BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THANH NGỌC
ƯỚC LƯỢNG SUẤT SINH LỢI
CỦA VIỆC SỬ DỤNG ĐIỆN
Nghiên cứu trường hợp nông thôn Việt Nam
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-----o0o-----
NGUYỄN THỊ THANH NGỌC
ƯỚC LƯỢNG SUẤT SINH LỢI
CỦA VIỆC SỬ DỤNG ĐIỆN
Nghiên cứu trường hợp nông thôn Việt Nam
Chuyên ngành : Kinh tế phát triển
Mã số
: 60.31.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Giảng viên hướng dẫn khoa học
TS. TRẦN TIẾN KHAI
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2009
-iii-
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADB : Ngân hàng phát triển Châu Á
Bộ LĐ - TB&XH : Bộ Lao động –Thương binh và Xã hội
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH : Đồng bằng sông Hồng
DID : Khác biệt trong khác biệt
GDP : Tổng thu nhập quốc nội
OLS : Phương pháp bình phương bé nhất
MOI
: Bộ Công Nghiệp
UNDP : Tổ chức phát triển Liên Hiệp Quốc
XHH : Xã Hội Học
WB : Ngân hàng Thế giới
WTP : Mức sẵn lòng chi trả
-iv-
DANH MỤC HÌNH VẼ & BẢNG BIỂU
1. Hình vẽ
Hình 2.1 Minh hoạ cách tiếp cận của WB sử dụng trong nghiên cứu đánh giá tác động
của chương trình điện khí hoá nông thôn tại Philippines ................................................. 11
Hình 2.2 Tỷ lệ thu nhập theo giới tính............................................................................ 17
Hình 2.3 Minh hoạ phương pháp khác biệt trong khác biệt ........................................... 22
Hình 3.1 Mô tả mẫu nghiên cứu ..................................................................................... 32
Hình 3.2 Loại hình gia đình............................................................................................. 34
Hình 3.3 Số người phụ thuộc trong gia đình ................................................................... 35
Hình 3.4.1 Học vấn chủ hộ .............................................................................................. 36
Hình 3.4.2 Trình độ học vấn cao nhất năm 2002 và 2005............................................... 38
Hình 3.5 Tuổi của chủ hộ ................................................................................................ 40
Hình 3.6 Giới tính chủ hộ và thu nhập bình quân đầu người .......................................... 41
Hình 3.7 Diện tích đất sản xuất trung bình...................................................................... 42
Hình 3.8.1 Kiểu nhà......................................................................................................... 43
Hình 3.8.2 Diện tích đất xây dưng................................................................................... 44
Hình 3.9 Thu nhập bình quân đầu người theo xã có dự án ............................................. 46
Hình 3.10 Thu nhập bình quân đầu người theo lĩnh vực nghề nghiệp ............................ 47
2. Bảng
Bảng 2.1 Tóm tắt kết quả phương pháp ước lượng khác biệt trong khác biệt ................ 23
Bảng 3.1 Thu nhập bình quân đầu người theo nhóm hộ ................................................. 33
Bảng 3.2 Quy mô hộ gia đình.......................................................................................... 34
Bảng 3.4 Kết quả ước lượng mô hình sau khi kiểm soát các yếu tố ............................... 50
-v-
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Điện khí hoá nông thôn là một chương trình lớn của chính phủ trong nỗ lực góp
phần cải thiện môi trường sống, nâng cao trình độ dân trí và làm tăng thu nhập của các hộ
gia đình nông thôn. Chính vì vậy việc có một đánh giá tác động của chương trình là điều
cần thiết.
Khai thác bộ dữ liệu từ cuộc điều tra đánh giá tác động của Chương trình điện khí
hoá nông thôn tại Việt Nam do WB, MOI và Viện XHH thực hiện thời gian qua, nghiên
cứu tìm thấy mối tương quan giữa việc sử dụng điện với trình độ học vấn, tình trạng sức
khoẻ và khả năng tiếp cận với các phương tiện truyền thông đại chúng v.v của các hộ dân
vùng hưởng lợi.
Bằng phương pháp khác biệt trong khác biệt kết hợp mô hình hồi quy OLS, một
kết luận quan trọng được đưa ra là: Điện góp phần làm tăng 28,5% thu nhập bình quân
đầu người trung bình.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra hàng loạt các yếu tố khác có tác động trực tiếp và
gián tiếp lên mức thu nhập bình quân đầu người trong các hộ gia đình nông thôn.
Kết quả của nghiên cứu đã gợi ý nhiều tác động về mặt chính sách trong tương lai.
-vi-
MỤC LỤC
Lời cám ơn........................................................................................................................ i
Lời cam đoan .................................................................................................................... ii
Danh mục chữ viết tắt....................................................................................................... iii
Danh mục hình vẽ và bảng biểu ....................................................................................... iv
Tóm tắt kết quả nghiên cứu .............................................................................................. v
Mục lục ............................................................................................................................. vi
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU................................................... 1
1. Đặt vấn đề........................................................................................................................ 1
2. Giới hạn và phạm vi của nghiên cứu ............................................................................ 3
3. Mục tiêu của nghiên cứu .............................................................................................. 4
3.1. Mục tiêu chung ......................................................................................................... 4
3.2. Mục tiêu cụ thể .......................................................................................................... 4
4. Câu hỏi nghiên cứu....................................................................................................... 5
5. Kết cấu của luận văn..................................................................................................... 5
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............ 6
1. Lược khảo tài liệu......................................................................................................... 6
1.1. Các tác động của điện đối với thu nhập..................................................................... 6
1.2. Các phương pháp đánh giá tác động của điện ........................................................... 8
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập ......................................................................... 13
2. Giới thiệu phương pháp khác biệt trong khác biệt ....................................................... 21
3. Các phương pháp áp dụng trong nghiên cứu................................................................ 24
3.1. Phương pháp thống kê mô tả ..................................................................................... 24
3.2. Phương pháp khác biệt trong khác biệt .................................................................... 25
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................... 31
1. Mẫu nghiên cứu ............................................................................................................... 31
1.1. Cách thức chọn mẫu và cơ cấu mẫu ....................................................................... 31
1.2. Đơn vị nghiên cứu .................................................................................................. 31
1.3. Đơn vị thu thập thông tin........................................................................................ 31
2. Bảng câu hỏi .................................................................................................................... 31
-vii-
3. Mô tả dữ liệu.................................................................................................................... 32
3.1. Thu nhập hộ gia đình .............................................................................................. 32
3.2. Quy mô hộ gia đình ................................................................................................ 33
3.3. Số người phụ thuộc.............................................................................................. 35
3.4. Trình độ học vấn..................................................................................................... 36
3.5. Tuổi chủ hộ............................................................................................................. 39
3.6. Giới tính chủ hộ...................................................................................................... 40
3.7. Diện tích đất canh tác ............................................................................................. 41
3.8. Kiểu nhà.................................................................................................................. 43
3.9. Có thuộc dự án hay không...................................................................................... 45
3.10. Nghề nghiệp.......................................................................................................... 46
4. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy................................................................................ 50
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH................................................... 55
1. Kết luận ........................................................................................................................... 55
2. Gợi ý chính sách .............................................................................................................. 58
3. Những hạn chế của nghiên cứu ....................................................................................... 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 61
Tài liệu Tiếng Việt .......................................................................................................... 61
Tài liệu Tiếng Anh .......................................................................................................... 62
PHỤ LỤC ........................................................................................................................... PL
P a g e | 1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Đặt vấn đề
Công cuộc Đổi Mới hơn hai mươi năm qua tại Việt Nam đã mang lại những
thành tựu hết sức có ý nghĩa đối với đời sống kinh tế - xã hội. Với tốc độ tăng trưởng
liên tục giữ ở mức cao và ổn định trong thời gian qua, nền kinh tế đất nước đang trên
đà khởi sắc. Việt Nam phấn đấu trở thành nước đạt mức thu nhập trung bình quân
của thế giới vào năm 2010.
Cùng với những thành tích đáng khích lệ trong việc phát triển kinh tế, Việt
Nam cũng được WB đánh giá là một trong những quốc gia nơi thành công nhất trong
nỗ lực thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ đói nghèo (theo tiêu
chuẩn của WB) đã giảm từ 58% dân số vào năm 1993 xuống còn 20% dân số vào
năm 2004, trong khi cũng cùng thời gian đó, dân số đã gia tăng từ 70,3 triệu người
lên đến 80 triệu người (WB, 2005).
Trên thực tế, những nỗ lực của chính phủ trong việc xóa đói giảm nghèo
không chỉ bao gồm các chương trình hỗ trợ lương thực, cung cấp tín dụng, cung cấp
các dịch vụ giáo dục miễn phí v.v mà còn bao gồm cả việc đưa điện về với người
dân tại các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Những thay đổi từ quá trình
điện khí hóa được gắn với các mục tiêu dài hạn trong nỗ lực xóa đói giảm nghèo của
Chính phủ. Do đó, thành công cũng như tồn tại trong quá trình thực hiện chương
trình có thể sẽ là những kinh nghiệm quý báu để chia sẻ với các quốc gia khác có
hoàn cảnh tương đồng.
Trong thời gian qua, với sự hỗ trợ đắc lực của WB, Việt Nam đã triển khai
thực hiện chương trình điện khí hóa nông thôn với tiến độ và diện bao phủ tốt hơn
cả trong nhóm các quốc gia nhận được tài trợ của tổ chức này. Số liệu thống kê của
WB cho thấy, vào năm 1996 tại Việt Nam mức độ phủ điện chỉ là 6,031 triệu hộ gia
đình thuộc 5.698 xã khu vực nông thôn thì sau 10 năm thực hiện chương trình con số
này đã tăng lên 12,584 triệu hộ gia đình thuộc 10.609 xã khu vực nông thôn. Với tốc
độ tăng trưởng liên tục, hiện đã có 97,4% số xã nông thôn có điện lưới quốc gia. Như
P a g e | 2
vậy nếu tính trung bình thì cứ 1 ngày tại Việt Nam có thêm 1,3 xã và 1.795 hộ được
sử dụng điện (WB, 2006). Cũng theo thống kê mới nhất của tổ chức này, tính đến
tháng 6/2008, lưới điện quốc gia đã vươn tới 8.736/9.091 xã trên cả nước, đạt tỷ lệ
97,26% và vượt mục tiêu 90% số xã có điện của chính phủ đề ra tới năm 2010; trên
13/14,16 triệu hộ gia đình nông thôn được sử dụng điện, đạt 94,31% so với tỷ lệ 95%
mục tiêu của chính phủ đề ra tới năm 2015 (WB, 2008).
Những tác động tích cực của chương trình Điện khí hóa nông thôn đối với
việc cải thiện các mặt của đời sống kinh tế - xã hội là điều không thể phủ nhận. Nhờ
có sự phát triển ngày càng rộng khắp của mạng lưới điện quốc gia, đời sống của
người dân, đặc biệt là tại các vùng nông thôn đã được cải thiện, nâng cao cả về vật
chất lẫn tinh thần. Điện về làm thay đổi diện mạo bức tranh nông thôn; đẩy mạnh
quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thay đổi tập quán canh tác, chăn nuôi; giúp
tăng năng suất và sản lượng lương thực, hoa màu; phát triển công nghiệp chế biến;
mở ra nhiều ngành nghề mới theo hướng hiện đại hoá, công nghiệp hoá v.v. Đồng
thời, người dân có điều kiện mua sắm các phương tiện nghe nhìn, thông tin liên lạc,
nâng cao chất lượng đời sống tinh thần, kéo theo sự ổn định về an ninh trật tự cho
khu vực nông thôn v.v. (WB, 2008).
Tuy nhiên, hiện vẫn còn khoảng 230 xã và gần 1 triệu hộ dân ở vùng sâu,
vùng xa, vùng núi cao chưa có điện. Khoảng 6.000 xã cần được bảo dưỡng hệ thống
điện do mạng lưới ngày một xuống cấp, tỷ lệ thất thoát điện cao, thường xuyên ách
tắc trong quá trình truyền dẫn và phân phối. Điều đáng nói là giá điện ở khu vực
nông thôn, miền núi còn cao so với khả năng chi trả của người dân; tình trạng mất
điện, thiếu điện thường xuyên xảy ra, đặc biệt là vào giờ cao điểm v.v. Tình trạng
này không chỉ là hạn chế của ngành điện mà đang là nỗi bức xúc của người dân
(WB, 2008). Bên cạnh đó, việc đánh giá hiệu quả của chương trình điện khí hoá
nông thôn như thế nào cho đến hiện nay vẫn còn là một điều đáng bàn. Do đó, việc
có một nghiên cứu đánh giá tác động của chương trình là cần thiết nhằm mang lại
những thông tin hữu ích cho các bên liên quan. Đứng về phía các nhà làm chính
sách, việc đánh giá hiệu quả của chương trình còn cần thiết hơn vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, con số cụ thể về chi phí và lợi ích giúp cung cấp các chỉ báo quan
trọng để đưa ra các quyết định đúng trong việc lựa chọn dự án điện khí hóa này chứ
P a g e | 3
không phải dự án điện khí hóa khác, hay việc ra quyết định để chọn lựa dự án điện
khí hóa hay các dự án khác như giao thông hay giáo dục hoặc y tế v.v. cho vùng
nông thôn.
Thứ hai, những kiến thức về mức lợi ích của chương trình mang lại có thể là
một gợi ý quan trọng trong việc lựa chọn các quy mô dự án khác nhau cho từng địa
phương, từng khu vực và từng đối tượng.
Thứ ba, nấc thang lợi ích là một chỉ báo quan trọng giúp xác định một mức
giá hợp lý và trong trường hợp cần thiết, có thể là sự trợ giá từ phía chính phủ.
Cuối cùng, những lợi ích đã được lượng hóa là cần thiết để đưa ra những kết
luận mang tính khách quan về hiệu quả kinh tế của dự án. Nó đồng nghĩa với việc
một mục tiêu xã hội bất kỳ có thể đạt được khi sử dụng nguồn lực ít hơn và cách
thức để mang lại những lợi ích đó có thể được so sánh với các dự án khác.
Với những lý do kể trên, hy vọng kết quả phân tích của nghiên cứu này sẽ góp
phần làm sáng tỏ những tác động tích cực của chương trình điện khí hoá nông thôn
đối với việc nâng cao chất lượng cuộc sống cả người dân, đặc biệt cho những người
nghèo và người dân thuộc các dân tộc thiểu số.
2. Giới hạn và phạm vi của nghiên cứu
Luận văn sử dụng bộ số liệu của cuộc điều tra Đánh giá tác động chương trình
điện khí hoá nông thôn do Ngân hàng Thế giới (WB), Bộ Công Nghiệp (MOI) và
Viện Xã hội học (IOS) tiến hành điều tra tại 07 tỉnh: Hà Giang, Điện Biên, Hoà
Bình, Quảng Bình, Quảng Nam, Đắc Lắc và Sóc Trăng. Mỗi tỉnh có 6 xã được chọn
làm địa bàn nghiên cứu, trong đó chọn 3 xã có dự án điện nông thôn, 2 xã không có
dự án và 1 xã có điện để đối chiếu. Có 1.260 hộ được chọn vào mẫu nghiên cứu, bao
gồm 61% hộ gia đình là người dân tộc thiểu số thuộc 28 dân tộc.
Bộ dữ liệu của cuộc điều tra bao gồm nhiều thông tin thuộc các mặt của đời
sống kinh tế - xã hội như vấn đề thu nhập, việc làm, giáo dục, truyền thông, giải trí
v.v. Điểm đặc biệt về phương pháp nghiên cứu của cuộc điều tra này là kỹ thuật thu
thập thông tin lặp lại để so sánh những biến đổi kinh tế - xã hội diễn ra trong vòng 3
năm từ 2002 – 2005 nhằm so sánh những thay đổi của đời sống người dân trước và
sau khi sử dụng điện.
P a g e | 4
Như đã đề cập ở trên, những tác động của chương trình không chỉ gói gọn ở
khía cạnh kinh tế gia đình mà nó còn được kỳ vọng ở các mặt khác của đời sống như
vấn đề y tế, giáo dục, chất lượng cuộc sống, năng suất lao động, bình đẳng giới, bảo
vệ môi trường bền vững v.v. Tuy nhiên để phù hợp với khuôn khổ của một luận văn
tốt nghiệp, tác giả giới hạn lại vấn đề nghiên cứu trong phạm vi hẹp hơn: Đó là ước
lượng suất sinh lợi từ việc sử dụng điện (thể hiện bằng biến số thu nhập bình
quân đầu người). Điều này cũng có nghĩa là luận văn sẽ không sử dụng hết thông
tin của tất cả 1.260 hộ gia đình trong cuộc điều tra mà chỉ chọn ra một lượng mẫu
nhỏ hơn, phù hợp với tiêu chí mà luận văn đã đề ra.
Mặc dù phạm vi của đề tài đã bị giới hạn nhưng tác giả vẫn kỳ vọng kết quả
của nghiên cứu sẽ có ích trong việc gợi ý chính sách, nhất là trong bối cảnh hiện nay,
khi Chính phủ vừa có hàng loạt các quyết định quan trọng liên quan đến điện như
tăng giá bán, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này v.v.
Bản thân tác giả nhận thấy việc không thể đánh giá tất cả tác động của chương
trình điện khí hoá là một hạn chế lớn. Rất mong trong thời gian tới sẽ có thêm nhiều
nghiên cứu khác để việc đánh giá tác động của chương trình điện khí hoá nông thôn
trở nên hoàn thiện và có ý nghĩa hơn.
3. Mục tiêu của nghiên cứu
3.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của chương trình điện khí hóa nông thôn
đối với việc cải thiện và nâng cao điều kiện sống cho người dân.
Tính toán mức lợi ích mà người dân được hưởng thông qua áp dụng các kỹ
thuật phân tích trong khoa học xã hội liên ngành.
Tìm hiểu sự thay đổi trong điều kiện sống của người dân theo thời gian (đối
chiếu trước và sau khi có chương trình).
3.2 Mục tiêu cụ thể
Ước lượng suất sinh lợi của việc sử dụng điện đối với thu nhập bình quân đầu
người.
Tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng tới mức thu nhập bình quân đầu người.
P a g e | 5
4. Câu hỏi nghiên cứu
Điện đóng góp bao nhiêu % tổng thu nhập bình quân đầu người?
Yếu tố nào có ảnh hưởng lên mức thu nhập bình quân đầu người?
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn được chia làm 04 chương với các nội dung cụ thể sau:
Chương 1: Giới thiệu vấn đề nghiên cứu. Nội dung của chương này gồm phần
đặt vấn đề; giới hạn và phạm vi của nghiên cứu; mục tiêu nghiên cứu; câu hỏi nghiên
cứu và kết cấu của luận văn.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và Phương pháp nghiên cứu. Phần đầu, tác giả
lược khảo các tài liệu có liên quan. Phần tiếp theo là phần giới thiệu các phương
pháp được sử dụng trong luận văn, trong đó chú trọng đến phương pháp: Khác biệt
trong khác biệt - Phương pháp chính của luận văn.
Chương 3: Kết quả của nghiên cứu. Bước đầu bằng phương pháp thống kê mô
tả, tác giả mô tả bộ dữ liệu trong đó đặc biệt chú trọng đến các biến số sẽ được sử
dụng trong mô hình hồi quy. Các số liệu thống kê mô tả giúp người đọc hình dung ra
những khác biệt trong đặc điểm cơ sở của hai nhóm hộ gia đình được sử dụng để
phân tích trong nghiên cứu này. Phần cuối cùng là phần trình bày kết quả ước lượng
khác biệt về mặt thu nhập của hai nhóm hộ bằng phương pháp khác biệt trong khác
biệt kết hợp mô hình hồi quy OLS.
Chương 4 cũng là chương cuối cùng của luận văn. Nội dung của chương này
bao gồm phần tóm tắt các phát hiện chính của nghiên cứu và nêu các gợi ý về mặt
chính sách. Đồng thời trong chương này, tác giả cũng nêu những hạn chế của luận
văn và những gợi ý cho các nghiên cứu tiếp theo.
P a g e | 6
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Lược khảo tài liệu
1.1 Các tác động của điện đối với thu nhập
Cho đến nay, điện vẫn là nguồn năng lượng chưa thể thay thế, đóng vai trò
thiết yếu đối với sự phát triển của bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Các nghiên cứu
đi trước cũng đã chỉ ra rằng, có một mối liên hệ chặt chẽ giữa việc phát triển và sử
dụng nguồn điện đối với những nỗ lực nhằm nâng cao mức sống cho người dân, đặc
biệt cho người dân nông thôn ở các vùng sâu, vùng xa và nhóm người thuộc các dân
tộc thiểu số.
Ở Việt Nam, trước khi cuộc điều tra đánh giá về tác động của chương trình
điện khí hóa nông thôn do WB, MOI và Viện XHH tiến hành, chưa có một nghiên
cứu sâu và cụ thể về vấn đề này. Tuy nhiên trên thế giới, các công trình nghiên cứu
liên quan cho thấy, năng lượng điện đóng vai trò không thể thiếu cho sự phát triển
bền vững của bất cứ một quốc gia nào.
Theo ADB (2003) việc cung cấp điện năng một cách hiệu quả đã giúp (i) cải
thiện điều kiện sống của người dân, nâng cao dân trí và mở rộng hệ thống y tế và (ii)
giúp nông dân nghèo nâng cao năng lực sản xuất, tăng năng suất cây trồng, tạo thêm
nhiều việc làm mới và cải thiện nguồn thu nhập.
WB (2002) cũng đưa ra các kết luận khi nghiên cứu tác động của chương
trình điện khí hoá nông thôn tại Bangladesh. Theo đó, trong phạm vi hộ gia đình,
chương trình đã mang lại nhiều ảnh hưởng tích cực đối với người dân thông qua việc
môi trường sống được cải thiện một cách rõ rệt, mức thu nhập được nâng cao. Các
yếu tố khác như trình độ văn hóa, khả năng tiếp cận thông tin, y tế giáo dục v.v. cũng
đều có những chuyển biến tích cực. Nếu chỉ tính riêng về mặt thu nhập, thu nhập
trung bình của hộ gia đình có điện thuộc xã có dự án cao hơn thu nhập của những hộ
không có điện trong các xã không có dự án là 64,5% và cao hơn 126,1% so với
P a g e | 7
những hộ gia đình trong cùng xã nhưng không sử dụng điện.. Ngoài ra nghiên cứu
còn đi đến các kết luận là: (i) 9,3 % tổng thu nhập trong các hộ gia đình nông thôn ở
Bangladesh là do đóng góp của việc có sử dụng điện và (ii) giả định rằng, tất cả các
hộ gia đình nông thôn đều có điện thì tổng thu nhập - theo thời giá hiện hành - sẽ
tăng lên tới 1.775 tỷ Tk1. trong khi hiện tại con số đó chỉ là 1.105 tỷ Tk. Như vậy thu
nhập ròng hàng năm sẽ tăng thêm 671 tỷ Tk. (trong đó 290,8 tỷ Tk.hay 43,3% giá trị
tăng thêm đó là do có điện). Ước tính thu nhập ròng hàng năm do 100% số hộ gia
đình được điện khí hóa sẽ tương đương với 26% GDP hiện tại (khoảng 2.580 tỷ Tk. -
tính theo tỷ giá thời điểm tiến hành nghiên cứu). Đồng thời, nghiên cứu cũng kết
luận, điện làm gia tăng 16,4% trong tổng thu nhập của các hộ gia đình sử dụng điện
trong khi nó chỉ làm gia tăng 12% đối với các hộ không sử dụng điện (thuộc các xã
có dự án) (Ngoại tác tích cực).
