Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tăng cường thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư nhân vào các dự án đầu tư theo hình thức đối tác Công tư (PPP) trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
lượt xem 6
download
Mục tiêu nghiên cứu là làm rõ những vấn đề lý luận và nhân tố tác động đến thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư nhân cho dự án đầu tư theo hình thức công – tư (PPP); Đánh giá thực trạng về thu hút đầu tư từ nguồn vốn tư nhân vào các dự án theo hình thức đối tác công- tư trên địa bàn tỉnh tỉnh Bắc Ninh trong thời gian qua; những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân;
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tăng cường thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư nhân vào các dự án đầu tư theo hình thức đối tác Công tư (PPP) trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
- 1 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 3 CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THU HÚT VỐN TỪ KHU VỰC TƯ NHÂN VÀO ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ–(PPP) 5 ...... 1.1. Tổng quan về mối quan hệ đối tác nhà nướctư nhân (PPP). 5 ...... 1.1.1. Định nghĩa và bản chất mối quan hệ nhà nước tư nhân (PPP) .......... 5 1.1.2. Sự khác nhau giữa mô hình Nhà nước–Tư nhân và mô hình tư nhân hóa .................................................................................................................... 10 1.1.3. Các loại mô hình hợp tác giữa Nhà nước – Tư nhân ........................ 11 1.1.4. Động cơ thúc đẩy việc tham gia vào mô hình Nhà nước Tư nhân 16 ... 1.2. Vai trò nguồn vốn tư nhân và nguồn vốn nhà nước trong dự án PPP ...................................................................................................................... 18 1.2.1. Cấu trúc về nguồn vốn của dự án PPP ............................................ 18 1.2.2. Khái quát về nguồn vốn tư nhân trong các dự án PPP ..................... 22 1.2.3. Khái quát về nguồn vốn hỗ trợ từ Chính phủ cho các dự án PPP 24 ..... 1.2.4. Vai trò của nguồn vốn tư nhân trong các dự án PPP. ........................ 30 1.2.5.Ưu điểm và hạn chế tồn tại của mô hình Nhà nước Tư nhân(PPP) . 31 1.3. Một số yêu cầu của Dự án PPP hiệu quả ..................................... 35 1.3.1. Yêu cầu về lĩnh vực đầu tư của dự án ............................................. 38 1.3.2. Yêu cầu về mặt kỹ thuật của dự án ................................................. 39 1.3.3. Yêu cầu về thể chế chính sách và các vấn đề tài chính .................... 39 1.3.4. Yêu cầu về tham vấn các bên liên quan ........................................... 42 1.3.5. Yêu cầu về cam kết của chính phủ .................................................. 43 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN TỪ KHU VỰC TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH VÀO DỰ ÁN PPP ..................................... 44 2.1. Khái quát chung về đầu tư của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2006– 2016. ................................................................................................................... 44 2.1.1. Về vị trí địa lý tỉnh Bắc Ninh. ........................................................... 45 2.1.2. Tình hình kinh tế, chính trị và xã hội tỉnh Bắc Ninh. ......................... 47 2. 1.3. Tổng quan về thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ................. 49
- 2 2.2. Thực trạng thu hút vốn từ khu vực tư nhân cho dự án PPP tại Bắc Ninh trong giai đoạn vừa qua. .................................................................. 50 2.2.1. Thực trạng thu hút vốn từ khu vực tư nhân trong nước cho dự án PPP trên địa bàn tỉnh. ................................................................................................. 51 2.2.2. Thực trạng thu hút vốn từ khu vực tư nhân nước ngoài cho dự án PPP trên địa bàn tỉnh. ................................................................................................. 63 2.2.3. Tác động của chính sách trong việc thu hút vốn từ khu vực tư nhân cho các dự án PPP trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. .................................................... 64 2.2.3.1. Một số chính sách liên quan đến PPP được ban hành ..................... 64 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN TỪ KHU VỰC TƯ NHÂN CHO DỰ ÁN PPP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN 2025. ........................................................................................ 80 3.1. Định hướng quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tại tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, tầm nhìn 2025. ................................................................ 81 3.1.1. Mục tiêu tổng quát ........................................................................... 81 3.1.2. Mục tiêu cụ thể ............................................................................... 81 3.2. Đánh giá chung về những yếu tố thành công và hạn chế tồn tại trong thu hút vốn từ khu vực tư nhân ........................................................... 82 3.2.1. Những yếu tố thành công trong việc thu hút vốn từ khu vực tư nhân cho các dự án PPP. ............................................................................................. 82 3.2.2. Những tồn tại, hạn chế thu hút vốn từ khu vực tư nhân cho dự án PPP .................................................................................................................... 85 3.3. Một số giải pháp thu hút vốn từ khu vực tư nhân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2017–2020, tầm nhín 2025. ..................................... 88 3.3.1. Giải pháp tổng thể ........................................................................... 88 3.3.2. Các giải pháp cụ thể ........................................................................ 89 3.4. Kiến nghị: ........................................................................................... 93 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 94 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 96
- 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Bắc Ninh là tỉnh nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm trong quy hoạch Vùng Thủ đô. Tỉnh được tái lập năm 1997, khi đó cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội còn rất thấp kém, đầu tư còn nhỏ lẻ, không tương xứng với tiềm năng. Đến nay, Bắc Ninh đã trở thành một tỉnh với quy mô kinh tế khá lớn, cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ và là tỉnh tự chủ và đã điều tiết một phần ngân sách về Trung ương. Thực tế cho thấy rằng việc phát triển được kinh tế, phát triển hạ tầng cơ sở, nâng cao đời sống của nhân dân những năm gần đây, cho thấy ngoài vai trò đóng góp tích cực của vốn ngân sách nhà nước thì vai trò nguồn vốn của các nhà đầu tư tư nhân là hết sức quan trọng, đáng được ghi nhận. Vai trò quan trọng đó được thể hiện thông qua các hợp đồng đối tác công – tư (PPP) ký kết giữa nhà đầu tư tư nhân và cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đảm bảo nguồn lực kinh tế, cũng là nhân tố quyết định sớm đưa Bắc Ninh trở thành tỉnh công nghiệp và đạt mục tiêu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2022. Xuất phát từ thực tế và những vấn đề nêu trên, là một cán bộ Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Ninh, được tham gia khóa học thạc sỹ, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu “Tăng cường thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư nhân vào các dự án đầu tư theo hình thức đối tác Công tư (PPP) trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.
- 4 2. Mục tiêu nghiên cứu: Làm rõ những vấn đề lý luận và nhân tố tác động đến thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư nhân cho dự án đầu tư theo hình thức công –tư (PPP); Đánh giá thực trạng về thu hút đầu tư từ nguồn vốn tư nhân vào các dự án theo hình thức đối tác công tư trên địa bàn tỉnh tỉnh Bắc Ninh trong thời gian qua; những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân; Kiến nghị một số giải pháp để thu hút vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Chính sách và yếu tố liên quan tới thu hút vốn đầu tư theo hình thức đối tác công tư. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vào thực trạng thu hút vốn, triển khai thực hiện dự án đầu tư Công Tư (PPP) ở tỉnh Bắc Ninh, giai đoạn 10 năm trở lại đây, từ năm 2006 đến năm 2016. 4. Phương pháp nghiên cứu: Cơ sở lý thuyết sử dụng để phân tích: Lý thuyết về thu hút đầu tư khu vực tư nhân trong nước, nước ngoài tại Bắc Ninh; chính sách chế độ của Trung ương, của Tỉnh đối với dự án PPP; Các dữ liệu thu thập: Các dữ liệu liên quan tới cơ chế chính sách, quy trình, thủ tục và tình hình thu hút vốn đầu tư tư nhân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh; Vai trò nguồn vốn của các nhà đầu tư tư nhân, vai trò hỗ trợ vốn của nhà nước trong việc triển khai thực hiện dự án PPP trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh; Các nguồn dữ liệu: Các báo cáo của Nhà đầu tư (Các danh nghiệp đầu tư trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh), Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi trường, Cục Thông kê tỉnh Bắc Ninh và các sở, ban ngành, đơn vị trên địa bàn. 5. Kết cấu của luận văn:
- 5 Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Nghiên cứu khung lý thuyết về thu hút vốn từ khu vực tư nhân vào các dự án theo hình thức đối tác Công Tư (PPP). Chương 2: Thực trạng trong việc thu hút vốn từ khu vực tư nhân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh vào dự án PPP. Chương 3: Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn từ khu vực tư nhân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới. CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THU HÚT VỐN TỪ KHU VỰC TƯ NHÂN VÀO ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ–(PPP) 1.1. Tổng quan về mối quan hệ đối tác nhà nướctư nhân (PPP). 1.1.1. Định nghĩa và bản chất mối quan hệ nhà nước tư nhân (PPP) 1.1.1.1. Nghiên cứu chung về mối quan hệ đối tác nhà nước – tư nhân Mối quan hệ đối tác nhà nước tư nhân miêu tả một loạt các mối quan hệ có thể có giữa các tổ chức nhà nước và tổ chức tư nhân liên quan đến lĩnh vực cơ sở hạ tầng và các lĩnh vực dịch vụ khác. Mối quan hệ đó có thể hiểu là một thỏa thuận hợp tác giữa Nhà nước và khu vực tư nhân trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp các dịch vụ công thông qua Hợp đồng PPP (Public Private Parnership). Theo cách hiểu truyền thống, Hợp đồng PPP (Public Private Partnership) là thỏa thuận hợp tác giữa Nhà nước và khu vực tư nhân trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp các dịch vụ công, theo đó một phần hoặc toàn bộ công việc sẽ được chuyển giao cho khu vực tư nhân thực hiện với sự hỗ trợ của Nhà nước. Ở bình diện chung nhất khái niệm Hợp đồng PPP là phạm trù động và được hiểu rất linh hoạt tùy theo cách tiếp cận hợp đồng và những hoàn cảnh áp
- 6 dụng cụ thể, một hướng xây dựng định nghĩa hợp đồng BOT trên cơ sở bao quát các khía cạnh pháp lý, tài chính chủ yếu của hợp đồng như quá trình đầu tư, chủ thể, tính cấp quyền, tính chất tài chính và mối quan hệ giữa các bên tham gia hợp đồng. (Mối Quan hệ đối tác nhà nướctư nhân, Năm 2008) 1.1.1.2. Cơ sở hình thành mối quan hệ nhà nước tư nhân (PPP) Hợp đồng BOT trong nhiều năm gần đây đã được sử dụng và đóng vai trò quan trọng trong phát triển cơ sở hạ tầng, các cơ sở sản xuất công nghiệp, nông nghiệp ở các nước nhất là các nước đang phát triển. Bởi vì, một mặt việc phát triển cơ sở hạ tầng được coi là điều kiện tiên quyết cho phát triển kinh tế. Mặt khác, nguồn vốn của nhà nước để đầu tư vào những lĩnh vực khác nhau của cơ sở hạ tầng còn rất hạn hẹp, chưa thể đáp ứng đủ và càng chưa thể đáp ứng tốt nhu cầu. Cơ sở hình thành thỏa thuận PPP xuất phát từ việc đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội, như xây dựng, vận hành hệ thống đường bộ, cấp nước … Những dự án, dịch vụ này đòi hỏi đầu tư lớn nhưng khó sinh lời nên thường do nhà nước đứng ra thực hiện. Tuy nhiên, có một thực tế là nhu cầu sử dụng các công trình, dịch vụ công, đặc biệt là trước sức ép tăng trưởng kinh tế, luôn vượt quá khả năng thu xếp nguồn lực hữu hạn của nhà nước, ngay cả các quốc gia phát triển cũng phải đối mặt với tình huống này. Vì vậy mà một trong những giải pháp để khắc phục tình trạng này là thu hút các nguồn lực đầu tư vào các dự án, dịch vụ công thông qua Dự án PPP. Kinh nghiệm của một số nước Hợp đồng Hợp tác công – tư (PPP) trong phát triển kinh tế được thể hiện khác nhau qua các giai đoạn phát triển. Từ sau 1950 khi mà khái niệm về PPP còn chưa được hình thành, đã có sự hợp tác giữa khu vực công và tư nhân trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp các dịch vụ thiết yếu tại một số nước. Trong giai đoạn này, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các dịch
- 7 vụ công và là người cung cấp các khoản tài chính chủ yếu cho khu vực tư nhân để thực hiện nhiệm vụ này. Các công ty tư nhân, đặc biệt là trong 4 ngành điện lực, than, thép, vận tải biển, đã nhận được sự hỗ trợ đáng kể về tài chính từ Chính phủ, trong đó có kênh đầu tư qua các tổ chức tài chính công. Các tổ chức tài chính công này được thành lập nhằm tách việc thực hiện các chính sách công của nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại và tiếp nhận các khoản vốn đầu tư từ chính phủ và các nguồn tài trợ từ nước ngoài để đầu tư phát triển cho các công ty tư nhân trong việc phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp các dịch vụ thiết yếu.(Mối Quan hệ đối tác Nhà nướcTư nhân, Năm 2008). Đến thập niên 80, hợp tác giữa khu vực công và tư đã phát triển theo hướng tư nhân hóa, theo đó xu hướng khu vực tư nhân thực hiện cung cấp các dịch vụ công trước đây do nhà nước thực hiện nhằm giảm bớt gánh nặng về tài chính của Chính phủ, đồng thời tạo điều kiện nâng cao chất lượng các dịch vụ công. Vào những năm 1990, khái niệm quản lý theo mô hình khu vực tư nhân được áp dụng vào quản lý khu vực công nhằm nâng cao trách nhiệm và tính hiệu quả trong khu vực công tiến tới cải cách tổng thể khu vực công. Từ năm 2000 đến nay, xu hướng liên danh công–tư đã được phát triển và hoàn thiện. Theo đó, hợp tác công–tư được hiểu là một phần của việc cải cách khu vực công nhằm khắc phục sự thiếu hụt nguồn tài chính, thực hiện tối đa hoá lợi ích, và cung cấp tốt hơn các dịch vụ công với chi phí thấp nhất. Nội dung chính của hợp tác côngtư là chia sẻ rủi ro và trách nhiệm giữa Nhà nước và khu vực tư nhân, trong đó trách nhiệm gánh chịu chính đối với những rủi ro thuộc về khu vực tư nhân. Nhà nước cũng có trách nhiệm trong việc hỗ trợ khu vực tư nhân về tài chính để đảm bảo dự án khả thi, giảm bớt khó khăn cho tư nhân. Cơ chế hợp tác đã thay đổi và chuyển dần từ quản lý bằng Luật sang quản lý thông qua hợp đồng. Ngoài những cách thức hợp tác truyền thống, trong vòng 10 năm qua đã có nhiều biện pháp, quy định và chính sách để thúc đẩy các mô hình hợp tác công–tư khác nhau.
- 8 1.1.1.3. Một số đặc điểm của Hợp tác Công –Tư (PPP) Thông thường PPP là một cam kết hợp tác lâu dài (khoảng 1050 năm) trong đó quyền lợi và trách nhiệm của các bên được phân bổ tương ứng với phần tham gia của mình. Điểm nhấn trong phương thức này là thu hút sự tham gia đầu tư của khu vực tư nhân trong các dự án vốn được coi là ít có khả năng sinh lời, do vậy cần có sự tham gia, sự cam kết của nhà nước để dự án trở thành khả thi (Viability Gap). Bên cạnh đó, cơ chế PPP tạo ra cơ chế năng động trong việc phân công hợp lý giữa các bên trong hợp đồng dự án PPP: bên nào có khả năng làm tốt hơn một công việc cụ thể sẽ được phân giao thực hiện phần việc đó, đồng thời được hưởng các quyền lợi từ phần việc đó. Nói cách khác, đó là sự tính toán kỹ lưỡng các yếu tố tác động đến suốt vòng đời của dự án, sự phân bổ rủi ro giữa các bên một cách tối ưu nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. 1.1.1.4. Một vài khái niệm và bản chất của PPP Để có thể hiểu rõ bản chất hợp đồng PPP, trước hết phải đặt chúng trong mối quan hệ với khái niệm PPP nói chung. Theo đó, trên bình diện tổng quát, PPP là một cơ chế pháp lý có thể thích ứng tùy theo tính chất của dự án, loại hình quan hệ mà dự án đòi hỏi và cũng có thể thích ứng với từng phương thức cung cấp tài chính. Như vậy, PPP có thể áp dụng với nhiều trường hợp thực tiễn khác nhau. Khi sử dụng cho những dự án về cơ sở hạ tầng thường được sử dụng nhất là PPP và được hiểu là phương thức huy động vốn của nhà đầu tư tư nhân để tài trợ, xây dựng và kinh doanh công trình cơ sở hạ tầng thường do nhà nước thực hiện. Thỏa thuận PPP cũng gắn liền với phát triển cơ sở hạ tầng. Trong dự án PPP, nhà đầu tư tư nhân được đặc quyền xây dựng, kinh doanh công trình cơ sở hạ tầng mà thường do chính phủ thực hiện. Nhà đầu tư tư nhân này cũng có trách nhiệm tài trợ, thiết kế dự án và vào cuối giai đoạn đặc quyền nhà đầu tư sẽ chuyển giao công trình cho nhà nước. Giai đoạn đặc quyền chủ yếu xác định bởi độ dài thời gian cần thiết để doanh thu từ công trình trả hết được nợ của doanh
- 9 nghiệp và tạo ra được một tỷ suất sinh lời hợp lý cho việc đầu tư và rủi ro mà doanh nghiệp đó phải chịu. Hơn nữa, ở bình diện chung nhất, PPP được hiểu là một thỏa thuận pháp lý để thực hiện một phương thức đầu tư nhằm huy động nguồn vốn từ khu vực tư nhân để tài trợ và kinh doanh dự án cơ sở hạ tầng vốn thuộc về trách nhiệm của nhà nước, làm giảm gánh nặng bội chi trong ngân sách nhà nước đồng thời tạo ra một cơ chế hữu hiệu trong việc đầu tư của tư nhân phục vụ lợi ích công cộng. Có thể nói việc xây dựng một định nghĩa đúng và đầy đủ về hợp đồng PPP là một công việc không hề đơn giản. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về hợp đồng PPP trên các phương diện kinh tế, tài chính, pháp lý và xã hội và mỗi cách tiếp cận lại đưa đến những hệ quả pháp lý khác nhau. Ở Việt Nam định nghĩa hợp đồng PPP được quy định tại Điều 2 Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công tư ban hành kèm theo Quyết định số 71/2010/QĐTTg ngày 09 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, Đầu tư theo hình thức đối tác công tư là việc nhà nước và Nhà đầu tư cùng phối hợp thực hiện Dự án phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công trên cơ sở Hợp đồng dự án. Hợp đồng dự án là hợp đồng được ký kết giữa Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Nhà đầu tư, trong đó, nhà nước nhượng quyền cho Nhà đầu tư được phép đầu tư, khai thác công trình, cung cấp dịch vụ công trong một thời gian nhất định. Căn cứ tính chất của từng Dự án cụ thể, Hợp đồng dự án quy định cam kết về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của Nhà đầu tư và Cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mối quan hệ giữa nhà nước và Nhà đầu tư. Tuy nhiên, theo tác giả thì định nghĩa phù hợp hơn cả tại Việt Nam hiện nay được quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 15/2015/NĐCP ngày 14/2/2015 của Chính phủ, cụ thể: “Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (sau đây gọi tắt là PPP) là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện, quản lý, vận hành dự án kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công”
- 10 Với định nghĩa hợp đồng PPP nêu trên, Nhà nước Việt Nam đã nhìn nhận hợp đồng PPP từ khía cạnh là một quá trình đầu tư của nhà đầu tư (nhấn mạnh tiến trình từ việc nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đến việc kinh doanh công trình đó và chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước Việt Nam) và mối quan hệ chủ thể. Bên cạnh đó, các yếu tố nhượng quyền và tính tài trợ dự án là những thành tố hết sức quan trọng của hợp đồng PPP đã được thừa nhận và là những thành phần buộc phải có trong định nghĩa về hợp đồng PPP. 1.1.2. Sự khác nhau giữa mô hình Nhà nước–Tư nhân và mô hình tư nhân hóa 1.1.2.1. Quá trình hình thành khái niệm tư nhân hóa, sự tham gia của khu vực tư nhân. Khi mới bắt đầu “mở cửa’ lĩnh vực dịch vụ công cho khu vực tư nhân vào đầu tư, các nhà làm chính sách gọi đó là quá trình tư nhân hóa. Sau một thời gian, người ta nhận thấy cách gọi đó không thích hợp lắm vì kinh doanh hàng hóa công không hoàn toàn giống với kinh doanh hàng hóa tư và chính quyền vẫn có trách nhiệm bảo đảm cung ứng (providing) đầy đủ dịch vụ công dù rằng việc sản xuất (producing) chúng đã chuyển giao cho khu vực tư nhân. Do đó người ta thay từ tư nhân hóa bằng từ sự tham gia của khu vực tư nhân (Private Sector Participation/PSP). Tuy vậy, cụm từ này vẫn chưa phản ánh đúng thực chất của chính sách thu hút tư nhân vào lĩnh vực dịch vụ công nên khoảng vài năm gần đây người ta dùng cụm từ quan hệ đối tác côngtư (PublicPrivate Partnership/PPP). Cách gọi này thể hiện quan hệ bình đẳng cùng chia sẻ lợi ích, trách nhiệm và rủi ro giữa chính quyền, bên cung ứng và cộng đồng tiêu dùng dịch vụ. 1.1.2.2. Sự khác biệt giữa tư nhân hóa và quan hệ đối tác côngtư Xuất phát từ những nghiên cứu về khái niệm và bản chất của thỏa thuận PPP như đã nêu trên, chúng ta nhận thấy Thỏa thuận PPP khác với tư nhân hóa (trừ một số trường hợp đặc biệt). Tư nhân hóa đồng nghĩa với việc nhà nước thoát vốn (divesture) hay từ bỏ quyền sở hữu, quản lý và chuyển giao các quyền
- 11 này cho nhà đầu tư tư nhân, đồng thời nhà nước quản lý thông qua luật pháp, quy định chuyên ngành. Trong khi đó, với PPP nhà nước vẫn giữ nguyên quyền quản lý, kiểm soát nhất định, đồng thời có thể đặt ra những chuẩn mực, yêu cầu ràng buộc về cam kết chất lượng và dịch vụ đối với nhà cung cấp tư nhân. Hơn nữa, tư nhân hóa và xã hội hóa đều đề cập đến quá trình mở cửa một ngành hay một lĩnh vực thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước nắm độc quyền, cho khu vực phi nhà nước (tư nhân) tham gia với nhiều hình thức. Tuy vậy giữa hai khái niệm đó vẫn có sự khác nhau rất lớn, không chỉ vì bên tham gia là khu vực tư nhân mà thôi (trong tư nhân hóa) hay bao gồm nhiều thành phần hơn, kể cả cộng đồng (trong xã hội hóa), mà chủ yếu là ở mối quan hệ giữa chính quyền với bên cung ứng dịch vụ. Trong tư nhân hóa, sau khi đã chuyển giao công việc kinh doanh (đầu tư xây dựng, vận hành và phân phối dịch vụ) cho tư nhân thì chính quyền chỉ còn làm công việc quản lý nhà nước thông qua các công cụ luật pháp, hành chính, tài chính (thuế), mọi rủi ro kinh doanh đều do tư nhân gánh chịu. Trong xã hội hóa, mà cụ thể là hình thức đối tác côngtư, ngoài trách nhiệm quản lý nhà nước chính quyền còn là một bên đối tác tham gia có quyền lợi và trách nhiệm rõ ràng. Có thể nói thực chất mối quan hệ đó là “quan hệ ba chia sẻ”, tức là cùng chia sẻ lợi ích, cùng chia sẻ trách nhiệm và cùng chia sẻ rủi ro. (lưu ý: lợi ích/benefit chứ không phải lợi nhuận/profit). Mức độ chia sẻ trong từng mặt có thể nhiều ít khác nhau tùy theo mô hình PPP được lựa chọn áp dụng, nhưng vẫn phải bao gồm cả ba mặt đó. Mô hình PPP cho phép vận dụng cơ chế thị trường vào lĩnh vực cung ứng dịch vụ công. Việc lựa chọn đối tác tư nhân thường được thực hiện thông qua đấu thầu. Nguồn: http://www.vncold.vn/Web/Content.aspx?distid=275 bài của tiến sỹ: Phạm Sỹ Liêm 1.1.3. Các loại mô hình hợp tác giữa Nhà nước – Tư nhân 1.1.3.1. Giới thiệu về các mô hình hợp tác PPP tại Việt Nam
- 12 Các mô hình hợp tác nhà nước Tư nhân thông qua hình thức hợp đồng PPP được áp dụng trên thế giới rất đa dạng. Tuy nhiên, tại Việt Nam cũng đã hình thành và áp dụng theo một số nghiên cứu sau đây. Theo quy định tại Nghị định 71/2010/QĐTTg ngày 9/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ thì mô hình hợp đồng dự án PPP được quy định và thực hiện: “ Hợp đồng dự án là hợp đồng được ký kết giữa Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Nhà đầu tư, trong đó, nhà nước nhượng quyền cho Nhà đầu tư được phép đầu tư, khai thác công trình, cung cấp dịch vụ công trong một thời gian nhất định. Căn cứ tính chất của từng Dự án cụ thể, Hợp đồng dự án quy định cam kết về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của Nhà đầu tư và Cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mối quan hệ giữa nhà nước và Nhà đầu tư”. Việc quy định trên thực tế trong triển khai thực hiện áp dụng là rất khó khăn, chưa hoàn toàn phù hợp với điều kiện của Việt Nam, không phát huy được hết tiềm năng kết hợp mô hình nhà nướctư nhân như mong đợi. Do vậy, Chính phủ đã ban hành Nghị định 15/2015/NĐCP ngày 14/2/2015 để thay thế, bổ sung các quy định phù hợp hơn về mô hình hợp tác giữa nhà nước tư nhân thông qua các hình thức hợp đồng khác nhau, nhằm tạo điều kiện cho khu vực tư nhân có thể dễ dàng tham gia với nhà nước để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, hoàn thiện cơ sở hạ tầng nói chung. Tại Nghị định 15/2015/NĐ CP ngày 14/2/2015, Chính phủ đã ban hành gồm 07 (bảy) hình thức hợp đồng PPP, gồm: (1) . Hợp đồng Xây dựng Kinh doanh Chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BOT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- 13 (2). Hợp đồng Xây dựng Chuyển giao Kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BTO) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định. (3). Hợp đồng Xây dựng Chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được thanh toán bằng quỹ đất để thực hiện Dự án khác theo các điều kiện quy định tại Khoản 3 Điều 14 và Khoản 3 Điều 43 Nghị định này. (4). Hợp đồng Xây dựng Sở hữu Kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BOO) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư sở hữu và được quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định. (5). Hợp đồng Xây dựng Chuyển giao Thuê dịch vụ (sau đây gọi tắt là hợp đồng BTL) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư theo các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định này. (6). Hợp đồng Xây dựng Thuê dịch vụ Chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BLT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư theo các điều kiện quy định tại Khoản
- 14 2 Điều 14 Nghị định này; hết thời hạn cung cấp dịch vụ, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. (7). Hợp đồng Kinh doanh Quản lý (sau đây gọi tắt là hợp đồng O&M) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để kinh doanh một phần hoặc toàn bộ công trình trong một thời hạn nhất định. 1.1.3.2. Các yếu tố chủ yếu của mô hình hợp tác PPP tại Việt Nam Phân tích các mô hình kể trên, có thể nêu ra các yếu tố chủ yếu tạo nên một hợp đồng PPP bao gồm: (1) Mục đích thiết lập quan hệ đối tác: thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển cung ứng dịch vụ công cộng; (2) Các bên đối tác: Bên A là chính quyền hoặc cơ quan, doanh nghiệp nhà nước đang cung ứng dịch vụ công được ủy quyền; Bên B là một hay một nhóm doanh nghiệp tư nhân (private partner) hay bên tư nhân (private party). Theo thông lệ, bên tư nhân thành lập một doanh nghiệp chuyên trách, mà Nghị định 108/2009/ NĐCP của Chính phủ nước ta gọi là doanh nghiệp dự án, để thực hiện hợp đồng. (3) Hợp đồng quan hệ đối tác là có thời hạn, được thiết lập dựa trên sự đồng thuận, thể hiện sự bình đẳng trong quan hệ đối tác và có tính ràng buộc pháp lý cao; (4) Nội dung của quan hệ đối tác có thể bao gồm một số các mục sau đây: Bỏ vốn thiết kế và xây dựng (build) tiện ích; Vận hành (operate), tức là làm cho tiện ích hoạt động, bảo trì tiện ích và cung ứng dịch vụ; Bảo trì (maintain), tức là duy tu bảo dưỡng tiện ích thường xuyên và định kỳ để tiện ích duy trì được năng lực thiết kế; Quản lý là tổ chức, điều hành cung ứng dịch vụ và thu phí (manage);
- 15 Sở hữu tiện ích trong thời hạn hợp đồng (own); Chuyển giao (transfer) cho bên đối tác kia, thường là khi hết hạn hợp đồng bên tư nhân chuyển giao không hoàn lại tiện ích cho bên chính quyền, mà cũng có thể là bên chính quyền mua lại tiện ích (để khuyến khích bên tư nhân duy trì tình trạng tốt của tiện ích cho đến khi hết hạn); có khi là chính quyền chuyển giao có hoàn lại một tiện ích cho bên tư nhân để họ nâng cấp, cải tạo và quản lý vận hành trong một thời hạn; Cho thuê (lease) là việc chính quyền bỏ vốn đầu tư xây dựng tiện ích rồi ký kết hợp đồng cho bên tư nhân thuê để quản lý vận hành trong một thời hạn; Nhượng bán tiện ích công cho bên tư nhân. 1.1.3.3. Một số nguyên tắc cơ bản của Hợp đồng PPP thành công Kinh nghiệm quốc tế cho thấy để thương thảo thành công Hợp đồng PPP thì phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau đây: (1). Chính quyền phải xem mục đích chính của vụ giao dịch là để có được dịch vụ chứ không phải để mua sắm tài sản (tức là trả tiền cho dịch vụ được cung ứng chứ không phải trả tiền cho tiện ích được xây dựng xong); (2).Hai bên phải xem vụ giao dịch không phải là hợp đồng muabán mà là hợp đồng quan hệ đối tác, trong đó hai bên cùng chia sẻ lợi ích, trách nhiệm và rủi ro; (3). Cần xác nhận rõ trong quá trình thương thảo là hai bên có đủ năng lực hoàn thành phần việc cam kết. Bên tư nhân phải có đầy đủ khả năng và động lực tham gia. Bên chính quyền phải am hiểu thị trường, hiểu biết về kinh doanh và có năng lực quản lý hợp đồng; (4). Sự tương tác là cần thiết trong quá trình tổ chức đấu thầu chọn đối tác tư nhân; trong thương thảo hợp đồng cần có tinh thần hợp tác và nhẫn nại, biết tự kiềm chế. Nhất định sẽ có những căng thẳng cạnh tranh, nhưng phải nhìn nhận và xử lý chúng đúng đắn.
- 16 (5). Phải chuẩn bị rất kỹ về: Định nghĩa các đầu ra; Sự đồng thuận của các bên tham gia; Một quá trình phê chuẩn rành mạch; Phân bổ các quyền sở hữu; Nhận diện các quyền hạn và trách nhiệm; Phân tích tài chính; Một mô hình kinh doanh rành mạch;Tiến độ rõ ràng và có tính thực tiễn; Tính linh hoạt cần có của hợp đồng PPP để có thể xét điều chỉnh bổ sung các mục tiêu mới và quy trình giám sát, báo cáo trong tương lai; Phân bổ rủi ro cho bên nào có khả năng và có động lực quản lý chúng một cách tốt nhất. 1.1.4. Động cơ thúc đẩy việc tham gia vào mô hình Nhà nước Tư nhân Theo nghiên cứu của tác giả thì có ba nguyên nhân chính thúc đẩy chính phủ tham gia vào mối quan hệ đối tác nhà nước tư nhân là: Thứ nhất: Thu hút vốn đầu tư tư nhân (thường bổ sung cho nguồn vốn nhà nước hoặc giải phóng cho nguồn vốn nhà nước để sử dụng vào những nhu cầu khác của nhà nước). Các chính phủ đối mặt với nhu cầu ngày càng tăng trong việc tìm đủ nguồn tài chính để phát triển và duy trì cơ sở hạ tầng theo yêu cầu của sự gia tăng của dân số. Các chính phủ gặp khó khăn bởi nhu cầu đô thị hóa ngày càng tăng, nhu cầu tu bổ những cơ sở hạ tầng đã được xây dựng lâu năm, nhu cầu mở rộng mạng lưới dịch vụ cho dân số mới tăng lên và nhu cầu đem lại dịch vụ cho những khu vực trước đây chưa được cung cấp hoặc được cung cấp chưa đầy đủ. Hơn nữa, các dịch vụ cơ sở hạ tầng thường có doanh thu thấp hơn chi phí, vì vậy phải bù đắp thông qua trợ cấp và do đó làm cho nguồn lực nhà nước bị hao mòn thêm. Cùng với khả năng tài chính hạn chế của chính phủ, những áp lực kể trên dẫn tới mong muốn huy động vốn từ khu vực tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng. Được cơ cấu một cách phù hợp, mối quan hệ đối tác nhà nước tư nhân có thể huy động các nguồn lực trước đây chưa được khai thác của khu vực tư nhân tại địa bàn sở tại, trong khu vực đang tìm kiếm các cơ hội đầu tư. Mục đích của khu vực tư nhân trong việc tham gia vào mối quan hệ đối tác nhà nước tư nhân là tạo ra lợi nhuận từ năng lực và kinh nghiệm quản lý kinh
- 17 doanh của mình (đặc biệt là trong ngành dịch vụ công ích). Khu vực tư nhân tìm kiếm sự đền bù cho các khoản đầu tư vào các dịch vụ bằng các khoản phí dịch vụ, mang lại một khoản hoàn vốn đầu tư phù hợp. Thứ hai: Mối quan hệ đối tác nhà nước tư nhân là công cụ để đạt hiệu quả lớn hơn. Sử dụng hiệu quả các nguồn lực hiếm hoi của nhà nước là một thách thức lớn đối với chính phủ và là một trong những nguyên nhân chính làm nhiều chính phủ không hoàn thành được các mục tiêu đặt ra. Nguyên nhân là do đặc thù của khu vực nhà nước có quá ít hoặc không có động cơ thiết lập tính hiệu quả trong tổ chức và quy trình hoạt động của mình, vì thế có vị thế không thuận lợi trong việc xây dựng và điều hành các cơ sở hạ tầng một cách hiệu quả. Việc đưa những động cơ khuyến khích như vậy vào khu vực nhà nước là khó khăn, mặc dù không phải không thực hiện được. Singapore đã chứng tỏ được điều này bằng việc phát triển một hệ thống cơ quan chính phủ hoạt động vì mục tiêu hiệu quả trong khi vẫn duy trì nhiều dịch vụ quan trọng thuộc khu vực nhà nước. Thứ ba: Mối quan hệ đối tác nhà nước tư nhân là chất xúc tác cho cải cách khu vực rộng rãi hơn. Chính phủ đôi khi coi mối quan hệ nhà nước tư nhân là một chất xúc tác kích thích việc thảo luận và cam kết rộng rãi hơn về chương trình cải cách trong lĩnh vực, trong đó mối quan hệ đối tác nhà nước tư nhân chỉ là một bộ phận cấu thành. Một vấn đề then chốt là luôn luôn phải tái cơ cấu và làm rõ vai trò của các bên. Đặc biệt cần kiểm tra lại và phân bổ lại vai trò của các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, nhà cung cấp dịch vụ, đặc biệt nhằm huy động vốn, đạt hiệu quả như đã trình bày ở trên. Một chương trình cải cách bao gồm mối quan hệ nhà nước tư nhân mang tới cơ hội xem xét lại việc phân bổ vai trò của các bên nhằm xoá bỏ xung đột có khả năng xảy ra và công nhận một tổ chức tư nhân như là một bên có khả năng tham gia. Tiến hành một giao kết quan hệ nhà nước tư nhân cụ thể thường thúc đẩy từng bước cải cách nhằm hỗ trợ việc phân bổ mới vai trò của các bên, chẳng hạn như việc thông qua
- 18 các điều luật, thành lập những cơ quan quản lý riêng biệt. Đặc biệt việc kiểm tra lại các các thoả thuận chính sách và điều tiết quản lý là những vấn đề tối quan trọng đối với thành công của một dự án PPP. Theo phân tích trên, ba động cơ để áp dụng hiệu quả mô hình PPP là thu hút vốn đầu tư tư nhân, gia tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực có sẵn và tạo ra động cơ cũng như nâng cao trách nhiệm giải trình. Nhìn từ góc độ Nhà nước, ưu điểm lớn nhất của hợp tác công – tư là giảm được gánh nặng cũng như rủi ro đối với ngân sách. Ví dụ, đối với một dự án BOT, các nhà đầu tư tư nhân phải chịu hoàn toàn gánh nặng tài chính cũng như rủi ro về vận hành. Hơn thế, mô hình PPP giúp giải quyết được vấn đề kém hiệu quả. Vì mục tiêu lợi nhuận nên các nhà đầu tư tư nhân phải tìm cách để dự án được vận hành hiệu quả hơn. Thêm vào đó, với việc tham gia của khu vực tư nhân, sự sáng tạo, trách nhiệm giải trình cũng như sự minh bạch có khả năng sẽ được cải thiện. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của mô hình PPP là chi phí lớn hơn do các nhà đầu tư tư nhân yêu cầu một suất sinh lợi cao hơn. Hợp tác côngtư (PPP) trong bối cảnh hiện nay, nếu có sự phối hợp chặt chẽ của Chính phủ, các tập đoàn xuyên quốc gia và cộng đồng doanh nghiệp thì hiệu quả của nó sẽ lớn hơn rất nhiều. Nền tảng là hình mẫu cho quan hệ đối tác côngtư và hết sức cần thiết để Chính phủ Việt Nam mở rộng phát triển nền kinh tế. Nó sẽ cung cấp động lực để truyền cảm hứng cho nhiều sáng kiến ở cấp tỉnh, cấp quốc gia để có thể giảm thiểu rủi ro và huy động tối đa các nguồn lực từ khu vực tư nhân. 1.2. Vai trò nguồn vốn tư nhân và nguồn vốn nhà nước trong dự án PPP 1.2.1. Cấu trúc về nguồn vốn của dự án PPP
- 19 Sau khi thỏa thuận PPP được ký kết sẽ là căn cứ triển khai thực hiện Dự án PPP theo quy định, theo đó việc thực hiện trách nhiệm huy động vốn góp cho Dự án PPP là hết sức quan trọng. Việc góp vốn và nguồn gốc huy động vốn là yếu tố quyết định để một dự án PPP hiệu quả, thành công hay không. Nếu việc huy động vốn của một trong các bên không thực hiện theo đúng tiến độ thì sẽ dẫn tới Dự án PPP kém hiệu quả hoặc không thực hiện được, dẫn đến thất bại. Do vậy, để phát huy được hiệu quả dự án trước hết cần xác định được tỷ lệ góp vốn của các bên tham gia trong dự án PPP. Cơ cấu nguồn vốn góp dự án PPP gồm 2 nguồn chính, gồm: 1.2.1.1. Vốn góp của nhà đầu tư tham gia thực hiện dự án PPP Nhà đầu tư có tránh nhiệm góp vốn chủ sở hữu và huy động các nguồn vốn khác (từ các tổ chức tín dụng hoặc cá nhân khác) để thực hiện dự án PPP. Để đảm bảo năng lực của mình đối với từng dự án PPP cụ thể thì có thể quy định tỷ lệ vốn chủ sở hữu và vốn huy động sẽ khác nhau. Tuy nhiên hiện nay, một dự án PPP có tính hiệu quả cao thì tỷ lệ hay cơ cấu sở hữu vốn, huy động vốn cần đảm bảo như sau: Tỷ lệ vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư không được thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư dự án PPP. Đối với dự án có tổng vốn đầu tư trên 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu được xác định theo nguyên tắc lũy tiến từng phần như sau:(a) Đối với phần vốn đến 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu không được thấp hơn 15% của phần vốn này;(b) Đối với phần vốn trên 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu không được thấp hơn 10% của phần vốn này. Còn trước đây theo Quyết định 71/2010/QĐTTg năm 2010, thì phần đóng góp của nhà đầu tư tư nhân, quy chế quy định: vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư trong dự án phải đảm bảo tối thiểu bằng 30% phần vốn của khu vực tư nhân tham gia dự án. Nhà đầu tư có thể huy động vốn vay thương mại và các nguồn vốn khác (không có bảo lãnh Chính phủ) tới mức tối đa bằng 70% phần vốn của khu vực tư nhân tham gia dự án. Điều đáng nói nhất ở quy định này chính là việc sẽ không có chuyện bảo lãnh Chính phủ cho các nhà đầu tư tư nhân vay vốn.
- 20 Giải thích về điều này, có thể nói nguyên tắc cơ bản nhất là phần tham gia của khu vực tư nhân trong dự án PPP phải đảm bảo không dẫn đến nợ công. Do vậy, đã không phát huy được hiệu quả huy động các nguồn vốn theo như kỳ vọng của chính sách này. 1.2.1.2. Vốn đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án PPP. Theo quy định tại Quy chế Thí điểm đầu tư theo hình thức PPP (Quyết định 71/2010/QĐTTg năm 2010), thì tổng giá trị phần tham gia của Nhà nước không vượt quá 30% tổng mức đầu tư của dự án, trừ trường hợp khác mà dự án có tính đặc thù , chuyên biệt. Phần tham gia này của Nhà nước nhằm đảm bảo dự án đủ sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư và căn cứ tính chất của từng dự án cụ thể, vốn Nhà nước có thể được dùng để trang trải một phần chi phí của dự án, xây dựng công trình phụ trợ, tổ chức bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư hoặc các công việc khác trong trường hợp cần thiết. Việc quy định trên cũng dẫn đến không phát huy được tiềm năng của các lĩnh vực mà cần có sự tham gia của nhà nước và tư nhân PPP. Tuy nhiên hiện nay, tùy vào tình hình của mỗi dự án PPP và tùy vào ngân sách nhà nước theo từng giai đoạn thời điểm mà nhà nước quyết định việc góp vốn bằng tiền hay bằng hình thức khác vào các Dự án PPP. Mặt khác nguồn vốn đầu tư của nhà nước tham gia vào dự án PPP chỉ bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa phương, vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài. Việc đa dạng hóa các nguồn vốn của nhà nước nhằm đảm bảo tính khả thi và khả năng góp vốn của bên phía nhà nước. Tuy nhiên phần vốn góp của nhà nước thông thường chỉ được thực hiện vào một số vài trò mục tiêu đầu tư nhất định trong mỗi dự án PPP theo từng thời điểm. Thông thường vốn đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án PPP được sử dụng để thực hiện các hoạt động có mục đích: (a) Góp vốn để hỗ trợ xây dựng công trình đối với dự án có hoạt động kinh doanh, thu phí từ người sử dụng, nhưng khoản thu không đủ để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận; (b)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 8 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 23 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 10 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 3 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 9 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn