Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
lượt xem 10
download
Mục đích nghiên cứu của Luận văn này nhằm đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội đến năm 2020. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGUYỄN THỊ PHONG LAN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MÊ LINH THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014
- 2 BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGUYỄN THỊ PHONG LAN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MÊ LINH THÀNH PHỐ HÀ NỘI CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ : 60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HOÀNG THỊ BÍCH LOAN HÀ NỘI - 2014
- 3 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MÊ LINH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM 14 1.1 Những vấn đề lý luận chung về phát triển kinh tế tư nhân 14 1.2 Nội dung và vai trò phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội 21 1.3 Khảo sát kinh nghiệm và bài học cho phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội 31 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MÊ LINH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2009 - 2013 42 2.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội chi phối đến phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội 42 2.2 Ưu điểm và hạn chế phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội thời gian qua 47 2.3 Nguyên nhân ưu điểm, hạn chế và những vấn đề đặt ra cho phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội 63 Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MÊ LINH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 72 2.1 Quan điểm phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội 72 2.2 Giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội 79 KẾT LUẬN 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101 PHỤ LỤC 106
- 4 CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết đầy đủ Viết tắt Ban chấp hành trung ương BCHTW Chủ nghĩa xã hội CNXH Chủ nghĩa tư bản CNTB Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH Doanh nghiệp tư nhân DNTN Giáo dục - đào tạo GDĐT Khoa học công nghệ KHCN Kinh tế - xã hội KT-XH Kinh tế tư nhân KTTN Kinh tế thị trường KTTT Lực lượng sản xuất LLSX Quan hệ sản xuất QHSX Sản xuất, kinh doanh SXKD Thành phần kinh tế TPKT Tư bản chủ nghĩa TBCN Tư liệu sản xuất TLSX Ủy ban nhân dân UBND Xã hội chủ nghĩa XHCN
- 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, tất yếu tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần KTTN. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta luôn quan tâm, trăn trở để tìm hướng đi thích hợp và giải pháp hữu hiệu phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN. Cùng với việc thừa nhận sự tồn tại tất yếu của KTTN; Đảng và nhà nước ta đã khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi phát triển KTTN thông qua các chủ trương, nghị quyết lãnh đạo của Đảng, cơ chế, chính sách, luật pháp của Nhà nước. Trên cơ sở đó, KTTN đã có sự phát triển vượt bậc về số lượng, chất lượng, quy mô, cơ cấu tổ chức và ngày càng khẳng định là một trong những động lực của nền kinh tế; góp phần quan trọng trong thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Là một huyện ngoại thành, nằm ở phía Bắc của Thủ đô Hà Nội - trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục của cả nước, Mê Linh đã tích cực, chủ động và có nhiều sáng tạo trong quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và cơ chế, luật pháp của Nhà nước về phát triển KTTN. Qua đó đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế quan trọng. Vị trí, vai trò to lớn của KTTN trên địa bàn ngày càng được khẳng định; bước đầu hoạt động có hiệu quả trên một số lĩnh vực, tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đưa kinh tế địa phương vận động đúng quỹ đạo; góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho người lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân; thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH và chính sách an sinh xã hội... Tuy nhiên, trong quá trình phát triển KTTN trên địa bàn Huyện, chưa có được sự đồng thuận cao về mặt tâm lý xã hội và sự quan tâm đúng mức của chính quyền, cơ quan quản lý Nhà nước về KTTN. Đặc biệt còn thiếu sự tương thích của các cơ chế, chính sách với thực tiễn đặc thù của phát triển KTTN trên địa bàn Huyện. Mặt khác, quá trình phát triển KTTN trên địa bàn huyện đang
- 6 dần bộc lộ những hạn chế, bất cập, cản trở quá trình phát triển của KTTN nói riêng và KT-XH ở địa phương nói chung. Như, quy mô sản xuất kinh doanh còn nhỏ, trình độ khoa học – kỹ thuật còn lạc hậu; đóng góp của KTTN vào phát triển kinh tế của địa phương chưa tương xứng với vị thế, tiềm năng của nó hiện nay; KTTN trên địa bàn chưa thật sự vững mạnh, còn nhiều lúng túng, chậm phát triển, năng lực quản lý, phạm vi, phương thức hoạt động còn nghèo nàn, khả năng cạnh tranh thấp. KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh đang rất cần sự quan tâm của các cấp, các ngành và của toàn xã hội để có thể vươn lên và đứng vững và phát huy tốt vai trò trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Bởi vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh, trên cơ sở đó đề xuất các phương hướng, giải pháp chủ yếu để KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh phát triển mạnh mẽ, hiệu quả hơn là vấn đề có tính cấp thiết. Do đó, tác giả chọn đề tài: “Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học Kinh tế chính trị của mình, với mong muốn có một đóng góp nhỏ vào sự phát triển kinh tế của địa phương. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Phát triển KTTN đã được nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ, mức độ và phạm vi tiếp cận khác nhau, đặc biệt là từ khi Đảng, Nhà nước khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước đến nay. Kết quả nghiên cứu được thể hiện dưới các hình thức như: Đề tài khoa học các cấp, sách tham khảo và chuyên khảo, luận văn, luận án, bài báo được đăng tải trên các báo và tạp chí.v.v... Dưới góc độ tiếp cận của khoa học kinh tế chính trị, tác giả nhận thấy, ngoài các văn kiện, nghị quyết của Đảng về KTTN và thành phần KTTN, có rất nhiều công trình tiêu biểu nghiên cứu về KTTN đã được công bố, liên quan đến đề tài luận văn như sau:
- 7 * Các công trình tiêu biểu nghiên cứu về kinh tế tư nhân và phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam nói chung GS.TS Vũ Đình Bách (2006), "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [2]. Trong công trình này, tác giả đề cập đến sự cần thiết xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đồng thời cũng phân tích làm rõ tính tất yếu, bản chất, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Và các điều kiện đảm bảo cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trần Thị Hạnh (1994), “Về việc phát triển khu vực KTTN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Kinh tế, Chuyên ngành Tổ chức và quản lý sản xuất, Trường Đại học kinh tế quốc dân [21]. Luận án đã đề cập đến một vấn đề có ý nghĩa to lớn về lý luận cũng như về thực tiễn trong quá trình chuyển sang một nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tác giả luận án đã làm sáng tỏ vị trí và vai trò của khu vực KTTN trong nền kinh tế Việt Nam; quá trình phát triển và đặc điểm của khu vực KTTN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; những hạn chế về môi trường kinh doanh của khu vực KTTN ở Việt Nam; trên có sở đó tác giả đã đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung. Bao gồm: Tạo môi trương chính sách ổn định là điều kiện tăng quyết cho phát triển khu vực kinh tế tư nhân; các chính sách khuyến khích trong nước đối với hoạt động kinh doanh tư nhân; hoàn thiện hệ thống pháp luật và các công cụ điều tiết của Chính phủ; tăng cường các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân mới bắt đầu hoạt động. PGS, TS Hoàng Thị Bích Loan (2009), “Về giá cả sức lao động (tiền lương, tiền công) trên thị trường sức lao động ở Việt Nam những năm qua”, Tạp chí Ngân Hàng, Số 5/2009 [33]. Tác giả đã chỉ ra thực trạng chính sách tiền lương (những thành công và hạn chế trong chính sách tiền lương), tiền công ở nước ta trong thời gian qua, cả về chính sách tiền lương tối thiểu và tiền lương tối thiểu
- 8 trong doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế bất cập trong chính sách tiền lương, tiền công. Đồng thời đề ra một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công, ý nghĩa của việc phát triển thị trường SLĐ ở nước ta hiện nay. PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai (2005),“Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập”, NXB Thế giới, Hà Nội [38]. Trên cơ sở khái quát, nêu nên nhiều cách hiểu khác nhau về kinh tế tư nhân hiện nay ở các quốc gia trên thế gới cũng như ở Việt Nam, tác giả đã trình bày nhận thức của mình về kinh tế tư nhân, những cơ hội và thách thức của kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Từ đó đề xuất những giải pháp mang tính định hướng cho kinh tế tư nhân Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. GS. TS. Hồ Văn Vĩnh (2007), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta" Tạp chí Lý luận Chính trị 5/2007 [60]. Là một cán bộ Viện Quản lý Kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, trong bài viết, tác giả đã nêu lên nhiều vấn đề cần quan tâm trong công tác lý luận của Đảng có liên quan đến kinh tế tư nhân: Một là, nhận dạng và đánh giá kinh tế tư nhân nước ta; Hai là, phát triển kinh tế tư nhân với vấn đề bóc lột và bị bóc lột; Ba là, vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân; Bốn là, làm giàu bằng phát triển kinh tế tư nhân và vấn đề công bằng xã hội; Năm là, về mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế tư nhân; Sáu là, kinh tế tư nhân với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó khẳng định: “Tiếp tục đổi mới tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kịp thời làm sáng tỏ hơn những vấn đề bức xúc về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. “phải tạo ra sự nhất trí trong Đảng, sự thông suốt trong đảng viên và sự đồng thuận xã hội, nhằm tạo niềm tin và sự yên tâm thực sự đối với các nhà đầu tư tư nhân và các doanh nhân có tiềm lực bỏ vốn ra kinh doanh nhằm mục tiêu ích nước, lợi nhà, phục vụ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- 9 Phạm Văn Sơn (2008), Phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN và tác động của nó đến củng cố quốc phòng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị, Hà Nội [45]. Tác giả đã luận giải, làm rõ tính tất yếu tồn tại và phát triển của KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN, những tác động của KTTN đến sự nghiệp củng cố quốc phòng, trên cơ sở đó tác giả đề xuất những quan điểm, giải pháp phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay để phát huy những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của KTTN đến sự nghiệp củng cố quốc phòng. Ngoài ra, còn rất nhiều bài báo khoa học, đề tài nghiên cứu khoa học và luận văn thạc sĩ nghiên cứu về kinh tế tư nhân và phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam nói chung. Như: “Kinh tế tư nhân và xu hướng phát triển của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” của PGS,TS Nguyễn Đình Kháng, đăng trên tạp chí Lý luận số 4/2002 [24]; “Mấy vấn đề lý luận từ thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân phi nông nghiệp” của giáo sư Đào Xuân Sâm đăng trên tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 292, tháng 9/2002 [44]; "Vai trò của kinh tế tư nhân đối với quá trình phát triển kinh tế của nước ta hiện nay", của PGS.TS Phạm Ngọc Kiểm, đăng trên tạp chí Kinh tế và phát triển số 3/2002 [25]... Tuy có sự khác nhau về mục đích, nhiệm vụ, nội dung và phạm vi nghiên cứu, nhưng các công trình trên đã trực tiếp hoặc gián tiếp giải quyết các vấn đề liên quan sau: Thứ nhất, trên cơ sở quan điểm của Đảng về KTTN và thành phần KTTN, các tác giả đã phân tích làm rõ hơn về nội hàm khái niệm KTTN. Các công trình nghiên cứu đã đưa ra quan niệm của mình về KTTN với những tiêu chí về quan hệ sở hữu, hình thức tổ chức kinh tế, cơ cấu tổ chức, vai trò và xu hướng phát triển... Thứ hai, các công trình đã khẳng định, làm rõ vị trí, vai trò của KTTN trong sự phát triển KT-XH đất nước, trên cơ sở đó khẳng định sự cần thiết phát triển KTTN ở Việt Nam. Các tác giả đã đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định việc phát triển KTTN ở nước ta hiện nay là một tất yếu khách quan.
- 10 Về lý luận, các tác giả phân tích, luận giải quan điểm của C.Mác và Ăngghen, V.I. Lênin và Đảng ta về đặc điểm, tính chất và tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ đi lên CNXH; về qui luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX... Về thực tiễn, thông qua phân tích đặc điểm của nền kinh tế nước ta hiện nay cũng như thực tiễn phát triển KTTN đáp ứng yêu cầu xây dựng nền KTTN định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Các tác giả đã chỉ ra vai trò của KTTN trong giải phóng, phát triển LLSX; tạo và giải quyết việc làm; khả năng huy động các nguồn lực cho phát triển; sức sống mãnh liệt và tính năng động trong nền KTTT; hiệu quả sử dụng vốn; động lực thúc đẩy... để khẳng định tính tất yếu khách quan phát triển KTTN ở nước ta và ở từng địa phương. Thứ ba, các công trình nghiên cứu đều đề cập đến thực trạng phát triển của KTTN ở Việt Nam một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào mục đích, phạm vi nghiên cứu. Các tác giả đã phân tích, khái quát, làm rõ sự phát triển về số lượng, qui mô, trình độ KHCN; sự gia tăng giá trị, tỉ trọng của KTTN trong nền kinh tế; sự hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và trình độ quản lý; nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả sử dụng vốn; tham gia thực hiện các chuỗi giá trị xã hội như; văn hóa xã hội, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, khuyến học... qua đó khẳng định vai trò tích cực của KTTN trong phát triển KT-XH. Đồng thời chỉ ra những hạn chế, yếu kém cần được khắc phục cũng như những vấn đề bức xúc, tiêu cực cản trở đến sự phát triển của KTTN. Thứ tư, các công trình đã đưa ra nhiều quan điểm, những luận giải về nội dung và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy KTTN phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Trên cơ sở đánh giá thực trạng cũng như phân tích vai trò, khuyết điểm của KTTN và các nhân tố tác động đến sự phát triển KTTN, các tác giả đã đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển KTTN dưới dạng phương hướng, mục tiêu phát triển hoặc quan điểm giải pháp cụ thể bao gồm: các quan điểm, giải pháp nhằm định hướng nhận thức và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện phát
- 11 triển KTTN trên thực tế; xây dựng sự đồng thuận về tâm lý, thể chế xã hội; tạo bước đột phá về cơ chế, chính sách để thúc đẩy KTTN phát triển mạnh mẽ cả chiều rộng lẫn chiều sâu; nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý Nhà nước cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển của KTTN... Cùng với đó là những kiến nghị, đề xuất nhằm giải quyết những vấn đề rào cản, mâu thuẫn cụ thể với những điều kiện hoàn cảnh nhất định để huy động và phát huy tối đa mọi nguồn lực cho phát triển KTTN. * Các công trình nghiên cứu lên quan đến phát triển kinh tế tư nhân trên từng địa bàn huyện, tỉnh nói chung và huyện Mê Linh và thành phố Hà Nội nói riêng Nguyễn Thanh Bình (2003), Vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng ở địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay, Luận văn cao học kinh tế, Học viện chính trị, Hà Nội [3]. Trong đó, tác giả đã luận giải vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay; đề xuất những giải pháp khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng của tỉnh trong thời gian tới. Bao gồm: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của chính quyền địa phương đối với kinh tế tư nhân; hướng sự phát triển của kinh tế tư nhân vào thực hiện đồng thời hai mục tiêu phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng; Tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng trong Tỉnh; Thực hiện đồng bộ các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân trong Tỉnh. Thái Doãn Tước (2011), Phát triển KTTN ở Nghệ An, Luận văn cao học kinh tế, Học viện chính trị, Hà Nội [53]. Trong đó, tác giả đã Nghiên cứu, luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển KTTN ở Nghệ An. Như: Khái niệm, nội dung, sự cần thiết khách quan phát triển KTTN ở Nghệ An. Trên cơ sở đó, đề xuất 3 quan điểm và 4 giải pháp để tiếp tục phát triển KTTN ở Nghệ An trong thời gian tới. Các giải pháp bao gồm: Xây dựng môi trường và thể chế xã hội; Tập trung
- 12 mọi nguồn lực xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH và hệ thống thị trường tiêu thụ sản phẩm; Đẩy mạnh cải cách hành chính, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nguyễn Minh Phong (2004), Phát triển KTTN ở Hà Nội” [40]; Ngô Duy Chính, “Chi nhánh ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Thành mở rộng cho vay vốn thành phần KTTN”; Đề án phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Mê Linh, Hà Nội; Đề án sơ kết bốn năm thực hiện Nghị quyết hội nghị BCHTW đảng lần thứ 5 khoá IX về phát triển KTTN ở Mê Linh, Hà Nội... Nội dung nghiên cứu của các công trình trên đã cung cấp cho tác giả nhiều căn cứ và số liệu khoa học góp phần giải quyết mục đích, nhiệm vụ luận văn thuận lợi và đạt hiệu quả cao. Tổng quan về các nội dung đó được biểu hiện trên các vấn đề cụ thể sau: Thứ nhất, các công trình đã khái quát, chỉ ra những nhân tố tác động và đánh giá thực trạng quá trình phát triển KTTN ở thủ đô Hà Nội và huyện Mê Linh. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới, khu vực, trong nước và thực tiễn đặc thù phát triển KT-XH ở thủ đô Hà Nội và huyện Mê Linh, các tác giả đã khái quát những điều kiện thuận lợi, khó khăn, chỉ ra những nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động đến quá trình phát triển KTTN. Đồng thời, thông qua công tác điều tra, khảo sát, thống kê để phân tích đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách phát triển của một loại tổ chức KTTN, được chứng minh bằng các số liệu trong từng thời điểm, phạm vi và lĩnh vực cụ thể của từng công trình nghiên cứu. Qua đó chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân trong phát triển các tổ chức KTTN là cơ sở cho việc hoạch định kế hoạch, qui hoạch và ban hành các chủ trương, chính sách, xây dựng cơ chế hoạt động... của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với KTTN ở thủ đô Hà Nội và huyện Mê Linh. Thứ hai, các công trình đã nêu lên những vấn đề về cơ chế, chính sách liên quan đến phát triển KTTN ở Mê Linh. Các công trình trên đã giới thiệu, trích dẫn những nghị quyết, chủ trương, chính sách, văn bản, hướng dẫn... của Đảng bộ,
- 13 chính quyền, cơ quan quản lý đối với từng loại tổ chức KTTN. Qua đó phân tích làm rõ quyền lợi, lợi ích của các tổ chức KTTN khi tham gia vào quá trình thực hiện nghị quyết chủ trương chính sách đó. Đồng thời chỉ ra những bất cập, xung đột, thiếu đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật và các điều kiện bảo đảm để triển khai thực hiện các chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển KTTN. Thứ ba, các công trình cũng đã nêu lên nhiều kiến nghị, đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển KTTN ở Mê Linh. Trên cơ sở phân tích những yếu tố tác động mang tính đặc thù của Mê Linh đến quá trình phát triển của một loại tổ chức KTTN cụ thể như: vị trí địa kinh tế, môi trường tâm lý, thể chế xã hội, phong tục tập quán, tiềm năng, lợi thế... các tác giả đã đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát triển KTTN theo định hướng nhanh, hiệu quả, bền vững. Đồng thời kiến nghị với các cơ quan quản lý các cấp theo thẩm quyền tiến hành sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các cơ chế, chính sách, văn bản hướng dẫn, xây dựng cơ chế hoạt động... nhằm tạo điều kiện thuận lợi về môi trường tâm lý và thể chế xã hội cho sự tồn tại, hoạt động và phát triển của các tổ chức KTTN. Khi nghiên cứu những vấn đề có liên quan KTTN nói chung và KTTN ở Mê Linh nói riêng, còn nhiều khía cạnh chưa có tác giả nào đề cập đến như: xác định sự chuyển biến về nhận thức xã hội đối với KTTN là một nội dung của phát triển KTTN; chỉ ra đặc điểm, nội dung KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh; đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân, mâu thuẫn của phát triển KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh; quan điểm và giải pháp phát triển KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội với tư cách là một TPKT. Tuy nhiên, các kiến giải trong những công trình nêu trên rất quan trọng, cung cấp cơ sở về lý luận và thực tiễn để tác giả thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích nghiên cứu
- 14 Luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn về KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội, trên cơ sở đó, đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội đến năm 2020. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ những vấn đề lý luận về KTTN và KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. - Phân tích thực trạng KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội thời gian qua nhằm chỉ ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân. - Đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội đến năm 2020. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài * Đối tượng nghiên cứu KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội, dưới góc độ kinh tế chính trị. * Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Nghiên cứu KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh với những loại hình, hình thức hoạt động cơ bản của kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân trên địa bàn Huyện. - Về thời gian: Nghiên cứu KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh trong quá trình đổi mới, trọng tâm là giai đoạn 2008 - 2013. Các số liệu khảo sát, thống kê, minh chứng tính từ năm 2009 đến 2013 (sau khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, tháng 8 năm 2008). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài * Cơ sở lý luận Đề tài dựa trên các quan điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm đổi mới về phát triển KTTN và Nghị quyết của Đảng bộ huyện Mê Linh, Đảng bộ thành phố Hà Nội về phát triển KT-XH.
- 15 Tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu về phát triển kinh tế tư nhân của các tác giả trong nước, để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của huyện Mê Linh. Đồng thời, dựa vào các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê kinh tế của UBND, của phòng, Cục Thống kê huyện Mê Linh và Thành phố Hà Nội đã được công bố từ năm 2009 đến nay. * Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác – Lênin (trừu tượng hoá khoa học) làm phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Kết hợp với các phương pháp khác như: lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn và chuyên gia để giải quyết nhiệm vụ đặt ra. 6. Ý nghĩa của luận văn - Luận văn đã làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn về KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội, góp phần nâng cao hiệu quả quán triệt và thực thi đường lối phát triển KTTN của Đảng trên địa bàn huyện Mê Linh trong thời gian tới. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập môn kinh tế chính trị ở các học viện, nhà trường trong và ngoài Quân đội. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm: Mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
- 16 Chương 1 PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MÊ LINH THÀNH PHỐ HÀ NỘI – CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM 1.1. Những vấn đề lý luận chung về kinh tế tư nhân 1.1.1. Quan niệm và bản chất của kinh tế tư nhân * Quan niệm về kinh tế tư nhân Trong di sản lý luận của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã nghiên cứu rất sâu sắc nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về TLSX nhưng chưa đưa ra thuật ngữ "KTTN" mà chỉ đề cập đến sở hữu tư nhân, khẳng định: sở hữu tư nhân về TLSX là cơ sở nảy sinh và tồn tại của các hình thức kinh tế tư hữu. Hiện nay, khái niệm KTTN còn có nhiều ý kiến chưa đồng nhất. Theo nghĩa rộng, KTTN được sử dụng để phân biệt với kinh tế Nhà nước. Theo nghĩa hẹp hơn, KTTN là TPKT được hình thành và phát triển dựa trên sở hữu tư nhân về TLSX và lợi ích cá nhân. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, “KTTN là một loại hình kinh tế; dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về TLSX, có thể là kinh tế tự nhiên hoặc kinh tế hàng hoá và phát triển cao trong kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ, KTTN còn tồn tại lâu dài trong nền kinh tế nhiều thành phần, được khuyến khích phát triển dưới sự kiểm soát của Nhà nước theo định hướng XHCN”[52; tr.599]. Trên cơ sở chính thức thừa nhận và khẳng định phát triển KTTN là vấn đề mang tính chiến lược trong quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, các Nghị quyết của Đảng trong thời kỳ đổi mới đã tiếp tục làm rõ quan niệm của Đảng ta về KTTN, vai trò, vị trí của KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN và những chủ trương giải pháp tháo gỡ cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích KTTN phát triển. Trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX, Đảng ta nêu lên quan niệm về KTTN với những bộ phận cấu thành, hình thức biểu hiện và phạm
- 17 vi hoạt động của KTTN. Đảng ta khẳng định: "KTTN bao gồm kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình DNTN đã phát triển rộng khắp trong cả nước" [10, tr. 24]. Theo đó, khái niệm KTTN được sử dụng với tư cách là một khu vực kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về TLSX, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. KTTN hoạt động dưới các hình thức tổ chức kinh doanh như: hộ kinh doanh cá thể và các loại hình DNTN (DNTN, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh), ngoài ra gồm cả phần đầu tư của tư nhân vào khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Phạm vi, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, của KTTN bao gồm những hộ gia đình, DNTN tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh như nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, chế biến nông lâm sản, đánh bắt và chế biến thuỷ sản, thương mại và dịch vụ du lịch... trong cả nước. Đây là quan điểm mang tính đột phá, thể hiện sự phát triển trong tư duy lý luận của Đảng ta về KTTN; lần đầu tiên Đảng ta đã xác định nội hàm của khái niệm KTTN, làm cơ sở phương pháp luận tạo sự thống nhất nhận thức cũng như trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn của Đảng và của toàn xã hội về KTTN. Đại hội X của Đảng đã sử dụng thuật ngữ "thành phần KTTN" để chỉ các lực lượng, bộ phận kinh tế trong xã hội đang tồn tại dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về TLSX. Quan điểm về “thành phần KTTN” tiếp tục được khẳng định ở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI. Đồng thời khẳng định rõ “KTTN có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế” [12, tr.74]. Trên cở sở quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin và của Đảng ta, có nhiều nghiên cứu của các học giả, các nhà lý luận tiếp tục đầu tư phân tích làm rõ sự giống và khác biệt của KTTN ở những nền kinh tế khác nhau, trong những chế độ chính trị khác nhau. KTTN trong các nền kinh tế khác nhau có điểm giống và khác nhau nhất định. Điểm giống nhau là chúng đều tồn tại và phát triển dựa trên “quy luật QHSX
- 18 phải phù hợp với trình độ của LLSX”. Đặc điểm này chỉ ra rằng các hình thức sở hữu, nói rộng ra là QHSX ra đời, phát triển và tiêu vong có tính khách quan và mang tính lịch sử, chúng tồn tại trong những điều kiện nhất định của LLSX. Tuy nhiên, chúng khác nhau ở chỗ, KTTN trong nền KTTT dựa trên LLSX xã hội hóa, do đó nó tồn tại và phát triển không thể tách rời các hình thức sở hữu và các TPKT khác. Đặc điểm này đưa đến mâu thuẫn nội tại trong KTTN của KTTT, đó là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa hoạt động sản xuất kinh doanh với tính chất tư nhân hóa về chiếm hữu, mâu thuẫn này không có trong nền kinh tế tự cung tự cấp. KTTN trong nền KTTT sẽ vận động, phát triển theo hướng xã hội hóa ngày càng cao dưới các hình thức công ty cổ phần, công ty hợp danh. KTTN trong nền KTTT ra đời là kết quả xóa bỏ sở hữu tư nhân, KTTN trong nền kinh tế tự cung, tự cấp. Chỉ có KTTN trong nền KTTT mới có khả năng phát triển dẫn đến sở hữu xã hội thông qua sự biến đổi và phát triển của LLSX. KTTN trong các chế độ chính trị khác nhau thì bản chất có khác nhau. Trong nền KTTT tư bản chủ nghĩa, KTTN giữ vai trò thống trị, nó phù hợp với trình độ xã hội hóa của LLSX. Trong nền KTTT định hướng XHCN do Đảng cộng sản lãnh đạo thì KTTN là một bộ phận trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nó chịu tác động qua lại giữa các thành phần khác và sự định hướng của Nhà nước do Đảng cộng sản lãnh đạo. Ở đây KTTN vẫn còn bóc lột, nhưng mức độ bóc lột đã được điều chỉnh phù hợp với lợi ích của xã hội, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là một bộ phận trong nền KTTT định hướng XHCN, nó chịu sự tác động; phát triển trong khuôn khổ chiến lược phát triển KT-XH của đất nước và theo định hướng các chính sách của Nhà nước. KTTN của nước ta đại bộ phận mới được tái lập và xây dựng từ khi có đường lối đổi mới của Đảng, chủ yếu từ 1990 trở lại đây. Phần lớn các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN ở nước ta có quy mô vừa và nhỏ, trình độ công nghệ còn lạc hậu, khả năng đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu còn hạn chế.
- 19 Với những đặc điểm trên đây KTTN của nước ta không còn thuần túy là KTTN như ở các nước tư bản mà đã có những thay đổi trong bản chất của nó. Tuy nhiên đó không phải là thay đổi căn bản. Đồng thời những đặc điểm trên cũng cho thấy KTTN ở nước ta mới được tái lập trở lại chưa lâu nên thời gian qua mới là thời kỳ tích lũy nguyên thủy, nên cần tạo điều kiện để nó có thể đạt tới đỉnh cao trong phát triển, phát huy tối đa vai trò với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, bắt kịp với trình độ các nước trong khu vực và trên thế giới. Từ những phân tích trên có thể quan niệm, KTTN là một TPKT trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về TLSX (hoặc vốn), với nhiều quy mô tổ chức kinh tế khác nhau tương ứng với từng cấp độ phát triển của các hình thức sở hữu được pháp luật quy định, thừa nhận. * Bản chất của kinh tế tư nhân: Về quan hệ sở hữu: Quan hệ sở hữu của KTTN là quan hệ chiếm hữu tư nhân về TLSX (hoặc vốn) cũng như phần của cải vật chất được tạo ra từ những TLSX (hoặc vốn) đó. Đây là đặc trưng, tiêu chí cơ bản để phân biệt KTTN với các TPKT khác. Có hai loại sở hữu tư nhân, đó là sở hữu tư nhân nhỏ và sở hữu tư nhân lớn. Về quan hệ quản lý. Quan hệ quản lý trong các tổ chức KTTN cũng được chia thành hai loại phù hợp với hai cấp độ phát triển của quan hệ sở hữu đó là: quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ và quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn. Chủ doanh nghiệp hoặc chủ sở hữu sản xuất kinh doanh chịu trách nhiệm toàn bộ về hoạt động sản xuất kinh doanh và toàn quyền quyết định phương thức phân phối lợi nhuận sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế mà không chịu sự chi phối nào từ các quy định của cơ quan Nhà nước hoặc từ cơ quan quản lý, do vậy họ luôn tìm mọi cách để có thể đạt được lợi nhuận cao nhất, kể cả việc trốn lậu thuế. Về quan hệ phân phối. Đối với sở hữu tư nhân nhỏ thì quan hệ phân phối là tự phân phối trong nội bộ tổ chức kinh tế của họ; mang tính tự nguyện dựa
- 20 vào thỏa thuận của các thành viên, ít bị ràng buộc bởi các quan hệ pháp lý. Còn đối với sở hữu tư nhân lớn thì quan hệ phân phối căn cứ vào sở hữu số lượng TLSX (hoặc vốn) và giá trị, hiệu quả sức lao động dưới sự tác động của quy luật KTTT và những định hướng của pháp luật hiện hành. 1.1.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân - Một là, về quy mô tổ chức kinh tế, KTTN dựa trên trình độ phát triển nhất định của LLSX, mỗi loại hình tổ chức KTTN được tổ chức một cách phù hợp. Với sở hữu tư nhân nhỏ thì có hình thức tổ chức KTTN chủ yếu là hộ sản xuất kinh doanh và trang trại. Với sở hữu tư nhân lớn thì có hình thức tổ chức KTTN là các loại hình DNTN. Nhưng nhìn chung, số lượng các cơ sở kinh doanh của KTTN rất lớn,nhưng quy mô sản xuất kinh doanh trong các đơn vị thường nhỏ. - Hai là, về lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, KTTN bao gồm những hộ gia đình, DNTN tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh ở tất cả mọi lĩnh vực của nền kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ, du lịch; từ sản xuất, gia công, chế biến nông - lâm - thủy - hải sản, xây dựng, giao thông, vận tải... (trừ an ninh quốc phòng), được trải rộng trên khắp các địa bàn trong cả nước. Tuy nhiên các chủ doanh nghiệp hoặc chủ sở hữu sản xuất kinh doanh chủ yếu lựa chọn, đầu tư hoạt động ở các ngành có tính năng động cao, dễ dàng chuyển hướng kinh doanh, dễ thích nghi với hoàn cảnh và yêu cầu của nền kinh tế. - Ba là, về loại hình tổ chức kinh doanh của KTTN rất đa dạng: Kinh tế hộ cá thể: Loại hình hộ cá thể thực chất là KTTN có quy mô nhỏ, là đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh, không thuê mướn lao động. Hộ cá thể tồn tại như một tất yếu và mang tính đặc thù của nền kinh tế nhỏ lẻ, đang phát triển ở trình độ thấp bắt nguồn từ nông nghiệp như nước ta. Loại hình hộ cá thể đang tồn tại phổ biến ở nước ta hiện nay như các trang trại, thầu xây dựng nhỏ, cửa hàng, xưởng sản xuất gia đình... Kinh tế tiểu chủ: Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về TLSX nhưng có thuê mướn lao động nhưng chưa thành lập doanh nghiệp
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
123 p | 844 | 193
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại tại địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
148 p | 597 | 171
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 621 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Marketing dịch vụ trong phát triển thương mại dịch vụ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
135 p | 556 | 156
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Một số giải pháp phát triển khu chế xuất và khu công nghiệp Tp.HCM đến năm 2020
53 p | 404 | 141
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của hoạt động tín dụng trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên
116 p | 511 | 128
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng thay đổi thái độ sử dụng thương mại điện tử Việt Nam
115 p | 310 | 106
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng các nguồn lực tự nhiên trong hộ gia đình tới thu nhập và an toàn lương thực của hộ nông dân huyện Định Hoá tỉnh Thái Nguyên
110 p | 342 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 350 | 62
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Xây dựng chiến lược khách hàng của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
116 p | 193 | 48
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kinh tế: Giải pháp phát triển du lịch bền vững trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
26 p | 289 | 47
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kinh tế: Hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp tại tỉnh Gia Lai
13 p | 246 | 36
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kinh tế: Giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Đăk Tô tỉnh Kon Tum
13 p | 242 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Công Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng Ninh Bình trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
143 p | 225 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu một số giải pháp quản lý và khai thác hệ thống công trình thủy lợi trên địa bàn thành phố Hà Nội trong điều kiện biến đổi khí hậu
83 p | 236 | 21
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
26 p | 224 | 16
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Những giải pháp chủ yếu nhằm chuyển tổng công ty xây dựng số 1 thành tập đoàn kinh tế mạnh trong tiến trình hội nhập quốc tế
12 p | 185 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển công nghiệp huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam
26 p | 254 | 13
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn