BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN XUÂN VINH
TÁC ĐỘNG CỦA ĐỘ MỞ NỀN KINH TẾ ĐẾN
LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN XUÂN VINH
TÁC ĐỘNG CỦA ĐỘ MỞ NỀN KINH TẾ ĐẾN
LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã ngành: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn: TS. NGUYỄN HỮU HUY NHỰT
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học do chính tôi
thực hiện. Các thông tin về số liệu sử dụng trong luận văn này được trích dẫn đầy
đủ tại danh mục tài liệu tham khảo và hoàn toàn trung thực, chính xác.
Học viên
Nguyễn Xuân Vinh
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIỀT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH VẼ
PHẦN 1: GIỚI THIỆU ............................................................................................ 1
1.1 Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu: ................................................. 2
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................... 2
1.2.1 Câu hỏi nghiên cứu ......................................................................................... 2
1.3 Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu: ............................................... 2
1.4 Phương pháp nghiên cứu: .................................................................................. 3
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC
ĐỘNG ĐẾN LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM ............................................................ 4
2.1 Tình hình lạm phát và biện pháp kiềm chế lạm phát tại Việt Nam trong thời gian
qua. 4
2.2. Các yếu tố vĩ mô tác động đến lạm phát .......................................................... 10
2.2.1. Tăng trưởng kinh tế ..................................................................................... 10
2.2.2. Thâm hụt ngân sách (bội chi ngân sách)....................................................... 14
2.2.3 Kim ngạch xuất nhập khẩu ............................................................................ 17
2.2.4. Tỷ giá hối đoái ............................................................................................. 19
PHẦN 3: CÁC BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
LẠM PHÁT VÀ ĐỘ MỞ NỀN KINH TẾ ............................................................. 22
3.1 Các nghiên cứu trên thế giới: ...................................................................... 22
3.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam: ..................................................................... 24
PHẦN 4 : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................... 27
4.1. Mô hình nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu ..................................................... 27
4.1.1 Mô hình nghiên cứu ...................................................................................... 27
4.1.2. Dữ liệu nghiên cứu ...................................................................................... 27
4.1.2.1. Nguồn dữ liệu: .......................................................................................... 27
4.1.2.2. Mô tả dữ liệu: ........................................................................................... 27
4.2 Phương pháp thực nghiệm ............................................................................... 30
4.2.1 Kiểm định tính dừng: .................................................................................... 31
4.2.2 Xác định độ trễ tối ưu: ................................................................................ 35
4.2.3 Kiểm định đồng liên kết (Cointegration Tests). ............................................. 36
4.2.4. Ước lượng mô hình VECM .......................................................................... 37
4.2.5. Kết quả ước lượng mô hình VECM với biến ngoại sinh là LER ................... 43
4.3 Thảo luận kết quả ............................................................................................ 46
PHẦN 5: KẾT LUẬN ........................................................................................... 49
5.1 Kết luận ........................................................................................................... 49
5.2 Hạn chế của đề tài ............................................................................................ 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
IMF: Quỹ Tiền tệ Quốc tế
ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á
ADF Test: Augmented Dickey- Fuller Test – Kiểm định DF mở rộng
CPI: Chỉ số giá tiêu dùng
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
GSO: Tổng cục Thống kê Việt Nam
LP: Lạm phát
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHTW: Ngân hàng trung ương
NSNN: Ngân sách nhà nước
THNS: Thâm hụt ngân sách
USD: Đô la Mỹ.
VECM: Mô hình hiệu chỉnh sai số véc tơ
VND: Đồng Việt Nam
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
XNK: Xuất nhập khẩu
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Lạm phát Việt Nam và các nước trong khu vực từ năm 2000-2012
Bảng 2.2: Số liệu lạm phát và tăng trưởng GDP của Việt Nam từ năm 2000-2012
Bảng 2.3: Tốc độ tăng trưởng GDP các nước trong khu vực (%)
Bảng 2.4: Số liệu lạm phát và tỷ lệ THNS / GDP của Việt Nam từ năm 2000- 2012
Bảng 2.5: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách / GDP của một số nước trong khu vực
Bảng 2.6: Tình hình XNK của Việt Nam từ năm 2000-2012
Bảng 2.7: Kim ngạch XNK/GDP của một số nước trong khu vực
Bảng 4.1 Số liệu chạy mô hình
Bảng 4.2: Kiểm định tính dừng của các biến
Bảng 4.3: Bảng tổng hợp kết quả kiểm định tính dừng của các biến
Bảng 4.4: Độ trễ tối ưu
Bảng 4.5: Bảng Kiểm định đồng liên kết (Cointegration Tests).
Bảng 4.6: Kết quả mô hình VECM
Bảng 4.7: Xác định độ trễ tối ưu với biến ngoại sinh là LER
Bảng 4.8: Kiểm định đồng liên kết với biến ngoại sinh là LER
Bảng 4.9: Kết quả ước lượng mô hình VECM với biến ngoại sinh là LER
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1: Lạm phát Việt Nam và các nước trong khu vực từ năm 2000-2012
Hình 2.2: Đồ thị lạm phát và tăng trưởng GDP của Việt Nam từ năm 2000-2012
Hình 2.3: Đồ thị tốc độ tăng trưởng GDP các nước trong khu vực
Hình 2.4: Đồ thị lạm phát và tỷ lệ THNS / GDP của Việt Nam từ năm 2000- 2012
Hình 2.5: Đồ thị tỷ lệ thâm hụt ngân sách /GDP của một số nước trong khu vực
Hình 2.6: Đồ thị tình hình XNK của Việt Nam từ năm 2000-2012
Hình 2.7: Đồ thị kim ngạch XNK/GDP của một số nước trong khu vực
Bảng 2.8 Tỷ lệ biến động tỷ giá và lạm phát tại Việt Nam từ năm 2000-2012
Hình 2.8: Đồ thị tỷ lệ biến động tỷ giá và lạm phát tại Việt Nam từ năm 2000-2012
1
PHẦN 1: GIỚI THIỆU
1.1 Lý do chọn đề tài
Lạm phát là vấn đền nan giải trong đời sống kinh tế - xã hội và trong điều
hành kinh tế vĩ mô bởi hậu quả của lạm phát rất nặng nề và làm phai mờ các thành
tựu kinh tế đã đạt được. Việc kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô là một trong những
mục tiêu quan trọng trong việc điều hành kinh tế của Việt Nam trong những năm
vừa qua.
Trong những năm 1980 và đầu những năm 1990 Việt Nam đã trải qua giai
đoạn lạm phát phi mã. Trong thập kỷ 90, lạm phát trung bình 20,18%/năm và được
giữ ở mức thấp và ổn định trong những năm đầu thiên nhiên kỷ mới. Tuy nhiên lạm
phát đã bùng lên mạnh mẽ từ năm 2007 chỉ sau một năm gia nhập WTO đưa Việt
Nam trở thành một nước có mức lạm phát cao nhất trong khu vực. Việc kiềm chế
lạm phát trong điều kiện kinh tế khác hẳn thời kỳ những năm 80 và 90 là một thách
thức lớn đối với các nhà quản lý kinh tế Việt Nam.
Từ năm 1986 Việt Nam bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa hội nhập với kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế
quốc tế là một xu thế tất yếu, không một quốc gia hay lãnh thổ nào có thể phát triển
nếu đứng ngoài xu thế này. Tuy nhiên việc hội nhập kinh tế nhanh và mạnh đối với
một nền kinh tế còn thiếu tiềm lực vừa mới xoá bỏ cơ chế bao cấp bước sang kinh tế
thị trường đã dẫn đến những bất ổn kinh tế triền miên. Kể từ khi Việt Nam chính
thức chuyển sang nền kinh tế thị trường và mở cửa giao thương với thế giới, đặc
biệt sau khi Hoa Kỳ dỡ bỏ cấm vận thương mại với Việt Nam 1994 và bình thường
hoá quan hệ năm 1995; Hiệp định thương mại Việt Mỹ năm 2000 và sự kiện Việt
Nam gia nhập WTO năm 2007 đã đánh dấu một bước tăng trưởng mạnh mẽ của
Việt Nam. Cùng với những thành tựu đạt được kinh tế Việt Nam luôn phải đối diện
với những bất ổn thường xuyên, giá trị nhập khẩu luôn luôn tăng nhanh hơn xuất
khẩu dẫn đến cán cân thương mại luôn bị thâm hụt từ mức 348 triệu USD năm 1990
lên đỉnh điểm 18 tỷ USD năm 2008 cùng với đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào Việt
Nam tăng mạnh gây sức ép lên tỷ giá. Mô hình tăng trưởng dựa vào vốn và đầu tư
2
công làm cho thâm hụt ngân sách ngày càng trầm trọng từ mức trung bình 3,56%
giai đoạn năm 1990-2000 lên mức 5.19% / GDP giai đoạn 2001-2012. Để tài trợ
cho thâm hụt ngân sách chính phủ tăng cung tiền và tăng vay nợ. Các yếu tố trên đã
tác động mạnh đến tình hình lạm phát của Việt Nam.
Có phải việc mở cửa hội nhập sâu rộng vào kinh tế quốc tế đã tác động đến
lạm phát tại Việt Nam? Luận văn “Tác động của độ mở nền kinh tế đến lạm phát
tại Việt Nam” nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và “độ mở” của nền kinh tế
(chủ yếu đo lường bằng yếu tố kim ngạch xuất nhập khẩu) giúp các nhà quản lý
kinh tế có thể xác định các nguyên nhân gây ra lạm phát trong điều kiện hội nhập từ
đó đưa ra những quyết sách đúng đắn nhằm kiềm chế lạm phát và khai thác hiệu
quả lợi ích của hội nhập kinh tế sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu:
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Khi lạm phát tăng cao trong giai đoạn 2010-2011 có nhiều ý kiến cho rẳng lạm
phát trong giai đoạn này do biến động của giá cả thế giới. Tuy nhiên nhiều quốc gia
trong khu vực như: Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippinnes… lại không có lạm
phát cao như Việt Nam. Bài nghiêu cứu này sẽ cung cấp thêm một số luận cứ nhằm
xác định rõ vai trò của độ mở nền kinh tế đối với lạm phát, một yếu tố quan trọng
trong điều hành kinh tế vĩ mô, trong giai đoạn 2000-2012 tại Việt Nam từ đó đưa ra
những kiến nghị nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô.
1.2.1 Câu hỏi nghiên cứu
Đề đạt được mục tiêu nghiên cứu, bài nghiên cứu này phải trả lời được các câu
hỏi:
Có mối quan hệ nào giữa độ mở nền kinh tế và lạm phát, độ mở có tác động
cùng chiều hay ngược chiều đến lạm phát tại Việt Nam?
Các yếu tố đặc thù của từng quốc gia như: thâm hụt ngân sách, tỷ giá, GDP tác
động hay không và tác động như thế nào đến tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam?
1.3 Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu:
3
Nghiên cứu về lạm phát tại Việt Nam dưới tác động của các yếu tố: thâm hụt
ngân sách, tỷ giá, kim ngạch xuất nhập khẩu, GDP
Thời gian nghiên cứu: từ quý 1 năm 2000 đến quý 4 năm 2012
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng qua mô hình kinh tế lượng.
Kế thừa các phương pháp và kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong
và ngoài nước, bài nghiên cứu sử dụng mô hình véctơ hiệu chỉnh sai số VECM để
nghiên cứu mối quan hệ lạm phát và thâm hụt ngân sách, tỷ giá, kim ngạch xuất
nhập khẩu, GDP ở Việt Nam thời kỳ quý 1 năm 2000 – quí 4 năm 2012.
4
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VÀ CÁC
YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM
2.1 Tình hình lạm phát và biện pháp kiềm chế lạm phát tại Việt Nam trong
thời gian qua.
2.1.1 Tình hình lạm phát
Việt Nam đã trải qua giai đoạn siêu lạm phát trong những năm 1980 và đầu
những năm 1990 ngay khi bắt đầu những cải cách kinh tế đầu tiên. Ngoại trừ giai
đoạn 2000-2003 khi lạm phát thấp và ổn định ở mức 5% trở xuống, tỷ lệ lạm phát ở
Việt Nam thường xuyên cao hơn, lạm phát kéo dài lâu hơn và biến động mạnh hơn
so với lạm phát ở các nước trong khu vực. Những sự kiện gần đây như Việt Nam
gia nhập WTO, nguồn vốn nước ngoài đột ngột chảy mạnh vào Việt Nam trong hai
năm 2007-2008, các vấn đề của thị trường ngoại hối Việt Nam trong hai năm 2009
và 2010 và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cũng như nguy cơ lạm phát tăng
mạnh trở lại đã đặt ra nhiều thách thức mới cho việc quản lý kinh tế vĩ mô và đặc
biệt trong việc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam.
Trong nửa cuối những năm 1980 Việt Nam đã trải qua siêu lạm phát (trung
bình 300%/năm) và đầu những năm 1990 với tỷ lệ trên 50%/năm. Những nguyên
nhân cơ bản của tình trạng này là điều kiện thời tiết bất lợi, thiết hụt lương thực; tốc
độ tăng trưởng trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp chậm chạp và hệ thống tài
chính yếu kém.
Để kiềm chế lạm phát, ngân hàng Nhà nước đã tích cực thực hiện chính sách
thắt chặt tiền tệ và giữ tỷ giá cố định với đôla Mỹ . Kết quả là lạm phát bắt đầu giảm
xuống dưới 20% năm 1992 và 5,2% vào năm 1993. Tiếp nối thành tựu đó chính phủ
tiếp tục thực hiện chính sách vĩ mô thận trọng cùng với những cải cách sâu rộng
nhằm tự do hóa giá cả trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa giao thương
với thế giới. Giai đoạn sau năm 1995 tỷ lệ lạm phát ở mức thấp thậm chí giảm phát
vào năm 2000 (khoảng 0.6%).
Giai đoạn cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000 cuộc khủng hoảng
tài chính Châu Á xảy ra làm cho giá cả thế giới giảm mạnh, đây là nguyên nhân
5
chính làm cho lạm phát của Việt Nam vẫn giữ được mức thấp mặc dù phá giá tiền tệ
khoảng 36% và tín dụng tăng rất cao (khoảng 30-40%/năm)
Sau giai đoạn ổn định ở mức thấp này lạm phát bắt đầu tăng trở lại lên mức
9,5% vào năm 2004 cao hơn rất nhiều so với mục tiêu 6% do chính phủ đề ra. Lo
lắng về nguy cơ lạm phát trở lại, NHNN bắt đầu thắt chặt tiền tệ và giữ tỷ giá cố
định như thời gian đầu những năm 1990. Tuy nhiên, sự thành công không lặp lại,
lạm phát sau khi giảm nhẹ trong năm 2005 (8,4%) và 2006 (6,6%) đã tăng mạnh lên
12,6% trong năm 2007 và đỉnh điểm là 29,89% trong năm 2008.
Nguyên nhân của lạm phát trong giai đoạn 2007-2008 là do sự gia tăng mạnh
của mức lương tối thiểu, sự gia tăng giá cả hàng hóa quốc tế, chính sách tiền tệ lỏng
lẻo và kém linh hoạt, chính sách quản lý tỷ giá cứng nhắc, sự mở cửa của Việt Nam
với thế giới từ khi gia nhập WTO khiến cho luồng vốn đầu tư gián tiếp đổ vào mạnh
mẽ đẩy giá chứng khoán và tài sản lên cao. Mức cung tiền năm 2007 tăng 47%/năm
và tín dụng tăng trưởng 54%/năm.
Cuộc khủng khoảng kinh tế thế giới năm 2008-2009 làm cho giá cả quốc tế
cùng với tổng cầu giảm góp phần làm giảm lạm phát tại Việt Nam từ cuối năm
2009. Tuy nhiên năm 2010 lạm phát tăng trở lại với mức 11,75%, năm 2011 tăng
lên 18,58%. Các nguyên nhân chủ yếu do giá cả nhiều yếu tố đầu vào như giá than,
giá điện, giá xăng đồng loạt điều chỉnh tăng; thâm hụt thương mại kéo dài nhiều
năm, tình trạng bội chi ngân sách cùng với gói kích cầu trị giá 8 tỷ USD; cơ cấu
tăng trưởng kinh tế dựa vào vốn và đầu tư công kém hiệu quả.
Nhìn chung tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam là cao và bất ổn. Năm 2008 là năm
đánh dấu mức lạm phát cao nhất và dao động mạnh nhất ở Việt Nam trong suốt thập
kỷ qua. Việt Nam vẫn có những nguy cơ tiềm tàng khiến cho lạm phát vẫn có thể
tiếp tục tăng cao: giá cả một số mặt hàng thiết yếu như điện, xăng dầu vẫn bị kiểm
soát và chưa minh bạch; VND vẫn đang chịu áp lực mất giá; giá cả các mặt hàng
nhập khẩu đặc biệt từ Trung Quốc có xu hướng tăng do nền kinh tế bắt đầu xuất
hiện những yếu kém sau ba thập kỷ tăng trưởng mạnh; áp lực nới lỏng tiền tệ đang
gia tăng.
6
Bảng 2.1: Lạm phát Việt Nam và các nước trong khu vực từ năm 2000-2012
(Nguồn: ADB và GSO)
Năm
Thailand Viet Nam 1.60 1.60 0.70 1.80 2.70 4.50 4.70 2.30 5.50
25.00
20.00
15.00
Indonesia
Malaysia
Philippines
10.00
Thailand
Viet Nam
5.00
-
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 0 0 2
5 0 0 2
6 0 0 2
7 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
1 1 0 2
2 1 0 2
-5.00
Indonesia Malaysia 1.50 1.40 1.80 1.10 1.50 2.90 3.60 2.00 5.40 0.60 1.70 3.20 1.60 9.30 12.50 10.00 6.80 6.10 10.50 13.50 6.40 9.80 4.80 5.10 5.40 4.30 Philippines 6.70 5.30 2.70 2.30 4.80 6.50 5.50 2.90 8.30 4.20 3.80 4.60 3.20 -0.60 0.80 4.00 3.00 9.50 8.40 6.60 12.60 19.89 -0.90 6.52 11.75 18.58 6.81 3.30 3.80 3.00 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Hình 2.1: Lạm phát Việt Nam và các nước trong khu vực từ năm 2000-2012
(Nguồn: ADB và GSO)
7
Lạm phát Việt Nam vào năm 2000 có xuất phát điểm thấp hơn các nước, tuy
nhiên lạm phát có xu hướng tăng đều qua các năm, mức lạm phát tăng cao, biến
động mạnh và kéo dài nhất trong các quốc gia.
2.1.2 Các biện pháp kiềm chế lạm phát
Để đối phó với lạm phát Chính phủ đã áp dụng nhiều giải pháp kiềm chế,
nhiều chính sách khác nhau và thay đổi mục tiêu ưu tiên theo các thời kỳ, cụ thể
như sau:
Giai đoạn 2007 – 2008 – giai đoạn nhằm mục tiêu ổn định vĩ mô, kiềm chế tốc
độ gia tăng lạm phát và tăng trưởng nóng:
Với đà tăng trưởng GDP năm 2007 ở mức cao 8,46%/năm kèm theo tỷ lệ lạm
phát hai con số là 12,6% (tháng 12/2007 so với cùng kỳ năm trước), thêm vào đó là
tác động của sự bất ổn kinh tế thế giới và thiệt hại nặng nề do thiên tai dịch bệnh
trong năm 2007 đã làm cho lạm phát năm 2008 tăng cao. Trước nguy cơ đó thì
Chính phủ đã đưa ra 8 nhóm giải pháp chính nhằm kiềm chế mức tăng của giá cả,
ổn định kinh tế vĩ mô. Sơ lược một số nhóm giải pháp chủ yếu đã được áp dụng là:
Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt: mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ
tín dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là
nguyên nhân quan trọng gây ra lạm phát trong giai đoạn này. Do đó Chính phủ chủ
trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay
từ đầu năm 2008. Chính phủ đã sử dụng các công cụ để thắt chặt tiền tệ như: tăng
tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mở rộng diện tiền gửi phải dự trữ bắt buộc ở tất cả các kỳ
hạn; phát hành 2.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc của NHNN và quy định các tín
phiếu này không được sử dụng để vay tái cấp vốn tại NHNN; lãi suất cơ bản được
điều chỉnh lên mức 12% rồi 14%, hệ thống lãi suất điều hành gồm cặp lãi suất tái
cấp vốn và lãi suất chiết khấu cũng được điều chỉnh tăng lên 15% và 13%; khống
chế hạn mức tín dụng và yêu cầu kiểm soát chặt những lĩnh vực cho vay có rủi ro
cao, đặc biệt cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán và bất động sản.
8
Chính sách tài khóa thắt chặt: cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên
của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp
Nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách.
Đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu: Chính phủ chủ trương áp dụng tỷ giá
linh hoạt với biên độ thích hợp, phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường giúp cho
việc kiềm chế lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, bảo đảm việc
mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi. Ngân hàng Nhà nước đảm bảo đủ
vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu cho từng trường
hợp cụ thể; tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu;
cải cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi
phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu
Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù
hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế
các mặt hàng không thiết yếu.
Với chính sách tiền tệ thắt chặt giai đoạn 2007 – 2008 thì đến tháng 5/2008
tổng phương tiện thanh toán tăng 3,73% so với cuối năm 2007, thấp hơn so với mức
tăng 17,57% của cùng kỳ năm trước. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng tăng 18,42% tuy
cao so với tốc độ tăng 13,36% của cùng kỳ năm trước nhưng có xu hướng giảm dần
(tháng 1/2008 là 6,3%, tháng 2/2008 là 2,35%, tháng 3/2008 là 3,78%, tháng 4/2008
là 3,36% và tháng 5/2008 là 2,25%). So với năm 2007 tốc độ tăng M2 cả năm 2008
là 19% so với dự toán, dư nợ tín dụng tăng 25,4% thấp hơn nhiều so với năm
2007 với 39% và 56% tương ứng. Bên cạnh đó, mặc dù đã áp dụng chính sách tài
khóa thắt chặt nhưng tổng chi tiêu của Chính Phủ thực hiện trong năm 2008 vẫn
vượt 19% so với dự toán, tăng hơn 22% so với thực hiện năm 2007 và chiếm
31,75% GDP. Tăng trưởng kinh tế năm 2008 đạt 6,31% và tốc độ tăng CPI là
22,97%. Các chính sách kiềm chế lạm phát được sử dụng năm 2008 đã phát huy tác
dụng của nó vào năm 2009, cộng với tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu từ
cuối năm 2008 đã tác động đến kinh tế Việt Nam đã làm cho tăng trưởng GDP và
9
lạm phát của Việt Nam giảm xuống. Tuy nhiên với nỗ lực kích cầu của Chính Phủ
trong năm 2009 thì tốc độ tăng GDP đạt 5,32% và tốc độ tăng CPI là 6,88%.
Giai đoạn 2010 – giai đoạn thực hiện chính sách vĩ mô thận trọng nhằm ổn
định và duy trì mục tiêu tăng trưởng năm 2010.
Theo định hướng ban đầu, trong giai đoạn này Chính phủ thực hiện chính sách
tài chính, tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và
bảo đảm tăng trưởng. Khoảng nửa đầu năm 2010, chính sách tiền tệ tuân thủ định
hướng hạn chế tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng (mục tiêu tăng trưởng dư nợ tín
dụng là 25% và M2 là 20%), kiểm soát rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng và cơ
cấu dư nợ. Tuy nhiên đến hết nửa đầu năm 2010, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng
chỉ có hơn 10%, hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng căng thẳng thanh khoản hệ
thống, các ngân hàng thiếu nguồn nội tệ cho nhu cầu vay, tỷ lệ sử dụng vốn ở thị
trường thứ cấp lớn. Trước tình trạng đó Chính phủ đã quay lại với giải pháp nới
rộng cung tiền bằng các công cụ như: giữ ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu
và lãi suất tái cấp vốn ở mức lần lượt 8%, 6%, 8%/năm đến tháng 10/2009, sau đó
đã tăng thêm 1%/năm với các mức lãi suất điều hành, ấn định lãi suất huy động vốn
bằng VND không quá 14%/năm; nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt,
chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá ngắn hạn; tăng khối lượng cho vay tái cấp vốn,
hỗ trợ thanh khoản trực tiếp cho các NHTM có quy mô nhỏ nhằm ổn định thị
trường.
Kết quả là, với các giải pháp nới rộng cung tiền vào nửa cuối năm 2010 đã đẩy
dư nợ tín dụng tăng tới 18% và đưa tổng mức dư nợ tín dụng tăng tới gần 28% so
với năm 2009. Các giải pháp nới rộng cung tiền kết hợp với chính sách tài khóa mở
rộng đã làm cho cả 2 mục tiêu tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát của năm 2010
đều vượt chỉ tiêu của Quốc hội: tốc độ tăng trưởng vượt 104% và tỷ lệ lạm phát
vượt 168%.
Giai đoạn 2011 – giai đoạn ưu tiên ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát:
Bước sang năm 2011 thì lạm phát cao đã trở lại, lạm phát cuối năm 2010 đã ở
mức 2 con số, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2010 so với tháng 12/2009 tăng
10
11,75%. Trước tình hình đó thì Chính phủ đã đưa ra mục tiêu cho năm 2011 là tăng
cường ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Chính sách tiền tệ thắt chặt
với mục tiêu là dư nợ tín dụng tăng trưởng dưới 20%, M2 tăng khoảng 15-16%.
Song song đó là thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt. Các giải pháp cắt giảm chi
tiêu công được đưa ra khá quyết liệt: không kéo dài thời gian giải ngân, không ứng
trước kế hoạch năm 2012 vốn ngân sách và trái phiếu chính phủ, giảm 32% vốn trái
phiếu chính phủ, giảm 10% tín dụng đầu tư của Nhà nước.
Bên cạnh chính sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt thì Chính phủ còn thực hiện
một cú đột phá trong việc điều hành tỷ giá, đã điều chỉnh tăng tỷ giá mạnh trong
một lần điều chỉnh để thu hẹp khoảng cách về giá của USD trong ngân hàng và ở thị
trường tự do. Ngày 11/2/2011 ngân hàng Nhà nước tăng tỷ giá từ 18.932 VND/USD
lên 20.693 VND/USD, đồng thời thu hẹp biên độ giao dịch tỷ giá từ 3% xuống
1%, lúc này giá trị VND đã hạ 9,3% so với USD.
Như vậy, năm 2011 Chính phủ quay lại với các biện pháp kiềm chế lạm phát
một cách quyết liệt. Tuy có sự quyết liệt của Chính phủ trong giảm tổng cầu từ
phía chính sách tiền tệ và thắt chặt chi tiêu công trong chính sách tài khóa nhưng đã
không đạt được kết quả như mong muốn. Trong khi tỷ lệ tăng trưởng đạt 5,89%
thì tỷ lệ lạm phát vẫn tiếp tục tăng cao đến mức gần 19%
2.2. Các yếu tố vĩ mô tác động đến lạm phát
2.2.1. Tăng trưởng kinh tế
Những cải cách kinh tế quan trọng vào năm 1986 chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
giúp Việt Nam đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao. Theo số liệu của GSO, GDP
thực tế Việt Nam tăng nhanh hơn các quốc gia khác với mức tăng trưởng trung bình
giai đoạn 1990 - 1999 là 7,4% và năm 2000-2012 là 7,06%.
Vào những năm đầu thập kỷ 1990, kinh tế Việt Nam đạt được mức tăng
trưởng cao, đặc biệt những năm 1992 và 1997 gần 9%. Tuy nhiên, đà tăng trưởng
chậm lại vào cuối thập kỷ này do những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính Châu
Á năm 1997. Kết thúc năm 1999, tăng trưởng chỉ còn là 4,8% kèm theo hiện tượng
11
giảm phát những năm sau đó. Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã thực hiện chính sách
nới lỏng tín dụng và kích thích mở rộng đầu tư từ năm 2000, đồng thời ký kết quan
hệ trao đổi thương mại song phương Mỹ 7/2000. Kết quả là kinh tế đã phục hồi trên
đà tăng trưởng cao, nhưng đi kèm là tỷ lệ lạm phát tăng lên.
Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương
mại quốc tế (WTO) tháng 11/2006 đã mở đường cho sự tự do hóa thị trường lớn
hơn và làm dấy lên làn sóng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Lượng ngoại tệ đầu
tư trực tiếp, gián tiếp, vay nợ nước ngoài đã tăng đỉnh điểm gấp 13 lần năm 2000.
Lúc này, để duy trì khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu, ổn định tỷ giá và hạn chế
gia tăng nghĩa vụ nợ nước ngoài của Chính phủ và doanh nghiệp quy đổi bằng
VND, Ngân hàng Nhà nước đã cung lượng tiền VND để mua một lượng ngoại tệ
vào, gây áp lực lạm phát tăng cao ở mức 2 con số vào năm 2007 (12,6%) và năm
2008 (19,89%).
Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào năm 2008 ảnh hưởng tới sự ổn
định kinh tế vĩ mô của Việt Nam, cụ thể là bội chi ngân sách lớn, nợ công tăng cao,
thâm hụt cán cân vãng lai, tốc độ tăng trưởng chậm lại 6,78% năm 2010 và 5,9%
năm 2011 mặc dù Chính phủ đã có những biện pháp kích cầu để thúc đẩy tăng
trưởng, chống suy giảm kinh tế. Đồng thời với đó là lạm phát tăng cao, kết thúc
năm 2010 và 2011, lạm phát lần lượt ở mức 11,75% và 18,58%.