Tại Indonesia, từ 1989-90 đến 2000-01, chương trình điện khí hóa nông thôn đã
góp phần làm tăng thu nhập trung bình hằng năm 8,4% cho mỗi hộ gia đình, đồng
thời góp phần tạo thêm các cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho 31% số người trả
lời (JBIC, 2002).
Nghiên cứu của tổ chức JICA tại Vanuatu cho thấy, có điện, cuộc sống của
người dân đã thay đổi một cách rõ rệt. Thu nhập của hộ gia đình được cải thiện đáng
kể do thời gian làm việc được kéo dài hơn (JICA, 2000).
Kết quả của Báo cáo: Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam (IDS, 2005) cho
thấy, điện là yếu tố có ý nghĩa thống kê trong phân tích thu nhập và chi tiêu của các
hộ gia đình nông thôn, nơi 71% hộ gia đình có điện. Tuy nhiên ở thành thị, nơi có
98% hộ có điện thì ngược lại, điện không phải là yếu tố ảnh hưởng nhiều đến chi tiêu
và thu nhập.
Từ kết quả của các nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy điện đóng vai trò
lớn trong việc góp phần nâng cao thu nhập của hộ gia đình nói chung và bản thân các
cá nhân nói riêng. Tuy nhiên để ước lượng suất sinh lợi của việc sử dụng điện, những
phương pháp nghiên cứu nào đã và đang được sử dụng? Phần tiếp sau đây sẽ đề cập
1 Đơn vị tiền tệ của Bangladesh.
đến vấn đề này.
P a g e | 8
1.2 Các phương pháp đánh giá tác động của điện đối với đời sống của người
dân vùng nông thôn
Trước đây trong các nghiên cứu của mình, Ngân hàng Thế giới thường dùng
hai chỉ số chi tiêu (expenditures) và chi phí tiết kiệm được (cost savings) để đo lường
lợi ích. Tuy nhiên trong một số nghiên cứu khác, thuế được sử dụng như là công cụ
đo lường. Lý luận của việc sử dụng thuế dựa trên giả định rằng người ta sẵn lòng trả
cho các dịch vụ điện ít nhất bằng với mức thuế phải trả. Việc sử dụng thước đo này
có thể là một cách dễ dàng để lượng hóa các lợi ích nhưng nó cũng rất dễ dẫn tới
những sai lầm không đáng có. Nếu trong thuế đã bao gồm cả phần trợ cấp của chính
phủ thì sử dụng thuế để đo lường lợi ích sẽ dẫn tới sai lầm nghiêm trọng. Trong
trường hợp này, tổng lợi ích của xã hội không bằng với tổng lợi ích của tất cả người
tiêu dùng.
Trong một số nghiên cứu khác, WB sử dụng khái niệm thặng dư người tiêu
dùng để ước lượng tổng lợi ích của việc sử dụng điện. Tuy nhiên, thặng dư người
tiêu dùng chỉ được tối đa hoá trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo. Nếu giá thị
trường được quyết định bởi một nhà độc quyền hoặc sản phẩm đó là một hàng hóa
công được chính phủ trợ cấp thì việc dùng thước đo thặng dư người tiêu dùng để đo
lợi ích sẽ là không thỏa đáng. Cả hai điều này lại rất đúng với hàng hoá là điện tại
Việt Nam. Do đó sẽ không chính xác khi tính lợi ích của người tiêu dùng điện ở Việt
Nam thông qua việc tính toán mức thặng dư người tiêu dùng. Mặt khác, nếu có thể
quan sát tất cả các mức tiêu thụ điện của các hộ gia đình ở các mức giá khác nhau,
thì diện tích dưới đường cầu chính là tổng lợi ích của người tiêu dùng. Giả định rằng
mức sẵn lòng chi trả bằng ít nhất với tổng lợi ích nhận được thì đường cầu cung cấp
một thang đo lợi ích tại mỗi mức tiêu thụ điện. Như vậy lợi ích của dự án chính là
mức thặng dư người tiêu dùng. Thang đo này được dùng để đánh giá hiệu quả tiềm
năng của dự án. Song việc dùng thang đo thặng dư người tiêu dùng cũng làm nảy
sinh một số vấn đề sau:
Thứ nhất: rất khó có thể quan sát các mức tiêu dùng tại các mức giá khác
nhau.
Thứ hai: phương pháp trên giả định mức tiêu dùng không phụ thuộc vào độ
lớn của thu nhập. Thêm một giả định hợp lý nữa là đường cầu sẽ dịch chuyển lên
P a g e | 9
trên về phía bên phải khi thu nhập tăng lên. Như vậy tại một mức giá bất kỳ, người
có mức thu nhập cao hơn sẽ có xu hướng tiêu dùng nhiều điện năng hơn. Ngoài ra
trong trường hợp giá điện giảm, mức tiêu thụ này còn ảnh hưởng do tác động thay
thế và tác động thu nhập. Theo cách tiếp cận này, tác động thay thế và tác động thu
nhập bị bỏ qua.
Thứ ba: cách tiếp cận trên giả định đường cầu không phụ thuộc vào mức giá
cũng như mức tiêu thụ của hàng hóa và dịch vụ thay thế. Đường cầu sẽ dịch chuyển
ra bên ngoài nếu giá của các mặt hàng phụ trợ trở nên rẻ một cách tương đối. Ngược
lại, đường cầu sẽ dịch chuyển vào bên trong nếu sản phẩm thay thế trở nên rẻ hơn
v.v.
Về mặt nguyên tắc, để ước lượng lợi ích mà chương trình mang lại, người ta
sẽ tính toán sự khác nhau trong lợi ích được hưởng thụ của cả hộ có và không sử
dụng điện. Cộng tổng các mức lợi ích đó lại - tương đương với mức sẵn lòng chi trả
của các hộ gia đình - willing to pay - (WTP) sẽ ra tổng lợi ích của việc sử dụng điện.
Do đó trong một số nghiên cứu liên quan đến đo lường lợi ích, WB cũng áp dụng
cách tính toán mức WTP dựa trên giả định số tiền người tiêu dùng sẵn sàng chi trả để
đổi lấy việc được tiêu dùng điện chính là lợi ích của việc sử dụng điện. Song thước
đo WTP chỉ chính xác khi đi kèm với nó là những giả định chặt chẽ, rất khó đáp ứng
được trên thực tế. Hơn thế nữa, ngay cả khi những giả định này được đáp ứng đầy đủ
thì chỉ báo WTP lại không đo lường được những ngoại tác tích cực như lợi ích thông
qua việc kéo dài thời gian học hành, lợi ích để có được thời gian làm việc dài hơn
v.v. Do đó mức WTP này cũng sẽ không thể hiện được lợi ích ròng của việc sử dụng
điện. Điều này nói lên một thực tế là cần phải xem xét lợi ích từ việc có điện dựa
trên tổng thể các nguồn lợi ích khác nhau - dù chúng có thể được đo lường một cách
trực tiếp hay gián tiếp.
Tóm lại, trong khi các cách tiếp cận trên có những điểm mạnh riêng nhưng
một điểm yếu chung nhất đó là nó đã thất bại khi không đo lường được những lợi ích
vô hình như cải thiện việc chăm sóc sức khỏe, nâng cao trình độ dân trí hay cải thiện
chất lượng cuộc sống cho người dân.
Trong những năm gần đây, các tổ chức quốc tế đã chú trọng đến việc tính
toán lợi ích của quá trình điện khí hóa và coi nó như là kết quả của việc giảm đói
P a g e | 10
nghèo, tăng thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, các nghiên cứu này
cũng đã chỉ ra rằng một số lợi ích không dễ dàng lượng hóa và các tác động của
chúng là các tác động qua lại. Những mối quan hệ không độc lập như vậy không
phản ảnh được trong các chi phí hoặc các chỉ số tài chính riêng biệt.
Gần đây, trong nghiên cứu: Đánh giá tác động của chương trình điện khí hoá
nông thôn tại Philippine (WB, 2002) người ta dựa trên giả định: bản thân việc sử
dụng điện không tạo ra thu nhập mà nó chỉ được coi là một hàng hoá đầu vào để tạo
ra hàng hóa và dịch vụ cuối cùng. Những sản phẩm dịch vụ có được từ quá trình điện
khí hóa như là thắp sáng, làm lạnh, bảo quản thực phẩm, máy bơm nước, sử dụng
các phương tiện nghe nhìn v.v. sẽ tạo ra lợi ích cho người tiêu dùng thông qua việc
nâng cao dân trí, cung cấp các dịch vụ giải trí và truyền thông, bảo vệ sức khỏe, sự
an toàn, thoải mái, tăng năng suất lao động v.v. Tổng cộng của các tác động đó cuối
cùng sẽ làm gia tăng thu nhập hộ gia đình. Với cách tiếp cận của nghiên cứu này, các
tác giả đã tính toán các mức lợi ích như sau:
- Lợi ích của giáo dục bao gồm thời gian học/đọc sách tăng lên cũng như các cơ
hội tiếp cận với chương trình tự học trên truyền hình v.v.
- Lợi ích mang tới cho sức khỏe thông qua việc giảm tỷ lệ bệnh tật do cải thiện
nguồn không khí, nguồn nước tốt hơn do sử dụng nước ngầm, bảo quản thức ăn và
tiếp cận các thông tin chăm sóc sức khỏe qua các phương tiện truyền thông đại
chúng v.v.
- Lợi ích từ việc giải trí và truyền thông bao gồm sự gia tăng các mối quan hệ
với bạn bè và gia đình vào thời gian buổi tối, tiếp cận các chương trình giải trí trên
truyền hình v.v.
- Lợi ích của sự thoải mái, thuận lợi và an toàn gồm sự giảm của tội phạm,
giảm thời gian dành cho những công việc vặt trong gia đình như nấu ăn, giặt giũ, lau
nhà, kiếm củi và lấy nước v.v.
- Lợi ích do tăng năng suất lao động được tính toán dựa trên thời gian làm việc
lâu hơn, linh hoạt hơn trong môi trường làm việc thoải mái hơn. Đồng thời năng suất
lao động cũng tăng lên cũng là kết quả của việc tiếp cận được các kiến thức và kỹ
năng sản xuất mới.
P a g e | 11
Với cách tiếp cận trên, đối với mỗi sản phẩm cuối cùng thước đo lợi ích tương
đối rõ ràng. Ví dụ, giáo dục có thể được đo bằng số năm đi học; giải trí được đo bằng
số giờ thưởng thức âm nhạc hoặc xem truyền hình; sức khỏe được đo bằng tình trạng
bệnh tật hoặc tỷ lệ trẻ sơ sinh chết; sự thuận tiện được đo bằng thời gian tiết kiệm và
năng suất lao động được đo bằng số lượng sản phẩm đầu ra v.v. Tuy nhiên việc
lượng hóa cho sự thoải mái và sự an toàn khó hơn nhiều. Nó có thể được đo lường
bằng cách thống kê tội phạm nhưng với một cách làm linh hoạt hơn, ví dụ như câu
trả lời của các thành viên trong hộ gia đình về câu hỏi về họ nghĩ như thế nào là đủ
an toàn và thoải mái.
Hình 2.1 Minh hoạ cách tiếp cận của WB sử dụng trong nghiên cứu đánh giá
tác động của chương trình Điện Khí Hoá nông thôn tại Philippine
Điện
THIẾT BỊ
THIẾT BỊ T.B. Chiếu sáng
SP. TRUNG GIAN
Radio/TV
Tủ lạnh
Quạt
Bếp điện
Máy bơm
Bóng điện
Nấu ăn
Tivi
Thắp sáng
Làm mát
Bơm nước
Bảo quản thức ăn
Làm sạch không khí
SP. CUỐI CÙNG SP. CUỐI CÙNG
Năng suất
Sự thoải mái
An toàn
Giáo dục
Sức khỏe
Giải trí Truyền thông
Nguồn: WB, 2002, Rural Electrification and Development in the Philippines: Measuring the Social
and Economic Benefits.
Bên cạnh đó, nghiên cứu còn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau.
Ví dụ phương pháp quan sát sự khác nhau giữa các hộ gia đình có sử dụng và không
sử dụng điện để từ đó có thể bổ sung những kết luận chính xác hơn về mức độ lợi ích
mà điện mang lại. Hay nghiên cứu đã sử dụng thước đo WTP cho sản phẩm đầu ra
cuối cùng. Cụ thể, mức WTP cho sự gia tăng về giáo dục có thể được tính toán một
cách hợp lý bởi sự gia tăng trong phần thu nhập của hộ gia đình như là kết quả của
P a g e | 12
việc đi học. Tương tự mức WTP cho việc cải thiện sức khỏe có thể được ước lượng
bởi sự giảm bớt trong chi phí khám chữa bệnh, việc giảm số ngày nghỉ làm việc do
ốm đau và giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong cũng như là sự gia tăng tuổi thọ kỳ vọng.
Đối với mức độ gia tăng của sự thuận tiện, WTP được ước lượng bằng chi phí cơ hội
của thời gian. Chi phí cơ hội về thời gian này được tính tương đương với mức thù
lao của người lao động. Lợi ích của việc gia tăng năng suất lao động có thể được đo
lường tốt nhất bởi giá trị thị trường cho số lượng sản phẩm gia tăng. Lợi ích của sự
gia tăng tiếp cận với các phương tiện giải trí cũng có thể được lượng hóa bằng giá trị
thị trường của việc giải trí đó. Ví dụ lợi ích của việc xem truyền hình có thể được đo
bằng giá trị (bằng tiền) của một tấm vé đi xem phim trong rạp chiếu phim v.v.
Ngoài ra, trong trường hợp nếu có thể ước lượng được đường cầu cho những
sản phẩm đầu ra cuối cùng, cách tính toán của WB theo thông lệ cũng đã được sử
dụng. Tương tự, nếu mức tiết kiệm trong chi phí sản xuất các sản phẩm đầu ra trên
thị trường đã có sẵn để đo lường thì chi phí tiết kiệm đó cũng có thể được sử dụng
như là thước đo lợi ích.
Tóm lại: Có rất nhiều phương pháp và cách thức khác nhau để ước lượng lợi
ích của việc sử điện. Hầu hết các nghiên cứu đều đã có sự kế thừa và phát triển các
cách tiếp cận trước về đánh giá lợi ích mà WB đã áp dụng trong hàng loạt các nghiên
cứu đánh giá tác động của chương trình điện khí hoá nông thôn tại một số quốc gia ở
Châu Á. Theo cách tiếp cận mới mà WB đang làm, việc ước lượng các tác động cuả
việc có điện sẽ đầy đủ hơn, hạn chế được những sai số ở mức tối đa nhất.
Dựa trên tiền lệ mà WB đã sử dụng, tác giả của nghiên cứu này cũng cho rằng
bản thân việc có điện không làm gia tăng thu nhập một cách trực tiếp. Điện đóng vai
trò là một sản phẩm trung gian, hỗ trợ việc tăng thu nhập của gia đình thông qua việc
nâng cao trình độ học vấn, kiến thức, kỹ năng và tầm hiểu biết; nâng cao năng suất
lao động, cải thiện điều kiện làm việc v.v. Ngoài ra thu nhập là một hàm đa biến,
chịu sự tác động của rất nhiều các yếu tố khác nhau. Do đó cũng cần thiết phải xem
xét các biến số này trong nghiên cứu. Phần tiếp sau đây tác giả sẽ trình bày các yếu
tố ảnh hưởng đến thu nhập.
P a g e | 13
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập
Các nghiên cứu đi trước đều chú trọng đến việc xem xét các yếu tố độc lập có
thể tác động trực tiếp hay gián tiếp lên thu nhập của một hộ gia đình hay cá nhân
người lao động. Các yếu tố độc lập đó là:
(i) Học vấn: Đã từ lâu, các triết gia, các nhà kinh tế sự nhìn nhận giáo dục là
một sự đầu tư mà khởi nguồn từ thời Adam Smith (1776). Các nhà kinh tế trước đây
và đến tận hôm nay đều rất quan tâm đến vai trò của học vấn – con đường để tích luỹ
vốn con người - trong phát triển kinh tế và trong các quá trình sản xuất (Becker,
1962; Kendrick, 1976; Schultz, 1961). Cơ sở lý thuyết vốn con người đề cập đến
những sự đầu tư vào con người để gia tăng năng suất lao động của họ. Theo Becker
(1993), những sự đầu tư này bao gồm đào tạo phổ cập trong nhà trường và đào tạo
chuyên môn trong quá trình làm việc. Lý thuyết vốn con người nhấn mạnh đến khái
niệm các cá nhân như là những nhà đầu tư, cũng giống như các công ty trong các lý
thuyết đầu tư vốn hữu hình. Lý thuyết này cho rằng các cá nhân sẽ đầu tư vào giáo
dục để kiếm được lợi ích cao hơn vào những năm sau khi học. Những sự đầu tư này
bao gồm đào tạo trong trường và đào tạo trong quá trình làm việc; các chi phí học
tập và việc mất thu nhập trong ngắn hạn do dành thời gian cho việc đi học. Tuy
nhiên, nhà đầu tư hi vọng sẽ kiếm được thu nhập cao hơn trong tương lai. Khác với
vốn vật chất, vốn con người có khả năng tăng lên và tự sinh ra khi sử dụng (liên quan
đến kinh nghiệm), mặt khác, nó có khả năng di chuyển và chia sẻ do vậy không tuân
theo qui luật “năng suất biên giảm dần” như vốn vật chất.
Lý thuyết về học vấn, nền tảng của vốn con người cũng là khởi nguồn của
nhiều phát triển của các lý thuyết kinh tế. Những đóng góp này có thể được tóm tắt
như sau: Học vấn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế: (i) đó là
các kỹ năng được tạo ra bởi giáo dục và đào tạo, là yếu tố của quá trình sản xuất kết
hợp với vốn hữu hình và các lao động “thô” (không có kỹ năng) để tạo ra sản phẩm;
(ii) đó là kiến thức để tạo ra sự sáng tạo, một yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế.”
(Mincer, 1989).
Từ nghiên cứu và mô hình của Mincer (1974) logW = β0 + β1S + β2t + β3t2 +
biến khác (w là mức thu nhập, s số năm học tập, t cho biết kinh nghiệm thực tế mấy năm, t2 là bình phương về kinh nghiệm), đã có nhiều nghiên cứu ước lượng lợi nhuận
P a g e | 14
từ trình độ giáo dục và chỉ ra rằng mối quan hệ giữa trình độ học vấn và thu nhập là
dương. Nhìn chung, kết quả của các nghiên cứu này chỉ ra rằng lợi suất giáo dục nằm
trong khoảng từ 0,05 đến 0,15.
Nghiên cứu của Arias và các tác giả (2001) đã ước lượng tỷ lệ lợi nhuận thu
được từ một khoản đầu tư cho giáo dục ở Mỹ là từ 9% đến 13%. Trong khi đó,
Watkins (1995) tập trung vào mệnh đề đảo: Ông quy cho việc có có mức thu nhập
thấp là do trình độ học vấn thấp và nêu ra: “Thu nhập thấp của những người nghèo
một phần là do hậu quả của việc có kỹ năng và trình độ học vấn thấp. Giáo dục sẽ
làm tăng khả năng kiếm tiền và triển vọng việc làm, mang lại phúc lợi lớn cho xã
hội”.
Tại Việt nam, suất sinh lợi của giáo dục năm 1992-93 là 2,9% và 1997-98 là
5,0%, (Gallup [2004]); năm 2002 là 7,32% (Nguyễn Xuân Thành [2006]), và năm
2004 là 7,4% (Vũ Trọng Anh [2008]). Nghiên cứu Nghèo ở ĐBSCL (2004) cũng
cho thấy tỷ lệ đói nghèo của những người chưa hoàn thành bậc tiểu học là 30% trong
khi tỷ lệ chung ở cả nước là 40%. Hầu như không có người nghèo thuộc nhóm có
trình độ học vấn cao hoặc đi học nghề.
Cũng có những nghiên cứu không dựa trên hàm Mincer mà tiếp cận dựa vào
hàm Cobb –Douglas từ đó chỉ ra ảnh hưởng của học vấn đến thu nhập quốc dân. Ở
Việt Nam, cách tiếp cận này được Đinh Phi Hổ (2003) áp dụng để nghiên cứu ảnh
hưởng của kiến thức nông nghiệp tới thu nhập của nông dân ở ĐBSCL. Kết quả cho
thấy mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa mức độ kiến thức và thu nhập.
Bên cạnh đó, có thể kể ra hàng loạt các công trình nghiên cứu thực nghiệm
khác có kết luận tương tự. Báo cáo Đánh giá nghèo đói có sự tham gia của cộng
đồng (1999) cho thấy trình độ kỹ thuật yếu kém, hạn chế về ngôn ngữ, không biết
đọc, biết viết và biết đếm bị coi là các nét quan trọng của cuộc sống tồi tàn trong tất
cả các điểm nghiên cứu. Điều này dẫn đến nhiều nguy cơ rủi ro tiềm tàng như bị lừa
trên thị trường. Ngoài ra trình độ kỹ thuật yếu kém được dẫn chứng là nguyên nhân
dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh và chết cao của đàn gia súc, năng suất cây trồng thấp và hạn
chế kinh tế hộ gia đình.
Báo cáo của WB (1995) cũng đã nêu rõ “giáo dục góp phần nâng cao đời
sống của người dân, đặc biệt với những người nghèo bằng cách nâng cao năng suất
P a g e | 15
lao động, giảm tỷ lệ sinh, tăng cường sức khoẻ và bằng cách trang bị để con người
tham gia một cách đầy đủ vào nền kinh tế và xã hội”.
Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu đều chỉ ra mối quan hệ tuyến tính thuận
chiều khá chặt giữa yếu tố học vấn và thu nhập. Đây là một trong các yếu tố quan
trọng nhất ảnh hưởng đến thu nhập của một cá nhân hay một hộ gia đình.
(ii) Số người phụ thuộc có tác động nghịch biến đối với biến số thu nhập.
Ảnh hưởng của yếu tố người phụ thuộc hầu như mang tính số học. Rõ ràng, nếu các
yếu tố khác là như nhau nhưng số người phụ thuộc của gia đình nào cao hơn thì thu
nhập trung bình tính trên đầu người sẽ giảm. Và vì vậy số người phụ thuộc ảnh
hưởng trực tiếp đến mức thu nhập bình quân tính trên đầu người. Trong rất nhiều
nghiên cứu về đói nghèo hay đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập, biến số
người phụ thuộc được đề cập đến như là một trong số các biến số chính. Các nghiên
cứu đi trước cũng thường đưa ra cách tính thu nhập bình quân đầu người (Y/N)
bằng các nguồn thu theo giờ làm việc (Y/H), số giờ làm việc bình quân 1 lao động
(H/L) và tỷ lệ số người sống trong hộ (L/N). Do đó công thức có dạng:
Y/N=Y/H*H/L*L/N2.
Từ công thức trên ta thấy một hộ gia đình sẽ có mức sống tốt hơn chỉ khi các
thành viên đang làm việc của hộ nhận được mức lương cao hơn hoặc làm việc nhiều
thời gian hơn, hay chỉ khi hộ đó có tỷ lệ người làm việc cao hơn (tức là giảm số
người phụ thuộc trong hộ). Các hộ có nhiều người phụ thuộc, đặc biệt là trẻ nhỏ
thường bị xếp vào các hộ nghèo do không chỉ có ít lao động hơn so với số miệng ăn
trong gia đình mà còn do phải chi trả gánh nặng chi phí giáo dục hay chi phí khám
chữa bệnh gây bất ổn cho gia đình3.
(iii) Quy mô hộ gia đình (tổng số người trong gia đình) và loại hình gia đình
(hạt nhân/mở rộng) cũng là yếu tố thường được các nghiên cứu đề cập. Do nền kinh
tế Việt Nam phát triển từ mức khởi điểm thấp dựa chủ yếu vào nông nghiệp nên nó
2 Dominique Haughton, Jonathan Haughton và Nguyễn Phong (2001) “Mức sống trong thời đại bùng nổ ở Việt Nam” Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội . 3 Trong nghiên cứu này, người được coi là phụ thuộc gồm trẻ em dưới 15 tuổi, người mất khả năng lao động và người trên 60 tuổi mà không có các khoản lương hưu hay trợ cấp.
bị chi phối bởi nền sản xuất sử dụng nhiều lao động. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng,
P a g e | 16
đối với khu vực sản xuất nông nghiệp, các hộ gia đình có quy mô lớn sẽ có thu nhập
bình quân đầu người cao hơn do các tận dụng được lợi thế kinh tế theo quy mô.
Ngược lại nhiều nghiên cứu cho thấy, những hộ có từ 5 đến 7 thành viên có mức thu
nhập bình quân giờ lao động cao nhất, tuy nhiên thu nhập bình quân đầu người cao
nhất lại thuộc về những hộ có từ 3 đến 4 thành viên. Đối với những hộ gia đình có
chủ hộ làm nông nghiệp, thu nhập có khuynh hướng tăng khi quy mộ đạt tới mức tối
đa là 6 và sau đó giảm đi. Nguyên nhân được lý giải là do những hộ có quy mô quá
lớn có khuynh hướng có trình độ giáo dục thấp hơn và dẫn đến kết quả là quy mô hộ
càng lớn thì thu nhập càng giảm (UNDP, 2000).
(iv) Nghề nghiệp của gia đình: Theo Báo cáo phát triển Việt Nam (UNDP,
2000), người nghèo, người có thu nhập thấp hơn thường rơi vào nhóm các hộ thuần
nông với trình độ học vấn thấp và khả năng tiếp cận thông tin bị hạn chế. Có tới 90%
người thu nhập thấp sống ở khu vực nông thôn và 45% dân nông thôn sống dưới
ngưỡng nghèo. Các tính toán về tỷ lệ nghèo theo nghề nghiệp chỉ ra rằng, những
người sống dưới ngưỡng thu nhập thấp thường là thành viên của những hộ là nông
dân tự do hay sống phụ thuộc vào nông nghiệp, không có nghề phụ nào khác. Thông
thường, khả năng có được thu nhập ổn định nào đó từ công ăn việc làm hay từ các
ngành nghề phi nông nghiệp đã mang lại sự ổn định và đảm bảo trong nguồn thu
nhập của hộ gia đình. Thậm chí ngay cả đến đứa trẻ cũng nhận thức được rằng, cần
có thu nhập ổn định để đảm bảo cuộc sống gia đình.
Từ các kết luận trên cho thấy, yếu tố nghề nghiệp của gia đình là rất quan
trọng, cần thiết được đưa vào mô hình để kiểm soát biến số thu nhập.
(v) Giới tính chủ hộ cũng có ảnh hưởng tới vấn đề thu nhập của hộ. UNDP
(2006) trong Báo cáo phát triển con người cho thấy, Việt Nam là nước có mức bất
bình đẳng về thu nhập xét trên giới tính của người lao động thấp so với một số quốc
gia lân cận như Trung Quốc, Thái Lan, thậm chí thấp hơn nhiều so với Nhật Bản -
một quốc gia phát triển hàng đầu thế giới. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là thu
nhập của nam giới và nữ giới ở Việt Nam đã bình đẳng.
P a g e | 17
Hình 2.2 Tỷ lệ (%) thu nhập theo giới tính tại một số nước Châu Á
(Nguồn: UNDP, Báo cáo phát triển con người, 2006)
Theo Báo cáo đánh giá nghèo đói có sự tham gia của người dân (1999), trung
bình, các hộ có phụ nữ là chủ gia đình thường tập trung vào trong nhóm nghèo hơn
trong xếp hạng mức sống. Song cũng có một số phát hiện trái chiều: thu nhập bình
quân đầu người của những hộ gia đình có chủ hộ là nữ cao hơn so với nam giới. Các
thành viên trong những hộ này không chỉ làm việc nhiều thời gian hơn mà còn nhận
được mức lương cao hơn mức trung bình. Đồng thời chi tiêu bình quân đầu người
của những thành viên ở các gia đình có nữ làm chủ hộ cũng cao hơn tỷ lệ này ở các
gia đình nam giới làm chủ hộ và tỷ lệ nghèo đói thấp hơn. Tuy nhiên nghiên cứu
cũng chỉ ra rằng, trong khi các gia đình do phụ nữ làm chủ hộ ở Việt Nam nói chung
sung túc hơn thì vẫn có nhóm gia đình nhỏ mà chủ hộ là phụ nữ làm chủ hộ lại rất
nghèo và hoặc có nguy cơ bị tổn thương cao(UNDP, 2006).
Rõ ràng đã có những kết luận trái chiều trong kết quả của nhiều nghiên cứu
đối với biến số giới tính của chủ hộ. Do đó, đối với mẫu nghiên cứu này, biến số giới
tính chủ hộ cũng được đưa vào để xem xét tác động của chúng đối với biến phụ
thuộc: thu nhập bình quân đầu người.
(vi) Dân tộc luôn là yếu tố tạo ra sự khác biệt lớn về thu nhập hoặc chi tiêu.
Ngay cả khi các điều kiện khác giống nhau, thu nhập của nhóm người dân tộc thiểu
số thấp hơn so với nhóm người Kinh là 13% (Nghèo, 2004). Theo thông cáo báo chí,
UNDP (2006): mặc dù các dân tộc thiểu số chỉ chiếm 14% tổng số dân nhưng chiếm
P a g e | 18
tới 29% số người nghèo. Ngoài ra, trong khi tỷ lệ đói nghèo đã giảm ở hầu hết các
vùng trong cả nước, ở cả thành thị lẫn nông thôn thì các dân tộc thiểu số (trừ dân tộc
Hoa) có tốc độ giảm nghèo thấp hơn so với tốc độ giảm nghèo chung của cả nước (từ 86% năm 1993 xuống 75% năm 1998 so với mức giảm chỉ từ 54% xuống còn 31%).4
Trung bình, các hộ gia đình dân tộc thiểu số làm việc nhiều bằng bất cứ hộ gia đình
nào khác nhưng mức thu nhập của họ lại chỉ bằng 60% trung bình cả nước. Sở dĩ loại
trừ người Hoa ra khỏi nhóm dân tộc thiểu số có mức sống nghèo bởi có tới 2/3 số hộ
gia đình người Hoa (dân tộc này chiếm khoảng 2% dân số cả nước) thuộc nhóm giàu
trong khi gần 50% các hộ gia đình thuộc các dân tộc thiểu số bị xếp vào hộ nghèo
(tổng dân số của nhóm này chiếm 14% số dân của cả nước) (UNDP, 2006). Nghiên
cứu của UNDP cũng chỉ ra rằng, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, các hộ
gia đình dân tộc thiểu số (trừ dân tộc Hoa) có xác suất trở thành hộ nghèo là 32% và
xác suất để trở thành hộ giàu chỉ là 8%.
Các kết quả trên cho thấy sự cần thiết đưa biến dân tộc vào trong mô hình hồi
quy để ước lượng tác động của yếu tố này và loại trừ tác động của chúng khi muốn
xem xét, đánh giá tác động thuần của việc một hộ có/ không sử dụng điện đối với
mức thu nhập bình quân.
(vii) Khác biệt về mức thu nhập do ảnh hưởng của vùng địa lý cũng được
nhiều nghiên cứu đề cập. Theo lý thuyết kinh tế vĩ mô, sự khác biệt trong thu nhập
giữa các vùng được lý giải bởi (i) cung và cầu lao động không giống nhau và (ii) cơ
cấu cung và cầu lao động khác nhau giữa các vùng. Đồng thời thu nhập còn bị ảnh
hưởng bởi yếu tố cơ sở hạ tầng. Rõ ràng tình trạng thu nhập bị ảnh hưởng bởi vị trí
địa lý, nơi sinh sống cũng như cách mà vị trí địa lý này có ảnh hưởng lên khả năng
tiếp cận những nhu cầu thiết yếu như nước sinh hoạt, nhiên liệu, nơi ở và thức ăn. Nó
cũng tác động lên tính dễ bị tổn thương trước những tai nạn rủi ro của người dân
vùng sâu vùng xa.
Trên thực tế, vùng nào có cơ sở hạ tầng tốt thì vùng đó sẽ thu hút được đầu tư
và kéo theo là cung - cầu lao động cao và ngược lại. Việc phát triển kết cấu hạ tầng
4 Dominique Haughton, Jonathan Haughton và Nguyễn Phong (2001) “Mức sống trong thời đại bùng nổ ở Việt Nam” Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội.
có tác động cả về kinh tế lẫn xã hội. Hạ tầng góp phần làm tăng thu nhập gián tiếp
P a g e | 19
bằng cách thúc đẩy tăng trưởng và phát triển, cũng như tác động trực tiếp thông qua
tạo việc làm và cải thiện khả năng tiếp cận với các hoạt động kinh tế và các dịch vụ
xã hội cơ bản.
Ở hầu hết các quốc gia, đói nghèo thường tập trung theo không gian (tỷ lệ cao
hơn ở những vùng xa xôi với điều kiện thời tiết đất đai không thuận lợi). Tại Việt
Nam, sau khi loai bỏ tác động của các yếu tố khác, các tác giả của Báo cáo phát triển
Việt Nam (UNDP, 2000) đưa ra kết luận: so với các hộ ở ĐBSH, các hộ gia đình ở
ĐBSCL có mức chi tiêu cao hơn 26%. Khoảng cách này lên tới 31% ở vùng Đông
Nam Bộ - vùng có chỉ số thu nhập cao nhất trong cả nước và cao hơn 02 lần so với
vùng ĐBSH. Thu nhập thấp nhất thuộc các tỉnh vùng miền núi trung du phía bắc
(bằng 68% mức trung bình của cả nước) trong khi đó, thu nhập theo giờ lao động có
xu hướng tăng dần từ bắc vào nam: Thấp nhất vẫn thuộc vùng miền núi và trung du
phía bắc (58% mức trung bình quốc gia) và cao nhất tại vùng Đông Nam Bộ (181%
mức trung bình quốc gia).
Với các kết luận rút ra từ những nghiên cứu này cho thấy biến vùng là biến
cần được xem xét để đưa vào mô hình hồi quy.
(iix) Tài sản là một trong những kênh quan trọng làm gia tăng mức thu nhập.
Nó là sự kết hợp của hai yếu tố sở hữu tài sản (hoặc ít nhất được tiếp cận với tài sản)
và thu lợi tức từ tài sản. Tài sản có thể là của cải, đất đai, tay nghề, thậm chí là sức
lao động v.v. Do đó trong các nghiên cứu ảnh hưởng đến thu nhập, người ta cũng
chú ý đến vấn đề tài sản. Theo một báo cáo của Bộ LĐ-TB&XH được công bố vào
tháng 4-2003, chỉ tính riêng 12 tỉnh ĐBSCL còn đến 360.131 hộ nghèo và nguyên
nhân dẫn đến đói nghèo do không đất, thiếu đất sản xuất đứng hàng thứ ba trong sáu
nguyên nhân (sau lũ lụt và hộ nghèo di cư từ nơi khác đến). Thế nhưng một công bố
từ dự án “Phân tích khảo sát hiện trạng đói nghèo 12 tỉnh ĐBSCL” do AusAID - Cơ
quan Phát triển quốc tế của Chính phủ Australia tài trợ được công bố cùng thời điểm
thì nguyên nhân hàng đầu dẫn đến đói nghèo là không có đất sản xuất.
Mặc dù kết quả các nghiên cứu không đồng nhất như đã nêu trên nhưng rõ
ràng, cơ hội được tiếp cận với tài sản mà ở đây là đất đai sẽ có ảnh hưởng trực tiếp
tới thu nhập, đặc biệt đối với người nông dân nơi đất đai canh tác vẫn được coi là tài
sản và công cụ sản xuất chính của gia đình.
P a g e | 20
Bên cạnh đó, với đa số hộ gia đình nông thôn, có đủ tiền để tạo thêm được thu
nhập ổn định đáp ứng những nhu cầu cơ bản cũng như giúp gia đình chống chọi
đươc với những biến cố rủi ro mà không phải bán bớt tài sản hay đi vay mượn những
khoản tiền có thể gây bất ổn chi tiêu cho cả gia đình là một tiêu chuẩn quan trọng
của sự khá giả. Nếu xét theo tài sản cơ bản thì ở nông thôn, ngoài đất đai sản xuất thì
các tài sản đó còn là các phương tiện như nhà cửa, đất đai, tivi hay xe máy. Đây vừa
là tiêu chí đánh giá độ lớn của thu nhập, đồng thời cũng vừa là phương tiện, công cụ
để giúp nâng cao năng suất lao động. Tivi không được coi là phương tiện sản xuất
nhưng nó giúp nâng cao những kiến thức, kỹ năng của người dân thông qua việc tiếp
cận với thông tin thị trường, nâng cao dân trí hay đơn giản hơn là tái tạo sức lao
động. Xe máy thì khác hơn một chút. Nó vừa là tài sản đồng thời là phương tiện giúp
nâng cao năng suất lao động, giảm thời gian di chuyển hay là phương tiện dùng để
chở hàng hoá hoặc là phương tiện kiếm sống (như hành nghề lái xe ôm) v.v. Do đó,
những tài sản này cũng được đưa vào trong nhiều nghiên cứu để xác định ảnh hưởng
đối với biến phụ thuộc là biến thu nhập.
(ix) Số người ốm đau: Tỷ lệ số người ốm đau có mối quan hệ nghịch biến
với mức thu nhập bình quân đầu người. Điều này đã được thực tế kiểm nghiệm và
chứng minh. Số ngày nghỉ do ốm đau làm giảm thu nhập bình quân đầu người không
chỉ do tác động của việc số ngày công lao động bị giảm mà còn do ảnh hưởng của số
tiền dùng để khám chữa bệnh. Trong một số trường hợp, hộ gia đình có người ốm
nặng còn kéo theo thời gian nghỉ làm việc của những lao động chính khác trong gia
đình do phải dành thời gian chăm sóc người bệnh.
Đỗ Thị Phương Lan và các tác giả (2001) trong Mức sống trong thời đại kinh
tế bùng nổ đã tìm ra mối quan hệ giữa số người ốm trong hộ và mức chi tiêu. Theo
đó, nhóm chi tiêu thấp nhất có 43% số người ốm trong khi tỷ lệ này chỉ là 39% ở
nhóm chi tiêu cao nhất. Khi có ai đó trong hộ bị ốm, các hộ giàu và nghèo đều dành
một tỷ lệ chi tiêu bằng nhau (khoảng 5% tổng chi tiêu của hộ) cho việc điều trị.
Nhưng điều này có nghĩa là chi tiêu cho y tế của các hộ thuộc nhóm chi tiêu cao nhất
gấp 07 lần so với các hộ thuộc nhóm chi tiêu thấp nhất. Cài vòng luẩn quẩn ốm đau -
thu nhập thấp- ốm đau v.v. lại tiếp tục tái diễn đối với các hộ nghèo.
P a g e | 21
Tóm lại: Bản chất của thu nhập vốn rất phức tạp. Mức thu nhập thấp có thể
do không có được những tài sản và năng lực thiết yếu, bởi vì người dân thường sống
ở những vùng xa xôi, dễ xảy ra xung đột, hoặc những vùng nghèo tài nguyên. Người
có thu nhập thấp cũng là những người rất dễ bị tổn thương do tuổi tác, sức khoẻ, môi
trường sống hoặc do đặc thù nghề nghiệp v.v. Người thu nhập thấp cũng có thể do bị
từ chối không được tiếp cận với các tài sản hoặc dịch vụ bởi vì họ thuộc một nhóm
dân tộc ít người hoặc do họ sống trong một cộng đồng được coi là thấp kém về mặt
xã hội, hay đơn giản chỉ là vì họ là phụ nữ, người tàn tật hoặc chỉ vì họ khác biệt v.v.
Sự trì trệ về mặt kinh tế của vùng cũng có thể là nguyên nhân gây hạn chế những cơ
hội để có được việc làm có thu nhập hữu ích. Ở một cấp độ rộng lớn hơn, khoảng
cách thu nhập có thể xuất hiện trong những hoàn cảnh khi sự bất bình đẳng chung
vẫn tiếp diễn vì có những nhóm lợi ích và các cơ cấu quyền lực tồn tại. Sự khác biệt
lớn về những điều kiện và nguyên nhân của khoảng cách về thu nhập giữa cùng một
khu vực hay ở các khu vực khác nhau ngụ ý những can thiệp về mặt chính sách cần
phải được cụ thể hoá cho phù hợp với mỗi hoàn cảnh.
2. Giới thiệu phương pháp khác biệt trong khác biệt
Ngày nay trong nghiên cứu khoa học ứng dụng phương pháp Khác biệt trong
khác biệt (DID) được sử dụng khá phổ biến. Nó đặc biệt hữu ích trong việc định
lượng các tác động khi có một chính sách được thực thi.
Theo Nguyễn Xuân Thành5 (2006), để áp dụng phương pháp DID ta cần có
hai nhóm phân tích D ={0,1} với D = 0 là nhóm không chịu tác động của chính sách
(nhóm kiểm soát) và D = 1 là nhóm chịu sự can thiệp của chính sách (nhóm xử lý).
Ta cũng cần có thông tin được đo trong hai khoảng thời gian T={0,1} với T = 0 là
thời gian trước khi có sự can thiệp của chính sách và T = 1 là thời gian sau khi có sự
can thiệp của chính sách. Giả sử ta có Y là kết quả cần quan tâm. Như vậy về mặt
thời gian, Y0 là kết quả tại thời điểm chưa thi hành chính sách công và Y1 là kết quả
tại thời điểm đã thi hành chính sách công.
Đối với nhóm xử lý (nhóm bị chi phối bởi chính sách công), kết quả thay đổi
5 Mô hình lý thuyết này được trích dẫn từ bài viết Phân tích tác động của chính sách công: Phương pháp ước lượng khác biệt trong khác biệt” của tác giả Nguyễn Xuân Thành (2006) http:// fetp.edu.vn)
từ Y0[D = 1] thành Y1[D = 1];
P a g e | 22
Đối với nhóm kiểm soát (không bị can thiệp bởi chính sách công), kết quả
thay đổi từ Y0[D = 0] thành Y1[D = 0].
Ta không thể coi tác động của chính sách công là sự khác biệt giữa kết quả
sau và trước khi thi hành chính sách của nhóm xử lý (tức là, Y1[D = 1] – Y0[D = 1]).
Lý do vì một sự so sánh như vậy sẽ bị tác động bởi những biến động theo thời gian.
Ví dụ trên thực tế chính sách không hề có tác động gì tới thu nhập nhưng theo thời
gian thu nhập của nhóm xử lý vẫn tăng lên (Y1[D = 1] – Y0[D = 1]) > 0).
Ta cũng không thể coi tác động của chính sách công là khác biệt về kết quả
sau khi thi hành chính sách giữa nhóm kiểm soát và nhóm xử lý (tức là, Y1[D = 1] –
Y1[D = 0]). Nguyên nhân là vì hai nhóm D {0,1} có thể khác nhau về một số đặc
điểm cơ sở. Trên thực tế đã xảy ra tình trạng, mặc dù bản thân chính sách đó không
giúp làm tăng thu nhập nhưng do có các đặc điểm cơ sở khác nhau nên trước khi thi
hành chính sách, thu nhập của nhóm không bị tác động đã cao hơn nhiều so với
nhóm bị tác động nên sau khi thi hành chính sách ta có Y1[D = 1] – Y1[D = 0] < 0.
Kết quả (Y)
Y1[D=1]
Hình 2.3 Minh hoạ phương pháp khác biệt trong khác biệt
Y0[D=1]
Y1[D=0]
Y0[D=0]
Thời gian (T)
T=0
T=1
Nguồn: Nguyễn Xuân Thành (2006): “Phân tích tác động của chính sách công: Phương pháp ước lượng khác biệt trong khác biệt ”
Ước lượng DID
Một giả định tối quan trọng của phương pháp này là nếu như không có chính
sách công thì theo thời gian thay đổi thu nhập của hai nhóm xử lý và kiểm soát sẽ là
P a g e | 23
như nhau. Như vậy theo thời gian kết quả của nhóm kiểm soát thay đổi từ Y0[D = 0]
thành Y1[D = 0]. Phương trình Y1[D = 0] – Y0[D = 0] có thể coi là thay đổi theo thời
gian (do nhóm kiểm soát không hề chịu chi phối của chính sách công). Cũng với giả
định trên, thay đổi thu nhập theo thời gian của nhóm xử lý là: Y1[D = 0] – Y0[D = 0]
Nói một cách khác, nếu không có chính sách công thì thu nhập của nhóm xử
lý vào thời điểm T = 1 sẽ là: Y0[D = 1] + (Y1[D = 0] – Y0[D = 0])
Vì có chính sách công nên thu nhập của nhóm xử lý vào thời điểm T = 1 trên thực tế
là: Y1[D = 1]
Tác động của chính sách công là:
Y1[D = 1] – {Y0[D = 1] + (Y1[D = 0] – Y0[D = 0])}
={Y1[D – Y0[D = 1]} – {Y1[D = 0] – Y0[D = 0]}
Bảng 2.1 Tóm tắt ước lượng DID
T = 0 T = 1 Khác biệt
Nhóm kiểm soát Y0[D = 0] Y1[D = 0] Y1[D = 0] – Y0[D = 0]
{Y1[D – Y0[D = 1]} – {Y1[D = 0] – Y0[D = 0]}
Nhóm xử lý Y0[D = 1] Y1[D = 1] Y1[D = 1] – Y0[D = 1]
Khác biệt trong khác biệt
Kết hợp phương pháp khác biệt trong khác biệt với hồi quy OLS
Ta có thể có được ước lượng DID bằng cách chạy hồi quy OLS sau đây:
T) + ε Y = β0 + β1D + β2T + β3(D
*
trong đó:
D là biến giả về nhóm xử lý/kiểm soát với D = 1 là nhóm xử lý và D = 0 là
nhóm kiểm soát.
T là biến giả về thời gian với T = 1 là thời điểm sau khi thi hành chính sách và
T = 0 là thời điểm trước khi thi hành chính sách.
P a g e | 24
T là biến tương tác của hai biến giả D và T. D
*
Đối với nhóm kiểm soát trước khi thi hành chính sách:
ta có D = 0 và T = 0 E[Y0[D = 0]] = β0
Đối với nhóm xử lý trước khi thi hành chính sách:
ta có D = 1 và T = 0 E[Y0[D = 1]] = β0 + β1
Đối với nhóm kiểm soát sau khi thi hành chính sách:
ta có D = 0 và T = 1. E[Y1[D = 0]] = β0 + β2
Đối với nhóm xử lý sau khi thi hành chính sách:
ta có D = 1 và T = 1E[Y1[D = 1]] = β0 + β1 + β2 + β3
Khác biệt trong khác biệt (DID):
= {E[Y1[D = 1]] – E[Y0[D = 1]]} – {E[Y1[D = 0]] – E[Y0[D = 0]]}
= [( β0 + β1 + β2 + β3) – ( β0 + β1)] – [( β0 + β2) – ( β0)]= β3
Sau khi chạy hồi quy, ta sẽ có ước lượng tác động của chính sách công theo
phương pháp khác biệt trong khác biệt là: β^
3
Ta biết rằng, biến kết quả Y còn có thể chịu tác động của nhiều yếu tố khác,
ngoài tác động của yếu tố chính sách và thời gian. Vì vậy, có thể hữu ích nếu các
biến giải thích Xi (ví như đặc điểm cá nhân và địa lý) được đưa vào mô hình hồi quy.
T) + X’γ + ε Y = β0 + β1D + β2T + β3(D
*
β^
3 vẫn là ước lượng khác biệt trong khác biệt.
3. Các phương pháp áp dụng trong nghiên cứu
3.1 Phương pháp thống kê mô tả
Trước khi tiến hành bất cứ một phương pháp tính toán nào phức tạp hơn để
tìm ra nguyên nhân sâu xa của vấn đề thì phương pháp thống kê mô tả – dù đơn giản
P a g e | 25
– nhưng lại rất cần thiết đối với bất kỳ một nghiên cứu nào. Và ở nghiên cứu này, đó
cũng không phải là ngoại lệ.
Việc áp dụng các kỹ thuật phân tích thống kê mô tả, dựa trên các số liệu của
cuộc điều tra sẽ giúp người đọc hình dung sự khác biệt về trạng thái kinh tế - xã hội
giữa các hộ gia đình theo các tiêu chí mà nghiên cứu này hướng tới. Bên cạnh đó, để
biết các con số có ý nghĩa về mặt thống kê hay không, tác giả áp dụng các kiểu kiểm
định so sánh t-test, Anova, v.v.
Phần mềm hỗ trợ được sử dụng là phầm mềm SPSS 16 và phần mềm Eview
4. Phần mềm SPSS16 được sử dụng khi tính toán và chạy một vài kiểm định thống
kê và phần mềm Eview được dùng khi chạy mô hình hồi quy.
3.2 Phương pháp ước lượng khác biệt trong khác biệt
Để so sánh tốc độ tăng thu nhập trong các hộ có và không sử dụng điện đối
với mức thu nhập bình quân đầu người, tác giả sử dụng các biến số độc lập để ước
lượng mức độ ảnh hưởng của các biến số đó đối với biến phụ thuộc là biến Logarit
(thu nhập bình quân đầu người).
Để ước lượng sự khác biệt về mặt thu nhập giữa các hộ có và không sử dụng
điện cũng như xét sự thay đổi về thu nhập giữa 02 nhóm hộ gia đình tác giả sử dụng
phương pháp ước lượng khác biệt trong khác biệt (DID).
Giả định của phép hồi quy
Một giả định không thể thiếu được khi sử dụng mô hình sẽ là : Nếu không có
điện thì tốc độ tăng thu nhập của nhóm xử lý và nhóm kiểm soát sẽ cùng có xu thế
vận động theo thời gian. Điều này là có thể đúng hay không đúng trong thực tế
nhưng chỉ khi nào giả định này đúng thì phương pháp này mới áp dụng được. Tuy
nhiên có thể thấy, giả định này phù hợp với tình hình thực tế của địa bàn nghiên cứu
bởi các hộ gia đình được chọn một cách ngẫu nhiên.
Quá trình ước lượng được thực hiện lần lượt theo 05 bước chính sau đây:
Bước 1: Chọn 02 nhóm hộ gia đình trong mẫu khảo sát thoả mãn điều kiện:
P a g e | 26
- Nhóm kiểm soát: Những hộ gia đình không có điện năm 2002 và không có điện
năm 2005.
- Nhóm xử lý: Những hộ gia đình không có điện năm 2002 và có điện năm 2005.
Bước 2
- Tạo biến giả theo nhóm hộ cần phân tích
Như đã miêu tả ở trên, không thể coi tác động của chính sách công là khác biệt
về kết quả sau khi thi hành chính sách giữa nhóm kiểm soát và nhóm xử lý. Lý do là
vì hai nhóm có thể khác nhau về một số đặc điểm cơ sở (ví dụ trình độ học vấn hay
giới tính của chủ hộ v.v.). Thực tế có những chính sách có tác động nâng cao thu
nhập nhưng vì trước khi thi hành chính sách, bản thân nhóm không chịu tác động đã
có thu nhập cao hơn nhóm chịu tác động hoặc ngược lại. Do đó trong bước này, tôi
sẽ lập nhóm biến giả để xác định sự khác nhau giữa hai nhóm hộ theo theo tiêu chí
đã nêu trên.
Ở đây tôi quan tâm đến có 02 nhóm đối tượng như đã kể trên, do đó sẽ có 01 biến giả
để tránh hiện tượng bẫy biến giả, gây ra hiện tượng đa cộng tuyến hoàn hảo.
D = 0 nếu thuộc nhóm 1 hay còn gọi là nhóm kiểm soát;
D = 1 nếu là nhóm 2 hay còn gọi là nhóm xử lý.
- Tạo biến giả theo thời gian
Ta cũng không thể coi tác động của việc sử dụng điện là khác biệt trước/sau
khi có điện của nhóm xử lý vì sự so sánh như vậy sẽ bị thiên lệch bởi sự biến động
theo thời gian. Trên thực tế, có nhiều chính sách không hề có tác động gì tới thu
nhập nhưng theo xu thế của thời gian thì thu nhập vẫn tăng lên. Do đó cần xây dựng
thêm biến giả xác định sự thay đổi theo thời gian.
T = 0 nếu thời gian khảo sát là năm 2002;
T = 1 nếu thời gian khảo sát là năm 2005.
Bước 3: Chạy hàm hồi quy với biến giả T và D
Trong nghiên cứu này, tôi sử dụng thu nhập bình quân đầu người của hộ trong
hai năm 2002 và 2005 như là chỉ tiêu cần đánh giá. Các biến giải thích sẽ được mô tả
kỹ hơn ở phần tiếp theo. Dạng hàm bán logarit (semi-log) dùng để đánh giá sự thay
P a g e | 27
đổi của biến phụ thuộc Y (tính bằng %) khi các biến độc lập thay đổi (tính theo đơn
vị thực) : LN(Y) = β0+ β1*T + β2*D + β3(T*D) + ε
Nhóm phân tích 2002 2005
Nhóm kiểm soát T =0; D = 0 T =1; D = 0
Nhóm xử lý T =0; D =1 T =1; D = 1
Thay số ta có:
(thu nhập kỳ vọng của nhóm kiểm soát tại T=0) E[Y00 ] = β0
(thu nhập kỳ vọng của nhóm kiểm soát tại T=1) E[Y01 ] = β0+ β1
(thu nhập kỳ vọng của nhóm xử lý tại T=0) E[Y10 ] = β0+ β2
(thu nhập kỳ vọng của nhóm xử lý tại T=1) E[Y11 ] = β0+ β1 +β2 +β3
2002 2005 Tác động theo thời gian Kết quả
Y00 Y01 Y01-Y00 = E1 E1= β1
Y10 Y11 Y11- Y10 = E2 E2= β1+ β3
Tác động khác biệt trong khác biệt (Hệ số độ dốc không đổi nhưng tung
độ gốc thay đổi giữa nhóm xử lý và nhóm kiểm soát) - Khác biệt do tình trạng có hay
không sử dụng điện giữa các nhóm sau khi đã loại trừ sự thay đổi trong thu nhập do
yếu tố thời gian.
Khác biệt của nhóm 1 và nhóm 2: E2 - E1 = β3
Bước 4: Thêm biến vào trong mô hình
Do biến phụ thuộc (thu nhập bình quân đầu người) còn có thể bị ảnh hưởng
của hàng loạt các nhân tố thuộc về đặc điểm của hộ như quy mô hộ, thành phần dân
tộc, trình độ học vấn chủ hộ (hay vợ chồng chủ hộ), nghề nghiệp chủ hộ, loại nhà, sở
hữu một số đồ dùng v.v hay các nhân tố khách quan như vị trí địa lý, các vấn đề
thuộc lĩnh vực hạ tầng xã hội, cơ cấu nghề nghiệp trong vùng v.v. Do đó trong bước
này, tôi sẽ đưa vào mô hình hồi quy các biến số như đã kể trên. Tiếp theo, bằng các
phép hồi quy và kiểm định trong thống kê, tôi sẽ chọn ra một mô hình ước lượng tốt
nhất gồm các biến giải thích có ý nghĩa nhất cho mô hình .
P a g e | 28
Mô hình hồi quy cuối cùng sẽ có dạng
LN(Y) = β0+ β1*t + β2*D + β3*t*D + β4*X1+ β5*X2+v.v...+ βn*Xi+ ε
trong đó:
- LN(Y): logarit thu nhập bình quân đầu người/năm;
- 0 … n là các hệ số hồi quy của mô hình;
- Xi là các biến độc lập (các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập bình quân);
- D và T là các biến giả của mô hình như đã nêu trên;
- Sự khác biệt trong khác biệt (về mặt thu nhập) của nhóm kiểm soát và nhóm
xử lý sau khi đã tách tác động của các yếu tố khác vẫn là β3;
- ε: sai số của mô hình.
Ý nghĩa của các hệ số hồi quy
Các hệ số hồi quy i cho biết sự thay đổi tương đối của Y đối với sự thay đổi
tuyệt đối của biến Xi. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, khi biến Xi
ix100 (%) (Áp dụng cho
tăng/giảm một đơn vị thì biến Y tăng/giảm tương ứng
trường hợp X là các biến thực).
Đối với các biến Dummy, tính tác động của các biến này đến biến phụ thuộc
bằng cách: Tính anti-log của các hệ số (β) tương ứng sau đó trừ đi 1. {EXP (β) -1}6
Các biến số được lựa chọn để đưa vào mô hình hồi quy mở rộng
Sau khi tìm hiểu bộ dữ liệu cũng như quá trình lược khảo các tài liệu tham
khảo như trên, tôi đã lựa chọn một số biến độc lập thể hiện các đặc điểm của hộ gia
đình vào mô hình phân tích. Mô hình được xây dựng với các biến sau:
Ký hiệu
Mô tả biến số
Đơn vị Dấu
kỳ
vọng
Log (Y)
Logarit của biến thu nhập bình quân
6 Xem Basic econometrics, Damodar N. Gujarati (1995), Chương 15, trang 525-526.
Biến phụ thuộc
P a g e | 29
Ký hiệu
Mô tả biến số
Đơn vị Dấu
kỳ
vọng
Hằng số tung độ gốc.
C
Biến dummy, nhận giá trị 1 nếu là năm
(+)
T
2005 và 0 nếu là năm 2002.
Biến dummy, nhận giá trị bằng 1 nếu
(+)
D
thuộc nhóm xử lý, bằng 0 nếu thuộc
nhóm kiểm soát.
Biến tương tác của biến T và D. Hệ số
(+)
ước lượng của biến tương tác này chính
T*D
là khác biệt trong khác biệt về thu nhập
bình quân đầu người giữa hai nhóm xử lý
và kiểm soát.
Biến dummy, nhận giá trị 1 nếu thuộc
(+)
các tỉnh phía bắc, nhận giá trị 0 nếu
MIENBAC
thuộc các tỉnh khác.
Biến dummy, nhận giá trị 1 nếu thuộc
(+)
MIENNAM
các tỉnh phía nam, nhận giá trị 0 nếu
thuộc các tỉnh khác.
Biến dummy, nhận giá trị 1 nếu hộ gia
(+)
đình có tham gia sản xuất phi nông
PHI_NONGNGHIEP
nghiệp, nhận giá trị 0 nếu chỉ làm nông
nghiệp.
Biến dummy, nhận giá trị 1 nếu chủ hộ là
(+)
GIOITINH CHU HO
nữ và nhận giá trị 0 nếu chủ hộ là nam.
Biến dummy, nhận giá trị 1 nếu hộ gia
(-)
đình thuộc dân tộc Kinh hoặc dân tộc
DANTOC
Hoa, nhận giá trị 0 cho các dân tộc khác.
(+)
P a g e | 30
Ký hiệu
Mô tả biến số
Đơn vị Dấu
kỳ
vọng
1000m2
Tổng diện tích đất dùng cho sản xuất
DAT_SANXUAT
hoặc canh tác.
Năm
Trình độ học vấn của chủ hộ, tính bằng
(+)
số lớp học phổ thông đã hoàn tất. Nếu
chủ hộ nào tốt nghiệp trung cấp, cao
HOC VAN CHU HO
đẳng và đại học thì số năm đi học sẽ
bằng số năm phổ thông cộng với số năm
học trung cấp hay cao đẳng đại học.
Biến dummy, nhận giá trị 1 nếu hộ có
(+)
LOAI NHA
nhà kiên cố hay bán kiên cố và nhận giá
trị 0 nếu hộ gia đình có nhà tạm.
m2
Tổng diện tích nhà ở hiện tại.
DTICH_NHA
(+)
Số người không tạo ra thu nhập trong gia
Người
(+)
đình (trẻ dưới 15 tuổi và số người hết
NGUOIPHUTHUOC
tuổi lao động nhưng không nhận được
tiền lương, người tàn tật v.v.)
Người
Tổng số người trong hộ.
QUYMOHO
(-)
Biến dummy, nhận giá trị bằng 1 nếu
(-)
THUOCXA_DU AN
thuộc xã có điện, bằng 0 nếu hộ gia đình
thuộc xã không có điện.
Tổng số ngày nghỉ ốm của các thành
Ngày
(+)
OM_DAU
viên trong gia đình trong tháng qua.
Biến dummy, nhận giá trị bằng 1 nếu hộ
(+)
có ít nhất 01 xe máy và bằng 0 nếu hộ
XEMAY
gia đình không có chiếc xe máy nào.
Biến dummy, nhận giá trị bằng 1 nếu nhà
TV
(+)
(+)
P a g e | 31
Ký hiệu
Mô tả biến số
Đơn vị Dấu
kỳ
vọng
có ít nhất 01 TV và bằng 0 nếu hộ gia
đình không có chiếc TV nào.
Trên đây là các biến số dự định sẽ được đưa vào mô hình hồi quy. Tuy nhiên
tuỳ vào kết quả chạy mô hình hồi quy mà các biến có thể được thêm vào hay bỏ bớt
ra cho phù hợp.
Bước 5: Giải thích các số liệu và lý giải nguyên nhân
Sau khi có kết quả mô hình, để kiểm tra xem mô hình có phù hợp không, một
số phương pháp kiểm định mô hình kinh tế lượng sẽ áp dụng (kiểm định F-test, T- test, R, R2, Durbin-Watson, v.v).
P a g e | 32
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Mẫu nghiên cứu
1.1 Cách thức chọn mẫu và cơ cấu mẫu
Nghiên cứu này dựa trên số liệu điều tra thu thập tại 07 tỉnh thực hiện dự án
Điện khí hóa nông thôn là Hà Giang, Lai Châu, Hòa Bình, Quảng Bình, Quảng Nam,
Đắc Lắk và Sóc Trăng. Mỗi tỉnh có 6 xã được chọn. Tổng cộng có 42 xã thuộc 07
tỉnh với 1.260 hộ được chọn vào nghiên cứu theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên
với tỷ lệ 61% là dân tộc thiểu số thuộc 28 dân tộc.
Tuy nhiên với mục đích riêng như đã được trình bày ở chương 2, trong nghiên
cứu của mình, tôi chỉ chọn 676 hộ gia đình và số hộ này được chia làm hai nhóm:
Nhóm xử lý – nhóm hộ không có điện năm 2002 và có điện năm 2005 (gồm 517 hộ
gia đình) và nhóm kiểm soát – nhóm hộ không có điện năm 2002 và không có điện
năm 2005 (gồm 159 hộ gia đình). Như vậy, nếu thông tin của mỗi hộ được thu thập
trong ở hai năm 2002 và 2005 thì mẫu sẽ được nhân đôi lên thành 676*2 =1352 mẫu.
1.2 Đơn vị nghiên cứu
Các hộ gia đình được lựa chọn trong mẫu nghiên cứu kể trên.
1.3 Đơn vị thu thập thông tin
Đơn vị thu thập thông tin sẽ là các chủ hộ. Trong trường hợp chủ hộ không có
mặt, vợ hoặc chồng của chủ hộ sẽ là người được lựa chọn để trả lời các câu hỏi trong
phiếu điều tra.
Với cơ cấu chọn mẫu như trên sẽ đảm bảo sự đa dạng, có tính đại diện cao của
mẫu nghiên cứu. Phần tiếp theo tôi sẽ đi sâu hơn về bảng câu hỏi và mô tả những đặc
tính chung nhất của mẫu số liệu.
2. Bảng câu hỏi
Bảng hỏi phục vụ cho cuộc nghiên cứu Đánh giá tác động của chương trình
điện khí hoá nông thôn tại Việt Nam gồm 48 trang trong đó có 8 phần chính. Tuy
P a g e | 33
nhiên với nghiên cứu này, tôi quan tâm nhiều nhất đến phần thứ nhất của bảng hỏi.
Trong phần này, các câu hỏi nhằm thu thập thông tin liên quan đến tình trạng học
vấn, tuổi, giới tính, nghề nghiệp, lĩnh vực việc làm, tình trạng việc làm, thu nhập từ
tiền lương, tiền công, tổng thu nhập của từng thành viên trong gia đìnhv.v. Bảng hỏi
được thiết kế dễ hiểu, theo mẫu chung đối với các bảng hỏi mà WB thường sử dụng
nhưng có sự điều chỉnh để phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam. (chi tiết bảng
hỏi xem thêm ở phần phụ lục 1).
3. Mô tả dữ liệu
Mẫu nghiên cứu gồm 676 hộ gia đình thuộc 07 tỉnh theo tiêu chí sau đây
Hình 3.1 Mô tả mẫu nghiên cứu
Trong đó: Có 258 hộ gia đình thuộc khu vực miền Nam, chiếm tỷ lệ 38,2%;
182 hộ gia đình khu vực miền Trung, chiếm tỷ lệ 27% và 236 hộ gia đình miền Bắc,
chiếm tỷ lệ 34,8%. (chi tiết xem phần phụ lục 2).
3.1 Thu nhập hộ gia đình giữa hai nhóm phân tích
Kết quả thống kê mô tả cho thấy, thu nhập bình quân đầu người của một hộ
gia đình thuộc nhóm xử lý cao hơn so với nhóm kiểm soát trong cả hai năm 2002 và
2005. Năm 2002, nhóm xử lý có thu nhập bình quân đầu người là 3,812 triệu đồng
thì con số này ở nhóm kiểm soát chỉ là 2,451triệu đồng. Năm 2005, kết quả cũng
tương tự (6,155 triệu đồng ở nhóm xử lý và 4,149 triệu đồng ở nhóm kiểm soát).
P a g e | 34
Bảng 3.1 Thu nhập bình quân đầu người theo nhóm hộ
(ĐVT: triệu đồng)
Nhóm hộ gia đình
Trung bình Độ lệch chuẩn
Sai số chuẩn
3,812
6799.07
540.90
Nhóm xử lý
2 0 0 2
p ậ h n u h T
n â u q h n ì b
I ờ ư g n u ầ đ
2,452
4210.49
185.53
Nhóm kiểm soát
6,155
9008.31
721.24
Nhóm xử lý
5 0 0 2
4,149
5031.38
222.14
Nhóm kiểm soát
p ậ h n u h T
n â u q h n ì b
I ờ ư g n u ầ đ
(Nguồn: tính toán của tác giả dựa vào số liệu điều tra)
Để biết sự khác biệt trên liệu có ý nghĩa thống kê hay không, đề tài áp dụng
kiểm định Independent Sample Test đối với hai nhóm đối tượng trên ở biến thu nhập
bình quân đầu người. Kết quả cho thấy, sự khác biệt về mặt thu nhập bình quân giữa
hai nhóm hộ xử lý và kiểm soát là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig = 0.0000 với t
=3,029 (năm 2002) và sig = 0.0000 với t = 3,546 (năm 2005) ( chi tiết xem thêm phụ
lục 3.1). Tuy nhiên để biết liệu sự khác biệt này là do nguyên nhân nào và việc có
điện ảnh hưởng tới mức thu nhập là bao nhiêu, trước tiên tác giả đi vào tìm hiểu các
yếu tố thuộc về đặc điểm nhân khẩu của hộ gia đình trong diện được nghiên cứu.
3.2 Quy mô hộ gia đình
Kết quả cho thấy, quy mô hộ gia đình có sự thay đổi theo thời gian. Nếu như
năm 2002, cũng gia đình đó, số nhân khẩu trung bình là 5,47 người/hộ thì vào năm
2005, con số đó giảm xuống chỉ còn 5,37 người/hộ. Điều này có thể lý giải là theo
thời gian, số người trưởng thành tách ra lập hộ mới hoặc số người già chết nhiều hơn
số trẻ mới sinh ra.
P a g e | 35
Bảng 3.2 Quy mô hộ gia đình
(Đơn vị tính: người)
Trung bình Sai số chuẩn
Quy mô hộ Statistic Std. Error Statistic
Quy mô hộ năm 2002 5,47 .073 1.910
Quy mô hộ năm 2005 5,37 .069 1.797
(Nguồn: tính toán của tác giả dựa vào số liệu điều tra)
Tuy nhiên ở đây đề tài quan tâm nhiều hơn tới sự khác biệt về quy mô hộ gia
đình thuộc hai nhóm kiểm soát và xử lý. Kết quả thống kê cho thấy, có sự khác biệt
giữa số người trong hộ gia đình của hai nhóm nghiên cứu. Năm 2002, nhóm kiểm
soát có quy mô hộ gia đình nhỏ hơn của nhóm xử lý (5,19 người/hộ so với 5,58
người/hộ). Năm 2005, quy mô hộ gia đình của nhóm kiểm soát tăng (5,29 người/hộ
so với 5,19 người/hộ) trong khi ở nhóm xử lý quy mô hộ gia đình giảm (5,56
người/hộ so với 5,40 người/hộ). (Sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê ở mức
ý nghĩa α= 5%) (chi tiết xem thêm phụ lục 3.2).
Hình 3.2 Loại hình gia đình
(Đơn vị tính:%)
(Nguồn: tính toán của tác giả dựa vào số liệu điều tra)
Xét theo tiêu chí loại hình gia đình của hai nhóm hộ xử lý và kiểm soát, số
liệu thống kê cho thấy không có sự khác biệt lớn. Với nhóm kiểm soát, tỷ lệ gia đình
P a g e | 36
hạt nhân là 25,79% trong khi tỷ lệ này ở nhóm xử lý là 23,98%, thấp hơn không
đáng kể. Tương tự, tỷ lệ gia đình mở rộng ở hai kiểm soát và nhóm xử lý tương ứng
là 74,21% và 76,02%. Tỷ lệ này cũng hầu như không đổi vào năm 2005.7
3.3 Số người phụ thuộc
Trong nghiên cứu này, người phụ thuộc bao gồm trẻ em dưới 15 tuổi, người
không có khả năng lao động và người lớn hơn 60 tuổi không sống bằng nguồn trợ
cấp nào khác (như lương hưu hay trợ cấp xã hội). Dựa trên quy ước về người phụ
thuộc, trong bảng hỏi, có câu hỏi riêng về số người phụ thuộc trong hộ gia đình.
Hình 3.3 Số người phụ thuộc trong gia đình
(Đơn vị tính:%)
(Nguồn: tính toán của tác giả dựa vào số liệu điều tra)
Số liệu tính toán cho thấy, có 16% hộ gia đình không có người phụ thuộc ở
nhóm kiểm soát và 11% hộ gia đình không có người phụ thuộc ở nhóm xử lý. Đối
với tiêu chí số người phụ thuộc từ 1-2 người thì tỷ lệ người phụ thuộc ở nhóm xử lý
lại cao hơn nhóm kiểm soát (54% so với 47%). Trong tiêu chí số người phụ thuộc từ
3-4 người, hầu như không có sự khác biệt giữa hai nhóm xử lý và kiểm soát. Tuy
nhiên ở nhóm tiêu chí cuối cùng (số người phụ thuộc >= 5 người) ở nhóm kiểm soát
7 Trong nghiên cứu này, hình thái gia đình chỉ gồm có bố, mẹ và con cái được coi là gia đình hạt nhân. Các hộ gia đình có từ 03 thế hệ trở lên được gọi là gia đình mở rộng. (theo Bách Khoa Toàn Thư).
có tỷ lệ cao hơn so với nhóm xử lý (5% so với 3%).
P a g e | 37
Về mặt ý nghĩa thống kê, sự khác biệt này hầu như không đáng kể. Tuy nhiên
đứng về mặt mô hình hồi quy, việc đưa biến người phụ thuộc vào mô hình là cần
thiết để đảm bảo kết quả ước lượng sát hơn so với thực tế, đồng thời giúp tách được
tác động của yếu tố khác ngoài biến số chính (có sử dụng điện) mà nghiên cứu đang
hướng tới.
3.4 Trình độ học vấn
3.4.1 Trình độ học vấn chủ hộ
Năm 2002, đối với mức học vấn thấp (mù chữ và cấp 1) nhóm kiểm soát có tỷ
lệ cao hơn nhiều so với nhóm xử lý (25% so với 8% đối với trình độ mù chữ; 45%
so với 37% ở trình độ cấp 1). Tuy nhiên ở nhóm trình độ học vấn của chủ hộ cấp 2
và cấp 3 thì nhóm xử lý lại có tỷ lệ cao hơn (46% so với 27% ở trình độ cấp 2 và 9%
so với 3% ở nhóm trình độ học vấn cấp 3).
Hình 3.4.1 Học vấn chủ hộ*Nhóm
(Đơn vị tính:%)
(Nguồn: tính toán của tác giả dựa vào số liệu điều tra)
Vào năm 2005 có sự thay đổi trong trình độ học vấn của chủ hộ. Tỷ lệ mù chữ
của chủ hộ ở nhóm kiểm soát tăng cao hơn nhiều so với tỷ lệ mù chữ của chủ hộ ở
nhóm xử lý và tăng hơn so với năm 2002 (31% và 09% năm 2005 so với 25% và 8%
năm 2002). Điều này là do tình trạng một số chủ hộ bị tái mù.
Các con số thống kê trên cho chúng ta thấy dường như có một mối liên hệ
giữa tỷ lệ tái mù chữ và tình trạng có điện của các hộ gia đình. Rõ ràng, trong các hộ
P a g e | 38
gia đình thuộc nhóm xử lý, các thành viên trong hộ nói chung cũng như chủ hộ
không những có điều kiện tránh được tình trạng tái mù chữ mà còn có điều kiện nâng
cao tỷ lệ học vấn của mình. Trong khi đó, ở các hộ gia đình thuộc nhóm kiểm soát,
tỷ lệ tái mù gia tăng theo thời gian (tỷ lệ mù chữ năm 2002 chỉ là 25% thì sang năm
2005 tăng lên 31%). Xét tiêu chí học vấn cấp 1, ở nhóm xử lý, tỷ lệ chủ hộ có trình
độ học vấn cấp 1 có sự giảm so đáng kể so với năm 2002 (37% vào năm 2005 và
45% vào năm 2002), trong khi ở nhóm kiểm soát, tỷ lệ này là như nhau ở cả hai năm
( 37%) - tức là không có sự cải thiện nào.
Năm 2005 cũng đánh dấu sự tăng lên đối với tiêu chí trình độ học vấn cấp 2
của các hộ gia đình thuộc nhóm kiểm soát (27% năm 2002 tăng lên 30% vào năm
2005) và sự giảm của nhóm xử lý (46% năm 2002 giảm xuống còn 45% năm 2005).
Mặc dù mức giảm này không đáng kể nhưng điều này cũng đồng nghĩa với một thực
tế là trong các hộ gia đình có sử dụng điện, các thành viên trong hộ luôn có điều kiện
tốt hơn để cải thiện tình trạng học vấn của mình trong khi ở các hộ không sử dụng
điện đã xảy ra hiện tượng ngược lại. Ở trình độ học vấn cấp 3 thì tỷ lệ này hầu như
không đổi so với năm 2002 cho cả hai nhóm kiểm soát và xử lý.
Như vậy khi so sánh trình độ học vấn của hai nhóm qua hai thời điểm khác
nhau ta thấy tỷ lệ số người có trình độ học vấn cao hơn nghiêng về nhóm xử lý trong
khi đó đối với nhóm kiểm soát thì ngược lại (tỷ lệ người có trình độ học vấn thấp cao
hơn nhóm xử lý). Chắc chắn đây cũng là một trong số nguyên nhân ảnh hưởng tới
thu nhập của hộ gia đình mà ta cần đưa vào mô hình hồi quy.
3.4.2 Trình độ học vấn cao nhất trong gia đình
Cùng xét tiêu chí học vấn nhưng ở đây tác giả lại quan tâm tới trình độ học
vấn cao nhất trong gia đình trên cơ sở cho rằng người có trình độ cao nhất trong gia
đình cũng có tác động quan trọng đến tổng thu nhập của gia đình và do đó sẽ ảnh
hưởng đến thu nhập tính theo bình quân đầu người của hộ gia đình.
Kết quả cho thấy, vào năm 2002, ở tiêu chí mù chữ, tỷ lệ này ở hai nhóm là
gần bằng nhau (0,4% và 0,6%). Ở trình độ học vấn cấp 1 thì nhóm kiểm soát cao hơn
so với nhóm xử lý (47% và 24%). Tuy nhiên ở trình độ học vấn cấp 2 và cấp 3 thì tỷ
lệ này cao hơn ở nhóm xử lý. Kết quả trên cũng khá tương quan với tỷ lệ học vấn của
chủ hộ ở hai nhóm như đã phân tích ở trên. Sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống
kê và nếu như không có ngoại lệ, theo nhận định ban đầu, trình độ học vấn chủ hộ và
P a g e | 39
trình độ học vấn cao nhất của gia đình, một hoặc cả hai yếu tố trên sẽ taọ ra sự khác
biệt trong thu nhập giữa hai nhóm nghiên cứu.
Hình 3.4.2 Trình độ học vấn cao nhất năm 2002 và 2005
(Đơn vị tính:%)
(Nguồn: tính toán của tác giả dựa vào số liệu điều tra)
Nhìn bảng so sánh trên chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy, qua thời gian, nhóm
xử lý vẫn có sự cải thiện trình độ học vấn tốt hơn so với nhóm kiểm soát. Điều này
thể hiện rõ nhất ở nhóm trình độ học vấn cấp 3+ . Nếu như tỷ lệ này tăng chỉ 3% từ
năm 2002 đến 2005 ở nhóm kiểm soát (12% so với 15%) thì ở nhóm xử lý, tỷ lệ này
tăng lên đến 11% (24% so với 35%). Ở tiêu chí học vấn cấp hai thì nhóm kiểm soát
cũng có sự gia tăng (52% so với 42%) và giảm đi ở nhóm xử lý (52% giảm xuống
48%). Và sự giảm này thể hiện ở cả hai nhóm đối với tiêu chí trình độ học vấn cấp
1(41% so với 28% của nhóm kiểm soát và 23% so với 14% của nhóm xử lý). Tương
tự với tiêu chí mù chữ.
Như vậy có thể thấy, theo thời gian, trình độ học vấn cao nhất trong gia đình
ở cả hai nhóm đều có sự cải thiện theo chiều hướng tích cực. Tuy nhiên sự gia tăng
mạnh hơn vẫn thuộc về nhóm xử lý. Chính sự khác biệt rõ nét trong trình độ học vấn
của hai nhóm ở cả hai tiêu chí trình độ học vấn chủ hộ và trình độ học vấn cao nhất
P a g e | 40
trong hộ cho thấy cần có sự xem xét kỹ hơn trong mối quan hệ giữa tình trạng sử
dụng điện của các hộ gia đình và thu nhập bình quân đầu người. Kết quả của mô
hình hồi quy sẽ lý giải rõ hơn điều này.
3.5 Tuổi của chủ hộ
Thông tin về tuổi của chủ hộ được hỏi đối với cả hai nhóm xử lý và kiểm soát.
Như đã phân tích ở trên, thông thường ở một mức độ nào đó, tuổi của chủ hộ cũng
có tác động tích cực đến thu nhập của gia đình với giả định cho rằng, kinh nghiệm sẽ
góp phần làm tăng mức thu nhập của gia đình, đặc biệt trong tình trạng hầu hết các
hộ gia đình đều làm nông nghiệp - một lĩnh vực cần nhiều kinh nghiệm.
Song ở một khía cạnh khác, tuổi tác càng cao lại là yếu tố bất lợi đến thu nhập
do sản xuất nông nghiệp cần nhiều sức lao động. Do đó thật khó mà biết trước được
mức độ tác động về mặt tuổi tác của chủ hộ sẽ là tác động cùng chiều hay ngược
chiều, hay là không có ý nghĩa với biến thu nhập trong trường hợp của nghiên cứu
này.
Kết quả thống kê cho thấy tuổi trung bình của chủ hộ (thường là nam giới)
giữa hai nhóm không có nhiều khác biệt (40,22 tuổi đối với nhóm xử lý và 41,29 tuổi
đối với nhóm kiểm soát). Đối với tuổi của vợ/chồng chủ hộ, sự chênh lệch cũng là
không đáng kể (tuổi trung bình là 36,73 và 36,8 tuổi).
Tuy nhiên khi xét trong từng độ tuổi thì có sự khác biệt. Ở nhóm tuổi trẻ nhất
(20-29) sự khác biệt không lớn giữa hai nhóm (14% và 15%). Sự khác biệt lớn nhất
thể hiện ở hai nhóm tuổi 30-39 và 40-49. Điều này cũng dễ hiểu vì đây là hai nhóm
tuổi chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu độ tuổi của đối tượng nghiên cứu. Trong nhóm
tuổi 30-39, tỷ lệ này ở nhóm xử lý là 34% trong khi đó ở nhóm kiểm soát, chỉ có
29%. Ngược lại, ở nhóm tuổi 40-49 thì nhóm kiểm soát có tỷ lệ cao hơn nhóm xử lý
(35% so với 31%). Trong hai nhóm tuổi còn lại là 50-59 và trên 60 thì sự khác biệt
không đáng kể.
Mặc dù có sự khác biệt trong nhóm tuổi của hai nhóm nghiên cứu, nhưng sự
khác biệt này không rõ ràng và không có ý nghĩa về mặt thống kê. Theo dự đoán thì
biến số độ tuổi có nhiều khả năng không ảnh hưởng đến kết quả của mô hình hồi
quy.
P a g e | 41
Hình 3.5 Tuổi của chủ hộ
(Đơn vị tính:%)
(Nguồn: tính toán của tác giả dựa vào số liệu điều tra)
3.6 Giới tính chủ hộ
Giới tính chủ hộ giữa hai nhóm hầu như không có sự khác biệt. Đúng như dự
đoán, số gia đình có chủ hộ là nam giới nhiều hơn nữ giới trong cả hai nhóm. Trung
bình ở cả hai nhóm xử lý và kiểm soát, nam giới là chủ hộ chiếm đa số (82,5%). Chỉ
17,5% các hộ gia đình có nữ giới làm chủ hộ.
Các nghiên cứu đi trước đều cho thấy có mối quan hệ tuyến tính giữa giới tính
chủ hộ và mức thu nhập bình quân người trong hộ gia đình. Tuy nhiên chiều của mối
tương quan tuyến tính này không rõ ràng. Xét riêng nghiên cứu này, thu nhập bình
quân đầu người của những gia đình có chủ hộ là nam giới cao hơn so với những hộ
có chủ hộ là nữ giới. Sự khác biệt này thể hiện ở cả hai nhóm xử lý và kiểm soát.
Cụ thể, năm 2002, đối với những hộ gia đình có chủ hộ là nam giới, thu nhập
bình quân đầu người là 3,987 triệu đồng (thuộc nhóm xử lý) và 2,571 triệu đồng
(thuộc nhóm kiểm soát) thì đối với nhóm có giới tính chủ hộ là nữ giới thu nhập bình
quân đầu người giảm còn 3,033 triệu đồng ( thuộc nhóm xử lý) và 1,942 triệu đồng
(thuộc nhóm kiểm soát).
P a g e | 42
Hình 3.6 Giới tính chủ hộ & Thu nhập bình quân đầu người
(Đơn vị tính:triệu đồng)
(Nguồn: tính toán của tác giả dựa vào số liệu điều tra)
Năm 2005, sự cách biệt về thu nhập giữa hai nhóm giới tính chủ hộ vẫn còn
tồn tại tuy không còn lớn như năm 2002. Đối với những hộ gia đình do nam giới làm
chủ, thu nhập bình quân đầu người là 6,189 triệu đồng (nhóm xử lý) và 4,203 triệu
đồng (nhóm kiểm soát) còn đối với những hộ do nữ làm chủ hộ, chỉ tiêu này chỉ là
6,011 triệu đồng (nhóm xử lý) và 3,916 triệu đồng (nhóm kiểm soát). Xét chung đối
với toàn mẫu nghiên cứu, nếu như năm 2002 thu nhập bình quân của những hộ có
chủ hộ là nam giới là 2,905 triệu đồng thì đối với những hộ có chủ hộ là nữ, mức thu
nhập này giảm còn 2,191 triệu đồng. Tương tự, năm 2005, thu nhâp bình quân của
những hộ có chủ hộ là nam giới là 4,664 triệu đồng và thu nhập bình quân của những
hộ có chủ hộ là nữ chỉ còn là 4,410 triệu đồng.
Tuy nhiên, chỉ có sự khác biệt đối với thu nhập bình quân đầu người năm
2002 giữa hai nhóm giới tính chủ hộ là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig. = 0.034 với t
= 1,872) (chi tiết xem thêm phụ lục 3.3).
3.7 Diện tích đất canh tác
Các số liệu liên quan đến con số thống kê mô tả về diện tích đất dùng để sản
xuất giữa hai nhóm hộ xử lý và kiểm soát có sự khác biệt. Theo đó, diện tích đất cho
P a g e | 43
sản xuất trung bình của hai nhóm hộ đều tăng hơn vào năm 2005 và giá trị trung bình
diện tích đất sản xuất của hộ gia đình thuộc nhóm kiểm soát cao so với nhóm xử lý.
Nếu như vào năm 2002, diện tích đất sản xuất của hộ thuộc nhóm kiểm soát là 11,17 nghìn m2/hộ thì con số này ở nhóm xử lý là 9,1 nghìn m2/ hộ. Sự khác biệt này
không lớn và không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Hình 3.7 Diện tích đất sản xuất trung bình
(Đơn vị tính: 1000m2)
(Nguồn: tính toán của tác giả dựa vào số liệu điều tra)
Tuy nhiên đến năm 2005, trong khi trung bình một hộ thuộc nhóm kiểm soát sở hữu 18,77 nghìn m2 đất/hộ thì con số này ở nhóm xử lý chỉ là 10,6 nghìn m2/hộ.
Thực hiện kiểm định thống kê Independent Sample Test kết quả cho thấy cho giá trị
sig = 0,01 vào năm 2005. Với kết quả này ta có thể kết luận được rằng, sự khác biệt
đối với diện tích đất của nhóm xử lý và nhóm kiểm soát là đủ lớn và có ý nghĩa về
mặt thống kê (độ tin cậy 95% - Chi tiết xin xem thêm phụ lục 3.4).
Phát hiện này đã khiến tác giả đặt câu hỏi phải chăng các hộ gia đình thuộc
nhóm xử lý được hưởng lợi từ việc điện khí hóa nên có điều kiện hỗ trợ cho các hoạt
động tạo thu nhập tốt hơn (cả trực tiếp và gián tiếp). Kết quả là các hộ sẽ có điều
kiện tích vụ vốn, từ đó tích tụ đất đai sản xuất? Và tác động này chắc chắn sẽ có ảnh
hưởng đến mức thu nhập bình quân đầu người giữa hai nhóm hộ gia đình.
P a g e | 44
3.8 Kiểu nhà
Đối với đa số người dân Việt Nam, nhà không chỉ là nơi sinh sống mà nó còn
như một biểu tượng của sự thịnh vượng và là cơ sở để đánh giá mức độ giàu có của
hộ gia đình. Do đó, trong các nghiên cứu liên quan đến thu nhập, các nhà nghiên cứu
cũng quan tâm đến việc đưa yếu tố này vào trong mô hình.
Trong mẫu nghiên cứu, dựa vào kết quả điều tra, thông tin về loại nhà trong
gia đình được thể hiện như sau:
Ở cả hai nhóm kiểm soát và xử lý, tỷ lệ nhà kiên cố và bán kiên cố đều tăng
theo thời gian. Cụ thể, ở nhóm kiểm soát: nếu như năm 2002, tỷ lệ nhà kiên cố chỉ
6% thì vào năm 2005, tỷ lệ này là 16% - một mức tăng đáng kể. Tỷ lệ nhà bán kiên
cố cũng tăng (từ 51% năm 2002 lên 57% năm 2005) và tương ứng với đó là sự giảm
trong tỷ lệ nhà tạm (43% năm 2002 xuống 27% năm 2005). Ở nhóm xử lý, nếu như
tỷ lệ nhà kiên cố năm 2002 chỉ có 9% thì vào năm 2005, tỷ lệ này tăng thêm 8%. Với
loại hình nhà bán kiên cố, năm 2002 chiếm 63% thì vào năm 2005, tỷ lệ này là 69%
(tăng 6%). Và tương tự thì tỷ lệ nhà tạm đã giảm sút từ 28% năm 2002 xuống còn
14% năm 2005 (giảm 2 lần).
Hình 3.8.1 Kiểu nhà
(Đơn vị tính:%)
(Nguồn: tính toán của tác giả dựa vào số liệu điều tra)
So sánh sự khác biệt trong tỷ lệ nhà ở thuộc hai nhóm xử lý và kiểm soát qua
thời gian 02 năm ta thấy một sự khác biệt khá rõ rệt. Trong nhóm kiểm soát, tỷ lệ hộ
P a g e | 45
gia đình sở hữu nhà kiên cố và bán kiên cố đều thấp hơn một cách có ý nghĩa thống
kê so với nhóm xử lý ở cả hai năm 2002 và 2005. (chi tiết xem thêm phụ lục 3.5)
Bên cạnh việc xem xét yếu tố kiểu nhà như phân tích ở phần trên thì diện tích
đất xây dựng cũng có ý nghĩa quan trọng. Do đó nghiên cứu này cũng quan tâm tìm
hiểu để trả lời câu hỏi: liệu có sự khác biệt giữa diện tích đất xây dựng của hai nhóm
đối tượng nghiên cứu hay không?
Kết quả cho thấy diện tích đất xây dựng của cả hai nhóm phân tích đều tăng
theo thời gian. Trung bình, tổng diện tích đất xây dựng của cả hai nhóm vào năm 2002 là 65,83 m2 thì vào năm 2005, diện tích này tăng lên 69,88m2. Nhưng xét riêng
từng nhóm hộ gia đình thì có sự khác biệt. Diện tích đất xây dựng của nhóm kiểm soát thấp hơn nhóm xử lý (56,37m2 so với 68,74 m2 năm 2002 và 58,09 m2 so với 73,49m2 năm 2005). Sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê (sig = 0,004; F=
8,579 cho năm 2002 và sig = 0,006; F= 7,624 cho năm 2005). (chi tiết xem thêm phụ
lục 3.6)
Hình 3.8.2 Diện tích đất xây dựng
(Đơn vị tính:m2)
(Nguồn: tính toán của tác giả dựa vào số liệu điều tra)
Như vậy xét trên cả hai tiêu chí kiểu nhà và tổng diện tích đất xây dựng thì
nhóm kiểm soát có chất lượng và số lượng kém hơn so với nhóm xử lý. Tương tự
như yếu tố diện tích đất sản xuất, phát hiện này cũng gợi nên câu hỏi: Liệu có mối
P a g e | 46
liên hệ giữa việc sử dụng điện với kiểu nhà và diện tích đất xây dựng của các hộ gia
đình hay không?
3.9 Có thuộc dự án hay không
Trong mẫu nghiên cứu có những hộ thuộc xã có dự án điện khí hoá nông thôn
và có những hộ không thuộc xã có dự án điện khí hoá nông thôn. Như vậy, không
phải tất cả các hộ gia đình có điện đều thuộc các xã hưởng lợi từ dự án diện khí hoá
nông thôn. Bên cạnh đó cũng có những hộ gia đình có điện nhưng không thuộc xã có
dự án trong khi có hộ gia đình không có điện nhưng vẫn thuộc xã có dự án.
Vì tác động của điện là tác động đa chiều, trong đó các hộ gia đình thuộc xã
có dự án điện khí hoá nông thôn sẽ được hưởng những ngoại tác tích cực cho dù bản
thân hộ gia đình đó có sử dụng điện hay không. Ví dụ, một hộ gia đình không sử
dụng điện nhưng nằm trong địa bàn có dự án thì có nhiều khả năng sẽ nhận được lợi
ích do ngoại tác tích cực từ dự án. Chẳng hạn như có điện sẽ tạo thêm các công ăn
việc làm mới hay được hưởng một môi trường sống lành mạnh hơn, ít bị ô nhiễm
hơn, các điều kiện về chăm sóc sức khoẻ tốt hơn v.v. Những ảnh hưởng ấy nếu xét
một cách tách biệt thì sẽ rất khó đo lường. Tuy nhiên xét ở bình diện tổng thể, nó sẽ
có tác động gián tiếp đến tổng thu nhập bình quân đầu người. Trên cơ sở này, tôi
xem xét sự khác biệt trong thu nhập bình quân đầu người dựa trên việc hộ gia đình
ấy có thuộc dự án điện khí hoá nông thôn hay không? Kết quả như sau:
Kết quả thể hiện ở biểu đồ dưới đây cho thấy thu nhập bình quân đầu người
của các hộ thuộc dự án cao hơn nhiều so với thu nhập của các hộ không thuộc dự án
và xu hướng này không đổi theo thời gian. Nếu như năm 2002, thu nhập bình quân
đầu người của hộ thuộc xã có dự án điện khí hoá là 3,267 triệu đồng thì con số này ở
các hộ không thuộc dự án chỉ là 1,579 triệu đồng. Xu hướng này cũng đúng cho năm
2005 khi mà thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình thuộc xã có dự án điện
khí hoá là 5,025 triệu đồng và ở các hộ không thuộc dự án là 3,455 triệu đồng. Sự
khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê với giá trị thống kê sig = 0,000, giá trị F =
8,085 (cho năm 2002) và sig = 0,006; giá trị F = 5,238 (cho năm 2005) (chi tiết xin
xem thêm phụ lục 3.7).
P a g e | 47
Hình 3.9 Thu nhập bình quân đầu người*Nhóm xã
(Đơn vị tính: triệu đồng)
(Nguồn: tính toán của tác giả dựa vào số liệu điều tra)
Những số liệu trên cho thấy việc có điện đã tạo ra những tiến bộ (gián tiếp) và
từ đó góp phần tạo ra thu nhập cao hơn. Tuy nhiên như đã phân tích ở phần mô tả
phương pháp ước lượng, việc ước lượng suất sinh lợi của việc có điện bị ảnh hưởng
của nhiều yếu tố. Do đó ta không thể coi suất sinh lợi của việc có sử dụng điện hay
không là phép tính trừ đơn giản vì đôi khi bản thân thu nhập của nhóm xử lý đã cao
hơn thu nhập của nhóm kiểm soát (do các đặc điểm cơ sở khác nhau) hoặc do tác
động tăng thu nhập theo thời gian (có thể thu nhập của nhóm xử lý tăng không là kết
quả của việc có sử dụng điện hay không mà là do những tác động về mặt thời gian)
v.v. Khẳng định điều này để thấy rằng, nhìn về mặt trực quan, thu nhập của nhóm hộ
sử dụng điện hoặc nằm trong xã có dự án điện cao hơn mức thu nhập của nhóm
không sử dụng điện hay thuộc xã không có dự án điện. Tuy nhiên để ước lượng được
suất sinh lợi từ việc sử dụng điện ta cần xây dựng mô hình hồi quy đa biến, kết hợp
với việc sử dụng phương pháp DID thì mới tách được các tác động một cách rõ rệt.
3.10 Nghề nghiệp hộ gia đình
Hầu hết các hộ gia đình thuộc mẫu nghiên cứu đều làm nông nghiệp. Tuy
nhiên trong số đó, vẫn có hộ làm thêm các ngành nghề khác. Các nghiên cứu đi trước
đều chỉ ra rằng, các hộ thuần nông bao giờ cũng có mức thu nhập kém hơn so với
P a g e | 48
các hộ vừa làm nông nghiệp, vừa tham gia thêm một trong số các loại hình sản xuất
phi nông nghiệp như làm nghề thủ công , làm dịch vụ hay buôn bán nhỏ v.v.
Kết quả của phân tích thống kê mô tả cho thấy: Thu nhập của các hộ có tham
gia sản xuất phi nông nghiệp cao hơn so với các hộ thuần nông ở cả hai nhóm đối
tượng nghiên cứu. Trong tổng số 676 hộ gia đình thuộc mẫu nghiên cứu, chỉ có 89
hộ tham gia thêm một trong số các lĩnh vực phi nông nghiệp và 587 hộ là thuần
nông. Thu nhập bình quân đầu người của những hộ có tham gia sản xuất phi nông
nghiệp năm 2002 là 5,694 triệu đồng và năm 2005 là 7,544 triệu đồng. Trong khi đó,
các hộ thuần nông có mức thu nhập thấp hơn nhiều (năm 2002 là 2,336 triệu đồng và
năm 2005 là 4,178 triệu đồng). Sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê với hệ
số sig.= 0,000 và F= 36.413 (cho năm 2002) và sig. = 0.000 và F = 22.720 (cho năm
2005) (chi tiết xin xem thêm phụ lục 3.8).
Hình 3.10 Thu nhập bình quân đầu người phân theo lĩnh vực nghề nghiệp
(Đơn vị tính: triệu đồng)
(Nguồn: tính toán của tác giả dựa vào số liệu điều tra)
Xét theo tiêu chí hộ gia đình thuộc nhóm hộ xử lý hay hộ thuộc nhóm kiểm
soát ta thấy: Trong năm 2002, ở nhóm xử lý, hộ gia đình có tham gia hoạt động khác
ngoài nông nghiệp có mức thu nhập bình quân đầu người là 5,797 triệu đồng trong
khi ở những hộ thuần nông con số này chỉ là 3,573 triệu đồng. Ở nhóm kiểm soát, xu
hướng cũng tương tự, tuy nhiên mức bình quân chung thấp hơn so với nhóm xử lý
P a g e | 49
(1,945 triệu đồng với hộ không tham gia hoạt động phi nông nghiêp và 5,670 triệu
đồng với hộ có tham gia một trong số các hoạt động phi nông nghiệp). Tương tự đối
với năm 2005 (xem minh hoạ ở biểu đồ trên).
Tóm lại
Tổng hợp các phân tích mô tả bộ số liệu đối với các biến số thuộc đặc điểm riêng của
bản thân các hộ gia đình thuộc hai nhóm nghiên cứu ta thấy:
Một số các đặc điểm cơ sở của hai nhóm kiểm soát và xử lý trước khi có sự
thay đổi về mặt chính sách (tức là được cung cấp điện) không có sự khác biệt.
Cụ thể:
i) Không có sự khác biệt lớn trong tiêu chí loại hình gia đình. Nếu như tỷ lệ
gia đình hạt nhân là 25,79% ở nhóm kiểm soát trong khi tỷ lệ này ở nhóm
xử lý là 23,98%. Tương tự, tỷ lệ gia đình mở rộng ở hai kiểm soát và
nhóm xử lý tương ứng là 74,21% và 76,02%. Tỷ lệ này cũng hầu như
không đổi vào năm 2005.
ii) Không có sự khác biệt về số người phụ thuộc của hai nhóm. Trung bình
chung, số người phụ thuộc ở cả hai nhóm xử lý và kiểm soát là 5,47
người/hộ.
iii) Chênh lệch trong độ tuổi của chủ hộ và vợ/ chồng chủ hộ giữa hai nhóm
phân tích không đáng kể (tính trung bình, tuổi của chủ hộ ở nhóm xử lý là
40,22 tuổi và ở nhóm kiểm soát, tuổi trung bình của chủ hộ là 41,29 tuổi).
Tương tự, không có sự khác biệt về mặt ý nghĩa thống kê đối với tuổi của
vợ/chồng chủ hộ trong hai nhóm xử lý và kiểm soát (36,73 tuổi đối với
nhóm xử lý và 36,8 tuổi đối với nhóm kiểm soát).
iv) Không có sự khác biệt trong tỷ lệ giới tính chủ hộ giữa hai nhóm phân
tích. Ở cả hai nhóm, nam giới là chủ hộ đều chiếm đa số. Chỉ khoảng hơn
17% số hộ gia đình chủ hộ là nữ giới.
v) Vào năm 2002, khi cả hai nhóm xử lý và kiểm soát chưa chịu tác động của
chương trình điện khí hoá nông thôn thì diện tích đất sản xuất của hộ thuộc nhóm kiểm soát là 11,17 nghìn m2/hộ còn diện tích đất sản xuất thuộc nhóm xử lý là 9,1 nghìn m2/hộ. Sự khác biệt này không lớn và
không có ý nghĩa về mặt thống kê.
P a g e | 50
Các đặc điểm khác có sự khác biệt. Cụ thể:
i) Có sự khác biệt về mặt thu nhập bình quân giữa hai nhóm hộ xử lý và
kiểm soát vào năm 2002 và 2005. Chính sự khác biệt về thu nhập vào năm
2002 cho thấy một thực tế là bản thân thu nhập của nhóm xử lý đã cao hơn
thu nhập của nhóm kiểm soát khi chưa có tác động của chính sách công
(có điện).
ii) Mặc dù năm 2002 không có sự khác biệt lớn về mặt quy mô hộ gia đình
nhưng vào năm 2005, quy mô hộ gia đình giữa hai nhóm có sự khác biệt
và sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê. Tất nhiên chưa thể đi đến
kết luận được kết quả này có phải là do tác động của việc có điện hay
không nhưng bước đầu cho thấy có khả năng điện là một trong những
nhân tố ảnh hưởng tích cực đến việc giảm quy mô hộ gia đình.
iii) Sự khác biệt trong trình độ học vấn của hai nhóm hộ thể hiện rõ ngay cả
khi chưa có sự tác động về mặt chính sách. Bằng chứng là vào năm 2002,
nhóm kiểm soát đã có tỷ lệ học vấn thấp cao hơn so với nhóm xử lý.
Tương tự đối với tiêu chí học vấn cao nhất của hộ gia đình. Vào năm
2005, sau khi có điện thì trình độ học vấn của nhóm xử lý được cải thiện
một cách đáng kể so với nhóm kiểm soát.
iv) Mặc dù không có sự khác biệt trong diện tích đất canh tác của hai nhóm
hộ vào năm 2002 nhưng đến năm 2005, sự khác biệt này đủ lớn và có ý
nghĩa về mặt thống kê. Năm 2005, trong khi trung bình một hộ thuộc nhóm kiểm soát sở hữu 18,77 nghìn m2 đất/hộ thì con số này ở nhóm xử lý chỉ là 10,6 nghìn m2/hộ. Phát hiện này đã kiến tác giả đặt câu hỏi phải
chăng nhóm hộ gia đình được hưởng lợi từ việc điện khí hóa có điều kiện
hỗ trợ tốt hơn (cả trực tiếp và gián tiếp) nên có điều kiện tích vụ vốn, từ đó
tích tụ đất đai sản xuất?
v) Có sự khác biệt trong kiểu nhà và diện tích đất xây dựng nhà ở thuộc hai
nhóm xử lý và kiểm soát. Trong nhóm kiểm soát, tỷ lệ hộ gia đình sở hữu
nhà kiên cố và bán kiên cố đều thấp hơn một cách có ý nghĩa thống kê so
với nhóm xử lý ở cả hai năm 2002 và 2005.
vi) Thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình thuộc các xã có dự án
điện khí hoá nông thôn cao hơn thu nhập của các hộ không thuộc dự án
P a g e | 51
ngay cả khi bản thân các hộ trong mẫu nghiên cứu không sử dụng điện
(đối với những hộ thuộc nhóm xử lý vào năm 2002- tức là lúc đó bản thân
các hộ này chưa sử dụng điện). Năm 2002, thu nhập bình quân đầu người
của hộ thuộc xã có dự án điện khí hoá là 3,267 triệu đồng thì con số này ở
các hộ thuộc xã không có dự án chỉ là 1,579 triệu đồng. Rõ ràng đã có
những khác biệt trong đặc điểm cơ sở của bản thân các hộ gia đình thuộc
hai nhóm phân tích.
vii) Thu nhập của cá hộ gia đình phân theo ngành nghề cũng có sự khác biệt.
Vào năm 2002, thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình thuộc nhóm
kiểm soát có tham gia tham gia hoạt động khác ngoài nông nghiệp là
5,797 triệu đồng trong khi ở những hộ thuần nông con số này chỉ là 3,573
triệu đồng. Ở nhóm kiểm soát xu hướng cũng tương tự, nhưng mức bình
quân chung thấp hơn so với nhóm xử lý (1,945 triệu đồng với hộ không
tham gia hoạt động phi nông nghiêp và 5,670 triệu đồng với hộ có tham
gia một trong số các hoạt động phi nông nghiệp).
Như vậy có thể thấy bên cạnh một số đặc điểm giống nhau thì bản thân hai
nhóm nghiên cứu đã có sự khác biệt ở một số đặc điểm cơ sở ngay tại điểm chưa
thực thi chính sách. Do đó cần thiết phải xem xét các tác động của việc sử dụng điện
trong điều kiện loại bỏ các yếu tố khác biệt là điều cần thiết giúp đánh giá chính xác
suất sinh lợi của việc sử dụng điện. Phần tiếp theo sẽ trình bày kết quả của việc ước
lượng khác biệt trong khác biệt kết hợp phương pháp hồi quy OLS.
4. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy
Bảng 3.4 Kết quả mô hình hồi quy sau khi đã kiểm soát các yếu tố ảnh hưởng
đến thu nhập8
8 Mô hình này là mô hình phù hợp nhất sau khi lần lượt loại hai biến số ít có ý nghĩa thống kê nhất trong mô hình ban đầu (biến giới tính chủ hộ và biến tuổi chủ hộ). Chi tiết xem thêm phần phụ lục 4.
Biến phụ thuộc: LN(thu nhập bình quân đầu người)
P a g e | 52
6,873729
(0,101441) *
Hệ số ước lượng Các biến độc lập Hệ số ước lượng Sai số chuẩn sau hiệu chỉnh9
6,873729
0,489524
0,631539
(0,076795) *
Hằng số
0,068936
0,071367
(0,064377)+
Thời gian
0,285470
(0,092756) *
Nhóm hộ
0,251125
0,235912
0,266062
(0,052833) *
Thời gian*Nhóm hộ
0,718477
1,051306
(0,052982) *
Miền bắc
0,380157
0,462514
(0,057171) *
Miền nam
0,001906
0,001906
(0,000350) *
Làm việc phi NN
0,031478
0,031478
(0,006743) *
Diện tích nhà
0,383062
0,466769
(0,048899) *
Học vấn chủ hộ
0,016677
0,016817
(0,001828) *
Dân tộc
0,149203
0,160909
(0,039219) *
Diện tích đất sản xuất
-0,101597
-0,101597
(0,018621) *
Loại nhà
-0,083670
-0,083670
(0,012966) *
Số người phụ thuộc
0,161848
0,175682
(0,043141) *
Quy mô hộ gia đình
-0,004702
-0,004702
(0,002448) **
Xã thuộc dự án
0,349829
0,418825
(0,038338) *
Số ngày ốm
0,221487
0,247931
(0,047516) *
Có xe máy
1331
Có ti vi
0,545097
0,539207
Không có ý nghĩa ở 0,1
Số quan sát R2 R2 điều chỉnh *Mức ý nghĩa 0,01; ** Mức ý nghĩa 0,05; +
Kết quả của mô hình cho thấy, suất sinh lợi của việc sử dụng điện (sau khi
kiểm soát các yếu tố khác ảnh hưởng đến thu nhập) là 28,5%. Hệ số này có ý
9 Đối với các biến giả trong mô hình hồi quy bán logarit, tính tác động của các biến này đến biến phụ thuộc bằng cách: Tính anti-log của các hệ số (β) tương ứng sau đó trừ đi 1. {EXP (β) -1}. Dấu trong ngoặc là hệ số sau (β) khi đã tính anti-log. Xem Basic econometrics, Damodar N. Gujarati (1995), Chương 15, trang 525- 526.
nghĩa thống kê ở mức tin cậy 0,05).
P a g e | 53
Đối với các biến số khác, các hệ số β^ đều cho dấu đúng như kỳ vọng và có
giá trị thống kê t nằm xa trong phạm vi (-2;2). Duy nhất chỉ có hệ số β^ của biến
Nhóm hộ (D) có giá trị thống kê t <2. Tuy nhiên đây là biến mà nghiên cứu đang
xem xét nên tác giả không loại khỏi mô hình. Việc giữ nguyên biến Nhóm hộ (D)
trong mô hình cũng không làm sai lệch nghiêm trọng đến kết quả hồi quy.
Biến
Hệ số β
Giải thích ý nghĩa của các
hệ số hồi quy
Hằng số
6,873729
Hệ số tung độ gốc, hằng số của mô hình.
Thời gian (T =1 là năm 2005)
0,489524 (0,631539)
Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, vào năm 2005, thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình tăng trung bình 63,1% so với năm 2002.
0,068936 (0,071368)
Nhóm hộ (D =1 nhóm xử lý, D= 0 nhóm kiểm soát)
Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, trung bình một hộ gia đình sử dụng điện sẽ làm tăng 7,1 % thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình so với những hộ không sử dụng điện.
Thời gian*Nhóm hộ
0,251125 (0,285470)
Suất sinh lợi của việc sử dụng điện (sau khi kiểm soát các yếu tố khác) là 28,5% tính trên thu nhập bình quân đầu người.
Miền bắc
0,235912 (0,266063)
Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, trung bình một hộ gia đình ở miền bắc có thu nhập bình quân đầu người cao hơn 26,6% so với thu nhập bình quân đầu người cuả hộ ở khu vực miền trung
Miền nam
0,718477 (1,051307)
Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, trung bình một hộ gia đình ở miền nam có thu nhập bình quân đầu người cao hơn 105% so với thu nhập bình quân đầu người của hộ ở khu vực miền trung.
Phi nông nghiệp
0,380157 (0,462514)
Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, trung bình một hộ gia đình tham gia sản xuất phi NN có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn 46,2 % so với thu nhập bình quân đầu người của các hộ chỉ tham gia sản xuất NN.
Diện tích nhà
0,001906
Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, trung bình cứ một m2 diện tích nhà tăng thêm sẽ làm tăng tương ứng 0,19% thu nhập bình quân đầu
P a g e | 54
Biến
Hệ số β
Giải thích ý nghĩa của các
hệ số hồi quy
người.
Học vấn chủ hộ
0,031478
Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, cứ tăng thêm 1 năm học vấn chủ hộ sẽ làm tăng tương ứng trung bình 3,14% thu nhập bình quân đầu người.
Dân tộc
0,383062 (0,46677)
Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, thu nhập bình quân đầu người của một hộ gia đình người Kinh hay người Hoa sẽ tăng thêm trung bình 46,6 % so với hộ gia đình thuộc các dân tộc ít người khác.
Diện tích đất sản xuất
0,016677
Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, thu nhập bình quân đầu người của một hộ gia đình sẽ tăng trung bình 1,66% nếu tăng diện tích đất sản xuất nông nghiệp lên 1000m2.
Loại nhà
0,149203 (0,160909)
Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, thu nhập bình quân đầu người của một hộ gia đình sẽ tăng thêm 16,0% nếu gia đình ấy sở hữu loại nhà kiên cố hay bán kiên cố.
Số người phụ thuộc
-0,101597
Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, cứ tăng thêm một người phụ thuộc trong hộ sẽ làm giảm trung bình 10,15 % thu nhập bình quân đầu người.
Quy mô hộ gia đình
-0,083670
Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, cứ tăng thêm một thành viên trong hộ sẽ làm giảm tương ứng 8,36 % thu nhập quân đầu người.
0,161848 (0,175682)
Xã có thuộc dự án hay không
Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, một hộ gia đình thuộc xã có dự án điện khí hoá nông thôn sẽ làm tăng thêm trung bình 17,5% thu nhập bình quân đầu người so với các hộ gia đình không thuộc xã có dự án điện khí hoá nông thôn.
Số ngày ốm
-0,004702
Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, cứ tăng thêm 01 ngày ốm của các thành viên sẽ làm giảm tương ứng trung bình 0,47% thu nhập bình quân đầu người. (biến này có ý nghĩa thống kê ở mức α = 0,05).
P a g e | 55
Biến
Hệ số β
Giải thích ý nghĩa của các
hệ số hồi quy
Có xe máy
0,349829 (0,418825)
Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, hộ gia đình nào sở hữu ít nhất 01 xe máy sẽ làm tăng mức thu nhập bình quân đầu người trung bình 41,88 %
Có ti vi
0,221487 (0,247931)
Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, hộ gia đình nào sở hữu ít nhất 01 tivi sẽ làm tăng mức thu nhập bình quân đầu người trung bình 24,79% .
Ở mô hình này, R2 có giá trị 54,5%. Nó cho biết các biến số độc lập được sử
dụng trong mô hình có thể giải thích được 54,5% sự biến thiên của biến số phụ thuộc
(log thu nhập bình quân đầu người). Tuy nhiên sẽ là sai lầm khi đánh giá mô hình chỉ trên cơ sở giá trị R2, bởi vì khi bổ sung thêm các biến giải thích vào mô hình hồi qui sẽ làm gia tăng giá trị R2 (cho dù những biến hồi qui này không phù hợp), và sự gia
tăng này sẽ chịu sự đánh đổi bằng sự giảm chính xác của những ước lượng.
Do ước lượng mẫu của R2 có khuynh hướng là một ược lượng trội của tham số R2 của tổng thể. Vì vậy giá trị R2 điều chỉnh được dùng để bù cho phần thiên lệch này của R2. Khi tăng thêm biến giải thích vào mô hình hồi qui, giá trị của hệ số này
có thể được cải thiện, cũng có thể không thay đổi hoặc thậm chí có thể giảm đi. Hệ số R2 điều chỉnh sẽ cân đối giữa sự gia tăng sức mạnh giải thích được đóng góp bởi
một biến giải thích bổ sung với sự giảm mức chính xác khi sử dụng thông tin để ước lượng hệ số của biến giải thích bổ sung này. Hệ số R2 điều chỉnh có thể sử dụng để
so sánh hai mô hình hồi qui có số biến giải thích khác nhau.
Trong mô hình này, R2 điều chỉnh có giá trị là 53,9%. Ngoài ra hệ số F – stat
của mô hình là 92,5, một hệ số khá cao, thống kê Pro (F- stat) = 0,000 rất nhỏ là
những chỉ số cho thấy mô hình này tương đối phù hợp.
P a g e | 56
CHƯƠNG 4
KẾT LUẬN
1. Kết luận
Số liệu sử dụng trong nghiên cứu này được trích ra từ bộ số liệu của nghiên
cứu Đánh giá tác động chương trình Điện khí hoá nông thôn tại Việt Nam giai đoạn
2002 -2005 do WB, MOI và Viện XHH phối hợp thực hiện trong phạm vi cả nước.
Những kết luận có được từ báo cáo này dựa trên việc phân tích 676*2 = 1352 quan
sát rút ra từ bộ số liệu gốc. Do đó, tác giả hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ đại diện
trong phạm vi quốc gia.
Kết quả quan trọng nhất mà nghiên cứu tìm ra là: sau khi kiểm soát các yếu tố
khác, điện đóng góp trung bình 28,5% thu nhập bình quân tính trên đầu người. Có
thể nói, đây là một mức gia tăng đáng kể và rất có ý nghĩa.
Bên cạnh đó, nghiên cứu còn chỉ ra rằng, các tác động của việc có điện đối
với các mặt xã hội là điều không thể phủ nhận. Từ nghiên cứu này, có nhiều bằng
chứng ủng hộ quan điểm cho rằng, điện khí hoá nông thôn là một thành tố quan
trọng trong phát triển hạ tầng xã hội và là động lực thúc đẩy sự phát triển của cả khu
vực nông thôn.
Một phát hiện quan trọng khác của nghiên cứu này là tìm ra những bằng
chứng rõ rệt của mối liên hệ giữa việc có sử dụng điện và tình trạng giáo dục. Thực
tế, điện không chỉ góp phần cải thiện các điều kiện học tập mà còn đóng một vai trò
quan trọng trong việc nâng cao trình độ học vấn. Đồng thời có điện còn làm giảm
một cách đáng kể nguy cơ tái mù chữ. Điều này mang một ý nghĩa xã hội rất to lớn,
đặc biệt khi xét trong phạm vi nghiên cứu vì phần lớn các hộ trong mẫu nghiên cứu
là người thuộc nhóm dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu vùng xa.
Điện cũng góp phần làm giảm quy mô hộ gia đình. Sự khác biệt trong quy mô
hộ gia đình giữa hai nhóm hộ không có ý nghĩa thống kê vào năm 2002 nhưng lại có
ý nghĩa về mặt thống kê vào năm 2005 (tức là sau khi chính sách điện khí hoá nông
thôn được thực thi). Trong điều kiện những nỗ lực của chính phủ đối với công cuộc
P a g e | 57
xoá đói giảm nghèo phụ thuộc khá nhiều vào chính sách dân số thì những bằng
chứng của nghiên cứu này cho thấy: ở một góc độ nào đó, điện góp phần làm giảm
quy mô hộ gia đình. Có thể tác động này là tác động gián tiếp thông qua việc môi
trường sống được cải thiện, các điều kiện về chăm sóc y tế phát triển hơn cũng như
việc tiếp cận với thông tin dễ dàng hơn, v.v. Chính những yếu tố này đã góp phần
làm giảm quy mô hộ gia đình.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy: Diện tích đất sản xuất của các hộ
gia đình thuộc nhóm xử lý tăng hơn một cách đáng kể so với diện tích đất sản xuất
của các hộ thuộc nhóm kiểm soát sau khi có sự can thiệp về mặt chính sách. Nếu như
vào năm 2002 sự khác biệt này không lớn và không có ý nghĩa thống kê thì đến năm
2005, sự khác biệt đối với diện tích đất sản xuất của nhóm xử lý và nhóm kiểm soát
là đủ lớn và có ý nghĩa về mặt thống kê v.v.
Bên cạnh đó, thông qua kết quả của mô hình hồi quy OLS, nghiên cứu cũng
tìm ra hàng loạt các nhân tố độc lập khác đóng vai trò quan trọng trong việc tăng thu
nhập của hộ gia đình.
- Vùng miền địa lý là yếu tố này có ảnh hưởng lớn nhất đến mức thu nhập bình
quân đầu người. Kết quả cho thấy, thu nhập bình quân đầu người của hộ gia
đình khu vực miền nam cao hơn 105 % so với miền trung khi thu nhập bình
quân đầu người của các hộ gia đình miền bắc cao hơn khoảng 26,6% so với các
hộ miền trung. Như vậy, nếu xét theo vùng miền thì các hộ gia đình khu vực
miền nam có thu nhập bình quân đầu người cao nhất, tiếp đó là đến khu vực
miền bắc và cuối cùng, thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình khu vực
miền trung là thấp nhất trong cả nước. Kết quả này cũng phù hợp với kết luận
của nhiều nghiên cứu khác có liên quan (WB, 2006).
- Nghề nghiệp cũng thuộc nhóm nhân tố có tác động mạnh đến tốc độ tăng thu
nhập bình quân đầu người. Theo đó, các hộ thuần nông luôn thuộc nhóm hộ có
mức thu nhập thấp nhất. Nếu hộ có tham gia một trong số các loại hình sản xuất
phi nông nghiệp thì thu nhập bình quân đầu người trung bình tăng tới 46,2%.
Đây là một tốc độ tăng đáng kể và là yếu tố cần được chú trọng về mặt chính
sách .
P a g e | 58
- Học vấn luôn luôn là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới mức thu nhập. Nghiên
cứu cho thấy, chỉ cần gia tăng một năm đi học của chủ hộ cũng góp phần làm
tăng trung bình 3,14% trong tổng thu nhập bình quân đầu người.
- Tài sản (ti vi, xe máy, diện tích đất sản xuất) là kết quả và cũng là nguyên nhân
của việc tăng thu nhập. Bước đầu, khi thu nhập gia đình tăng lên, các hộ gia
đình có điều kiện trang bị, mua sắm các tài sản có giá trị. Sau đó, chính các tài
sản này lại có tác động ngược trở lại, góp phần làm gia tăng thu nhập của hộ gia
đình. Kết quả rút ra từ nghiên cứu này là hộ gia đình sở hữu xe máy có thu nhập
cao hơn hộ không có xe máy trung bình là 35% và hộ có sở hữu ti vi có thu
nhập bình quân đầu người tăng trung bình 22% so với hộ không có ti vi. Cứ tăng 1000m2 diện tích đất sản xuất thì làm gia tăng 1,66% thu nhập bình quân
đầu người.
- Hộ gia đình thuộc xã có dự án điện khí hoá nông thôn dù có trực tiếp sử dụng
điện hay không cũng có mức thu nhập tăng trung bình khoảng 17,5% so với các
hộ thuộc nhóm xã không có dự án. Điều này cho thấy ngoại tác tích cực của
việc có điện là tương đối lớn.
- Theo thời gian, thu nhập bình quân đầu người cùng gia tăng ở hai nhóm hộ
phân tích. Điều này là một thực tế khách quan và cũng phù hợp với tốc độ tăng
trưởng, tốc độ xoá đói giảm nghèo của Việt nam tại thời điểm tiến hành nghiên
cứu. Trong ba năm từ 2002 đến 2005, thu nhập tình trên đầu người tăng khoảng
61,3% (tức tăng trung bình 20,5%/năm).
- Nghiên cứu cũng tìm ra các nhân tố góp phần làm giảm thu nhập bình quân đầu
người. Đó là các yếu tố ốm đau, quy mô hộ gia đình và số người phụ thuộc
trong hộ. Theo đó nếu tăng một ngày ốm lên thì làm giảm trung bình 0,47% thu
nhập bình quân đầu người; nếu hộ gia đình có 4 người, sau đó cứ tăng thêm
một thành viên thì thu nhập bình quân đầu người cũng giảm tương ứng 8,02%
và cuối cùng, cứ gia tăng một người phụ thuộc sẽ làm giảm trung bình 9,66%
thu nhập tính trên một đầu người.
P a g e | 59
2. Gợi ý chính sách
Từ kết quả của nghiên cứu, tác giả đề xuất một số gợi ý về mặt chính sách như sau:
Thứ nhất: Việc đầu tư vào các mạng lưới điện trong phạm vi quốc gia có một
ý nghĩa rất lớn, nhất là đối với người dân khu vực nông thôn vùng hẻo lánh và các hộ
dân tộc ít người. Do đó chính phủ cần tiếp tục các dự án điện khí hoá nông thôn
nhằm đạt được mức độ bao phủ điện tốt nhất cho người dân. Bên cạnh đó, chính phủ
cần quan tâm hỗ trợ thêm các thiết bị kết nối cũng như cung cấp một mức hỗ trợ
tương xứng về giá cả để ngày càng có nhiều hộ gia đình được tiếp cận với điện hơn
nữa. Một thực tế mà ai cũng biết đó là Việt nam đang thiếu điện nghiêm trọng và sẽ
còn tiếp tục thiếu điện trong thời gian tới. Để thoát khỏi tình trạng này cần có nguồn
tài chính khổng lồ và nhiều chuyên gia cho rằng, mở rộng thị trường điện là cần
thiết. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu này cho thấy, dù có tự do hoá thị trường ngành
điện đến mức nào thì việc can thiệp, thậm chí là một sự trợ giúp của chính phủ đối
với các khu vực vùng sâu, vùng xa và các khu vực tập trung nhiều đồng bào dân tộc
miền núi vẫn là cần thiết và cấp bách. Sở dĩ có đề xuất này vì trong khi thu nhập
trung bình tính trên đầu người của Việt Nam năm 2005 vào khoảng
637$/người/năm10 (tính theo tỷ giá hối đoái hiện thời - tương đương 10,12 triệu
đồng) thì tại địa bàn nghiên cứu, thu nhập của nhóm cao nhất cũng chỉ là 6,15 triệu
đồng/người/năm. Đây là một mức thu nhập quá thấp và để giúp người dân vùng khó
khăn, vùng sâu vùng xa và dân tộc thiểu số không bị rơi vào hố sâu ngăn cách giàu
nghèo thì việc trợ giúp của chính phủ là cần thiết hơn bao giờ hết.
Thứ hai: Có một mối liên hệ mật thiết giữa việc cung cấp điện và việc nâng
cao trình độ học vấn của người dân. Do đó để nhân lên những ảnh hưởng tích cực
của việc có điện, một sự đầu tư về giáo dục là rất cần thiết và mang một ý nghĩa to
lớn. Việc cung cấp điện và cung cấp giáo dục không chỉ giúp nâng cao học vấn mà
còn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Vì giáo dục là một sự đầu tư lâu dài và
nếu chỉ tính riêng suất sinh lợi của việc đi học đối với các cá nhân cũng đã rất lớn,
nhưng nếu có sự kết hợp với việc cung cấp điện thì giáo dục thậm chí sẽ mang lại
10 Nguyễn Xuân Thành, Bùi Văn (2007), GDP của Việt Nam cân bằng theo sức mua giảm 30%, Báo điện tử Vietnam net http://vietnamnet.vn/kinhte/2007/12/760876/
mức sinh lợi cao hơn, ngay cả nếu xét trong các hộ có chung một trình độ học vấn.
P a g e | 60
Do đó, cần thiết có sự kết hợp giữa việc cung cấp điện, xây dựng trường học và cung
cấp các chương trình giáo dục.
Thứ ba: Nghề nghiệp có một ý nghĩa lớn đối với việc tăng thu nhập của
người dân. Kết quả của nghiên cứu này cũng như kết quả của nhiều nghiên cứu khác
đều cho thấy việc chuyển dịch cơ cấu ngành nghề có ý nghĩa sống còn đối với việc
nâng cao thu nhập, xoá đói giảm nghèo của người dân. Cung cấp điện bên cạnh
những tác động trực tiếp còn góp phần gián tiếp tạo thêm các công ăn việc làm mới,
làm tăng năng suất cây trồng vật nuôi, v.v. Do đó cũng rất cần thiết khi có sự kết hợp
giữa việc cung cấp điện và có sự chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp, đảm bảo sự phù
hợp với hoàn cảnh của từng địa phương.
Thứ tư: Bên cạnh các yếu tố kể trên còn có một số yếu tố khác ảnh hưởng
đến thu nhập. Đó là vấn đề chăm sóc y tế, tỷ lệ người phụ thuộc trong gia đình, quy
mô hộ gia đình v.v. Tất cả các vấn đề trên có liên quan đến việc cung cấp kiến thức
và các dịch vụ y tế. Do đó tác giả kiến nghị cần song song giữa cung cấp điện và
cung cấp các dịch vụ y tế. Giảm tỷ lệ người phụ thuộc, giảm quy mô hộ gia đình và
nâng cao tình trạng sức khoẻ sẽ góp phần làm tăng thu nhập của hộ gia đình.
Tóm lại: Để có một nền kinh tế tăng trưởng, nâng cao đời sống của người dân
thì việc mở rộng cơ sở hạ tầng và các dịch vụ liên quan là cần thiết. Tuy nhiên cũng
cần thấy rằng, việc tăng trưởng theo định hướng thị trường về cơ bản mang lại lợi ích
cho những vùng giàu hơn vì ở đó kết cấu hạ tầng và nguồn vốn con người đã phát
triển tương đối tốt. Ở những vùng kém phát triển, các hộ gia đình nghèo hơn có thể
không có khả năng tận dụng các cơ hội do tăng trưởng mang lại. Do đó các khoản
đầu tư có mục tiêu của chính phủ như đầu tư hệ thống lưới điện, kết hợp đầu tư cho y
tế, giáo dục, nâng cấp cơ sở hạ tầng sẽ là rất hữu ích đối với vùng sâu, vùng xa, vùng
dân tộc ít người.
3. Hạn chế của nghiên cứu
Vì đây là nghiên cứu sử dụng bộ số liệu điều tra lặp lại theo thời gian nên mẫu
nghiên cứu có thể sẽ bị sai lệch do thời gian kéo dài. Cụ thể, có những hộ gia đình
được phỏng vấn ở vòng 1 (vào năm 2002) nhưng lại không được phỏng vấn ở vòng 2
(năm 2005). Điều này làm giảm kích cỡ mẫu của nghiên cứu do một số biến không
đủ thông tin sẽ bị loại.
P a g e | 61
Nghiên cứu này sẽ hữu ích hơn nếu có thêm thông tin về hạ tầng xã hội bao
gồm thông tin về khoảng cách từ hộ gia đình đến trung tâm hành chính, đến trường
học, đến chợ, đến trung tâm y tế v.v. Đây là biến số mà tác giả rất muốn đưa vào mô
hình để kiểm tra tác động của nó đối với biến thu nhập nhưng không thể khai thác
trong bộ dữ liệu này.
Ngoài ra để chính xác hơn trong việc xác định mối quan hệ giữa việc có điện
và suất sinh lợi của giáo dục, bảng hỏi cũng cần bổ sung thêm các câu hỏi về tình
trạng tự học hay các chương trình vừa học vừa làm vì nó phù hợp với thực tế địa bàn
nghiên cứu.
Tóm lại, trong phạm vi của luận văn này, vấn đề đã bị giới hạn lại rất nhiều.
Nghiên cứu chỉ mới chú trọng các tác động đối với thu nhập trong khi bỏ qua hàng
loạt các lợi ích khác. Trên thực tế, để tính toán suất sinh lợi của việc có điện một
cách đầy đủ chúng ta cần tính toán lợi ích do điện mang lại trên tất cả các mặt như
giáo dục, y tế, vấn đề cải thiện môi trường sống, sự thoải mái, an toàn và thuận lợi
cũng như tăng năng suất lao động. Tổng cộng tất cả các lợi ích đó sẽ được quy bằng
tiền theo cách mà WB đã thực hiện ở đối với nghiên cứu tương tự ở Philippines.
Ngoài ra, các lợi ích gián tiếp của việc có điện cũng cần phải ước lượng (dù chúng
có thể không được quy ra tiền).
P a g e | 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Phi Hổ, 2003. “Ảnh hưởng kiến thức nông nghiệp đối với nông dân sản
Tài liệu Tiếng Việt
2. Dominique Haughton, Jonathan Haughton và Nguyễn Phong (2001) “Mức sống
xuất lúa ở An Giang”, Đề tài cấp bộ Đại học Kinh tế TPHCM.
3. Nguyễn Quốc Huy, 2002. “Lợi suất giáo dục Việt Nam năm 1998”, Viện kinh tế
trong thời đại bùng nổ ở Việt Nam” Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội.
4. Nguyễn Xuân Thành, Bùi Văn, 2007. “GDP của Việt Nam cân bằng theo sức
Thành phố Hồ Chí Minh.
mua giảm 30%”, Báo điện tử Vietnam net
5. Nguyễn Xuân Thành, 2006. “Phân tích tác động của chính sách công: Phương
http://vietnamnet.vn/kinhte/2007/12/760876/
pháp ước lượng khác biệt trong khác biệt” Học liệu mở FETP.
6. Nguyễn Xuân Thành, 2006. “Ước lượng suất sinh lợi từ việc đi học tại Việt Nam:
http://www.fetp.edu.vn
Phương pháp khác biệt trong khác biệt” học liệu mở FETP.
7. MDPA, 2003. “Phân tích khảo sát hiện trạng đói nghèo 12 tỉnh ĐBSCL”.
8. MOI, 2005. “Giải pháp đẩy mạnh điện khí hóa nông thôn các tỉnh biên giới phía
http://www.fetp.edu.vn
9. UNDP, 2006. “ Báo cáo phát triển con người”.
10. Vũ Trọng Anh, 2008. Luận văn cao học: “Ước lượng suất sinh lợi của việc đi học
Bắc Việt Nam”.
11. World Bank, 2008. “Báo cáo Phát triển Việt Nam”
ở Việt Nam”, Khoa KTPT, Đại học KT. TP. HCM.
12. World Bank, 2006. “Báo cáo Phát triển Việt Nam”
http://www.worldbank.org.vn
13. WB ,1999. “Đánh giá nghèo đói có sự tham gia của cộng đồng”
14. World Bank, 2005. “Báo cáo Phát triển Việt Nam”
http://www.worldbank.org.vn
15. World Bank, 2005. “Tiếp cận năng lượng tái tạo ở các vùng nông thôn tại các
http://www.worldbank.org.vn
nước khu vực sông Mêkong” http://www.worldbank.org.vn
P a g e | 63
1. Badri Prasad Bastakoti, 2003. “Rural electrification and efforts to create
Tài liệu Tiếng Anh
2. Barkat, A. & et.al, 2002. “Economic and Social Impact evaluation study of the
enterprises for the effective use of power” http://www.sciencedirect.com/science
Rural electrification Program in Bangladesh”,
3. Beker, S. Gary, 1993. “Human Capital: A Theoretical and Empirical Analysis,
http://www.coopdevelopmentcenter.coop/Sector/Energy%20and%20Rural%20El ectrification/ReadmoreCH8-Bangladesh.pdf
4. UHE/UAB, 2005. “Energy Policies for Rural Electrification: A Social Multi-
with Special Reference toEducation” The University of Chicago Press.
Criteria Evaluation Approach”
5. Gallup, John (2004), “Wage Labor Market and Inequality in Vietnam”, in Paul Glewwe at al, Economic Growth, Poverty, and Household in Vietnam, Edited, Worbank Regional and Sectoral Studies.
http://www.recercat.cat/bitstream/2072/1181/1/UHE26-2005.pdf
6. Report, 2003. “Rural Electrification Network Expansion: Bhutan”
http://books.google.com/books?id=jRSuIH1tVqEC&printsec=frontcover&hl=vi# PPA63,M1.
7. Report, 2002. “Rural electrification and poverty reduction: An
http://www.adb.org/Documents/PIDs/34374013.asp
impact
8. Report, 2002. “Rural Electrification Project – Indonesia”
evaluation” http://www.sciencedirect.com
9. WB, 2002. “Rural Electrification and Development in the Philippines: Measuring
http://www.jbic.go.jp/english/oec/post/2002/pdf/033_full.pdf
the Social and Economic Benefits”
http://lnweb18.worldbank.org/ESD/sdvext.nsf/81.2yDocName
Phụ lục 1 Bảng hỏi (trích)
Bảng hỏi điều tra hộ gia đình
Đây là nghiên cứu đầu tiên trong ba nghiên cứu được tiến hành trong vòng 5 năm tới. Mục đích của cuộc nghiên cứu là giúp cho ngành điện Việt nam và Ngân hàng thế giới nhận biết được các tác động của quá trình điện khí hoá nông thôn đến yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường sống của người dân. Những thông tin này sẽ được sử dụng để hoạch định các kế hoạch liên quan đến chương trình điện khí hoá nông thôn tại Việt Nam. Nghiên cứu được tài trợ bởi Zealand Official Development Assistance. Thông tin của cuộc nghiên cứu chỉ phục vụ cho mục đích thống kê. Tên của người được phỏng vấn sẽ được giữ kín.
Người trả lời: Chủ hộ/ vợ chồng chủ hộ ( Tuổi từ 20-60)
Phần 1:
Thông tin hộ gia đình
Mã số hộ gia đình:
Q1.0
Thời gian bắt đầu phỏng vấn (hh:mm)
Q1.1
am/pm
Thời gian phỏng vấn kết thúc (hh:mm)
Q1.2
am/pm
Tên người được phỏng vấn
Q1.3
Giới tính
Nam
Nữ
Q1.3 a
Có phải chủ hộ hay không?
Q1.4
Tên của vợ/ chồng chủ hộ
Q1.5
Giới tính
Q1.5 a
Male
Female
Xã
Q1.6
Huyện
Q1.7
Tỉnh
Q1.8
Tháng
Năm 200
Q1.9 Ngày Q1.10 Q1.11
Trung bình
Nghèo
Khá
Ngày phỏng vấn Người phỏng vấn Người giám sát Xếp loại kinh tế hộ gia đình theo chính quyền xã: Q1.12 Mã của các câu hỏi Q1.13
Tỉnh
Huyện
Xã có dự án
Xã không có dự án
Xã có điện
Vùng Ghi chú:
1.
2.
Mã số phải được chia theo vùng, tỉnh, huyện và xã. Mã số hộ gia đình phải trùng với ID của hộ gia đình. Tên code được liệt kê trong bảng hướng dẫn của các giám sát viên. Những code sau được áp dụng cho tất cả các câu hỏi trong bảng hỏi. Code:
[-7] Không thích hợp [-8] Không biết [-9] Không trả lời
3. 4.
DKhông được để trống bất cứ ô nào trong bảng hỏi. Nếu một phần nào đó trong bảng câu hỏi bị bỏ qua, điền số “0” vào câu trả lời đầu tiên và số “7” cho tất cả các câu trả lời còn lại.
Mục lục của bảng câu hỏi:
Phần: 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14
Đặc điểm chủ hộ và các thành viên trong hộ gia đình (HC) Kinh tế - Xã hội (SE) Nông nghiệp (AG) Các thiết bị của hộ gia đình (PVI) Sức khoẻ (HLT) Tín dụng và Tiết kiệm (CS) Sử dụng năng lượng (EGY) (IE) Tác động đến giáo dục Những tác động khác (OI) Hoạt động của hộ gia đình (ACT) (ATT) Thái độ đối với việc có điện Xếp hạng kinh tế hộ gia đình (GWB) Mức sẵn lòng chi trả (WTP)
Phần 2
(HC) Đặc điểm chủ hộ và các thành viên trong hộ gia đình
2.1 Quy mô hộ gia đình?
HC1
người (số hiện hữu đang sống tại gia đình)
(Hộ gia đình bao gồm tất cả các cá nhân thường xuyên sống chung, tất cả cá nhân thường xuyên cứ trú tại gia đình trong vòng 06 tháng hoặc nhiều hơn 06 tháng, cùng chung môt mái nhà và sử dụng chung các thiết bị trong hộ gia đình).
2.2 Dân tộc (Xin điền mã số tương ứng)?
HC2
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Xơ đăng San chay (Cao lan, San chi) Cờ ho Chăm Sán dìu Ho re M nông Rag lai Xtiêng Bru - Vân kiều Tho Giay
25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36
La chi La hu Lu Lo lo Pa then Co lao Cong Bo y Si la Pu peo Brau Ro mam
Kinh Tày Thái Hoa Kh me Mường Nùng Mông Dao Gia rai Ê dê Ba na Khác
13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 49
K tu Gie trieng Ma Khơ mú Co Tà oi Cho ro Khang Xinh mun Ha nhi Chu ru Lao Người nước ngoài
37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 50
2.3 Các thành viên trong hộ gia đình
Tuổi
Tình trạng việc làm
Quan hệ với chủ hộ
Nghề nghiệp chính
Tình trạng hôn nhân
Số phút đành đọc sách/báo trong tháng qua
Giới tính 1=Nam 2=Nữ
Thư nhập từ lương hàng năm (‘000 VND)
Giáo dục ( Số năm học đã hoàn thành)
Số ngày nghỉ làm việc/nghỉ học do bị ốm trong tháng qua
Tổng thu nhập hàng năm (ĐV tính ngàn đồng)
Có thường xuyên cư trú tại gia đình hay không 1=Có 2=Không
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
Nghề chính:
Thương mại
5
Tiểu thủ công nghiệp
9
1
Mã cho câu hỏi quan hệ với chủ hộ:
Không có khả năng lao động Nông nghiệp
6 Dịch vụ Public office holder 7 Trẻ con, học sinh, SV 8
2 Lâm nghiệp 3 Ngư nghiệp 4
Công nhân Lao động nông nghiệp Nghỉ hưu Chuyên gia
10 11 12 13
Marital Status -7. <13 1. Độc thân 2. Đang có vợ, chồng 3. Goá 4. Li dị 5. Li thân
Employment Status:
1. Chủ hộ 2. Vợ/chồng chủ hộ 3. Con 4. Vợ/chồng của con 5. Bố mẹ đẻ/Bố mẹ vợ,chồng 6. Mối quan hệ khác 7. Không quan hệ
Làm việc toàn thời gian 1
Bán thời gian 2
Thất nghiệp tạm thời 3
* Thu nhập hộ gia đình được hỏi trong câu se4
Phần 3
(SE) KINH TẾ - XÃ HỘI
se1
se1
Ông/ bà có kinh doanh tại nhà không? [0] Không. Nếu trả lời không chuyển sang se4. [1] Có
se2
se2 se2.1 se2.3
Nếu có, ông bà kinh doanh loại hình nào? Dịch vụ: [1] Dịch vụ cá nhân – thợ may, cắt tóc, giặt ủi... [2] Dịch vụ vận chuyển – Xe tải hay xe ôm [3] Dịch vụ giải trí – karaoke, video... [4] Sửa chữa [5] Chế biến nông sản [6] Thợ xây, thợ mộc [7] Bách hoá tổng hợp [8] Ăn uống, nhà hàng [9] Khác [-7] Không trả lời [-9] Không thích hợp
se3
Số giờ làm việc trong một tuần (đối với loại hình sản xuất phi
se3
(hrs)
nông nghiệp) – tất cả các thành viên trong gia đình
se4
Tổng thu nhập của hộ gia đình trong năm qua? (0 hoặc
se4
‘000VND)
Tgu nhập từ các nguồn sau trong năm qua?
Thu nhập từ tiền lương Thu nhập từ mùa màng Thu nhập từ nuôi gia súc Thư nhập từ hải sản Trợ cấp từ chính phủ Tiền gửi từ người thân Thu nhập từ sản xuất phi nông nghiệp Thu nhập từ làm thuê Thu nhập từ cho thuê nhà Khác
se4.0 se4.1 se4.2 se4.3 se4.4 se4.5 se4.6 se4.7 se4.8 se4.9
se5 se6
Tổng số lao động trong gia đình Số người không kiếm ra tiền ( từ15-60 tuổi)
se5 se6
se7
se7.1 se7.2 se7.3 se7.4 se7.5 se7.6 se7.7 se7.8 se7.9 se7.10 se7.11 se7.12 se7.13
__’000 Dong __’000 Dong __’000 Dong __’000 Dong __’000 Dong __’000 Dong __’000 Dong __’000 Dong __’000 Dong __’000 Dong __’000 Dong __’000 Dong __’000 Dong
Năm ngoái ,gia đình đã tiêu bao nhiêu tiền cho các khoản sau se7.1 Thức ăn se7.2 Quần áo se7.3 Nhiên liệu se7.4 Điện se7.5 Giáo dục se7.6 Nước sạch se7.7 Phương tiện đi lại se7.8 Lễ, tết se7.9 Điện dùng cho SX nông nghiệp se7.10 Nước dùng trong SX nông nghiệp se7.11 Phương tiện dùng SX nông nghiệp se7.12 Nông nghiệp se7.13 Khác
(còn nữa)
Phụ lục 2. Mẫu nghiên cứu phân theo địa bàn (tỉnh)
q1.8
Cumulative
Frequency
Percent
Valid Percent
Percent
Valid
Ha Giang
11.2
76
11.2
11.2
Lai chau
11.2
76
11.2
22.5
Hoa Binh
12.4
84
12.4
34.9
Quang Binh
16.9
114
16.9
51.8
Quang Nam
10.1
68
10.1
61.8
Dac Lac
19.1
129
19.1
80.9
Soc Trang
19.1
129
19.1
100.0
Total
676
100.0
100.0
q1.8 * Electrification Status of Sample Households Crosstabulation
Electrification Status of Sample Households
control
treatment
Total
ha Giang
Count
13
63
76
q1.8
8.2%
12.2%
11.2%
% within Electrification Status of Sample Households
Lai chau
Count
15
61
76
9.4%
11.8%
11.2%
% within Electrification Status of Sample Households
Hoa Binh
Count
27
57
84
17.0%
11.0%
12.4%
% within Electrification Status of Sample Households
Quang Binh
Count
112
114
2
1.3%
21.7%
16.9%
% within Electrification Status of Sample Households
Quang Nam
Count
9
59
68
5.7%
11.4%
10.1%
% within Electrification Status of Sample Households
Dac Lac
Count
37
92
129
23.3%
17.8%
19.1%
% within Electrification Status of Sample Households
Soc Trang
Count
56
73
129
35.2%
14.1%
19.1%
% within Electrification Status of Sample Households
Total
Count
159
517
676
100.0%
100.0%
100.0%
% within Electrification Status of Sample Households
-
Phụ lục 3.1 Electrification Status of Sample Households* Annual income per person
Group Statistics
Electrification Status of Sample
Std. Error
Households
Mean
N
Mean
Std. Deviation
3812.1475
6799.07109
540.90505
515
Annual income per person
No elect in 2002 Grid or mini in 2005
2451.5134
4210.49972
185.53679
158
2002
No Grid or mini
Annual income per person
No elect in 2002 Grid or mini in 2005
6154.8658
9008.31777
721.24265
513
2005
No Grid or mini
4148.5665
5031.38245
222.14096
156
Independent Samples Test
Levene's Test for
Equality of Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of
the Difference
Sig. (2-
Mean
Std. Error
F
Sig.
t
df
tailed)
Difference
Difference
Lower
Upper
Annual income per
Equal variances
24.544
.000
3.029
671
.003
1360.63412
449.19931
478.62872
2242.63951
person 2002
assumed
Equal variances not
2.379 195.292
.018
1360.63412
571.84104
232.85743
2488.41081
assumed
Annual income per
Equal variances
32.450
.000
3.546
667
.000
2006.29926
565.76295
895.40845
3117.19007
person 2005
assumed
Equal variances not
2.658 185.297
.009
2006.29926
754.67712
517.43518
3495.16335
assumed
Phụ lục 3.2 Electrification Status of Sample Households* Houshold size
Group Statistics
Electrification Status of Sample
Households
N
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
Houshold size 2002
No Grid or mini
159
5.19
1.963
.156
No elect in 2002 Grid or mini in
517
5.56
1.887
.083
2005
Houshold size 2005
No Grid or mini
158
5.29
1.936
.154
No elect in 2002 Grid or mini in
517
5.40
1.754
.077
2005
Independent Samples Test
Levene's Test for
Equality of Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of
the Difference
Mean
Std. Error
F
Sig.
t
df
Sig. (2-tailed)
Difference
Difference
Lower
Upper
Houshold size
Equal variances
.002
.963
-2.096
674
.036
-.362
.173
-.701
-.023
2002
assumed
Equal variances not
-2.052
254.268
.041
-.362
.176
-.710
-.015
assumed
Houshold size
Equal variances
3.859
.050
-.645
673
.519
-.105
.163
-.426
.216
2005
assumed
Equal variances not
-.612
241.021
.541
-.105
.172
-.445
.234
assumed
Phụ luc 3.3 Annual income per person* Sex of household
Group Statistics
Sex of
household
N
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
Annual income per person 2002
Male
2905.6314
5250.13687
224.68512
546
Female
2191.9207
3472.17334
308.10556
127
Annual income per person 2005
Male
4664.5947
6025.20121
258.80455
542
Female
4410.7351
7112.65988
631.14650
127
Independent Samples Test
Levene's Test for
Equality of Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of
the Difference
Sig. (2-
Mean
Std. Error
F
Sig.
t
df
tailed)
Difference
Difference
Lower
Upper
Annual
Equal variances
4.537
.034
1.459
671
.145
713.71073
489.14118
-246.72075
1674.14222
income per
assumed
person 2002
Equal variances not
1.872
277.504
.062
713.71073
381.32983
-36.95586
1464.37732
assumed
Annual
Equal variances
.264
.608
.412
667
.680
253.85965
615.67930
-955.04326
1462.76256
income per
assumed
person 2005 Equal variances not
.372
170.810
.710
253.85965
682.14786 -1092.66584
1600.38515
assumed
Phụ lục 3.4 Electrification Status of Sample Households* Land uses by the household (m2)
Group Statistics
Electrification Status of
Sample Households
N
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
Land uses by the household
No Grid or mini
145
11172.04
11882.980
986.828
(m2) 2002
No elect in 2002 Grid or mini
494
9098.67
18491.678
831.980
in 2005
Land uses by the household
No Grid or mini
140
18772.66
63751.254
5387.964
(m2) 2005
No elect in 2002 Grid or mini
485
10602.79
11104.636
504.236
in 2005
Independent Samples Test
Levene's Test for
Equality of
Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the
Difference
Sig. (2-
Mean
Std. Error
F
Sig.
t
df
tailed)
Difference
Difference
Lower
Upper
Land uses by
Equal variances assumed
.307
.580
1.275
637
.203
2073.367
1626.529
-1120.640
5267.375
the household
Equal variances not
1.606
367.263
.109
2073.367
1290.744
-464.809
4611.543
(m2)
assumed
Dien tich danh
Equal variances assumed
11.442
.001
2.689
623
.007
8169.879
3037.846
2204.221
14135.536
cho trong trot
Equal variances not
1.510
141.442
.133
8169.879
5411.507
-2528.011
18867.769
chan nuoi
assumed
Phụ lục 3.5 Type of house
Kiểu nhà 2005
Kiên cố
Bán kiên cố
Nhà tạm
Tổng cộng
Kiên cố
8
2
0
10
Bán kiên cố
14
55
11
80
i
Nhà tạm
3
33
31
67
t á o s m ể k m ó h N
Tổng cộng
25
90
42
157
Kiên cố
28
19
1
48
ý l
i
2 0 0 2 à h n u ể K
Bán kiên cố
50
252
20
322
Nhà tạm
11
82
48
141
ử x m ó h N
Tổng cộng
89
353
69
511
Type of house 2002
Type of house 2005
Kiên cố
6%
16%
i
Bán kiên cố
51%
57%
t á o s
Nhà tạm
43%
27%
m ể k m ó h N
Kiên cố
9%
17%
ý l
Bán kiên cố
63%
69%
Nhà tạm
28%
14%
ử x m ó h N
Phu luc 3.6 Electrification Status of Sample Households* Total area dwelling buldings
Report
Mean
Electrification Status of Sample
Total area dwelling
Total area dwelling
buldings 02
buldings 05
Households
No Grid or mini
56.37
58.09
No elect in 2002 Grid or mini in
68.74
73.49
2005
Total
65.83
69.88
ANOVA Tablea,b
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
1
Total area dwelling buldings *
Between Groups
(Combined)
18618.039
18618.039
8.570
.004
Electrification Status of Sample
Within Groups
1464217.405
2172.429
674
Households
Total
1482835.444
675
1
Tong dien tich dat xay dung *
Between Groups
(Combined)
28695.826
28695.826
7.624
.006
Electrification Status of Sample
Within Groups
2533135.928
3763.946
673
Households
Total
2561831.754
674
a. With fewer than three groups, linearity measures for Total area dwelling buldings * Electrification Status of Sample Households cannot be computed.
b. With fewer than three groups, linearity measures for Tong dien tich dat xay dung * Electrification Status of Sample Households cannot be computed.
Measures of Association
Eta
Eta Squared
Total area dwelling buldings 02
* Electrification Status of
.112
.013
Sample Households
Total area dwelling buldings 05
.106
.011
* Electrification Status of
Sample Households
Phụ lục 3.7 Type of commune* Annual income per person
Type of commune
Annual income per person 2002
Annual income per person 2005
Mean
3267.0067
5024.9963
Project
N
450
448
Mean
1578.6008
3454.6438
Non- Project
N
195
194
Mean
3102.4469
6184.2390
Elec commune
N
28
27
Mean
2770.9490
4616.4031
Total
N
673
669
ANOVA Table
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
Annual income per person
Between Groups
(Combined)
3.910E8
2
1.955E8
8.085
.000
2002 * Type of commune
Linearity
2.145E8
1
2.145E8
8.870
.003
Deviation from Linearity
1.765E8
1
1.765E8
7.300
.007
Within Groups
1.620E10
670
2.418E7
Total
1.659E10
672
Annual income per person
Between Groups
(Combined)
4.030E8
2
2.015E8
5.238
.006
2005 * Type of commune
Linearity
9.426E7
1
9.426E7
2.451
.118
Deviation from Linearity
3.087E8
1
3.087E8
8.026
.005
Within Groups
2.562E10
666
3.847E7
Total
2.602E10
668
Measures of Association
R
R Squared
Eta
Eta Squared
Annual income per person
-.114
.013
.154
.024
2002 * Type of commune
Annual income per person
-.060
.004
.124
.015
2005 * Type of commune
Phụ lục 3.8 Do you have abissness at home
Report
Do you have abissness
Annual income per
Annual income per
at home
person 2002
person 2005
No
Mean
2336.8712
4178.7667
586
N
582
Yes
Mean
5694.7375
7544.0399
87
N
87
Total
Mean
2770.9490
4616.4031
673
N
669
ANOVA Tablea,b
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
Annual income per person
Between Groups
(Combined)
8.541E8
36.413
.000
8.541E8
1
2002 * Do you have abissness
Within Groups
1.574E10
671
2.346E7
at home
Total
1.659E10
672
8.571E8
1
Annual income per person
Between Groups
(Combined)
8.571E8
22.720
.000
2005 * Do you have abissness
Within Groups
2.516E10
667
3.773E7
at home
Total
2.602E10
668
a. With fewer than three groups, linearity measures for Annual income per person 2002 * Do you have abissness at home cannot be computed.
b. With fewer than three groups, linearity measures for Annual income per person 2005 * Do you have abissness at home cannot be computed.
Measures of Association
Eta
Eta Squared
Annual income per person
2002 * Do you have abissness
.227
.051
at home
Annual income per person
.181
.033
2005 * Do you have abissness
at home
Phụ lục 4.1 Kết quả chạy mô hình hồi quy (hoàn chỉnh)
Dependent Variable: LOG(Y) Method: Least Squares Date: 31/03/09 Time: 11:12 Sample: 1 1352 Included observations: 1328
Variable
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
0.101441 0.076795 0.064377 0.092756 0.052833 0.052982 0.057171 0.000350 0.006743 0.048899 0.001828 0.039219 0.018621 0.012966 0.043141 0.002448 0.038338 0.047516
67.76071 6.374420 1.070809 2.707359 4.465269 13.56088 6.649498 5.438697 4.668196 7.833721 9.121022 3.804329 -5.455960 -6.452940 3.751639 -1.920794 9.124923 4.661312
0.0000 0.0000 0.2845 0.0069 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0001 0.0000 0.0000 0.0002 0.0550 0.0000 0.0000
C T D T*D MIENBAC MIENNAM PHI_NONGNGHIEP DTICH_NHA HOCVAN CHU HO DANTOC DAT_SANXUAT LOAINHA NGUOIPHUTHUOC QUYMOHO THUOCXA_DUAN OM_DAU XEMAY TV
6.873729 0.489524 0.068936 0.251125 0.235912 0.718477 0.380157 0.001906 0.031478 0.383062 0.016677 0.149203 -0.101597 -0.083670 0.161848 -0.004702 0.349829 0.221487
Mean dependent var S.D. dependent var Akaike info criterion Schwarz criterion Hannan-Quinn criter. Durbin-Watson stat
7.648172 0.983297 2.042813 2.113051 2.069136 1.655609
R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)
0.545097 0.539207 0.667479 584.9781 -1341.492 92.54889 0.000000
Phụ lục 4.2 Kết quả chạy mô hình hồi quy (co bien age)
Dependent Variable: LOG(Y) Method: Least Squares Date: 03/31/09 Time: 12:05 Sample: 1 1352 Included observations: 1328
Variable
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
C T D1 T*D1 BAC NAM AGE BUSINESS
6.742394 0.467694 0.100383 0.218813 0.244611 0.731892 -0.002691 0.416334
0.123103 0.078000 0.065249 0.094074 0.053523 0.053636 0.002034 0.057941
54.77027 5.996064 -1.538460 -2.325960 4.570176 13.64565 -1.323427 7.185467
0.0000 0.0000 0.1242 0.0202 0.0000 0.0000 0.1859 0.0000
DTICHNHA1 EDU1 ETHNIC1 LAND1 LOAINHA1 NGUOIPHUTHUOC PROJECT1 SICK XEMAY TV
0.001689 0.032968 0.405631 0.014767 0.131625 -0.175728 0.157148 -0.005503 0.327760 0.194198
0.000354 0.006830 0.049588 0.001830 0.039646 0.015767 0.043665 0.002481 0.038858 0.047993
4.772386 4.826903 8.179969 8.068078 3.319977 -11.14504 3.598922 -2.217933 8.434890 4.046404
0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0009 0.0000 0.0003 0.0267 0.0000 0.0001
7.648172 0.982627 2.066951 2.137317 2.093324 1.640146
R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)
0.533375 Mean dependent var 0.527319 S.D. dependent var 0.675573 Akaike info criterion 597.8828 Schwarz criterion -1354.455 Hannan-Quinn criter. 88.08193 Durbin-Watson stat 0.000000
Phụ lục 4.3 Kết quả chạy mô hình hồi quy (co bien age, sex)
Dependent Variable: LOG(Y) Method: Least Squares Date: 03/31/09 Time: 12:07 Sample: 1 1352 Included observations: 1328
Variable
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
C T D1 T*D1 BAC NAM SEX AGE BUSINESS DTICHNHA1 EDU1 ETHNIC1 LAND1 LOAINHA1 NGUOIPHUTHUOC PROJECT1 SICK XEMAY TV
6.716491 0.466917 0.100047 0.220139 0.243242 0.727523 0.048513 -0.002898 0.415645 0.001691 0.032620 0.406400 0.014784 0.131334 -0.177033 0.158374 -0.005570 0.326619 0.195198
0.126107 0.078008 0.065252 0.094088 0.053545 0.053835 0.051203 0.002045 0.057948 0.000354 0.006840 0.049597 0.001830 0.039649 0.015828 0.043686 0.002482 0.038878 0.048006
53.26013 5.985532 -1.533237 -2.339707 4.542771 13.51385 0.947470 -1.416826 7.172727 4.778456 4.768870 8.194065 8.076528 3.312404 -11.18477 3.625254 -2.243960 8.401181 4.066097
0.0000 0.0000 0.1255 0.0194 0.0000 0.0000 0.3436 0.1568 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0010 0.0000 0.0003 0.0250 0.0000 0.0001
7.648172 0.982627 2.067771 2.142046 2.095610 1.642552
R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)
0.533695 Mean dependent var 0.527283 S.D. dependent var 0.675600 Akaike info criterion 597.4731 Schwarz criterion -1354.000 Hannan-Quinn criter. 83.23186 Durbin-Watson stat 0.000000
Phụ lục 5. Tính lại các hệ số tác động của mô hình đối với biến giả
Variable
β
EXP(β)-1
MIENNAM
0.718477
1.051307
D*T
0,251125
0,285470
0.631539
T
0.489524
0.466769
DANTOC
0.383062
0.462514
PHI_NONGNGHIEP
0.380157
0.418825
XEMAY
0.349829
0.266063
MIENBAC
0.235912
0.247931
TV
0.221487
0.175682
THUOCXA_DUAN
0.161848
0.160909
LOAINHA
0.149203
0.071368
D
0.068936