intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:119

26
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích vai trò, tác động của ngoại thương đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; đánh giá thực trạng ngoại thương Việt Nam từ năm 1991 đến nay, tìm nguyên nhân và cách khắc phục tồn tại, yếu kém; Trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và chính sách phát triển ngoại thương cho thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HOÀNG THỊ HƯỜNG Phát triển ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa luËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ chÝnh trÞ Hµ néi - 2005
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HOÀNG THỊ HƯỜNG Phát triển ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Chuyên ngành : Kinh tế chính trị Mã số : 5.02.01 luËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ chÝnh trÞ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Nam Hµ néi - 2005
  3. NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ACFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN APEC: Diễn đàn kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á CNH: Công nghiệp hoá CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ĐTNN: Đầu tư nước ngoài EU: Liên minh Châu Âu FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài GATT: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GDP: Tổng sản phẩm quốc nội KNNK: Kim ngạch nhập khẩu KNXK: Kim ngạch xuất khẩu KNXNK: Kim ngạch xuất nhập khẩu NK: Nhập khẩu XK: Xuất khẩu XNK: Xuất nhập khẩu XHCH: Xã hội chủ nghĩa WTO: Tổ chức thương mại thế giới
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong thời đại hiện nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là một xu hướng phát triển mạnh mẽ, là quy luật đối với hầu hết các nước trên thế giới, nhất là đối với những nước đang phát triển để góp phần nhanh chóng rút ngắn khoảng cách lạc hậu với những nước phát triển; đặc biệt Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH đất nước. Hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước bao gồm ba nội dung cơ bản là: - Hoạt động ngoại thương; đó là hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá. - Hoạt động hợp tác kinh tế, kỹ thuật; bao gồm hợp tác đầu tư và hợp tác khoa học - công nghệ. - Hoạt động du lịch - dịch vụ; đó là các hoạt động vận tải, bảo hiểm, ngân hàng... và hoạt động du lịch. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, hoạt động ngoại thương giữ vị trí quan trọng, nó tạo điều kiện phát huy được lợi thế và tiềm năng của từng nước trên thị trường quốc tế. Hoạt động ngoại thương của một nước được đánh giá qua tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu, cán cân thương mại, cán cân thanh toán, kết quả này sẽ làm tăng hoặc giảm thu nhập của đất nước, do đó mà tác động đến tổng cầu của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế tăng trưởng hoặc suy giảm. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng. Kết quả hoạt động xuất - nhập khẩu đã có ý nghĩa quan trọng góp phần vào ổn định và phát triển kinh tế; góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH; góp phần đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất, nâng cao trình độ sản xuất và năng suất lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước; góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân… 2
  5. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động ngoại thương Việt Nam những năm qua còn nhiều tồn tại, yếu kém; kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và nội lực của đất nước, với nhu cầu thế giới. Việc nghiên cưú lý luận về phát triển ngoại thương trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và đánh giá kết quả hoạt động ngoại thương những năm qua, tìm nguyên nhân để có phương hướng, chính sách phù hợp, tối ưu cho phát triển ngoại thương trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam là cực kỳ cần thiết. Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài “Phát triển ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH làm luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Do vị trí, vai trò quan trọng của hoạt động ngoại thương đối với sự phát triển kinh tế đất nước mà từ trước đến nay đã có nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và viết về đề tài ngoại thương dưới nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau. Có tác giả nghiên cứu và hoạt động ngoại thương, chính sách ngoại thương trong mối quan hệ là bộ phận của hoạt động kinh tế đối ngoại, chính sách kinh tế đối ngoại . Có tác giá nghiên cứu một góc độ nào đó, một lĩnh vực nào đó của hoạt động ngoại thương, hoặc nghiên cứu ngoại thương Việt Nam trong một giai đoạn, một thời kỳ nhất định nào đó, như: - “Về chính sách thương mại quốc tế của nước ta trong tình hình mới” của GS. TS. Hà Văn Vĩnh - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - “Ngoại thương Việt Nam, từ 1990 - 2000: Những thành tựu và suy nghĩ” của Võ Hùng Dũng. - “Xuất - nhập khẩu của Việt Nam, trong 10 năm đầu của thế kỷ mới” của Vũ Khoan. - “Chính sách thương mại của Việt Nam trong xu thế thương mại quốc tế hiện nay” của Nguyễn Thị Thanh Hoà - Đại học tài chính kế toán Hà Nội. - “Phát triển thương mại trong nền kinh tế thị trường” của Nguyễn Duy Nghĩa - Bộ thương mại. 3
  6. - “Mối quan hệ giữa hoạt động ngoại thương và thu hút FDT tại Việt Nam” của thạc sỹ Đoàn Quang Vinh. - “Toàn cầu hoá - hai mặt thuận và nghịch đối với thương mại của Việt Nam” của Nguyễn Thanh Nga - Viện nghiên cứu thương mại, Bộ thương mại. - “Chính sách và giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá Việt Nam giai đoạn 2001-2010, tầm nhìn đến 2020” - Đề tài độc lập cấp Nhà nước do Bộ thương mại thực hiện 2000-2001, chủ nhiệm đề tài: PGS. TS. Nguyễn Văn Nam... Trong luận văn này, chúng tôi nghiên cứu ngoại thương Việt Nam từ góc nhìn kinh tế chính trị: Khái quát lý luận về ngoại thương, nhất là vai trò tác động của ngoại thương đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước (có tính đến xu hướng toàn cầu, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế); đánh giá thực trạng hoạt động ngoại thương Việt Nam từ 1991 đến nay, tìm nguyên nhân, từ đó đề xuất phương hướng, chính sách phát triển ngoại thương cho thời gian tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích vai trò, tác động của ngoại thương đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; đánh giá thực trạng ngoại thương Việt Nam từ năm 1991 đến nay, tìm nguyên nhân và cách khắc phục tồn tại, yếu kém; Trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và chính sách phát triển ngoại thương cho thời gian tới. * Nhiệm vụ. Để đạt mục đích trên, luận văn đề ra những nhiệm vụ sau: - Khái quát lý luận về ngoại thương; phân tích vai trò, tác động của ngoại thương đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (trong xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế). - Phân tích thực trạng ngoại thương Việt Nam từ 1991 đến nay: Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của thành tựu và hạn chế đó. 4
  7. - Đề xuất phương hướng, chính sách và những giải pháp lớn (cơ bản) để nâng cao hiệu quả của hoạt động ngoại thương trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay và giai đoạn tiếp theo. 5
  8. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận - Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận về thương mại quốc tế của chủ nghĩa Mác - Lênin. - Dựa trên những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và thương mại quốc tế. - Có tham khảo một số lý luận thương mại quốc tế trong lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại và các học thuyết hiện đại về thương mại quốc tế. * Phương pháp nghiên cứu - Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chung là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. - Sử dụng phương pháp của kinh tế chính trị là phương pháp trừu tượng hoá khoa học. - Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp: Phân tích, tổng hợp; thống kê, đối chiếu, so sánh; mô hình hoá; đặc biệt chú trọng khảo sát tổng kết thực tiễn, rút ra kết luận có ý nghĩa lý luận. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Đề tài lấy hoạt động ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH làm đối tượng nghiên cứu. * Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò, tác động của ngoại thương trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam, có tính đến xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế - cơ hội và thách thức. Thời gian giới hạn từ 1991 đến nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn * Ý nghĩa lý luận - Đề tài làm rõ vai trò của ngoại thương đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH 6
  9. - Sự cần thiết phát triển ngoại thương để đẩy mạnh CNH, HĐH trong xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. - Làm rõ cơ hội và thách thức của việc phát triển ngoại thương Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. * Ý nghĩa thực tiễn. - Đánh giá kết quả hoạt động ngoại thương Việt Nam từ năm 1991 đến nay; tìm nguyên nhân của thành tựu và hạn chế - Đề xuất phương hướng, chính sách và giải pháp cơ bản để phát triển ngoại thương trong thời gian tới đạt hiệu quả cao hơn. - Luận văn có thể được dùng làm đề tài tham khảo cho giáo viên và học sinh, sinh viên khi giảng dạy và nghiên cứu về hoạt động ngoại thương Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Ngoại thương trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chương 2: Thực trạng ngoại thương Việt Nam từ năm 1991 đến nay . Chương 3: Phương hướng và chính sách phát triển ngoại thương trong thời gian tới. 7
  10. 8
  11. Chƣơng 1 NGOẠI THƢƠNG TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ 1.1. Vai trò của ngoại thƣơng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.1.1. Khái niệm ngoại thương Ngoại thương hiểu theo nghĩa phổ biến nhất là phạm trù kinh tế phản ánh sự trao đổi hàng hoá giữa một nước này với các nước khác thông qua các hoạt động XK và NK.Toàn bộ quan hệ trao đổi hàng hoá giữa các nước được gọi là mậu dịch quốc tế. Điều kiện để ngoại thương phát sinh, phát triển là: - Có sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ, kèm theo đó là sự xuất hiện của tư bản thương nghiệp. - Sự ra đời của Nhà nước và sự phát triển của phân công lao động quốc tế giữa các nước. Ngoại thương đã xuất hiện từ thời cổ đại, dưới chế độ nhà nước chiếm hữu nô lệ và tiếp đó là chế độ nhà nước phong kiến. Thời đó, do kinh tế tự nhiên còn chiếm địa vị thống trị nên ngoại thương mang tính chất ngẫu nhiên, phát triển với qui mô rất nhỏ hẹp. Lưu thông hàng hoá quốc tế chỉ gồm một phần nhỏ những sản phẩm sản xuất ra và chủ yếu là để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của giai cấp thống trị đương thời. Đến thời đại tư bản chủ nghĩa, ngoại thương mới phát triển rộng rãi. Ngoại thương vừa là tiền đề, vừa là kết quả của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các cuộc cách mạng lớn diễn ra trong thương nghiệp ở thế kỷ XVI, XVII gắn liền với những phát kiến địa lý đã dẫn tới sự phát triển nhanh chóng của tư bản thương nghiệp. Đó là một trong những nhân tố của tích luỹ nguyên thuỷ tư bản, và góp phần thúc đẩy 9
  12. phương thức sản xuất phong kiến chuyển sang phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Thị trường thế giới mở rộng, hàng hoá lưu thông tăng thêm nhiều, các nước châu Âu đua tranh làm chủ các sản phẩm của châu Á và tài nguyên phong phú của châu Mỹ... Tất cả những điều đó đã góp một phần căn bản vào việc phá vỡ các giới hạn phong kiến của nền sản xuất. Mặt khác, tính tất yếu nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là phải sản xuất trên một qui mô ngày càng lớn hơn để tăng thu lơị nhuận. Điều đó thúc đẩy thị trường thế giới phải không ngừng mở rộng; ngoại thương ngày càng phát triển. ở thế kỷ XVI, XVII, lúc đầu tham gia vào mậu dịch quốc tế chỉ có một số ít các nước tư bản chủ nghĩa phát triển hơn, dần dần, do sự phát triển mạnh của lực lượng sản xuất và xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, ngày càng có nhiều nước ở nhiều trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau thuộc nhiều khu vực lãnh thổ khác nhau cùng tham gia vào mậu dịch quốc tế. Ngoại thương phản ánh quá trình tham gia phân công lao động quốc tế của một nước. 1.1.2. Một số lý thuyết cơ bản về thương mại quốc tế 1.1.2.1. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối Lý thuyết này xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ XVIII, xây dựng trên cơ sở lý thuyết về buôn bán tự do được phát triển vào thế kỷ này. Năm 1776, trong tác phẩm “Sự giàu có của các dân tộc”, Adam Smith đã quan niệm các nước thu được lợi ích lớn nhất khi tham gia trao đổi các loại hàng hoá có thể sản xuất với hiệu quả tối đa. Điểm then chốt của lập luận này là ở chỗ các loại chi phí sản xuất sẽ là căn cứ cho biết từng nước hoặc từng bạn hàng buôn bán nên sản xuất mặt hàng gì. Theo quan niệm về lợi thế tuyệt đối; việc một nước quyết định sản xuất loại hàng hoá nào được dựa vào có sử dụng tốt (nhất) hay không các nguồn lực của quốc gia đó. Các nguồn lực đó là đội ngũ lao động, tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, tiến bộ công nghệ, hoặc thậm chí cả truyền thống kinh doanh. Adam Smith tin tưởng rằng tất cả các quốc gia đều có lợi từ ngoại thương và đã ủng hộ rất mạnh mẽ cho chính sách tự do thương mại. 10
  13. Ngoại thương tự do sẽ là nguyên nhân làm cho các nguồn tài nguyên thế giới được sử dụng có hiệu quả nhất và phúc lợi của thế giơí nói chung sẽ được tạo ra tới mức tối đa. Như vậy, theo lý thuyết này việc khẳng định một nước được coi là có lợi thế tuyệt đối so với một nước khác trong việc chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá A khi cùng một nguồn lực có thể sản xuất được nhiều sản phẩm A ở nước đó hơn ở nước khác; và tiêu chuẩn quyết định sự lựa chọn ngành nghề cần chuyên môn hoá quốc tế là những ưu thế tự nhiên như khí hậu, đất đai, khoáng sản và những lợi thế khác. Một nước có chi phí sản xuất cao hơn sẽ nhập sản phẩm đó từ nước khác có chi phí sản xuất thấp hơn. Lợi thế này được xem xét từ hai phía đối với nước sản xuất sản phẩm có chi phí sản xuất thấp sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn khi bán sản phẩm trên thị trường quốc tế. Còn với các nước sản xuất sản phẩm với chi phí cao sẽ có được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem lại lợi nhuận, người ta gọi là bù đắp được sự yếu kém về khả năng sản xuất trong nước. 1.1.2.2. Lý thuyết về lợi thế so sánh (lợi thế tương đối) Nếu lợi thế tuyệt đối được xem xét dựa vào chi phí sản xuất thì lợi thế tương đối dựa vào chi phí so sánh. Ví dụ, khả năng trao đổi sản phẩm giữa Việt Nam và Nga đối với hai sản phẩm là thép và quần áo (xem bảng 1.1). Bảng 1.1. Chi phí sản xuất Sản phẩm Chi phí sản xuất (ngày công lao động) Việt Nam Nga Thép (1 đơn vị) 25 16 Quần áo (1 đơn vị) 5 4 Xét theo chi phí sản xuất thì Việt Nam sản xuất thép và quần áo đều có chi phí cao hơn Nga. Lợi thế tuyệt đối chỉ ra rằng Việt Nam không có khả 11
  14. năng xuất khẩu sản phẩm này sang Nga. Song nếu xét theo chi phí so sánh thì lại có cách nhìn khác (xem bảng 1.2). Bảng 1.2: Chi phí so sánh Sản phẩm Chi phí sản xuất (ngày công lao động) Việt Nam Nga Thép (1 đơn vị) 5 4 Quần áo (1 đơn vị) 1/5 1/4 Theo chi phí so sánh thì thấy rằng chi phí sản xuất thép của Việt Nam cao hơn Nga: Để sản xuất một đơn vị thép ở Việt Nam cần 5 đơn vị quần áo trong khi ở Nga chỉ cần 4 đơn vị. Nhưng ngược lại, chi phí sản xuất quần áo ở Việt Nam lại thấp hơn Nga: Để sản xuất một đơn vị quần áo Việt Nam cần 1/5 đơn vị thép trong khi ở Nga cần 1/4 đơn vị. Điều này chỉ ra rằng Việt Nam và Nga có thể trao đổi sản phẩm cho nhau. Nga xuất khẩu thép sang Việt Nam và Việt Nam xuất khẩu quần áo sang Nga. Việc trao đổi này đưa lại lợi thế cho cả 2 nước. Có thể mô tả lợi ích của Việt Nam trong trường hợp này qua sơ đồ 1. Quần áo PPF Qb B (Qb – 9) C Độ dốc (-4,5) Qa A Độ dốc (-5) 12
  15. 0 Tb (Tb+2) Ta Thép Sơ đồ 1: Lợi thế của Việt Nam khi có ngoại thương Trong sơ đồ này, đường PPF phản ánh khả năng sản xuất thép và quần áo của Việt Nam. - Khi chưa có ngoại thương, điểm A (nơi tiếp xúc giữa đường PPF và tiếp tuyến có độ dốc là (-5) phản ánh giá so sánh thép của Việt Nam) phản ánh đồng thời khả năng sản xuất và tiêu dùng của Việt Nam A(Ta, Qa). - Khi có ngoại thương, Việt Nam sẽ bán quần áo sang Nga và mua thép từ Nga về. ở đây có vấn đề là giá trao đổi sẽ được thực hiện như thế nào. Trong trường hợp này, đối với giá thép Việt Nam nhập không phải theo giá so sánh 5 hoặc 4 mà thông thường là theo giá quốc tế; nó sẽ biến động trong khoảng 4 và 5 (4
  16. với giá tương đối rẻ so với giá đang được lưu hành trong nước nếu không có ngoại thương. Nội dung này xuất phát từ sự khác nhau về chi phí so sánh để sản xuất sản phẩm. 1.1.3. Vai trò của ngoại thương đối với việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.1.3.1 Khái niệm và nội dung chủ yếu của CNH, HĐH ở nước ta CNH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [36, tr.587]. CNH là con đường tất yếu để xây dựng cơ sở vật chấy kỹ thuật cho chủ nghiã xã hội ở nước ta. Thực chất CNH chính là chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí chủ yếu trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, CNH có hai nội dung chủ yếu là: Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật để trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân và xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội. Đảng ta đã xác định nội dung cơ bản của CNH, HĐH từ nay đến năm 2010 là: - Con đường CNH, HĐH nước ta cần phải và có thể rút ngắn bằng kết hợp hài hoà giữa phát triển tuần tự với phát triển nhảy vọt, gắn CNH với HĐH bằng phát triển những công nghệ hiện đại, đặc biệt công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, từng bước phát triển kinh tế tri thức. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH. Sự chuyển dịch này phải dựa trên cơ sở phát huy thế mạnh, lợi thế so sánh của đất nước, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường, mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước. 14
  17. - Huy động các nguồn lực đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Đưa nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp phát triển lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm tăng giá trị trên một diện tích đất canh tác; đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, đồng thời áp dụng các công nghệ tin học, sinh học; giải quyết tiêu thụ nông sản; đầu tư cho phát triển hạ tầng nông thôn; phát triển nhiều ngành nghề chế biến truyền thống. - Đối với công nghiệp, vừa phát triển các ngành nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số ngành công nghệ hiện đại, công nghệ cao, xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; chú trọng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng một số tập đoàn doanh nghiệp lớn và từng bước HĐH kết cấu hạ tầng. - Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng ngành dịch vụ, phát triển mạng lưới đô thị hợp lý, phát huy vai trò các vùng kinh tế trọng điểm có mức tăng trưởng cao, tích luỹ vốn lớn, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng khác, nhất là các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa. - Phát triển mạnh và phát huy vai trò chiến lược của kinh tế biển kết hợp với bảo vệ vùng biển, kết hợp nuôi trồng, đánh bắt, chế biến hải sản. Khai thác và chế biến dầu, dầu khí, đóng tàu, vận tải, du lịch, dịch vụ... Phấn đấu đến năm 2010 cơ cấu ngành kinh tế trong GDP là: Nông nghiệp chiếm 16 - 17%; công nghiệp và xây dựng cơ bản chiếm 40- 41%; dịch vụ chiếm 42-43%. Phấn đấu năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; lao động chủ yếu bằng máy móc; điện khí hoá cơ bản; GDP tăng gấp 8 lần so với năm 1990; khoa học - công nghệ làm chủ được công nghệ nhập; các lĩnh vực công thương, dịch vụ phát triển mạnh... 15
  18. Trong thời đại ngày nay, thông qua việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, CNH phải phát triển những ngành có tiềm năng, ưu thế lớn, có khả năng sử dụng kỹ thuật và công nghệ có hiệu quả cao nhất. Hơn nữa, với sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, không chỉ ở những nước kém phát triển và đang phát triển, mà cả những nước có nền công nghiệp tương đối phát triển, CNH vẫn còn là vấn đề phải tiếp tục nhưng với nội dung mới: điện tử, tin học, công nghệ mới, công nghệ sinh học…[37, tr.587]. Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định rõ: “Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh [11, tr.80]. Nội dung của CNH, HĐH ở Việt Nam được Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh “...Hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN... xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh. Hoàn chỉnh một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng... Tạo mọi điều kiện thuận lợi để tăng nhanh XK, thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, thực hiện các cam kết song phương và đa phương…; duy trì ổn định các cân đối vĩ mô…; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; …ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức… [12, tr.262-263]. Xuất phát từ yêu cầu thực tế, khẳng định tụt hậu là nguy cơ lớn nhất, vượt và thoát nguy cơ này là thách thức hàng đầu của Việt Nam. Điều này có nghĩa là chúng ta cần phải phát triển rút ngắn thời gian. Quan điểm này đã được nêu rõ trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX là: “Đẩy mạnh CNH, HĐH xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, phát huy cao độ nội lực, 16
  19. đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững…” [12, tr.2]. Mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001 - 2010) là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tạo nền tảng để đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; “Phát triển kinh tế, CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm” [12, tr.159]. 1.1.3.2. Vai trò của ngoại thương đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH Thời kỳ CNH được hiểu là giai đoạn biến đổi toàn bộ nền kinh tế xã hội từ lao động thủ công sang lao động công nghệ tiên tiến, hiện đại; từ sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp sang nền sản xuất lớn với năng suất lao động cao tạo ra sự chuyển biến cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng và hiệu quả. Như vậy, suy cho cùng, mục tiêu của CNH, HĐH là phát triển nền kinh tế quốc dân với tốc độ cao và bền vững bằng việc khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước và cả nguồn lực từ bên ngoài. Với góc độ đó, ngoại thương cần thiết cho CNH, HĐH cả về chất và lượng. Việc thể hiện được tác động của ngoại thương tới sự nghiệp CNH, HĐH một phần chủ yếu là nhờ vào sự định hướng, chính sách và biện pháp trong hoạt động ngoại thương một cách phù hợp với sự phát triển kinh tế đất nước trong từng thời kỳ phát triển [36, tr.46]. - Về chất, ngoại thương giúp đẩy nhanh tiến độ thực hiện thành công tiến trình CNH, HĐH. Trong điều kiện của nước ta đặt ra những yêu cầu trực tiếp và cấp bách là có vốn ngoại tệ để NK công nghệ, kỹ thuật máy móc, thiết bị tiên tiến cũng như nguyên vật liệu mà ta chưa sản xuất được, hoặc sản xuất được nhưng với chi phí cao hơn nếu nhập từ thị trường thế giới. Ngoại thương sẽ là nguồn cung cấp ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu NK thiết bị, máy móc phục vụ cho yêu cầu của CNH; Nếu có chính sách NK phù hợp thì việc NK máy móc, 17
  20. thiết bị sẽ là động lực cho tiến trình CNH, HĐH; và sẽ đưa lại lợi ích không kém phần quan trọng là giúp nền sản xuất trong nước tồn tại và phát triển được cùng với thế giới. Lúc này chính từ hội nhập kinh tế quốc tế , thông qua thương mại tư do nền sản xuất và kinh doanh trong nước sẽ tìm được câu trả lời chính xác cho sự lựa chọn mình sẽ phải làm gì ? làm bao nhiêu ? và làm như thế nào ?. Một trong những kết quả của những trả lới chính xác này là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, hàng hoá, dịch vụ Việt Nam nói riêng. Những lợi ích của ngoại thương có thể được nhìn nhận như những lợi ích về chất bởi lẽ chúng giúp nâng cao được chất lượng của nền kinh tế: tăng trưởng cao nhưng bền vững vì mức tăng trưởng cao của năng suất lao động xã hội trong khi sử dụng ít hơn nguồn lực (bao gồm cả việc thoả mãn được yêu cầu bảo vệ môi trường- sự phá huỷ môi trường có thể coi như là tiêu hao về nguồn lực). - Về lượng: ngoại thương giúp tăng qui mô tiêu dùng trong khi không phải tiêu hao thêm nguồn lực của đất nước, lợi ích này của ngoại thương thu được chủ yếu dựa trên việc khai thác lợi thế so sánh, trong đó có khai thác lợi ích kinh tế nhờ qui mô. Chỉ có thông qua ngoại thương, lợi thế so sánh của đất nước mới có thể chuyển thành lợi ích tiêu dùng, đẩy khả năng tiêu dùng của đất nước vươn xa, ra ngoài giới hạn của nền sản xuất. Khối lượng của cải lớn hơn có thể được tiết kiệm để đầu tư trở lại, mở rộng qui mô sản xuất. Đây chính là tích luỹ cần thiết trong giai đoạn ban đầu của CNH, bù đắp cho những thiếu hụt trong những nước có xuất phát điểm thấp như Việt Nam. Ngoại thương giúp đẩy mạnh CNH, HĐH, đến lượt nó CNH, HĐH lại tạo điều kiện thuận lợi cho ngoại thương phát triển. Qua phân tích một số lý thuyết về thương mại quốc tế ở phần trên cho thấy, ngoại thương ra đời và phát triển xuất phát từ lợi thế so sánh và cũng được dẫn dắt bởi lợi thế so sánh. Một đặc điểm quan trọng nhất của lợi thế so 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2