Năm 2012, tăng trưởng kinh tế ở mức 5,03%. Nguyên nhân của tình trạng này
xuất phát từ suy giảm tổng cầu do chính sách tiền tệ thắt chặt kiềm chế lạm phát của
Ngân hàng Nhà nước từ năm 2011. Năm 2012, cũng là năm mà mục tiêu ưu tiên
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô được đặt lên hàng đầu. Theo đó, Chính
phủ tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, giảm đầu tư công, giảm bội chi
ngân sách; Ngân hàng Nhà nước thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt và
linh hoạt; Bộ Tài chính tiếp tục lộ trình quản lý, điều hành giá theo cơ chế thị
trường, kiểm soát chặt chẽ giá độc quyền, chống bán phá giá, đảm bảo cân đối cung
- cầu hàng hóa... Kết thúc năm, Việt Nam đã thành công khi giữ mức lạm phát ở
mức một con số 6,81 %. Mặc dù mức tăng trưởng thấp, nhưng theo đánh giá của
12
Tổng cục Thống kê trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn, cả nước tập trung
thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát thì đây được xem là mức tăng hợp lý.
Bảng 2.2: Số liệu lạm phát và tăng trưởng GDP của Việt Nam từ năm 2000-
2012 (Nguồn GSO)
Năm
Lạm phát (%) -0.6 0.8 4.0 3.0 9.5 8.4 6.6 12.6 19.9 6.5 11.8 18.6 6.8 Tăng trưởng GDP (%) 6.80 6.90 7.08 7.34 7.79 8.44 8.23 8.46 6.31 6.78 6.78 5.89 5.03 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
25
20
15 Lạm phát
10
5
Tăng trưởng GDP 0
2000 2002 2004 2006 2008 2010 2012 -5
Hình 2.2: Đồ thị lạm phát và tăng trưởng GDP của Việt Nam từ năm 2000-
2012 (Nguồn: GSO)
13
Bảng 2.3: Tốc độ tăng trưởng GDP các nước trong khu vực (%)
Năm Indonesia Malaysia Philippines Thailand Viet Nam
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 4.9 3.6 4.5 4.8 5 5.7 5.5 6.3 6 4.6 6.2 6.5 6.2 8.9 0.5 5.4 5.8 6.8 5.3 5.6 6.3 4.8 -1.5 7.2 5.1 5.6 4.4 2.9 3.6 5 6.7 4.8 5.2 6.6 4.2 1.1 7.6 3.6 6.8 4.5 3.4 6.2 7.2 6.3 4.2 4.9 5.4 1.7 -0.9 7.3 0.3 6.5 6.8 6.9 7.08 7.34 7.79 8.44 8.23 8.46 6.31 6.78 6.78 5.89 5.03
10
8
6 Indonesia
Malaysia 4
Philippines
2 Thailand
1 1 0 2
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 0 0 2
5 0 0 2
6 0 0 2
7 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
2 1 0 2
Viet Nam 0
-2
-4
Hình 2.3: Đồ thị tốc độ tăng trưởng GDP các nước trong khu vực (Nguồn: ADB
và GSO)
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ năm 2000 luôn ổn định và cao hơn các
nước trong khu vực. Đến năm 2010 tăng trưởng của Việt Nam bắt đầu giảm và thấp
hơn các nước khác.
14
2.2.2. Thâm hụt ngân sách (bội chi ngân sách)
Bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) ở mức cao đều có nguy cơ gây ra lạm
phát. Bởi vì, khi ngân sách bị bội chi có thể được bù đắp bằng phát hành tiền hoặc
vay nợ, đều gây nên nguy cơ lạm phát tăng.
Thứ nhất, việc phát hành tiền trực tiếp làm tăng cung tiền tệ trên thị trường sẽ
gây lạm phát cao, đặc biệt khi việc tài trợ thâm hụt lớn và diễn ra liên tục thì nền
kinh tế phải trải qua lạm phát cao và kéo dài như giai đoạn 1986 - 1990. Sự gia tăng
cung tiền có thể không làm tăng lạm phát nếu nền kinh tế đang đà tăng trưởng, mức
cầu tiền giao dịch tăng lên phù hợp với mức tăng của cung tiền. Tuy nhiên, trong
trường hợp khu vực tư nhân đã thỏa mãn với lượng tiền họ đang nắm giữ (mức cầu
tiền tương đối ổn định) thì sự gia tăng của cung tiền làm cho lãi suất thị trường
giảm, nhu cầu tiêu dùng về hàng hóa dịch vụ, nhu cầu đầu tư sẽ tăng lên kéo theo sự
tăng của tổng cầu nền kinh tế, mặt bằng giá cả sẽ tăng lên gây áp lực lạm phát..
Thứ hai, bù đắp thâm hụt bằng nguồn vay nợ trong nước hoặc nước ngoài,
việc vay nợ trong nước bằng cách phát hành trái phiếu ra thị trường vốn, nếu việc
phát hành diễn ra liên tục thì sẽ làm tăng lượng cầu quỹ cho vay, do dó, làm lãi suất
thị trường tăng. Để giảm lãi suất, Ngân hàng Trung ương phải can thiệp bằng cách
mua các trái phiếu đó, điều này làm tăng lượng tiền tệ gây lạm phát. Hay vay nợ
nước ngoài để bù đắp bội chi ngân sách bằng ngoại tệ, lượng ngoại tệ phải đổi ra
nội tệ để chi tiêu bằng cách bán cho Ngân hàng Trung ương, điều này làm tăng
lượng tiền nội tệ trên thị trường tạo áp lực lên lạm phát.
Ngân sách nhà nước (NSNN) luôn trong tình trạng thâm hụt ở mức cao. Giai
đoạn 1991 - 1996, kinh tế đất nước có nhiều dấu hiệu tốt như siêu lạm phát được
đẩy lùi nhờ Chính phủ thắt chặt chi tiêu cùng với thay đổi cơ cấu chi ngân sách, chi
tập trung vào đúng đối tượng tạo hiệu quả phát triển kinh tế, nguồn thu đã đủ cho
chi thường xuyên, thâm hụt ngân sách giai đoạn trước được bù đắp bằng vay nợ. Do
vậy, thời kỳ này bội chi ngân sách đã giảm đáng kể, bội chi chỉ ở mức trung bình
2,69 % GDP
15
Giai đoạn 1997 - 2001, nguồn thu NSNN đáp ứng cho cả chi thường xuyên và
chi đầu tư phát triển. Bội chi ở mức thấp trung bình 3,77% GDP từ năm 1996 –
2000. Vào cuối những năm 1990, ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế châu Á, nền
kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm lại, tốc độ tăng đầu tư của Nhà nước giảm, hiện
tượng thiểu phát xuất hiện vào năm 2000. Đây cũng là hai năm có tỷ lệ bội chi
NSNN cao nhất chiếm gần 5% GDP, nhưng điều này được xem như một tín hiệu tốt
trong bối cảnh nền kỉnh tế giảm phát, các chính sách tăng chi tiêu của Chính phủ sẽ
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế những năm tiếp theo.
Giai đoạn từ năm 2002 đến nay, thu và chi ngân sách đều tăng mạnh, theo
thống kê giai đoạn 2002 - 2009 tốc độ tăng thu hàng năm bình quân là 20%, tốc độ
tăng chi bình quân là 20,2%. Bội chi NSNN ở mức trên dưới 5% GDP, tăng cao hơn
so với các giai đoạn trước. Đây là kết quả của chính sách tài khóa nới lỏng theo
đuổi mục tiêu tăng trưởng, đặc biệt là năm 2009 với chính sách kích cầu nhằm hạn
chế suy giảm kinh tế từ ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế toàn cầu cuối năm 2008, đã
làm cho bội chi ở mức cao 6,9% GDP.
Những năm tiếp theo, Chính phủ nỗ lực trong việc tăng thu ngân sách, giảm
bội chi, giảm nợ công. Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ được ban hành nhằm
thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách tài khóa cắt giảm chi tiêu công
nhằm giảm bội chi và kiềm chế lạm phát. Nhờ đó, tình hình bội chi NSNN đã giảm
chỉ còn 5,6% GDP năm 2010, 4,9% GDP năm 2011 và 5,8% GDP năm 2012.
Bảng 2.4: Số liệu lạm phát và tỷ lệ THNS / GDP của Việt Nam từ năm 2000-
2012 (Nguồn GSO và MOF)
Năm Lạm phát (%) THNS/GDP (%)
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 -0.60 0.80 4.00 3.00 9.50 8.40 6.60 12.60 19.89 4.95 4.67 4.50 4.90 4.85 4.86 5.00 5.70 4.60
16
2009 2010 2011 2012 6.52 11.75 18.58 6.81 6.90 5.60 4.90 5.80
25.00
20.00
15.00
Lạm phát 10.00 THNS/GDP
5.00
1 1 0 2
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 0 0 2
5 0 0 2
6 0 0 2
7 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
2 1 0 2
-
-5.00
Hình 2.4: Đồ thị lạm phát và tỷ lệ THNS / GDP của Việt Nam từ năm 2000-
2012
Bảng 2.5: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách / GDP của một số nước trong khu vực
(Nguồn: GSO, MOF và ADB)
Indonesia Malaysia Philippines Đvt: % Thailand Viet Nam
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 1.10 2.50 1.50 1.70 1.00 0.50 0.90 1.30 0.10 1.60 0.70 1.10 1.80 5.50 5.20 5.30 5.00 4.10 3.40 3.20 3.10 4.60 6.70 5.40 4.80 4.50 3.70 3.80 5.00 4.40 3.70 2.60 1.00 0.20 0.90 3.70 3.50 2.00 2.30 2.80 2.60 7.60 -0.10 0.40 -0.10 0.20 1.30 0.60 3.90 2.40 1.60 2.30 4.95 4.67 4.50 4.90 4.85 4.86 5.00 5.70 4.60 6.90 5.60 4.90 5.80
17
8
7
6
Indonesia 5
Malaysia 4
Philippines 3
Thailand 2
Viet Nam 1
0
1 1 0 2
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 0 0 2
5 0 0 2
6 0 0 2
7 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
2 1 0 2
-1
Hình 2.5: Đồ thị tỷ lệ thâm hụt ngân sách /GDP của một số nước trong khu vực
2.2.3 Kim ngạch xuất nhập khẩu
Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Sau khi
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam từ
mức 5,15 tỷ USD năm 1990 gấp 0,62 lần GDP tăng lên 30,1 tỷ USD năm 2000 gấp
1,13 lần GDP. Đến năm 2012 tổng kim ngạch XNK là 228,3 tỷ USD gấp 1,61 lần
GDP.
Xuất khẩu hàng hóa đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh hơn 2,4 lần tốc độ
tăng trưởng GDP, góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, tạo
việc làm và nâng cao thu nhập cho hàng triệu lao động. Thời kỳ 2000 – 2012, tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân 17,3% /năm, nhanh hơn tốc độ
tăng trưởng GDP trên 2,4 lần (GDP tăng bình quân 7,06 % / năm). Xuất khẩu hàng
hóa góp phần chính yếu vào tăng trưởng GDP, trở thành động lực chủ yếu thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế trong 10 năm qua.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được Việt Nam luôn phải đối mặt
với tình trạng nhập siêu kéo dài. Nhập siêu từ mức 348 triệu USD năm 1990 tăng
lên 2,4 tỷ USD vào năm 1997 và đạt mức kỷ lục vào năm 2008 là 18 tỷ USD. Việc
nhập siêu kéo dài với mức độ ngày càng lớn đã ảnh hưởng mạnh đến cán cân thanh
18
toán của Việt Nam và đó là m ạm phát tại Việt à đó là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát tại Việt
Nam năm 2008.
Bảng 2.6: Tình hình XNK c Tình hình XNK của Việt Nam từ năm 2000-2012 (Nguồ ồn: GSO)
Đvt: Tỷ USD Nhập khẩu Năm Năm
140
120
100
80
Xuất khẩu Xuất khẩu
60
Nhập khẩu Nhập khẩu
40
Nhập siêu Nhập siêu
20
0
5 0 0 2
6 0 0 2
7 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
1 1 0 2
2 1 0 2
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 4 0 0 0 0 2 2
-20
-40
Xuất khẩu 14.48 15.03 16.71 20.15 26.49 32.45 39.83 48.56 62.69 57.10 72.24 96.91 114.53 15.64 16.22 19.75 25.26 31.97 36.76 44.89 62.76 80.71 69.95 84.84 106.75 113.78 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Hình 2.6: Đồ thị tình hình XNK c ình hình XNK của Việt Nam từ năm 2000-2012
19
Bảng 2.7: Kim ngạch XNK/GDP của một số nước trong khu vực
Đvt: % Indonesia Malaysia Philippines Thailand Viet Nam
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 71.5 69.8 59.1 53.6 59.7 64.0 56.6 55.8 58.6 55.6 47.5 51.2 50.1 220.4 203.4 199.4 194.2 210.4 203.9 202.6 192.5 176.7 162.5 170.3 167.3 163 104.8 98.9 102.4 101.9 102.7 97.8 95.0 86.7 73.3 65.6 71.4 67.6 64.8 121.6 120.5 115.2 116.9 127.6 138.4 134.7 130.4 141.2 119.9 127.8 141.1 138.7 112.5 111.5 118.8 127 129.2 130.7 138.5 155.8 156.7 136.3 152.2 162.9 156.5 (Nguồn GSO và ADB)
250
200
Indonesia 150 Malaysia
100 Philippines
Thailand 50 Viet Nam
1 1 0 2
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 0 0 2
5 0 0 2
6 0 0 2
7 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
2 1 0 2
0
Hình 2.7: Đồ thị kim ngạch XNK/GDP của một số nước trong khu vực
2.2.4. Tỷ giá hối đoái
Từ đầu năm 1998 đến 1999, tỷ giá tăng mạnh do đồng VND bị giảm giá mạnh.
Nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng, sự ổn định tỷ giá đóng vai trò quan trọng
trong việc kiềm chế lạm phát. Trong hai năm 1998 và 1999, tỷ giá tăng mạnh nhưng
lạm phát trong hai năm này ở mức thấp và tiếp tục giảm đến mức năm 2000 rơi vào
20
tình trạng thiểu phát. Điều này cho thấy, ảnh hưởng của tỷ giá đến lạm phát trong
giai đoạn này rất hạn chế. Trong giai đoạn từ 2000-2003, tỷ giá và lạm phát được
duy trì tương đối ổn định, điều này đã góp phần không nhỏ đến ổn định kinh tế và
tăng trưởng kinh tế
Kể từ khi gia nhập WTO (11/2006), luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam rất
lớn (vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư gián tiếp, thu từ dịch vụ qua biên giới, kiều
hối…). Để ổn định tỷ giá hối đoái có lợi cho xuất khẩu và đầu tư, tăng khả năng
cạnh tranh hàng hóa trong nước, NHNN đã phải tăng cung tiền để hút ngoại tệ vào,
làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong lưu thông, gây áp lực lên lạm phát.
Ngoài các nguyên nhân gây nên lạm phát cao trong các năm 2007 và 2008 thuộc về
vấn đề tiền tệ, còn phải kể đến nguyên nhân thuộc về điều hành chính sách tỷ giá
của Việt Nam trong giai đoạn này. Trong suốt một thời gian dài, NHNN để VND
“neo” quá lâu vào đồng USD, thậm chí còn cam kết về tỷ lệ mất giá cụ thể khá thấp
của VND so với USD, trong khi kể từ 2006 đến nay, đồng USD mất giá mạnh
(khoảng 15%) so với các đồng tiền mạnh khác, trong khi đó đồng VND lại mất giá
so với USD, điều này làm cho mức độ mất giá của đồng VND so với các đồng tiền
mạnh khác càng trở nên trầm trọng hơn. Chính sự mất giá của VND so với USD đã
làm cho hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, trong khi tính từ năm 2000 đến
nay, nhập khẩu của Việt Nam liên tục tăng. Điều này khiến cho chi phí sản xuất của
các doanh nghiệp tăng, kéo theo giá thành sản phẩm tăng gây áp lực lên lạm phát.
Bảng 2.8 Tỷ lệ biến động tỷ giá và lạm phát tại Việt Nam từ năm 2000-2012
(Nguồn: NHNN và GSO)
Năm CPI Tỷ lệ tăng tỷ giá
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 -0.60% 0.80% 4.00% 3.00% 9.50% 8.40% 6.60% 12.60% 19.89% 1.61% 3.94% 3.76% 1.51% 1.52% 0.72% 0.85% 0.69% 1.22%
21
Năm CPI Tỷ lệ tăng tỷ giá
2009 2010 2011 2012 6.52% 11.75% 18.58% 6.81% 4.68% 9.07% 10.17% 1.57%
25.00%
20.00%
CPI 15.00%
10.00%
Tỷ lệ tăng tỷ giá 5.00%
1 1 0 2
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 0 0 2
5 0 0 2
6 0 0 2
7 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
2 1 0 2
0.00%
-5.00%
Hình 2.8: Đồ thị tỷ lệ biến động tỷ giá và lạm phát tại Việt Nam từ năm 2000-
2012
22
PHẦN 3: CÁC BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ ĐỘ MỞ NỀN KINH TẾ
3.1 Các nghiên cứu trên thế giới:
“New growth theory” – Jin, 2000 cho rằng khi độ mở nền kinh tế càng lớn sẽ
làm gia tăng hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp làm giảm chi phí đầu vào và
giá thành giảm; nguồn lực được sử dụng hiệu quả hơn do tính cạnh tranh cao; đầu
tư nước ngoài gia tăng sẽ kích thích tăng trưởng làm giảm áp lực lạm phát.
The Effect of a Budget Deficit on Inflation: The Case of Tanzania (M
Solomon and W A de Wet 2004) sử dụng mô hình hồi quy véctơ VAR với dữ liệu
từ năm 1967 đến 2001 tại Tanzania cho thấy có mối quan hệ bền vững trong dài
hạn giữa thâm hụt ngân sách, tỷ giá, GDP và lạm phát. Có sự tác động đáng kể của
thâm hụt ngân sách đến lạm phát. Lạm phát phản ứng nhanh với thâm hụt ngân sách
và GDP ở các quốc gia có hệ thống tài chính kém phát triển và thiếu hiệu quả. Tăng
trưởng kinh tế ổn định 10% sẽ dẫn đến mức giá giảm 35%. Những quốc gia phụ
thuộc vào nông nghiệp và sản xuất khi có cú sốc lớn về lĩnh vực nông nghiệp sẽ ảnh
hưởng lớn đến giá tiêu dùng và làm giảm GDP
The effect of openness on inflation, using quantile regression (a case study
of Iran) (Sahar Abbaspour, Shahram Fatahi, Minoo nazifi 2011): sử dụng
phương pháp hồi quy phân vị (quantile regresstion) tại Iran từ năm 1942 đến năm
2008 cho thấy có mối quan hệ dương giữa độ mở của nền kinh tế và lạm phát khi
mức lạm phát cao. Không có sự tác động của độ mở nền kinh tế đến lạm phát khi
mức lạm phát thấp, mối quan hệ càng mạnh khi lạm phát càng cao.
Có sự tác động đáng kể của nhập khẩu, độ mở nền kinh tế, tỷ giá, tăng trưởng
cung tiền và tăng trưởng GDP đến lạm phát. Mối quan hệ giữa độ mở nền kinh tế
và lạm phát là mối quan hệ dương. Sự gia tăng trong thu nhập do xuất khẩu dầu dẫn
đến tăng cung tiền và gia tăng lạm phát. Khi thu nhập gia tăng thì nhu cầu hàng
nhập khẩu gia tăng dẫn đến nhập khẩu lạm phát.
Inflation And Openness: A Study of selected developing economies
(SUNIL ASHRA 2002) nghiên cứu dữ liệu gồm 15 quốc gia từ năm 1980 đến năm
23
1997: Argentina, Bangladesh, Brazil, Chile, Colombia Indonesia, India, S. Korea,
Malaysia, Mexico, Nepal, Pakistan, Philippines, Sri Lanka, Thailand. Tác giả sử
dụng mô hình tác động cố định (Fixed Effects Model) và Mô hình tác động ngẫu
nhiên (Random Effects Model), sử dụng phương pháp feasible generalized least
squares (FGLS). Độ mở nền kinh tế có tác động đáng kể đến lạm phát. Tỷ lệ nhập
khẩu trên GDP làm giảm lạm phát, tỷ lệ xuất khẩu trên GDP làm tăng lạm phát.
Xuất nhập khẩu trên GDP gia tăng 1% sẽ dẫn đến lạm phát giảm 0.5% ở các nước
không có lạm phát phi mã.
Đối với các nước có lạm phát phi mã thì Xuất nhập khẩu trên GDP gia tăng
1% sẽ làm cho lạm phát tăng 14%. ở các nước có nền kinh tế nhỏ thì tác động của
độ mở nền kinh tế tới GDP thấp hơn các nước có nền kinh tế lớn hơn.
Đối với các quốc gia Đông Nam Á tác động của nhập khẩu đến lạm phát là âm
và xuất khẩu đến lạm phát là dương nhưng mức độ thấp hơn so với các nước không
thuộc khu vực Đông Nam Á.
Hsin-Yi Lin (2010) Openness and Inflation Revisited sử dụng dữ liệu của
106 quốc gia từ năm1970 đến năm 2007 nghiên cứu mối quan hệ giữa độ mở nền
kinh tế (đo lường bằng biến nhập khẩu trên GDP) và lạm phát trong đó có 58 quốc
gia lâm cảnh nợ nần trong cuộc khủng hoảng nợ 1980. Nghiên cứu sử dụng phương
pháp hồi quy phân vị (quantile regresstion) cho thấy có mối quan hệ ngược chiều
giữa độ mở nền kinh tế và lạm phát.
Trade Openness, Market Competition, and Inflation: Some Sectoral
Evidence from OECD Countries (Mahir Binici, Yin-Wong Cheung, Kon S. Lai
2011) nghiên cứu mối quan hệ giữa độ mở nền kinh tế (thông qua khả năng cạnh
tranh và năng suất) của các quốc gia OECD cho thấy rằng thị trường cạnh tranh
càng khốc liệt thì lạm phát càng giảm. Sự toàn cầu hóa kinh tế (kết hợp giữa các chỉ
số lưu chuyển vốn, thương mại và sự hạn chế) tác động ngược chiều đến lạm phát.
Kết quả này cho thấy ở một khía cạnh khác độ mở nền kinh tế đóng một vai trò
quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát.
24
Terra 1998 chứng minh rằng lạm phát và độ mở có mối quan hệ ngược chiều
ở các quốc gia có tỷ lệ nợ trong giai đoạn khủng hoảng những năm 80. Gruben and
Mcleod (2004) không tìm thấy mối quan hệ giữa lạm phát và độ mở tại các nền
kinh tế OECD. Kim and Beladi (2004) cho thấy có mối quan hệ dương ở các nền
kinh tế phát triển như Mỹ, Bỉ, Ai len trong khi các quốc gia khác có mối quan hệ
âm (kể cả các nước có nền kinh tế đã phát triển và đang phát triển).
McCarthy (2000): “Pass-Through of Exchange Rates and Import Prices
to Domestic Inflation in Some Industrialized Economies”. Bài nghiên này đã
kiểm định sự chuyển giá của các nhân tố bên ngoài – TGHĐ và giá nhập khẩu – vào
lạm phát trong nước ở một số nền kinh tế công nghiệp hóa. Bằng cách sử dụng mô
hình VAR kết hợp một chuỗi phân phối giá, tác giả tìm thấy có sự chuyển giá vào
tổng giá tiêu dùng, và phản ứng đẩy cho thấy TGHĐ có ảnh hưởng không đáng kể
đến lạm phát giá cả trong nước trong khi giá nhập khẩu có tác động mạnh mẽ hơn
Takatoshi Ito and Kiyotaka Sato (2006) nghiên cứu sự truyền dẫn tỷ giá tại
các nước Châu Á sau khủng hoảng , và nhận thấy rằng mặc dù tỷ giá ảnh hưởng
đến giá nhập khẩu rất cao, nhưng mức độ truyền dẫn tỷ giá đến CPI là thấp (ngoại
trừIndonesia). Sự truyền dẫn tỷgiá đến CPI là nguyên nhân chính gây ra lạm phát tại
Indonesia.
3.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam:
Tại Việt Nam có nhiều bài nghiên cứu về lạm phát dưới tác động của tỷ giá,
thâm hụt ngân sách, GDP nhưng kim ngạch xuất nhập khẩu ít được sử dụng. Thay
vào đó tác giả sử dụng các biến như: giá xuất khẩu, nhập khẩu, giá dầu, giá gạo …
Nghiên cứu của IMF năm 2003 (IMF Country Report No. 03/382) sử dụng
mô hình VAR gồm 7 biến: giá dầu quốc tế, giá gạo quốc tế, sản lượng công nghiệp
đầu ra, tỷ giá, tiền, giá nhập khẩu và giá tiêu dùng giai đoạn từ tháng 1-1995 đến
tháng 3-2003. Kết quả cho thấy giá nhập khẩu không phản ánh lên giá nội địa mặc
dù nền kinh tế đang dần mở cửa. Tỷ giá có ảnh hưởng đáng kể lên giá nhập khẩu,
nhưng không ảnh hưởng lên CPI.
25
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Liên Hoa và Trần Đặng Dũng trong “Nghiên
cứu lạm phát tại Việt Nam theo phương pháp SVAR” cho thấy CPI có chịu ảnh
hưởng từ cú sốc giá khu vực nước ngoài, đặc biệt là trong giá dầu. Mức độ phản
ứng của CPI trước cú sốc trong giá dầu mạnh hơn so với cú sốc trong giá gạo (vì về
cơ bản VN vẫn là nước xuất khẩu gạo, nguồn cung gạo hoàn toàn đáp ứng được nhu
cầu trong nước), tuy nhiên mức ảnh hưởng không lớn. Tỷ giá có tác động làm tăng
lạm phát nhưng không lớn. Riêng đối với VN, tỷ giá được giữ tương đối cứng nhắc,
chỉ từ cuối năm 2008 trở lại đây thì NHNN mới có những đợt điều chỉnh tỷ giá với
biên độ lớn hơn, cụ thể lần phá giá gần đây nhất là 9,3%.
“Nghiên cứu các yếu tố gây ra lạm phát” của tác giả Phan Thanh Vinh
chỉ ra rằng lạm phát ở Việt Nam ít chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài mà xuất
phát từ các nguyên nhân nội địa. Các phát hiện cho thấy mức giá cả thế giới (đo
lường bằng giá dầu) và giá nhập khẩu có khuynh hướng gây ảnh hưởng lên mức giá
thấp hơn các nhân tố khác trong nền kinh tế. Giá dầu thế giới và giá nhập khẩu IMP
ảnh hưởng lên CPI rất ít trong ngắn hạn, và trong dài hạn thì mức độ tăng lên nhưng
có độ trễ. Giá dầu thế giới và giá nhập khẩu tương ứng chỉ giải thích được 1.72% và
2.20% nguyên nhân gây ra lạm phát. Và sau 8 quý, tỷ lệ này mới được nâng lên
13.7% và 14.9%. Đối với biến động từ giá nhập khẩu khi xảy ra cú sốc giá nhập
khẩu, sau 3 quý đầu giảm nhẹ thì CPI tăng mạnh trong các quý tiếp theo.
Võ Trí Thành và cộng sự (2001) sử dụng mô hình tự hồi quy Vector (VAR)
với dữ liệu theo tháng từ 1992 -1999 nghiên cứu mối quan hệ giữa tiền, CPI, tỷ giá
và sản lượng công nghiệp thực. Họ nhận thấy rằng tăng trưởng tiền tương ứng với
sự thay đổi trong lạm phát và sản lượng đầu ra, điều này cho thấy trong suốt thời kỳ
này, chính sách tiền tệ là thụ động. Tỷ giá hối đoái được nhận thấy có ảnh hưởng
lên lạm phát trong khi tổng tiền dường như không đáp ứng được sựtăng giá trong
tương lai.
Nguyen Thi Thuy Vinh và S. Fujita (2007), “The Impact of Real Exchange
Rate on Output and Inflation in Vietnam: A VAR Approach,” Discussion Paper No.
0625. Các tác giả sử dụng cách tiếp cận VAR để nghiên cứu tác động của tỷ giá hối
26
đoái thực lên sản lượng đầu ra và lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 1992-2005. Kết
quả cho thấy, tác nhân chính tác động lên sự thay đổi sản lượng đầu ra và mức giá
là những cú sốc của chính nó và tỷ giá hối đoái có tác động mạnh lên cán cân
thương mại và sản lượng đầu ra hơn là tác động lên lạm phát. Mô hình VAR bao
gồm các biến: Sản lượng công nghiệp, CPI, tỷ giá, cung tiền, thâm hụt thương mại
và lãi suất của Mỹ (như là biến ngoại sinh). Mô hình tập trung đến sự truyền dẫn tỷ
giá và do đó, bỏ qua hết các yếu tố quyết định lên lạm phát.
27
PHẦN 4 : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Mô hình nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu
4.1.1 Mô hình nghiên cứu
Trong nghiên cứu này tác giả tập trung phân tích mối quan hệ giữa lạm phát,
thâm hụt ngân sách, tỷ giá, kim ngạch xuất nhập khẩu, GDP của Việt Nam trong
suốt giai đoạn quý 1 năm 2000 đến quý 4 năm 2012 . Trong đó biến cần chú ý là
biến kim ngạch xuất nhập khẩu. Mô hình định lượng trong nghiên cứu này dựa vào
mô hình nghiên cứu định lượng “Does Trade Openness Reduce Inflation?
Empirical Evidence from Pakistan” của Tahir Mukhtar Mallik đo lường mối quan
hệ giữa lạm phát và thâm hụt ngân sách, tỷ giá, kim ngạch xuất nhập khẩu, GDP
của Pakistan. Mô hình có dạng như sau: