BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH -----------------
NGUYỄN THỊ KIỀU OANH
MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN TÀI
CHÍNH VÀ HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA Ở CHÂU Á
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ------------------
NGUYỄN THỊ KIỀU OANH
MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN TÀI
CHÍNH VÀ HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA Ở CHÂU Á
Chuyên ngành: Tài Chính – Ngân Hàng
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ Kinh tế này với đề tài “Mối quan hệ giữa
phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ tại một số quốc gia ở châu Á”
là công trình nghiên cứu của tôi cùng với sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị
Liên Hoa. Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là khách
quan và trung thực.
Tôi sẽ chịu trách nghiệm về nội dung tôi trình bày trong luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2017
Người thực hiện
Nguyễn Thị Kiều Oanh
MỤC LỤC
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
TÓM TẮT
1.1 Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 2
1.3 Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................ 2
1.3 Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 3
1.4 Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu .................................................................. 3
1.5 Giới thiệu kết cấu luận văn ................................................................................ 4
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TRƯỚC ĐÂY .......................................................................................... 6
2.1.1 Lý thuyết về phát triển tài chính.........................................................................................6
2.1.2 Lý thuyết về chính sách tiền tệ ...........................................................................................8
2.1 Cơ sở lý thuyết ................................................................................................... 6
2.2 Tổng quan các nghiên cứu trước đây ............................................................... 12
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 26
3.1 Dữ liệu ............................................................................................................. 26
3.2 Mô hình nghiên cứu ......................................................................................... 26
3.3 Kì vọng của các biến ........................................................................................ 30
3.4.1 Biến phụ thuộc: ................................................................................................................31
3.4.2 Biến độc lập: ....................................................................................................................31
3.4 Mô tả biến ........................................................................................................ 30
3.5 Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 34
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.............................................................. 37
4.1 Phân tích thống kê mô tả ................................................................................. 37
4.2 Ma trận tương quan .......................................................................................... 39
4.3 Các kiểm định vi phạm giả thuyết của mô hình .............................................. 40
4.3.1 Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi .................................................. 40
4.3.2 Kiểm định hiện tượng tự tương quan ............................................................ 42
4.4 Kết quả hồi quy ................................................................................................ 43
4.5 Hồi quy GMM ................................................................................................. 56
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ...................................................................................... 62
5.1 Kết luận nghiên cứu chính ............................................................................... 62
5.2 Hạn chế đề tài .................................................................................................. 63
5.3 Hướng nghiên cứu tiếp theo ............................................................................ 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Kí hiệu Định nghĩa
Chỉ số giá tiêu dùng CPI
Mô hình các tác động cố định FEM
Tổng sản phâm quốc nội GDP
Generalized method of moments GMM
High financial development HFD
Low income countries LICs
Low financial development LFD
Lượng cung tiền M2
Mô hình các tác động ngẫu nhiên REM
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Tóm tắt các kết quả nghiên cứu trước đây ........................................... 22
Bảng 3.1 Kỳ vọng nghiên cứu của các biến ........................................................... 30
Bảng 3.2 Đo lường các biến trong mô hình .......................................................... 33
Bảng 4.1 Trung bình mẫu giai đoạn 2008Q1 – 2015Q4 ....................................... 37
Bảng 4.2 Thống kê mô tả các biến tổng thể .......................................................... 39
Bảng 4.3: Ma trận tương quan ............................................................................... 40
Bảng 4.6a: Kết quả hồi quy phát triển tài chính và cung tiền đối với tăng trưởng sản lượng (Mô hình REM) ........................................................................ 44
Bảng 4.6b: Kết quả hồi quy phát triển tài chính và cung tiền đối với lạm phát (Mô hình REM) .............................................................................................. 45
Bảng 4.7a: Kết quả hồi quy phát triển tài chính và cung tiền đối với tăng trưởng sản lượng (Mô hình FEM) ......................................................................... 46
Bảng 4.7b: Kết quả hồi quy phát triển tài chính và cung tiền đối với lạm phát (Mô hình REM) ....................................................................................................... 47
Bảng 4.8a: Mô hình thực nghiệm thay thế với tăng trưởng sản lượng (Mô hình/ Sử dụng FEM) ............................................................................................... 50
Bảng 4.8b: Mô hình thực nghiệm thay thế với tỷ lệ lạm phát............................. 51
(Mô hình/ Sử dụng FEM) ....................................................................................... 51
Bảng 4.9a: Mô hình thực nghiệm thay thế với tăng trưởng sản lượng (Mô hình/ Sử dụng REM) ............................................................................................... 52
Bảng 4.9b: Mô hình thực nghiệm thay thế với tỷ lệ lạm phát............................ 53
(Mô hình/ Sử dụng REM) ....................................................................................... 53
Bảng 4.10a: Kết quả ước lượng theo tăng trưởng sản lượng .............................. 57
Bảng 4.10b Kết quả ước lượng theo tỷ lệ lạm phát .............................................. 58
Bảng 4.11 So sánh kết quả GMM .......................................................................... 61
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu này được thực hiện nhằm kiểm định mối quan hệ giữa sự
phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ. Tác giả sử dụng dữ liệu bảng
từ 10 quốc gia trong khu vực châu Á trong thời gian từ quý 1 năm 2008 đến quý 4
năm 2015, dựa trên mô hình dữ liệu bảng theo phương pháp tuyến tính tiếp cận
GMM, hiệu ứng ngẫu nhiên (REM) và hiệu ứng cố định (FEM). Kết quả cho thấy
rằng, những tác động của chính sách tiền tệ lên sản lượng và lạm phát là đáng kể và
chỉ ra rằng tác động của chính sách tiền tệ tỷ lệ nghịch với sự phát triển tài chính, có
nghĩa là hiệu quả của chính sách tiền tệ sẽ giảm dần khi hệ thống tài chính trở nên
phát triển hơn và ngược lại. Kết quả này là phù hợp với nền tảng lý thuyết vè chính
sách tiền tệ và phát triển tài chính cũng như các công trình nghiên cứu trước đây.
Từ khóa: Phát triển tài chính, Chính sách tiền tệ, hiệu quả
1
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Lý do chọn đề tài
Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ được sử dụng để điều tiết kinh
tế vĩ mô ở hầu hết các quốc gia hiện nay trên thế giới. Đồng thời, chính sách tiền tệ
còn là công cụ để ngân hàng trung ương điều tiết quá trình cung ứng tiền, lãi suất và
tín dụng, kết quả là chi phối phòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền để đạt mục
tiêu của chính sách đề ra. Phát triển tài chính được thể hiện thông qua sự hình thành
và phát triển của hệ thống tài chính. Sự hình thành và phát triển của hệ thống tài
chính là yếu tố quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia. Một nền kinh tế phát triển luôn đi đôi với sự phát triển của hệ thống tài chính.
Các nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và chính sách
tiền tệ đã được thực hiện, tuy nhiên vẫn còn nhiều tranh cãi xoay quanh vấn đề này.
Hệ thống tài chính trong hầu hết các nền kinh tế đã chứng kiến sự phát triển
mạnh mẽ trong hai thập kỉ qua. Sự phát triển này được đi kèm với một bước tiến lớn
trong kinh doanh và thực thi chính sách. Trong khi sự phát triển tài chính có nhiều
hiệu quả kinh tế tích cực (Levine, 1997, 2005), thì những hệ thống tài chính phát
triển nhanh cũng đáng được quan tâm bởi vì nó có tác động trực tiếp đến chính sách
tiền tệ thông qua Ngân hàng trung ương. Như chúng ta đã biết, hệ thống tài chính
quyết định đến cách quản lý của chính sách tiền tệ vì chính sách tiền tệ nhắm mục
tiêu đến các biến kinh tế vĩ mô nhất định về cơ bản là một quá trình tài chính, với hệ
thống tài chính như là giao diện liên kết các chính sách của Ngân hàng trung ương
với nền kinh tế thực thông qua cơ chế truyền dẫn tiền tệ. Chính sách tiền tệ hoạt
động chủ yếu thông qua ảnh hưởng của nó trên hệ thống tài chính, bất kì sự phát
triển nào ảnh hưởng đến cấu trúc hay điều kiện của hệ thống tài chính cũng có khả
năng gây ảnh hưởng lên cơ chế dẫn truyền. Kênh truyền dẫn tác động của chính
sách tiền tệ thường thông qua hệ thống tài chính và kênh ngân hàng. Chính vì vậy,
một hệ thống tài chính ổn định và một hệ thống ngân hàng lành mạnh sẽ giúp truyền
dẫn một cách có hiệu quả hơn các mục tiêu của chính sách tiền tệ ra nền kinh tế
2
cũng như các khu vực trong nền kinh tế. Như vậy, hiệu quả của chính sách tiền tệ
xoay quanh chủ yếu vào một tập hợp các thông số bị ảnh hưởng bởi sự phát triển
của hệ thống tài chính.
Chính sách tiền tệ là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống chính
sách kinh tế tài chính của mỗi quốc gia. Để hoạt động hiệu quả thì nó cần được thiết
lập và vận hành trong mối quan hệ với các chính sách khác. Chính sách tiền tệ do
Ngân hàng trung ương vạch ra và đưa vào vận hành trong thực tế nhằm thực hiện
các mục tiêu cơ bản của kinh tế vĩ mô được xác định theo từng thời kì khác nhau.
Chính sách tiền tệ được thiết kế nhằm để duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính
và các tổ chức tài chính.
Điều đáng chú ý là mặc dù lý thuyết kinh tế học từ lâu đã được công nhận
các tác động tiềm năng mà phát triển tài chính có thể có trong chính sách tiền tệ, các
nghiên cứu thực nghiệm về đề tài này đã đưa ra các kết quả khác nhau. Để tìm câu
trả lời cho cuộc tranh luận đã có từ lâu và chưa được giải quyết, tác giả quyết định
lựa chọn thực hiện một cách có hệ thống phân tích thực nghiệm về “Mối quan hệ
của sự phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ tại một số quốc
gia ở châu Á” cho đề tài nghiên cứu của mình.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của bài viết này nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mối
quan hệ giữa sự phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ tại một số
quốc gia thuộc khu vực châu Á.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Để làm rõ mục tiêu nghiên cứu của đề tài, tác giả tập trung trả lời các câu hỏi
nghiên cứu cụ thể như sau:
Thứ nhất, mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách
tiền tệ có sự tương quan nghịch hay thuận chiều?
3
Thứ hai, hiệu quả của chính sách tiền tệ phụ thuộc như thế nào vào sự phát
triển tài chính? Cụ thể, phụ thuộc nhiều vào trung gian tài chính hay thị trường tài
chính?
Thứ ba, khi có sự kiểm soát các ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
thì phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ sẽ như thế nào?
1.3 Phạm vi nghiên cứu
Mối liên hệ giữa sự phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ là
một trong những vấn đề đang được nhiều người quan tâm và nghiên cứu trong
những năm gần đây.
- Về không gian:
Tác giả tiến hành phân tích 10 quốc gia thuộc khu vực châu Á bao gồm:
Trung Quốc, Ấn Độ, Hồng Kông, Singapore, Indonesia, Việt Nam, Hàn Quốc, Thái
Lan, Isreal, Nhật Bản. Đây là các quốc gia có đầy đủ dữ liệu quan sát trong mẫu giai
đoạn nghiên cứu.
- Về thời gian:
Để tiến hành nghiên cứu, tác giả nghiên cứu chọn dữ liệu theo quý với
khoảng thời gian nghiên cứu trong vòng 32 quý (từ quý 1 năm 2008 đến quý 4 năm
2015). Tác giả chọn mốc khởi điểm là 2008 vì tác giả muốn xem xét sự thay đổi
như thế nào khi lúc này các nền kinh tế có sự chuyển biến do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008.
1.4 Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
Để thực hiện bài nghiên cứu, tác giả tiến hành thu thập dữ liệu của 10 nền
kinh tế trong khu vực châu Á bao gồm các quốc gia: Việt Nam, Thái Lan,
Indonesia, Singapore, Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản, Isreal, Ấn
Độ.
4
Bài nghiên cứu dùng dữ liệu bảng theo dạng cân bằng (Balanced data). Dữ
liệu được thu thập và tổng hợp để tính toán các biến độc lập và biến phụ thuộc được
lấy từ nguồn Datastream của Data center – School of Finance (UEH) và
data.imf.org.
Tác giả sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng trong bài nghiên cứu cùng với
nhiều phương pháp ước lượng như tác tác động cố định (FEM), tác động ngẫu nhiên
(REM) và GMM (Genealized Method of Moments) để thực hiện hồi quy phân tích
tuyến tính. Ngoài ra, tác giả cũng tiến hành kiểm định các vi phạm giả thuyết mô
hình như hiện tượng đa cộng tuyến, phương sai thay đổi và tự tương quan. Tuy
nhiên, tác giả sử dụng phương pháp GMM làm phương pháp ước lượng chính trong
bài nghiên cứu và tiến hành thảo luận dựa trên các kết quả có được.
Để có kết quả nghiên cứu nhanh chóng và chính xác, tác giả sử dụng hỗ trợ
của các phần mềm Excel, Stata12.
1.5 Giới thiệu kết cấu luận văn
Ngoài danh mục từ viết tắt, danh mục bảng, phần tóm tắt đề tài, tài liệu tham
khảo và phụ luc, bài nghiên cứu của tác giả bao gồm 5 chương như sau:
Chương 1: Giới thiệu về đề tài nghiên cứu. Trong chương này tác giả trình
bày một cách ngắn gọn về lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên
cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, cuối cùng là kết cấu của đề tài.
Chương 2: Tổng quan các nghiên cứu trước đây. Ở chương này tác giả
trình bày tổng quan về lý thuyết và tổng hợp các nghiên cứu trước đây có liên quan
đến chủ đề nghiên cứu của đề tài này.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu. Trong chương này tác giả sẽ tiến
hành phân tích dữ liệu mẫu nghiên cứu, sơ lược qua mô hình nghiên cứu mà tác giả
sử dụng, giới thiệu cách đo lường các biến trong bài nghiên cứu, cuối cùng trình bày
các phương pháp ước lượng cụ thể.
5
Chương 4: Nội dung và kết quả nghiên cứu. Trong chương này tác giả sẽ
báo cáo kết quả có được từ việc chạy mô hình và tiến hành thảo luận từ kết quả có
được.
Chương 5: Kết luận. Chương này sẽ tổng kết các kết quả mà đề tài nghiên
cứu được và rút ra hạn chế của đề tài, đồng thời đưa ra những gợi ý và hướng
nghiên cứu tiếp theo.
6
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN
CỨU THỰC NGHIỆM TRƯỚC ĐÂY
2.1 Cơ sở lý thuyết
2.1.1 Lý thuyết về phát triển tài chính
Phát triển tài chính được thể hiện thông qua sự hình thành và phát triển của
hệ thống tài chính. Sự hình thành và phát triển của hệ thống tài chính là yếu tố quan
trọng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Một hệ thống tài
chính hoạt động tốt sẽ tạo ra sự cải tiến công nghệ bằng cách xác định, lựa chọn và
tài trợ cho các nhà doanh nghiệp được kỳ vọng sẽ thực hiện thành công sản phẩm và
tiến trình sản xuất. Vai trò của sự phát triển tài chính thể hiện qua nhiều khía cạnh
trong việc đóng góp vào nền kinh tế như tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao hiệu
quả của thị trường tài chính, xóa đói giảm nghèo, tạo cơ hội và kích thích phát triển
nền kinh tế.
Hệ thống tài chính là tổng thể bao gồm các bộ phận cấu thành: thị trường tài
chính, định chế tài chính trung gian, cơ sở hạ tầng pháp lý – kĩ thuật và các tổ chức
quản lý giám sát và điều hành hệ thống tài chính; gắn liền với việc huy động, sử
dụng các công cụ tài chính để tổ chức phân bổ nguồn lực tài chính nhằm đạt được
mục tiêu đề ra của các chủ thể trong nền kinh tế, được tạo lập trong một môi trường
kinh tế - xã hội cụ thể. Vai trò của hệ thống tài chính thể hiện thông qua các mối
liên hệ giữa các dòng vốn với sự tăng trưởng kinh tế và sự điều hành của các định
chế tài chính (chủ yếu là các trung gian tài chính) trong vai trò phân bổ nguồn lực
vào các khu vực kinh tế, các hoạt động kinh tế diễn ra một cách hiệu quả. Trung
gian tài chính với chức năng huy động vốn để cho vay, từ đó nảy sinh ra các dịch vụ
giám sát và đánh giá các giao dịch tài chính, quản lý rủi ro và tạo thuận lợi cho các
giao dịch. Ngoài ra, sự ra đời của các trung gian tài chính cũng có ý nghĩa đáng kể
trong việc tích lũy vốn cho nền kinh tế và hỗ trợ đổi mới công nghệ cho vấn đề tăng
tưởng kinh tế trên nhiều khía cạnh khác nhau.
7
Các đặc trưng có liên quan của phát triển tài chính bao gồm:
Sự hình thành và hoạt động của các thể chế tài chính (bao gồm trung gian
tài chính) mà làm gia tăng hiệu quả và giảm thiểu chi phí giao dịch, nghĩa là
phát triển tài chính được tạo điều kiện thuận lợi khi các mục tiêu của trung
gian tài chính bao gồm: tối thiểu hóa chi phí giao dịch, và tối đa hóa sự phân
bổ lợi tức vốn.
Cung cấp các dịch vụ tài chính gần mức tối ưu cho tất cả các ngành/khu vực
của nền kinh tế và tất cả các lĩnh vực của xã hội. Phát triển tài chính và sự
hình thành cơ sở hạ tầng liên quan đến trung gian tài chính tạo điều kiện cho
việc giảm thiểu những sự bất cân xứng về thông tin, nghĩa là, xác định cung
và cầu nguồn lực giữa nhà đầu tư và người đi vay, và vì vậy gia tăng lợi suất
thực của vốn và năng suất kinh tế.
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối, gắn liền với quá
trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Trong thực tế, các quan hệ tài chính
diễn ra rất phức tạp và đa dạng, chúng đan xen nhau trong một tập hợp hàng loạt
các hoạt động khác nhau của nền kinh tế. Tuy nhiên, đó không phải là một hoạt
động hỗn loạn mà ngược lại, chúng tuân thủ những nguyên tắc, những quy luật nhất
định, trong đó những quan hệ tài chính có tính chất đặc thù giống nhau nhóm lại
thành một bộ phận riêng. Giữa các bộ phận này luôn có mối liên hệ, tác động ràng
buộc lẫn nhau và tạo thành hệ thống tài chính. Do vậy, hệ thống tài chính là tổng thể
của các bộ phận khác nhau trong một cơ cấu tài chính, mà ở đó các quan hệ tài
chính hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau nhưng có mối liên hệ tác động lẫn nhau
theo những quy luật nhất định. Các bộ phận trong hệ thống tài chính hoạt động trên
các lĩnh vực, tạo ra nguồn lực tài chính, thu hút các nguồn tài chính và chu chuyển
các nguồn tài chính (dẫn vốn). Với các lĩnh vực hoạt động này, toàn bộ hệ thống tài
chính thực hiện vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân là đảm bảo
nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội.
8
Một hệ thống tài chính phát triển đầy đủ thường bao gồm nhiều loại tổ chức,
công cụ và thị trường tài chính khác nhau như chúng ta thường thấy tại các nước
công nghiệp phát triển ở phương Tây. Tất nhiên, đây không phải là một hệ thống
mang tính chất tĩnh, mà ngược lại, là hệ thống thay đổi liên tục với sự ra đời của các
loại tổ chức và công cụ tài chính mới. Phát triển tài chính thể hiện qua các chỉ tiêu
như sự gia tăng khối lượng tài sản tài chính, lưu lượng di chuyển vốn, sự phát triển
của các tổ chức tài chính, sự vững chắc của cơ sở hạ tầng tài chính, và tín dụng cho
khu vực tư nhân.
2.1.2 Lý thuyết về chính sách tiền tệ
2.1.2.1 Khái niệm
Chính sách tiền tệ là hệ thống các biện pháp, các công cụ do ngân hang trung
ương thực hiện để điều tiết cung tiền, nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách
tiền tệ, thường là hướng tới một lãi suất mong muốn để đạt được những mục tiêu ổn
định và tang trưởng kinh tế như kiềm chế được lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá, đạt
được trạng thái lao động toàn dụng. Nó là một bộ phận quan trọng trong hệ thống
các chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của Chính phủ.
2.1.2.2 Các công cụ để thực thi chính sách tiền tệ
Để thực thi chính sách tiền tệ, thực hiện chức năng và vai trò của mình, ngân
hàng trung ương có thể thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ như sau:
Nghiệp vụ thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất và hạn mức tín dụng. Mỗi
loại công cụ có cơ chế vận hành riêng và ưu nhược điểm khác nhau. Do vậy, tùy
thuộc vào điều kiện thực tế của nền kinh tế để sử dụng một cách phù hợp và hiệu
quả.
- Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở phản ảnh việc ngân hàng trung ương mua hoặc bán
chứng từ có giá trên thị trường tài chính công cộng, nhằm đạt đến mục tiêu điều
chỉnh lượng tiền trong lưu thông. Khi ngân hàng trung ương đem chứng khoán ra
9
thị trường mở bán nó sẽ thu được tiền mặt và séc về. Điều này có nghĩa là khối
lượng tiền mặt cung ứng cho lưu thông giảm, dự trữ của các ngân hàng trung gian
giảm, làm giảm khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng trung gian và như
thế cung ứng tiền trong nền kinh tế bị thắt chặt hơn. Ngược lại, khi ngân hàng trung
ương đem tiền mặt hoặc séc mua chứng khoán trên thị trường mở, thì lượng tiền
mặt trong lưu thông tăng lên, dự trữ của ngân hàng thương mại tăng lên, lãi suất
ngân hàng giảm, kích thích doanh nghiệp đi vay, nghĩa là một cách mở rộng khối
tiền tệ.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các ngân hàng trung gian phải đưa vào
dự trữ theo luật định. Mức dự trữ bắt buộc cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ
bắt buộc do ngân hàng trung ương quy định. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm
trên lượng tiền gửi mà ngân hàng trung gian huy động được. Như vậy, mỗi ngân
hàng chỉ được cho vay số tiền còn lại sau khi đã trừ phần dự trữ bắt buộc. Qua đó,
việc tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, ngân hàng trung ương có thể hạn chế hay
mở rộng khối tiền tệ mà hệ thống ngân hàng có khả năng cung ứng cho nền kinh tế
thông qua hệ số tạo tiền. Đây là một công cụ mang tính chất hành chính và có ưu
điểm là để kiểm soát lượng cung tiền tệ của nền kinh tế. Bên cạnh đó, công cụ này
cũng có những mặt trái khi sử dụng. Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh
hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại, nếu thường xuyên thay đổi tỷ lệ
này cũng gây ra tình trạng mất ổn định của hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng đến
khả năng thanh khoản của những ngân hàng thương mại.
- Lãi suất
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, việc thay đổi lãi suất sẽ kéo theo sự
biến đổi của chi phí tín dụng, từ đó tác động đến việc thu hẹp hay mở rộng khối
lượng tín dụng trong nền kinh tế. Do đó, lãi suất là một trong những công cụ chủ
yếu của chính sách tiền tệ. Bằng cách sử dụng công cụ này, ngân hàng trung ương
sẽ điều khiển lãi suất tín dụng cho nền kinh tế bằng các biện pháp hành chính đối
10
với ngân hàng, cùng với khung lãi suất đã được ấn định. Để cho lãi suất tín dụng
thực sự là công cụ phù hợp của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế năng động thì
những quy định về lãi suất dần được thay đổi. Lãi suất quy định cứng nhắc dần
được thay thế bằng cách quy định lãi suất trần cho vay và lãi suất sàn đối với lãi
suất tiền gửi hoặc dùng một lãi suất duy nhất để điều tiết thị trường tiền tệ bằng lãi
suất tái chiết khấu. Ngân hàng trung ương có thể thay đổi cung ứng tiền tệ bằng
cách thay đổi lãi suất chiết khấu. Lãi suất chiết khấu càng cao, các ngân hàng càng
ngại vay tiền của ngân hàng trung ương để bù đắp dự trữ. Bởi vậy, biện pháp tăng
suất chiết khấu làm giảm dự trữ của hệ thống ngân hàng, dẫn đến cung ứng tiền tệ
giảm. Ngược lại, biện pháp giảm lãi 16 suất chiết khấu khuyến khích các ngân hàng
vay tiền của ngân hàng trung ương, dẫn tới lượng dự trữ tăng và cung ứng tiền tệ
tăng. Ngân hàng trung ương sử dụng hình thức cho vay chiết khấu không chỉ để
kiểm soát cung ứng tiền tệ, mà còn nhằm giúp đỡ các định chế tài chính khi họ rơi
vào tình thế khó khăn.
- Hạn mức tín dụng
Ngân hàng trung ương sử dụng biện pháp quy định giới hạn khối lượng tín
dụng mà các ngân hàng thương mại cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian cố
định. Biện pháp này được sử dụng trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát cao và
được sử dụng khá phổ biến ở những nước hệ thống xã hội chủ nghĩa với cơ chế kinh
tế kế hoạch hoá tập trung. Tuy nhiên, biện pháp này cũng bộc lộ một số hạn chế.
Trong các công cụ điều hành của chính sách tiền tệ, mỗi công cụ có một đặc điểm
riêng để phù hợp với những điều kiện kinh tế khác nhau. Để đáp ứng yêu cầu của cơ
chế quản lý thị trường thì những công cụ tài chính linh động, mềm dẻo cao được
vận dụng ngày càng nhiều. Một số công cụ được sử dụng phổ biến như nghiệp vụ
thị trường mở, lãi suất tái chiết khấu. Dự trữ bắt buộc là một trong những công cụ
được áp dụng xong vẫn còn nhiều hạn chế nhất định.
11
2.1.2.3 Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Bằng các công cụ nêu trên, Ngân hang trung ương đã trực tiếp và gián tiếp
thực thi 6 mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ:
Tạo việc làm
Tăng trưởng kinh tế
Ổn định giá cả
Ổn định lãi suất
Ổn định thị trưởng tài chính
Ổn định thị trường chứng khoán
2.1.2.4 Tính hiệu quả của chính sách tiền tệ
Một chính sách tiền tệ đạt hiệu quả khi thực hiện được các mục tiêu đưa ra.
Các nhà hoạch định chính sách có hai công cụ chính để thực hiện các mục tiêu của
mình là chính sách tiền tệ (tức việc kiểm soát lãi suất hoặc cung tiền) và chính sách
tài khóa (tức việc kiểm soát chi tiêu và thuế của chính phủ). Và để đo lường tính hiệu
quả và hữu ích của chính sách tài khóa và tiền tệ tới hoạt động kinh tế, chúng ta
thường sử dụng mô hình IS - LM. Với mô hình IS - LM, các nhà hoạch định chính
sách có thể dự báo được điều xảy ra trong tương lai của sản lượng và lãi suất khi họ
quyết định thực hiện một quyết định nào đó.Và với những chính sách tiền tệ,nó sẽ
tác động đến sự cân bằng của thị trường tiền tệ, từ đó làm dịch chuyển đường LM.
Để đo lường tính hiệu quả của chính sách tiền tệ, chúng ta sẽ phải xem xét thông
qua đường LM. Theo đó, đường LM bao gồm những tập hợp khác nhau giữa lãi
suất và sản lượng mà tại đó thị trường tiền tệc ân bằng. Chỉ có hai yếu tố khiến
cho đường LM dịch chuyển là sự thay đổi tự độngtrong cung tiền và cầu tiền.
Những thay đổi này tác động đến đường LM như sau:
12
Thứ nhất: Lượng cung tiền gia tăng tạo nên điểm cân bằng mới của thị
trường tiền tệ (điểm cân bằng mới này có lãi suất thấp hơn song mức sản
lượng là không đổi).
Thứ hai: Lượng cầu tiền gia tăng do có sự gia tăng mức độ rủi ro của các loại
tài sản r ủi ro khác (cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản,…) từ
đó làm tăng lượng cầu tiền tại bất kỳ mức lãi suất, mức giá hay sản lượng nào
cho trước.
2.2 Tổng quan các nghiên cứu trước đây
Các bài nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và
chính sách tiền tệ của các nhà nghiên cứu đã góp phần vào việc củng cố nghiên cứu
thực nghiệm ở các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á. Tiêu biểu là bài nghiên cứu
Financial Development and the Effectiveness of Monetary Policy của Yong Ma
và Xingkai Lin (2016) được đăng trên tạp chí Journal of Banking & Finance. Bài
viết này nghiên cứu mối quan hệ giữa phát triển tài chính và các hiệu quả của chính
sách tiền tệ sử dụng phương pháp FEM và REM, sau đó dùng phương pháp GMM
để kiểm định và dữ liệu bảng của 41 nền kinh tế trên toàn thế giới. Kết quả cho thấy
những tác động của chính sách tiền tệ về sản lượng và lạm phát là đáng kể và tỷ lệ
nghịch với sự phát triển tài chính, chỉ ra rằng hiệu quả của chính sách tiền tệ giảm
dần khi hệ thống tài chính trở nên phát triển hơn và ngược lại. Đồng thời, kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy hiệu quả của chính sách tiền tệ phụ thuộc nhiều hơn vào
13
sự phát triển của trung gian tài chính. Ngoài ra, tác động của chính sách tiền tệ đến
sản lượng giảm nhiều hơn trong nền kinh tế đang phát triển và tác động của chính
sách tiền tệ đến lạm phát giảm nhiều hơn ở các nước phát triển. Cuối cùng, bài viết
cũng cho thấy phát triển tài chính độc lập với tác động của chính sách tiền tệ sau khi
kiểm soát các ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính.
Về mặt lý thuyết, nghiên cứu về mối quan hệ giữa phát triển tài chính và hiệu
quả của chính sách tiền tệ còn được đưa ra trước đó bởi Gurley và Shaw (1955,
1967), tiếp theo là Taylor (1987), Hendry và Ericsson (1991).
Gurley và Shaw (1955) trong bài nghiên cứu “Các khía cạnh tài chính của
sự phát triển kinh tế” đã xem xét ngắn gọn các biểu hiện tài chính của phát sinh thu
nhập, chi tiêu và tiết kiệm đầu tư, tích lũy của cải. Họ cũng tìm thấy một mối quan
hệ cùng chiều khi tăng trưởng cung tiền hàm ý sự gia tăng của hệ thống tiền tệ, đặc
biệt là ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại. Đồng thời còn cung cấp các
thông tin về các mặt như tài chính trong các tài khoản xã hội, tài chính và trung gian
tài chính, tăng trưởng sản lượng, lãi suất và tài chính, cuối cùng là điều khiển tài
chính trong bối cảnh tăng trưởng bằng cách kiểm soát tiền tệ, điều khiển tài chính…
Taylor (1987) thực hiện nghiên cứu “Đổi mới tài chính, lạm phát và sự ổn
định của cung tiền ở Vương quốc Anh”. Bài nghiên cứu này ước tính một hàm cầu
tiền cho Vương Quốc Anh trong giai đoạn từ quý 2 năm 1964 đến quý 4 năm 1985,
cho thấy không có dấu hiệu của mất ổn định cấu trúc do cạnh tranh và kiểm soát tín
dụng. Rõ ràng, những tác động của sự đổi mới tài chính (thông qua chi phí cơ hội
của việc nắm giữ tiền) và những tác động của lạm phát, là yếu tố quyết định quan
trọng của nhu cầu cả ngắn hạn và dài hạn đối với cung tiền. Họ cũng cho rằng lãi
suất tăng liên tục và cung tiền cũng tăng, thì tăng trưởng thu nhập thực và lạm phát
ổn định ở phần trăm lãi suất hàng năm không đổi.
Hendry và Ericsson (1991), với bài nghiên cứu “Mô hình hóa nhu cầu về
cầu tiền hẹp của 2 quốc gia Anh và Mỹ” trong giai đoạn từ 1959 – 1983 đối với
nước Mỹ, và đối với Anh từ 1963 – 1983 do có sự thay đổi lớn trong các tổ chức
14
trong đó có ngân hàng. Bài viết này đã phát triển mô hình tham số của cầu tiền, đặc
trưng cho toàn bộ mẫu của cả 2 quốc gia Anh và Mỹ. Đồng thời trình bày mô hình
thực nghiệm về cầu tiền của Anh và Mỹ trong 3 thập kỉ, liên quan đến lý thuyết
kinh tế cơ bản, sự đổi mới tài chính gần đây. Chính sách tiền tệ của 2 quốc gia cũng
có nhiều thay đổi cơ bản và chứng kiến nhiều sựu đổi mới tài chính có ý nghĩa.
Trong các nghiên cứu gần đây hơn, một phần lớn các nghiên cứu đã tập trung
vào lý thuyết kênh tín dụng được đưa ra bởi Bernsnke và Gerler (1995). Một kết
luận chính của lý thuyết kênh tín dụng là mức độ cao hơn của những rào cản về tài
chính thường gắn liền với cơ chế truyền tải mạnh mẽ hơn của chính sách tiền tệ. Bài
nghiên cứu này tóm tắt quan điểm hiện tại về kênh tín dụng và vai trò của nó trong
"hộp đen" của truyền chính sách tiền tệ. Theo lý thuyết kênh tín dụng, tác động trực
tiếp của chính sách tiền tệ lên lãi suất được khuếch đại bởi những thay đổi nội sinh
trong bảo hiểm tài chính bên ngoài, đó là sự khác biệt về chi phí giữa nguồn vốn
huy động từ bên ngoài (bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc nợ) và tiền phát sinh
trong nội bộ (bằng cách giữ lại thu nhập). Theo "điểm tín dụng", một sự thay đổi
trong chính sách tiền tệ làm tăng hoặc giảm lãi suất thị trường mở có xu hướng thay
đổi phí bảo hiểm tài chính từ bên ngoài cùng một hướng. Do tác dụng bổ sung này
trong chính sách về tài chính từ bên ngoài phí bảo hiểm, tác động của chính sách
tiền tệ vào chi phí vay rộng được xác định trước và, do đó, chi tiêu thực tế và thực
hoạt động, là phóng đại.
Kashyap và Stein (2000) với bài nghiên cứu “Một triệu quan sát nói gì về sự
truyền dẫn của chính sách tiền tệ?” sử dụng dữ liệu bảng trong giai đoạn 1976 –
1973 với 961 530 quan sát và xây dựng mô hình VAR linh hoạt dựa trên các giả
định cụ thể về các thủ tục hoạt động của Fed đã tìm thấy rằng tác động của chính
sách tiền tệ về hành vi cho vay là mạnh mẽ hơn cho các ngân hàng với sự cân bằng
tính thanh khoản thấp, hỗ trợ các kênh cho vay của cơ chế dẫn truyền. Bài viết cũng
hỗ trợ cho sự tồn tại của kênh cho vay ngân hàng của cơ chế dẫn truyền tiền tệ. Các
nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra một loạt các bằng chứng cho thấy là phù hợp
với sự tồn tại của kênh cho vay của sự truyền dẫn tiền tệ bằng nhiều cách giải thích
15
khác nhau thì ở đây họ cung cấp một thử nghiệm sắc nét hơn của kênh cho vay, xem
xét chi tiết hơn cách chính sách tiền tệ tác động hành vi cho vay của từng ngân
hàng.
Gomez et al. (2005) nghiên cứu “Tác động của các kênh dẫn xuất lên chính
sách tiền tệ Colombian” sử dụng mô hình đầu tư, tác động của của sử dụng các dẫn
xuất của lãi suất và tỷ giá hồi đoái trong sự pha loãng của các kênh tiền tệ
Colombian. Với bộ dữ liệu có quan sát hàng năm cho hơn 8421 công ty trong giai
đoạn từ 1995 – 2003 cho thấy rằng chính sách tiền tệ đã bị mất một số hiệu quả
trong ảnh hưởng đến các biến thực ít nhất là trong ngắn hạn, do sự pha loãng của
một phần chứng khoán lớn hơn, làm cho các kênh cho vay ngân hàng truyền thống
trở nên ít quan trọng. Các dẫn xuất tài chính có thể làm suy yếu các kênh chính sách
tiền tệ trong các trường hợp nhất định và nói chung cho phép lan truyền nhanh hơn.
Các dẫn xuất làm giảm chi phí giao dịch, cho phép khai thác tốt hơn các lợi thế so
sánh của nhà đầu tư, đa dạng hóa và bảo hiểm rủi ro, dẫn đến danh mục đầu tư ổn
định hơn, có thể ít nhạy cảm với các cú sốc lãi suất hoặc tỷ giả hối đoái. Các dẫn
xuất cũng cung cấp các thông tin, có thể được sử dụng để cải thiện chính sách tiền
tệ. Theo Vroliijk (1997), hiệu lực của chính sách tiền tệ qua tín dụng ngân hàng
được củng cố bất cứ khi nào các công ty dựa vào trung gian như nguồn tài chính
duy nhất. Do đó, chính sách tiền tệ thắt chặt dẫn đến cắt giảm cả dự trữ và tín dụng
ngân hàng. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp lớn có thể tiếp cận thị trường vốn
để hưởng các khả năng bù đắp, thu hẹp tín dụng.
Loutskina và Strahan (2009) trong nghiên cứu “Chứng khoán hóa và ảnh
hưởng của suy giảm tài chính ngân hàng về cung cấp vốn vay: Bằng chứng từ các
khoản thế chấp”. Họ sử dụng các dữ liệu HMDA - Home Mortgage Disclosure Act
để xác định các khoản vay khác nhau, kiểm tra các biến tài chính ảnh hưởng đến
cung vay, các dữ liệu HMDA chứa gần 250 triệu ứng dụng, mẫu bao gồm các ứng
dụng vốn vay trong giai đoạn từ 1992 – 2004 cũng tìm thấy bằng chứng về sự suy
yếu của các kênh cho vay ngân hàng với sự ra đời của chứng khoán tài chính. Kết
quả cũng cho thấy sự mở rộng của thị trường thứ cấp trong các khoản thế chấp làm
16
giảm những tác động của chính sách tiền tệ đối với hoạt động kinh tế thực sự. Theo
kênh cho vay ngân hàng của chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể làm
chậm hoạt động thực bằng cách tăng chi phí tài chính ngân hàng (ví dụ như chi phí
tiền gửi) và do đó hạn chế việc cung cấp tín dụng. Tuy nhiên, họ không tìm thấy
liên kết có ý nghĩa thống kê giữa chi phí huy động ngân hàng và tỷ lệ chấp nhận thế
chấp trong thị trường thế chấp nhỏ.
Trong khi chứng khoán có lẽ đã làm giảm tác động đến các kênh cho vay của
sự truyền dẫn tiền tệ, thì cũng có bằng chứng cho rằng nó củng cố kênh bảng cân
đôi kế toán theo Ashcraft và Campello (2007), với bài nghiên cứu “Bảng cân đối
công ty và sự truyền tải chính sách tiền tệ”. Họ sử dụng dữ liệu theo quý cho bài
nghiên cứu trong giai đoạn từ 1992 – 2004, tập trung vào việc cho vay của các ngân
hàng nhỏ, sử dụng một số biện pháp thay thế chính sách tiền tệ, chỉ ra rằng một
phần lớn của các kênh tín dụng rộng rãi của truyền dẫn chính sách tiền tệ có thể
được gán cho những thay đổi trong mức độ tín nhiệm vay theo chu kỳ chính sách
tiền tệ.
Aysun và Hepp (2011) thực hiện nghiên cứu “Chứng khoán hóa và kênh cân
đối kế toán của truyền dẫn tiền tệ”. Sử dụng dữ liệu cáo cáo theo quý của các ngân
hàng Mỹ từ 2001 đến 2010. Bài viết này cho thấy rằng kênh bảng cân đối của
truyền dẫn tiền tệ mạnh mẽ hơn cho các ngân hàng Mỹ chứng khoán hóa tài sản của
họ. Tập trung vào các kênh bảng cân đối và sử dụng quan sát cấp ngân hàng, họ
thấy rằng chứng khoán hóa các ngân hàng là nhạy cảm hơn với bảng cân đối của
khách hàng vay và chính sách tiền tệ có tác động lớn hơn về độ nhạy cảm này cho
chứng khoán hóa các ngân hàng. Kết quả thực nghiệm minh chứng rằng, kênh cân
bảng cân đối mạnh mẽ hơn cho các ngân hàng mà chứng khoán hóa một số tài sản
của họ. Điều này trái ngược với lý thuyết cho rằng có ít nhất một khía cạnh của phát
triển tài chính, cụ thể là chứng khoán có thể làm tăng hiệu quả của chính sách tiền
tệ. Đặc biệt, các tác động tiêu cực của chứng khoán về việc cho vay có thể được
chống lại bởi tác động của nó trên kênh bảng cân đối. Thật khó để so sánh sức mạnh
17
tương đối của các hai kênh để suy luận cho sức mạnh tổng thể của cơ chế truyền
dẫn tiền tệ.
Mishra et al. (2010) nghiên cứu “Cơ chế truyền dẫn tiền tệ ở những quốc gia
có thu nhập thấp (LICs)” lập luận rằng cơ chế truyền tải của chính sách tiền tệ có
thể bị chi phối bởi các kênh cho vay ngân hàng với mức độ thấp hơn của sự phát
triển tài chính. Họ sử dụng truyền dẫn tiền tệ tại các thị trường tiên tiến và đang nổi
lên như một điểm chuẩn để xác định các khía cạnh của các cơ chế truyền tải có thể
hoạt động khác nhau trong LICs. Mục đích của bài này tập trung vào các kênh cho
vay ngân hàng dẫn truyền tiền tệ trong các tài liệu của của Ấn Độ bằng cách sử
dụng mô hình VAR cho bài nghiên cứu. Đặc biệt, tập trung vào những ảnh hưởng
của cơ cấu thị trường tài chính trên truyền dẫn tiền tệ. Khung thể chế yếu phổ biến ở
LICs quyết liệt làm giảm vai trò của thị trường chứng khoán và làm tăng chi phí vay
ngân hàng cho các công ty tư nhân. Với hệ thống tài chính không trung chuyển tiền
đúng cách, các kênh truyền tiền tệ truyền thống (lãi suất, cho vay ngân hàng, và giá
tài sản) đang suy giảm. Các kênh tỷ giá, mặt khác, có xu hướng bị suy yếu do sự
can thiệp của ngân hàng trung ương trên thị trường ngoại hối.
Trong nghiên cứu của Aysun et al. (2013) thực hiện nghiên cứu “Tác động
của va chạm tài chính vào các thế mạnh của cơ chế truyền dẫn tiền tệ”. Bài nghiên
cứu kiểm tra dự đoán lý thuyết này bằng cách ước lượng mô hình SVAR dùng dữ
liệu xuyên quốc gia được thực hiện trong giai đoạn 1984 – 2008 cho 47 quốc gia.
Họ cho rằng các kênh tín dụng ảnh hưởng rõ nét hơn ở các nền kinh tế với mức độ
cao hơn của sự bất hòa tài chính, điều này phù hợp với lý thuyết kênh tín dụng.
Đồng thời cũng cho thấy mối quan hệ tích cực giữa các biện pháp khác nhau của va
chạm tài chính và sức mạnh của truyền dẫn tiền tệ, hỗ trợ các dự đoán của lý thuyết
kênh tín dụng. Họ cũng tập trung vào 2 dự đoán của mô hình cân bằng tổng thể là
mối quan hệ tích cực được ghi lại giữa mức độ va chạm tài chính với những tác
động của cú sốc tiền tệ và đòn bẩy chi phí đi vay.
18
Nghiên cứu của Hassan el al. (2011) đã cung cấp một bằng chứng thực
nghiệm về vai trò của phát triển tài chính trong việc đo lường tăng trưởng kinh tế ở
các nước có thu nhập thấp và trung bình được phân loại theo khu vực. Bằng cách sử
dụng ước lượng bảng và phương sai của tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân
đầu người để ước tính yếu tố đo lường nào của phát triển tài chính là quan trọng
nhất trong giải thích tăng trưởng kinh tế qua thời gian và các yếu tố này giải thích
được bao nhiêu về tác động đến tăng trưởng theo khu vực và nhóm thu nhập. Trong
bài nhiên cứu tác giả sử dụng GDP thực bình quân đầu người làm thước đo cho tăng
trưởng kinh tế và sử dụng các chỉ số tín dụng trong nước được cung cấp bởi hệ
thống ngân hàng, tín dụng cho khu vực tư, cung tiền M3, tỷ lệ tiết kiệm trong nước,
thương mại bằng xuất khẩu cộng nhập khẩu, chi tiêu chính phủ và tỷ lệ lạm phát để
đại diện cho phát triển tài chính và quy mô khu vực. Ngoài ra, tác giả còn nghiên
cứu tác động của GDP thực bình quân đầu người ban đầu của mỗi quốc gia đối với
tăng trưởng kinh tế. Kết quả hồi quy cho từng nhóm nước và toàn mẫu cho thấy
rằng GDP thực bình quân đầu người ban đầu thấp liên kết với một mức tăng trưởng
kinh tế cao và có ý nghĩa thống kê cho hầu hết các nước đang phát triển, ngoại trừ
các nước Mỹ Latinh và vùng Caribbean. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy thương
mại có tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đóng vai trò quan trọng trong việc
giải thích tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, chi tiêu chính phủ và lạm phát làm suy
giảm tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu còn tìm thấy mối quan hệ
thuận chiều giữa tổng tiết kiệm trong nước và tăng trưởng kinh tế. Và cả hai nhân tố
đo lường phát triển tài chính là tín dụng trong nước cung cấp bởi hệ thống ngân
hàng và tín dụng trong nước cho khu vực tư nhân đều có tác động thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Như vậy, qua các kết quả kiểm định, tác giả đưa ra kết luận trong
ngắn hạn tồn tại một mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa phát triển tài chính và
tăng trưởng kinh tế ở hầu hết các khu vực, và ở hai khu vực nghèo nhất thì chỉ có
mối quan hệ một chiều từ tăng trưởng kinh tế đến phát triển tài chính.
Trong một nghiên cứu gần đây , Ciccare et al. (2015) với nghiên cứu “Cấu
trúc pháp luật, cấu trúc tài chính và cơ chế truyền dẫn của chính sách tiền tệ” đối
19
với các nước thuộc liên minh Châu Âu thì các kênh tín dụng khuếch đại đáng kể
hiệu quả của một chính sách tiền tệ gây sốc cho sản lượng và lạm phát. Họ cũng đưa
ra bằng chứng rằng tác động của đổi mới chính sách tiền tệ khác nhau giữa các quốc
gia với sức mạnh và phạm vi của các hệ thống ngân hàng. Các quốc gia có nhiều
ngân hàng nhỏ, hệ thống ngân hàng kém lành mạnh thì nhạy cảm hơn với những
thay đổi chính sách. Họ đã gợi ý rằng những khác biệt trong cấu trúc tài chính là
một nguyên nhân sâu xa cho sự mất cân đối trong cơ chế truyền tải chính sách tiền
tệ của mỗi quốc gia. Đồng thời, những khác biệt trong cấu trúc tài chính là kết quả
của cấu trúc pháp lý đa dạng của các nước thuộc liên minh châu Âu.
Bên cạnh các yếu tố tài chính, cũng có các yếu tố liên quan khác có thể ảnh
hưởng đến chính sách tiền tệ. Đáng chú ý nhất, một phần lớn các nghiên cứu đã
kiểm tra các thể chế như thế nào có thể ảnh hưởng đến thị trường tài chính và hiệu
quả của chính sách tiền tệ. Các bằng chứng cho thấy sự bảo vệ pháp lý của các chủ
nợ hỗ trợ sự phát triển của thị trường tín dụng (La Porta et al. 1997, 1998; Levine,
1998). Một số nghiên cứu (Cecchtti, 1999; Djankov et al, 2007, 2008) đã tìm thấy
các nền kinh tế với sự bảo vệ pháp lý tốt hơn cho các cổ đông và con nợ thường đi
kèm với sự truyền dẫn tiền tệ có sức thuyết phục kém hơn. Ngoài các yếu tố pháp
lý, các yếu tố thể chế khác có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách tiền tệ
cũng được thảo luận trong nghiên cứu. Ví dụ, Elbourne và de Haan (2006) đã kiểm
tra phạm vi truyền dẫn tiền tệ nào trong nền kinh tế chuyển đổi có liên quan đến tài
chính cấu trúc. Mishra et al. (2010) cho thấy rằng sự độc lập của ngân hàng trung
ương (CBI) và các yếu tố thể chế liên quan khác (ví dụ giải trình chính phủ, tiêu
chuẩn tiết lộ, môi trường pháp lý) không những ảnh hưởng đến phạm vi cho việc
thực hiện chính sách tiền tệ mà còn đến hiệu quả và độ tin cậy của chính sách tiền
tệ. Alpanda và Aysun (2012) và Cetorelli và Goldberg (2012) tìm thấy một mối
quan hệ có ý nghĩa giữa hiệu quả chính sách tiền tệ và toàn cầu hóa ngân hàng.
Aysun et al. (2013) cũng có một đóng góp quan trọng cho nghiên cứu về vai trò của
các tổ chức về sự truyền dẫn chính sách tiền tệ bằng cách điều tra những ảnh hưởng
20
của nguồn gốc hợp pháp, CBI và sự phát triển của thị trường tài chính về tác động
của chính sách tiền tệ.
Hoàng Thị Phương Anh và Đinh Tấn Danh (2015) với bài nghiên cứu
“Tác động của phát triển tài chính đến phát triển kinh tế: Bằng chứng tại các quốc
gia khu vực châu Á”. Bằng việc sử dụng mô hình DOLS, nghiên cứu này được thực
hiện nhằm mục đích xem xét mối quan hệ giữa phát triển tài chính và phát triển
kinh tế. Đồng thời, tác giả còn tìm kiếm các bằng chứng ủng hộ cho quan điểm cho
rằng mối quan hệ giữa phát triển tài chính và phát triển kinh tế còn phụ thuộc vào sự
cân đối giữa tốc độ phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế. Sử dụng dữ liệu của
29 quốc gia trong khu vực châu Á giai đoạn từ năm 1996-2013, kết quả nghiên cứu
thực nghiệm cho thấy phát triển tài chính có tác động tích cực lên phát triển kinh tế
và mối quan hệ này thì mạnh mẽ hơn tại các quốc gia có thu nhập cao. Ngoài ra,
mối quan hệ giữa phát triển tài chính và phát triển kinh tế sẽ yếu đi nếu như mất cân
đối giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế. Thậm chí phát triển tài chính có
thể làm giảm tăng trưởng kinh tế nếu tốc độ phát triển lĩnh vực tài chính nhanh hơn
tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Nguyễn Thị Liên Hoa và cộng sự (2015) với bài nghiên cứu về “Mối quan
hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế: Bằng chứng thực nghiệm từ các
nước châu Á.” Tác giả đã sử dụng dữ liệu của 26 nền kinh tế ở khu vực châu Á
trong giai đoạn từ 1985 – 2013 để thực hiện. Đồng thời áp dụng mô hình tự hồi quy
vectơ VAR cho dữ diệu bảng và thực hiện ba kiểm định: phân rã phương sai, kiểm
định nhân quả Granger và hàm phản ứng xung tổng quát. Bài viết cũng phân chia
mẫu thành các nhóm quốc gia có thu nhập cao – trung bình – thấp. Kết quả của
kiểm định nhân quả Granger cho thấy tồn tại mối quan hệ hai chiều giữa phát triển
tài chính và tăng trưởng kinh tế ở vùng Đông Á. Trong khi đó, nhóm thu nhập cao
lại không tồn tại mối quan hệ nhân quả này mà chỉ có các yếu tố khu vực sản xuất
vật chất tác động đến tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, kết quả của phân rã phương
sai cho thấy vai trò quan trọng của phát triển tài chính đối với tăng tưởng kinh tế ở
nhóm thu nhập thấp trong giai đoạn dài hạn và ngắn hạn. Kết quả này trái ngược ở
21
nhóm thu nhập cao khi mà yếu tố khu vực sản xuất vật chất lại đóng vai trò quan
trọng hơn.
Nghiên cứu của Chu Khánh Lân (2016) với đề tài “Truyền tải chính sách
tiền tệ qua kênh tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam” đã tổng hợp và
phân tích cơ sở lý luận về truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng với hai
kênh bảng cân đối tài sản của người đi vay và kênh khả năng cung cấp tín dụng của
ngân hàng. Tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu từ quý 1 năm 2000 đến quý 4 năm
2015 và khai thác nguồn dữ liệu báo cáo tài chính từ năm 2010 đến năm 2015 của
201 doanh nghiệp niêm yết trong chỉ số VNINDEX, dữ liệu báo cáo tài chính từ
năm 2010 đến năm 2014 của 29 NHTM…, vận dụng các phương pháp khảo sát,
thống kê, so sánh, phân tích – tổng hợp, diễn dịch, quy nạp để phân tích thực trạng
điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước và hoạt động của hệ thống
Ngân hàng thương mại. Ngoài ra, bài nghiên cứu còn sử dụng mô hình kinh tế
lượng SVAR để kiểm chứng sự tồn tại và đo lường mức độ khuếch đại chính sách
tiền tệ của kênh tín dụng thông qua hàm phản ứng. Kết quả cho thấy kênh tín dụng
đại diện cho một nhóm các nhân tố có tác dụng khuếch đại và lan truyền tác động
của chính sách tiền tệ tới các biến số kinh tế vĩ mô thông qua việc ảnh hưởng tới
phần thưởng nguồn vốn bên ngoài. Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình truyền tải
phản ánh năng lực hoạt động kinh doanh và cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp và
ngân hàng, cho thấy có sự khác biệt trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ tới các
chủ thể kinh tế với các đặc điểm khác nhau. Mô hình SVAR cho thấy tồn tại kênh
tín dụng tại Việt Nam có tác dụng khuếch đại mạnh tác động của điều hành chính
sách tiền tệ đến nền kinh tế.
Từ các nghiên cứu liên quan đến đề tài nghiên cứu, tác giả trình bày tóm tắt
sơ lược các nghiên cứu điển hình để từ đó chọn ra mô hình và phương pháp nghiên
cứu phù hợp cho đề tài nghiên cứu của tác giả.
22
Bảng 2.1 Tóm tắt các kết quả nghiên cứu trước đây
Tác giả Bài nghiên cứu Kết quả
Gurley và Financial aspects of Phát hiện một mối quan hệ cùng chiều khi tăng
Shaw economic trưởng cung tiền hàm ý sự gia tăng của hệ
(1955) development. thống tiền tệ.
Taytor Financial innovation, Những tác động của sự đổi mới tài chính và
(1987) inflation and the lạm phát là những yếu tố quyết định quan trọng
stability of the của nhu cầu cả ngắn hạn và dài hạn đối với
demand for broad cung tiền.
money in the United
Kingdom.
Bernsnke Inside the black box: Phát hiện mức độ cao hơn của những rào cản
và Gerler the credit channel of về tài chính thường gắn liền với cơ ché truyền
(1995) monetary tải mạnh mẽ hơn của chính sách tiền tệ.
transmission.
Kashyap What do a million Chính sách tiền tệ về hành vi cho vay là mạnh
và Stein observations on mẽ hơn cho các ngân hàng với sự cân bằng
(2000) banks say about the tính thanh khoản thấp, hỗ trợ các kênh cho vay
transmission of của cơ chế dẫn truyền.
monetary policy?
Gomez et Impact on Colombian Phát hiện chính sách tiền tệ đã bị mất một số
al. (2005) monetary policy. hiệu quả trong ảnh hưởng đến các biến thực ít
nhất là trong ngắn hạn. Các dẫn xuất tài chính
có thể làm suy yếu các kênh chính sách tiền tệ
trong các trường hợp nhất định và cho phép lan
truyền nhanh hơn.
23
Loutskina Securitization and the Tìm thấy sự suy yếu của các kênh cho vay ngân
và declining impact of hàng với sự ra đời của chứng khoán hóa tài
Strahan bank finance on loan chính.
(2009) supply: evidence Sự mở rộng của thị trường thứ cấp trong các
from mortgage khoản thế chấp làm giảm những tác động của
originations. chính sách tiền tệ đối với hoạt động kinh tế.
Ashcraft Firm balance sheets Chỉ ra rằng một phần lớn của các kênh tín dụng
và and monetary policy rộng rãi của truyền dẫn chính sách tiền tệ có thể
Campello transmission. được gán cho những thay đổi trong mức độ tín
(2007) nhiệm vay theo chu kỳ chính sách tiền tệ.
Aysun và Securitization and the Phát hiện kênh bảng cân đối của truyền dẫn
Hepp balance sheet channel tiền tệ mạnh mẽ hơn cho các ngân hàng mà
(2011) of monetary chứng khoán hóa một số tài sản của họ.
transmission.
Mishra et Monetary Cơ chế truyền dẫn của chính sách tiền tệ có thể
al. (2010) transmission in low bị chi phối bởi các kênh cho vay ngân hàng với
income countries. mức độ thấp hơn của sự phát triển tài chính.
Aysun et Financial frictions Phát hiện mối quan hệ tích cực giữa các biện
al. (2013) and the strength of pháp khác nhau của va chạm tài chính và sức
monetary mạnh của truyền dẫn tiền tệ.
transmission Kênh tín dụng ảnh hưởng rõ nét hơn ở các nền
kinh tế với mức độ cao hơn của sự bất hòa tài
chính.
Hassan et Financial Mối quan hệ thuận chiều giữa tổng tiết kiệm
al. (2011) Development and trong nước và tăng trưởng kinh tế.
Economic Growth: Phát hiện chi tiêu chính phủ và lạm phát làm
New Evidence from suy giảm tăng trưởng kinh tế.
Tín dụng trong nước cung cấp bởi hệ thống
24
Panel Data ngân hàng và khu vực tư nhân đều có tác động
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tồn tại mối quan hệ nhân quả hai chiều
giữa phát triển tài chính và tăng trưởng
kinh tế ở hầu hết các khu vực
Ciccare et Trusting the bankers: Phát hiện những khác biệt trong cấu trúc tài
al. (2015) a new look at the chính là một nguyên nhân sâu xa cho sự mất
credit channel of cân đối trong cơ chế truyền tải chính sách tiền
monetary policy. tệ của mỗi quốc gia.
Tác động của đổi mới chính sách tiền tệ khác
nhau giữa các quốc gia với sức mạnh và phạm
vi của các hệ thống ngân hàng. Các quốc gia có
ngân hàng nhỏ, hệ thống ngân hàng kém lành
mạnh thì nhạy cảm hơn với những thay đổi
chính sách.
Hoàng Tác động của phát Phát triển tài chính có tác động tích cực lên
Thị triển tài chính đến phát triển kinh tế và mối quan hệ này thì mạnh
Phương phát triển kinh tế: mẽ hơn tại các quốc gia có thu nhập cao. Ngoài
Anh và Bằng chứng tại các ra, mối quan hệ giữa phát triển tài chính và phát
Đinh Tấn quốc gia khu vực triển kinh tế sẽ yếu đi nếu như mất cân đối giữa
Danh châu Á phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế.
(2015) Thậm chí phát triển tài chính có thể làm giảm
tăng trưởng kinh tế nếu tốc độ phát triển lĩnh
vực tài chính nhanh hơn tốc độ tăng trưởng
kinh tế.
Nguyễn Mối quan hệ giữa Tồn tại mối quan hệ hai chiều giữa phát triển
Thị Liên phát triển tài chính và tài chính và tăng trưởng kinh tế ở vùng Đông
Hoa và tăng trưởng kinh tế: Á. Trong khi đó, nhóm thu nhập cao lại không
25
cộng sự Bằng chứng thực tồn tại mối quan hệ nhân quả này mà chỉ có các
(2015) nghiệm từ các nước yếu tố khu vực sản xuất vật chất tác động đến
châu Á tăng trưởng kinh tế.
Vai trò quan trọng của phát triển tài chính đối
với tăng tưởng kinh tế ở nhóm thu nhập thấp
trong giai dài hạn và ngắn hạn.
Chu Truyền tải chính sách Kênh tín dụng đại diện cho một nhóm các nhân
Khánh tiền tệ qua kênh tín tố có tác dụng khuếch đại và lan truyền tác
Lân dụng của các Ngân động của chính sách tiền tệ tới các biến số kinh
(2016) hàng thương mại Việt tế vĩ mô.
Nam Tồn tại kênh tín dụng tại Việt Nam có tác dụng
khuếch đại mạnh tác động của điều hành chính
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
sách tiền tệ đến nền kinh tế.
Từ mục tiêu nghiên cứu ban đầu và tổng hợp những nghiên cứu có liên quan,
tác giả quyết định sử dụng phương pháp tuyến tính tính tiếp cận GMM, hiệu ứng
ngẫu nhiên (REM) và hiệu ứng cố định (FEM) được sử dụng trong bài nghiên cứu
của Yong Ma và Xingkai Lin (2016) để kiểm tra mối quan hệ giữa sự phát triển tài
chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ ở một số quốc gia châu Á. Phương pháp và
dữ liệu nghiên cứu sẽ được trình bày cụ thể trong chương 3.
26
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Dữ liệu
Bài nghiên cứu xem xét về mối quan hệ giữa phát triển tài chính và hiệu quả
của chính sách tiền tệ của một số nền kinh tế ở châu Á trong khoảng thời gian từ
năm 2008 đến năm 2015 với tần suất theo quý để phù hợp với bài nghiên cứu của
tác giả Yong Ma, Xingkai Lin năm 2016. Mẫu dữ liệu được thực hiện trong bài
nghiên cứu tác giả thu thập được là dữ liệu quý cho 10 quốc gia trong khu vực châu
Á bao gồm: Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, Singapore, Trung Quốc, Hồng Kông,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Isreal, Ấn Độ. Tác giả đã xây dựng một bảng dữ liệu bao gồm
320 quan sát. Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu theo quý trong giai đoạn 2008 –
2015, được tác giả thu thập theo tần suất quý của 10 quốc gia khu vực châu Á từ
nguồn Datastream của Data center – School of Finance (UEH) và data.imf.org.
Sau khi thực hiện các tiêu chuẩn trong bài nghiên cứu, biến giả được đưa ra
bởi một số nhị phân đơn giản như: nếu một quốc gia i tại thời điểm t trải qua một
cuộc khủng hoảng thì bằng 1; ngược lại, nếu quốc gia i tại thời điểm t không trải
qua cuộc khủng khoảng thì bằng 0. Dữ liệu cho các cuộc khủng hoảng tài chính
được lấy từ Laeven và Valencia (2012). Trong bài nghiên cứu của họ thì các tác giả
cung cấp thông tin chi tiết về thời gian bắt đầu và kết thúc của cuộc khủng hoảng tài
chính.
3.2 Mô hình nghiên cứu
Dựa theo bài nghiên cứu Financial Development and the Effectiveness of
Monetary Policy của Yong Ma và Xingkai Lin (2016), bằng cách sử dụng phương
pháp phân tích dữ liệu bảng, tác giả thực hiện đề tài với mục tiêu nghiên cứu là tìm
hiểu mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ, sau
đó kiểm tra độ nhạy cảm và tính vững của kết quả thực nghiệm cho một số khái
quát của các mô hình ước tính.
27
Tác giả sử dụng 2 mô hình dữ liệu bảng kinh tế vĩ mô để chứng minh tác
động của tốc độ tăng trưởng cung tiền đến tốc độ tăng trưởng sản lượng và tỷ lệ lạm
phát như sau:
Trong đó:
- j và t tương ứng là chỉ số các quốc gia và thời gian
- β và γ là các hệ số
- Q và R biểu thị độ trễ trong hồi quy
- Δy là tỷ lệ tăng trưởng sản lượng
- Δm là tốc độ tăng trưởng cung tiền
- Δp là tỷ lệ lạm phát
- crisis là một biến giả chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu năm 2008
j,t và up
j,y tương ứng là cú sốc của sản lượng và lạm phát
- uy
Theo Karras (1999), phương trình (1) và (2) có thể được coi là phương trình
rút gọn cho tăng trưởng sản lượng và tỷ lệ lạm phát. Tỷ lệ tăng trưởng sản lượng , tỷ
lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng tiền được định nghĩa tương ứng như sau:
Có thể dễ dàng thấy rằng giá trị lớn hơn của hệ số tăng trưởng cung tiền
trong phương trình (1) và (2) bao hàm tác động lớn hơn của chính sách tiền tệ đối
28
với tốc độ tăng trưởng sản lượng và tỷ lệ lạm phát. Vì vậy, dựa trên các thiết lập
thực nghiệm cơ bản được đưa ra bởi phương trình (1) và (2), chúng ta có thể tách
các quốc gia mẫu bằng các biến độc lập phát triển tài chính và chạy hồi quy sử dụng
trung bình dài hạn của các biến hồi quy. Sau đó, chúng ta có thể kiểm tra hiệu quả
của chính sách tiền tệ bằng cách so sánh các kích thước hệ số của tỉ lệ tăng trưởng
cung tiền trên các mẫu phụ biểu thị các cấp độ khác nhau của sự phát triển tài chính.
Cụ thể, nếu kích thước hệ số trong mẫu của phát triển tài chính cao hơn (các nước
tài chính kém phát triển) hóa ra là nhỏ hơn, một mối quan hệ tiêu cực giữa phát triển
tài chính và hiệu quả chính sách tiền tệ được xác định, ngụ ý rằng hiệu quả của
chính sách tiền tệ sẽ giảm xuống do mức độ phát triển tài chính tăng lên. Theo
những bài nghiên cứu trước, (e.g., Demirgüç-Kunt and Levine, 1996; Levine, 2002;
Beck et al., 2006; Demirgüç-Kunt et al., 2011), tác giả sử dụng 3 thước đo của phát
triển tài chính:
fd1=(dometic credit+ stock market capitalization)/GDP
fd2= dometic credit/GDP
fd3= stock market capitalization/GDP
Với dometic credit biểu thị giá trị các khoản tín dụng trung gian tài chính,
stock market capitalization biểu thị tổng giá trị các cổ phiếu được niêm yết.
Do đó, fd1 đo lường phát triển chung của khu vực tài chính (trình độ phát
triển của các ngân hàng, nonbanks, và tài chính (chứng khoán), thị trường), fd2 đo
trình độ phát triển trung gian tài chính, trong khi đó fd3 đo lường mức độ phát triển
thị trường tài chính (chứng khoán).
=> giá trị lớn hơn của fd1 đại diện cho mức độ cao hơn của sự phát triển tài
chính.
Ngoài các thiết lập thực nghiệm cơ bản ở trên, để củng cố, tác giả cũng sử
dụng một thiết lập thực nghiệm thay thế mà biến của phát triển tài chính là rất rõ
ràng trong phương trình hồi quy. Cụ thể, theo những nghiên cứu trước đây (Ví dụ,
29
Karras, 1999; Berument và Dogan, 2003), để cho phép các tác động của phát triển
tài chính ảnh hưởng của tiền bạc vào sản lượng và lạm phát, một thuật ngữ tương
𝑓𝑑𝑓𝑑𝑗,𝑡−𝑖 (3)
𝑚 = 𝜃𝑖 𝛽𝑗,𝑡−𝑖
𝑚 + 𝜃𝑖
𝑓𝑑𝑓𝑑𝑗,𝑡−𝑖 (4)
𝑚 = 𝛷𝑖 𝛾𝑗,𝑡−𝑖
𝑚 + 𝛷𝑖
tác cho phát triển tài chính được giới thiệu trong các cách sau đây:
Trong đó:
- fdj,t biểu thị sự phát triển tài chính trong nước j tại thời điểm t
- θs và фs là các thông số.
Bằng cách kết hợp phương trình (3) vào phương trình (1), chúng tôi có được
phương trình sản lượng để đo lường tác động của phát triển tài chính về mối quan
𝒚∆𝒚𝒋,𝒕−𝒊
𝒇𝒇𝒅𝒋,𝒕−𝒊 +
𝒎 𝑹 + ∑ (𝜽𝒊 𝒊=𝟎
𝑸 𝒊=𝟏
hệ giữa tăng trưởng cung tiền và tốc độ tăng trưởng sản lượng:
𝒚 (5)
∆𝒚𝒋,𝒕 = 𝜷𝟎 + ∑ 𝜷𝒊 ∆𝒎𝒋,𝒕−𝒊 + 𝜽𝒊
𝒇𝒎𝒇𝒅𝒋,𝒕−𝒊∆𝒎𝒋,𝒕−𝒊) + 𝜷𝒄𝒄𝒓𝒊𝒔𝒊𝒔𝒋,𝒕 + 𝒖𝒋,𝒕
𝜽𝒊
Trong đó:
- ∆yj,t : biểu thị sự tăng trưởng sản lượng của quốc gia j trong khoảng thời gian t,
- ∆mj,t : biểu thị tốc độ tăng trưởng cung tiền của quốc gia j trong thời gian t,
- fdj,t : thước đo của phát triển tài chính của quốc gia j tại thời điểm t,
- fdj,tmj,t : giới hạn tương tác phát triển tài chính,
- crisisj,t là một biến giả chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
về sản lượng năm 2008,
j,t : cú sốc sản lượng.
- uy
Tương tự như vậy, bằng cách kết hợp phương trình (4) vào phương trình (2),
chúng ta có được phương trình lạm phát sau đo lường tác động của phát triển tài
chính trên mối quan hệ giữa tăng trưởng cung tiền và tỉ lệ lạm phát:
𝒚∆𝒑𝒋,𝒕−𝒊
𝒎 𝑹 + ∑ (𝜱𝒊 𝒊=𝟎
𝑸 𝒊=𝟏
30
𝒇𝒇𝒅𝒋,𝒕−𝒊 + 𝒑 (6)
∆𝒑𝒋,𝒕 = 𝜸𝟎 + ∑ 𝜸𝒊 ∆𝒎𝒋,𝒕−𝒊 + 𝜱𝒊
𝒇𝒎𝒇𝒅𝒋,𝒕−𝒊∆𝒎𝒋,𝒕−𝒊) + 𝜸𝒄𝒄𝒓𝒊𝒔𝒊𝒔𝒋,𝒕 + 𝒖𝒋,𝒕
𝜱𝒊
Trong đó:
- ∆pj,t : biểu thị tỷ lệ lạm phát của quốc gia j trong khoảng thời gian t
- fdj,tmj,t : là giới hạn tương tác cho phát triển tài chính
- crisisj,t : là một biến giả chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu năm 2008 về lạm phát
j,t : là cú sốc lạm phát.
- up
Các biến khác trong phương trình (6) đều giống nhau như được định nghĩa
trước.
3.3 Kì vọng của các biến
Dựa trên bài nghiên cứu của Yong Ma và Xingkai Lin (2016), tác giả sẽ kì
vọng các biến như sau
Bảng 3.1 Kỳ vọng nghiên cứu của các biến
Tên biến Đại diện Kỳ vọng dấu của hệ số hồi quy
Hệ số cung tiền + (tương quan dương) Δmt
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
fdt Δmt Biến tương tác phát triển tài chính - (tương quan âm)
3.4 Mô tả biến
Căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu của bài viết đặt ra cùng với nghiên cứu thực
nghiệm của tác giả Yong Ma và Xingkai Lin năm 2016 về mối quan hệ giữa sự phát
triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ, các biến được sử dụng trong mô
hình nghiên cứu là: tỷ lệ tăng trưởng sản lượng, tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng trưởng
cung tiền, phát triển tài chính, phát triển trung gian tài chính, phát triển thị trường
tài chính.
31
3.4.1 Biến phụ thuộc:
- Tốc độ tăng trưởng sản lượng: (Δyj,t)
Biểu thị sự tăng trưởng sản lượng của quốc gia j trong khoảng thời gian t.
GDP thực: Là tổng sản phẩm quốc nội tính theo sản lượng hàng hoá và dịch vụ
cuối cùng của năm nghiên cứu còn giá cả tính theo năm gốc. GDP thực tế được đưa
ra nhằm điều chỉnh những sai lệch như sự mất giá của đồng tiền trong việc tính toán
GDP danh nghĩa để có thể ước lượng chuẩn hơn số lượng thực sự của hàng hoá và
dịch vụ tạo thành GDP.
Tốc độ tăng trưởng sản lượng được đo bằng tỷ lệ phần trăm (%) và được định
nghĩa như sau: Δyj,t = (GDPj,t – GDPj,t-1) / GDPj,t-1
- Tỷ lệ lạm phát: (Δpj,t)
Biểu thị tỷ lệ lạm phát của nước j trong khoảng thời gian t
Chỉ số giá tiêu dùng CPI: là chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức thay đổi
tương đối của giá hàng tiêu dùng theo thời gian
Tỷ lệ lạm phát được đo bằng tỷ lệ phần trăm (%) và được định nghĩa như sau:
Δpj,t = (CPIj,t – CPIj,t-1) / CPIj,t-1
3.4.2 Biến độc lập:
- Tốc độ tăng trưởng cung tiền: (Δm)
Cung tiền (M2): là lượng tiền cung ứng nhằm thỏa mãn các nhu cầu thanh toán
và dự trữ của các chủ thể trong nền kinh tế. Cung tiền M2 bao gồm:
- M1
- Các loại tiền gửi có kì hạn loại nhỏ
- Tiền gửi tiết kiệm
- Các chứng từ nợ ngắn hạn
- Tiền gửi thị trường tiền tệ ngắn hạn…
32
Tốc độ tăng trưởng cung tiền được đo bằng tỷ lệ phần trăm (%) và được định
nghĩa như sau: Δmj,t = (M2j,t – M2j,t-1) / M2j,t
- Phát triển tài chính (fd1): đo lường phát triển chung của khu vực tài chính
fd1 = ( Giá trị các khoản tín dụng trung gian tài chính + Giá trị các cổ phiếu
được niêm yết) / GDP
𝐺𝑖á 𝑡𝑟ị 𝑐á𝑐 𝑘ℎ𝑜ả𝑛 𝑡í𝑛 𝑑ụ𝑛𝑔 𝑡𝑟𝑢𝑛𝑔 𝑔𝑖𝑎𝑛 𝑡à𝑖 𝑐ℎí𝑛ℎ
- Phát triển trung gian tài chính: (fd2)
𝐺𝐷𝑃
fd2 =
𝐺𝑖á 𝑡𝑟ị 𝑐á𝑐 𝑐ổ 𝑝ℎ𝑖ế𝑢 đượ𝑐 𝑛𝑖ê𝑚 𝑦ế𝑡
- Phát triển thị trường tài chính: (fd3)
𝐺𝐷𝑃
fd3 =
- Biến giả crisis:
Biến giả chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu về sản lượng
năm 2008. Biến giả crisis được mô tả bởi một số nhị phân đơn giản như sau:
Nếu crisis =1: quốc gia i tại thời điểm t trải qua cuộc khủng hoảng tài chính.
Nếu crisis =0: quốc gia i tại thời điểm t không trải qua cuộc khủng hoảng tài
chính.
j,t): uy
j,t = uy
j + wy
j,t với uy
j biểu thị tác động cố định lên
- Cú sốc sản lượng (uy
mỗi quốc gia.
j,t): up
j,t = up
j + wp
j,t với up
j biểu thị tác động cố định lên
- Cú sốc lạm phát (up
mỗi quốc gia.
33
Bảng 3.2 Đo lường các biến trong mô hình
Định nghĩa Kí hiệu Đo lường
Tốc độ tăng trưởng Δy Δyj,t = (GDPj,t – GDPj,t-1) / GDPj,t-1 sản lượng
Tỷ lệ lạm phát Δp Δpj,t = (CPIj,t – CPIj,t-1) / CPIj,t-1
Tỷ lệ tăng trưởng Δm Δmj,t = (M2j,t – M2j,t-1) / M2j,t-1 cung tiền
Phát triển tài chính fd1 fd1 = ( Giá trị các khoản tín dụng trung gian tài
chính + Giá trị các cổ phiếu được niêm yết) /
GDP
Phát triển trung fd2 fd2 = Giá trị các khoản tín dụng trung gian tài
gian tài chính chính/ GDP
Phát triển thị fd3 fd3 = Giá trị các cổ phiếu được niêm yết / GDP trường tài chính
Biến giả crisis Nếu crisis =1: quốc gia i tại thời điểm t trải qua
cuộc khủng hoảng tài chính.
Nếu crisis = 0: quốc gia i tại thời điểm t không
trải qua cuộc khủng hoảng tài chính.
j,t
j,t = uy
j + wy
j,t
Cú sốc sản lượng uy uy
j,t
j,t = up
j + wp
j,t
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Cú sốc lạm phát up up
34
3.5 Phương pháp nghiên cứu
Trong phần này, tác giả sẽ lần lượt trình bày các cách tiếp cận từ đơn giản
đến phức tạp của phương pháp hồi quy trên dữ liệu bảng. Từ phương pháp tiếp cận
hiệu ứng cố định (FEM), hiệu ứng ngẫu nhiên (REM) và kiểm định GMM.
Phương pháp luận của bài nghiên cứu này được dựa trên bài nghiên cứu của
Yong Ma và Xingkai Lin (2016). Bên cạnh đó, tác giả có bổ sung một số phương
pháp ước lượng để kiểm tra tính vững của các kết quả nghiên cứu. Tuy nhiên, tác
giả sẽ tiến hành báo cáo các kết quả nghiên cứu dựa trên phương pháp ước lượng
chính là mô hình GMM - Generalized Method of Moments (theo Arellano và Bond,
1991 và Blundell và Bond, 1998).
Bài nghiên cứu của tác giả sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng được thực
hiện trên phần mềm Stata 12. Với cấu trúc dữ liệu bảng là bộ dữ liệu bao gồm cả hai
chiều không gian và thời gian nên có nhiều lợi thế và thuận lợi trong phân tích sự
biến động của các nhóm đối tượng nghiên cứu theo thời gian. Việc sử dụng dữ liệu
bảng có một vài ưu điểm: thứ nhất, dữ liệu bảng làm tăng kích thước mẫu một cách
đáng kể; thứ hai, thông qua nghiên cứu các quan sát theo không gian lặp lại, dữ liệu
bảng phù hợp hơn để nghiên cứu động học thay đổi; thứ ba, dữ liệu bảng hữu ích
trong việc nghiên cứu những mô hình hành vi phức tạp hơn.
Sau đó, tác giả sử dụng mô hình tác động cố định (Fixed Effects Model -
FEM). Mô hình FEM xem xét đến những khác biệt trong đặc điểm riêng của các
quốc gia để tách ảnh hưởng của những điểm riêng biệt này ra khỏi các hệ số hồi
quy, từ đó cho thấy kết quả ước lượng sẽ tốt hơn. Tuy nhiên, mô hình lại không xem
xét những ảnh hưởng qua thời gian của những đặc điểm riêng biệt này.
Tác giả tiếp tục ước lượng bằng mô hình tác động ngẫu nhiên (Random
Effects Model – REM) vì mô hình REM xem xét cả hai vấn đề, thứ nhất là những
khác biệt trong các đặc điềm riêng biệt của mỗi quốc gia và xem xét cả những ảnh
hưởng qua thời gian của những đặc điểm riêng biệt này.
35
Sỡ dĩ tác giả không sử dụng mô hình gộp Pooled vì đây là cách tiếp cận đơn
giản, thực chất là hồi quy OLS. Thông thường ước lượng theo phương pháp OLS
(Pooled Regress Model) sẽ không chệch, vững và hiệu quả khi không tồn tại các vi
phạm về phương sai thay đổi, tự tương quan và biến nội sinh. Tuy nhiên, kết quả
kiểm định cho thấy với mức ý nghĩa 1% có tồn tại vi phạm phương sai thay đổi. Mô
hình này còn giả định rằng các hệ số hồi quy (hệ số chặn và hệ số góc) không thay
đổi giữa các quốc gia cũng như không thay đổi theo thời gian, đây cũng chính là
điểm yếu nhất của mô hình này. Hơn nữa, các biến độc lập phải là các biến ngoại
sinh chặt có nghĩa là các biến độc lập không phụ thuộc vào các giá trị quá khứ, hiện
tại và tương lai của sai số ngẫu nhiên. Chính những giả định hạn chế này có thể làm
cho các ước lượng thu được bị chệch và không vững.
Ngoài ra, ước tính bằng phương pháp tiếp cận tác động cố định (FEM) hay
tác động ngẫu nhiên (REM) cho mô hình chính là không phù hợp nếu mô hình cho
thấy phát sinh vấn đề nội sinh - tức là một biến giải thích nào đó trong mô hình có
tương quan với phần sai số. Do đó, tác giả sử dụng ước tính theo phương pháp
GMM - Generalized Method of Moments (theo Arellano và Bond, 1991và Blundell
và Bond, 1998) để khắc phục hiện tượng nội sinh có thể xảy ra trong mô hình. Để
phát hiện vi phạm giả thiết hồi quy - hiện tượng nội sinh, tác giả sẽ sử dụng kiểm
định phương pháp Hansen, Sargan để kiểm tra sự phù hợp của việc thay thế biến nội
sinh bởi biến công cụ. Trong bài nghiên cứu này, Hansen test cũng được thực hiện
để kiểm định điều kiện định dạng quá mức với phân phối chi bình phương và giả
thiết Ho: các biến công cụ trong mô hình là phù hợp. AR-test cũng được thực hiện
nhằm kiểm định tự tương quan của phần dư, với phân phối chuẩn và giả thiết Ho:
Không có tự tương quan chuỗi giữa các phần dư.
Để cho phân tích có cấu trúc, tác giả tăng dần các kiểm tra từ hồi quy bảng
đơn giản đến chi tiết và kĩ thuật ước lượng ngày càng tinh vi hơn để đảm bảo kết
quả không giả. Quan trọng hơn, các phương pháp ước lượng khác nhau và kiểm tra
chính xác mang lại kết quả mạnh mẽ hơn . Một trong những ưu điểm của GMM là
cho phép lựa chọn các biến công cụ dễ dàng , điều đó có nghĩa là GMM cung cấp
36
nhiều biến công cụ khác nhau bằng cách lấy độ trễ tuỳ ý của các biến để sử dụng
như biến công cụ cho biến nội sinh, từ đó có thể dễ dàng lựa chọn biến công cụ đạt
được điều kiện của một biến công cụ chuẩn. Ước lượng GMM sẽ cho ra các giá trị
ước lượng tuân theo phân phối chuẩn, đây là thuộc tính rất quan trọng vì đó là cơ sở
để chúng ta xây dựng giá trị dự đoán ở các độ tin cậy (confidence bands) và thực
hiện các kiểm định khác. Phương pháp GMM cũng cho ra kết quả là các giá trị ước
lượng hiệu quả, nghĩa là giá trị phương sai trong mô hình ước lượng là nhỏ nhất.
GMM được phát triển bởi Arellano và Bond (1991) và Blundell và Bond
(1998), trình bày hai mức độ trong hàm số của phần dư εit. Nếu phần dư có phương
sai không thay đổi, GMM một giai đoạn hóa ra là tối ưu. Ngược lại, phương sai của
phần dư thay đổi, các ước lượng của biến công cụ trong một giai đoạn tiếp tục là
phù hợp nhưng tiến hành ước tính trong hai giai đoạn sẽ tăng hiệu quả hơn. Ước
tính trong hai giai đoạn sử dụng các phần dư của ước tính một giai đoạn. Ước lượng
GMM sử dụng các biến trễ như các biến công cụ là không phù hợp nếu các sai số là
tự tương quan (theo Arellano và Bover, 1990). Bontempi và Golinelli (2012) cho
rằng khi mô hình tồn tại phương sai thay đổi, sử dụng kiểm định Hansen sẽ hiệu quả
hơn và ngược lại. Vì thế giá trị p - value của cả các kiểm định trên càng lớn càng
tốt, cụ thể là trên 0.1 cho thấy mô hình ước tính là phù hợp.
37
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương này trình bày kết quả ước lượng của các mô hình đã đề cập ở
chương 3, nhằm mục tiêu kiểm định mối quan hệ giữa phát triển tài chính và hiệu
quả của chính sách tiền tệ đối với tốc độ tăng trưởng sản lượng và tỷ lệ lạm phát.
4.1 Phân tích thống kê mô tả
Phân tích thống kê mô tả được trình bày trong bảng 4.1 với các chỉ tiêu về
giá trị trung bình của các biến trong bài nghiên cứu này nhằm cung cấp một cái nhìn
tổng quan về các đặc tính của dữ liệu.
Bảng 4.1 Trung bình mẫu giai đoạn 2008Q1 – 2015Q4
Quốc gia ∆Y(%) ∆p(%) ∆m(%) fd1 fd2 fd3
VIETNAM 7.8712 9.8163 22.539 1.2246 1.0076 0.2171
THAILAN 2.8957 2.2453 7.7419 1.8384 1.0523 0.7861
HONGKONG 2.6668 3.5419 9.1428 12.5136 2.3599 10.1537
CHINA 8.5769 2.8351 16.995 2.1300 1.5827 0.5473
ISREAL 3.4481 2.1435 8.2053 1.9160 1.1951 0.7209
INDONESIA 5.7618 14.5069 0.7228 0.3188 0.4040 6.0064
KOREA 3.1179 6.0064 7.8484 2.6769 1.8204 0.8565
JAPAN 0.1781 0.3761 2.9384 2.4734 1.6998 0.7736
SINGAPORE 4.5798 2.8475 7.5694 3.5644 1.2133 2.3511
INDIA 6.6922 8.9547 11.7447 1.3155 0.5890 0.7266
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Ghi chú: Các biến được định nghĩa như trong bảng 3.1
Bảng 4.1 cho thấy giá trị trung bình của các biến hồi quy của 10 nền kinh tế
trong giai đoạn quý 1 năm 2008 – quý 4 năm 2015. Cột thứ 2, 3, 4 trong bảng 4.1
cho thấy cả tăng trưởng sản lượng, lạm phát và cung tiền có sự khác nhau đáng kể
qua các nền kinh tế được xem xét. Tốc độ tăng trưởng sản lượng bình quân quý dao
động từ 0.178% ở Nhật Bản đến 8.58% ở Trung Quốc, trong khi tỷ lệ trung bình
hàng quý của lạm phát dao động từ 0.376% tại Nhật Bản đến 9.816 ở Việt Nam.
38
Đối với tốc độ tăng trưởng cung tiền bình quân quý khoảng từ 2.938% ở Nhật Bản
đến 22.539% ở Việt Nam.
Ba cột cuối cùng của bảng 4.1 cung cấp các giá trị trung bình mẫu của 3
thước đo phát triển tài chính, đây là trọng tâm chính của bài nghiên cứu này. Thứ
nhất, phát triển tài chính khác nhau đáng kể giữa các nền kinh tế mẫu. Các đo lường
tổng thể về phát triển tài chính (fd1) dao động tối thiểu là 0.7228 ở Indonesia đến
tối đa là 12.5136 ở Hồng Kong. Sự phát triển của các trung gian tài chính (fd2) dao
động từ 0.319 ở Indonesia đến 2.36 ở Hông Kong, trong khi đó sự phát triển của thị
trường tài chính (fd3) dao động từ 0.217 ở Việt Nam đến 10.154 ở Hông Kông. Thứ
hai, tầm quan trọng tương đối của trung gian tài chính cũng thay đổi đáng kể trên
toàn nền kinh tế. Ví dụ, một số nền kinh tế có giá trị trung gian tài chính cao nhưng
giá trị của thị trường tài chính thấp như Nhật Bản, Hàn Quốc, Isreal… ngụ ý rằng
các hệ thống tài chính của các nền kinh tế này dựa nhiều hơn bào các trung gian tài
chính (dựa trên hệ thống tài chính ngân hàng). Ngược lại, một số nền kinh tế khác
có một giá trị thị trường tài chính cao nhưng giá trị trung gian tài chính thấp như
Hồng Kong, Singapore ngụ ý rằng hệ thống tài chính của các nền kinh tế này phụ
thuộc nhiều hơn vào thị trường tài chính (dựa trên hệ thống của thị trường tài
chính). Trong bối cảnh này, mỗi một trong ba biện pháp phát triển tài chính được sử
dụng trong bài viết có giá trị của nó và chúng có thể cung cấp một bức tranh hoàn
chỉnh hơn về sự phát triển tài chính trong mỗi nền kinh tế nhất định.
Nhìn chung, quy mô của các phạm vi và sự khác biệt trong Bảng 4.1 cho
thấy tác động của phát triển tài chính đến hiệu quả của chính sách tiền tệ rất quan
trọng vì nó tìm ra sản lượng, giá cả đa dạng ảnh hưởng đến 10 nền kinh tế được
xem xét trong bài nghiên cứu.
Sau khi thu thập và tính toán dữ liệu, kết quả trình bày theo bảng thống kê
mô tả trong bảng 4.2 dưới đây.
39
Bảng 4.2 Thống kê mô tả các biến tổng thể
Biến Trung bình Độ lệch chuẩn GTNN GTLN
Nguồn: Kết quả tính toán từ Phần mềm Stata 12 (Phụ lục)
4.5789 4.4773 10.9233 3.0376 1.2839 1.7537 4.7247 4.3107 9.9547 3.3200 0.5935 2.9162 -15.5560 -2.7760 -0.2900 0.4564 0.2430 0.0803 43.4650 27.9770 37.090 14.1329 2.9200 12.0112 Số quan sát 320 320 320 320 320 320 Δy Δp Δm fd1 fd2 fd3
Bảng 4.2 trình bày thống kê mô tả các biến đối với mẫu tổng thể. Tỷ lệ tăng
trưởng sản lượng (Δy) có giá trị trung bình và độ lệch chuẩn tương ứng là 4,5789 và
4,7247. Tỷ lệ lạm phát (Δp), biến đo lường tốc độ gia tăng mặt bằng giá của nền
kinh tế có giá trị trung bình và độ lệch chuẩn tương ứng là 4,4773 và 4,3107. Tốc độ
tăng trưởng cung tiền (Δm) lần lượt có giá trị trung bình và độ lệch chuẩn là
10,9233 và 9,9547. Phát triển tài chính (fd1) với giá trị trung bình là 3,0376 và độ
lệch chuẩn 3,3200. Phát triển trung gian tài chính (fd2) và phát triển thị trường tài
chính (fd3) tương ứng với giá trị trung bình là 1,2839 và 1,7538, độ lệch chuẩn lần
lượt là 0,5935 và 2,9162.
4.2 Ma trận tương quan
Hệ số tương quan dùng để thể hiện mối quan hệ giữa các biến trong mô hình.
Hệ số tương quan biến động từ -1 tới 1 với chiều tác động âm và dương tương ứng.
Dựa vào kết quả ma trận tương quan, tác giả sẽ phân tích mối tương quan giữa các
biến các biến độc lập trong mô hình.
40
Bảng 4.3: Ma trận tương quan
Δp 1 0.3911 -0.3256 -0.1327 Δm 1 -0.2846 -0.1492 fd2 1 0.6257 fd3 1 Δy Δp Δm fd2 fd3
Nguồn: Kết quả tính toán từ Phần mềm Stata 12 (Phụ lục)
Δy 1 0.3253 0.4113 -0.2519 -0.1439
Bảng 4.3 trình bày các mối tương quan giữa các biến. Cụ thể, tác giả sẽ xem
xét sợ bộ về các mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập. Mối tương
quan giữa tốc độ tăng trưởng sản lượng với tỷ lệ lạm phát và cung tiền thì cùng
chiều với hệ số tương quan tương ứng là 0.3252 và 4.4113. Đồng thời, mối tương
quan giữa tỷ lệ lạm phát và cung tiền cũng thuận chiều với hệ số tương quan là
0.3911. Ngược lại, mối tương quan giữa tốc độ tăng trưởng sản lượng với phát triển
trung gian tài chính và phát triển thị trường tài chính là ngược chiều với hệ số tương
quan lần lượt là -0.2519 và -0.1439. Ngoài ra thì tỷ lệ lạm phát và cung tiền cũng có
mối quan hệ ngược chiều với sự phát triển của trung gian tài chính và thị trường tài
chính với hệ số tương quan tương ứng của lạm phát là -0.3256 và -0.1327; với tốc
độ tăng tưởng cung tiền là -0.2846 và -0.1492. Những kết quả này chưa thể khẳng
định rằng phát triển tài chính có mối quan hệ ngược chiều với chính sách tiền tệ.
Nhìn chung, sự tương quan giữa các biến giải thích là không cao, do đó khả
năng xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình có thể là rất thấp. Các biến đưa
và mô mình không có tự tương quan với nhau, do đó không vi phạm giả thuyết đa
cộng tuyến trong mô hình dẫn đến đảm bảo tính vững cho mô hình.
4.3 Các kiểm định vi phạm giả thuyết của mô hình
4.3.1 Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi
Phương sai thay đổi là sự không đồng nhất của phương sai các nhiễu trong
mô hình. Khi mô hình tồn tại phương sai thay đổi của nhiễu, cần lựa chọn phương
pháp hồi quy phù hợp nhằm đạt được tính hiệu quả của ước lượng, tức là đạt được
41
phương sai nhỏ nhất. Hiện tượng phương sai thay đổi sẽ dẫn đến một số hậu quả
như: các ước lượng OLS vẫn là không chệch nhưng không còn hiệu quả nữa, ước
lượng của các phương sai sẽ bị chệch, như vậy sẽ làm mất hiệu lực của kiểm định
hệ số hồi quy.
Hiện tượng phương sai thay đổi là một trong những vấn đề hay gặp phải do
đặc tính dữ liệu trong mô hình có thể dẫn đến kết quả ước lượng bị chệch. Vì thế, để
đảm bảo độ tin cậy cho kết quả ước lượng, tác giả tiến hành các kiểm định phương
sai thay đổi cho các mô hình trong bài nghiên cứu theo phương pháp kiểm định
Wald với giả thuyết như sau:
Giả thuyết H0: Mô hình không có hiện tượng phương sai thay đổi.
Giả thuyết H1: Mô hình có hiện tượng phương sai thay đổi.
Bảng 4.4 Kết quả kiểm định phương sai thay đổi
Giá trị chi bình phương 6175 5665.89 5268.17 723.16 588.85 1345.57 P – value 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000
Mô hình 1 2 3 4 5 6 Ghi chú:
Nguồn: Kết quả tính toán từ Phần mềm Stata 12 (Phụ lục)
- Mô hình 1-2-3 là mô hình theo tăng trưởng sản lượng tương ứng với các biến fd1, fd2, fd3 và Δm. - Mô hình 4-5-6 là mô hình theo tỷ lệ lạm phát tương ứng với các biến fd1, fd2, fd3 và Δm.
Bảng 4.4 trình bày các kết quả kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi.
Kết quả cho thấy các giá trị P - value của các kiểm định phương sai thay đổi ở các
mô hình đều nhỏ hơn mức 0.01. Điều này cho thấy các kiểm định đều bác bỏ giả
thuyết H0 ở mức ý nghĩa 1% mà giả thuyết H0 là không có phương sai thay đổi. Hay
nói một cách khác là các mô hình hồi quy trong bài nghiên cứu có phương sai thay
đổi.
42
4.3.2 Kiểm định hiện tượng tự tương quan
Tự tương quan có thể hiểu là sự tương quan giữa các thành phần của chuỗi
quan sát được sắp xếp theo thứ tự thời gian hoặc không gian. Kiểm tra hiện tượng tự
tương quan là một trong những kiểm định chuẩn đoán về tính tin cậy của mô hình
hồi quy. Tự tương quan là quan hệ tương quan giữa các thành viên của chuỗi của
các quan sát được sắp xếp theo thời gian như trong dữ liệu chuỗi thời gian. Khi có
tự tương quan, cần lựa chọn các phương pháp ước lượng kiểm soát được hiện tương
tự tương quan nhằm đạt được tính hiệu quả của ước lượng tức là có phương sai nhỏ
nhất.
Tương tự như hiện tượng phương sai thay đổi, hiện tượng tự tương quan
cũng là một trong những vấn đề có thể xảy ra dẫn đến kết quả ước lượng bị chệch.
Do đó, tác giả cũng tiến hành kiểm định tự tương quan theo phương pháp kiểm định
Wooldridge (2002) và đặt ra giả thuyết kiểm định như sau:
Giả thuyết H0: Mô hình không có hiện tượng tự tương quan.
Giả thuyết H1: Mô hình có hiện tượng tự tương quan.
Bảng 4.5 Kết quả kiểm định tự tương quan
Mô hình 1 2 3 4 5 6 Giá trị F 0.102 0.118 0.128 0.4001 0.482 0.065 P – value 0.7568 0.7395 0.7286 0.9772 0.5052 0.8041
Ghi chú:
Nguồn: Kết quả tính toán từ Phần mềm Stata 12 (Phụ lục)
- Mô hình 1-2-3 là mô hình theo tăng trưởng sản lượng tương ứng với các biến fd1, fd2, fd3 và Δm. - Mô hình 4-5-6 là mô hình theo tỷ lệ lạm phát tương ứng với các biến fd1, fd2, fd3 và Δm.
Bảng 4.5 trình bày các kết quả kiểm định hiện tượng tự tương quan. Kết quả
cho thấy các giá trị P - value của các kiểm định tự tương quan ở hầu hết các mô
hình đều lớn hơn mức 0.01, điều này cho thấy các kiểm định ở các mô hình đều
43
chấp nhận giả thuyết H0 ở mức ý nghĩa 1% mà giả thuyết H0 là không có tự tương
quan. Hay nói cách khác là các mô hình hồi quy trong bài nghiên cứu không xảy ra
hiện tượng tự tương quan.
Sau khi thực hiện kiểm định phương sai thay đổi và kiểm định tự tương
quan, kết quả sau cùng cho thấy trong dữ liệu của các mô hình có sự tồn tại của hiện
tương phương sai thay đổi. Do đó, việc sử dụng các phương pháp ước lượng mô
hình tác động cố định (FEM) và tác động ngẫu nhiên (REM) có thể sẽ dẫn đến các
kết quả ước lượng bị chệch vì các phương pháp này không khắc phục được hiện
tượng phương sai thay đổi.
4.4 Kết quả hồi quy
Để đo lường tác động của các biến đại diện cho phát triển tài chính lên hiệu
quả của chính sách tiền tệ, tác giả sử dụng phương pháp phân tích hồi quy trên dữ
liệu bảng. Các mô hình hồi quy dữ liệu bảng phổ biến là mô hình hiệu ứng tác động
cố định (Fixed effect – FEM), hồi quy dữ liệu bảng hiệu ứng tác động ngẫu nhiên
(Random effect – REM). Tuy nhiên, cả hai phương pháp tiếp cận FEM và REM đều
không kiểm soát được hiện tượng phương sai thay đổi đã được phát hiện bởi kiểm
định Wooldridge (2002).
Theo kết quả nghiên cứu của Arellano và Bond (1991), phương pháp hồi quy
GMM là một giải pháp hiệu quả để ước lượng hồi quy trong mô hình trong trường
hợp mô hình vừa có hiện tượng phương sai thay đổi và vấn đề nội sinh. Mô hình
Arellano và Bond kiểm soát được hiện tượng phương sai thay đổi và vấn đề nội
sinh.
Trước hết tác giả cân nhắc tiến hành ước lượng mối quan hệ giữa cung tiền
và sự phát triển tài chính theo mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) và mô hình tác
động cố định (FEM) để xem xét các kết quả đầu ra.
Đầu tiên, tác giả tiến hành tách các nền kinh tế mẫu bằng hai mức độ khác
nhau của phát triển tài chính. Sau đó sẽ so sánh các kích thước hệ số trên mẫu. Cụ
thể hơn, tác giả dùng hàm quartile trong excel để trả về giá trị trung vị (phân vị thứ
44
50) của tập dữ liệu chia 10 nền kinh tế mẫu thành hai nhóm bằng nhau theo mức
trung bình của phát triển tài chính tổng thể (fd1) trong thời kì mẫu (Quý 1 năm 2008
đến quý 4 năm 2015). Kết quả là:
(1) fd1 > 2.0989: mức độ cao của phát triển tài chính (kí hiệu là “HFD”),
trong đó bao gồm 5 nền kinh tế phát triển tài chính cao nhất trong mẫu.
(2) fd1 < 2.0989: mức độ thấp của phát triển tài chính (kí hiệu là “LFD”),
trong đó bao gồm 5 nền kinh tế thấp nhất về phát triển tài chính trong mẫu.
Bảng 4.6a: Kết quả hồi quy phát triển tài chính và cung tiền đối với
tăng trưởng sản lượng (Mô hình REM)
Biến phụ thuộc Δyt
Biến độc lập
Constant
Δyt
Δmt
HFD -0.1650081 (0.5720233) -0.1538413* (0.081057) 0.1969014** (0.0761136) 0.2765881*** (0.0678813) 0.4734895 LFD 3.4299*** (0.9262434) -0.2149383** (0.0789239) 0.251863*** (0.0652402) 0.0153321 (0.06285) 0.267195 Δmt-1 𝟏 𝒎 ∑ 𝜽𝒊 𝒊=𝟎
0.7604 0.5504 R2 điều chỉnh
51.48 24.66 Thống kê F
156 154 Số quan sát
Ghi chú:
Nguồn: Kết quả tính toán từ Phần mềm Stata 12 (Phụ lục)
Các biến được định nghĩa như trong bảng 3.1 * Có ý nghĩa ở mức 10% ** Có ý nghĩa ở mức 5% *** Có ý nghĩa ở mức 1%
45
Bảng 4.6b: Kết quả hồi quy phát triển tài chính và cung tiền đối với
lạm phát (Mô hình REM)
Biến phụ thuộc Δpt
Biến độc lập HFD LFD
1.004689** 2.270414** Constant (0.440387) (0.9297389)
0.3687974*** 0.1178062 Δpt (0.074279) (0.086148)
0.0849118* 0.0337384 Δmt (0.048791) (0.0708517)
0.0147749 0.1826369** Δmt-1 (0.0440387) (0.0636517)
𝟏 𝒎 ∑ 𝜱𝒊 𝒊=𝟎
0.0996867 0.2163753
0.7832 0.6370 R2 điều chỉnh
39.29 21.90 Thống kê F
156 154 Số quan sát
Ghi chú:
Nguồn: Kết quả tính toán từ Phần mềm Stata 12 (Phụ lục)
Các biến được định nghĩa như trong bảng 3.1 * Có ý nghĩa ở mức 10% ** Có ý nghĩa ở mức 5% *** Có ý nghĩa ở mức 1%
46
Bảng 4.7a: Kết quả hồi quy phát triển tài chính và cung tiền đối với tăng
trưởng sản lượng (Mô hình FEM)
Biến phụ thuộc Δyt
Biến độc lập HFD LFD
2.671993** 7.729834*** Constant (0.8097454) (1.447248)
-0.327056*** -0.3061095*** Δyt (0.078505) (0.0770139)
0.0512043 0.1197862 Δmt (0.0776489) (0.724595)
0.1428118 -0.1262306* Δmt-1 (0.0735033) (0.073034)
𝟏 𝒎 ∑ 𝜽𝒊 𝒊=𝟎
0.1940161 -0.0664444
0.0121 0.9858 R2 điều chỉnh
6.98 7.53 Thống kê F
156 154 Số quan sát
Ghi chú:
Nguồn: Kết quả tính toán từ Phần mềm Stata 12 (Phụ lục)
Các biến được định nghĩa như trong bảng 3.1 * Có ý nghĩa ở mức 10% ** Có ý nghĩa ở mức 5% *** Có ý nghĩa ở mức 1%
47
Bảng 4.7b: Kết quả hồi quy phát triển tài chính và cung tiền đối với
lạm phát (Mô hình REM)
Biến phụ thuộc Δpt
Biến độc lập HFD LFD
1.729902*** 7.463784*** Constant (0.4387565) (1.313678)
-0.2806314*** -0.2647803** Δpt (0.0773177) (0.0851358)
0.156689*** 0.0139842 Δmt (0.0417441) (0.0683658)
0.0985636** -0.0087034 Δmt-1 (0.0390947) (0.066018)
𝟏 𝒎 ∑ 𝜱𝒊 𝒊=𝟎
0.2552526 0.0052808
0.0794 0.9960 R2 điều chỉnh
10.30 3.37 Thống kê F
156 154 Số quan sát
Ghi chú:
Nguồn: Kết quả tính toán từ Phần mềm Stata 12 (Phụ lục)
Các biến được định nghĩa như trong bảng 3.1 * Có ý nghĩa ở mức 10% ** Có ý nghĩa ở mức 5% *** Có ý nghĩa ở mức 1%
48
4 bảng trên 4.6a và 4.6b, 4.7a và 4.7b trình bày các kết quả về mối quan hệ
giữa sự phát triển tài chính – cung tiền của 10 nền kinh tế mẫu giai đoạn 2008 –
2015 theo phương pháp tiếp cận tác động ngẫu nhiên (REM) và phương pháp tiếp
cận cố định (FEM). Trong đó, bảng 4.6a và 4.7a trình bày kết quả hồi quy phát triển
tài chính và cung tiền đối với tăng trưởng sản lượng, còn 4.6b và 4.7b trình bày kết
quả hồi quy phát triển tài chính và cung tiền đối với tỷ lệ lạm phát.
Kết quả cho thấy rằng, cả tăng trưởng sản lượng và tỷ lệ lạm phát có một
mức độ đáng kể của sự bền vững, được chỉ ra bởi giới hạn thống kê tích cực đáng
kể (R2) trong tất cả các phương trình. Đối với hệ số cung tiền, là trọng tâm chính
1 𝑖=0
1 𝑚 , ∑ 𝛷𝑖 𝑖=0
𝑚 của bài nghiên cứu, kết quả cho thấy tổng các hệ số cung tiền ( ∑ 𝜃𝑖 được ước tính là tích cực đáng kể trong tất cả các phương trình, ngụ ý rằng sự gia
)
tăng cung tiền có liên quan đến tăng trưởng sản lượng và tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên,
tác giả chỉ tìm thấy kết quả hồi quy tỷ lệ lạm phát phù hợp mà tổng các hệ số cung
1 𝑚 tiền (∑ 𝛷𝑖 𝑖=0 4.6b). Trong khi đó, đối với kết quả hồi quy tăng trưởng sản lượng (bảng 4.4a) thì
) lớn hơn trong mẫu của LFD và thấp hơn trong mẫu của HFD (bảng
1 𝑖=0
𝑚 ngược lại, tổng các hệ số cung tiền (∑ 𝜃𝑖 hơn trong mẫu của LFD, cho thấy rằng hiệu quả ngày càng lớn của cung tiền trong
) lớn hơn trong mẫu của HFD và nhỏ
sản lượng từ các nền kinh tế tài chính phát triển đến nền kinh tế kém phát triển chưa
chính xác và không còn phù hợp với các nghiên cứu trước đây. Đồng thời, hiệu của
của chính sách tiền tệ sẽ không được thể hiện rõ trong hệ thống tài chính. Đối với
khả năng giải thích của mô hình là có liên quan, điều chỉnh giá trị R trong bảng
4.6a và 4.6b được tìm thấy là giữa 0.5504 – 0.7832, có thể được coi là khá thỏa
đáng trong dữ liệu hồi quy bảng.
Tương tự, ở bảng 4.7a và 4.7b, với phương pháp tiếp cận tác động cố định
(FEM), tác giả lại tìm thấy kết quả hồi quy cả tăng trưởng sản lượng và tỷ lệ lạm
1 𝑖=0
1 𝑚 , ∑ 𝛷𝑖 𝑖=0
𝑚 phát có các hệ số cung tiền (∑ 𝜃𝑖 nhỏ hơn trong mẫu của LFD.
) đều lớn hơn trong mẫu của HFD và
Tuy nhiên có thể thấy, không phải các hệ số hồi quy chính nào trong mô hình
cũng có ý nghĩa thống kê. Điều đó cho thấy mô hình này không còn phù hợp. Hay
49
nói cách khác, kết quả hồi quy chưa thể hiện được mối quan hệ phi tuyến cũng
không thể hiện mối quan hệ tuyến tính giữa cung tiền và sự phát triển tài chính.
Điều này hoàn toàn khác xa với các nghiên cứu trước đây.
Sau khi thực hiện các tiêu chuẩn trong bài nghiên cứu, biến giả khủng hoảng
kinh tế (crisis) được đưa ra bởi một số nhị phân đơn giản như: (1) nếu một quốc gia
i tại thời điểm t trải qua một cuộc khủng hoảng thì bằng 1, (2) nếu quốc gia i không
trải qua cuộc khủng khoảng thì bằng 0. Dữ liệu cho các cuộc khủng hoảng tài chính
được lấy từ Laeven và Valencia (2012). Trong bài nghiên cứu của họ thì các tác giả
cung cấp thông tin chi tiết về thời gian bắt đầu và kết thúc của cuộc khủng hoảng tài
chính. Tuy nhiên, đối với các quốc gia mà tác giả nghiên cứu thì trong khoảng thời
gian từ quý 1 năm 2008 đến quý 4 năm 2015 thì không có quốc gia nào trải qua
cuộc khủng hoảng kinh tế. Vì vậy, trong bài nghiên cứu này có thể kết luận rằng
trong giai đoạn mà tác giả nghiên cứu, mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và
hiệu quả của chính sách tiền tệ không bị ảnh hưởng bởi tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới.
Ngoài thiết lập thực nghiệm cơ bản, tác giả cũng sử dụng một thiết lập thực
nghiệm thay thế mà biến của phát triển tài chính được thể hiện rõ ràng trong hồi
quy. Điều này được thực hiện bằng cách ước lượng phương trình hồi quy (5) và (6)
dựa trên các dữ liệu bảng của 10 nền kinh tế trong giai đoạn từ quý 1 năm 2008 đến
quý 4 năm 2015. Trong khi đó, để tạo điều kiện đánh giá định lượng về tầm quan
trọng của phát triển tài chính ảnh hưởng đến hiệu quả chính sách tiền tệ, các hồi quy
được ước tính bằng cách sử dụng các biến đã được chuẩn hóa. Kết quả thực nghiệm
được trình bày ở các bảng sau đây:
50
Bảng 4.8a: Mô hình thực nghiệm thay thế với tăng trưởng sản lượng
(Mô hình/ Sử dụng FEM)
Biến độc lập Δyt
fdt
fdt-1
Δmt
Δmt-1
fdtΔmt
fdt-1Δmt-1
Constant
𝟏 𝒇 ∑ 𝜽𝒊 𝒊=𝟎
fd1 -0.3141872*** (0.0543109) 0.5700953 (1.246074) 1.264074** (0.3999385) 0.1501174** (0.0700671) -0.0507907 (0.0680333) -0.0118618 (0.018544) -0.0010798 (0.0187159) -2.869835 (2.14895) 1.8341693 Biến phụ thuộc Δyt fd2 -0.3148797*** (0.0547283) -0.1695146 (2.219079) -3.063165 (2.131252) 0.2156029 (0.1436269) -0.2044104 (0.1406536) -0.0993979 (0.1155857) 0.1480246 (0.1131904) 9.398899** (3.432692) -3.1326796 fd3 -0.3162165*** (0.0536315) 0.9132578* (0.4757406) 1.688027*** (0.4255411) -0.01205172** (0.0580545) -0.0650377 (0.0567457) -0.0124905 (0.0206882) 0.0024783 (0.0205963) 0.9857949 (1.399688) 2.6012848
𝟏 𝒎 ∑ 𝜽𝒊 𝒊=𝟎
𝒇𝒎
0.0993267 0.01124989 0.0554795
𝟏 ∑ 𝜽𝒊 𝒊=𝟎
-0.0129416 0.0486267 -0.0100122
0.1742 0.0439 0.1425 R2 điểu chỉnh
7.71 6.01 9.05 Thống kê F
310 310 310 Số quan sát
Ghi chú:
Các biến được định nghĩa như trong bảng 3.1
* Có ý nghĩa ở mức 10% ** Có ý nghĩa ở mức 5% *** Có ý nghĩa ở mức 1%
Nguồn: Kết quả tính toán từ Phần mềm Stata 12 (Phụ lục)
51
Bảng 4.8b: Mô hình thực nghiệm thay thế với tỷ lệ lạm phát
(Mô hình/ Sử dụng FEM)
Biến độc lập Δpt
fdt
fdt-1
Δmt
Δmt-1
fdtΔmt
fdt-1Δmt-1
Constant
𝟏 𝒇 ∑ 𝜱𝒊 𝒊=𝟎
fd1 -0.2314147*** (0.0582548) -0.9905172** (0.3567073) 0.3739453 (0.3228821) 0.03582 (0.0568605) -0.0211828 (0.0543373) 0.0163277 (0.0146923) 0.0248203* (0.0149842) 6.024615** (1.71475) -0.6212367 Biến phụ thuộc Δpt fd2 -0.213631*** (0.0558876) -7.030971*** (1.683979) 4.191575*** (1.617526) -0.0295148 (0.1091809) -0.2077283** (0.1063306) 0.1179827 (0.0874716) 0.2260922** (0.0856622) 7.273163*** (2.597385) -2.839396 fd3 -0.236792*** (0.0588103) -0.8774057** (0.3840569) 0.3194928 (0.3514957) 0.0479443 (0.0487197) 0.0087662 (0.0462856) 0.0184901 (0.0167849) 0.0208802 (0.0168792) 5.242885*** (1.14654) -0.5579122
𝟏 𝒎 ∑ 𝜱𝒊 𝒊=𝟎
𝒇𝒎
0.0146372 0.2372431 0.0567105
𝟏 ∑ 𝜱𝒊 𝒊=𝟎
0.041148 0.3440749 0.0393703
0.0781 0.1008 0.2174 R2 điểu chỉnh
5.22 8.60 4.33 Thống kê F
310 310 310 Số quan sát
Ghi chú:
Các biến được định nghĩa như trong bảng 3.1
* Có ý nghĩa ở mức 10% ** Có ý nghĩa ở mức 5% *** Có ý nghĩa ở mức 1%
Nguồn: Kết quả tính toán từ Phần mềm Stata 12 (Phụ lục)
52
Bảng 4.9a: Mô hình thực nghiệm thay thế với tăng trưởng sản lượng
(Mô hình/ Sử dụng REM)
Biến độc lập Δyt
fdt
fdt-1
Δmt
Δmt-1
fdtΔmt
fdt-1Δmt-1
Constant
𝟏 𝒇 ∑ 𝜽𝒊 𝒊=𝟎
fd1 -0.1921552** (0.0570577) -0.5303871* (0.3797118) 0.3797118* (0.3066719) 0.2912124*** (0.0646488) 0.083459 (0.0639478) -0.0096971 (0.0190722) 0.01077 (0.0192879) 1.787486** (0.809797) -0.1506753 Biến phụ thuộc Δyt fd2 -0.2121531*** (0.0560385) -2.828395 (1.998472) -2.38705 (1.895279) 0.1906993 (0.130171) -0.26326** (0.1258879) 0.0472129 (0.1044054) 0.3078275** (0.1006406) 8.462998*** (1.841367) -5.215445 fd3 -0.1895408** (0.0570401) -0.4627689 (0.3382148) 0.5349555 (0.3343556) 0.2886206*** (0.053885) 0.1053578** (0.0528604) -0.020447 (0.0219654) -0.0012206 (0.022158) 1.35709** (0.590822) 0.0721866
𝟏 𝒎 ∑ 𝜽𝒊 𝒊=𝟎
𝒇𝒎
0.3746714 -0.0725607 0.3940284
𝟏 ∑ 𝜽𝒊 𝒊=𝟎
0.0010729 0.3550404 -0.0216676
0.7378 0.8305 0.7331 R2 điểu chỉnh
90.86 108.97 89.82 Thống kê F
310 310 310 Số quan sát
Ghi chú:
Các biến được định nghĩa như trong bảng 3.1
* Có ý nghĩa ở mức 10% ** Có ý nghĩa ở mức 5% *** Có ý nghĩa ở mức 1%
Nguồn: Kết quả tính toán từ Phần mềm Stata 12 (Phụ lục)
53
Bảng 4.9b: Mô hình thực nghiệm thay thế với tỷ lệ lạm phát
(Mô hình/ Sử dụng REM)
Biến độc lập Δpt
fdt
fdt-1
Δmt
Δmt-1
fdtΔmt
fdt-1Δmt-1
Constant
𝟏 𝒇 ∑ 𝜱𝒊 𝒊=𝟎
fd1 0.2277779*** (0.0578173) -0.9151775** (0.2819637) -0.927734** (0.2749612) 0.0809111 (0.0603054) -0.1404388** (0.0567789) -0.0038834 (0.0170707) -0.0034047 (0.0172875) 1.159507 (0.7193844) -1.8429115 Biến phụ thuộc Δpt fd2 0.1995893*** (0.0569401) -6.230626*** (1.76602) 5.610352** (1.376207) 0.1984662* (0.117025) 0.05344372 (0.1117357) -0.1017766 (0.0919274) 0.071311 (0.890954) 2.008321 (1.594139) -0.620274 fd3 0.2284799** (0.0581819) -0.8529729** (0.3035442) 0.8345281*** (0.3020766) 0.0663613 (0.0508435) 0.1416108** (0.0469861) 0.0037 (0.0198354) -0.0059784 (0.0200342) 1.1855** (0.532658) -0.0184448
𝟏 𝒎 ∑ 𝜱𝒊 𝒊=𝟎
𝒇𝒎
0.2213499 0.2519034 0.2079721
𝟏 ∑ 𝜱𝒊 𝒊=𝟎
-0.0072881 -0.0304656 -0.0013784
0.7298 0.7197 0.7315 R2 điểu chỉnh
99.25 129.52 91.53 Thống kê F
310 310 310 Số quan sát
Ghi chú:
Các biến được định nghĩa như trong bảng 3.1
* Có ý nghĩa ở mức 10% ** Có ý nghĩa ở mức 5% *** Có ý nghĩa ở mức 1%
Nguồn: Kết quả tính toán từ Phần mềm Stata 12 (Phụ lục)
54
Từ kết quả của 4 bảng 4.8a và 4.8b, 4.9a và 4.9b, có thể thấy rằng cả tốc độ
tăng trưởng sản lượng và tỷ lệ lạm phát đều cho thấy một mức độ duy trì đáng kể,
với khả năng giải thích của mô hình là có liên quan, điều chỉnh giá trị R trong tất cả
các phương trình có thể được coi là khá thỏa đáng trong dữ liệu hồi quy bảng. Tuy
nhiên, trái với các nghiên cứu trước đó (ví dụ, Levine, 1997; Levine et al, 2000;
Khan, 2001; Hasan và cộng sự, 2011), tổng các hệ số của sự phát triển tài chính
𝑓 1 ,∑ 𝛷𝑖 𝑖=0
𝑓 1 (∑ 𝜃𝑖 𝑖=0 chính có xu hướng tác động tiêu cực đến tăng trưởng sản lượng là tỷ lệ lạm phát.
) hiện ra hầu hết là tiêu cực đáng kể, chỉ ra rằng phát triển tài
Đối với hệ số cung tiền (Δmt) và các hệ số tương tác (fdtΔmts), là trọng tâm chính
của bài nghiên cứu thì kết quả lại cho thấy tổng các hệ số của các cung tiền
1 𝑚 , ∑ 𝛷𝑖 𝑖=0
1 𝑚 (∑ 𝜃𝑖 𝑖=0 với một sự gia tăng tương ứng của sản lượng và lạm phát. Ngoài ra, ngay cả khi các
) là tích cực, cho thấy rằng sự gia tăng cung tiền thường gắn liền
𝑓𝑚
𝑓𝑚
dấu hiệu của hệ số ước lượng của fdtΔmts đôi khi làm thay đổi, tổng các hệ số của
1 𝑖=0
1 , ∑ 𝛷𝑖 𝑖=0
) là tiêu cực (bảng 4.8a và 4.9b). Điều này
các biến tương tác ( ∑ 𝜃𝑖 dẫn đến kết luận rằng hiệu quả của chính sách tiền tệ là tương quan tiêu cực với sự
phát triển tài chính, vì mức độ cao hơn của sự phát triển tài chính có xu hướng là
𝑓𝑚
𝑓𝑚
suy yếu ảnh hưởng của chính sách tiền tệ về sản lượng và lạm phát. Tuy nhiên, tổng
1 𝑖=0
1 , ∑ 𝛷𝑖 𝑖=0
) ở bảng 4.8b và 4.9a thì
các hệ số của các biến tương tác (∑ 𝜃𝑖 ngược lại, hiệu quả chính sách tiền tệ có tương quan tích cực với sự phát triển taì
chính.
Một điều đáng chú ý là, bằng sách so sánh các kết quả của phương trình fd2
𝑓𝑚
và fd3 (với fd2 và fd3 được sử dụng như các biến đại diện cho phát triển tài chính),
1 𝑖=0
𝑓𝑚
, chúng ta có thể thấy rằng tổng các hệ số của các biến tương tác (∑ 𝜃𝑖
1 ∑ 𝛷𝑖 𝑖=0 vào sự phát triển của trung gian tài chính hơn là sự phát triển của thị trường tài
) ngụ ý rằng hiệu quả của chính sách tiền tệ có thể phụ thuộc nhiều hơn
chính.
55
Cuối cùng, để có một đánh giá định lượng về tầm quan trọng của sự phát
triển tài chính ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách tiền tệ, chúng ta có thể có
một cái nhìn sâu hơn về các kết quả từ bảng 4.8a. Từ phương trình fd1, có thể thấy
1 𝑖=0
𝑚 rằng tổng hệ số tiền (∑ 𝜃𝑖 được ước tính sử dụng biến đã được chuẩn hóa, điều này hàm ý rằng khi tăng một
) được ước tính là 0.0146372. Ở đây, các hồi quy
độ lệch chuẩn trong tăng trưởng cung tiền sẽ dẫn đến tăng 0.0146372 trong tăng
𝑓𝑚
trưởng sản lượng trong vòng bốn quý. Đồng thời, tổng hệ số của các biến tương tác
1 (∑ 𝜃𝑖 𝑖=0 chuẩn về trình độ phát triển tài chính sẽ dẫn đến giảm 0.0248203 trong hiệu quả
) được ước tính là -0.0248203, ngụ ý rằng khi có sự gia tăng một độ lệch
của tăng trưởng cung tiền, tương ứng giảm 16.96% (0.0248203/0.0146372=0.1696)
trong hiệu của của cung tiền.
Đối với các hiệu ứng lạm phát của cung tiền, từ phương trình fd1 trong bảng
1 𝑖=0
𝑚 4.9b, chúng ta có thể thấy rằng tổng hệ số cung tiền (∑ 𝛷𝑖 0.2213499, nghĩa là khi tăng một độ lệch chuẩn trong tăng trưởng cung tiền sẽ dẫn
) được ước tính là
𝑓𝑚
đến tăn 0.2213499 đơn vị trong tỷ lệ lạm phát. Trong khi đó, tổng của các hệ số của
1 𝑖=0
) được ước tính là -0.0072881, ngụ ý rằng khi có một
các biến tương tác (∑ 𝛷𝑖 sự gia tăng độ lệch chuẩn ở mức độ phát triển tài chính sẽ dẫn đến giảm 0.0072881
độ lệch chuẩn trong hiệu quả tăng trưởng của cung tiền, tương ứng giảm 3.29%
(0.0072881/0.2213499=0.0329) trong hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Nhìn chung, tác động của sự phát triển tài chính lên hiệu quả của chính sách
tiền tệ không chỉ có ý nghĩa mà còn rất quan trọng. Tuy nhiên, cũng giống như kết
quả thiết lập thực nghiệm cơ bản (bảng 4.6a và 4.6b, bảng 4.7a và 4.7b), có thể thấy
rằng không phải các hệ số hồi quy chính nào trong mô hình cũng có ý nghĩa thống
kê. Hay nói một cách khác, kết quả hồi quy từ hai mô hình trên không thể hiện được
mối quan hệ giữa phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ. Điều này
chưa phù hợp với giả thuyết và hoàn toàn khác xa với các nghiên cứu trước đây.
56
4.5 Hồi quy GMM
Như đã trình bày ở phần trước, trong dữ liệu của các mô hình có sự tồn tại
của hiện tượng phương sai thay đổi, đây cũng là một trong các lý do dẫn đến việc
ước lượng các mô hình bằng phương pháp tác động cố định (FEM) và tác động
ngẫu nhiên (REM) làm cho các kết quả hồi quy bị chệch và không chính xác. Mặt
khác, do hiện tượng nội sinh có thể xảy ra trong mô hình như đã đề cập trong
chương 3. Vì vậy, tác giả sẽ sử dụng phương pháp hồi quy GMM (Generalized
Method of Moments) để khắc phục hiện tương phương sai thay đổi của các mô hình
và khắc phục cả vấn đề nội sinh. Do đó, tác giả tiếp tục tiến hành bài nghiên cứu
bằng mô hình ước lượng theo phương pháp GMM và tiến hành thảo luận dựa trên
các kết quả có được.
Bảng 4.10a và 4.10b trình bày lần lượt các kết quả hồi quy về mối quan hệ
giữa sự phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ đối với sản lượng và
lạm phát theo phương pháp GMM.
Đối với bảng 4.10a, tác giả trình bày các kết quả ước lượng các hệ số cung
tiền và phát triển tài chính theo tốc độ tăng trưởng sản lượng. Kiểm tra hiện tượng
nội sinh và tự tương quan cho phương pháp GMM: thông qua Sargan test, kiểm
định Hansen trong mô hình đều có p – value là 1.0000, lớn hơn 0.1 cho thấy biến
công cụ được sử dụng phù hợp. Kiểm định AR (2) có p – value tương ứng là
0.1935, 0.1823 và 0.1931, tất cả p – value đều có giá trị lớn hơn 0.1 cho thấy mô
hình không có tương quan chuỗi bậc hai. Từ hai kiểm định này cho thấy mô hình
được sử dụng là phù hợp. Từ đó, cho thấy các mô hình này có biến công cụ được sử
dụng phù hợp và không có tương quan chuỗi bậc hai, kết quả của mô hình được sử
dụng tốt và tin cậy để phân tích mối quan hệ giữa phát triển tài chính và hiệu quả
của chính sách tiền tệ.
57
Bảng 4.10a: Kết quả ước lượng theo tăng trưởng sản lượng
Biến phụ thuộc Δyt fd2 3.950104*** fd1 3.397977*** fd3 3.30068*** Biến độc lập Constant
(0.4969549) (0.5033767) (0.4927661)
-0.3405623*** -0.3384453*** -0.3414366*** Δyt
(0.0290582) (0.0391651) (0.0287357)
0.0795172 0.2941194** 0.0767566 Δmt
(0.0556439) (0.0959638) (0.0475753)
0.2279102*** 0.16454 0.2000729*** Δmt-1
(0.0556439) (0.1416978) (0.0432413)
0.0059318 -0.1690307* 0.0191741 fdtΔmt
(0.0192222) (0.0910083) (0.0343445)
-0.0352497*** -0.0419591 -0.0487912* fdt-1Δmt-1
(0.0080067) (0.1229951) (0.0191976)
𝟏 𝒎 ∑ 𝜽𝒊 𝒊=𝟎
𝒇𝒎
0.3074274 0.4586594 0.2768295
𝟏 ∑ 𝜽𝒊 𝒊=𝟎
-0.029319 -0.260039 -0.0296171
0.0841 0.0816 0.0803 AR(1) test
0.1935 0.1823 0.1931 AR(2) test
1.0000 1.0000 1.0000 Hansen test
300 300 300 Số quan sát
Ghi chú:
Các biến được định nghĩa như trong bảng 3.1
* Có ý nghĩa ở mức 10% ** Có ý nghĩa ở mức 5% *** Có ý nghĩa ở mức 1%
Nguồn: Kết quả tính toán từ Phần mềm Stata 12 (Phụ lục)
58
Bảng 4.10b Kết quả ước lượng theo tỷ lệ lạm phát
Biến phụ thuộc Δpt fd2 2.342354** fd1 3.533816** fd3 6.088451** Biến độc lập Constant
(1.230132) (0.9618285) (2.025422)
-0.3556865*** -0.3083638*** -0.2932523* Δpt
(0.0274441) (0.0562952) (0.152994)
0.1772878*** 0.5303602** 0.0355933 Δmt
(0.0419006) (0.1707223) (0.0902165)
0.0887668 0.2582842*** 0.0456192 Δmt-1
(0.0810156) (0.0605397) (0.0740473)
-0.0152618 -0.3600643** -0.0144298 fdtΔmt
(0.0138826) (0.1720152) (0.019172)
-0.0068127 -0.1280324*** 0.0021213 fdt-1Δmt-1
(0.0207041) (0.0323553) (0.0301726)
𝟏 𝒎 ∑ 𝜱𝒊 𝒊=𝟎
𝒇𝒎
0.20649558 0.7889444 0.0812125
𝟏 ∑ 𝜱𝒊 𝒊=𝟎
-0.0220745 -0.5320795 -0.0123085
0.1768 0.1491 0.2514 AR(1) test
0.1174 0.1979 0.5911 AR(2) test
1.0000 1.0000 1.0000 Hansen test
300 300 300 Số quan sát
Ghi chú:
Các biến được định nghĩa như trong bảng 3.1
* Có ý nghĩa ở mức 10% ** Có ý nghĩa ở mức 5% *** Có ý nghĩa ở mức 1%
Nguồn: Kết quả tính toán từ Phần mềm Stata 12 (Phụ lục)
59
Bảng 4.10b trình bày các kết quả ước lượng các hệ số cung tiền và phát triển
tài chính theo tỷ lệ lạm phát. Kiểm tra hiện tượng nội sinh và tự tương quan cho
phương pháp GMM: thông qua Sargan test cho thấy không có hiện tượng nội sinh.
Để xem xét sự phù hợp của mô hình, tác giả thấy p – value trong kiểm định Hansen
test là 1.0000 và kiểm định AR (2) lần lượt là 0.1174, 0.1979, 0.5911, đều lớn hơn
0.1, cho thấy mô hình có biến công cụ được sử dụng phù hợp và không có tương
quan chuỗi bậc hai. Những kết luận này cho thấy mô hình được sử dụng là phù hợp.
Từ bảng 4.10a và 4.10b, chúng ta có thể thấy rằng, đối với các hồi quy sản
𝒎 lượng và lạm phát, tổng các hệ số cung tiền (∑ 𝜽𝒊
𝟏 𝒊=𝟎
𝒎 𝟏 , ∑ 𝜱𝒊 𝒊=𝟎
𝒇𝒎
) là tích cực đáng kể
𝟏 𝒊=𝟎
𝒇𝒎
, (tương quan dương), trong khi đó tổng các hệ số biến tương tác tài chính (∑ 𝜽𝒊
𝟏 ∑ 𝜱𝒊 𝒊=𝟎 luận chính của bài nghiên cứu, sự phát triển tài chính có tác động tiêu cực đến hiệu
) thì tiêu cực đáng kể (tương quan âm). Điều này có nghĩa rằng, với kết
quả của chính sách tiền tệ đối với tốc độ tăng trưởng sản lượng và tỷ lệ lạm phát.
Tức là hiệu quả của chính sách tiền tệ có xu hướng giảm đi khi mức độ phát triển tài
chính trở nên cao hơn và ngược lại, hiệu quả của chính sách tiền tệ sẽ rõ ràng hơn ở
mức độ phát triển tài chính thấp hơn. Đối với cả sản lượng và lạm phát, cung tiền sẽ
tăng nhiều hơn đối với các quốc gia phát triển tài chính thấp và ngược lại, cung tiền
sẽ tăng ít hơn đối với các quốc gia phát triển tài chính cao hơn. Điều đó cho thấy
tính hiệu quả của chính sách tiền tệ sẽ giảm trong nền kinh tế với hệ thống kinh tế
ngày càng phát triển. Do đó, sự tương tác giữa phát triển tài chính và hiệu quả của
chính sách tiền tệ tạo ra tỷ lệ nghịch với nhau.
Từ phương trình fd1 (bảng 4.10a), ta có thể thấy rằng tổng hệ số tiền
1 𝑚 (∑ 𝜃𝑖 𝑖=0 biến đã được chuẩn hóa, điều này hàm ý rằng khi tăng một độ lệch chuẩn trong tăng
) được ước tính là 0.3074274. Ở đây, các hồi quy được ước tính sử dụng
𝑓𝑚
trưởng cung tiền sẽ dẫn đến tăng 0. 3074274 trong tăng trưởng sản lượng trong
1 𝑖=0
) được ước
vòng bốn quý. Đồng thời, tổng hệ số của các biến tương tác (∑ 𝜃𝑖 tính là -0.029319, ngụ ý rằng khi có sự gia tăng một độ lệch chuẩn về trình độ phát
60
triển tài chính sẽ dẫn đến giảm 0.029319 trong hiệu quả của tăng trưởng cung tiền,
tương ứng giảm 9.54% (0.029319/0. 3074274=0.0954) trong hiệu của của cung tiền.
Đối với các hiệu ứng lạm phát của cung tiền, từ phương trình fd1 trong bảng
1 𝑖=0
𝑚 4.10b, chúng ta có thể thấy rằng tổng hệ số cung tiền (∑ 𝛷𝑖 0.20649558, nghĩa là khi tăng một độ lệch chuẩn trong tăng trưởng cung tiền sẽ dẫn
) được ước tính là
𝑓𝑚
đến tăng 0.20649558 đơn vị trong tỷ lệ lạm phát. Trong khi đó, tổng của các hệ số
1 𝑖=0
) được ước tính là -0.0220745, ngụ ý rằng khi có
của các biến tương tác (∑ 𝛷𝑖 một sự gia tăng độ lệch chuẩn ở mức độ phát triển tài chính sẽ dẫn đến giảm
0.0220745 độ lệch chuẩn trong hiệu quả tăng trưởng của cung tiền, tương ứng giảm
10.69% (0.0220745/0.20649558=0.1069) trong hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Ngoài ra, nhìn vào kết quả bảng 4.10a (đối với sản lượng) và 4.10b (đối với
lạm phát), ta cũng có thể thấy cùng một mối tương quan hiệu quả của chính sách
tiền tệ phụ thuộc nhiều hơn vào sự phát triển của trung gian tài chính (fd2) so với sự
phát triển của thị trường tài chính (fd3) ở cả sản lượng và lạm phát. Sở dĩ như vậy là
vì tác giả cho rằng với những ưu thế về quy mô hoạt động, tính chuyên nghiệp và
các dịch vụ tài chính đặc thù, các trung gian tài chính có khả năng khắc phục khá
hiệu quả những hạn chế của kênh tài chính trực tiếp, và do đó ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong việc lưu chuyển vốn trong nền kinh tế. Trong khi đó, ước tính
các hệ số khác trong các hồi quy, như AR(1) cũng phù hợp với các nghiên cứu
trước đây, có thêm căn cứ phù hợp với giả thuyết của bài nghiên cứu kì vọng. Đồng
thời, trong khoảng thời gian từ quý 1 năm 2008 đến quý 4 năm 2015, với các nền
kinh tế mẫu và với giai đoạn mà tác giả nghiên cứu không có quốc gia nào trải qua
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế. Do vậy, khủng hoảng kinh tế độc lập với
mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Kết quả của tác giả ban đầu khi tiếp cận phương pháp tác động cố định
(FEM) và tác động ngẫu nhiên (REM) bằng cả thiết lập thực nghiệm cơ bản và thiết
lập thực nghiệm thay thế chưa theo đúng hướng và có một vài sự trái ngược với một
vài phát hiện được báo cáo trong các bài nghiên cứu trước đây vì mẫu của tác giả
61
chỉ có 10 quốc gia tiêu biểu của châu Á so với tổng thể các quốc gia trên toàn thế
giới và được lấy trong khoảng thời gian gần đây. Mỗi khu vực có những đặc tính
phát triển đặc thù riêng và dùng những chính sách riêng phù hợp cho từng quốc gia.
Nhưng kết quả của tác giả khi hồi quy GMM lại khắc phục và phù hợp với kết quả
trong bài nghiên cứu Yong Ma và Xingkai Lin (2016) thực hiện nghiên cứu trên 41
quốc gia: (1) phát triển tài chính tác động tiêu cực đến chính sách tiền tệ (tương
quan âm trong biến tương tác tài chính) và (2) khi cung tiền tăng thì tốc độ tăng
trưởng sản lượng và lạm phát đều tăng (tương quan thuận chiều với cung tiền).
Bảng 4.11 So sánh kết quả GMM
Δy
41 quốc gia trên thế giới 10 quốc gia châu Á
2005Q1 – 2011Q4 2008Q1 – 2015Q4
fd1 fd2 fd3 fd1 fd2 fd3
0.1885 0.1649 0.1332 0.3074 0.4587 0.2768
Δmt
-0.0196 -0.0217 -0.0222 -0.0293 -0.2600 -0.0296
fdtΔmt
Δp
0.1059 0.1072 0.0458
Δmt
-0.0121 -0.0192 -0.0086
fdtΔmt
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
0.2065 -0.0221 0.7890 -0.5321 0.0812 0.0123
Nhìn chung, từ những kết quả phân tích trên cho thấy rằng có sự khác biệt về
ý nghĩa và mức độ của phát triển tài chính có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của chính
sách tiền tệ. Ngoài ra, để giải quyết vấn đề nội sinh, tác giả cũng tái ước lượng hồi
quy bằng cách sử dụng hệ thống ước lượng GMM được phát triển bởi Arellano và
Bond (1991) và Blundell và Bond (1998). Kết quả cho thấy rằng những phát hiện
chính của bài nghiên cứu là không thay đổi đáng kể bởi những kiểm tra này.
62
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN
5.1 Kết luận nghiên cứu chính
Cho dù các câu hỏi về phát triển tài chính ảnh hưởng đến hiệu quả của chính
sách tiền tệ đã ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong những
năm gần đây. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã giải thích cho câu hỏi này vẫn còn
tương đối hạn chế và kết quả dường như chưa được rõ ràng. Bài nghiên cứu về mối
quan hệ giữa sự phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ của các quốc
gia trong khu vực châu Á, tác giả thu thập một dữ liệu bảng gồm 320 quan sát tương
ứng với 10 nền kinh tế: Việt Nam, Thái Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn
Độ, Singapore, Indonesia, Hồng Kông, Isreal trong giai đoạn từ 2008 – 2015. Bài
nghiên cứu được thực hiện dựa trên mô hình dữ liệu bảng theo phương pháp GMM
và đã đạt được một số kết quả như sau:
Đầu tiên, tác giả kiểm tra mối quan hệ giữa phát triển tài chính và hiệu quả
của chính sách tiền tệ. Theo kết quả trên cho thấy, mối quan hệ giữa phát triển tài
chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ lên sản lượng và lạm phát tỷ lệ nghịch với
nhau. Kết quả của tác giả chỉ ra rằng hiệu quả của chính sách tiền tệ có tương quan
âm với phát triển tài chính. Hiệu quả của chính sách tiền tệ giảm dần khi hệ thống
tài chính trở nên phát triển hơn và ngược lại, hiệu quả của chính sách tiền tệ sẽ có
tác dụng hơn khi hệ thống tài chính kém phát triển. Phát hiện này được thể hiện
thông qua tính vững trên tất cả các phương diện khác nhau và các phương pháp ước
lượng được kiểm tra. Kết quả này phù hợp cho nghiên cứu của Yong Ma và Xingkai
Lin (2016) cho 41 nền kinh tế trên thế giới.
Ngoài kết luận tổng quát trên cho các nền kinh tế, kết quả của tác giả cũng
cho thấy rằng hiệu quả của chính sách tiền tệ đến sản lượng và lạm phát bị tác động
nhiều hơn bởi sự phát triển của trung gian tài chính so với thị trường tài chính.
Mặc dù kết quả thực nghiệm của tác giả hỗ trợ cho lập luận rằng hiệu quả
của chính sách tiền tệ có thể giảm xuống khi hệ thống tài chính trở nên phát triển
hơn, nền tảng lý thuyết cho rằng mối quan hệ này phần lớn vẫn vắng mặt do thiếu
63
các mô hình nền tảng kinh tế vi mô mà có thể nắm bắt được các tương tác giữa phát
triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ. Vì vậy, làm thế nào để xây dựng
nền tảng vi mô cho các phân tích chính sách tiền tệ và phát triển tài chính sẽ là một
lĩnh vực thú vị của các nghiên cứu trong tương lai. Về vấn đề này, một cái nhìn sâu
sắc hơn về cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ trong bối cảnh của một mô hình nền
tảng vi mô rằng tác động nội sinh của phát triển tài chính có thể cung cấp một
hướng đi vững chắc hơn cho các bước tiếp theo sẽ được thực hiện trong các nghiên
cứu thực nghiệm.
Tóm lại, bài nghiên cứu này đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm về ảnh
hưởng của sự phát triển tài chính đến hiệu quả của chính sách tiền tệ với kết quả cho
rằng mối quan hệ giữa phát triển tài chính và chính sách tiền tệ lên sản lượng và lạm
phát là tỉ lệ nghịch, phát triển tài chính càng cao thì hiệu quả của chính sách tiền tệ
sẽ càng giảm đi và ngược lại, khi phát triển tài chính giảm xuống thì chính sách tiền
tệ có xu hướng ảnh hưởng hiệu quả hơn.
5.2 Hạn chế đề tài
Bài nghiên cứu mặc dù đã có những đóng góp có ý nghĩa về mặt lý luận và
thực tiễn về mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền
tệ, nhưng bên cạnh đó bài nghiên cứu vẫn còn tồn tại một vài hạn chế nhất định.
Thứ nhất, bài nghiên cứu thực hiện dựa trên mẫu là một số nền kinh tế ở
châu Á. Do đó, mẫu dữ liệu của bài nghiên cứu tương đối thấp, điều đó dẫn đến kết
quả của bài nghiên cứu có thể không mang tính đại diện cao cho tất cả các quốc gia
ở khu vực châu Á. Việc lấy dữ liệu theo tần suất quý của các quốc gia trong thời
gian dài không có đủ dữ liệu do vậy dã hạn chế rất nhiều đến số mẫu quan sát được.
Do đó làm cho kết quả nghiên cứu của tác giả chỉ mang tính chất tương đối.
Thứ hai, bài nghiên cứu của tác giả được thực hiên trong khoảng thời gian 8
năm từ 2008 từ quý 1 năm 2008 đến quý 4 năm 2015 là tương đối ngắn, đề tài
nghiên cứu rất hạn chế về số liệu nên chưa có điều kiện so sánh các kết quả thực
nghiệm. Việc so sánh với kết quả thực nghiệm về vấn đề này với các nghiên cứu thế
64
giới thì vẫn còn nhiều hạn chế vì đặc điểm và tính chất của các nước khác nhau là
không giống nhau nên việc so sánh với các kết quả này chỉ mang tính đối chiếu chứ
chưa giải thích hết bản chất của vấn đề đặt ra.
Thứ ba, bài nghiên cứu được thực hiện tại nhiều quốc gia khác nhau, mỗi
quốc gia có mỗi nền kinh tế khác nhau, thể chế chính trị khác nhau và mức độ phát
triển kinh tế không tương đồng nhau, điều này cũng là một trở ngại không nhỏ trong
việc đưa ra kết quả khi nghiên cứu tác động của các nhân tố vĩ mô đến chính sách
tiền tệ tại mỗi quốc gia.
5.3 Hướng nghiên cứu tiếp theo
Trong tương lai, tác giả mong rằng sẽ cải thiện được những hạn chế trên sao
cho kết quả nghiên cứu mang tính thuyết phục và đáng tin cậy nhất, đặc biệt có tính
đại diện cao cho các nền kinh tế khu vực châu Á. Đối với những bài nghiên cứu tiếp
theo, tác giả sẽ nghiên cứu theo các hướng sau:
Thứ nhất, để khắc phục hạn chế do mẫu nghiên cứu nhỏ, không mang tính
đại diện cao, tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu trên một mẫu lớn hơn.
Thứ hai, nghiên cứu mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và hiệu quả của
chính sách tiền tệ ở các giai đoạn khác nhau của các nền kinh tế khu vực châu Á để
xem xét kết quả thay đổi như thế nào. Cụ thể, tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu trên
hai giai đoạn trước và sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Từ bài nghiên cứu này, tác giả hy vọng rằng những kết quả từ bài nghiên cứu
này sẽ phần nào cho thấy được mối liên hệ giữa phát triển tài chính và hiệu quả của
chính sách tiền tệ ở các quốc gia thuộc khu vực châu Á trong khoảng thời gian từ
2008 đến 2015. Qua đó cũng định hướng được cho các bài nghiên cứu tiếp theo khi
mức độ phát triển của các quốc gia có tính tương đồng cao hơn và nguồn dữ liệu
quan sát đầy đủ và tin cậy hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chu Khánh Lân (2016). Truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng của các Ngân hàng
thương mại Việt Nam. Đề tài Nghiên cứu khoa học. Học viện Ngân hàng.
Hoàng Thị Phương Anh và Đinh Tấn Danh (2015). Tác động của phát triển tài chính đến
phát triển kinh tế: Bằng chứng tại các quốc gia khu vực châu Á. Tạp chí Phát triển và Hội
nhập. Số 16 (26), trang 21-26.
Nguyễn Thị Liên Hoa - Lê Trung Hiếu - Lê Nguyên, 2015. Mối quan hệ giữa phát triển tài
chính và tăng trưởng kinh tế: Bằng chứng thực nghiệm từ các nước châu Á. Tạp chí Công
nghệ Ngân hàng. Số112.
Sử Đình Thành – Vũ Minh Hằng, 2008. Nhập môn Tài chính tiền tệ. Nhà xuất bản Lao
Động Xã Hội, 2008.
Trầm Thị Xuân Hương – Võ Xuân Vinh – Nguyễn Phúc Cảnh, 2014. Truyền dẫn của
chính sách tiền tệ: Một số mô hình kiểm định phù hợp. Tạp chí Nghiên cứu & Trao đổi, Số
16 – Tháng 05 – 06/2014, 41 – 46.
TIẾNG VIỆT
Alpanda, S., Aysun, U., 2012. “Global banking and the balance sheet channel of monetary
transmission.” International Journal of Central Banking 8 (3), 141–175.
Arellano, M., Bond, S., 1991. “Some tests of specification for panel data: monte carlo
evidence and an application to employment equations.” Review of Economic Studies 58,
277–297.
Ashcraft, A., Campello, M., 2007. “Firm balance sheets and monetary policy
transmission.” Journal of Monetary Economics 54, 1515–1528.
Aysun, U., Brady, R., Honig, A., 2013. “Financial frictions and the strength of monetary
transmission.” Journal of International Money and Finance 32, 1097–1119.
Aysun, U., Hepp, R., 2011. “Securitization and the balance sheet channel of monetary
transmission.” Journal of Banking & Finance 35 (8), 2111–2122.
Bernanke, B., Gertler, M., 1995. “Inside the black box: the credit channel of monetary
policy transmission.” Journal of Economic Perspectives 9, 27–48.
TIẾNG ANH
Blundell, R., Bond, S., 1998. “Initial conditions and moment restrictions in dynamic panel-
data models.” Journal of Econometrics 87, 115–143.
Cecchetti, S., 1999. “Legal structure, financial structure, and the monetary policy
transmission mechanism.” Federal Reserve Bank of New York Economic Policy Review 5
(2), 9–28.
Cetorelli, N., Goldberg, L., 2012. “Banking globalization and monetary transmission.”
Journal of Finance 67 (5), 1811–1843.
Ciccarelli, M., Maddaloni, A., Peydró, J., 2015. “Trusting the bankers: a new look at the
credit channel of monetary policy.” Review of Economic Dynamics 18 (4), 979–1002.
Djankov, S., Hart, O., McLiesh, C., Shleifer, A., 2008. “Debt enforcement around the
world.” Journal of Political Economy 116 (6), 1105–1149.
Djankov, S., McLiesh, C., Shleifer, A., 2007. “Private credit in 129 countries.” Journal of
Financial Economics 84, 299–329.
Elbourne, A., de Haan, J., 2006. “”Financial structure and monetary policy transmission in
transition countries. Journal of Comparative Economics 34, 1–23.
Gomez, E., Vasquez, D., and Zea, C., 2005. “Derivative Markets’ Impact on Colombian
Monetary Policy.” Banco de la Republica Colombia Working Paper.
Gurley, J., Shaw, E., 1955. “Financial aspects of economic development.” American
Economic Review 45, 515–538.
Gurley, J., Shaw, E., 1967. “Financial structure and economic development.” Economic
Development and Cultural Change 15, 257–268.
Hassan, M., Sanchezb, B., Jung-Suk, Y., 2011. Financial development and economic
growth: new evidence from panel data. Quarterly Review of Economics and
Finance 51 (1), 88–104.
Hendry, D., Ericsson, N., 1991. “Modeling the demand for narrow money in the United
Kingdom and the United States.” European Economic Review 35 (4), 833–881.
Karras, G., 1999. “Openness and the effects of monetary policy.” Journal of International
Money and Finance 18, 13–26.
Kashyap, A., Stein, J., 2000. “What do a million observations on banks say about the
transmission of monetary policy?” American Economic Review 90, 407–428.
Laeven, L. and Valencia, F., 2012.” Systemic Banking Crises Database: An Update.” IMF
Working Papers 12/163, International Monetary Fund.
La Porta, R., Lopez-de Silanes, F., Shleifer, A., Vishny, R., 1997. “Legal determinants of
external finance. Journal of Finance 52, 1131–1150.
La Porta, R., Lopez-de Silanes, F., Shleifer, A., Vishny, R., 1998. “Law and finance.”
Journal of Political Economy 106, 1113–1155.
Levine, R., 1997. “Financial development and economic growth: views and agenda.”
Journal of Economic Literature 35 (2), 688–726.
Levine, R., 1998. “The legal environment, banks, and long-run economic growth.” Journal
of Money, Credit and Banking 30, 596–613.
Levine, R., 2002. “Bank-based or market-based financial systems: which is better?”
Journal of Financial Intermediation 11, 398–428.
Levine, R., 2005. “Finance and growth: theory and evidence.” In: Aghion, Philippe,
Durlauf, Steven N. (Eds.), Handbook of Economic Growth. Elsevier, North Holland, pp.
866–934.
Loutskina, E., Strahan, P., 2009. “Securitization and the declining impact of bank finance
on loan supply: evidence from mortgage originations.” Journal of Finance 64, 861–889.
Mishra, P., Montiel, P. and Spilimbergo, A., 2010. “Monetary Transmission in Low
Income Countries.” IMF Working paper 10/223.
Mullineux, A., 1994. “Financial innovation and monetary policy in the UK.” Review of
Policy Issues 1 (2), 29–44.
Taylor, M., 1987. “Financial innovation, inflation and the stability of the demand for broad
money in the United Kingdom.” Bulletin of Economic Research 39 (3), 225–233.
PHỤ LỤC
Kết quả chạy thống kê mô tả và các mô hình hồi quy của đề tài trên phần mềm Stata
Kết quả bảng 4.2: Thống kê mô tả các biến mẫu tổng thể
Kiểm định vấn đề đa cộng tuyến của các biến sử dụng trong mô hình
Kết quả bảng 4.4
Mô hình 1
Mô hình 2
Mô hình 3
Mô hình 4
Mô hình 5
Mô hình 6
Kết quả bảng 4.5
Mô hình 1
Mô hình 2
Mô hình 3
Mô hình 4
Mô hình 5
Mô hình 6
Kết quả bảng 4.6a
Kết quả bảng 4.6b
Kết quả bảng 4.7a
Kết quả bảng 4.8a
Kết quả bảng 4.8b
Kết quả bảng 4.9a
Kết quả bảng 4.9b
Kết quả bảng 4.10a
Kết quả bảng 4.10b