọn là đồng tiền định giá và là đồng tiền thanh toán khi mua bán vàng, mặt khác

vàng và USD được chọn là đối tượng đầu tư an toàn có thể thay thế. Những năm gần

đây giá vàng biến động ít phụ thuộc vào yếu tố cung cầu, mà chủ yếu phụ thuộc vào sự

mất giá của tiền tệ. Mối quan hệ được biết đến rộng rãi nhất trên thị trường tiền tệ có lẽ

là mối tương quan tỷ lệ nghịch giữa vàng và USD. USD được xem là đồng tiền thanh

toán toàn cầu, do đó theo thông lệ các hàng hóa hay ngoại tệ khi giao dịch trên thế giới

đều được định giá theo USD và vàng cũng không ngoại lệ. Chính vì vậy, bất cứ tác

động nào ảnh hưởng đến giá trị đồng USD thì cũng tác động trực tiếp đến biến động

giá cả của vàng. Khi giá trị đồng USD giảm tương đối so với các đồng tiền mạnh khác

thì phải mất nhiều đôla hơn để mua được vàng nên giá trị của vàng được nâng lên.

Ngược lại, khi giá trị trao đổi của đôla Mỹ tăng lên, cần ít đôla hơn để mua được vàng,

dẫn đến việc giá trị vàng tính bằng đôla giảm xuống. Mặc dù vàng vẫn duy trì mối

quan hệ nghịch đảo với các đồng tiền khác chứ không riêng gì đồng đôla, nhưng về cơ

bản, mối tương quan tỷ lệ nghịch giữa vàng và đôla là rõ nét nhất bởi USD chiếm tỷ

trọng lớn nhất trong dự trữ ngoại hối của các NHTW. Tuy mối quan hệ giữa hai loại

tài sản này là vô cùng mật thiết, nhưng cũng có lúc vàng với USD cũng tạm thời tách

biệt ra. Đó là những thời điểm nền kinh tế khủng hỏang, nhiều người đã tìm đến USD,

trái phiếu của kho bạc Mỹ, vàng làm tài sản trú ẩn an toàn để chống lại khủng hoảng,

dòng tiền chuyển sang nắm giữ vàng và USD thay vì các tài sản có tỷ suất sinh lợi cao

nhưng rủi ro cao hơn.

Do đặc điểm là hầm trú ẩn an toàn cho các nguồn vốn, vàng phản ánh khá tốt độ

nhạy cảm của nền kinh tế cũng như độ bất ổn trong tình hình chính sự thế giới. Ngoài

ảnh hưởng bởi tỷ giá quy đổi giữa vàng và USD thì ngay trong bản thân các yếu tố tác

động đến sự tăng - giảm của chỉ số USD cũng ảnh hưởng trực tiếp đến giá vàng theo

từng thời điểm nhất định. Khi nhu cầu USD tăng, USD sẽ được định giá cao hơn bởi

11

nhiều yếu tố kinh tế tác động, trong đó có một số yếu tố ảnh hưởng trực tiếp như: tăng

lãi suất, các chỉ số sức mạnh của nền kinh tế Mỹ, khi đó giá vàng sẽ được điều chỉnh

lại thông qua quy đổi. Về mặt quy đổi trong mối tương quan của các cặp tiền tệ, chúng

ta nhận thấy, khi USD tăng thì giá vàng được định giá bằng đồng USD sẽ trở nên đắt

hơn so với các loại tiền tệ khác trong mối tương quan so sánh, ngay lập tức giá vàng sẽ

được điều chỉnh giảm. Khi nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng ổn định thì vàng sẽ không

có nhiều sự hỗ trợ cho việc tăng giá. Một khi chỉ số USD được củng cố bởi các yếu tố,

dẫn đầu là chính sách lãi suất, kinh tế tăng trưởng đều, chỉ số thu nhập và niềm tin tiêu

dùng được củng cố thì các nhà đầu cơ, nhà đầu tư sẽ tăng cường giữ USD theo thời

điểm hoặc dài hạn để kiếm lợi nhuận và là phương tiện thanh toán, chính điều này

cũng là yếu tố không hỗ trợ cho giá vàng.

Trong lịch sử giá vàng đã được xác định bởi sự kết hợp của các yếu tố kinh tế và

chính trị. Tuy nhiên, trong vài năm qua, một trong các yếu tố chính tác động đến giá

vàng đó là tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá của đồng ngoại tệ thay đổi cũng đồng nghĩa với

việc làm cho giá vàng tính theo giá trị của đồng ngoại tệ mua nó cũng thay đổi theo.

Hiện nay, hầu như các nước trên thế giới khi thực hiện các cuộc trao đổi mua bán,

nhập khẩu, xuất khẩu vàng đều thanh toán với nhau bằng tiền USD. Vì USD là đồng

tiền được sử dụng để dự trữ ngoại hối đứng đầu thế giới (khoảng 60%-70% dự trữ

ngoại hối toàn cầu) và là đồng tiền được sử dụng trong thanh toán thương mại quốc tế

(hơn 90%). Nên việc tỷ giá hối đoái biến động sẽ tỷ lệ thuận với giá vàng ở những

nước tiêu thụ vàng bằng nguồn nhập khẩu.

Tại Việt Nam, trước khi nghị định 24 ban hành, mỗi khi sốt vàng, giá vàng tăng

cao, người dân đổ xô đi mua khiến mất cân đối cung cầu, NHNN buộc phải cho nhập

khẩu vàng, nhập vàng lại tác động lên tỷ giá khi các doanh nghiệp cần gom USD để

mua vàng. Đồng thời đó là hoạt động thu gom ngoại tệ nhập lậu vàng diễn ra. Chính

sự mua gom và tích trữ này đã góp phần cho việc khan hiếm và tăng giá trên thị trường

USD tự do. Thực tế, biến động trên thị trường tự do luôn là biểu hiện đầu tiên cho

những khó khăn của thị trường ngoại hối. Từ khi NHNN độc quyền sản xuất vàng

miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng

miếng thị trường vàng không còn ảnh hưởng mạnh lên thị trường ngoại hối như trước

đây nữa nhưng khi chênh lệch cao giữa giá vàng trong nước và thế giới tăng cao, thị

12

trường USD tự do và hiện tượng nhập lậu vàng vẫn tồn tại thì vẫn còn ảnh hưởng của

nó lên tỷ giá.

Vì vàng được quy đổi theo tỷ giá USD/VND nên sự biến động của tỷ giá dẫn đến

sự biến động của giá vàng. Việt Nam không phải là quốc gia sản xuất vàng, mỗi năm

chúng ta phải dùng hàng tỷ USD để nhập khẩu vàng khi mà thói quen tích trữ vàng của

người dân đã hình thành từ lâu. Thói quen này càng trở nên thịnh hành khi nền kinh tế

có dấu hiệu bất ổn, nguy cơ mất giá tiền đồng tăng. Điều đó kéo theo nhiều hệ lụy cho

nền kinh tế. Quan trọng hơn, Việt Nam vốn là nền kinh tế có năng lực còn hạn chế, dự

trữ ngoại hối mỏng mà liên tục sử dụng ngoại tệ để ổn định thị trường vàng về lâu dài

sẽ gây hậu quả cho nền kinh tế, dẫn đến xu hướng đồng Việt Nam mất giá. Việc nhập

vàng của NHNN là một trong những nguyên nhân chính khiến VND yếu đi, mặc dù dự

trữ ngoại hối vẫn được duy trì ở mức tốt.

Tuy nhiên trên thực tế tác động của tỷ giá USD/VND lên giá vàng thực tế được

giao dịch trên thị trường vàng Việt Nam lại rất phức tạp. Vì tỷ giá USD/VND vừa là

công cụ, vừa là kết quả của chính sách tiền tệ, tác động trực tiếp lên kỳ vọng vào giá

trị đồng VND và là một trong những thông số tham chiếu trong quyết định đầu tư của

các nhà đầu tư trên thị trường tài chính mà vàng là một kênh đầu tư trên thị trường đó.

Từ đó, tỷ giá USD/VND đã gián tiếp tác động lên giá vàng.

Mặt khác, sự biến động tỷ giá USD/VND không phải là tác nhân chính khiến giá

vàng trong nước biến động mà chính giá vàng cũng là nhân tố gây ra sự biến động trên

thị trường ngoại tệ. Theo quy luật cung cầu, hàng hóa sẽ đi từ nơi giá thấp đến nơi giá

cao. Khi giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới quy đổi một khoảng cách lớn

tạo cơ hội cho vàng lậu vào Việt Nam. Từ nhu cầu thu USD để nhập vàng lậu đã đẩy

tỷ giá trên thị trường tự do lên mức cao. Mọi biện pháp hành chính để kiểm soát hoặc

hạn chế chỉ có tác dụng trong ngắn hạn hoặc để thu được lợi nhuận cao hơn, các nhà

sản xuất sẽ tìm cách lợi dụng khe hở quản lý, gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm

soát ngoại tệ vì việc xuất nhập khẩu vàng liên quan đến nguồn thu chi ngoại tệ, ảnh

hưởng đến tỷ giá USD/VND.

Các nước đều có sự can thiệp vào tỷ giá để làm cho nền kinh tế của nước có lợi

hoặc đáp ứng sự ổn định của nền kinh tế. Đó là quan hệ vĩ mô nhưng nó lại có tác

động rất nhiều đến hành vi của người dân hay các chủ thể kinh tế tư nhân ở trong một

nền kinh tế chung. Vì các chủ thể này hoạt động theo lợi ích. Trong khi đó, giá vàng

13

trong nước tăng cao, một số ngân hàng thương mại được phép chuyển đổi vàng tồn

quỹ đã đem vàng vật chất bán cho nhà đầu tư để kiếm lời, nhưng sau đó phải đối ứng

vàng tài khoản với nước ngoài để cân đối lại nên rất cần đến cung ngoại tệ, vì vậy

USD càng có giá.

1.4 Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái

Michale Dooley, Peter Isard, Mark Taylor (October 1992) đưa ra những bằng

chứng gián tiếp ủng hộ giả thuyết cho rằng biến động của tỷ giá hối đoái có thể lớn

hơn với những thay đổi trong ưu đãi mà quốc gia đó cam kết dành cho những quốc gia

khác. Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng những thay đổi trong ưu đãi quốc gia sẽ được

phản ánh có hệ thống vào biến động giá vàng và do đó, theo giả thuyết này biến động

giá vàng có thể dẫn đến biến động của tỷ giá hối đoái ở mức độ nhiều hơn so với tác

động của những cú sốc tiền tệ lên tỷ giá. Bài nghiên cứu sử dụng mô hình véc tơ tự hồi

quy và kỹ thuật đồng liên kết phân tích tác động của giá vàng lên tỷ giá kèm theo điều

kiện có những thay đổi trong chính sách tiền tệ và yếu tố kinh tế vĩ mô, đồng thời sử

dụng mô hình véc tơ hồi quy hiệu chỉnh sai số để dự báo.

Dominique Dupont and V. Hugo Juan-Ramon (April 1996), khảo sát mối quan hệ

giữa biến động tỷ giá hối đoái thực so với các ngoại tệ khác với biến động giá trên thị

trường hàng hóa. Tăng biến động của tỷ giá hối đoái đòi hỏi phải nắm rõ mối quan hệ

này. Với sự hiểu biết của nhóm tác giả, vẫn chưa có một nghiên cứu có hệ thống các

hiệu ứng đối với một loạt hàng hóa trên thị trường này ngoại trừ Sjaastad và

Scacciavillani (1993) đã thực hiện đối với vàng. Tác giả xây dựng một hệ thống các

phương pháp tiếp cận và xây dựng mô hình cung cầu đa quốc gia có thanh toán bù trừ

với thị trường thế giới, trong đó kết hợp nhu cầu đầu tư và đầu cơ đối với hàng tồn kho

cùng với kỳ vọng hợp lý. Bài nghiên cứu sử dụng mô hình kinh tế lượng với dữ liệu

giá cả của 65 loại hàng hóa thu thập từ tháng 1/1972 đến tháng 1/1992. Kết quả tìm

được cho thấy đối với một nhóm nhỏ hàng hóa, đặc biệt là vàng thì đồng USD có tác

động đáng kể đến giá cả những hàng hóa này.

Shaun K. Roache and Marco Rossi (July 2009), đưa ra kết quả nghiên cứu cho thấy

rằng thị trường hàng hóa không chỉ là tài sản tài chính và vàng cũng không đơn thuần

là một hàng hóa bình thường. Giá của một số hàng hóa bị ảnh hưởng bởi yếu tố kinh tế

vĩ mô mang tính chu kỳ đặc biệt là giá cả đồng USD. Hàng hóa có xu hướng ít nhạy

14

cảm hơn so với các tài sản tài chính, ví dụ, dầu thô, các hợp đồng tương lai hàng hóa

được giao dịch nhiều nhất, hầu như không có phản ứng đáng kể. Tuy nhiên, trong

những năm gần đây thị trường hàng hóa đã trở thành một bộ phận của thị trường tài

chính, do đó sự nhạy cảm của nó đối với những thay đổi bất ngờ của tin tức kinh tế vĩ

mô và lãi suất dường như đã tăng lên. Giá vàng nhạy cảm với thông tin vĩ mô của Mỹ

và khu vực đồng Euro bao gồm doanh số bán lẻ, bảng lương phi nông nghiệp, lạm phát.

Giá vàng nhạy cảm cao với lãi suất thực và giữ vai trò như tài sản an toàn.

Rabah Arezki, Elena Dumitrescu, Andreas Freytag and Marc Quintyn (2012)

nghiên cứu mối quan hệ giữa đồng Rand của Nam Phi và biến động của giá vàng, sử

dụng dữ liệu hàng tháng giai đoạn 1980-2010. Kết quả cho thấy có mối quan hệ nhân

quả giữa tỷ giá và giá vàng, cụ thể trước giai đoạn Nam Phi tiến hành tự do hóa tài

khoản vốn thì tỷ giá có tác động đến giá vàng nhưng mối quan hệ này ngược lại nghĩa

là giá vàng tác động đến tỷ giá giai đoạn hậu tự do hóa. Mặt khác, nghiên cứu cũng

chứng minh rằng biến động giá vàng đóng một vai trò quan trọng trong việc giải thích

nguyên nhân tăng giảm quá mức của tỷ giá cũng như phần lợi nhuận thu được từ các

dòng tiền đầu cơ ngắn hạn hiện tại mà Nam Phi đang đối phó kể từ khi tự do hóa tài

khoản vốn của mình. Đây là một kết quả quan trọng bởi vì sự biến động của đồng

Rand có thể dẫn đến những hậu quả về đầu tư và thương mại. Sự phụ thuộc của nền

kinh tế Nam Phi vào vàng và tác động của giá vàng dường như quan trọng hơn trong

một thị trường vốn mở. Như vậy, kết quả nghiên cứu này đặt ra hàng loạt thách thức

đối với các nhà hoạch định chính sách của Nam Phi.

Tại Việt Nam, do hạn chế khi tiếp cận đối với nguồn thông tin cũng như các nghiên

cứu trước đây có liên quan đến đề tài mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái nên

hiện tại vẫn chưa có nghiên cứu tiền đề nào cho mối quan hệ này.

1.5 Đề xuất mô hình phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái

tại Việt Nam

1.5.1 Xây dựng phương trình hồi quy

Kiểm định Granger được sử dụng phổ biến trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa

hai biến X và Y để trả lời cho câu hỏi: X gây ra sự thay đổi của Y hay Y gây ra sự thay

đổi của X hay cả X và Y đều gây ra sự thay đổi lẫn nhau.

15

Theo Granger, nếu X gây ra sự thay đổi của Y thì sự thay đổi của X sẽ có trước sự

thay đổi của Y, tức là phải thỏa mãn 2 điều kiện:

(cid:131) Thứ nhất, nếu X giúp cho việc dự đoán Y thì trong hồi quy của Y đối với các

giá trị trễ của Y và các giá trị trễ của X như là biến giải thích sẽ đóng góp một

cách có ý nghĩa vào khả năng giải thích của mô hình.

(cid:131) Thứ hai, Y không giúp cho việc dự đoán X vì rằng nếu X giúp cho dự đoán của

Y và Y lại giúp cho dự đoán của X thì điều này dường như là sẽ có một biến

khác gây ra sự thay đổi của cả X lẫn Y.

Để phân tích mối quan hệ qua lại (causal relations) giữa X và Y, kiểm định

Granger (Granger causality test) được sử dụng. Trong quan hệ nhân quả Granger,

chúng ta đặt giả thuyết kiểm định X không là nguyên nhân của Y và nếu có thể bác bỏ

giả thuyết này, nó ngụ ý rằng X là nguyên nhân của Y. Ta xây dựng 2 phương trình

sau:

n

m

(1)

X

Y

X

u

=

α

+

β

+

t

i

t

i

j

t

j

t

1

i

j

1

1

=

=

n

m

(2)

Y

Y

X

u

=

λ

+

δ

+

t

i

t

i

j

t

j

2

t

i

1

j

1

=

=

(cid:131) Để kiểm định giả thuyết 1: các biến trễ của Y có giải thích cho X (Y tác động

......

0

=

=

=

nhân quả Granger lên X) ta cần bác bỏ giả thuyết

:0H

αα = 2

1

(cid:131) Để kiểm định giả thuyết 2: các biến trễ của X có giải thích cho Y (X tác động

H

:

......

0

=

=

=

nhân quả Granger lên Y) ta cần bác bỏ giả thuyết

δδ = 2

1

0

δ i

Để kiểm định giả thiết đồng thời này, ta sử dụng thống kê F của kiểm định Wald và

cách quyết định như sau: nếu giá trị thống kê F tính toán lớn hơn giá trị thống kê F phê

phán ở một mức ý nghĩa xác định ta bác bỏ giả thuyết H0 và ngược lại. Có 4 khả năng

như sau:

(cid:131) Nhân quả Granger một chiều từ X sang Y nếu các biến trễ của X có tác động

lên Y, nhưng các biến trễ của Y không có tác động lên X.

(cid:131) Nhân quả Granger một chiều từ Y sang X nếu các biến trễ của Y có tác động

lên X, nhưng các biến trễ của X không có tác động lên Y.

(cid:131) Nhân quả Granger hai chiều giữa X và Y nếu các biến trễ của X có tác động lên

Y và các biến trễ của Y có tác động lên X.

16

Không có quan hệ nhân quả Granger giữa X và Y nếu các biến trễ của X không

có tác động lên Y và các biến trễ của Y không có tác động lên X.

1.5.2 Các kiểm định hỗ trợ

1.5.2.1 Kiểm định nghiệm đơn vị ADF (Augmented Dickey Fuller Test)

Kiểm định Granger yêu cầu các chuỗi số liệu nghiên cứu phải có tính dừng

(stationary). Trong toán học, tính dừng được sử dụng như một công cụ trong phân tích

chuỗi số liệu theo thời gian. Để hình thành một mô hình đầy đủ ý nghĩa thống kê thì

chuỗi số liệu theo thời gian trước tiên cần kiểm tra tính dừng của chuỗi.

Một quá trình có tính dừng là một quá trình ngẫu nhiên, được thể hiện bởi trung

bình mẫu và phương sai của sai số không đổi theo thời gian. Một chuỗi dữ liệu như

vậy sẽ có xu hướng trở về giá trị trung bình và những dao động xung quanh giá trị

trung bình (đo bằng phương sai) sẽ là như nhau. Trong khi đó, nếu một chuỗi thời gian

không dừng sẽ có giá trị trung bình thay đổi theo thời gian hoặc phương sai thay đổi

theo thời gian hoặc cả hai.

Có hai lý do quan trọng khi biết một chuỗi thời gian là dừng hay không. Thứ nhất,

Gujarati (2003) cho rằng nếu một chuỗi thời gian là không dừng chúng ta chỉ có thể

nghiên cứu hành vi của nó trong một khoảng thời gian được xem xét. Vì thế, mỗi một

thời gian sẽ mang một tình tiết nhất định. Kết quả là chúng ta không thể khái quát hóa

cho các giai đoạn khác nhau. Đối với mục đích dự báo, các chuỗi thời gian không

dừng như thế sẽ không có giá trị thực tiễn. Hơn nữa, đối với phân tích hồi quy, nếu

chuỗi thời gian không dừng thường dẫn đến kết quả hồi quy giả mạo, không đáng tin

cậy. Thứ hai, khi biết dữ liệu dừng hay không, chúng ta sẽ giới hạn được số mô hình

dự báo phù hợp nhất cho dữ liệu.

Trên thực tế, hầu hết các chuỗi số liệu kinh tế (chuỗi gốc) đều không dừng. Điều

này được hiểu là các chuỗi thời gian đó có trung bình mẫu và phương sai thay đổi theo

thời gian. Nhưng khi ta lấy sai phân thì các chuỗi thời gian thường trở thành chuỗi

dừng. Chúng ta có thể biến chuỗi thời gian từ không có tính dừng thành có tính dừng

bằng cách lấy sai phân của nó.

Vì vậy, trước khi sử dụng kiểm định Granger, kiểm định nghiệm đơn vị (Unit root

test) được sử dụng để kiểm tra tính dừng của chuỗi dữ liệu này. Để kiểm tra tính dừng

của các chuỗi số liệu theo thời gian, chúng ta có thể sử dụng nhiều phương pháp khác

17

nhau, chẳng hạn như: Kiểm định Dickey – Fuller (DF), kiểm định Augmented Dickey

Fuller (ADF) và kiểm định Phillips – Person (PP). Trong nghiên cứu này, kiểm định

ADF được sử dụng để kiểm định tính dừng của chuỗi giá vàng và tỷ giá USD/VND.

Khi thực hiện kiểm định tính dừng ADF, mỗi biến được hồi quy theo 1 hằng số, một

tuyến thời gian nhất định, một biến trễ phụ thuộc và các biến trễ của sai phân bậc nhất

của biến. Phương trình kiểm định ADF có dạng như sau :

k

y βα +

+

y φ Δ

+

(1)

y =Δ t

t

t

j

ε t

0

1 −

j

1 =

k

+

+

+

y φ Δ

+

(2)

y =Δ t

y βδα t

t

t

j

ε t

0

1 −

j

1 =

Mô hình (2) khác với mô hình (1) là có thêm biến xu hướng về thời gian δt. Các ký

hiệu trong mô hình (1) và (2) được giải thích như sau:

y

t

y 1−− t

chuỗi số liệu theo thời gian đang xét

:ty

k : chiều dài độ trễ (lag time)

:tε nhiễu trắng

Vì kết quả của kiểm định ADF rất nhạy cảm với sự lựa chọn chiều dài độ trễ (k)

nên tiêu chuẩn thông tin được phát triển bởi Akaike (Akaike Information Criterion –

AIC) được sử dụng để chọn lựa k tối ưu cho mô hình ADF (giá trị k được lựa chọn sao

cho AIC nhỏ nhất). Giả thuyết H0 (Null Hypothesis) trong kiểm định ADF là tồn tại

một nghiệm đơn vị (β=0) và nó sẽ bị bác bỏ nếu giá trị kiểm định ADF lớn hơn giá trị

tới hạn của nó. Trong kiểm định ADF, giá trị kiểm định ADF không theo phân phối

chuẩn, vì vậy giá trị tới hạn được dựa trên bảng giá trị tính sẳn của Mackinnon (1991).

So sánh giá trị kiểm định ADF với giá trị tới hạn của Mackinnon chúng ta sẽ có được

kết luận về tính dừng cho các chuỗi quan sát.

1.5.2.2 Kiểm định đồng liên kết

Chúng ta sẽ được biết rằng khi hồi quy các chuỗi thời gian không dừng thường dẫn

(1987) cho rằng nếu kết

đến kết quả hồi quy giả mạo. Tuy nhiên, Engle và Granger

hợp tuyến tính của các chuỗi thời gian không dừng có thể là một chuỗi dừng và các

chuỗi thời gian không dừng đó được cho là đồng liên kết. Kết hợp tuyến tính dừng

được gọi là phương trình đồng liên kết và có thể được giải thích như mối quan hệ cân

18

bằng dài hạn giữa các biến. Nói cách khác, nếu phần dư trong mô hình hồi quy giữa

các chuỗi thời gian không dừng là một chuỗi dừng, thì kết quả hồi quy là thực và thể

hiên mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến trong mô hình. Mục đích của kiểm

định đồng liên kết là xác định xem một nhóm các chuỗi không dừng có đồng liên kết

hay không.

Có hai cách kiểm định là: kiểm định nghiệm đơn vị phần dư và kiểm định đồng

liên kết dựa trên phương pháp VAR của Johasen. Tuy nhiên, trong mô hình này chúng

ta dựa trên phương pháp VAR của Johasen. Kiểm định này chỉ có hiệu lực khi ta đang

xét các chuỗi thời gian không dừng. Phương pháp này sử dụng quy trình khả năng tối

đa (maximum likelihood procedure) để ước lượng và quyết định sự hiện diện của

vector đồng liên kết trong hệ thống vector tự tương quan (VAR) Johansen test, hoặc

dựa vào kiểm định vết ma trận (trace) và kiểm định giá trị riêng cực đại của ma trận

(maximal eigenvalue) để khẳng định có tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa các biến lựa

chọn trong mô hình, hai phương pháp này tương đương nhau.

1.5.2.3 Mô hình vector hiệu chỉnh sai số VECM ( vector error correction model)

Quan hệ nhân quả Granger theo thời gian theo thời gian có thể được xác định thông

qua VECM xuất phát từ các vector đồng liên kết trong dài hạn. Engel và Granger

(1987) khẳng định rằng nếu có một cân bằng hay mối quan hệ đồng liên kết giữa các

biến không dừng, chắc chắn phải tồn tại một sự biểu thị hiệu chỉnh sai số của số liệu.

Engel và Granger chỉ ra rằng nếu tồn tại một mối quan hệ đồng liên kết thì một hồi

quy OLS đơn giản cũng có thể cung cấp những ước lượng phù hợp cho các hệ số cân

bằng dài hạn. Khi đó, phần dư từ ước lượng dài hạn có thể được sử dụng như hệ số

hiệu chỉnh sai số (error correction) để giải thích các trạng thái ngắn hạn. Như vậy, mô

hình VECM bên cạnh việc chỉ ra hướng của quan hệ nhân quả đồng thời còn phân biệt

được quan hệ nhân quả Granger trong ngắn hạn và dài hạn.

Với mô hình 2 biến Y1 và Y2:

E

Δ

+

+

Y =Δ 1

+ ββ 2

1

Y 2

t

β 3

t

ε t

−1

Số hạng

1

3

−tEβ là phần mất cân bằng. Mô hình trên được gọi là mô hình hiệu chỉnh

sai số VECM. Đó là mô hình ước lượng sự phụ thuộc của Y1 vào mức thay đổi của Y2

và mức cân bằng của kỳ trước.

19

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương 1 là chương đầu tiên của luận văn đề cập cơ sở lý luận về mối quan hệ

giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái. Ngoài các khái niệm cơ bản, nội dung của chương

còn phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái cũng như các nghiên cứu

tiền đề có liên quan đến mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái. Từ đó, đề xuất

mô hình phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái tại Việt Nam nhằm tạo

cơ sở ban đầu cho việc phân tích thực trạng và kiểm định mối quan hệ này trong

chương 2.

20

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ

VÀNG VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TẠI VIỆT NAM

2.1 Phân tích thực trạng thị trường vàng Việt Nam

2.1.1 Cơ chế hình thành giá vàng trong nước

Trong ngành kim hoàn ở Việt Nam, đơn vị yết giá của thị trường vàng trong nước

là VND/lượng hoặc VND/chỉ.

- Một lượng vàng nặng 37,50 gram.

- Một chỉ vàng bằng 1/10 lượng vàng.

Trên thị trường thế giới, vàng thường được tính theo đơn vị ounce hay troy ounce.

1 ounce tương đương 31.103476 gram. Vậy :

- 1 ounce = 0.83 lượng

- 1 lượng = 1.20556 ounce

- 1 lượng = 37,5 gram

Giá vàng trong nước bị tác động bởi giá vàng thế giới, nên công thức quy đổi giá

vàng thế giới (từ đơn vị tính USD/Oz) sang giá vàng trong nước (đơn vị tính

VND/lượng):

Giá vàng quy đổi

= (Giá thế giới + Chi phí vận chuyển + Phí bảo hiểm)*(1+Thuế

NK)*1,20556 *Tỷ giá USDVND + Phí gia công + Phí hải quan

⎯ Chi phí vận chuyển ước tính: 0,75 USD/ounce

⎯ Phí bảo hiểm ước tính: 0,25 USD/ounce

⎯ Thuế nhập khẩu vàng: 1%

⎯ Phí gia công vàng miếng là 60.000 đồng/lượng, do công ty vàng SJC

thông báo theo từng thời kỳ.

Giá vàng giao dịch được xác định trên cơ sở quy đổi từ giá vàng quốc tế, cộng

thêm 1 khoảng chênh lệch hợp lý. Mặc dù thị trường trong nước có nhiều thương hiệu

vàng miếng lưu thông như: vàng miếng Phượng hoàng PNJ Đông Á Bank, vàng miếng

Thần tài SBJ, vàng miếng Bảo Tín Minh Châu, vàng miếng AAA của Công ty vàng

Ngân hàng Agribank, nhưng vàng miếng SJC được thị trường giao dịch nhiều nhất và

có giá cao hơn so với các thương hiệu còn lại. Do đó, giá niêm yết của Công ty vàng

21

bạc đá quý Sài Gòn cùng một số ngân hàng mạnh về kinh doanh vàng miếng SJC có

khả năng chi phối và điều tiết thị trường.

Sau khi quyết định 16/2013/QĐ-TTg điều chỉnh hoạt động mua bán vàng miếng

trên thị trường trong nước của Ngân hàng Nhà nước với tổ chức tín dụng, doanh

nghiệp được phép kinh doanh mua bán vàng miếng thì giá tham chiếu, giá sàn, giá

trúng thầu thấp nhất, giá trúng thầu cao nhất trong các phiên đấu thầu tác động mạnh

mẽ đến giá thị trường. Vì nguồn vàng đấu thầu từ NHNN là nguồn cung lớn duy nhất

ra thị trường.

2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng trong nước

2.1.2.1 Giá vàng thế giới

Thị trường vàng trong nước là một thị trường khá nhỏ bé so với thị trường vàng thế

giới, do đó giữa giá vàng thế giới và giá vàng trong nước có mối quan hệ cùng chiều.

Khi giá vàng thế giới tăng dẫn đến giá vàng trong nước tăng và ngược lại.

2.1.2.2 Tỷ giá USD/VND

Đơn vị yết giá của thị trường vàng thế giới là USD/ounce, khi quy đổi từ giá vàng

quốc tế có tính toán đến tỷ giá USD/VND, vì vậy biến động tỷ giá USD/VND sẽ cùng

chiều với giá vàng trong nước. Mặt khác, muốn nhập vàng nguyên liệu theo đường

chính ngạch hay tiểu ngạch thì phải cần đồng USD để thanh toán nên tỷ giá USD/VND

cũng là một nhân tố tác động đến giá vàng trong nước.

2.1.2.3 Biến động nguồn cung – cầu vàng trên thị trường

Vàng cũng là một loại hàng hóa, do đó dao động giá của vàng phải được xem xét

dựa trên các yếu tố tác động của cung và cầu.

(cid:153) Nguồn cung vàng

Trước đây, nguồn cung vàng của Việt Nam hàng năm chính là nguồn vàng nhập

khẩu. Tuy nhiên, nguồn cung này lại phụ thuộc vào hạn ngạch do Ngân hàng Nhà

nước cấp phép nên đáp ứng chậm so với nhu cầu, đẩy giá vàng lên cao, tạo điều kiện

cho đầu cơ và buôn lậu vàng.

Tháng 10/2011, NHNN cho phép 5 ngân hàng thương mại cùng công ty vàng bạc

đá quý Sài Gòn được chuyển đổi vàng tồn quỹ và mở tài khỏan vàng nước ngòai để

tăng cung cho thị trường nhằm góp phần bình ổn giá vàng trong nước. Tuy nhiên,

tháng 6/2013 các ngân hàng buộc phải ngừng huy động vàng và tất toán hết trạng thái

22

tài khỏan nước ngoài. Thay vào đó, NHNN tổ chức đấu thầu vàng miếng với các công

ty kinh doanh vàng và các TCTD nhằm bổ sung nguồn cung cho thị trường thông qua

khối lượng chào thầu.

Mặt khác, thị trường trong nước giao dịch vàng vật chất, do đó khi công ty vàng

bạc đá quý SJC không đáp ứng nhu cầu gia công vàng của các ngân hàng và giới kinh

doanh vàng thì giá vàng có thể tăng mạnh do nguồn cung vàng khan hiếm.

(cid:153) Nguồn cầu vàng

Nhu cầu vàng trên thị trường bao gồm nhu cầu trang sức, nhu cầu sản xuất và nhu

cầu đầu tư. Trong đó, nhu cầu về đầu tư và đầu cơ có tác động mạnh đến giá vàng.

2.1.2.4 Chính sách của NHNN

(cid:153)

Chính sách điều hành lãi suất

Khi lãi suất biến động sẽ tác động đến xu hướng của người dân trong việc nắm giữ

tài sản dự trữ. Việc giảm lãi suất huy động bằng VNĐ tất nhiên dòng tiền trong nền

kinh tế ngay lập tức sẽ dịch chuyển từ kênh huy động của ngân hàng sang thị trường

vàng, giá vàng tăng do lực cầu gia tăng.

(cid:153) Quy định về việc nhập khẩu vàng của Ngân hàng Nhà nước

Việc cấp hạn ngạch nhập khẩu vàng là một biện pháp quản lý hành chính trong

việc quản lý thị trường vàng. Biện pháp này được NHNN đưa ra nhằm kiểm soát ngoại

hối có liên quan đến việc điều hành tỷ giá. Tuy nhiên việc cấp hạn ngạch nhập khẩu

vàng gây chậm trễ trong việc bổ sung nguồn cung, tạo điều kiện cho buôn lậu và đầu

cơ vàng thu lợi.

(cid:153) Quy định về thuế đối với vàng xuất khẩu

Việt Nam vẫn hạn chế xuất khẩu vàng miếng và nguyên liệu thông qua cơ chế cấp

hạn ngạch. Khi giá vàng trong nước biến động, thấp hơn giá vàng thế giới, người dân

không nhận được đầy đủ thông tin, do vậy giá vàng vừa lên đã bán theo số đông, trong

khi doanh nghiệp xuất khẩu thấy chênh lệch hấp dẫn là lập tức gom vàng xuất khẩu.

Theo tâm lý chung, khi giá vàng chỉ diễn tiến theo chiều lên, những người bán trước

đây sẽ cảm thấy bị thua lỗ vì đã bán vàng ở mức giá thấp hơn hiện tại, dẫn đến hành vi

mua vàng. Trong khi đó, thị trường trong nước lại khan hàng do đã xuất khẩu quá

nhiều, nên giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới, kích thích hoạt động nhập

lậu, tạo ra vòng luẩn quẩn và làm giá vàng trong nước biến động, khó kiểm soát.

23

(cid:153) Hoạt động quản lý kinh doanh vàng của NHNN

Cuối tháng 11/2011, NHNN cho phép công ty SJC độc quyền sản xuất và cung cấp

vàng miếng vì SJC hiện chiếm 90% thị phần vàng miếng trên thị trường. Kể từ thời

điểm đó, giá vàng miếng SJC luôn cao hơn các thương hiệu vàng miếng khác, khoảng

cách giá lên đến hàng triệu đồng/lượng. Đến tháng 4/2012 khi Nghị định 24 về sản

xuất kinh doanh vàng chính thức được ban hành, không phân biệt đổi xử vàng miếng

thương hiệu SJC với các loại vàng miếng khác, nhưng người dân không tin dùng các

loại vàng miếng phi SJC như trước nữa, vàng miếng phi SJC bị bán với giá thấp hơn

đến hàng triệu đồng mỗi lượng. Điều này chứng tỏ, sức ép của lòng tin và tác động của

chính sách quản lý thị trường vàng đối với mặt hàng này là rất lớn.

Nhằm hạn chế rủi ro, đồng thời để thực hiện chủ trương xóa bỏ tình trạng vàng hóa

trong nền kinh tế tiến tới chuyển hóa quan hệ huy động và cho vay vốn bằng vàng

sang quan hệ mua bán vàng, Ngân hàng Nhà nước đã ra văn bản chấm dứt hoạt động

này (Thông tư 11 và sau đó là Thông tư 12 sửa đổi, bổ sung). Việc chấm dứt huy động,

cho vay vốn bằng vàng cùng với việc quy định trạng thái của ngân hàng dương không

quá 2% của vốn tự có, nguồn vốn hậu thuẫn cho hoạt động đầu cơ từ tín dụng đã bị cắt

bỏ, lực đầu cơ bị hạn chế nhất định.

2.1.2.5 Tâm lý của thị trường

Thị trường trong nước nhạy cảm với những tin đồn có liên quan đến giá vàng. Dao

động tâm lý của người dân có thể khiến những nhà kinh doanh vàng đẩy giá lên xuống,

tức là hiện tượng đầu cơ làm giá để trục lợi.

2.1.3 Mối quan hệ giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới

Giá vàng trong nước được xác định bằng cách quy đổi từ giá vàng quốc tế. Do

chúng ta mua vàng vật chất qua tài khoản ở nước ngoài, chuyển từ vàng tài khoản sang

vàng vật chất cần chi phí nhất định, khi về Việt Nam sẽ phải cộng thêm các khoản phí,

thuế, bảo hiểm...Mặt khác, giá vàng thế giới lấy tham khảo là mức giá bán buôn cho

các nhà đầu tư, trong khi giá vàng trong nước quy đổi thường là giá bán lẻ cho người

tiêu dùng. Ngoài ra, tuổi vàng cũng là yếu tố được xem xét đến khi đối chiếu giá trong

nước với giá quốc tế. Sau khi tính tất cả các yếu tố để cấu thành lên giá thì giá vàng

trong nước sẽ bằng giá quốc tế quy đổi cộng thêm 1 khoảng chênh lệch hợp lý, được

24

gọi là chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá quốc tế quy đổi. Điều này xuất phát

từ chính lý luận về tiền tệ cũng như là trong thực tiễn.

Về lý luận tiền tệ, đồng tiền của Việt Nam là đồng tiền chưa chuyển đổi, chế độ

quản lý ngoại hối của nước ta tương đối chặt nên giữa thị trường ngoại hối trong nước

và thị trường ngoại hối nước ngoài là không liên thông. Vàng về bản chất là ngoại tệ,

vì bản chất chúng ta không sản xuất vàng mà vàng là nhập khẩu. Do vậy dẫn tới việc

chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới.

Về thực tiễn, nước ta không phải là nước sản xuất vàng trong khi nhu cầu nắm giữ

vàng để tích trữ tài sản theo thói quen, tập tục lâu đời hoặc để trú ẩn, bảo toàn giá trị

khi rủi ro trong lên kinh tế gia tăng, luôn tồn tại, do đó tất cả nhu cầu vàng trong nước

đều phải thông qua việc xuất ngoại tệ, nhập khẩu vàng. Trong điều kiện nền kinh tế

Việt Nam, chúng ta ưu tiên mục tiêu xuyên suốt là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát

lạm phát, ổn định tỷ giá và các hoạt động bình thường của thị trường ngoại tệ. Đây là

những lý do mà Ngân hàng Nhà nước luôn cân nhắc thận trọng mỗi khi cấp phép nhập

khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. Thực tế là hiện nay thị trường Việt

Nam có phần tách biệt với thị trường thế giới, chúng ta không có đủ dự trữ ngoại tệ để

có thể nhập khẩu vàng tạo trạng thái tiệm cận giữa 2 thị trường.

Chênh lệch này có thể có lúc cao, có thể có lúc thấp và khá khó định lượng, bởi mức

tuyệt đối còn phụ thuộc vào kỳ vọng và ý chí của người dân trong việc nắm giữ vàng ở

các thời kỳ khác nhau. Không thể đòi hỏi giá vàng trong nước bằng giá thế giới mà chỉ

là sát với giá thế giới. Tuy nhiên, nếu khoảng cách này quá cao và diễn ra trong suốt

một thời gian dài mà không hề có sự can thiệp điều chỉnh hợp lý thì tất yếu sẽ xảy ra

tình trạng buôn lậu. Và lúc này ảnh hưởng đến tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do.

2.1.4 Hình thức kinh doanh vàng ở Việt Nam

Từ năm 2006 đến đầu năm 2010, kinh doanh vàng qua tài khoản được phép và diễn

ra rất sôi động với mức ký quỹ thấp (7%) trên các sàn giao dịch đơn lẻ trong nước, do

một số ngân hàng, công ty hoặc tổ chức kinh doanh vàng thành lập, quản lý, một số

ngân hàng thương mại cũng được kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài. Tuy

nhiên tháng 3 năm 2010, khi Chính phủ cấm sàn giao dịch và kinh doanh vàng qua tài

khoản, các giao dịch trên thị trường vàng trong nước hiện nay là giao dịch vàng vật

25

chất và không được huy động dưới hình thức phát hành các chứng chỉ huy động ngắn

hạn.

Nghị định 24 ban hành, các ngân hàng không được phép huy động vàng, gần đây

chỉ 1 số ngân hàng thương mại được phép triển khai các dịch vụ thuê két, tủ sắt hay

giữ hộ, cùng với việc chỉ được phép giao dịch mua bán vàng vật chất thì có thể kết

luận thị trường vàng Việt Nam lạc hậu và tốn kém rất nhiều chi phí. Việc mua bán

vàng trên thị trường liên ngân hàng, các ngân hàng phải điều quỹ giao nhận, mua bán

phải thanh tóan theo đúng giao dịch, không được phép cấn trừ tiền VND thanh toán vì

sẽ bị hiểu nhầm là mua bán vàng tài khỏan.

Nếu như trước đây, vào thời điểm các sàn vàng họat động công khai, nghiệp vụ

phái sinh về vàng như kỳ hạn, quyền chọn được phép triển khai thì hiện nay, các ngân

hàng thương mại không được phép cung cấp các sản phẩm phái sinh về vàng, chỉ được

phép kinh doanh vàng giao ngay (Spot), nghĩa là việc thanh toán được thực hiện trong

vòng 2 ngày làm việc. Kinh doanh vàng phi vật chất qua tài khoản tại các sàn giao

dịch vàng là hình thức kinh doanh phù hợp với xu hướng quốc tế, làm giảm nhu cầu

kinh doanh vàng vật chất và tạo một kênh lưu thông hiệu quả giữa thị trường trong

nước và thị trường thế giới. Như vậy, thị trường vàng Việt Nam là một thị trường nhỏ,

giao dịch vàng vật chất giao ngay, một thị trường giao dịch lạc hậu so với thế giới.

2.1.5 Một số rủi ro trong họat động kinh doanh vàng hiện nay

Tại Việt Nam, kinh doanh vàng vật chất phổ biến và mang tính truyền thống. Hiện

có khoảng 13 cơ sở sản xuất vàng miếng với những thương hiệu riêng biệt, trong đó có

3 thương hiệu vàng miếng lớn nhất là: SJC, SBJ và vàng Rồng Thăng Long. Tuy nhiên,

việc NHNN đưa vàng SJC trở thành thương hiệu vàng miếng quốc gia nhằm điều tiết

và ổn định thị trường đã tạo sự phân biệt giữa vàng SJC với vàng phi SJC. Khoảng

cách chênh lệch giữa giá vàng miếng SJC và vàng miếng phi SJC là hơn 1 triệu

đồng/lượng, ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân, nhà đầu tư, doanh nghiệp nắm

giữ vàng phi SJC.

Về mặt lý thuyết, điều này tạo điều kiện dễ dàng, thuận lợi cho công tác quản lý.

Song trên thực tế, đã xuất hiện vàng SJC giả, vàng nhái kém chất lượng. Nếu trên thị

trường có nhiều thương hiệu thì tình trạng này đã không xảy ra. Vàng SJC gia công

không đủ bán khiến giá vàng tăng vù vù, người mua đổ xô vào vàng SJC tạo nên sự

26

khan hiếm giả tạo, bởi cầu nhiều nhưng cung thiếu. Người có vàng SJC phải chờ xếp

hàng kiểm tra để đóng dấu, còn người không sở hữu vàng thương hiệu này phải chịu

mất phí để chuyển đổi sang vàng SJC. Mặt khác, để tránh tình trạng vàng nhái thương

hiệu SJC, công ty SJC liên tục thay đổi mẫu mã bao bì, khi mẫu bao bì mới xuất hiện,

thị trường không giao dịch mẫu bao bì cũ. Tiệm vàng quay sang ép giá mua vàng phi

SJC của người dân. Ngay vàng SJC bao bì cũ, móp méo, cong vênh cũng bị tiệm vàng

từ chối mua, đến Công ty Vàng bạc Đá quý Sài Gòn có lúc cũng không thu lại vàng

của chính mình. Đến cuối năm 2012, theo số liệu của riêng Công ty SJC, đã có hơn

300 lượng vàng nhái, giả thương hiệu SJC được phát hiện. Không chỉ người mua vàng,

cả NHTM cũng bị rủi ro vàng SJC nhái. Thực tế, xưa nay người dân mua vàng miếng

theo tuổi vàng hay mua vàng trang sức theo kiểu dáng và giá trị gia tăng nhờ chế tác

tinh xảo, mua theo thương hiệu cũng có nhưng không phải là chính. Như vậy, rủi ro

trong họat động kinh doanh vàng hiện nay xuất phát từ việc thay đổi chính sách quản

lý thị trường này của NHNN.

Hoạt động của các sàn giao dịch vàng chính thức bị cấm dưới mọi hình thức từ

ngày 30/3/2010 theo thông báo số 369/TB-VPCP, dẫn đến hậu quả là xuất hiện các sàn

giao dịch vàng không chính thống. Do đó, tồn tại song song với thị trường vàng vật

chất là họat động kinh doanh vàng tài khỏan, tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho nhà đầu tư.

Đồng thời hoạt động của các sàn giao dịch vàng tiềm ẩn một số yếu tố có thể gây bất

ổn kinh tế xã hội.

(cid:153) Rủi ro pháp lý

Khi tham gia giao dịch vàng tài khỏan ở nước ngoài, quyền lợi pháp lý của nhà

đầu tư sẽ không được ai bảo vệ. Trường hợp xảy ra tranh chấp, chủ yếu là giải quyết

dựa trên sự thỏa thuận của hai bên vì giao dịch này là bất hợp pháp nên được coi

không phát sinh nếu kiện ra tòa, không có hành lang pháp lý bảo vệ nhà đầu tư.

(cid:153) Rủi ro thị trường

Thực tế các nhà đầu tư kinh doanh vàng tài khỏan đều sử dụng đòn bẩy, đây là con

dao hai lưỡi cùng với đó là mua bán khống vàng, nhà đầu tư sẽ phải trả phí, lãi vay qua

đêm…Mặt khác, họ khó kiểm soát giới hạn lỗ, nếu như tỷ lệ ký quỹ giảm xuống dưới

mức tỷ lệ cảnh báo mà không nộp tiền ký quỹ bổ sung, trạng thái sẽ bị xử lý theo giá

thị trường thời điểm đó.

27

(cid:153) Rủi ro về kỹ thuật công nghệ

Sự cố sập mạng máy chủ thường xảy ra, nhiều công ty còn dùng các biện pháp kỹ

thuật để can thiệp vào giao dịch, gây thiệt hại cho người chơi.

Dù kinh doanh vàng vật chất hay tài khoản cũng phải chấp nhận sự biến động thất

thường của vàng dưới tác động đa dạng của nhiều nhân tố có liên quan như: tình hình

kinh tế, chính trị, chiến tranh thế giới, giá dầu, giá ngoại tệ… Không ít nhà đầu tư

không nắm bắt chính xác xu thế diễn biến giá vàng dẫn đến thua lỗ.

2.1.6 Cơ chế điều hành thị trường vàng giai đọan 2008-2013

Cơ chế điều hành thị trường vàng trong nước được đặc trưng qua 3 giai đọan :

(cid:153) Giai đoạn 2008-2009

Trong giai đoạn này mặc dù nhà nước không cấp phép, nhưng các quy định của

pháp luật về quản lý thị trường vàng còn chưa đầy đủ, nên các sàn vàng đã hình thành

một cách tự phát và phát triển rất nhanh. Mặt khác cũng không có các quy định quản

lý, kiểm soát hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng, vàng miếng được coi là hàng

hóa thông thường. Do đó, hoạt động mua bán vàng miếng được thực hiện tự do tại

khoảng 12.000 doanh nghiệp kinh doanh vàng, dẫn đến vàng miếng dần dần trở thành

phương tiện thanh toán, khó quản lý. Trong nhiều thời kỳ, khi giá vàng thế giới biến

động mạnh, nhiều đối tượng có hành vi làm giá, đầu cơ gây khan hiếm cung giả tạo,

đồng thời tung tin đồn gây nên các cơn sốt vàng làm cho người dân đổ xô đi mua vàng.

Khi chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới ở mức trên 400 nghìn

đồng/lượng, trên thị trường thường xuất hiện tình trạng nhập khẩu vàng lậu. Trong

thời gian này theo thống kê mỗi năm nhập khẩu chính thức khoảng 40-60 tấn vàng và

nhập lậu vàng cũng khoảng 50-60 tấn vàng.

Nét đặc trưng của giai đoạn này là chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng

thế giới rất thấp thế nhưng thị trường vàng trong nước bất ổn, thường xuyên có các

cơn sốt vàng, người dân đổ xô đi mua, bán vàng, hoạt động đầu cơ trên thị trường diễn

ra mạnh mẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường ngoại hối và tỷ giá. Chính vì

vậy mà năm 2009 Chính phủ đã chính thức cấm và chấm dứt hoạt động của các sàn

vàng, hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài.

(cid:153) Giai đoạn 2010-2011

28

Trong giai đoạn này các sàn vàng đã chấm dứt hoạt động, kinh doanh vàng trên tài

khoản ở nước ngoài đã bị nghiêm cấm, mỗi năm nhập khẩu chính thức khoảng 40-60

tấn vàng, nhập lậu vàng cũng khoảng 40-60 tấn.

Nét đặc trưng của giai đoạn này là chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới nhìn

chung vẫn ở mức thấp nhưng trung bình cao hơn nhiều so với giai đoạn trước, bất ổn

của thị trường vàng và những tác động tiêu cực của nó đối với tỷ giá vẫn diễn ra nhưng

mức độ thấp hơn nhiều so với giai đoạn trước. Chính sách cho phép tổ chức tín dụng

được huy động và cho vay vốn bằng vàng nảy sinh nhiều bất cập trong bối cảnh giá

vàng thế giới và trong nước biến động tăng mạnh.

Việc cho phép huy động, cho vay vàng và chuyển đổi vàng thành tiền gián tiếp dẫn

tới tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế, làm gia tăng tình trạng đầu cơ vàng, nắm giữ

vàng trong nền kinh tế và rủi ro lớn cho chính TCTD và người vay vàng.

(cid:153) Giai đoạn 2012-nay

Đây là giai đoạn khuôn khổ pháp lý mới được xây dựng và có hiệu lực thi hành.

Trên cơ sở các định hướng của Chính phủ về quản lý thị trường vàng, các mục tiêu,

yêu cầu đặt ra, một khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng đã được xây

dựng và ban hành, bao gồm:

(cid:131) Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 03/04/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt

động kinh doanh vàng và các Thông tư hướng dẫn đi kèm. Nghị định 24 khẳng định:

“Quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức, cá nhân được công nhận và bảo vệ theo

quy định của pháp luật” (mục 1, điều 4 Nghị định 24). Các nội dung quy định khác

của Nghị định đều nhằm thực thi và bảo vệ quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức

và cá nhân. Đồng thời thiết lập được một mạng lưới mua bán vàng miếng có tổ chức

có quản lý, gồm 38 tổ chức tín dụng và doanh nghiệp có đủ điều kiện được Ngân hàng

Nhà nước cấp phép kinh doanh vàng miếng, với gần 2.500 điểm giao dịch ở tất cả 63

tỉnh, thành phố trong cả nước. Các địa điểm kinh doanh mua, bán vàng miếng được

cấp phép và phải niêm yết công khai giá mua, giá bán vàng miếng; chấp hành các quy

định của pháp luật về chế độ kế toán, lập và sử dụng hóa đơn, chứng từ, chất lượng,

mẫu mã và thường xuyên được thanh tra, kiểm tra. Nghị định 24 quy định Nhà nước

độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng

nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; kể từ ngày 25/05/2012 không tổ chức, cá nhân

29

nào được quyền sản xuất vàng miếng. Đây là biện pháp quan trọng để kiểm soát chặt

chẽ hoạt động sản xuất vàng miếng, lượng cung vàng miếng trên thị trường và ngăn

chặn tình trạng sản xuất vàng miếng từ vàng nguyên liệu nhập lậu cũng như tạo

điều kiện để kiểm soát vàng nhập lậu.

(cid:131) Nghị định 95/2011/NĐ-CP ngày 20/10/2011 của Chính phủ về xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ và vàng.

(cid:131) Thông tư số 11/2011/TT-NHNN ngày 29/4/2011 về chấm dứt huy động và cho

vay vốn bằng vàng của TCTD và Thông tư số 12/2012/TT-NHNN về việc sửa đổi, bổ

sung Thông tư số 11/2011/TT-NHNN nhằm thực hiện chủ trương xóa bỏ tình trạng

vàng hóa trong nền kinh tế tiến tới chuyển hóa quan hệ huy động và cho vay vốn bằng

vàng sang quan hệ mua, bán. Khắc phục bất cập của việc cho phép các TCTD huy

động, cho vay và chuyển đổi vàng thành tiền trước đây, hạn chế rủi ro cho các TCTD,

người dân; thực hiện chủ trương xóa bỏ tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế; chuyển

quan hệ huy động, cho vay vốn bằng vàng sang quan hệ mua, bán vàng, trong năm

2011 và 2012, NHNN đã kiên quyết chỉ đạo chấm dứt hoạt động này. Đồng thời,

NHNN đã triển khai các giải pháp đồng bộ như xây dựng lộ trình chấm dứt huy động

và cho vay vốn bằng vàng của các TCTD, giám sát chặt chẽ, xử lý các vấn đề phát sinh

nhằm đẩy nhanh quá trình chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng. Toàn bộ

hoạt động cho vay vốn bằng vàng đã chấm dứt vào 01/5/2011 và hoạt động huy động

vốn bằng vàng đã chấm dứt vào ngày 25/11/2012.

(cid:131) Ngoài ra NHNN cũng quy định các TCTD không được giữ trạng thái vàng vượt

quá 2% so với vốn tự có và không được duy trì trạng thái âm vàng. NHNN cũng

nghiêm cấm các TCTD cho vay để kinh doanh vàng miếng. Những quy định trên đã có

tác dụng rất quan trọng trong việc ngăn chặn đầu cơ cũng như hạn chế rủi ro trong

hoạt động kinh doanh vàng miếng.

(cid:131) NHNN bắt đầu tổ chức đấu thầu vàng miếng từ ngày 28/3/2013 để giảm bớt

mất cân đối cung cầu.

Nét đặc trưng của giai đoạn này là chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới

ở mức cao và cao hơn nhiều so với 2 giai đoạn trước đây và duy trì trong một thời gian

dài chứ không còn giới hạn trong một vài lần sốt giá như những năm trước. Nguyên

nhân cơ bản là do:

30

- Cơ chế cấp quota nhập khẩu của NHNN Việt Nam khiến cho biến động giá

vàng trong nước không tương ứng với biến động giá vàng thế giới.

- Giá trên thế giới biến động quá lớn nên các doanh nghiệp kinh doanh vàng phải

nới rộng khoảng cách với giá vàng thế giới để phòng ngừa rủi ro.

- Tình trạng đầu cơ, cả đầu cơ giá lên và đầu cơ giá xuống làm cho biên độ biến

động giá vàng trong nước rất lớn nhưng vẫn được thị trường chấp nhận.

Mặt khác, NHNN sử dụng thương hiệu vàng miếng SJC và lựa chọn Công ty SJC

gia công vàng miếng cho NHNN vì những lý do:

- SJC là thương hiệu có uy tín, được thị trường chấp nhận và chiếm khối lượng

tuyệt đối trong lưu thông (khoảng 90%), các doanh nghiệp, TCTD được cấp

phép nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng đều thuê Công ty

SJC gia công thành vàng miếng SJC.

- Tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và xã hội, không phải bỏ nhiều vốn đầu tư để

xây dựng thương hiệu, mua máy móc, thiết bị.

- Năng lực sản xuất vàng miếng của Công ty SJC phù hợp với nhu cầu gia công

của NHNN. Trên thị trường, trong số 8 doanh nghiệp được cho phép sản xuất

vàng miếng trước khi Nghị định 24 có hiệu lực, Công ty SJC là đơn vị có năng

lực sản xuất vàng miếng lớn nhất. Theo đánh giá của NHNN và các chuyên gia

trong lĩnh vực kinh doanh vàng, cũng như thực tế diễn biến của thị trường, năng

lực gia công vàng miếng của SJC hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu vàng miếng

của thị trường.

Đồng thời có sự phân biệt đối xử vàng miếng theo thương hiệu, chứ không theo

hàm lượng vàng. Đặc biệt, trong những ngày cuối năm 2011 còn xuất hiện tình trạng

chưa từng có trên thị trường vàng Việt Nam là sự chênh lệch giá giữa các loại vàng

miếng trong nước. Cùng là vàng 9999, nhưng chênh lệch cả triệu đồng một lượng.

Độc quyền vàng để khắc phục tình trạng đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép và bảo

đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Việc độc quyền thị trường vàng của

Ngân hàng Nhà nước làm phát sinh bất cập trên. Tuy nhiên, thị trường vàng ổn định,

hoạt động đầu cơ bị đẩy lùi, không còn hiện tượng làm giá, tạo sóng để kiếm lời,

không còn cảnh người dân đổ xô đi mua vàng, hiện tượng vàng hóa được kiềm chế

31

và đầy lùi, thị trường vàng không còn ảnh hưởng mạnh lên thị trường ngoại hối như

trước đây, tỷ giá ổn định.

2.2 Phân tích thực trạng thị trường ngọai tệ

2.2.1 Nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường ngoại tệ còn hạn chế

Mặc dù các công cụ phái sinh nhằm mục đích bảo hiểm rủi ro tỷ giá trên thị trường

ngoại tệ đã được triển khai từ lâu nhưng vẫn chưa phát huy được hiệu quả, tồn tại một

số bất cập:

- Các giao dịch mua bán ngoại tệ tại NHTM Việt Nam chủ yếu là giao dịch giao

ngay.

- Số lượng NHTM Việt Nam triển khai công cụ tài chính phái sinh tiền tệ còn

quá ít, dẫn đến doanh số thực hiện công cụ tài chính phái sinh tiền tệ chiếm tỷ

trọng thấp.

- Các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ đã triển khai tại một số NHTM Việt Nam

chưa phong phú, chưa đa dạng, chưa tạo nhiều tiện ích nên chưa hấp dẫn đối

với khách hàng, vì vậy số lượng khách hàng tham gia còn khá khiêm tốn.

- Hoạt động mua bán ngoại tệ nói chung và thực hiện công cụ tài chính phái sinh

chủ yếu tập trung tại hội sở chính của từng hệ thống NHTM Việt Nam và một

số chi nhánh lớn của NH.

- Phần lớn các NHTM chưa thật sự quan tâm và đầu tư đúng mức, chưa chuẩn bị

nguồn lực, hệ thống công nghệ để triển khai có hiệu quả các công cụ tài chính

phái sinh tiền tệ.

-

Một số NHTM triển khai công cụ tài chính phái sinh tiền tệ thiếu sự kiểm soát

dẫn đến tổn thất lớn cho NH.

- Các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ và công cụ tài chính

phái sinh chậm thay đổi, chưa tương thích với thay đổi của thị trường.

2.2.2 Thị trường ngọai tệ liên ngân hàng họat động chưa hiệu quả

Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là nơi các định chế tài chính kinh doanh ngoại

tệ nhằm thoả mãn nhu cầu tiền tệ của khách hàng, cân bằng trạng thái ngoại hối của

mình mà còn là nơi NHNN can thiệp có hiệu quả vào tỷ giá. Tỷ giá mua bán trên thị

trường này là căn cứ để xác định tỷ giá giao dịch của NHTM với khách hàng. Tuy

nhiên, hoạt động thị trường này ở Việt Nam thời gian qua chưa phản ánh đúng thực

32

trạng kinh doanh ngoại hối của nền kinh tế, các nghiệp vụ phái sinh chưa sử dụng phổ

biến. Điều này mang lại hậu quả tất yếu là thị trường không phản ánh đúng cung cầu

ngoại tệ trong nền kinh tế tạo điều kiện cho thị trường tự do phát triển mạnh.

Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thường xuyên bị mất cân đối, NHNN chưa điều

tiết sự mất cân xứng trong giao dịch như mong đợi. Do cầu ngoại tệ hợp lý không

được thỏa mãn, làm các thành viên mất niềm tin vào thị trường. Hậu quả khi có nhu

cầu họ tự giao dịch trực tiếp với nhau, không qua thị trường liên ngân hàng.

Mặt khác, NHNN chưa thực hiện tốt chức năng là người mua bán cuối cùng để

điều chỉnh thị trường.

2.2.3

Thị trường ngọai tệ tự do chưa được kiểm soát chặt chẽ

Thị trường tự do của nước ta tồn tại vì nhu cầu đầu tư và sử dụng ngoại tệ của các

cá nhân không được thị trường liên ngân hàng và hệ thống NHTM đáp ứng.

Người dân nhìn thấy các cơ hội gia tăng tài sản của mình khi nắm giữ ngoại tệ

nhưng không thể tham gia vào thị trường liên ngân hàng. Điều này ắt dẫn đến nhu cầu

mua và nắm giữ ngoại tệ trên thị trường tự do. Tương tự, người dân luôn có nhu cầu sử

dụng ngoại tệ, chẳng hạn cho mục đích du lịch nước ngoài hoặc khám chữa bệnh.

NHTM không thể đáp ứng hết được các nhu cầu này. Kết quả là họ tìm đến thị trường

tự do.

Với nguồn cung dồi dào từ kiều hối mỗi năm, thị trường tự do ngày càng lớn mạnh.

Do tỷ giá liên ngân hàng không đến được với dân chúng nên tỷ giá tự do trở thành tín

hiệu chính để hầu hết các thành phần kinh tế tham chiếu cho các tính toán kinh tế của

mình.

Mặc dù khối lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường tự do có quy mô tương đối

nhỏ so với thị trường chính thức nhưng song lại có tác động lớn đến tâm lý trên thị

trường do các yếu tố đầu cơ, gây sức ép lên tỷ giá chính thức. Mặc dù NHNN cùng với

các cơ quan chức năng thường xuyên tăng cường kiểm tra, xử phạt nhưng thị trường

ngoại tệ tự do vẫn tồn tại.

2.2.4

Tồn tại hiện tượng đôla hóa trong nền kinh tế

Cùng với Lào và Campuchia, Việt Nam là nền kinh tế bị đô la hóa rất cao. Theo

Ngân hàng Phát triển châu Á, tỷ trọng ngoại tệ dao động từ khoảng 20% nguồn tiền

lưu thông tại Việt Nam, khoảng 50% tại Lào và hơn 90% tại Campuchia. Tình trạng

33

Đô la hoá trên thị trường tài chính Việt Nam còn khá phổ biến trên tất cả các chức

năng tiền tệ, đặc biệt là chức năng phương tiện thanh toán, trao đổi và chức năng tín

dụng qua ngân hàng thương mại...đã tạo môi trường cho các hoạt động đầu cơ mỗi khi

xuất hiện những biến động về ngoại tệ. Quá trình đôla hóa làm giảm hiệu quả của các

công cụ ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là chính sách tiền tệ và tỷ giá. Khi nới lỏng giao

dịch ngoại hối thì nền kinh tế cũng phát sinh hiện tượng đôla hóa ngày càng tăng. Hiện

tượng đôla hóa không chỉ xảy ra ở nước ta mà đã và đang diễn ra tại nhiều nước. Đôla

hóa được giải thích theo cách đặc trưng nhất là USD được sử dụng song song với bản

tệ trong một nước và làm đầy đủ các chức năng của đồng tiền quốc gia đó.

Do tỷ giá ngoại tệ chưa phản ánh đúng giá trị thực của nó, vẫn có sự chênh lệch

giữa tỷ giá chính thức với tỷ giá trên thị trường tự do, hơn nữa sự mất giá của đồng

tiền Việt Nam, hệ thống thanh toán chưa thật sự thuận lợi, các công cụ thanh toán

không dùng tiền mặt chưa được sử dụng rộng rãi. Do đó, người dân sử dụng các ngoại

tệ mạnh, điển hình như đôla để dự trữ, chi trả những món hàng có giá trị lớn, giao dịch

bất động sản, buôn lậu…Điều này ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách tiền tệ của

Ngân hàng Nhà Nước.

2.2.5

Tình trạng đầu cơ, tích trữ trên thị trường ngọai tệ

Tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ còn khá phổ biến ở nước ta. Khối lượng ngoại

tệ trôi nổi ngoài hệ thống ngân hàng chưa kiểm soát còn rất lớn, NHNN chưa có cơ sở

xác định được chính xác số ngoại tệ này. Những điều này gây khó khăn cho Nhà nước

trong việc quản lý ngoại tệ, làm lãng phí nguồn ngoại tệ của quốc gia.

Sự thiếu vắng hoạt động dự báo tỷ giá là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đầu cơ

tích trữ ngoại tệ. Việc sử dụng các công cụ hành chính để điều hành chính sách tỷ giá

ngày càng chứng tỏ không còn phù hợp nữa trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế

thế giới. Mặt khác, hệ thống thông tin thống kê các chỉ tiêu cơ bản của nền kinh tế thị

trường không kịp thời, lại mang tính bảo mật quá cao, ít được công bố một cách công

khai, đã tạo nên tâm lý băn khoăn, thiếu tự tin trên thị trường nói chung và tại thị

trường ngoại hối nói riêng. Hiện tượng đầu cơ ngoại tệ có nguồn gốc sâu xa là sự lo

lắng thái quá về tình trạng thâm hụt trên cán cân vãng lai cũng như việc tỷ giá sẽ được

điều chỉnh hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu…

2.2.6

Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái thời gian qua

34

Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái của nước ta theo cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi

có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục đích thúc đẩy xuất khẩu từ đó đẩy mạnh tăng

trưởng kinh tế. Đặc điểm của chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý là NHNN tiến hành can

thiệp trực tiếp trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá biến động trong một vùng

nhất định, nhưng không cam kết duy trì một tỷ giá cố định hay một biên độ dao động

hẹp xung quanh tỷ giá trung tâm. Với cơ chế này đòi hỏi NHNN phải có dự trữ ngoại

hối đủ mạnh để can thiệp lên tỷ giá. Thực tế trong thời gian qua dự trữ ngoại hối của

chúng ta không thể thực hiện có hiệu quả khi thực hiện cơ chế này.

(cid:153) Hệ quả 1: hình thành nên 2 tỷ giá ở Việt Nam, đó là tỷ giá của các NHTM và tỷ

giá trên thị trường tự do. Khi có dấu hiệu bất thường trên thị trường ngoại hối, tỷ giá

chính thức sẽ được điều chỉnh bằng cách thay đổi biên độ giao dịch hoặc là thay đổi

liên ngân hàng. Mặc dù vậy, sau mỗi lần điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên kịch trần,

tỷ giá thị trường tự do luôn luôn nằm ngoài biên độ cho phép. Mặt khác, do sự chênh

lệch giữa 2 loại tỷ giá này nên người dân chỉ bán ngoại tệ ra thị trường tự do với tỷ giá

cao hơn dẫn đến việc các ngân hàng không thu được một lượng lớn ngoại tệ từ dân

chúng, buộc họ phải tăng giá thu mua USD. Trong giai đoạn vài năm trở lại đây khi

điều kiện thâm hụt thương mại lớn, cán cân tài khoản vãng lai thường xuyên thâm hụt,

lạm phát gần đây thuộc loại cao nhất khu vực, thì nền kinh tế tiếp tục bị đôla hóa với

tỷ lệ đáng kể. Lạm phát cao cũng làm tăng nhu cầu tích trữ của cải, hệ quả là giá vàng

trong nước thường xuyên cao hơn giá vàng quốc tế dẫn đến nhập lậu vàng. Trong bối

cảnh như vậy, chính sách tỷ giá chịu nhiều sức ép và khó có thể làm hài lòng tất cả

mọi người.

(cid:153) Hệ quả 2: việc lựa chọn tỷ giá ổn định để đẩy mạnh xuất khẩu nhằm thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế thì đồng thời chúng ta phải chấp nhận một chính sách tiền tệ không

độc lập (cụ thể là lạm phát).

Về nguyên tắc, chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý thường chỉ được sử dụng trong

ngắn hạn để kiểm soát những dao động quá lớn quá nhanh trong tỷ giá. Việc kiểm soát

tỷ giá trong thời gian dài hơn sẽ chỉ làm chậm lại chứ không thể ngăn chặn hoàn toàn

những thay đổi tất yếu của tỷ giá và thường đi liền với cái giá đắt là làm cạn kiệt dự

trữ ngoại hối. NHNN Việt Nam đã duy trì việc kiểm soát tỷ giá trong thời gian quá dài

và không linh hoạt dẫn đến nhiều tác hại về kinh tế. Tình hình biến động tỷ giá năm

35

2009 là một minh chứng. Sự cứng nhắc cũng như sự không nhất quán trong chính sách

tỷ giá đã làm giảm sút lòng tin của người dân vào VND, làm trầm trọng thêm hiện

tượng đôla hóa của nền kinh tế, tăng hoạt động đầu cơ, đẩy tỷ giá thị trường tự do vượt

xa tỷ giá chính thức và do đó gây căng thẳng trên thị trường ngoại hối. Do lo ngại về

sự mất giá của VND, tình trạng phổ biến thường diễn ra là các doanh nghiệp xuất khẩu

có USD muốn găm giữ USD và không muốn bán cho các ngân hàng còn các doanh

nghiệp nhập khẩu cần USD thì không muốn vay mà chỉ muốn mua USD. Kết quả là thị

trường ngoại hối luôn căng thẳng vì khan hiếm USD mặc dù tiền gửi bằng USD mà

các ngân hàng nắm giữ là không nhỏ.

2.3 Phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái

2.3.1 Phân tích diễn biến giá vàng và biến động tỷ giá giai đọan 2008-2013

2.3.1.1 Giai đọan 2008 – 2009

Đồ thị 2.1 Diễn biến giá vàng và biến động tỷ giá năm 2008 - 2009

Nguồn: Người viết tổng hợp từ nguồn dữ liệu nghiên cứu

(cid:153) Trong năm 2008, giá vàng tăng vọt đầu năm, đi xuống ở giữa năm, rồi lại phục

hồi ở cuối năm. Trong năm này, Việt Nam vươn lên trở thành một trong những nước

đứng đầu về nhập khẩu vàng của thế giới. Điều này đã góp phần không nhỏ vào thâm

hụt cán cân thương mại của Việt Nam, sau đó Chính phủ phải cấm nhập khẩu vàng.

Cho tới trước thời điểm dừng nhập khẩu vàng thì tổng giá trị nhập khẩu vàng cho năm

2008 là 1,7 tỷ USD (45 tấn), so với tổng giá trị nhập khẩu vàng của cả năm 2007 là 1,6

tỷ USD (70 tấn).

36

Trên thị trường ngoại tệ, tỷ giá liên tục giảm, dưới mức sàn, do nguồn cung

ngoại tệ dồi dào từ đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào Việt nam. Sau đó, tỷ giá tăng

với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường

tự do, đỉnh điểm tỷ giá thị trường tự do lên đến 19.400 đồng/USD ngày 18/06. Nguyên

nhân do cán cân thương mại thâm hụt nặng nề với mức kỷ lục 14,4 tỷ USD trong 5

tháng đầu năm, nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài bắt đầu rút vốn, cộng với tâm lý đầu

cơ găm giữ ngoại tệ. Mặt khác, tâm lý hoang mang cộng với động thái đầu cơ trên thị

trường tự do đẩy USD cùng với giá vàng tăng mạnh lên gần 19 triệu đồng/lượng. Tăng

nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và quốc tế. Trước tình

hình đó, NHNN đã thực hiện các biện pháp can thiệp đồng bộ và quyết liệt bao gồm

công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD, bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông

qua các NHTM lớn, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các đại lý thu đổi ngoại tệ, cấm

mua, bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho

phép xuất khẩu vàng... giúp tỷ giá sụt giảm và bình ổn trở lại.

(cid:153) Năm 2009 cũng chứng kiến sự tăng giá của vàng, với 18-19 triệu đồng/lượng

những tháng đầu năm, nhưng đến cuối năm đã ở mức 27-29 triệu đồng/lượng, tính

chung cả năm, giá vàng tăng tới 24% so với năm trước. Loại trừ yếu tố tăng giá của thị

trường thế giới, thì giá vàng trong nước diễn biến phức tạp, chịu tác động bởi yếu tố

kỳ vọng vào sự mất giá của tiền đồng và tin đồn. Việc mở sàn vàng và cho phép một

số nhà đầu tư kinh doanh vàng trên tài khoản trong nước cũng như nước ngòai nhưng

lại thiếu một cơ chế giám sát, nên một lượng ngoại tệ không nhỏ được các nhà đầu tư

gom để thanh toán cho nước ngoài. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản thao

túng giá ngoại tệ, gây khó khăn cho NHNN quản lý và can thiệp.

Tương tự giá vàng, tỷ giá USD ngoài thị trường tự do sau thời gian ổn định, đến

giữa tháng 11 bất ngờ tăng cao. Đỉnh điểm là ngày 10/11, tỷ giá USD trên thị trường

tự do lên sát 20.000 đồng, gây xáo động mạnh trên thị trường và tâm lý của các nhà

đầu tư.

2.3.1.2 Giai đọan 2010 – 2011

37

Đồ thị 2.2 Diễn biến giá vàng và biến động tỷ giá năm 2010 và 2011

Nguồn: Người viết tổng hợp từ nguồn dữ liệu nghiên cứu

(cid:153) Năm 2010 là năm tăng kỉ lục của vàng khi mỗi lượng vàng trong nước tăng đến

9,5 triệu đồng tương đương tăng gần 40% do giá vàng thế giới tăng hơn từ 1.100 USD

lên trên mốc 1.400 USD/ounce. Bên cạnh yếu tố vàng thế giới tăng giá, giá vàng trong

nước năm 2010 còn được đẩy lên bởi những yếu tố dưới đây:

(cid:131) Tỷ giá USD thị trường tự do tăng mạnh. Ở thời điểm cuối năm 2009, USD

giao dịch trên thị trường tự do giao dịch ở mức trên 19.200 đồng, đến năm 2010 đã

vượt ngưỡng 21.000 đồng, tăng 9,2%. Trong tháng 11, giá USD tự do đã có thời điểm

lập đỉnh mức 21.500 đồng.

(cid:131) Chênh lệch cung cầu vàng trong nước.

(cid:131) Yếu tố tâm lý và không loại trừ yếu tố đầu cơ.

Năm 2010 Ngân hàng nhà nước đã có hai đợt điều chỉnh tỷ giá nhằm kiềm chế

nhập siêu, tuy nhiên điều này cũng khiến tỷ giá biến động khó lường. Sau khi NHNN

điều chỉnh tỷ giá lần 2, giá USD trên thị trường tự do cũng lên theo giá vàng, lập kỉ lục

21.500 đồng/USD. Chênh lệch giữa tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá niêm yết tại

ngân hàng là hơn 10%. Khi tỷ giá USD tự do vọt mạnh lên 21.500 đồng/USD cùng

với cơn sốt vàng, bên cạnh chênh lệch quá cao so với mức bình thường, NHNN đã

phải bơm mạnh ngoại tệ nhằm bình ổn tỷ giá.

(cid:153) Năm 2011, giá vàng trong nước đạt đỉnh trên 49 triệu đồng/lượng khi giá quốc

tế tăng mạnh. Để hạ nhiệt cơn sốt này, NHNN mở quota cho nhập khẩu. Sau đó, giá

vàng giảm dần và ổn định quanh mức 44-45 triệu đồng/lượng. Khi chênh lệch tăng cao,

không được phép nhập khẩu qua đường chính thức, nhà đầu cơ đẩy mạnh mua USD để

nhập lậu vàng, tạo áp lực khan hiếm USD và đẩy giá USD lên cao. Giá vàng hiện chủ

38

Thị trường ngoại tệ chứng kiến lần đầu tiên trong lịch sử NHNN nước điều

chỉnh tỷ giá mạnh nhất từ 18.932 đồng lên 20.693 đồng (tăng 9.3%) và thu hẹp biên độ

giao dịch từ 3% xuống còn 1% vào ngày 11/02/2011 đã khiến tỷ giá trên thị trường tự

do tăng mạnh lên tới trên 22.000 VND/USD và chênh lệch khá xa so tỷ giá chính thức.

Ngay sau khi điều chỉnh tỷ giá thì cỗ xe giá vàng bắt đầu bứt phá lên mức 36 triệu

đồng lượng mặc dù giá vàng thế giới không ghi nhận biến động nào đáng kể. Chỉ 1

tuần sau đó, giá vàng phá ngưỡng 37 triệu đồng/lượng do USD tự do vọt lên tới 22.000

đồng/USD. Vòng xoáy giá vàng và giá USD được hỗ trợ bởi cú sốc tỷ giá khiến cho

tâm lý đầu cơ và lo ngại đồng Việt Nam mất giá khi lạm phát dâng cao.

2.3.1.3 Giai đọan 2012 – nay

Đồ thị 2.3 Diễn biến giá vàng và biến động tỷ giá năm 2012 và 3 tháng đầu năm 2013

Nguồn: Người viết tổng hợp từ nguồn dữ liệu nghiên cứu

(cid:153) Năm 2012 lại tiếp tục ghi nhận nhiều biến động trên thị trường vàng, mặc dù

từng có thời gian ổn định khá dài từ tháng 3/2012 đến cuối tháng 8/2012, do các quy

định quản lý thị trường vàng được NHNN ban hành. Tháng 9/2012 giá vàng trong

nước đã tăng mạnh cùng với xu hướng tăng mạnh của giá vàng thế giới. Bên cạnh đó,

giá vàng trong nước còn chịu sức ép tăng giá khá mạnh do nguồn cung trong nước hạn

hẹp và thanh khoản thấp. Điều này đã khiến giá vàng trong nước luôn duy trì cao hơn

giá vàng thế giới quy đổi, vào tháng 9/2012 khoảng chênh lệch này lên tới gần 6 triệu

đồng/lượng - mức cao nhất trong lịch sử. Mặc dù chênh lệch cao, nhưng do việc nhập

khẩu vàng được quản lý chặt, nên giá USD không những không tăng mà còn giảm.

39

Trong năm 2012 tỷ giá duy trì ổn định ngọai trừ thời điểm tháng 1 do tỷ giá vẫn

giữ mức cao của cuối năm 2011. Một biểu hiện khác là tỷ giá USD/VND trên thị

trường tự do nếu trong những năm trước cao hơn tỷ giá niêm yết trong các ngân hàng

thương mại và thường kéo tỷ giá trong các ngân hàng thương mại lên theo, gây nên sự

nóng sốt trên thị trường ngoại hối của Việt Nam, góp phần làm giảm sút lòng tin vào

đồng tiền quốc gia, thì nay chênh lệch không lớn. Bên cạnh đó, biểu hiện khác của sự

ổn định là tỷ giá giao dịch thực tế tại các NHTM không vượt quá biên độ cho phép,

nguồn cung ngoại tệ tăng lên rõ rệt, bao gồm cả tiền gửi cá nhân, tiền gửi doanh

nghiệp và cả các quan hệ mua, bán. Một nguyên nhân nữa rất quan trọng là yếu tố tâm

lý xét dưới hai góc độ. Góc độ thứ nhất là lạm phát chậm lại, góp phần ổn định lòng

tin vào đồng nội tệ, hạn chế việc trú ẩn vào ngoại tệ để bảo tồn giá trị khi lạm phát

cao. Góc độ thứ hai là tâm lý đầu cơ ngoại tệ cũng giảm mạnh.

(cid:153) Bước sang năm 2013, thị trường vàng cả trong nước và thế giới đã giảm rất

mạnh. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai các giải pháp đồng bộ nhằm

đẩy nhanh quá trình chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng. Song, chưa dừng

lại ở đó, việc các tổ chức tín dụng đẩy mạnh hoạt động mua vàng tất toán trạng thái đã

tạo sức ép lên nguồn cung vàng gây xáo trộn trên thị trường.

Đầu năm 2013, sau giai đoạn ổn định khá dài trong năm 2012, thị trường ngoại

hối đã biến động mạnh trở lại. Theo đó, nhu cầu trả nợ các khoản vay đến hạn trả, đầu

cơ khiến cho tỷ giá USD nhảy vọt lên. Rồi sự chênh lệch giá vàng trong và ngoài nước

cũng là tác nhân gây nên sự tăng giá USD. Ngoài ra, trước đây, lãi suất gửi tiết kiệm

tiền đồng cao hơn lãi suất gửi USD khá nhiều nên người có USD có xu hướng bán cho

ngân hàng để gửi tiết kiệm bằng tiền đồng. Hiện nay chênh lệch giữa lãi suất huy động

USD và tiền đồng không còn cao như trước, xu hướng dịch chuyển từ tiền đồng sang

USD đã trở lại, người dân mua USD gửi tiết kiệm tăng lên.

2.3.2 Kiểm định mô hình phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá

2.3.2.1 Dữ liệu nghiên cứu

Nguồn dữ liệu sử dụng là giá vàng SJC và tỷ giá USD/VND với tần suất ngày (từ

thứ hai đến thứ sáu), được thu thập trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm 2008 đến

tháng 3 năm 2013. Giá vàng SJC thu thập theo bảng tỷ giá niêm yết cuối ngày (giá

Ask) tại Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam. Tỷ giá USD/VND thu thập trên cơ sở

40

tỷ giá giao dịch cuối ngày (giá Ask) của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Phòng

kinh doanh ngoại tệ Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam thống kê.

Việc lấy số liệu giá vàng SJC và tỷ giá USD/VND như trên là điểm hạn chế của đề

tài vì tỷ giá USD/VND được sử dụng để quy đổi giá vàng thế giới sang giá vàng trong

nước là tỷ giá trên thị trường tự do, tuy nhiên tỷ giá này không có căn cứ thu thập

chính xác trong khoảng thời gian nghiên cứu. Mặt khác, đây là những dữ liệu thứ cấp,

thu thập theo bảng tỷ giá giao dịch cuối ngày không phải thời điểm giá vàng thay đổi

ảnh hưởng tỷ giá USD/VND hay thời điểm tỷ giá USD/VND thay đổi ảnh hưởng giá

vàng. Đồng thời, giá vàng và tỷ giá USD/VND không hoàn toàn tuân theo quy luật thị

trường mà có sự quản lý, can thiệp của NHNN.

2.3.2.2 Giả thuyết nghiên cứu

(cid:153) Giả thuyết 1: Tỷ giá USD/VND có tác động đến giá vàng trong nước

Do giá vàng thế giới hiện nay được yết giá và giao dịch bằng USD, Việt Nam là

nước nhập khẩu vàng nên phải cần một lượng lớn USD. Khi tỷ giá của đồng ngoại tệ

thay đổi cũng đồng nghĩa với việc làm cho giá vàng tính theo giá trị của đồng ngoại tệ

mua nó cũng thay đổi theo.

(cid:153) Giả thuyết 2: Giá vàng trong nước có tác động đến tỷ giá USD/VND

Hiện nay, họat động nhập xuất vàng được quản lý chặt chẽ, NHNN là cơ quan tổ

chức và cấp phép hoạt động xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu. Tuy nhiên, khi giá vàng

tăng và chênh lệch lớn với giá vàng thế giới làm cho nhu cầu mua USD trên thị trường

tự do để nhập khẩu vàng theo đường không chính thức tăng, cầu tăng sẽ tạo lực đẩy

giá USD trên thị trường. Đến lượt nó lại ảnh hưởng đẩy giá vàng tăng tương ứng, tạo

vòng xoáy giữa vàng và USD.

2.3.2.3 Phương pháp kiểm định

Bước 1: Thực hiện kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu thông qua kiểm định

Augmented Dickey Fuller Test (ADF). Nếu các chuỗi dữ liệu này là không

dừng, tiến hành lấy sai phân bậc 1 để kiểm định tính dừng của chuỗi sai phân.

Bước 2: Thực hiện kiểm định đồng liên kết chuỗi dữ liệu gốc theo phương pháp

Johansen để xác định tính dừng trong dài hạn. Vì nếu chuỗi sai phân bậc 1 là

dừng thì chỉ cho biết mối quan hệ trong ngắn hạn.

Bước 3: Thực hiện kiểm định Engle – Granger nhằm xác định mối quan hệ nhân quả

giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái.

41

Bước 4: Thực hiện khảo sát mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái bằng mô hình

hiệu chỉnh sai số VECM chuỗi dữ liệu gốc.

2.3.2.4 Kết quả kiểm định

a) Kiểm định nghiệm đơn vị ADF (Augmented Dickey – Fuller Test)

Bảng 2.1 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị chuỗi giá vàng (dữ liệu gốc).

Null Hypothesis: GIAVANG has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 0 (Automatic based on SIC, MAXLAG=13)

t-Statistic

Prob.*

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

1% level 5% level 10% level

-1.810533 -3.965265 -3.413342 -3.128702

0.6993

*MacKinnon (1996) one-sided p-values.

Nguồn : tính toán của người viết

Từ kết quả kiểm định ADF ta thấy |t| =1,810533 < 3.965265; 3.413342; 3.128702 ở

các mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%, nên chấp nhận giả thiết H0 : tồn tại một nghiệm đơn vị,

nghĩa là chuỗi dữ liệu gốc của giá vàng không dừng. Do đó, ta tiếp tục kiểm định tính

dừng đối với chuỗi sai phân bậc 1 của giá vàng.

Bảng 2.2 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị chuỗi giá vàng (sai phân bậc 1).

Null Hypothesis: D(GIAVANG) has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 0 (Automatic based on SIC, MAXLAG=13)

t-Statistic

Prob.*

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

1% level 5% level 10% level

-34.29481 -3.965271 -3.413345 -3.128704

0.0000

*MacKinnon (1996) one-sided p-values.

Nguồn : tính toán của người viết

42

Từ kết quả kiểm định ADF ta thấy |t| =34.29481 > 3.965271; 3.413345; 3.128704 ở

các mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%, nên bác bỏ giả thiết H0, do đó sai phân bậc 1 của chuỗi

giá vàng là dừng.

Bảng 2.3 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị chuỗi tỷ giá USD/VND (dữ liệu gốc).

Null Hypothesis: TYGIA has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 1 (Automatic based on SIC, MAXLAG=13)

t-Statistic

Prob.*

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

1% level 5% level 10% level

-2.707381 -3.965271 -3.413345 -3.128704

0.2337

*MacKinnon (1996) one-sided p-values.

Nguồn : tính toán của người viết

Từ kết quả kiểm định ta thấy |t| = 2.707381 < 3.965271; 3.413345; 3.128704 ở các

mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%, nên chấp nhận giả thiết H0: chuỗi dữ liệu gốc của tỷ giá

không dừng. Do đó phải kiểm định tính dừng đối với chuỗi sai phân bậc 1 của tỷ giá.

Bảng 2.4 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị chuỗi tỷ giá (sai phân bậc 1).

Null Hypothesis: D(TYGIA) has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 0 (Automatic based on SIC, MAXLAG=13)

t-Statistic

Prob.*

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

1% level 5% level 10% level

-41.50975 -3.965271 -3.413345 -3.128704

0.0000

*MacKinnon (1996) one-sided p-values.

Nguồn : tính toán của người viết

Từ kết quả kiểm định ADF ta thấy |t| = 41.50975 > 3.965271; 3.413345; 3.128704

ở các mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%, nên bác bỏ giả thiết H0, do đó sai phân bậc 1 của

chuỗi tỷ giá là dừng. Tuy nhiên, cách này chỉ cho ta biết mối quan hệ ngắn hạn. Vì vậy,

tiến hành kiểm định tính đồng liên kết, nghĩa là kiểm định xem phần dư từ kết quả hồi

43

quy giữa các biến không dừng có phải là một chuỗi dừng hay không. Nếu phần dư

trong mô hình hồi quy giữa các chuỗi thời gian không dừng là một chuỗi dừng thì kết

quả hồi quy là thực và thể hiện mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến.

b) Kiểm định đồng liên kết

Bảng 2.5 Kết quả kiểm định đồng liên kết giá vàng và tỷ giá (mức ý nghĩa 1%).

Sample (adjusted): 6 1275 Included observations: 1270 after adjustments Series: GIAVANG TYGIA Lags interval (in first differences): 1 to 4 Unrestricted Cointegration Rank Test (Trace)

Trace

Hypothesized No. of CE(s)

Eigenvalue Statistic

0.01 Critical Value Prob.**

None * At most 1

0.014997 0.001053

20.52909 1.338549

19.93711 6.634897

0.0080 0.2473

Trace test indicates 1 cointegrating eqn(s) at the 0.01 level * denotes rejection of the hypothesis at the 0.01 level **MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values

Nguồn : tính toán của người viết

Ta tiến hành kiểm định đồng liên kết theo phương pháp VAR của Johansen kết quả

chạy theo bảng bên trên. Với mức ý nghĩa 1% ta thấy Trace Statistic (20.52909) >

Critical Value (19.93711) nên bác bỏ giả thuyết H0: không có đồng liên kết giữa biến

giá vàng và tỷ giá, nghĩa là giữa giá vàng và tỷ giá có tính đồng liên kết và tồn tại mối

liên hệ dài hạn (hoặc cân bằng) giữa chúng. Như vậy, không tồn tại hồi quy giả mạo

trong mô hình trên, các kiểm định thống kê truyền thống vẫn được áp dụng.

Bảng 2.6 Kết quả kiểm định đồng liên kết giá vàng và tỷ giá (mức ý nghĩa 5%).

Trace

Hypothesized No. of CE(s)

Eigenvalue Statistic

0.05 Critical Value Prob.**

None * At most 1

0.014997 0.001053

20.52909 1.338549

15.49471 3.841466

0.0080 0.2473

Trace test indicates 1 cointegrating eqn(s) at the 0.05 level * denotes rejection of the hypothesis at the 0.05 level **MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values

Nguồn : tính toán của người viết

44

Tương tự, với kiểm định đồng liên kết theo phương pháp VAR của Johansen ở mức

ý nghĩa 5% kết quả là giữa giá vàng và tỷ giá có tồn tại đồng liên kết.

c) Kiểm định nhân quả Granger

Bảng 2.7: Kết quả kiểm định Granger giá vàng và tỷ giá với độ trễ 2 ngày.

Pairwise Granger Causality Tests Date: 08/23/13 Time: 23:09 Sample: 1 1275 Lags: 2

Null Hypothesis:

Obs

F-Statistic Probability

1273

TYGIA does not Granger Cause GIAVANG GIAVANG does not Granger Cause TYGIA

6.28306 4.30034

0.00193 0.01376

Nguồn : tính toán của người viết

Bảng 2.8: Kết quả kiểm định Granger giá vàng và tỷ giá độ trễ 3 ngày.

Pairwise Granger Causality Tests Date: 08/23/13 Time: 23:10 Sample: 1 1275 Lags: 3

Null Hypothesis:

Obs

F-Statistic Probability

TYGIA does not Granger Cause GIAVANG 1272 GIAVANG does not Granger Cause TYGIA

4.26956 2.83424

0.00521 0.03711

Nguồn : tính toán của người viết

Bảng 2.9: Kết quả kiểm định Granger giá vàng và tỷ giá với độ trễ 4 ngày.

Pairwise Granger Causality Tests Date: 08/23/13 Time: 23:11 Sample: 1 1275 Lags: 4

Null Hypothesis:

Obs

F-Statistic Probability

TYGIA does not Granger Cause GIAVANG 1271 GIAVANG does not Granger Cause TYGIA

3.41058 2.08912

0.00876 0.08003

Nguồn : tính toán của người viết

45

Bảng 2.10: Kết quả kiểm định Granger giá vàng và tỷ giá với độ trễ 5 ngày.

Pairwise Granger Causality Tests Sample: 1 1275 Lags: 5

Null Hypothesis:

Obs

F-Statistic Probability

TYGIA does not Granger Cause GIAVANG 1270 GIAVANG does not Granger Cause TYGIA

2.78930 1.94668

0.01635 0.08396

Nguồn : tính toán của người viết

Bảng 2.11: Kết quả kiểm định Granger giá vàng và tỷ giá với độ trễ 6 ngày.

Pairwise Granger Causality Tests Date: 08/23/13 Time: 23:13 Sample: 1 1275 Lags: 6

Null Hypothesis:

Obs

F-Statistic Probability

1269

TYGIA does not Granger Cause GIAVANG GIAVANG does not Granger Cause TYGIA

2.25040 1.89281

0.03640 0.07887

Nguồn : tính toán của người viết

Bảng 2.12 : Tóm tắt kết quả kiểm định nhân quả Granger giá vàng và tỷ giá.

Lag Null Hypothesis

F-Statistics

Probability

TYGIA does not Granger Cause GIAVANG

6.28306

0.00193

2

GIAVANG does not Granger Cause TYGIA

4.30034

0.01376

TYGIA does not Granger Cause GIAVANG

4.26956

0.00521

3

GIAVANG does not Granger Cause TYGIA

2.83424

0.03711

TYGIA does not Granger Cause GIAVANG

3.41058

0.00876

4

GIAVANG does not Granger Cause TYGIA

2.08912

0.08003

TYGIA does not Granger Cause GIAVANG

2.78930

0.01635

5

GIAVANG does not Granger Cause TYGIA

1.94668

0.08396

TYGIA does not Granger Cause GIAVANG

2.25040

0.03640

6

GIAVANG does not Granger Cause TYGIA

1.89281

0.07887

Nguồn : tóm tắt của người viết

46

Với mức ý nghĩa 5%, từ bảng kết quả trên ta có giá trị p1 đều nhỏ hơn 0.05, tức giá

trị thống kê kiểm định đều nằm ở miền bác bỏ. Cụ thể ở mức độ trễ 2 ngày ta có P

(|F|>6,28306) = 0,00193, nghĩa là chỉ có 0,193% chấp nhận giả thuyết H0. Vì vậy, bác

bỏ giả thuyết H0: tỷ giá không có quan hệ nguyên nhân kết quả với giá vàng (với độ trễ

được xác định từ 2 đến 6 ngày), nghĩa là tỷ giá có tác động đến giá vàng.

Tương tự, với mức ý nghĩa 5%, bác bỏ giả thuyết H0: giá vàng không có quan hệ

nguyên nhân kết quả với tỷ giá, nghĩa là giá vàng có tác động đến tỷ giá với độ trễ

được xác định từ 2 đến 3 ngày. Tuy nhiên, với độ trễ từ 4 đến 6 ngày ta chấp nhận giả

thuyết H0, nghĩa là giá vàng không có tác động đến tỷ giá.

d) Ma trận hiệp phương sai giữa giá vàng và tỷ giá.

Bảng 2.13: Ma trận hiệp phương sai giữa giá vàng và tỷ giá

TYGIA 1.67E+09 2715692.

GIAVANG TYGIA

GIAVANG 1.16E+12 1.67E+09

Nguồn : tính toán của người viết

Do ma trận hiệp phương sai giữa giá vàng và tỷ giá là dương nên giá vàng và tỷ giá

có mối quan hệ cùng chiều (cùng tăng hoặc cùng giảm).

e) Kiểm định theo mô hình hiệu chỉnh sai số VECM

Bảng 2.14: Kết quả ước lượng mô hình xem xét mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ

giá USD/VND.

Vector Error Correction Estimates Sample (adjusted): 4 1275 Included observations: 1272 after adjustments Standard errors in ( ) & t-statistics in [ ]

R-squared Adj. R-squared Sum sq. resids S.E. equation F-statistic Log likelihood Akaike AIC

0.035971 0.032163 15504546 110.6656 9.447582 -7788.567 12.25561

0.011913 0.008011 1.14E+12 30036.34 3.052769 -14916.41 23.46291

Nguồn : tính toán của người viết

1 P hay p-value được gọi là mức ý nghĩa chính xác, là mức ý nghĩa thấp nhất mà giá thiết H0 có thể bị bác bỏ. Nếu số liệu không hỗ trợ giả thiết H0 thì giá trị tính toán sẽ lớn và như vậy giá trị p tương ứng sẽ nhỏ, do vậy có thể bác bỏ giả thiết H0 với mức tin cậy càng cao.

47

- Theo kết quả của bảng trên ta có hệ số R2 có hiệu chỉnh 2 lần lượt là 0,032163 và 0,008011. Ý nghĩa của mô hình là có 3,2163 % sự biến động trong tỷ giá

USD/VND là được giải thích bởi mối quan hệ tuyến tính với giá vàng ở độ trễ là 1 và

2. Mặt khác, có 0,8011 % sự biến động trong giá vàng là được giải thích bởi mối quan

hệ tuyến tính với tỷ giá USD/VND ở độ trễ là 1 và 2.

2.3.3 Đánh giá kết quả kiểm định

Kết quả kiểm định cho thấy giữa giá vàng và tỷ giá USD/VND có mối quan hệ

nhân quả, mô hình hiệu chỉnh sai số VECM cho kết quả có 3,2163 % sự biến động

trong tỷ giá USD/VND là do giá vàng, đồng thời có 0,8011 % sự biến động trong giá

vàng là được giải thích bởi tỷ giá USD/VND.

Tuy nhiên như đã phân tích ở phần đầu dữ liệu nghiên cứu, hạn chế của mô hình

này là chuỗi dữ liệu tỷ giá USD/VND thu thập là tỷ giá giao dịch trên thị trường liên

ngân hàng (tỷ giá chuyển khoản), trong khi giá vàng giao dịch trên thị trường thường

được tính toán theo tỷ giá trên thị trường tự do. Mặc dù tỷ giá trên thị trường liên ngân

hàng cũng chịu ảnh hưởng của tỷ giá thị trường tự do nhưng có một độ trễ và có sự can

thiệp của NHNN nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, mô hình chỉ

giúp giải quyết được một phần mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá. Dẫu vậy, mô hình

cũng giúp ta thấy được giá vàng tác động đến tỷ giá ở mức độ nhiều hơn tỷ giá tác

động đến nó, bởi vì giá vàng còn chịu tác động của nhiều yếu tố mà đặc biệt là giá

vàng thế giới. Do đó, làm thế nào để bình ổn giá vàng, làm thế nào để ổn định tỷ giá

hay nói cách khác là làm thế nào để ổn định thị trường ngoại hối là câu hỏi đặt ra cho

NHNN.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 phân tích tổng quan cũng như cơ chế điều hành thị trường ngoại hối của

Việt Nam để làm rõ mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái ở nước ta bằng

phương pháp định tính, từ đó kiểm định định lượng mối quan hệ này. Thực hiện kiểm

định Engle – Granger chuỗi dữ liệu nhằm xác định mối quan hệ nhân quả giữa giá

vàng và tỷ giá hối đoái. Nhưng trước tiên, để đảm bảo tính chính xác của kết quả hồi

2 R2 là hệ số xác định, được sử dụng để đo tỷ lệ biến thiên của biến phụ thuộc do biến độc lập giải thích. Thuật ngữ có hiệu chỉnh có nghĩa là hiệu chỉnh theo bậc tự do tương ứng với các tổng bình phương trong công thức tính R2,vì R2 có khuynh hướng cho ra một bức tranh khá lạc quan về mức độ phù hợp của hàm hồi qui.

48

quy, thực hiện kiểm định tính dừng và đồng liên kết để xác định chuỗi dữ liệu là dừng

dài hạn. Cuối cùng, thực hiện khảo sát mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái

bằng mô hình hiệu chỉnh sai số VECM. Kết quả kiểm định thu thập được cho thấy giá

vàng và tỷ giá hối đoái có mối quan hệ nhân quả và mối quan hệ này là cùng chiều.

Đồng thời, kết quả của chương 2 sẽ là cơ sở để khuyến nghị những giải pháp kiểm soát

mối quan hệ này trong chương 3.

49

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ

VÀNG VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

3.1 Định hướng NHNN quản lý thị trường ngọai hối giai đọan 2015 – 2020

Nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi sang kinh tế thị trường với xuất phát điểm là nền

tài chính, tiền tệ yếu kém, có những biểu hiện đặc trưng:

- Mở cửa kinh tế hướng ngoại đồng nghĩa với nhu cầu lớn về ngoại tệ luôn vượt

quá khả năng tích tụ được.

-

Thâm hụt cán cân thanh toán được bù đắp chủ yếu bởi nguồn vốn ngoại tệ bên

ngoài.

-

Thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại gây áp lực lớn đến tỷ giá hối

đoái.

-

Lạm phát cao là cái giá phải trả cho sự tăng trưởng nóng.

-

Tâm lý giữ tiền mặt cùng với thói quen tích trữ vàng và ngoại tệ.

Do vậy, để phát huy vai trò quan trọng của thị trường ngoại hối đối với nền kinh tế,

mục tiêu quản lý thị trường ngoại hối là bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam, thực hiện

các biện pháp đồng bộ để cải thiện cán cân thanh toán quốc tế đồng thời quản lý chặt

chẽ thị trường vàng theo mục tiêu, bảo đảm giá vàng trong nước sát với giá vàng thế

giới.

Đối với thị trường ngọai tệ, chính sách tỷ giá hối đoái hiện hành cần tiếp tục theo

hướng chủ động và linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường và tình hình cung cầu

ngoại tệ nhằm duy trì sự ổn định (không đồng nghĩa với cố định tỷ giá hối đoái) góp

phần tích cực thực hiện mục tiêu xuyên suốt là ổn định kinh tế vĩ mô, từng bước giảm

bớt tình trạng đô la hóa, tăng dự trữ ngoại hối, góp phần tăng tiềm lực tài chính quốc

gia, hỗ trợ phát triển bền vững và tạo điều kiện đáp ứng tốt nhu cầu ngoại tệ hợp pháp,

hợp lý của nền kinh tế. Bên cạnh đó, cần chủ động đưa ra những cam kết mạnh mẽ về

ổn định tỷ giá, thể hiện quyết tâm của cơ quan điều hành, ổn định tâm lý thị trường và

định hình kỳ vọng về tỷ giá của công chúng.

Đối với thị trường vàng, cần nhìn nhận thị trường vàng là một bộ phận hữu cơ của

thị trường tài chính tiền tệ, việc quản lý đòi hỏi phải xuất phát từ điều kiện kinh tế xã

hội của đất nước và phù hợp với thông lệ quốc tế với mục tiêu là phải đưa thị trường

vàng phát triển lành mạnh và đúng hướng, gắn kết mật thiết, đóng góp tích cực cho

50

phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, mục tiêu quản lý thị trường vàng là không để vàng

trở thành phương tiện thanh toán, bảo đảm giá vàng trong nước sát với giá vàng thế

giới, giải tỏa sức ép các yếu tố tâm lý về sự khan hiếm vàng giả tạo, các hoạt động đầu

cơ, buôn lậu, bảo đảm an toàn dự trữ ngoại hối, nâng cao hơn các yêu cầu minh bạch

hóa và phòng chống rửa tiền trong kinh doanh vàng. Bên cạnh đó, kiểm soát chặt chẽ

họat động xuất nhập khẩu vàng, giảm tác động tiêu cực bởi sự biến động của giá vàng,

hỗ trợ ổn định tỷ giá và thị trường ngọai tệ.

3.2 Giải pháp NHNN kiểm soát mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối

đoái nhằm ổn định thị trường ngoại hối

Trên cơ sở xem xét vấn đề vàng trong mối quan hệ biện chứng giữa với tỷ giá,

cùng với kết quả kiểm định cho thấy giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái có mối quan hệ

nhân quả với nhau, nghĩa là khi giá vàng biến động sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái

và ngược lại. Tuy nhiên, mức độ tác động của giá vàng đến tỷ giá cao hơn mức độ tác

động của tỷ giá đến giá vàng. Do đó, để thực hiện đúng mục tiêu điều hành thị trường

ngọai hối là ổn định thị trường ngoại tệ và họat động kinh doanh vàng, dưới góc độ

nghiên cứu có một số đề xuất cụ thể như sau:

3.2.1 Tiến tới thành lập sở giao dịch vàng quốc gia

NHNN thay vì tham gia với vai trò người mua bán cuối cùng trên thị trường vàng

thì nên về đúng vị trí quản lý và kiểm soát của mình, nên cho thành lập một sàn vàng

quốc gia như các nước trên thế giới. Giải pháp này được Ngân hàng đầu tư và phát

triển Việt Nam đề xuất và được sự ủng hộ của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia bắt

nguồn từ mục tiêu giải quyết vấn đề của thị trường vàng Việt Nam một cách tổng thể,

từ giao dịch, thanh toán, lưu trữ, vận chuyển, kiểm định chất lượng và giảm thiểu rủi

ro cho người tham gia. Sở giao dịch vàng quốc gia cũng sẽ là công cụ để NHNN có thể

thực hiện giám sát và điều tiết thị trường vàng Việt Nam, trong thực tế mô hình này đã

được triển khai thành công tại Trung Quốc.

Với hoạt động của sở giao dịch vàng quốc gia sẽ giúp:

- Thỏa mãn nhu cầu kinh doanh các cá nhân và doanh nghiệp.

- Giải quyết tình trạng nhiều cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản buôn bán

vàng ở nước ngoài, làm nguồn vốn chảy ra bên ngoài một cách không chính thức.

- Cân bằng giá trong nước và quốc tế nhờ tính liên thông giữa 2 thị trường.

51

- Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước quản lý thị trường vàng tốt hơn, giám sát

được các giao dịch vàng với khối lượng lớn, biết được luồng vốn trung chuyển

vào ra thông qua giao dịch mua bán vàng.

- Loại bỏ hoàn toàn yếu tố độc quyền như hiện nay, tránh được việc thao túng thị

trường của một số đơn vị kinh doanh.

- Giảm nhu cầu tích trữ vàng vật chất, điều đang gây lãng phí lớn tại Việt Nam

hiện nay, khơi thông dòng chảy của kim loại quý, đưa một lượng vốn lớn nằm

trong dân vào kinh doanh.

- Bên cạnh đó, việc một sàn vàng được quản lý tập trung sẽ giúp giảm thiểu rủi ro

cho nhà đầu tư khi không phải bỏ tiền vào sàn vàng chui, gia tăng sự lựa chọn về

đầu tư cho người dân.

Theo kinh nghiệm từ năm mô hình lớn và thành công nhất tại Mỹ, Nhật, Ấn Độ,

Trung Quốc và Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất thì Sở sẽ trực thuộc NHNN vì

vàng gắn chặt với chính sách tiền tệ, NHNN là đầu mối thành lập, tổ chức giám sát,

quản lý hoạt động của Sở giao dịch được minh bạch, hiệu quả, đảm bảo tính ổn định

của thị trường tài chính và nền kinh tế.

Về cấu trúc giao dịch, Sở giao dịch Vàng Quốc gia cũng có nhiều nét tương đồng

với Sở giao dịch chứng khoán, niêm yết mã vàng như niêm yết mã chứng khoán, nhà

đầu tư nước ngoài và trong nước đều có thể tham gia. Như vậy, giá vàng sẽ chấm dứt

sự chênh lệch, thị trường vàng cũng chấm dứt tình trạng buôn lậu, mà Nhà nước lại thu

được thuế.

Những nhà đầu tư cá nhân hoặc tổ chức sẽ thực hiện lệnh đặt mua, bán vàng thông

qua các thành viên của sở giao dich là các ngân hàng, công ty kinh doanh vàng. Các

thành viên của Sở giao dịch sẽ gồm đơn vị có chức năng tự doanh và đơn vị có thêm

chức năng môi giới. Với thành viên có chức năng môi giới, điều kiện sẽ chặt chẽ hơn

bởi tổ chức này còn làm dịch vụ quản lý tài khoản cho nhà đầu tư.

Sở giao dịch thực hiện trên cơ sở khớp lệnh liên tục, giá sẽ do cung cầu quyết định,

loại bỏ được tình trạng thao túng của một số đối tượng đầu cơ. Bên cạnh giao dịch

vàng vật chất, Sở giao dịch cung cấp giao dịch vàng tài khoản, đa dạng hóa nhu cầu

đầu tư, bảo hiểm của người dân.

52

Việc Sở giao dịch vàng xây dựng các tiêu chuẩn về vàng giao dịch trên sàn và chỉ

định một số nhãn hiệu vàng và tổ chức kiểm định vàng được chấp nhận, dần chuẩn hóa

chất lượng vàng vật chất lưu hành tại Việt Nam. Khi vàng được chuẩn hóa về chất

lượng, người dân có thể thực hiện ký gửi vàng tại các kho của Sở. Nhà đầu tư cá nhân,

tổ chức không cần phải cầm vàng đến hoặc mang vàng về mỗi lần giao dịch mà có thể

ký gửi tại các trung tâm lưu ký, sẽ tiện lợi, nhanh chóng, bớt rủi ro hơn so với phương

thức mua bán vàng miếng truyền thống. Giá mua, bán được ghi số trên tài khoản vàng

của khách hàng, họ có thể biết ngay lãi hay lỗ khi giá vàng lên hay xuống. Điều này sẽ

không phải tốn kém chi phí để nhập vàng vật chất về bán cho dân. Điểm khác biệt so

với Sở giao dịch chứng khoán, là giao dịch vàng có thêm phần kiểm soát chất lượng và

cho rút ra đối với vàng vật chất, còn chứng khoán chỉ có các nghiệp vụ ghi sổ.

3.2.2 Giảm lạm phát, tăng niềm tin đồng nội tệ, hạn chế tình trạng đôla hóa

3.2.2.1 Giảm lạm phát

Trong thời gian qua biến động giá vàng đã trở thành tâm điểm chú ý của toàn xã

hội. Sự biến động của giá vàng đã gây tâm lý bất an cho không ít người. Nhiều chuyên

gia nhận định khi các NHTM tất toán hết trạng thái vàng thì nhu cầu vàng trên thị

trường sẽ giảm xuống. Thực tế thì mặc dù ngày này đã qua, các phiên đấu thầu vàng

của NHNN xuất hiện lực cầu gia tăng rất mạnh. Điều này cho thấy có một dòng tiền

lớn trên thị trường vàng. Mặt khác sự hỗn loạn của vàng chỉ là hậu quả chứ không phải

nguyên nhân của bất ổn vĩ mô. Do tình hình kinh tế chứa đựng nhiều rủi ro, làm cho

các dòng vốn phải tìm nơi trú ẩn an toàn là vàng, khi đó người dân vẫn sẽ tìm những

loại hàng hóa mà giá trị của chúng ít bị ảnh hưởng bởi lạm phát để cất giữ. Căn

nguyên cơ bản của cơn sốt vàng là lạm phát, do đó muốn giải quyết vấn đề của vàng

thì phải có biện pháp giảm lạm phát để tăng niềm tin vào đồng nội tệ, đảm bảo khả

năng cạnh tranh với vàng.

Bên cạnh đó cất giữ vàng là tập quán, thói quen của dân cư, đối với người Á Đông

trong đó có Việt Nam, thói quen này càng sâu đậm hơn nhiều. Tuy nhiên cùng với sự

phát triển ổn định của nền kinh tế, giá trị của VND ngày càng ổn định, xã hội sẽ sử

dụng rộng rãi tiền tệ để làm tài sản cất giữ hoặc đưa vàng vào đầu tư phát triển kinh tế,

dần dần chức năng cất giữ của vàng ngày càng giảm. Việc các dòng vốn đều tập trung

vào kênh đầu tư vàng đã làm cho cầu vàng tăng cao, trong khi cung vàng bị hạn chế do

53

phụ thuộc vào hạn ngạch nhập vàng của NHNN và tâm lý đầu cơ của nhà đầu tư. Cầu

lớn hơn cung đã làm cho giá vàng trong nước tăng cao hơn rất nhiều so với vàng thế

giới. Điều này dẫn đến tình trạng buôn lậu vàng diễn ra mạnh mẽ. Buôn lậu vàng đòi

hỏi lượng ngoại tệ lớn làm cầu ngoại tệ trên thị trường tự do tăng, cầu ngoại tệ nhập

vàng tăng góp phần làm tỷ giá thị trường tự do tăng. Những điều này một mặt gây áp

lực phá giá đồng nội tệ, một mặt gây áp lực buộc NHNN cho phép nhập vàng. Cứ như

vậy vòng xoáy vàng, ngoại tệ lặp đi lặp lại góp phần gây nên tình trạng bất ổn tăng

cao. Do đó, muốn giảm bớt sự hấp dẫn của vàng cũng như giảm tác động tiêu cực của

vàng đến tỷ giá thì các kênh đầu tư khác như chứng khoán, bất động sản phải thực sự

phục hồi và hấp dẫn trở lại đối với các nhà đầu tư.

Cần phải nhắc lại rằng trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay chưa được gọi vàng

hóa như hiện tượng đô la hóa đang diễn ra. Không thể xem việc mua bán vàng miếng

nhằm cất trữ, bảo toàn vốn của cộng đồng là vàng hóa nền kinh tế, trong khi chức năng

làm phương tiện tính toán, thanh toán của vàng không còn phổ biến như trước đây nữa

do giá vàng đã bị đẩy lên quá cao trong thời gian qua. Tuy nhiên cũng nên kiên quyết

xóa bỏ chức năng định giá của vàng trong các quan hệ kinh tế xã hội.

3.2.2.2 Tăng niềm tin đồng nội tệ

Ổn định tâm lý, cải thiện lòng tin vào đồng tiền quốc gia, điều này không chỉ là

một vấn đề của lĩnh vực kinh tế mà còn liên quan đến chính trị. Bởi vì khi người dân

và doanh nghiệp luôn kỳ vọng VND mất giá, sẽ làm giảm niềm tin vào điều hành

chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ, NHNN, tiếp tục gây ra những bất ổn trên

thị trường. Điều này đã và đang xảy ra đối với nước ta. Khi tỷ giá trên thị trường tự do

biến động tăng, người dân nghĩ ngay đến việc NHNN sẽ điều chỉnh tỷ giá theo hướng

VND giảm giá. Khi giảm giá VND thì giá một số hàng hóa dịch vụ tăng, lãi suất cho

vay và huy động cũng bị đẩy lên cao, các giao dịch ngắn hạn trở lên phổ biến hơn. Nếu

chúng ta không khắc phục được kỳ vọng này, VND luôn đặt trong xu thế điều chỉnh

giảm. Điều này là rất bất ổn trong trung hạn.

3.2.2.3 Hạn chế tình trạng USD hóa

Chúng ta vẫn luôn cho rằng nhiệm vụ chống đôla hóa chủ yếu thuộc về NHNN,

trong khi các bộ, ngành chỉ có trách nhiệm phối hợp và thực tế thì sự phối hợp này còn

khá mờ nhạt. Chống đôla hóa đang chủ yếu dựa vào chính sách tiền tệ. Nhưng chính

54

sách tiền tệ liên quan đến rất nhiều mục tiêu quan trọng khác của nền kinh tế, phải linh

hoạt với diễn biến thị trường, nên những kết quả chống đôla hóa khó bền vững được.

Vì vậy, ngoài các giải pháp về chính sách tiền tệ thì chống đôla hóa còn phụ thuộc vào

chính sách tài khóa, thương mại, đầu tư. Theo đó, nhóm giải pháp ổn định vĩ mô được

coi là điều kiện tiên quyết, nền tảng cho việc chống đôla hóa. Để thực hiện tốt nhóm

giải pháp này, cần có sự phối hợp đồng bộ trong việc thực hiện các chính sách tài khóa,

tiền tệ, đầu tư, thương mại một cách chặt chẽ, linh hoạt nhằm mục tiêu ưu tiên kiểm

soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định giá trị đồng tiền, tăng cường niềm tin của

người dân đối với VND. Mặt khác, cần thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ theo

hướng từng bước giảm dần bội chi ngân sách, hạn chế tối đa việc sử dụng dự trữ ngoại

hối cho các nhu cầu chi ngân sách Nhà nước.

Bên cạnh đó, phải sử dụng các giải pháp kinh tế như:

- Thực hiện các biện pháp vĩ mô để tăng dự trữ USD.

- Chủ động trong điều hành tỷ giá, tránh tăng tỷ giá quá mạnh gây kích thích tâm

lý dự trữ USD.

- Thực hiện đa dạng hóa ngoại tệ, tránh phụ thuộc vào USD.

- Điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo hướng tránh lệ thuộc vào nguồn nhập khẩu, nhất

là nguyên liệu đầu vào để hạn chế cầu USD.

- Cần có giải pháp thu hút triệt để ngoại tệ từ các doanh nghiệp, cá nhân, người

Việt Nam ở nước ngoài khi mang ngoại tệ vào Việt Nam.

- Sửa đổi các văn bản và quản lý chặt chẽ việc niêm yết hàng hóa trong nước bằng

VND, cấm niêm yết bằng USD. Thực tế vẫn còn không ít cửa hàng, khách sạn

cao cấp lại ngang nhiên niêm yết giá, thu tiền bán hàng bằng USD.

- Kiều hối về Việt Nam cũng xử lý chuyển đổi ra VND để chi tiêu trong nước; còn

nguồn kiều hối chưa tiêu dùng họ vẫn có thể gửi tiết kiệm tại ngân hàng thương

mại được phép bằng ngoại tệ hoặc bằng tài khoản VND chuyển đổi.

3.2.3 Từng bước tạo sự liên thông với thị trường vàng thế giới

Tại Việt Nam, mức chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và thế giới thời gian

qua được duy trì khá lâu, có thời điểm vượt 6 triệu đồng/lượng, đã khiến dư luận đặt ra

nhiều câu hỏi có phải nguyên nhân do độc quyền gia công và sản xuất vàng miếng của

NHNN. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, đây là bước quá độ cần thiết nhưng trong

55

dài hạn cần tính tới việc tự do hóa thị trường vàng. Trước khi có Nghị định 24, mỗi

năm NHNN phải cấp phép nhập khẩu bình quân khoảng 50 - 60 tấn vàng nguyên liệu

để sản xuất vàng miếng. Việc này đã gây ảnh hưởng đến tỷ giá, chỉ số giá tiêu dùng, sự

ổn định kinh tế vĩ mô và ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên,

sau Nghị định 24, khi NHNN độc quyền nhập khẩu, sản xuất vàng miếng đã làm giảm

mạnh nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu vàng. Việc không cấp phép nhập khẩu vàng

nguyên liệu để sản xuất vàng miếng cùng với hiệu quả của các chính sách bình ổn kinh

tế vĩ mô của Chính phủ giúp tình hình cung cầu ngoại tệ được cải thiện cơ bản, giảm

đáng kể tình trạng đô la hóa nền kinh tế. Như vậy, việc NHNN độc quyền sản xuất,

hạn chế nhập khẩu vàng, đưa SJC thành thương hiệu vàng quốc gia là việc làm bắt

buộc trong ngắn hạn để ổn định thị trường. Ưu điểm là vậy, tuy nhiên, nhược điểm của

việc hạn chế nhập khẩu vàng là không thể can thiệp nhanh khi giá vàng trong nước và

thế giới chênh nhau. Chính vì thế, trong dài hạn, NHNN cần tiến tới tự do hóa thị

trường vàng miếng, tạo sự liên thông giữa thị trường vàng trong nước và quốc tế.

Để phát triển lành mạnh thị trường vàng cần đảm bảo sự thông suốt trong phạm vi

nền kinh tế và liên thông với thị trường quốc tế. Kinh nghiệm cho thấy, một thị trường

phát triển lành mạnh không có nghĩa để thị trường phát triển tự do, nhưng cũng không

thể chỉ bằng các giải pháp hành chính, nhất là trong bối cảnh hội nhập. Việc phát triển

thị trường vàng cần phải có lộ trình với những bước mở từ từ và thận trọng, phù hợp

với trình độ phát triển của thị trường tài chính trong nước. Việc điều tiết các chủ thể

tham gia thị trường phải được thực hiện thông qua các công cụ và hàng rào kỹ thuật để

phát huy được sự đóng góp của thị trường vàng vào kết quả chung của nền kinh tế.

Kinh nghiệm quản lý của các thị trường vàng của Ấn Độ và Trung Quốc cho thấy,

việc quản lý theo hướng kiểm soát ngặt nghèo đều thất bại. Ấn Độ và Trung Quốc vốn

là hai thị trường tiêu thụ vàng vật chất lớn nhất thế giới. Đây cũng là hai quốc gia từng

trải qua thời gian dài kiểm soát rất chặt thị trường vàng, nhưng sau đó phải tiến hành

cải cách thị trường này theo hướng tự do hóa và họ đã đạt được các thành công đáng

kể. Do đó, việc NHNN tham gia sản xuất và kinh doanh vàng miếng chỉ nên thực hiện

ngắn hạn, trong dài hạn NHNN phải là cơ quan nghiên cứu, ban hành chính sách, chứ

không phải đi mua, bán vàng. Vì thế, trong dài hạn, Chính phủ nên quay lại cho xuất

nhập vàng hoặc có thể thành lập sàn vàng quốc gia.

56

Kinh nghiệm của nhiều nước, tiến trình tự do hóa thị trường vàng bắt đầu từ tự do

hóa thị trường vàng vật chất, sau đó đến kinh doanh vàng tài khoản và cuối cùng là

xóa bỏ kiểm soát đối với hoạt động xuất nhập khẩu vàng. Hoạt động xuất nhập khẩu

vàng do liên quan đến cung cầu ngoại tệ nên trong điều kiện nước ta còn kiểm soát

chặt chẽ thị trường ngoại hối thì vẫn nên thực hiện kiểm soát họat động xuất nhập

khẩu vàng ở mức độ có thể. Nhà nước chủ yếu quản lý thông qua chính sách thuế, bán

ngoại tệ, kiểm tra, thanh tra, can thiệp khi cần thiết. NHNN nên sử dụng công cụ thị

trường trong quản lý thị trường vàng hơn là các quyết định hành chính. Như thế thì sự

khác biệt giữa vàng trong nước và vàng quốc tế mới giảm dần.

Đối với hoạt động nhập khẩu vàng cần kịp thời can thiệp khi thị trường có biến

động, cơ chế can thiệp linh hoạt hơn nhằm giúp thị trường vàng trong nước liên thông

với thị trường quốc tế, tránh được những cú sốc về giá và góp phần giảm thiểu tình

trạng buôn lậu vàng qua biên giới. Hạn mức được cấp cần phù hợp với nhu cầu của thị

trường và khả năng cân đối ngoại tệ của doanh nghiệp đó. Nên tránh tình trạng cấp hạn

ngạch nhập khẩu vàng trong thời gian quá ngắn, vì sẽ dẫn tới tình trạng thu gom USD

để nhập khẩu, gây căng thẳng cho thị trường ngoại tệ, đồng thời gây bất lợi cho doanh

nghiệp vì không có điều kiện để chọn giá nhập thích hợp, từ đó không phát huy vai trò

bình ổn giá.

3.2.4 Chuyển đổi dần từ thị trường vàng vật chất sang thị trường có ứng dụng

các sản phẩm phòng ngừa rủi ro

Thế giới đang chuyển hướng từ thị trường vật chất (thị trường hàng hoá) sang thị

trường tài chính với các sản phẩm đầu tư tiện ích hơn (sản phẩm phái sinh, chứng chỉ

quỹ...). Trong khi đó Việt Nam vẫn chú trọng quản lý sản xuất và kinh doanh vàng

miếng. Việc quản lý như vậy đã làm cho danh mục sản phẩm tài chính bị hạn chế. Do

đó, phải dần chuyển đổi từ thị trường vàng vật chất sang thị trường vàng có các sản

phẩm bảo hiểm rủi ro, tạo cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư có thêm nhiều công cụ

bảo hiểm rủi ro và hội nhập, tiếp cận được những sản phẩm tài chính thông dụng trên

thị trường quốc tế.

Cần có sự tách bạch giữa hoạt động kinh doanh vàng vật chất và phi vật chất, tránh

lặp lại bài học trong quá khứ khi Việt Nam cho phép các sàn giao dịch vàng, các sản

phẩm vàng phi vật chất như kinh doanh vàng trên tài khoản ra đời trong khi thực tiễn

57

phát triển của Việt Nam chưa đáp ứng được (về cơ chế giám sát, kiến thức chuyên

môn của các nhà đầu tư). Kinh nghiệm điều tiết hoạt động kinh doanh vàng tại Trung

Quốc và Ấn Ðộ – hai quốc gia có nhiều nét tương đồng với thị trường vàng Việt Nam

cho thấy, trong quá trình phát triển thị trường vàng, các vấn đề liên quan đến giao dịch

vàng vật chất được ưu tiên xử lý trước các vấn đề liên quan đến giao dịch các sản

phẩm vàng phi vật chất.

Các công cụ, các loại hình hoạt động trên thị trường vàng cần có lộ trình phát triển

từng bước từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với trình độ phát triển của thị trường và

kiến thức của nhà đầu tư, phù hợp với điều kiện và trình độ quản lý cụ thể của đất

nước. Kinh nghiệm nghiên cứu chỉ ra rằng, trước tiên cần ưu tiên phát triển các sản

phẩm kinh doanh vàng vật chất trước các sản phẩm vàng tài chính với các hình thức

đơn giản ban đầu là các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu,… rồi sau đó, mới phát triển các

hình thức kinh doanh vàng tài khoản với các sản phẩm vàng phái sinh…Việt Nam có

thể tham khảo kinh nghiệm của Ấn Ðộ trong việc tập trung phát triển các sản phẩm để

có thể huy động được tối đa lượng vàng trong nền kinh tế trong giai đoạn quản lý tập

trung các hoạt động đầu tư, kinh doanh vàng hiện nay.

3.2.5 Ổn định tâm lý thị trường, triệt tiêu họat động đầu cơ trục lợi

Việc chênh lệch giữa giá vàng trong nước với giá quốc tế có thời điểm vượt xa 6

triệu đồng/lượng và được duy trì thời gian dài cho thấy bên cạnh hoạt động đầu cơ đã

có sụ tiếp tay của yếu tố tâm lý. Sự hoảng loạn là từ dùng để diễn tả cho hành động

chen lấn xếp hàng đội mưa mua vàng giá dỉnh điểm vào năm 2011 khi giá vàng chạm

mức 49,2 triệu đồng/lượng. Lý giải cho điều này là tâm lý lo sợ VND mất giá, tâm lý

thiếu lòng tin vào VND trong lúc lo ngại giá vàng trong nước còn có thể tăng nữa

khiến nhu cầu vàng tăng mạnh trong khi nguồn cung có giới hạn dẫn đến thị trường

chứng kiến các cơn sốt vàng.

Theo phân tích có 2 nguyên nhân dẫn đến việc người dân chạy theo các cơn sốt giá

vàng. Thứ nhất là do sức hấp dẫn trong lựa chọn đầu tư ngắn hạn của người dân đối

với vàng và USD, nhiều người hy vọng trong những cơn sốt sẽ có sóng để kiếm lời.

Tuy nhiên, chỉ có một bộ phận nhỏ đầu cơ tìm được lợi nhuận, còn đa số người dân bị

cuốn vào vòng xoáy tâm lý là bị thua lỗ. Thứ hai, nhiều người vẫn quen tích trữ vàng

như là tài sản đảm bảo, khi giá vừa biến động, người dân sợ mất giá trị tài sản nên vội

58

ra mua bán gây xáo trộn trên trường, tạo nên cơn sốt. Những cơn sốt trên thị trường tự

do không dành cho hầu hết những người dân thiếu kiến thức và kinh nghiệm, không

nên vì tâm lý mà bị cuốn vào những vòng xoáy này.

Bên cạnh yếu tố tâm lý thì việc suy giảm niềm tin vào sự phản ứng nhanh nhạy

trong quản lý thị trường của NHNN bị xói mòn, người dân dễ bị dẫn dắt bởi thông tin

truyền miệng, tin đồn, một số đối tượng có tiềm lực kinh tế làm động tác giả giảm

cung vàng là sẽ xuất hiện cơn sốt giá. Khắc phục tình trạng này không quá khó nếu có

sự can thiệp nhanh chóng và kịp thời từ NHNN, dẫn chứng trường hợp giá vàng lên

cao đỉnh điểm, Thống đốc NHNN tuyên bố cho nhập khẩu vàng không hạn chế, cơn

sốt vàng ngay lập tức xì hơi. Tuy nhiên những phản ứng này của NHNN thường là quá

chậm. Nguyên nhân có thể là do NHNN phải cân nhắc lựa chọn giữa nhiều mục tiêu

trong nền kinh tế. Mặt khác, thị trường vàng luôn đòi hỏi thông tin minh bạch, khi thị

trường còn quá nhiều bất cập thì rất cần sự can thiệp, cung cấp thông tin chính thức, có

chất lượng và trách nhiệm cao của cơ quan quản lý.

Với việc đấu thầu vàng, NHNN không còn một mình thống lĩnh thị trường mà thêm

vào đó là một nhóm gồm những TCTD và doanh nghiệp được phép kinh doanh vàng

miếng SJC, cùng thống lĩnh thị trường. Nguyên nhân từ sự quản lý yếu kém, giải pháp

và chính sách điều hành không phù hợp, quá thiên về hành chính, nặng về cấm đoán

mà không bảo đảm cân đối quan hệ cung cầu vàng. Trong khi đó, doanh nghiệp, người

dân có nhu cầu chọn vàng làm nơi trú ẩn để bảo toàn vốn, cất trữ tài sản khi lạm phát

cao, giá trị VND giảm sút, chênh lệch cao giữa giá vàng trong nước và giá thế giới.

Hai mặt xung đột đó gây nên những biến động phức tạp trên thị trường, đã tạo cơ hội

cho giới đầu cơ hoạt động.

Để ngăn chặn hiệu quả yếu tố tâm lý và tin đồn chúng ta cần hoàn thiện các nguyên

tắc quản lý kinh tế, đảm bảo các chính sách phải minh bạch, đồng thời phát hiện kịp

thời các cá nhân, tổ chức tung tin đồn nhằm mục tiêu đầu cơ, trục lợi. Phải thừa nhận

rằng hiện tượng đầu cơ trên thị trường vàng là có. Nếu chú ý ta sẽ thấy những ngày

NHNN tổ chức đấu thầu thì giá vàng trong nước sẽ biến động nhiều hơn. Kịch bản thứ

nhất là các TCTD và doanh nghiệp sẽ chào bán vàng trước ra thị trường, sau đó kéo

giá thị trường xuống để mua giá thấp từ NHNN. Kịch bản thứ hai là thoạt đầu tạo ra

cầu giả tạo nhằm đẩy giá thị trường lên cao để bán, tiếp theo là tạo ra cung giả nhằm

59

đè giá thị trường để được mua vàng rẻ từ NHNN. Kịch bản gần đây nhất là một số

TCTD đặt giá thầu cao (cao hơn so với giá đang giao dịch trên thị trường thời điểm

đó), và như vậy sẽ có một số TCTD và doanh nghiệp khác rớt thầu buộc phải tìm mua

lại để cân cho trạng thái đã bán trước đó, tạo lực đẩy giá lên, kết quả là dù mua giá cao

bất hợp lý thì nhóm đầu cơ làm giá thị trường vẫn có lợi nhuận.

3.2.6 Quản lý thị trường vàng của NHNN theo hướng linh hoạt, loại bỏ yếu tố

độc quyền

Trước đây, do nhận định rằng sự bất ổn của thị trường vàng đã góp phần gây nên

tình trạng bất ổn vĩ mô, NHNN đã tiến hành can thiệp vào thị trường vàng. Tuy nhiên

biện pháp này tỏ ra kém hiệu quả. Những động thái can thiệp này của NHNN đang đi

ngược lại nguyên tắc thị trường và không chữa trị được tận gốc của vấn đề. Nó phạm

phải ba sai lầm dẫn đến thất bại của Nhà nước trong việc quản lý hiệu quả thị trường

vàng.

- Các chính sách đưa ra đã không lường hết những phản ứng của thị trường. Khi

NHNN dẹp bỏ sàn vàng ảo, lập tức các nhà đầu tư sẽ chuyển dòng vốn của mình sang

vàng miếng (chứ không phải là sang các kênh đầu tư mà Nhà nước mong muốn như

tiết kiệm), làm cho thị trường vàng miếng càng nóng sốt hơn. Và bây giờ, trong khi

những rủi ro của nền kinh tế vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí còn tăng cao thì kênh đầu

tư ưa chuộng nhất vẫn là vàng. Do đó, nếu NHNN tuyên bố sẽ xoá bỏ thị trường vàng

miếng có thể làm phát sinh thị trường vàng lá, vàng thỏi.

- Các chính sách chú ý quá mức đến các vấn đề ngắn hạn. Những biến động gần

đây của thị trường vàng chỉ mang tính ngắn hạn do tác động của tình hình kinh tế và

chính sách hạn ngạch vàng.

- Các chính sách can thiệp của Nhà nước không tuân theo nguyên tắc thị trường.

Như đã phân tích ở trên, nguyên nhân sâu xa của những bất ổn trên thị trường vàng

không xuất phát từ bản thân thị trường này mà do tác động của chính sách hạn ngạch

nhập khẩu của NHNN trong điều kiện bất ổn kinh tế vĩ mô. Do đó, thay vì cấm đoán

thị trường vàng, NHNN có thể thay đổi chính sách hạn ngạch. Theo đó, NHNN có thể

chuyển từ việc cấp hạn ngạch nhập khẩu vàng sang việc trực tiếp hoặc uỷ thác cho các

công ty nhập khẩu vàng để hoán đổi một phần dự trữ ngoại tệ sang dự trữ vàng. Động

60

thái này làm tăng nguồn cung trong nước qua đó làm giảm tâm lý đầu cơ để bình ổn

thị trường vàng.

Gần đây, khởi đầu cho việc quản lý thị trường vàng bằng Thông tư 22/2010 của

NHNN ban hành ngày 29-10-2010 có quy định trong Điều 3:“Tổ chức tín dụng

(TCTD) không được chuyển đổi vốn huy động bằng vàng thành VND” kể từ ngày có

hiệu lực, đối với vốn bằng vàng đã chuyển đổi thành tiền theo quy định tại Khoản 2

Điều 7 của Quyết định 432/2000 chấm dứt ngày 30-6-2011. Tuy nhiên, đến ngày 29-4-

2011 NHNN đã ban hành Thông tư 11/2011/TT-NHNN chuyển sang ngày 1-5-2012.

Tiếp theo đó, Thông tư 12/2012/TT-NHNN ban hành ngày 27-4-2012 đã chuyển sang

ngày 25-11-2012. Ngày 26-10-2012, NHNN đã có Văn bản 7019/NHNN-QLNH, yêu

cầu các TCTD còn số dư huy động và cho vay vốn bằng vàng thực hiện một số nội

dung để chấm dứt huy động vốn bằng vàng theo quy định tại Thông tư 12/2012/TT-

NHNN, thời gian không vượt quá ngày 30-6-2013. Như vậy, cứ đến những mốc quan

trọng thì thị trường phải chờ đợi sự thay đổi trong chính sách của cơ quan quản lý.

Việc Nhà nước sử dụng doanh nghiệp và NHTM (nhóm G5+1) để can thiệp thị

trường, thể hiện qua việc cho phép họ bán vàng huy động của dân mà không được

nhập khẩu để trả lại lượng vàng vật chất đã bán dẫn đến tình trạng khi đóng trạng thái

giải quyết thanh khoản đẩy giá vàng trong nước liên tục lên cao và chênh lệch quá lớn

so với giá thế giới. Việc các doanh nghiệp tham gia bình ổn giá vàng khi không được

chuyển đổi các trạng thái vàng mua ở tài khoản sang vàng vật chất để mang về bù đắp

bắt buộc phải mua vàng trong nước, kết quả là không những bản thân các doanh

nghiệp này bị thua lỗ mà còn kéo chênh lệch cao hơn. Vì vậy, việc thông qua các

doanh nghiệp để bình ổn giá vàng đã không đạt giải quyết được bế tắc của thị trường

và vai trò bình ổn thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước không có hiệu quả.

Tuy nhiên, có thể khẳng định 2012 là năm đánh dấu sự thành công bước đầu của

công tác quản lý thị trường vàng nói chung thông qua việc NHNN đã từng bước hoàn

thiện cơ sở pháp lý để quản lý thị trường vàng. Tuy nhiên, với mức chênh lệch quá lớn

giữa thị trường trong nước và thế giới, khó tránh khỏi việc giới kinh doanh nhập lậu

vàng để tiêu thụ nội địa thông qua việc chuyển hóa qua vàng nữ trang.

Chính sự độc quyền vàng miếng của NHNN đã dẫn đến sự chênh lệch giá vàng

trong nước và thế giới tăng cao. Từ đầu năm 2011 đến tháng 9-2012 giá vàng chênh

61

lệch chỉ vài trăm ngàn đồng, sau khi NHNN quản lý thị trường vàng theo hướng độc

quyền sản xuất và kinh doanh vàng miếng SJC, đã làm lực cầu vàng miếng SJC của

người dân và cả những ngân hàng nhằm tất toán trạng thái vàng vào tháng 6-2013 đã

được khuếch đại, trong khi nguồn cung thị trường thiếu nên giá vàng trong nước và thế

giới chênh lệch ngày càng cao vì cung không đủ cầu. Mặc dù, NHNN đã tổ chức đấu

thầu vàng miếng tạo cung cho thi trường nhưng lực cầu vàng vẫn tiếp tục bất ổn. Do

đó, NHNN đang rơi vào 3 thế kẹt trong quản lý thị trường vàng:

- Thứ nhất, nếu ngưng đấu thầu vàng thì thị trường sẽ hỗn loạn và giá vàng trong

nước tiếp tục tăng.

- Thứ hai, nếu tiếp tục bán thêm ra thị trường thì lượng vàng dự trữ ngoại hối sẽ

cạn dần.

- Thứ ba, NHNN nhập vàng mới về bán thì tiêu hao dự trữ ngoại hối. Hoạt động

đấu thầu của NHNN vô hình dung đã tạo một luồng đầu cơ mới, bởi nếu có một lượng

vàng lớn, giá thấp được cung ra, giới đầu cơ sẽ lao vào ngay khi họ hiểu tâm lý người

Việt Nam là vẫn luôn muốn nắm giữ vàng, sau đó, họ sẽ tìm cách này, cách khác đẩy

giá lên. Cần nhìn nhận là NHNN không có đâu nguồn lực để cứ chạy theo giữ giá vàng

theo kiểu hành chính như thế, không thể cung ứng ra một lượng vàng không có giới

hạn cho thị trường trong khi nguồn lực của họ chỉ là hữu hạn. Vì vậy, phải để thị

trường dần tự điều chỉnh, còn NHNN phát huy vai trò quản lý.

Mặt khác, chính sách của NHNN đưa ra chưa thực sự đồng bộ, khi mà chỉ tập trung

quản lý vàng miếng nhưng lại bỏ ngỏ vàng nữ trang, vàng phi SJC. Vô hình trung,

NHNN đang khiến cho người dân hướng nhu cầu tích trữ từ vàng miếng SJC sang

vàng khác, kể cả vàng nữ trang. Mặt khác, so với vàng miếng SJC thì đầu vào của

vàng nữ trang, vàng phi SJC lại khó quản lý hơn nhiều. Vàng nhập lậu hoàn toàn có

thể được hợp thức hóa thông qua vàng nữ trang và vàng phi SJC. Hơn nữa, muốn loại

bỏ hoàn toàn yếu tố độc quyền hiện nay, tránh được việc bắt tay thao túng thị trường

của một số đơn vị kinh doanh, NHNN nên thành lập sàn vàng như đã phân tích ở trên.

Chúng ta không tranh luận đến vấn đề bán vàng của NHNN bởi các ngân hàng trung

ương trên thế giới đều làm điều này, tuy nhiên họ bán thông qua sàn vàng chứ không

đấu giá như cách của NHNN. Như vậy NHNN sẽ kiểm soát được toàn bộ giao dịch

62

mua bán trên thị trường vàng khi mà các đơn vị tham gia sàn phải có tài khoản mở thể

hiện các hoạt động xuất nhập vàng.

Khi nền kinh tế đã bắt đầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới, nó đòi hỏi thể chế

kinh tế mới và phương thức quản lý mới mà ở đó Nhà nước đóng vai trò định hướng

hơn là trực tiếp chèo lái các hoạt động kinh tế. Sự can thiệp của Nhà nước vào nền

kinh tế đòi hỏi phải có cơ sở rõ ràng và biện pháp can thiệp cần tuân theo các nguyên

tắc thị trường, không nên thực hiện các biện pháp có tính chất hành chính.

3.2.7 Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh tỷ giá hối đoái

TGHĐ là giá cả đối ngoại của đồng tiền, theo tín hiệu thị trường tỷ giá lúc lên, lúc

xuống phải được xem là việc bình thường của nền kinh tế. Khi tỷ giá diễn biến theo

chiều hướng bất lợi, thì bất cứ quốc gia nào cũng cần can thiệp tỷ giá. Điểm khác nhau

là thời điểm can thiệp, công cụ can thiệp, mức độ can thiệp và sự giám sát của quá

trình can thiệp.

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trong điều hành chính sách tỷ giá cho thấy, việc

chọn thời điểm điều chỉnh với mức độ hợp lý là yếu tố quan trọng, thậm chí quyết định

cho việc ổn định tỷ giá và khắc phục áp lực cộng hưởng lên tỷ giá và thị trường. Với

kinh nghiệm này, khi tỷ giá đang dần ở thế ổn định, NHNN sẽ chủ động điều chỉnh

tăng/giảm nếu dự báo trong thời gian tới là cần thiết, không nên để diễn biến tỷ giá ở

mức căng thẳng mới điều chỉnh, bởi điều chỉnh thời điểm này dễ gây hiệu ứng bất ổn

từ tỷ giá sang các chỉ tiêu vĩ mô khác.

3.2.8 Điều chỉnh tỷ giá phải xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế

Tỷ giá đóng vai trò quan trọng trong ngọai thương, nó tác động nhiều chiều đến

kinh tế vĩ mô. Theo lý thuyết đúng là tỷ giá tăng có tác động khuyến khích đối với

xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, do đó sẽ giảm nhập siêu. Tuy nhiên, thực tế nền kinh tế

Việt Nam chúng ta cần thận trọng khi vận dụng lý thuyết này.

Do cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có nhiều bất cập, 70 -80% đầu vào

của mặt hàng xuất khẩu là nhập khẩu, trong khi xuất khẩu lại lệ thuộc vào biến động

trên thị trường quốc tế về điều kiện thương mại cũng như biến động giá cả. Do xuất

khẩu nhiều, nhưng hầu hết ở dạng thô, giá trị gia tăng trên từng đơn vị xuất khẩu

không cao, trong khi nhập siêu rất lớn, chủ yếu từ Trung Quốc. Như vậy sự phụ thuộc

của giá cả trong nước vào giá cả thị trường quốc tế khá lớn. Tỷ giá tăng tác động đến

63

lạm phát dưới 2 góc độ. Ở góc độ thứ nhất là chi phí đẩy - một yếu tố quan trọng đối

với lạm phát - sẽ tăng do giá nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu máy móc thiết bị, dụng

cụ phụ tùng tính bằng VND tăng. Ở góc độ thứ hai là yếu tố tâm lý, yếu tố lòng tin vào

đồng tiền quốc gia, gia tăng tâm lý kỳ vọng lạm phát. Yếu tố tâm lý không phải là yếu

tố kinh tế trực tiếp của lạm phát, nhưng trong nhiều trường hợp còn tác động mạnh

hơn cả yếu tố kinh tế. Xét mối quan hệ giữa tỷ giá với nợ quốc gia cũng cho thấy cần

rất thận trọng trong việc nâng hay giảm giá của tiền đồng. Nợ quốc gia của Việt Nam

chủ yếu là nợ nước ngoài (khoảng 40% GDP), nếu giảm giá tiền tệ thì ảnh hưởng

không nhỏ đến nợ quốc gia. Với cơ cấu nợ công của Việt Nam nghiêng về nợ nước

ngoài, thì khi tỷ giá điều chỉnh tăng lên, sẽ dẫn đến rủi ro nợ công.

Do đó, quan điểm cần điều chỉnh tỷ giá theo hướng tăng để khuyến khích xuất

khẩu, chủ động nhập khẩu là trực tiếp hoặc gián tiếp thu hẹp vai trò của tỷ giá, trong

khi TGHĐ còn liên quan đến hàng loạt vấn đề như cán cân thanh toán, nợ quốc gia, thị

trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và bất động sản. Vì vậy, khi cần điều chỉnh tỷ

giá không chỉ đặt nó trong mối quan hệ với xuất, nhập khẩu, mà còn phải xem nó trong

mối quan hệ với đầu tư, lãi suất và vay nợ nước ngoài v.v… trong chiến lược chung là

nâng cao uy tín và vị thế của VND, hướng đến một đồng tiền tự do chuyển đổi trong

khu vực. Điều hành tỷ giá xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế, có nghĩa tại một

thời điểm phải xác định rõ ràng yếu tố nào cần ưu tiên và yếu tố nào có thể hy sinh để

đạt lợi ích tổng thể tối đa, đòi hỏi phải phân tích rõ ràng thực trạng nền kinh tế của đất

nước.

3.2.9 Nâng cao hiệu quả của các công cụ can thiệp tỷ giá

3.2.9.1 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở

Do lượng ngoại tệ dự trữ của Việt Nam còn quá thấp nên công cụ này chưa đủ sức

để giữ vai trò chủ đạo trong điều chỉnh tỷ giá. Do đó, để công cụ này phát huy hiệu

quả yêu cầu phải:

- Xây dựng khung pháp lý thích hợp cho nghiệp vụ thị trường mở.

- Tranh thủ tối đa khả năng tích lũy ngoại tệ, đồng thời duy trì mức dự trữ

ngoại tệ tương xứng với nhịp độ kim ngạch nhập khẩu.

64

- Tập trung quản lý ngoại tệ vào một đầu mối duy nhất là Ngân hàng Nhà nước,

ngay cả ngoại tệ của Kho bạc Nhà nước có được cũng phải bán ngay cho Ngân hàng

Nhà nước và khi có nhu cầu thì mua lại như những đơn vị khác.

3.2.9.2 Công cụ lãi suất tái chiết khấu

Bản thân lãi suất chỉ có tác động gián tiếp đến tỷ giá vì đóng vai trò là biến ngoại

sinh, tuy nhiên nó lại tác động trực tiếp đến đầu tư và sản xuất kinh doanh vì gắn liền

với chi phí sử dụng vốn. Do vậy, việc sử dụng công cụ này cần nhiều sự cân nhắc.

Luồng vốn ra vào nền kinh tế Việt Nam chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu

tư gián tiếp và dòng vốn ngắn hạn gần như không có do thị trường chứng khoán và

tiền tệ chưa phát triển. Hơn nữa, giao dịch vốn chưa được mở cửa một phần bởi các

quy định của Chính phủ, một phần do điều kiện tài chính Việt Nam chưa cho phép và

VND chưa được tự do chuyển đổi. Tất cả cho thấy lãi suất chưa thể có ảnh hưởng

mạnh đến tỷ giá. Tác động của nó chỉ giới hạn ở chỗ làm thay đổi những dòng tiền tệ

lưu thông trong thị trường nội địa, từ nội tệ chuyển sang ngoại tệ và ngược lại. Vậy, để

từng bước nâng cao sức mạnh của công cụ này sẽ đồng nhất với việc tự do hóa tài

khoản vốn quốc gia, mà trước hết là các giao dịch vốn ngắn hạn và đầu tư gián tiếp.

3.2.9.3 Công cụ hành chính

Để tạo môi trường thuận lợi cho các công cụ giao dịch ngoại hối, chính sách quản

lý ngoại hối phải được đổi mới theo hướng tự do hóa, giảm việc sử dụng các biện pháp

hành chính, tăng sử dụng các biện pháp kinh tế trong điều hành chính sách quản lý

ngoại hối. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, không thể thiếu các biện pháp hành

chính được thực hiện song song với những giải pháp dựa trên nguyên tắc thị trường

nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những bất ổn có thể xảy ra trên thị trường ngoại hối.

Những biện pháp hành chính trong thời gian qua đã đem lại hiệu quả khá tốt, nhờ

đó mà Việt Nam đã thành công trong việc điều hành chính sách tỷ giá hối. Tuy đây chỉ

là giải pháp tình thế nhưng việc dỡ bỏ tức thời các biện pháp hành chính cũng không

phải khả thi. Chúng chỉ nên được nới lỏng tương xứng với mức can thiệp của các công

cụ kinh tế. Để hoàn thiện công cụ này có thể tập trung vào một số điểm sau:

- Tăng cường giám sát các giao dịch ngoại hối thông qua việc kiểm soát chặt hợp

đồng thanh toán ngoại tệ, đề ra mức phạt nặng đối với trường hợp kê khống giá của

hợp đồng xuất nhập khẩu và đối với các hành vi gian lận khác.

65

- Duy trì công tác thanh tra, kiểm tra việc thực thi quy định về chế độ quản lý

ngoại hối hiện hành.

- Rà soát thường xuyên các văn bản pháp quy để cải tiến kịp thời.

3.2.10 Đa dạng hóa công cụ giao dịch trên thị trường ngoại hối

Trên thế giới các nghiệp vụ phái sinh để bảo hiểm rủi ro tỷ giá như forward, swap,

future, option đã được sử dụng phổ biến từ rất lâu với doanh số hàng ngày lên tới hàng

trăm tỷ USD. Tuy nhiên, ở Việt Nam sản phẩm phái sinh trong phòng chống rủi ro là

một sản phẩm khá mới và phức tạp đối với thị trường Việt Nam. Các nghiệp vụ phái

sinh vẫn còn sơ khai, kém phát triển thể hiện ở doanh số giao dịch thấp, thực tế có

nhiều NHTM được thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại hối từ lâu nhưng đến nay

vẫn không có giao dịch. Nguyên nhân do thiếu nhu cầu thực sự từ khách hàng, doanh

nghiệp Việt Nam vẫn chưa có thói quen hay nói chính xác hơn là chưa quan tâm tới

phòng chống rủi ro đối với các hoạt động ngoại tệ của mình, đồng thời việc hiểu biết

các công cụ phái sinh để phòng chống rủi ro còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, việc ứng

dụng các công cụ phái sinh nhằm bảo hiểm rủi ro tỷ giá tại Việt Nam đang gặp nhiều

khó khăn.

Do đó, chính sách quản lý ngọai hối cần được đổi mới theo hướng thuận lợi cho

các công cụ giao dịch ngoại hối hiện đại. Tăng cường khả năng tiếp cận và sử dụng

công cụ phái sinh ngoại hối của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân mục đích

để bảo hiểm rủi ro tỷ giá.

Về phía NHNN cần nghiên cứu ban hành những quy tắc cơ bản nhất trong giao

dịch phái sinh, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ phù hợp với điều kiện thị trường của

Việt Nam hiện nay, để có hành lang pháp lý chung cho hoạt động của các NHTM.

Tránh để các NHTM thực hiện nghiệp vụ mới một cách riêng lẻ theo sự hiểu biết của

ngân hàng, dẫn đến tình trạng không thống nhất, dễ gây ra tranh chấp khi có sự cố xảy

ra.

Các NHTM cần đẩy mạnh thông tin và tư vấn cho các doanh nghiệp xuất nhập

khẩu sử dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro.

3.2.11 Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam

(cid:153) Đối với thị trường ngọai tệ liên ngân hàng

66

Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN tổ chức, giám sát và điều hành nhằm

hình thành một thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các tổ chức tín dụng là

thành viên thị trường. Ngân hàng Nhà nước tham gia thị trường với tư cách là người

mua, người bán cuối cùng, thực hiện can thiệp khi cần thiết vì mục tiêu chính sách tiền

tệ quốc gia. Do đó, NHNN cần tăng cường hơn nữa vai trò trên thị trường ngoại tệ liên

ngân hàng.

Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là điều kiện cần thiết để qua đó

NHNN có thể nắm được mối quan hệ cung cầu ngọai tệ, qua đó thực hiện các biện

pháp khi cần thiết. Đồng thời phải có sự phối hợp với thị trường nội tệ liên ngân hàng.

(cid:153) Đối với thị trường ngoại tệ tự do

Sự tồn tại của thị trường ngoại tệ tự do là một tất yếu xuất phát từ thực trạng kinh

tế và cơ chế quản lý ngoại hối của Việt Nam. Nắm bắt những tín hiệu trên thị trường

này, nơi mà các lực thị trường về cơ bản là không bị điều phối bởi các quy định hành

chính, có thể giúp ích công tác điều hành tỷ giá trên thị trường chính thức.

Độ chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen tạo nên khái niệm độ mở

“cánh kéo”, được xem là hàn thử biểu để đánh giá mức độ hợp lý trong điều hành tỷ

giá. Tính hợp lý bộc lộ khi hai tỷ giá này xích gần lại nhau. Không nhất thiết làm

chúng trùng nhau vì thị trường chợ đen cũng chỉ một mảng nhỏ trong tổng thể thị

trường và tính bất hợp pháp của nó luôn chứa đựng một khoản rủi ro nhất định. Tốt

hơn là nên chấp nhận sự chênh lệch này, miễn sao nó không đủ lớn để làm rò rỉ ngoại

tệ từ thị trường chính thức ra chốn chợ đen.

Bên cạnh việc chấp nhận sự tồn tại của thị trường này, chúng ta phải đấu tranh với

hiện tượng đầu cơ, tích trữ để kiềm chế tác động xấu của thị trường ngoại tệ chợ đen,

không để những động thái trên thị trường tự do báo hiệu cho những thay đổi của chính

sách quản lý. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ trong việc kiểm tra, thanh tra xử lý vi

phạm trên thị trường ngoại tệ tự do để ngăn chặn đầu cơ, đặc biệt là đầu cơ mua USD

nhập khẩu vàng lậu để hưởng chênh lệch giá.

(cid:153) Đối với dự trữ ngoại hối

Đối với dự trữ ngọai hối cần lựa chọn cơ cấu dự trữ ngoại tệ khả thi. Chúng ta nên

lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và dự trữ, bao gồm một số đồng tiền của

những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại.

67

Chế độ tỷ giá gắn với một rổ ngoại tệ như vậy sẽ làm tăng tính ổn định của tỷ giá hối

đoái danh nghĩa. Trong số các đồng tiền mạnh hiện nay, đáng quan tâm chỉ có ba loại:

USD, EUR và JPY.

Mặt khác, vàng vẫn giữ vai trò quan trọng trong dự trữ ngoại hối của các nước, đặc

biệt đối với các nước đang phát triển, lượng vàng dự trữ có xu hướng tăng theo xu

hướng tăng lên của dự trữ ngoại hối. Bên cạnh USD, dự trữ vàng là cách đa dạng hóa

dự trữ ngoại hối mà ngân hàng trung ương nhiều quốc gia, đặc biệt là các nền kinh tế

mới nổi như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Brazil…đang thực hiện. Trong chiến lược của

các quốc gia, dự trữ vàng đã trở thành công cụ để thực hiện mục tiêu tiền tệ, nâng cao

uy tín và tầm ảnh hưởng trên trường quốc tế. Tùy theo tình hình tài chính quốc gia mà

NHNN quyết định mức tăng dự trữ vàng trong dự trữ ngoại hối. Do vậy, Việt Nam cần

xây dựng phương án tăng lượng vàng dự trữ tương ứng mức độ tăng tổng dự trữ.

Hành động bán vàng can thiệp thị trường thông qua đấu thầu của NHNN đang đặt

ra câu hỏi là NHNN bán vàng từ dự trữ ngọai hối hay dùng dự trữ USD để mua vàng

từ nước ngoài. Dù là cách nào đi nữa thì hành động này về lâu dài sẽ tiềm ẩn nhiều rủi

ro, ảnh hưởng tiêu cực đến dự trữ ngọai hối. Việc bán vàng dự trữ là chỉ để phục vụ

cho chính sách dự trữ ngoại hối, như đổi các loại tiền tệ hoặc USD, làm sao để mỗi

năm lượng dự trữ tăng lên, chứ không bị thâm hụt đi. Mục tiêu an toàn của dự trữ

ngoại hối vẫn đặt lên hàng đầu, chứ không phải đầu tư sinh lời. Về dài hạn, để đảm

bảo tốt chức năng quản lý của mình, NHNN vẫn phải tính tới việc tăng dự trữ vàng

trong dự trữ ngoại hối vì với một quốc gia mà người dân vẫn có sở thích giữ vàng làm

tài sản thì đây sẽ là một bước đi quan trọng trong chỉ có như vậy NHNN mới có thể

chủ động trong can thiệp thị trường.

Bên cạnh đó, rủi ro sẽ rất lớn khi NHNN huy động được vàng để tăng dự trữ ngoại

hối mà giá vàng thế giới lại biến động mạnh. Khi đó, mặc dù số vàng dự trữ trong kho

không thay đổi về số lượng tuyệt đối, song giá trị hạch toán bằng ngoại tệ và đồng Việt

Nam sẽ giảm tương ứng. Nếu trường hợp đó xảy ra, NHNN sẽ bị phê bình là thiếu

trách nhiệm gây thiệt hại cho dự trữ ngoại hối hay không đảm bảo nguyên tắc an toàn

đối với công tác quản lý ngoại hối dự trữ. Do đó, NHNN cần lựa chọn các giải pháp

hợp lý, nhằm hạn chế rủi ro phát sinh. Ví dụ, NHNN có thể lựa chọn hình thức phát

hành trái phiếu bằng vàng. Bộ Tài chính có thể thay mặt Nhà nước huy động vốn dưới

68

hình thức phát hành trái phiếu bằng vàng. Số vàng này sau đó sẽ được chuyển cho

NHNN để NHNN đưa ra nước ngoài hoán đổi lấy ngoại tệ bổ sung cho quỹ dự trữ

ngoại hối. Việc huy động vàng trong dân nói trên vừa tăng tính thanh khoản của vàng,

vừa giúp Nhà nước có thêm ngoại hối dự trữ mà không làm giảm giá trị của quỹ dự trữ

ngoại hối. Đây là biện pháp có thể huy động được nguồn lực rất lớn bằng vàng, phục

vụ phát triển kinh tế đất nước.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trên cơ sở kết quả kiểm định cho thấy giá vàng có mối quan hệ nhân quả với tỷ giá

hối đoái, chương 3 đ đưa ra một số gợi ý chính sách kiểm soát mối quan hệ này nhằm

mục đích ổn định thị trường ngoại hối, tránh gây ra những tác động tiêu cực của thị

trường vàng đến tỷ giá, từ đó gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, những giải pháp

này cần được phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với các chính sách tài chính tiền tệ khác để

có hiệu quả tốt nhất.

69

KẾT LUẬN

Đề tài ‘Phân tích mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái tại Việt Nam’ có

mục đích nhằm tìm hiểu rõ hơn về thực trạng của thị trường ngọai hối trong nước, xác

định bằng định lượng rằng giữa sự biến động trên thị trường vàng và thị trường ngoại

tệ, thị trường nào là nguyên nhân, thị trường nào là kết quả hay cả hai thị trường có

mối quan hệ nhân quả với nhau.

Qua đề tài cho thấy cơ chế điều hành thị trường ngoại tệ đang được cải thiện và

phát huy hiệu quả, song song đó vẫn còn nhiều điểm hạn chế trên thị trường vàng. Thị

trường vàng giai đọan hiện nay được điều hành theo hướng độc quyền để dễ quản lý

của NHNN. Tuy nhiên, điều này được khuyến cáo cần phải giảm dần yếu tố độc quyền

trong giai đọan cơ chế giám sát của NHNN bắt đầu phát huy hiệu quả.

Với những phân tích dựa trên thực tế thực trạng của thị trường ngoại hối ở nước ta

hiện nay, đề tài đã giải quyết một số vấn đề:

- Nêu được thực trạng, cơ chế quản lý thị trường ngọai tệ, thị trường vàng hiện nay.

- Phân tích làm rõ mặt tích cực, điểm hạn chế của cơ chế điều hành trên hai thị

trường.

- Kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái.

- Đề xuất những giải pháp kiểm soát mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ giá hối đoái

để ổn định thị trường ngoại hối Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Việt

1. Chu Thị Việt Anh & ThS. Nguyễn Thu Trang – Viện Chiến lược Ngân hàng -

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng ở Trung

Quốc và Ấn Độ”.

2. Công văn 7019/NHNN-QLNH ngày 26/10/2012, v/v Chấm dứt huy động và

cho vay vốn bằng vàng.

3. Đinh Thị Ngọc Mai (2010), Luận văn thạc sỹ “Một số giải pháp nhằm ổn định

thị trường vàng và phát triển họat động đầu tư vàng tại Việt Nam”.

4. Hoàng Xuân Huy - Phòng tư vấn tài chính doanh nghiệp - công ty chứng khoán

Tân Việt chi nhánh TP.HCM, Ba sai lầm của giải pháp quản lý thị trường vàng.

5. http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/dai-dien-imf-sang-to-thi-truong-vang-viet-

nam-2013060307184018014ca34.chn

6. http://gafin.vn/20110102074719820p0c34/8-diem-noi-bat-tren-thi-truong-tai-

chinh-tien-te-nam-2010.htm

7. http://www.vnba.org.vn/?option=com_content&view=article&id=879&catid=3

5&Itemid=55

8. http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/vef/106083/quan-ly-vang-mieng-nhin-tu-the-

gioi.html

9. http://phapluattp.vn/20130606104437584p1014c1070/vi-sao-nguoi-viet-sung-

bai-vang.htm

10. http://www.ncseif.gov.vn/sites/en/Pages/dexuatgoigiaiphapcho-nd-15710.html

11. Hùynh Bửu Sơn, “Chính sách tiền tệ 2013: Những giới hạn của chính sách tỷ

giá”.

12. Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 03/04/2012, v/v Quản lý hoạt động kinh doanh

vàng.

13. Ngô Trí Long, “Cần sớm thay đổi tư duy quản lý thị trường vàng”.

14. Nguồn dữ liệu:

(cid:131) Giá vàng: http://www.eximbank.com.vn/vn/Gold.aspx

(cid:131) Tỷ giá USD/VND: do phòng Kinh doanh Ngoại tệ Eximbank tổng hợp

hàng ngày từ giá giao dịch trên thị trường liên ngân hàng.

15. Nguyễn Thị Hòa (2011), Luận văn thạc sỹ “Mối quan hệ giữa giá vàng và lạm

phát tại Việt Nam”.

16. Nguyễn Thị Mùi, (2004), Lý thuyết tiền tệ và Ngân hàng, trang 138 – 145,

NXB Xây dựng.

17. Nguyễn Thị Mùi, “Tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay - những vấn đề đặt ra”.

18. Pháp lệnh quản lý ngọai hối ngày 13 tháng 12 năm 2005.

19. Quyết định 16/2013/QĐ-TTg ngày 04/03/2013, v/v Mua, bán vàng miếng trên

thị trường trong nước của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

20. Quyết định 563/QĐ-NHNN ngày 21/03/2013, v/v Ban hành quy trình mua, bán

vàng miếng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

21. Thái Thị Hạnh Nhi (2011), Luận văn thạc sỹ “Mô hình dự báo giá vàng Việt

Nam”.

22. Thanh Như & Thiên Ngân, “Chống đô la hóa nền kinh tế và giải pháp khơi

thông thị trường”.

23. Thông tư 22/2010/TT-NHNN ngày 29/10/2010, v/v Quy định về việc huy động

và cho vay vốn bằng vàng của TCTD.

24. Thông tư 11/2011/TT-NHNN ngày 29/04/2011, v/v Quy định về chấm dứt huy

động và cho vay vốn bằng vàng của TCTD.

25. Trần Thị Lương Bình - Đại học Ngoại thương, “Chính sách tỷ giá và những vấn

đề đặt ra”,Tạp chí Tài chính, số 2/2013.

26. Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương,

“Không thể chạy theo vòng xoáy của vàng và đô la”.

27. Viện Chiến lược Ngân hàng, “Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng ở Trung

Quốc và Ấn Độ”.

II. Tiếng anh

28. Rabah Arezki, Elena Dumitrescu, Andreas Freytag and Marc Quintyn (June

2012), “Commodity Prices and Exchange Rate Volatility: Lessons from South

Africa’s Capital Account Liberalization”, IMF Working Paper.

29. Michale Dooley, Peter Isard, Mark Taylor (October 1992), “Exchange Rates,

Country Preferences, And Gold”, IMF Working Paper.

30. Dominique Dupont and V. Hugo Juan-Ramon (April 1996), “Real Exchange

Rates and Commodity Prices”, IMF Working Paper.

31. Shaun K. Roache and Marco Rossi (July 2009), “The Effects of Economic

News on Commodity Prices: Is Gold Just Another Commodity?”, IMF Working

Paper.

PHỤ LỤC

Phụ Lục 1: Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của Ấn Độ và Trung Quốc

Ấn Độ và Trung Quốc vốn là hai thị trường tiêu thụ vàng vật chất lớn nhất thế giới,

chiếm hơn 42% nhu cầu vàng trên thế giới. Đồng thời đây cũng là hai quốc gia đã từng trải

qua thời gian dài kiểm soát rất chặt thị trường vàng trong quá khứ nhưng sau đó phải tiến

hành cải cách thị trường vàng theo hướng tự do hóa và họ đã đạt được các thành công đáng

kể.

1. Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của Ấn Độ

Ấn Độ là một quốc gia có truyền thống thống sử dụng, lưu trữ vàng trang sức, vàng đã

trở thành một phần trong đời sống của người dân. Lượng vàng tiêu thụ của nước này luôn

đứng đầu thế giới, năm 2010 Ấn Độ nhập khẩu 958 tấn vàng, năm 2011 số vàng nhập khẩu

khoảng 800 - 850 tấn, cao hơn số lượng vàng nhập khẩu của Trung Quốc. Tiến trình cải

cách thị trường vàng của Ấn Độ cụ thể như sau:

a) Năm 1962

Với mục đích kiểm soát thị trường vàng, vào năm này, chính phủ Ấn Độ đã ban hành

một đạo luật hạn chế dân chúng sử dụng vàng và tập trung vàng vào ngân hàng trung ương.

Các quy định gồm: cấm các cơ sở vàng sản xuất đồ trang sức bằng vàng có hàm lượng trên

14 carat; các cơ sở sản xuất và kinh doanh trang sức phải ghi đầy đủ các thông tin về mua,

sản xuất, và bán vàng; các cá nhân/hộ gia đình chỉ được giữ vàng trang sức; NHNN độc

quyền trong việc xuất và nhập khẩu vàng...

Trong những năm đầu, chính phủ Ấn Độ đã kiểm soát khá thành công thị trường vàng.

Thông qua việc phát hành trái phiếu vàng, chỉ trong vòng 3 năm 1962 - 1965, chính phủ đã

huy động được 19,8 tấn vàng. Tuy nhiên, chính sách này sau đó đã bộc lộ những khiếm

khuyết. Dân chúng tiếp tục giữ vàng như là tài sản tiết kiệm, còn nhà nước sau đó huy

động được rất ít. Việc xuất - nhập lậu vàng trên qui mô lớn liên tục diễn ra và không thể

kiểm soát. Chính sách ngoại hối liên tục bị ảnh hưởng bởi vàng.

b) Từ năm 1997 đến nay

Trước tình hình đó, Ấn Độ buộc phải bãi bỏ đạo luật kiểm soát vàng. Vàng được ngân

hàng trung ương Ấn Độ đối xử như là một loại ngoại tệ. Đạo luật về quản lý ngoại hối đã

bao gồm cả vàng, bạc và đối xử với các loại hàng hóa này như là ngoại tệ.

Vào năm 1997, Ủy ban về tài khoản vốn của chính phủ Ấn Độ xây dựng một chính sách

toàn diện để giải phóng thị trường vàng. Các mục tiêu của chính sách này bao gồm: dỡ bỏ

các rào cản đối với việc xuất và nhập khẩu vàng nhằm chống các hoạt động buôn lậu và

tích trữ vàng; phát triển các công cụ tài chính phái sinh gắn với vàng; phát triển các thị

trường đối với vàng vật chất và vàng phái sinh; khuyến khích các ngân hàng thương mại và

các tổ chức tài chính tham gia vào thị trường vàng. Chính sách này đã nhanh chóng được

đưa vào thực tế.

Tháng 7.1997, các ngân hàng thương mại Ấn Độ được cấp giấy phép tham gia hoạt

động xuất - nhập khẩu vàng.

Đầu năm 1999, ngân hàng trung ương Ấn Độ (RBI) cho phép các NHTM được phép

huy động tiền gửi đảm bảo bằng vàng; các sổ tiết kiệm vàng này được phép giao dịch trên

thị trường thứ cấp.

Năm 2000, Ấn Độ đã phát triển các thị trường phái sinh và kỳ hạn liên quan đến vàng.

Nhờ những chính sách giải phóng thị trường vàng này, Ấn Độ không những đáp ứng được

nhu cầu sử dụng vàng của dân chúng, ngăn cản được hoạt động buôn lậu mà còn giải

phóng được một nguồn vốn khổng lồ dưới dạng vàng vào phát triển kinh tế.

Năm 2003, Ấn Độ cho phép các ngân hàng giao dịch hợp đồng vàng kỳ hạn trong nước

hoặc quốc tế nhưng không được phép giao dịch với các tổ chức phi ngân hàng.

Năm 2006, các sản phẩm phái sinh vàng được cho phép giao dịch từ và đến nay sản

phẩm thông dụng nhất trong số các sản phẩm phái sinh vàng là ETF vàng.

Cuối năm 2011, có bốn sở giao dịch quốc gia thực hiện giao dịch vàng.

Đến đầu năm 2012, ở Ấn Độ đã có 30 ngân hàng bao gồm cả ngân hàng nhà nước, ngân

hàng tư nhân và ngân hàng nước ngoài được phép nhập khẩu vàng, bạc để bán tại thị

trường trong nước.

Tuy nhiên, gần đây đã có những tín hiệu cho thấy chính sách giải phóng thị trường vàng

của Ấn Độ bất ổn. Trước hết biểu hiện ở việc tỷ giá đồng Rupee biến động mạnh. Do nền

kinh tế Ấn Độ thiếu lạc quan, chỉ số sản xuất công nghiệp giảm sút, dẫn đến việc dòng vốn

ngoại tháo chạy, làm cho đồng Rupee bị mất giá mạnh. Ấn Độ là nước thực hiện cơ chế tỷ

giá thả nổi, Ngân hàng Trung ương không quy định tỷ giá mục tiêu, song để giữ cho nền

kinh tế vĩ mô phát triển ổn định, Ngân hàng Trung ương buộc phải thực hiện một số biện

pháp can thiệp nhằm ổn định tỷ giá như: quyết định tăng lãi suất tiền gửi, cho vay; hủy bỏ

những hạn chế về mức giao dịch Option ngoại tệ để tăng cung ứng bằng đôla Mỹ; bán

ngoại tệ ra can thiệp thị trường. Do nhập khẩu một số lượng lớn vàng, không những làm

cho đồng Rupee mất giá mà còn làm cho tình hình thâm hụt ngân sách của Ấn Độ gia tăng,

thâm hụt cán cân thương mại lớn, ảnh hưởng xấu đến khả năng trả nợ nước ngoài. Mặt

khác tiền tiết kiệm của dân tập trung vào mua vàng, không đầu tư vào các tài sản sinh lời

khác. Các doanh nghiệp kinh doanh vàng Ấn Độ đã đồng loạt ngừng giao dịch trong 3 tuần

để phản đối Bộ Tài chính Ấn Độ tăng thuế nhập khẩu vàng lên gấp đôi (4%), đồng thời thu

thuế 0,3% đối với các giao dịch vàng nữ trang. Sau khi Chính phủ cam kết sẽ xem lại chính

sách thuế, các doanh nghiệp kinh doanh vàng mới hoạt động trở lại, cho đến nay thị trường

vàng Ấn Độ vẫn chưa hoạt động bình thường. Việc Ấn Độ giải phóng thị trường vàng,

không có hạn chế nào về xuất, nhập khẩu vàng chính là nhằm mục tiêu cân bằng yếu tố

cung cầu để ổn định giá vàng, đây là một sai lầm lớn vì vàng vẫn còn vai trò tiền tệ, càng

nhập khẩu nhiều vàng, nhu cầu ngoại tệ càng tăng, thâm hụt cán cân vãng lai càng lớn và

việc mất giá của đồng Rupee là khó tránh khỏi.

2. Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của Trung Quốc

Trung Quốc là quốc gia đứng thứ hai sau Ấn Độ và chiếm khoảng 16% tổng cầu vàng

trên thế giới và là một trong những nước có dự trữ vàng lớn nhất thế giới. Mặc dù Trung

Quốc là nhà sản xuất vàng lớn nhất thế giới, đóng góp khoảng 13% tổng cung vàng trên

thế giới nhưng nước này vẫn phải nhập khẩu vàng. Tâm lý ưa chuộng tích trữ vàng trong

dân cư tại Trung Quốc không mạnh như tại Ấn Ðộ (do trong quá khứ, việc sở hữu vàng tư

nhân trước năm 1979 tại Trung Quốc bị coi là bất hợp pháp), nhưng công tác quản lý thị

trường vàng luôn được chú trọng tại Trung Quốc.

Từ năm 1979 đến 2001, Trung Quốc thực hiện kiểm soát chặt chẽ họat động kinh

doanh vàng, Trung ương Trung Quốc (PBOC) đóng vai trò độc quyền trên thị trường vàng

trong nước. Cùng với việc tự do hóa thị trường tài chính, Trung Quốc đã có những bước

tiến mạnh mẽ trong việc từng bước tự do hóa thị trường vàng. Tuy nhiên, PBOC luôn là cơ

quan đại diện Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý thị trường vàng, theo Ðiều lệ quản lý

vàng và Luật Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, PBOC phụ trách quản lý dự trữ vàng quốc

gia (thuộc tài khoản dự trữ ngoại hối), phê chuẩn các hoạt động sản xuất, kinh doanh bao

gồm gia công, tiêu thụ các sản phẩm vàng, các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng vàng,

quản lý và kiểm tra thị trường vàng, giám sát thực thi Ðiều lệ quản lý vàng.

Tiến trình cải cách thị trường vàng của Trung Quốc:

a) Trước 1979

(cid:131) Thị trường vàng bị đóng cửa hoàn toàn, mọi quyền sở hữu tư nhân đối với vàng

đều được cho là bất hợp pháp.

b) Từ 1979 đến 1993

(cid:131) Chế độ quản lý vàng tập trung thống nhất.

(cid:131) Thừa nhận quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân.

(cid:131) Khôi phục lại thị trường bán lẻ đồ trang sức bằng vàng.

(cid:131) Ban hành Điều lệ quản lý vàng.

c) Từ 1993 đến 2001

(cid:131) Hình thành tự phát các trung tâm giao dịch vàng tại các địa phương.

(cid:131) PBOC vẫn quản lý trực tiếp giá vàng nhưng bước đầu có sự điều chỉnh giá vàng

trong nước theo sự biến động của giá vàng thế giới.

(cid:131) PBOC hoàn toàn độc quyền thị trường vàng trong nước từ khâu khai thác, tinh

chế, gia công lẫn hoạt động mua bán, xuất nhập khẩu vàng.

Cụ thể, các công ty khai thác vàng sau khi tinh chế thành vàng miếng phải bán lại cho

các chi nhánh của PBOC, sau đó BPOC sẽ bán lại cho các công ty vàng bạc đá quý chuyên

gia công vàng trang sức. Các công ty này sau đó được phép bán vàng trang sức cho dân

chúng. Các hang kinh doanh vàng trang sức chỉ được phép mua bán vàng nguyên liệu từ

PBOC và bán nhưng không được phép mua lại vàng trang sức từ dân chúng. Người dân

muốn bán vàng trang sức để lấy tiền mặt sẽ bán tại các chi nhánh của PBOC. Bên cạnh đó,

giá cả mua bán đều phải áp dụng giá do PBOC quy định (giá vàng trang sức được xác định

dựa trên hàm lượng vàng thực tế cộng với công chế tác).

d) Từ 2001 đến nay

(cid:131) Xóa bỏ chế độ quản lý vàng tập trung.

(cid:131) Trung Quốc đã cho phép các ngân hàng thương mại giao dịch các sản phẩm đầu

tư vàng với nhà đầu tư cá nhân

(cid:131) Hình thành và đưa vào họat động 2 trung tâm giao dịch vàng là Trung tâm giao

dịch vàng Thượng Hải (SGE) và trung tâm giao dịch hợp đồng tương lai Thượng

Hải (SFE).

(cid:131) Cho phép các ngân hàng trong nước tham gia giao dịch tại SGE và SFE.

(cid:131) Cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia giao dịch tại SGE và SFE.

Năm 2001 được xem là mốc quan trọng trong việc tự do hóa thị trường vàng của Trung

Quốc. Việc thành lập sàn giao dịch vàng Thượng Hải được xem là một bước đột phá trong

chính sách quản lý thị trường vàng của Trung Quốc sau hơn 20 năm kiểm soát chặt chẽ.

Kể từ khi mở cửa thị trường vàng và sau khi Sàn giao dịch Thượng Hải đi vào hoạt

động, giá vàng tại Trung Quốc đã rất sát với giá vàng thế giới. Về cơ bản tự do hóa thị

trường vàng Trung Quốc gồm 3 giai đoạn:

i. Xóa bỏ chế độ độc quyền kinh doanh vàng và cơ chế kiểm soát giá, đồng thời

thành lập sàn giao dịch vàng Thượng Hải.

ii. Từng bước xóa bỏ cơ chế cấp phép đối với họat động bán buôn và bán lẻ vàng,

cho phép cá nhân được tham gia giao dịch vàng miếng.

iii. Xóa bỏ từng bước chế độ quản lý xuất nhập khẩu vàng.

Kinh nghiệm Trung Quốc là luôn đảm bảo khả năng quản lý chặt chẽ đối với các giao

dịch vàng phi vật chất với các điều kiện cho phép giao dịch chặt chẽ, cụ thể như:

i. Các tổ chức tham gia giao dịch phải được sự cho phép của PBOC. Các giao dịch

này được thực hiện thống nhất tại hai trung tâm là SGE (PBOC quản lý) và SFE (do CSRC

quản lý) và phải tuân thủ theo các nguyên tắc giao dịch tại hai trung tâm này. Ngoài ra, các

giao dịch của các ngân hàng thương mại còn phải được báo cáo chi tiết lên Ủy ban giám

sát Ngân hàng (CBRC). Ðể được phép tham gia giao dịch tại hai trung tâm giao dịch, các

tổ chức phải đáp ứng được các tiêu chuẩn nhất định và phải được sự chấp thuận của

PBOC. Do đó, bản thân các tiêu chuẩn này đã là một rào cản quan trọng nhằm đảm bảo vai

trò quản lý của PBOC cũng như hạn chế rủi ro cho các tổ chức tham gia.

ii. Ðòn bẩy tài chính hầu như không được sử dụng trong các giao dịch trên SGE. Ðể

tiến hành giao dịch, bên mua phải có một tài khoản thanh toán đặc biệt tại một trong bốn

ngân hàng thanh toán do SGE quy định và bên bán phải có vàng giữ tại kho của SGE.

Ngay khi một thành viên đặt lệnh mua, SGE tiến hành phong tỏa tài khoản thanh toán của

thành viên này và ngay khi một thành viên đặt lệnh bán, SGE cũng tiến hành phong tỏa

lượng vàng tương đương của tổ chức này đang lưu trữ tại kho của SGE để đảm bảo cho

giao dịch được thực hiện. Mặc dù các tổ chức, thậm chí là các nhà đầu tư cá nhân đã được

mở các tài khoản để giao dịch vàng đầu tư, nhưng việc quy định phong tỏa 100% giá trị

giao dịch như vậy khiến cho hoạt động đầu tư vàng (theo đúng nghĩa tài khoản đầu tư

vàng: nhà đầu tư chỉ ký quỹ một số % nhất định là có thể tiến hành giao dịch như thông lệ

quốc tế) thực chất là vẫn chưa được phép tiến hành tại Trung Quốc.

Phụ Lục 2: Bảng số liệu

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

3/3/2008 15,820 1,915,000 21/4/2008 16,145 1,808,000 10/6/2008 17,650 1,844,000

16,170 1,913,000 22/4/2008 1,812,000 11/6/2008 17,700 1,841,000 4/3/2008 15,760

16,180 1,885,000 23/4/2008 1,808,000 12/6/2008 18,100 1,842,000 5/3/2008 15,710

16,210 1,910,000 24/4/2008 1,793,000 13/6/2008 18,250 1,841,000 6/3/2008 15,685

16,250 1,903,000 25/4/2008 1,775,000 16/6/2008 18,400 1,847,000 7/3/2008 15,680

16,200 1,882,000 28/4/2008 1,782,000 17/6/2008 18,600 1,854,000 10/3/2008 15,550

16,200 1,872,000 29/4/2008 1,767,000 18/6/2008 19,300 1,871,000 11/3/2008 15,570

16,200 1,874,000 2/5/2008 1,713,000 19/6/2008 19,400 1,903,000 12/3/2008 15,640

16,220 1,889,000 5/5/2008 1,717,000 20/6/2008 18,800 1,882,000 13/3/2008 15,640

16,230 1,909,000 6/5/2008 1,741,000 23/6/2008 18,100 1,881,000 14/3/2008 15,630

16,230 1,946,000 7/5/2008 1,733,000 24/6/2008 18,300 1,879,000 17/3/2008 15,670

16,330 1,926,000 8/5/2008 1,727,000 25/6/2008 18,350 1,874,000 18/3/2008 15,700

16,295 1,908,000 9/5/2008 1,750,000 26/6/2008 17,650 1,881,000 19/3/2008 15,780

16,220 1,815,000 12/5/2008 1,743,000 27/6/2008 16,846 1,897,000 20/3/2008 15,830

16,230 1,830,000 13/5/2008 1,734,000 30/6/2008 16,844 1,902,000 21/3/2008 15,840

16,240 1,800,000 14/5/2008 1,717,000 1/7/2008 16,847 1,893,000 24/3/2008 15,830

16,240 1,815,000 15/5/2008 1,720,000 2/7/2008 16,849 1,896,000 25/3/2008 15,880

16,320 1,845,000 16/5/2008 1,744,000 3/7/2008 16,848 1,906,000 26/3/2008 15,960

16,350 1,870,000 19/5/2008 1,791,000 4/7/2008 16,850 1,890,000 27/3/2008 16,200

16,350 1,857,000 20/5/2008 1,793,000 7/7/2008 16,849 1,889,000 28/3/2008 16,400

16,450 1,841,000 21/5/2008 1,831,000 8/7/2008 16,852 1,889,000 31/3/2008 16,200

16,480 1,805,000 22/5/2008 1,850,000 9/7/2008 16,950 1,884,000 1/4/2008 16,250

16,580 1,800,000 23/5/2008 1,833,000 10/7/2008 17,000 1,889,000 2/4/2008 16,300

16,800 1,802,000 26/5/2008 1,837,000 11/7/2008 16,900 1,902,000 3/4/2008 16,290

17,100 1,808,000 27/5/2008 1,870,000 14/7/2008 16,840 1,929,000 4/4/2008 16,250

17,280 1,816,000 28/5/2008 1,820,000 15/7/2008 16,839 1,947,000 7/4/2008 16,270

17,250 1,815,000 29/5/2008 1,822,000 16/7/2008 16,834 1,936,000 8/4/2008 16,250

17,400 1,794,000 30/5/2008 1,802,000 17/7/2008 16,830 1,922,000 9/4/2008 16,220

17,550 1,825,000 2/6/2008 1,836,000 18/7/2008 16,790 1,910,000 10/4/2008 16,150

17,600 1,812,000 3/6/2008 1,842,000 21/7/2008 16,830 1,926,000 11/4/2008 16,145

17,950 1,803,000 4/6/2008 1,828,000 22/7/2008 16,790 1,928,000 14/4/2008 16,135

18,150 1,823,000 5/6/2008 1,835,000 23/7/2008 16,740 1,900,000 16/4/2008 16,138

18,180 1,846,000 6/6/2008 1,848,000 24/7/2008 16,827 1,887,000 17/4/2008 16,136

17,800 1,833,000 9/6/2008 1,860,000 25/7/2008 16,800 1,897,000 18/4/2008 16,140

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

28/7/2008 16,826 1,895,000 17/9/2008 16,700 1,690,000 6/11/2008 16,841 1,666,000

29/7/2008 16,820 16,700 1,901,000 18/9/2008 1,770,000 7/11/2008 16,998 1,666,000

30/7/2008 16,780 16,740 1,870,000 19/9/2008 1,765,000 10/11/2008 16,996 1,670,000

31/7/2008 16,770 16,750 1,872,000 22/9/2008 1,785,000 11/11/2008 16,960 1,668,000

1/8/2008 16,770 16,620 1,867,000 23/9/2008 1,832,000 12/11/2008 16,975 1,658,000

4/8/2008 16,760 16,615 1,863,000 24/9/2008 1,811,000 13/11/2008 16,992 1,646,000

5/8/2008 16,740 16,620 1,810,000 25/9/2008 1,815,000 14/11/2008 16,989 1,646,000

6/8/2008 16,730 16,515 1,792,000 26/9/2008 1,808,000 17/11/2008 16,985 1,660,000

7/8/2008 16,620 16,605 1,801,000 29/9/2008 1,786,000 18/11/2008 16,982 1,654,000

8/8/2008 16,580 16,615 1,769,000 30/9/2008 1,815,000 19/11/2008 16,980 1,645,000

11/8/2008 16,450 16,605 1,775,000 1/10/2008 1,793,000 20/11/2008 16,976 1,647,000

12/8/2008 16,680 16,600 1,667,000 2/10/2008 1,782,000 21/11/2008 16,974 1,652,000

13/8/2008 16,680 16,610 1,700,000 3/10/2008 1,749,000 24/11/2008 16,973 1,704,000

14/8/2008 16,580 16,610 1,730,000 6/10/2008 1,743,000 25/11/2008 16,975 1,705,000

15/8/2008 16,620 16,620 1,695,000 7/10/2008 1,785,000 26/11/2008 16,974 1,699,000

18/8/2008 16,710 16,620 1,715,000 8/10/2008 1,820,000 27/11/2008 16,976 1,700,000

19/8/2008 16,690 16,615 1,715,000 9/10/2008 1,830,000 28/11/2008 16,977 1,700,000

20/8/2008 16,650 1,728,000 10/10/2008 16,600 1,823,000 1/12/2008 16,975 1,692,000

21/8/2008 16,610 1,737,000 13/10/2008 16,605 1,759,000 2/12/2008 16,979 1,665,000

22/8/2008 16,610 1,763,000 14/10/2008 16,605 1,724,000 3/12/2008 16,981 1,669,000

25/8/2008 16,660 1,737,000 15/10/2008 16,605 1,753,000 4/12/2008 16,980 1,663,000

26/8/2008 16,640 1,727,000 16/10/2008 16,605 1,734,000 5/12/2008 16,982 1,665,000

27/8/2008 16,620 1,743,000 17/10/2008 16,620 1,712,000 8/12/2008 16,985 1,666,000

28/8/2008 16,565 1,742,000 20/10/2008 16,700 1,708,000 9/12/2008 16,987 1,664,000

29/8/2008 16,530 1,736,000 21/10/2008 16,849 1,694,000 10/12/2008 16,986 1,665,000

1/9/2008 16,560 1,731,000 22/10/2008 16,851 1,670,000 11/12/2008 16,984 1,706,000

3/9/2008 16,610 1,706,000 23/10/2008 16,850 1,646,000 12/12/2008 16,985 1,698,000

4/9/2008 16,605 1,700,000 24/10/2008 16,848 1,660,000 15/12/2008 16,987 1,710,000

5/9/2008 16,600 1,703,000 27/10/2008 16,847 1,666,000 16/12/2008 16,986 1,717,000

8/9/2008 16,610 1,708,000 28/10/2008 16,845 1,682,000 17/12/2008 16,988 1,743,000

9/9/2008 16,600 1,700,000 29/10/2008 16,844 1,685,000 18/12/2008 16,989 1,773,000

10/9/2008 16,600 1,682,000 30/10/2008 16,820 1,712,000 19/12/2008 16,990 1,725,000

11/9/2008 16,590 1,653,500 31/10/2008 16,835 1,669,000 22/12/2008 16,993 1,728,000

12/9/2008 16,590 1,667,000 3/11/2008 1,669,000 23/12/2008 16,990 1,727,000 16,840

15/9/2008 16,600 1,687,000 4/11/2008 1,665,000 24/12/2008 16,989 1,723,000 16,842

16/9/2008 16,600 1,685,000 5/11/2008 1,675,000 25/12/2008 17,350 1,746,000 16,843

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

26/12/2008 17,497 1,749,000 23/2/2009 1,985,000 15/4/2009 17,660 18,020 1,964,000

29/12/2008 17,494 1,800,000 24/2/2009 1,990,000 16/4/2009 17,660 18,040 1,945,000

30/12/2008 17,489 1,779,000 25/2/2009 1,966,000 17/4/2009 17,660 18,040 1,946,000

31/12/2008 17,486 1,782,000 26/2/2009 1,962,000 20/4/2009 17,660 18,060 1,959,000

2/1/2009 1,790,000 27/2/2009 1,960,000 21/4/2009 17,660 18,080 1,957,000 17,484

5/1/2009 17,660 1,791,000 2/3/2009 1,980,000 22/4/2009 18,150 1,965,000 17,482

6/1/2009 17,660 1,776,000 3/3/2009 1,942,000 23/4/2009 18,240 1,986,000 17,480

7/1/2009 17,670 1,794,000 4/3/2009 1,924,000 24/4/2009 18,220 1,987,000 17,481

8/1/2009 17,665 1,774,000 5/3/2009 1,920,000 27/4/2009 18,220 1,986,000 17,479

9/1/2009 17,660 1,782,000 6/3/2009 1,965,000 28/4/2009 18,150 1,970,000 17,482

12/1/2009 17,650 1,778,000 9/3/2009 1,964,000 29/4/2009 18,180 1,971,000 17,483

13/1/2009 17,640 1,752,000 10/3/2009 1,934,000 4/5/2009 18,220 1,975,000 17,485

14/1/2009 17,620 1,756,000 11/3/2009 1,923,000 5/5/2009 18,220 1,985,000 17,484

15/1/2009 17,640 1,745,000 12/3/2009 1,935,000 6/5/2009 18,240 1,985,000 17,481

16/1/2009 17,625 1,752,000 13/3/2009 1,944,000 7/5/2009 18,200 1,994,000 17,479

19/1/2009 17,650 1,762,000 16/3/2009 1,951,000 8/5/2009 18,190 1,995,000 17,480

20/1/2009 17,640 1,757,000 17/3/2009 1,947,000 11/5/2009 18,160 1,993,000 17,482

21/1/2009 17,640 1,784,000 18/3/2009 1,936,000 12/5/2009 18,160 1,998,000 17,481

22/1/2009 17,615 1,780,000 19/3/2009 1,955,000 13/5/2009 18,120 2,008,000 17,484

23/1/2009 17,580 1,788,000 20/3/2009 1,998,000 14/5/2009 18,030 2,005,000 17,482

30/1/2009 17,550 1,848,000 23/3/2009 2,003,000 15/5/2009 18,050 2,005,000 17,484

2/2/2009 17,630 1,855,000 24/3/2009 2,000,000 18/5/2009 18,030 2,015,000 17,487

3/2/2009 17,825 1,850,000 25/3/2009 1,990,000 19/5/2009 18,120 2,008,000 17,486

4/2/2009 17,820 1,852,000 26/3/2009 2,001,000 20/5/2009 18,040 2,016,000 17,488

5/2/2009 17,819 1,875,000 27/3/2009 2,000,000 21/5/2009 18,000 2,040,000 17,489

6/2/2009 17,800 1,886,000 30/3/2009 1,993,000 22/5/2009 18,020 2,065,000 17,486

9/2/2009 17,802 1,871,000 31/3/2009 1,990,000 25/5/2009 18,020 2,075,000 17,484

10/2/2009 17,790 1,866,000 1/4/2009 1,990,000 26/5/2009 18,030 2,065,000 17,485

11/2/2009 17,790 1,895,000 2/4/2009 1,990,000 27/5/2009 18,020 2,070,000 17,630

12/2/2009 17,788 1,927,000 3/4/2009 1,975,000 28/5/2009 18,080 2,068,000 17,630

13/2/2009 17,840 1,925,000 7/4/2009 1,948,000 29/5/2009 18,070 2,120,000 17,580

16/2/2009 17,820 1,912,000 8/4/2009 1,952,500 1/6/2009 18,070 2,163,000 17,560

17/2/2009 17,840 1,940,000 9/4/2009 1,956,000 2/6/2009 18,180 2,138,000 17,550

18/2/2009 17,860 1,957,000 10/4/2009 1,957,000 3/6/2009 18,140 2,148,000 17,560

19/2/2009 17,860 1,966,000 13/4/2009 1,960,000 4/6/2009 18,150 2,130,000 17,640

20/2/2009 17,970 1,965,000 14/4/2009 1,967,000 5/6/2009 18,150 2,142,000 17,680

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

8/6/2009 18,160 2,110,000 29/7/2009 2,106,000 21/9/2009 18,230 2,214,000 18,340

9/6/2009 18,180 2,113,000 30/7/2009 2,102,000 22/9/2009 18,240 2,232,000 18,360

10/6/2009 18,250 2,121,000 31/7/2009 2,107,000 23/9/2009 18,240 2,233,000 18,400

11/6/2009 18,250 2,116,000 3/8/2009 2,121,000 24/9/2009 18,245 2,230,000 18,350

12/6/2009 18,280 2,114,000 4/8/2009 2,123,000 25/9/2009 18,265 2,214,000 18,320

15/6/2009 18,350 2,089,000 5/8/2009 2,136,000 28/9/2009 18,300 2,212,000 18,280

16/6/2009 18,380 2,094,000 6/8/2009 2,133,000 29/9/2009 18,350 2,213,000 18,250

17/6/2009 18,380 2,092,000 7/8/2009 2,131,000 30/9/2009 18,350 2,225,000 18,250

18/6/2009 18,360 2,097,000 10/8/2009 2,127,000 1/10/2009 18,345 2,231,000 18,230

19/6/2009 18,330 2,096,000 11/8/2009 2,119,000 2/10/2009 18,330 2,222,000 18,300

22/6/2009 18,350 2,090,000 12/8/2009 2,117,000 5/10/2009 18,330 2,230,000 18,290

23/6/2009 18,370 2,076,000 13/8/2009 2,133,000 6/10/2009 18,340 2,258,000 18,270

24/6/2009 18,380 2,084,000 14/8/2009 2,130,000 7/10/2009 18,300 2,299,000 18,280

25/6/2009 18,350 2,089,000 17/8/2009 2,114,000 8/10/2009 18,285 2,318,000 18,280

26/6/2009 18,250 2,101,000 18/8/2009 2,116,000 9/10/2009 18,275 2,309,000 18,310

29/6/2009 18,340 2,097,000 19/8/2009 2,115,000 12/10/2009 18,290 2,323,000 18,310

30/6/2009 18,320 2,101,000 20/8/2009 2,120,000 13/10/2009 18,295 2,356,000 18,380

1/7/2009 18,320 2,089,000 21/8/2009 2,119,000 14/10/2009 18,300 2,380,000 18,350

2/7/2009 18,320 2,092,000 24/8/2009 2,128,000 15/10/2009 18,290 2,362,000 18,350

3/7/2009 18,280 2,091,000 25/8/2009 2,124,000 16/10/2009 18,310 2,354,000 18,340

6/7/2009 18,290 2,086,000 26/8/2009 2,126,000 19/10/2009 18,350 2,369,000 18,330

7/7/2009 18,270 2,086,000 27/8/2009 2,119,000 20/10/2009 18,345 2,390,000 18,310

8/7/2009 18,300 2,083,000 28/8/2009 2,126,000 21/10/2009 18,355 2,378,000 18,310

9/7/2009 18,340 2,073,000 31/8/2009 2,129,000 22/10/2009 18,375 2,385,000 18,340

10/7/2009 18,360 2,070,000 1/9/2009 2,126,000 23/10/2009 18,400 2,393,000 18,320

13/7/2009 18,370 2,069,000 3/9/2009 2,158,000 26/10/2009 18,400 2,396,000 18,310

14/7/2009 18,450 2,080,000 4/9/2009 2,170,000 27/10/2009 18,445 2,382,000 18,290

15/7/2009 18,450 2,087,000 7/9/2009 2,187,000 28/10/2009 18,570 2,383,000 18,290

16/7/2009 18,400 2,095,000 8/9/2009 2,209,000 29/10/2009 18,550 2,374,500 18,260

17/7/2009 18,390 2,095,000 9/9/2009 2,194,000 30/10/2009 18,600 2,388,000 18,260

20/7/2009 18,350 2,119,000 10/9/2009 2,185,000 2/11/2009 18,565 2,396,000 18,260

21/7/2009 18,350 2,113,000 11/9/2009 2,198,000 3/11/2009 18,575 2,406,000 18,230

22/7/2009 18,370 2,111,000 14/9/2009 2,199,000 4/11/2009 18,600 2,475,000 18,240

23/7/2009 18,380 2,120,000 15/9/2009 2,201,000 5/11/2009 18,600 2,477,000 18,230

24/7/2009 18,370 2,115,000 16/9/2009 2,238,000 6/11/2009 18,610 2,534,000 18,230

27/7/2009 18,380 2,120,000 17/9/2009 2,245,000 9/11/2009 18,675 2,660,000 18,220

28/7/2009 18,360 2,122,000 18/9/2009 2,230,000 10/11/2009 18,840 2,680,000 18,215

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

11/11/2009 18,960 2,780,000 4/1/2010 2,680,000 3/3/2010 18,620 19,170 2,672,000

12/11/2009 19,200 2,575,000 5/1/2010 2,700,000 4/3/2010 18,550 19,170 2,677,000

13/11/2009 19,000 2,630,000 6/1/2010 2,690,000 5/3/2010 18,580 19,195 2,678,000

16/11/2009 19,120 2,660,000 7/1/2010 2,698,000 8/3/2010 18,600 19,200 2,683,000

17/11/2009 19,170 2,700,000 8/1/2010 2,688,000 9/3/2010 18,630 19,170 2,667,500

18/11/2009 19,220 2,730,000 11/1/2010 2,718,000 10/3/2010 18,600 19,160 2,667,000

19/11/2009 19,340 2,720,000 12/1/2010 2,720,000 11/3/2010 18,600 19,150 2,647,000

20/11/2009 19,440 2,740,000 13/1/2010 2,696,000 12/3/2010 18,620 19,140 2,660,000

23/11/2009 19,700 2,850,000 14/1/2010 2,693,000 15/3/2010 18,620 19,130 2,646,000

24/11/2009 19,830 2,863,000 15/1/2010 2,690,000 16/3/2010 18,630 19,140 2,650,000

25/11/2009 19,600 2,868,000 18/1/2010 2,688,000 17/3/2010 18,630 19,125 2,662,000

26/11/2009 19,250 2,872,000 19/1/2010 2,685,000 18/3/2010 18,620 19,120 2,655,000

27/11/2009 19,150 2,850,000 20/1/2010 2,684,000 19/3/2010 18,610 19,115 2,651,000

30/11/2009 19,350 2,815,000 21/1/2010 2,660,000 22/3/2010 18,600 19,115 2,639,000

1/12/2009 19,350 2,855,000 22/1/2010 2,639,000 23/3/2010 18,590 19,110 2,633,000

2/12/2009 19,150 2,863,000 25/1/2010 2,650,000 24/3/2010 18,570 19,110 2,612,000

3/12/2009 18,800 2,855,000 26/1/2010 2,645,000 25/3/2010 18,570 19,110 2,597,000

4/12/2009 18,800 2,822,000 27/1/2010 2,648,000 26/3/2010 18,590 19,110 2,619,000

7/12/2009 18,800 2,800,000 28/1/2010 2,652,000 29/3/2010 18,550 19,110 2,627,000

8/12/2009 18,800 2,815,000 29/1/2010 2,642,000 30/3/2010 18,570 19,110 2,622,000

9/12/2009 18,800 2,770,000 1/2/2010 2,638,000 31/3/2010 18,570 19,110 2,616,000

10/12/2009 18,850 2,742,000 2/2/2010 2,642,000 1/4/2010 18,570 19,100 2,613,000

11/12/2009 18,900 2,735,000 3/2/2010 2,652,000 2/4/2010 18,550 19,100 2,615,000

14/12/2009 18,800 2,690,000 4/2/2010 2,643,000 5/4/2010 18,530 19,100 2,617,000

15/12/2009 19,100 2,704,000 6/2/2010 2,555,000 6/4/2010 18,535 19,093 2,612,000

16/12/2009 19,050 2,720,000 8/2/2010 2,540,000 7/4/2010 18,560 19,025 2,614,000

17/12/2009 19,000 2,725,000 9/2/2010 2,550,000 8/4/2010 18,530 19,055 2,637,000

18/12/2009 19,050 2,695,000 10/2/2010 2,585,000 9/4/2010 18,535 19,045 2,654,000

21/12/2009 19,050 2,705,000 11/2/2010 2,630,000 12/4/2010 18,910 19,035 2,666,000

22/12/2009 19,050 2,672,000 12/2/2010 2,645,000 13/4/2010 19,100 19,030 2,642,000

23/12/2009 18,900 2,625,000 22/2/2010 2,672,000 14/4/2010 19,160 19,010 2,650,000

24/12/2009 18,900 2,658,000 23/2/2010 2,663,000 15/4/2010 19,170 18,980 2,647,000

25/12/2009 18,900 2,658,000 24/2/2010 2,647,000 16/4/2010 19,170 18,980 2,648,000

28/12/2009 18,800 2,693,000 25/2/2010 2,633,000 19/4/2010 19,240 18,983 2,623,000

29/12/2009 18,700 2,670,000 26/2/2010 2,650,000 20/4/2010 19,230 18,995 2,634,000

30/12/2009 18,700 2,646,000 1/3/2010 2,665,000 21/4/2010 19,210 18,990 2,636,000

31/12/2009 18,600 2,682,000 2/3/2010 2,657,000 22/4/2010 19,200 18,985 2,632,000

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

18/6/2010 18,974 2,832,000 9/8/2010 19,245 2,816,000 2,644,000 26/4/2010 18,985

27/4/2010 18,980 2,640,000 21/6/2010 2,866,000 10/8/2010 18,976 19,260 2,805,500

28/4/2010 18,975 2,649,000 22/6/2010 2,831,000 11/8/2010 18,976 19,260 2,807,000

29/4/2010 18,965 2,660,000 23/6/2010 2,841,000 12/8/2010 18,980 19,290 2,806,000

4/5/2010 18,975 2,684,000 24/6/2010 2,840,000 13/8/2010 18,985 19,280 2,818,000

5/5/2010 18,975 2,669,000 25/6/2010 2,850,000 16/8/2010 19,005 19,298 2,832,000

6/5/2010 18,975 2,680,000 28/6/2010 2,871,000 17/8/2010 19,045 19,330 2,847,000

7/5/2010 18,975 2,728,000 29/6/2010 2,850,000 18/8/2010 19,055 19,500 2,856,000

10/5/2010 19,030 2,720,000 30/6/2010 2,860,000 19/8/2010 19,095 19,500 2,877,000

11/5/2010 19,030 2,755,000 1/7/2010 2,859,000 20/8/2010 19,095 19,550 2,884,000

12/5/2010 19,030 2,820,000 2/7/2010 2,835,000 23/8/2010 19,200 19,550 2,874,000

13/5/2010 19,030 2,814,000 5/7/2010 2,834,000 24/8/2010 19,150 19,525 2,860,000

14/5/2010 19,030 2,827,000 6/7/2010 2,836,000 25/8/2010 19,125 19,515 2,894,000

17/5/2010 19,020 2,817,000 7/7/2010 2,816,000 26/8/2010 19,110 19,505 2,904,000

18/5/2010 18,995 2,795,000 8/7/2010 2,829,000 27/8/2010 19,130 19,505 2,895,000

19/5/2010 18,995 2,778,000 9/7/2010 2,820,000 30/8/2010 19,125 19,505 2,898,000

20/5/2010 18,995 2,750,000 12/7/2010 2,824,000 31/8/2010 19,150 19,505 2,897,000

21/5/2010 18,990 2,745,000 13/7/2010 2,826,000 1/9/2010 19,160 19,595 2,930,000

24/5/2010 18,990 2,750,000 14/7/2010 2,825,000 3/9/2010 19,155 19,510 2,934,000

25/5/2010 19,002 2,762,000 15/7/2010 2,826,000 6/9/2010 19,145 19,515 2,925,000

26/5/2010 19,005 2,798,000 16/7/2010 2,823,000 7/9/2010 19,135 19,510 2,925,000

27/5/2010 18,997 2,783,000 19/7/2010 2,811,000 8/9/2010 19,145 19,505 2,949,000

28/5/2010 18,992 2,775,000 20/7/2010 2,799,000 9/9/2010 19,140 19,502 2,941,000

31/5/2010 18,992 2,772,000 21/7/2010 2,804,000 13/9/2010 19,140 19,515 2,926,000

1/6/2010 18,988 2,787,000 22/7/2010 2,803,000 14/9/2010 19,145 19,510 2,937,000

2/6/2010 18,982 2,791,000 23/7/2010 2,810,000 15/9/2010 19,160 19,515 2,976,000

3/6/2010 18,981 2,784,000 26/7/2010 2,803,000 16/9/2010 19,158 19,505 2,980,000

4/6/2010 18,982 2,766,200 27/7/2010 2,798,000 17/9/2010 19,165 19,504 3,000,000

7/6/2010 18,984 2,777,000 28/7/2010 2,770,000 20/9/2010 19,170 19,504 3,006,000

8/6/2010 18,980 2,837,000 29/7/2010 2,768,000 21/9/2010 19,220 19,504 3,008,000

9/6/2010 18,979 2,816,000 30/7/2010 2,765,500 22/9/2010 19,240 19,502 3,033,000

10/6/2010 18,979 2,811,000 2/8/2010 2,777,000 23/9/2010 19,230 19,502 3,034,000

14/6/2010 18,976 2,806,000 3/8/2010 2,780,000 24/9/2010 19,225 19,505 3,048,000

15/6/2010 18,975 2,800,000 4/8/2010 2,798,000 27/9/2010 19,225 19,508 3,076,000

16/6/2010 18,975 2,816,000 5/8/2010 2,803,000 28/9/2010 19,220 19,530 3,063,000

17/6/2010 18,975 2,814,000 6/8/2010 2,803,000 29/9/2010 19,220 19,565 3,124,000

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

30/9/2010 19,595 3,130,000 19/11/2010 20,790 3,580,000 11/1/2011 20,880 3,580,000

1/10/2010 19,630 3,137,000 22/11/2010 20,820 3,570,000 12/1/2011 20,870 3,583,000

4/10/2010 19,605 3,156,000 23/11/2010 20,910 3,569,000 13/1/2011 20,865 3,573,000

5/10/2010 19,605 3,174,000 24/11/2010 21,045 3,597,000 14/1/2011 20,875 3,565,000

6/10/2010 19,630 3,282,000 25/11/2010 21,400 3,582,000 17/1/2011 20,890 3,556,000

7/10/2010 19,730 3,290,000 26/11/2010 21,320 3,576,000 18/1/2011 20,880 3,568,000

8/10/2010 19,850 3,287,000 29/11/2010 21,330 3,580,000 19/1/2011 20,820 3,568,000

11/10/2010 19,840 3,260,000 30/11/2010 21,480 3,596,000 20/1/2011 20,780 3,546,000

12/10/2010 19,830 3,252,000 1/12/2010 3,634,000 21/1/2011 21,510 20,770 3,522,000

13/10/2010 19,830 3,272,000 2/12/2010 3,630,000 24/1/2011 21,350 20,760 3,538,000

14/10/2010 19,835 3,309,500 3/12/2010 3,619,000 25/1/2011 21,420 20,630 3,507,000

15/10/2010 19,833 3,324,000 6/12/2010 3,660,000 26/1/2011 21,350 20,530 3,518,000

18/10/2010 19,860 3,318,000 7/12/2010 3,658,000 27/1/2011 21,250 20,600 3,532,000

19/10/2010 19,990 3,335,000 8/12/2010 3,595,000 28/1/2011 21,020 20,560 3,510,000

20/10/2010 20,010 3,300,000 9/12/2010 3,580,000 29/1/2011 20,800 20,600 3,542,000

21/10/2010 20,000 3,310,000 10/12/2010 20,850 3,587,000 30/1/2011 20,700 3,560,000

22/10/2010 19,995 3,276,000 13/12/2010 20,950 3,608,000 8/2/2011 20,750 3,591,000

25/10/2010 20,000 3,295,000 14/12/2010 20,950 3,626,000 9/2/2011 20,850 3,594,000

26/10/2010 20,005 3,290,000 15/12/2010 20,950 3,596,000 10/2/2011 20,880 3,580,000

27/10/2010 20,070 3,289,000 16/12/2010 20,940 3,592,000 11/2/2011 20,950 3,597,000

28/10/2010 20,190 3,285,000 17/12/2010 20,900 3,580,000 14/2/2011 21,060 3,611,000

29/10/2010 20,330 3,301,000 20/12/2010 21,740 3,590,000 15/2/2011 21,140 3,645,000

1/11/2010 20,360 3,354,000 21/12/2010 20,720 3,586,000 16/2/2011 21,250 3,678,000

2/11/2010 20,420 3,376,000 22/12/2010 20,770 3,586,000 17/2/2011 21,270 3,697,000

3/11/2010 20,620 3,379,000 23/12/2010 20,740 3,583,000 18/2/2011 21,280 3,760,000

4/11/2010 20,750 3,422,000 24/12/2010 20,770 3,582,000 21/2/2011 21,330 3,785,000

5/11/2010 20,550 3,479,000 27/12/2010 20,800 3,582,000 22/2/2011 21,370 3,780,000

8/11/2010 20,400 3,580,000 28/12/2010 20,840 3,590,000 23/2/2011 21,440 3,765,000

9/11/2010 20,500 3,700,000 29/12/2010 20,890 3,602,000 24/2/2011 21,420 3,788,000

10/11/2010 20,700 3,660,000 30/12/2010 20,860 3,611,000 25/2/2011 21,400 3,768,000

11/11/2010 20,800 3,634,000 31/12/2010 20,700 3,611,000 28/2/2011 21,280 3,762,000

12/11/2010 20,650 3,588,000 4/1/2011 20,790 3,614,000 1/3/2011 21,220 3,738,000

15/11/2010 20,800 3,502,000 5/1/2011 20,730 3,590,000 2/3/2011 21,170 3,772,000

16/11/2010 20,790 3,496,000 6/1/2011 20,730 3,584,000 3/3/2011 21,060 3,774,000

17/11/2010 20,770 3,444,000 7/1/2011 20,720 3,548,000 4/3/2011 21,065 3,764,000

20,950 18/11/2010 20,765 3,560,000 10/1/2011 3,572,000 7/3/2011 21,050 3,775,000

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

8/3/2011 21,100 3,763,000 28/4/2011 20,630 3,758,000 21/6/2011 21,635 3,812,000

9/3/2011 21,070 3,754,000 29/4/2011 3,774,000 22/6/2011 20,550 20,605 3,816,000

10/3/2011 21,050 3,747,000 4/5/2011 3,795,000 23/6/2011 20,650 20,598 3,811,000

11/3/2011 20,990 3,740,000 5/5/2011 3,774,000 24/6/2011 20,645 20,595 3,787,000

14/3/2011 20,920 3,730,000 6/5/2011 3,747,000 27/6/2011 20,620 20,600 3,774,000

15/3/2011 20,880 3,715,000 9/5/2011 3,762,000 28/6/2011 20,640 20,610 3,772,000

16/3/2011 20,875 3,696,000 10/5/2011 3,763,000 29/6/2011 20,620 20,605 3,777,000

17/3/2011 20,875 3,700,000 11/5/2011 3,766,000 30/6/2011 20,625 20,597 3,778,000

18/3/2011 20,885 3,713,000 12/5/2011 3,738,000 1/7/2011 20,595 20,595 3,765,000

21/3/2011 20,970 3,720,000 13/5/2011 3,752,000 4/7/2011 20,600 20,590 3,762,000

22/3/2011 21,200 3,710,000 16/5/2011 3,736,000 5/7/2011 20,600 20,595 3,761,000

23/3/2011 21,160 3,708,000 17/5/2011 3,740,000 6/7/2011 20,750 20,590 3,773,000

24/3/2011 21,050 3,708,000 18/5/2011 3,737,000 7/7/2011 20,800 20,582 3,784,000

25/3/2011 21,080 3,698,000 19/5/2011 3,735,000 8/7/2011 20,780 20,580 3,783,200

28/3/2011 21,075 3,677,000 20/5/2011 3,741,000 11/7/2011 20,750 20,590 3,806,000

29/3/2011 21,050 3,648,000 23/5/2011 3,749,000 12/7/2011 20,730 20,585 3,815,000

30/3/2011 21,030 3,660,000 24/5/2011 3,758,000 13/7/2011 20,680 20,585 3,866,000

31/3/2011 20,960 3,693,000 25/5/2011 3,768,000 14/7/2011 20,640 20,575 3,910,000

1/4/2011 21,980 3,695,000 26/5/2011 3,759,000 15/7/2011 20,600 20,570 3,866,767

4/4/2011 21,000 3,687,000 27/5/2011 3,759,000 18/7/2011 20,570 20,580 3,943,000

5/4/2011 21,000 3,675,000 30/5/2011 3,777,000 19/7/2011 20,570 20,585 3,967,000

6/4/2011 21,030 3,672,000 31/5/2011 3,786,000 20/7/2011 20,570 20,610 3,925,000

7/4/2011 21,040 3,692,000 1/6/2011 3,775,000 21/7/2011 20,580 20,610 3,952,000

8/4/2011 21,025 3,720,000 2/6/2011 3,786,000 22/7/2011 20,570 20,620 3,934,000

9/4/2011 21,000 3,733,000 3/6/2011 3,776,000 25/7/2011 20,570 20,588 3,990,000

13/4/2011 21,020 3,703,000 6/6/2011 3,801,000 26/7/2011 20,572 20,588 3,979,000

14/4/2011 20,960 3,703,000 7/6/2011 3,807,000 27/7/2011 20,575 20,588 4,003,000

15/4/2011 20,940 3,719,000 8/6/2011 3,791,000 28/7/2011 20,575 20,588 3,997,000

18/4/2011 20,955 3,723,000 9/6/2011 3,785,000 29/7/2011 20,575 20,590 3,997,000

19/4/2011 20,930 3,736,000 10/6/2011 3,800,000 1/8/2011 20,570 20,590 3,992,000

20/4/2011 20,940 3,757,000 13/6/2011 3,779,000 2/8/2011 20,580 20,590 4,012,000

21/4/2011 20,920 3,770,000 14/6/2011 3,773,000 3/8/2011 20,585 20,597 4,125,000

22/4/2011 20,860 3,758,000 15/6/2011 3,775,000 4/8/2011 20,595 20,595 4,138,000

25/4/2011 20,740 3,762,000 16/6/2011 3,781,000 5/8/2011 20,595 20,610 4,149,500

26/4/2011 20,730 3,746,000 17/6/2011 3,790,000 8/8/2011 20,700 20,680 4,430,000

27/4/2011 20,690 3,746,000 20/6/2011 3,806,000 9/8/2011 20,730 20,850 4,570,000

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

10/8/2011 20,910 4,430,000 3/10/2011 21,010 4,455,000 23/11/2011 21,400 4,475,000

11/8/2011 20,840 4,535,000 4/10/2011 4,525,000 24/11/2011 21,360 4,455,000 21,030

12/8/2011 20,835 4,465,000 5/10/2011 4,445,000 25/11/2011 21,320 4,440,000 21,095

13/8/2011 20,835 4,450,000 6/10/2011 4,405,000 28/11/2011 21,315 4,502,000 21,155

16/8/2011 20,810 4,505,000 7/10/2011 4,345,000 29/11/2011 21,290 4,482,000 21,170

17/8/2011 20,830 4,542,000 10/10/2011 21,175 4,325,000 30/11/2011 21,280 4,475,000

18/8/2011 20,840 4,550,000 11/10/2011 21,220 4,370,000 1/12/2011 21,270 4,537,000

19/8/2011 20,860 4,740,000 12/10/2011 21,470 4,410,000 2/12/2011 21,230 4,530,000

22/8/2011 20,860 4,875,000 13/10/2011 21,430 4,418,000 5/12/2011 21,170 4,520,000

23/8/2011 20,940 4,865,000 14/10/2011 21,405 4,417,000 6/12/2011 21,135 4,475,000

24/8/2011 20,920 4,770,000 17/10/2011 21,440 4,443,000 7/12/2011 21,180 4,496,000

25/8/2011 21,100 4,525,000 18/10/2011 21,495 4,395,000 8/12/2011 21,210 4,511,000

26/8/2011 20,970 4,710,000 19/10/2011 21,550 4,350,000 9/12/2011 21,200 4,482,000

29/8/2011 20,980 4,695,000 20/10/2011 21,600 4,310,000 12/12/2011 21,180 4,454,000

30/8/2011 20,940 4,638,000 21/10/2011 21,780 4,350,000 13/12/2011 21,165 4,417,000

31/8/2011 20,900 4,700,000 24/10/2011 21,850 4,405,000 14/12/2011 21,230 4,406,000

1/9/2011 20,890 4,695,000 25/10/2011 21,900 4,403,000 15/12/2011 21,350 4,342,000

5/9/2011 20,890 4,795,000 26/10/2011 21,780 4,490,000 16/12/2011 21,300 4,375,000

6/9/2011 20,890 4,775,000 27/10/2011 20,600 4,490,000 19/12/2011 21,320 4,375,000

7/9/2011 20,870 4,730,000 28/10/2011 21,300 4,525,000 20/12/2011 21,310 4,350,000

8/9/2011 20,885 4,725,000 31/10/2011 21,450 4,485,000 21/12/2011 21,275 4,355,000

9/9/2011 20,890 4,765,000 1/11/2011 4,482,000 22/12/2011 21,290 4,348,000 21,500

12/9/2011 20,885 4,750,000 2/11/2011 4,520,000 23/12/2011 21,260 4,358,000 21,550

13/9/2011 20,886 4,715,000 3/11/2011 4,520,000 26/12/2011 21,270 4,353,000 21,600

14/9/2011 20,887 4,732,000 4/11/2011 4,570,000 27/12/2011 21,260 4,333,000 21,500

15/9/2011 20,888 4,721,000 7/11/2011 4,585,000 28/12/2011 21,225 4,275,000 21,450

16/9/2011 20,890 4,678,000 8/11/2011 4,655,000 29/12/2011 21,250 4,212,000 21,450

19/9/2011 20,960 4,712,000 9/11/2011 4,650,000 30/12/2011 21,220 4,180,000 21,410

20/9/2011 20,900 4,692,000 10/11/2011 21,420 4,630,000 3/1/2012 21,260 4,348,000

21/9/2011 20,902 4,708,000 11/11/2011 21,430 4,615,000 4/1/2012 21,280 4,357,000

22/9/2011 20,920 4,680,000 14/11/2011 21,445 4,653,000 5/1/2012 21,280 4,352,000

23/9/2011 20,920 4,667,000 15/11/2011 21,430 4,630,000 6/1/2012 21,230 4,347,000

26/9/2011 20,950 4,550,000 16/11/2011 21,425 4,635,000 9/1/2012 21,260 4,332,000

27/9/2011 20,980 4,560,000 17/11/2011 21,410 4,623,000 10/1/2012 21,215 4,330,000

28/9/2011 21,000 4,470,000 18/11/2011 21,380 4,597,000 11/1/2012 21,160 4,364,000

29/9/2011 21,005 4,422,000 21/11/2011 21,380 4,572,000 12/1/2012 21,105 4,388,000

30/9/2011 21,000 4,422,000 22/11/2011 21,380 4,455,000 13/1/2012 21,090 4,363,000

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

16/1/2012 21,045 4,350,000 13/3/2012 20,835 4,473,000 7/5/2012 20,849 4,244,000

17/1/2012 21,030 4,393,000 14/3/2012 4,450,000 8/5/2012 20,836 20,855 4,194,000

18/1/2012 20,985 4,382,000 15/3/2012 4,422,000 9/5/2012 20,834 20,855 4,140,000

19/1/2012 20,880 4,410,000 16/3/2012 4,426,000 10/5/2012 20,832 20,845 4,177,000

20/1/2012 21,860 4,430,000 19/3/2012 4,414,000 11/5/2012 20,836 20,845 4,172,000

30/1/2012 21,020 4,505,000 20/3/2012 4,370,000 14/5/2012 20,835 20,860 4,166,000

31/1/2012 21,060 4,535,000 21/3/2012 4,380,000 15/5/2012 20,837 20,852 4,131,000

1/2/2012 21,040 4,542,000 22/3/2012 4,375,000 16/5/2012 20,895 20,848 4,098,000

2/2/2012 21,035 4,539,000 23/3/2012 4,388,000 17/5/2012 20,880 20,848 4,113,000

3/2/2012 20,980 4,539,000 26/3/2012 4,405,000 18/5/2012 20,915 20,848 4,200,000

6/2/2012 20,960 4,485,000 27/3/2012 4,438,000 21/5/2012 20,896 20,850 4,216,000

7/2/2012 20,955 4,485,000 28/3/2012 4,422,000 22/5/2012 20,855 20,851 4,176,000

8/2/2012 20,920 4,499,000 29/3/2012 4,393,000 23/5/2012 20,832 20,855 4,136,000

9/2/2012 20,900 4,486,000 30/3/2012 4,399,000 24/5/2012 20,834 20,862 4,140,000

10/2/2012 20,865 4,476,000 3/4/2012 4,396,000 25/5/2012 20,842 20,860 4,145,000

13/2/2012 20,845 4,481,000 4/4/2012 4,364,000 28/5/2012 20,837 20,863 4,161,000

14/2/2012 20,842 4,470,000 5/4/2012 4,359,000 29/5/2012 20,836 20,864 4,154,000

15/2/2012 20,842 4,476,000 6/4/2012 4,352,000 30/5/2012 20,837 20,870 4,128,000

16/2/2012 20,845 4,465,000 9/4/2012 4,348,000 31/5/2012 20,838 20,871 4,147,000

17/2/2012 20,830 4,474,000 10/4/2012 4,344,000 1/6/2012 20,838 20,875 4,133,000

20/2/2012 20,843 4,475,000 11/4/2012 4,341,000 4/6/2012 20,841 20,895 4,210,000

21/2/2012 20,843 4,476,000 12/4/2012 4,332,000 5/6/2012 20,843 20,935 4,218,000

22/2/2012 20,840 4,490,000 13/4/2012 4,339,000 6/6/2012 20,848 21,005 4,262,000

23/2/2012 20,840 4,523,000 16/4/2012 4,301,000 7/6/2012 20,842 21,010 4,238,000

24/2/2012 20,846 4,523,000 17/4/2012 4,290,000 8/6/2012 20,844 20,990 4,198,000

27/2/2012 20,844 4,513,000 18/4/2012 4,280,000 11/6/2012 20,843 21,005 4,196,000

28/2/2012 20,836 4,505,000 19/4/2012 4,260,000 12/6/2012 20,843 20,975 4,191,000

29/2/2012 20,835 4,525,000 20/4/2012 4,259,000 13/6/2012 20,841 20,965 4,212,000

1/3/2012 20,831 4,480,000 23/4/2012 4,271,000 14/6/2012 20,845 20,960 4,220,000

2/3/2012 20,830 4,476,000 24/4/2012 4,281,000 15/6/2012 20,860 20,965 4,224,000

5/3/2012 20,834 4,464,000 25/4/2012 4,295,000 18/6/2012 20,858 20,965 4,224,000

6/3/2012 20,834 4,459,000 26/4/2012 4,294,000 19/6/2012 20,875 20,956 4,230,000

7/3/2012 20,830 4,440,000 27/4/2012 4,295,000 20/6/2012 20,885 20,947 4,219,000

8/3/2012 20,837 4,464,000 2/5/2012 4,286,000 21/6/2012 20,885 20,929 4,205,000

9/3/2012 20,831 4,461,000 3/5/2012 4,260,000 22/6/2012 20,860 20,920 4,181,000

20,845 20,843 20,917 4,175,000 12/3/2012 4,477,000 4/5/2012 4,245,000 25/6/2012

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

26/6/2012 20,890 4,182,000 15/8/2012 20,849 4,229,000 5/10/2012 20,895 4,818,000

27/6/2012 20,890 4,167,000 16/8/2012 4,237,000 8/10/2012 20,884 4,784,000 20,844

28/6/2012 20,905 4,168,000 17/8/2012 4,254,000 9/10/2012 20,866 4,778,000 20,843

29/6/2012 20,905 4,172,000 20/8/2012 4,256,000 10/10/2012 20,860 4,760,000 20,844

2/7/2012 20,890 4,194,000 21/8/2012 4,298,000 11/10/2012 20,864 4,770,000 20,840

3/7/2012 20,895 4,204,000 22/8/2012 4,370,000 12/10/2012 20,853 4,772,000 20,852

4/7/2012 20,890 4,211,000 23/8/2012 4,435,000 15/10/2012 20,850 4,719,000 20,970

5/7/2012 20,885 4,207,000 24/8/2012 4,415,000 16/10/2012 20,847 4,673,000 20,855

6/7/2012 20,882 4,187,000 27/8/2012 4,450,000 17/10/2012 20,844 4,703,000 20,862

9/7/2012 20,880 4,178,000 28/8/2012 4,450,000 18/10/2012 20,842 4,701,000 20,862

10/7/2012 20,880 4,190,000 29/8/2012 4,457,000 19/10/2012 20,845 4,687,000 20,865

11/7/2012 20,880 4,174,000 30/8/2012 4,449,000 22/10/2012 20,852 4,640,000 20,860

12/7/2012 20,880 4,163,000 31/8/2012 4,450,000 23/10/2012 20,851 4,632,000 20,860

13/7/2012 20,864 4,179,000 4/9/2012 4,515,000 24/10/2012 20,845 4,628,000 20,857

16/7/2012 20,865 4,177,000 5/9/2012 4,529,000 25/10/2012 20,844 4,640,000 20,854

17/7/2012 20,855 4,187,000 6/9/2012 4,608,000 26/10/2012 20,850 4,628,000 20,847

18/7/2012 20,847 4,176,000 7/9/2012 4,557,000 29/10/2012 20,849 4,629,000 20,845

19/7/2012 20,846 4,176,000 10/9/2012 4,620,000 30/10/2012 20,846 4,624,000 20,845

20/7/2012 20,852 4,178,000 11/9/2012 4,621,000 31/10/2012 20,847 4,613,000 20,852

23/7/2012 20,858 4,167,000 12/9/2012 4,622,000 1/11/2012 20,848 4,645,000 20,850

24/7/2012 20,885 4,169,000 13/9/2012 4,643,000 2/10/2012 20,846 4,643,000 20,849

25/7/2012 20,885 4,182,000 14/9/2012 4,724,000 5/11/2012 20,849 4,602,000 20,846

26/7/2012 20,885 4,197,000 17/9/2012 4,685,000 6/11/2012 20,847 4,630,000 20,851

27/7/2012 20,872 4,211,000 18/9/2012 4,666,000 7/11/2012 20,845 4,705,000 20,875

30/7/2012 20,870 4,206,000 19/9/2012 4,723,000 8/11/2012 20,843 4,688,000 20,875

31/7/2012 20,868 4,208,000 20/9/2012 4,690,000 9/11/2012 20,843 4,712,000 20,875

1/8/2012 20,863 4,197,000 21/9/2012 4,706,000 12/11/2012 20,846 4,705,000 20,864

2/8/2012 20,860 4,197,000 24/9/2012 4,706,000 13/11/2012 20,848 4,698,000 20,875

3/8/2012 20,856 4,197,000 25/9/2012 4,705,000 14/11/2012 20,849 4,709,000 20,880

6/8/2012 20,856 4,214,000 26/9/2012 4,715,000 15/11/2012 20,853 4,708,000 20,885

7/8/2012 20,856 4,230,000 27/9/2012 4,710,000 16/11/2012 20,864 4,698,000 20,890

8/8/2012 20,855 4,222,000 28/9/2012 4,747,000 19/11/2012 20,856 4,713,000 20,880

9/8/2012 20,851 4,227,000 1/10/2012 4,755,000 20/11/2012 20,857 4,734,000 20,886

10/8/2012 20,851 4,227,000 2/10/2012 4,785,000 21/11/2012 20,861 4,718,000 20,890

13/8/2012 20,851 4,253,000 3/10/2012 4,780,000 22/11/2012 20,861 4,717,000 20,890

14/8/2012 20,850 4,250,000 4/10/2012 4,812,000 23/11/2012 20,854 4,714,000 20,890

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

Ngày

Tỷ giá

Giá vàng

26/11/2012 20,855 4,735,000 16/1/2013 20,847 4,525,000 14/3/2013 20,947 4,403,000

27/11/2012 20,849 4,735,000 17/1/2013 4,537,000 15/3/2013 20,948 4,405,000 20,847

28/11/2012 20,849 4,725,000 18/1/2013 4,580,000 18/3/2013 20,948 4,412,000 20,852

29/11/2012 20,848 4,717,000 21/1/2013 4,590,000 19/3/2013 20,948 4,407,000 20,849

30/11/2012 20,847 4,712,000 22/1/2013 4,617,000 20/3/2013 20,945 4,404,000 20,847

3/12/2012 20,848 4,698,000 23/1/2013 4,598,000 21/3/2013 20,943 4,394,000 20,847

4/12/2012 20,846 4,685,000 24/1/2013 4,570,000 22/3/2013 20,943 4,393,000 20,844

5/12/2012 20,845 4,688,000 25/1/2013 4,545,000 25/3/2013 20,947 4,382,000 20,841

6/12/2012 20,843 4,675,000 28/1/2013 4,521,000 26/3/2013 20,946 4,370,000 20,846

7/12/2012 20,841 4,688,000 29/1/2013 4,538,000 27/3/2013 20,948 4,345,000 20,847

10/12/2012 20,841 4,697,000 30/1/2013 4,548,000 28/3/2013 20,946 4,385,000 20,846

11/12/2012 20,843 4,693,000 31/1/2013 4,558,000 29/3/2013 20,944 4,383,000 20,845

12/12/2012 20,847 4,694,000 1/2/2013 4,542,000 20,841

13/12/2012 20,847 4,679,000 4/2/2013 4,552,000 20,838

14/12/2012 20,846 4,676,000 5/2/2013 4,555,000 20,832

17/12/2012 20,849 4,669,000 6/2/2013 4,546,000 20,822

18/12/2012 20,851 4,673,000 7/2/2013 4,569,000 20,827

19/12/2012 20,852 4,646,000 8/2/2013 4,570,000 20,845

20/12/2012 20,853 4,648,000 18/2/2013 4,530,000 20,855

21/12/2012 20,846 4,627,000 19/2/2013 4,535,000 20,890

24/12/2012 20,844 4,665,000 20/2/2013 4,513,000 20,920

25/12/2012 20,846 4,657,000 21/2/2013 4,490,000 20,950

26/12/2012 20,844 4,650,000 22/2/2013 4,506,000 20,895

27/12/2012 20,840 4,625,000 25/2/2013 4,502,000 20,910

28/12/2012 20,835 4,630,000 26/2/2013 4,468,000 20,920

31/12/2013 20,840 4,644,000 27/2/2013 4,360,000 20,955

2/1/2013 20,843 4,670,000 28/2/2013 4,328,000 20,945

3/1/2013 20,843 4,633,000 1/3/2013 4,345,000 20,935

4/1/2013 20,843 4,653,000 4/3/2013 4,372,000 20,975

7/1/2013 20,845 4,650,000 5/3/2013 4,388,000 20,975

8/1/2013 20,842 4,643,000 6/3/2013 4,403,000 20,950

9/1/2013 20,842 4,640,000 7/3/2013 4,402,000 20,940

10/1/2013 20,841 4,608,000 8/3/2013 4,397,000 20,940

11/1/2013 20,843 4,575,000 11/3/2013 4,387,000 20,946

14/1/2013 20,846 4,465,000 12/3/2013 4,389,000 20,948

15/1/2013 20,846 4,515,000 13/3/2013 4,410,000 20,947