VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG THỊ THANH HOA
KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG THỊ THANH HOA
KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN KHẮC HẢI
HÀ NỘI, 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong đề tài là trung thực và tôi xin chịu trách
nhiệm về tất cả những số liệu, kết quả nghiên cứu đó. Đề tài này chưa được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả đề tài
Đặng Thị Thanh Hoa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................................ 7 1.1. Khái niệm khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng hình sự ....................................................................................................... 7 1.2. Đặc điểm của khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng hình sự ..................................................................................................... 14 1.3. Ý nghĩa của khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng hình sự ..................................................................................................... 19 Chương 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................... 24 2.1. Sự hình thành và phát triển các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam ...................................... 24 2.2. Thực trạng quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 .......................................................................... 27 2.3. Thực tiễn áp dụng quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trên địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội ............................................. 40 Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM ÁP DỤNG QUY ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................................................................. 53 3.1. Cơ sở hoàn thiện các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại53 3.2. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại ............................................................................................................ 56 3.3. Giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại .................................................................................................. 66 KẾT LUẬN .............................................................................................. 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 81 PHỤ LỤC ................................................................................................ 85
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật dân sự
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT
Cơ quan điều tra
CQTHTT
Cơ quan tiến hành tố tụng
PLTTHS
Pháp luật tố tụng hình sự
TA
Tòa án
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
TNHS
Trách nhiệm hình sự
VKS
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Thống kê số bị cáo, số vụ án và vụ án đã được xét xử trên địa
bàn quận Hoàng Mai giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020. .................... 85
Bảng 2.2: Thống kê các vụ án khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trên địa
bàn quận Hoàng Mai giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 ..................... 85
Bảng 2.3: Bảng so sánh số vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại được đưa ra
xét xử với số vụ án bị đình chỉ do bị hại rút đơn giai đoạn 2016 - 2020 ... 87
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dù trong bất kỳ Nhà nước nào thì nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội
phạm luôn được xem là một nhiệm vụ cốt lõi, là cơ sở để đảm bảo trật tự, an
toàn xã hội của đất nước và yếu tố tiên quyết để đảm bảo văn hóa + kinh tế của
một đất nước thực sự ổn định và phát triển. Không ngoại lệ, bản thân nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng xem đây là nhiệm vụ tối quan trọng trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Công tác này được quán triệt thực
hiện đồng bồ từ trung ương đến địa phương, từ việc kiểm soát, quản lý tội phạm
đến việc xử lý tội phạm. Trong đó, việc xử lý tội phạm được thực hiện thông qua
quá trình TTHS của các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc xử lý hình sự tội phạm
không chỉ bảo vệ được quan hệ xã hội bị xâm phạm mà còn trực tiếp bảo vệ các
quyền lợi của người bị hại, là nạn nhân của tội phạm, bị hành vi nguy hiểm cho
xã hội gây ra những hậu quả đáng tiếc.
Tuy nhiên, TTHS là một quá trình giải quyết vụ án hình sự công khai,
minh bạch mà kết thúc của nó là một bản án, quyết định thông qua việc xét xử
công khai với người dân tại Tòa án để trừng trị, giáo dục người phạm tội. Việc
này đồng nghĩa với việc những hậu quả mà hành vi phạm tội gây ra cho người bị
hại cũng được công khai tại phiên tòa xét xử hình sự. Nhưng, từ phía người bị
hại, không phải mọi trường hợp công khai xử lý tội phạm xâm hại nhằm bảo vệ
các quyền lợi hợp pháp của họ đều mang đến những lợi ích tích cực cho họ, đôi
lúc chính việc xử lý đó gián tiếp mang đến cho người bị hại thêm những hậu quả
không mong muốn. Lợi ích của người bị hại trong TTHS không phải là lợi ích
vật chất mà còn là các lợi ích tinh thần, lợi ích xã hội khác. Nhất là đối với các
tội phạm xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người,
nếu khởi tố thì những lợi ích về tinh thần, lợi ích khác trong xã hội cũng có thể
bị ảnh hưởng mặc dù tội phạm không hề xâm hại đến. Chính vì vậy, PLTTHS
cho phép người bị hại lựa chọn cân nhắc trong việc quyết định yêu cầu các cơ
quan tiến hành tố tụng xử lý tội phạm gây ra thiệt hại cho mình trong một số
1
trường hợp nhất định, theo đó, quy định về “Khởi tố vụ án theo yêu cầu của
người bị hại” cũng ra đời.
Quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại lần đầu tiên được
đề cập đến tại Điều 88 của BLTTHS 1988, sau đó tiếp tục được giữ nguyên và
phát triển tại Điều 105 BLTTHS 2003 và hiện nay là Điều 155 BLTTHS 2015.
Đây được coi là một sự tiến bộ trong quá trình lập pháp của nước ta, đảm bảo sự
tốt nhất về quyền lợi cho người bị hại. Thực tế cho thấy, chế định này đã và đang
mang đến những hiệu quả đáng ngưỡng mộ mà các nhà làm luật đã mong đợi.
Tuy nhiên, việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại hiện nay vẫn chỉ
nằm ở mức là quy định của pháp luật nhưng chưa được nguyên cứu hoặc nghiên
cứu chưa sâu, chưa hiệu quả nên việc thực hiện chế định này ở nhiều địa phương
có những nhận thức khác nhau, dẫn đến những hạn chế, vướng mắc nhất định
trong việc áp dụng pháp luật.
Quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội là một trong những quận trung tâm
của thành phố với mật độ dân cư đông đúc, chính vì thế mà tình hình tội phạm
cũng rất phức tạp. Để đáp ứng yêu cầu đặt ra, thời gian các cơ quan tiến hành tố
tụng của quận Hoàng Mai đã có nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động, góp phần giữ vững trật tự - xã hội trên địa bàn. Tuy nhiên, như đã nói ở
tên, không phải mọi công tác đều được thực hiện tốt, còn nhiều công tác đang
vướng phải nhiều khó khăn, hạn chế trong đó có việc thực hiện chế định khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại. Những vướng mắc, bất cập này gây không ít khó
khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng pháp luật.
Vì vậy, để bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp của người bị hại do tội
phạm xảy ra trên địa bàn quận Hoàng Mai, nơi mà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể,
lợi ích cộng động, xã hội được đặt lên trên nhiều mặt của đời xong thì việc nâng
cao nhận thức về việc áp dụng pháp luật trong khởi tố vụ án theo yêu cầu của
người bị hại là vấn đề hết sức cần thiết, quan trọng đối với các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng của quận Hoàng Mai hiện nay.
2
Từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Khởi tố vụ án theo yêu cầu
của người bị hại từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội” làm đề tài
Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Dưới góc độ khoa học, thời gian qua việc nghiên cứu về chế định khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại cũng được đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp ở một số
công trình nghiên cứu được công bố như:
Các luận án, luật văn luật học: 1) Nguyễn Đức Thái, Luận án tiến sĩ luật
học: Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong TTHS Việt Nam, Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2015; 2) Lương Bình Dương, Luận án tiến sĩ luật
học: Pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong TTHS Việt
Nam hiện nay, Học Viện Khoa học Xã hội, 2017; 3) Hoàng Lan Phương, Luận
văn thạc sĩ luật học: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong
TTHS, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; 4) Lê Lan Chi, Luận án Tiến
sĩ Luật học: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự trong luật
TTHS Việt Nam + Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2010; 5) Lê Nguyên Thanh, Luận án tiến sĩ Luật học: Người bị thiệt
hại do tội phạm gây ra trong TTHS Việt Nam, Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh, 2012;…
Một số sách chuyên khảo, giáo trình, bài viết: 1) Nguyễn Ngọc Anh, Phan
Trung Hoài, Bình luận khoa học BLTTHS 2015, NXB Chính trị quốc gia sự thật,
Hà Nội, 2018; 2) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật TTHS Việt Nam,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2016; 3) Trường Đại học kiểm sát Hà Nội,
Giáo trình luật TTHS, NXB Chính trị quốc gia -sự thật, Hà Nội, 2016; 3) Đinh
Văn Quế, “Khởi tố theo yêu cầu của người bị hại”, Tạp chí Tòa án số 11, 1991;
4) Nguyễn Hải Ninh, Vấn đề khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, Tạp chị Luật
học số 6, 2010; 5) TS. Phạm Mạnh Hùng, Vấn đề khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại trong BLTTHS 2015”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 03,
3
2016; 6) Nguyễn Văn Dũ, Rút yêu cầu khởi tố: Không có gì tranh cãi, Báo Pháp
luật TP Hồ Chi Minh online ngày 7/5/2012; 7) Nguyễn Văn Cường, Khởi tố vụ
án hình sự theo yêu cầu của người bị hại + những vướng mắc, Tạp chí Kiểm sát
số 01, 1998;…
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình trên cho thấy một số công trình
chủ yếu dựa trên những quy định của BLHS 1999 và BLTTHS 2003 nên đã
không còn phù hợp, bên cạnh đó, các công trình mang tính tổng quát nhưng chưa
có một công trình nào được phân tích dựa địa phương cụ thể. Vì vậy việc nghiên
cứu đề tài Luận văn Thạc sĩ “Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong
TTHS, từ thực tiễn địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.” vẫn là một
nội dung mang tính mới, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn công cuộc đấu tranh,
phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nguyên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu, làm rõ những quy định của pháp luật
về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong TTHS; hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng khi áp dụng chế định này; nghiên cứu các vi
phạm phổ biến, các vấn đề tồn tại và đưa ra những kiến giải nhằm nâng cao hiểu
quả của áp dụng pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại dựa
trên tình hình thực tế tại quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
Để có thể đạt được mục đích trên, nhiệm vụ được đặt ra là phải phân tích,
làm rõ các quy định của PLTTHS về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại.
Đồng thời, nghiên cứu đánh giá, thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án khởi tố theo yêu
cầu của người bị hại trên phạm vi quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Từ đó, rút
ra nhận xét, đánh giá về nguyên nhân và kiến giải hợp lý.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Để có thể đạt được những mục đích trên, đề tài tập trung nghiên cứu
những đối tượng cụ thể :
4
Những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại trong TTHS từ thực tiễn hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung phân tích các quy định của pháp luật về TTHS và khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại theo pháp luật hiện hành. Cụ thể là từ hoạt động
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố cho đến khi
có bản án, quyết định sơ thẩm vụ án hình sự. Đồng thời, phân tích thực tiển áp
dụng pháp luật khởi tố theo yêu cầu của người bị hại trên phạm vi địa bàn quận
Hoàng Mai, thành phố Hà Nội trong 05 năm (từ 2015 đến 2019).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được phân tích, nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối,
chính sách hình sự, TTHS của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội
phạm.
5.2. Phương
pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp phổ biến, thường xuyên trong nghiên
cứu khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra án điển hình... để làm rõ và giải quyết
các vấn đề đề đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luân và thực tiễn
Về lý luận, đề tài được xây dựng dựa trên các vấn đề lý luận về khởi tố vụ
án hình sự theo yêu cầu của bị hại gắn với thực tiễn tại địa bàn quận Hoàng Mai,
thành phố Hà Nội trong năm năm vừa qua. Do đó, kết quả nghiên cứu của đề tài
góp phần hoàn thiện và và làm rõ những quy định của pháp luật hiện hành về
khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, hoạt động cụ thể của các cơ
quan tiến hành tố tụng khi áp dụng pháp luật.
5
Về thực tiễn, các kiến giải được đưa ra trong đề tài là một kênh tham khảo
hữu ích cho các đơn vị như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án
nhân dân các cấp nói chung và các đơn vị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân
dân, Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội nói riêng trong thực
tiễn thực hiện chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại. Ngoài ra, kết
quả của đề tài cũng có thể là tài liệu tham khảo cho các đối tượng nghiên cứu, áp
dụng pháp luật có liên quan đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người
bị hại.
Chương 2: Thực trạng quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người
bị hại trong TTHS và thực tiễn áp dụng trên địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố
Hà Nội
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng quy
định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong TTHS.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU
CỦA BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố
tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
Giai đoạn TTHS là các phần độc lập, liên quan, kế tiếp nhau liên tục, giai
đoạn trước là điều kiện, là cơ sở pháp lý làm phát sinh giai đoạn sau, giai đoạn
sau thay thế và kiểm tra kết quả của giai đoạn trước, tạo thành một quá trình tố
tụng hoàn chỉnh nhằm đảm bảo giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn,
khách quan, toàn diện và kịp thời. Khoa học luật tố tụng hình sự cho rằng quy
trình giải quyết một vụ án hình sự phải theo một trình tự, thủ tục nhất định gồm:
khởi tố, điều tra, truy tố, và xét xử. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên
của quá trình tố tụng và là giai đoạn tố tụng độc lập bởi giai đoạn này có đầy đủ
các dấu hiệu của một giai đoạn tố tụng với những mục tiêu và nhiệm vụ riêng
mang đặc thù về chủ thể tố tụng, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Giai đoạn
khởi tố là mở đầu quan trọng cho việc thực hiện nhiệm vụ của các giai đoạn tố
tụng sau, và các giai đoạn sau cũng có mối quan hệ chặt chẽ với giai đoạn khởi
tố thể hiện ở việc kết quả của các giai đoạn này sẽ kiểm nghiệm lại những vấn đề
đã được xác định trong giai đoạn khởi tố.
Còn theo quan điểm của Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại
học Luật Hà Nội thì đưa ra khái niệm: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu
của trình tự tố tụng, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có
dấu hiệu của tội phạm hay không để quyết định khởi tố hay quyết định không
khởi tố vụ án hình sự [34, tr.233].
Quan điểm của Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh về vấn đề này như sau: Khởi tố vụ án hình sự là một giai
đoạn độc lập của quá trình chứng minh vụ án hình sự, trong đó cơ quan có thẩm
quyền xác định có hay không dấu hiệu tội phạm để quyết định khởi tố hoặc quyết
7
định không khởi tố vụ án. Giai đoạn khởi tố bắt đầu từ việc tiếp nhận thông tin
về tội phạm hoặc phát hiện dấu hiệu tội phạm và kết thúc bằng một quyết định
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự [35, tr.330].
Định nghĩa về khởi tố vụ án hình sự cũng được GS.TSKH Lê Cảm đưa ra,
theo đó:“Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn TTHS đầu tiên mà trong đó cơ quan
tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của PLTTHS tiến hành
việc xác định có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm
cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố
(hoặc không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó” [7, tr.15].
Trong định nghĩa về Quyết định khởi tố vụ án hình sự, GS.TS Võ Khánh
Vinh cũng đã đưa ra định nghĩa bao hàm định nghĩa về khởi tố vụ án hình sự như
sau: “Quyết định khởi tố vụ án hình sự là hành vi TTHS của một pháp nhân (chủ
thể tiến hành tố tụng) có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự biểu hiện bằng một
văn bản TTHS xác định một sự kiện pháp lý xảy ra trong thực tế có dấu hiệu của
tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS nhằm khởi phát những quan hệ tố
tụng, mở đầu cho việc thực hiện những hành vi tố tụng cần thiết để làm rõ sự
thật khách quan về sự kiện đó. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ
khi cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo về tội phạm, kết thúc khi cơ quan
có thẩm quyền ra được một trong hai quyết định là quyết định khởi tố vụ án hình
sự và quyết định không khởi tố vụ án hình sự” [43, tr.268, 269].
Qua nghiên cứu các công trình và tài liệu chuyên ngành TTHS đã công bố
cho thấy, khái niệm “khởi tố vụ án hình sự” trong TTHS được tiếp cận ở nhiều
góc độ khác nhau:
Góc độ tiếp cận thứ nhất, khởi tố vụ án hình sự là một chế định của luật
TTHS, bao gồm tập hợp những quy định về trình tự và thủ tục khởi tố vụ án hình
sự. Theo đó có thể hiểu, khởi tố vụ án hình sự là tập hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ tố tụng hình sự thể hiện ở các mặt quy định về thẩm quyền,
về trình tự thủ tục, và các căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Khởi tố vụ án hình sự
thể hiện vai trò quan trọng trên nhiều phương diện, cả về phương diện kiểm soát
8
và phòng ngừa tội phạm. Bởi lẽ, khởi tố vụ án hình sự là biện pháp hữu hiệu
trong việc ngăn chặn và phòng ngừa hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế, thể
hiện sự nhanh chóng và kịp thời của các cơ quan đấu tranh chống tội phạm trong
việc xác định sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở để truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội, bảo đảm xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi tội
phạm và người phạm tội, bảo đảm tính trừng trị và giáo dục của pháp luật hình
sự. Để khởi tố vụ án hình sự phải dựa trên các quy định của BLTTHS. Để xác
định có dấu hiệu tội phạm thì phải dca vào cấu thành tội phạm cụ thể, với các
dấu hiệu đặc trưng sau: Một là, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
Hai là, tính có lỗi; Ba là, tính trái pháp luật hình sự; Bốn là, tính phải chịu hình
phạt. Chỉ khi xác định đầy đủ các yếu tố theo quy định của BLHS và BLTTHS
khi đó mới có thể ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi động quy trình giải
quyết một vụ án cụ thể.
Góc độ tiếp cận thứ hai, khởi tố vụ án hình sự được hiểu là một hành vi tố
tụng mở đầu cho giai đoạn điều tra, được thực hiện bởi chủ thể có thẩm quyền
theo quy định của BLTTHS. Theo đó có thể hiểu khởi tố vụ án hình sự là quyết
định của cơ quan có thẩm quyền khi có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật
hình sự, biểu hiện bằng một văn bản tố tụng hình sự mở đầu cho việc thực hiện
những hành vi tố tụng tiếp theo để làm rõ sự thật khách quan của sự việc có chứa
đựng dấu hiệu tội phạm, từ đó đề ra các biện pháp xử lý bằng pháp luật hình sự
đúng đắn.
Góc độ tiếp cận thứ ba, khởi tố vụ án hình sự được hiểu là một giai đoạn
tố tụng độc lập trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đây là cách hiểu thông
thường và phổ biến hiện nay. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được xem là giai
đoạn mở đầu cho các giai đoạn tố tụng tiếp theo rong TTHS. Nói cách khác, sau
khi ban hành quyết định khởi tố vụ án sẽ làm phát sinh nhiều quyển hạn của cơ
quan điều tra, viện kiểm sát, toà án khi thực hiện các hành vi tố tụng theo quy
định của BLTTHS nhằm phát hiện và xử lý nghiêm minh tội phạm và người
phạm tội.
9
Có thể thấy, mỗi góc độ tiếp cận trên đây đều có hạt nhân hợp lý nhất
định, tuy nhiên tựu chung lại giai đoạn này có đặc điểm chính sau đây:
Một là, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên, mở đầu cho
quá trình TTHS, được bắt đầu với việc cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền
tiếp nhận nguồn tin về tội phạm hoặc trực tiếp phát hiện về tội phạm và thời
điểm kết thúc của giai đoạn này là việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Hai là, xuất phát từ việc khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của
TTHS, ở đó chức năng quan trọng của giai đoạn tố tụng này đó là xác định các
tiền đề pháp luật về nội dung (trên cơ sở BLHS) và pháp luật về hình thức (trên
cơ sở BLTTHS) của việc điều tra vụ án hình sự. Trong giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự, các cơ quan có thẩm quyền phải xác định sự việc đó có dấu hiệu tội
phạm hay không?; căn cứ để khởi tố vụ án có đảm bảo không?; các trình tự, thủ
tục tiến hành các biện pháp kiểm tra, xác minh nào phù hợp với quy định pháp
luật?...
Ba là, kết quả quả giai đoạn này là quyết định của cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc có hay không khởi tố vụ án hình sự.
Theo quan điểm của tác giả, bên cạnh những nội dung đã được thống nhất
như trên, định nghĩa về khởi tố vụ án hình sự còn phải bao hàm thêm những nội
dung sau:
Một là, cần nêu lên những căn cứ mà các cơ quan có thẩm quyền phải dựa
vào để tiến hành việc xác định có hay không các dấu hiệu của tội phạm, cụ thể là
phải căn cứ vào “các quy định của pháp luật hình sự và TTHS”.
Hai là, xác định thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự. Theo đó, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bắt đầu từ khi
tiếp nhận nguồn tin về tội phạm hoặc phát hiện tội phạm và giai đoạn khởi tố kết
thúc bằng một quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Giai đoạn khởi tố bắt đầu từ khi các CQTHTT
tiếp nhận nguồn tin về tội phạm như: Tố giác của cá nhân; tin báo của cơ quan,
10
tổ chức, cá nhân; tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; kiến nghị
khởi tố của cơ quan nhà nước; Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Bộ đội
biên phòng, Cơ quan Hải quan, Cơ quan Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và
các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;
người phạm tội tự thú. Giai đoạn khởi tố kết thúc khi các cơ quan có thẩm quyền
ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm khởi tố vụ án hình
sự như sau: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự,
trong đó cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng căn cứ vào các quy
định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, nhằm xác định sự việc xảy ra có
hay không có các dấu hiệu cấu thành tội phạm, từ đó làm căn cứ để quyết định
việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
1.1.2. Khái niệm bị hại trong tố tụng hình sự
Người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là chủ thể của tố tụng hình sự
bên cạnh CQTHTT và người tiến hành tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ
án để đòi hỏi khôi phục lại những thiệt hại của họ do hành vi phạm tội gây ra.
Người bị hại có thể là người đã bị thiệt hại, nhưng cũng có thể là người bị đe dọa
nghiêm trọng gây thiệt hại trong những trường hợp phạm tội nhưng chưa gây hậu
quả theo quy định của BLHS. Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công
cuộc cải cách tư pháp, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền
tự do dân chủ của công dân đã được ghi nhận trong Nghị quyết 48 –NQ/TW
ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị và tiếp tục được khẳng định tại Nghị quyết 49 -
NQ/TW ngày 02/6/2005 như: “tôn trọng và bảo vệ quyền con người”, “tạo điều
kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng...”, các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam hiện hành về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị
hại là vấn đề cần quan tâm tìm hiểu rõ ràng, cụ thể.
Người tham gia tố tụng là người có quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy
định của BLTTHS. Sự tham gia của họ góp phần quan trọng trong việc xác định
11
sự thật của vụ án, đồng thời nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chính
họ trong tiến trình tố tụng. Bị hại trong TTHS là chủ thể tham gia tố tụng quan
trọng, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án đồng thời để bảo vệ tốt
nhất quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình khi bị tội phạm xâm hại.
Trước khi BLTTHS 2015 ra đời, PLTTHS Việt Nam luôn xem định bị hại
chỉ là cá nhân, theo đó bị hại chỉ được hiểu một cách đơn giản là người bị thiệt
hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. BLTTHS 2015 ra đời
đã thay thế thuật ngữ “Người bị hại” thành“Bị hại” trong đó đã bỏ từ “người”
đi, nhờ đó khái niệm bị hại cũng được mở rộng hơn phạm vi các đối tượng được
xem là bị hại bao gồm cả thể nhân và cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy
tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
Trên cơ sở khái niệm trên, “bị hại” là chủ thể có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, đối với trường hợp bị hại là cá nhân thì cá nhân đó phải đang
sống ở thời điểm bị thiệt hại. Đối với trường hợp bị hại là cơ quan, tổ chức thì cơ
quan, tổ chức đó phải được thành lập hợp pháp và đang hoạt động ở thời điểm bị
thiệt hại. Trong đó, người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức sẽ tham
gia tố tụng với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại; trường hợp cơ quan, tổ
chức thay đổi người đại diện thì pháp nhân đó có trách nhiệm thông báo ngay
cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định pháp luật.
Thứ hai, thiệt hại của bị hại trong các vụ án hình sự luôn có mối quan hệ
nhân quả với hành vi phạm tội. Do đối tượng mà hành vi phạm tội hướng tới
xâm hại là bị hại, cho nên các hành vi này trực tiếp gây ra thiệt hại, đe dọa gây ra
thiệt hại cho bị hại, xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của
bị hại được pháp luật bảo vệ.
Thứ ba, thiệt hại của bị hại trong vụ án hình sự phải là những thiệt hại cụ
thể. Đối với cá nhân, những thiệt hại có thể kể đến là thiệt hại về thể chất, tinh
thần và tài sản do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra. Đối với cơ quan,
tổ chức, những thiệt hại có thể kể đến là các thiệt hại về tài sản, uy thạ.
12
Thứ tư, hành vi xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại phải
là một hành vi phạm tội được quy định cụ thể trong BLHS, do chủ thể có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Nếu hành vi xâm hại
đó chưa thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm, chưa đến mức xử lý hình sự
hoặc người xâm hại chưa đủ (hoặc không có) năng lực TNHS thì hành vi xâm
hại chỉ được hiểu là hành vi vi phạm hành chính, vi phạm nghĩa vụ dân sự, lao
động, hôn nhân và gia đình… Trong trường hợp này người bị xâm hại bởi hành
vi trái pháp luật không được xem là bị hại trong TTHS.
1.1.3. Khái niệm khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố
tụng hình sự
Trong bất kì xã hội nào, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm luôn
được quan tâm và đặt ra cho các cơ quan bảo vệ pháp luật. Việc duy trì quyền
lực công bảo vệ các lợi ích, giá trị xã hội mà nhà nước đó xác định là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia. Tùy thuộc vào kiểu tố tụng, mô hình tố
tụng và truyền thống pháp luật mỗi nhà nước khác nhau mà có cách thức thực
hiện quyền công tố cũng có sự khác nhau. Bên cạnh đó quy định “quyền tư tố”
đối với vụ án hình sự bên cạnh quyền công tố cũng được ghi nhận ở một số nhà
nước nhằm đảm bảo toàn diện các lợi ích về mặt xã hội và quyền lợi cho phía bị
hại. Trong những trường hợp này, quyền tư tố có phạm vi áp dụng không lớn, chỉ
áp dụng đối với một số lượng ít các tội phạm có tính chất xâm hại đến quyền
riêng tư cá nhân, các quyền và lợi ích hợp pháp khác về thể chất, tinh thần và tài
sản của bị hại.
Theo quy định của BLTTHS, khi có dấu hiệu của tội phạm, cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện việc khởi tố vụ án hình sự theo quy
định pháp luật để tất cả các tội phạm đều được xử lí kịp thời, nghiêm minh. Tuy
nhiên, trong thực tế không ít trường hợp tội phạm xảy ra đã gây thiệt hại cho bị
hại không chỉ về lợi ích vật chất mà cả về tinh thần, danh dự, nhân phẩm ủa
chính bị hại đó; trong những trường hợp này việc khởi tố vụ án hình sự để truy
cứu có thể lại gây thêm những tổn thất khác cho bị hại. Chính vì vậy, chế định
13
“Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại” được quy định, và được xem như là một
trường hợp đặc biệt của khởi tố vụ án hình sự. Về bản chất hoạt động này không
chỉ đơn thuần là một trường hợp khởi tố có điều kiện là phải có yêu cầu của bị
hại mà cao hơn quyền buộc tội trong trường hợp này còn do bị hại quyết định,
bên cạnh các thẩm quyền tố tụng khác cỉa các cơ quan, người tiến hành tố tụng.
Như vậy, trong trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại, bên cạnh
việc đáp ứng các dấu hiệu thoãn mãn cấu thành tội phạm đối với từng tội phạm
cụ thể trong BLHS, thì còn phải đảm bảo các điều kiện về tố tụng là yêu cầu của
người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ trước khi khởi tố vụ án. Nếu không
có căn cứ về tố tụng, tức là yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của
họ thì không được tiến hành khởi tố với vụ án.
1.2. Đặc điểm của khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố
tụng hình sự
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại có những đặc điểm chung của
khởi tố vụ án hình sự, cụ thể như sau:
Thứ nhất, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bắt đầu khi phát hiện những
nguồn tin về tội phạm và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền xác định một sự
việc xảy ra trong thực tế có hay không có hành vi phạm tội để quyết định khởi tố
hay không khởi tố vụ án hình sự trên cơ sở quy định của pháp luật hình sự.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự chính là cơ sở pháp lý đầu tiên, mở đầu cho các
CQTHTT thực hiện những hoạt động tố tụng trong các giai đoạn TTHS kế tiếp là
điều tra, truy tố, xét xử, tuy nhiên luật cũng quy định loại trừ những trường hợp
đặc biệt cần ngăn chặn ngay tội phạm hoặc đảm bảo cho việc điều tra sau này
được tiến hành thuận lợi thì một số hoạt động điều tra như giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi... thì có thể được thực hiện trước khi khỏi tố vụ án hình sự.
Thứ hai, Trong đó, CQTHTT gồm các chủ thể sau đây: CQĐT, VKS và
Tòa án (Hội đồng xét xử).
14
Thứ ba, căn cứ khởi tố vụ án hình sự là khi đã xác định sự việc cụ thể có
dấu hiệu tội phạm. Quyết định khởi tố vụ án về bản chất chưa buộc tội bất kỳ ai,
mà chỉ mang ý nghĩa cơ sở ban đầu để tiến hành các hoạt động điều tra cụ thể
được PLTTHS quy định nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Do vậy cơ
quan, người có thẩm quyền chỉ cần xác định có dấu hiệu tội phạm để khởi tố vụ
án hình sự. Giai đoạn khởi tố ụ án hình sự kết thúc có thể là sự khởi đầu của các
giai đoạn tố tụng tiếp theo nếu kết thúc giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hoặc cũng có thể là sự chấm dứt quá
trình TTHS nếu kết thúc giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ tư, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được luật TTHS quy định chặt chẽ
về thời hạn để hạn chế việc kéo dài, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng của các cơ quan có
thẩm quyền.
Thứ năm, hoạt động tố tụng đặc trưng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình
sự là hoạt động tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Các hoạt động này nhằm
xác định tiền đề pháp luật về nội dung của việc điều tra vụ án hình sự, tức xác
định dấu hiệu tội phạm.
Thứ sáu, Kết quả giải quyết trong giai đoạn này là quyết định khởi tố vụ
án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự, được ban hành theo
biểu mẫu thống nhất của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ nhất, việc khởi tố vụ án hình sự trong các trường hợp này phải dựa
trên yêu cầu khởi tố của bị hại. Nếu bị hại không yêu cầu việc khởi tố thì cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyết định của họ mà không
được tự ý khởi tố vụ án. Điều này thể hiện sự dung hòa giữa lợi ích chung của xã
hội và lợi ích riêng của bị hại, đồng thời thể hiện sự tiến bộ trong tư duy làm luật
của các nhà lập pháp trong việc đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích.
15
Thứ hai, Đó là các tội phạm mà về bản chất của sự xâm hại không quá
nghiêm trọng, khách thể của tội phạm là những mối quan hệ xã hội có liên quan
trực tiếp đến bản thân người bị hại như sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và quyền
sở hữu trí tuệ của họ mà việc xử lý bằng biện pháp hình sự trong những trường
hợp này có thể mang lại những hậu quả không mong muốn cho bị hại, đồng thời
không đảm bảo hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa tội phạm nói chung.
Thứ ba, ý chí của bị hại là điều kiện tiên quyết để cơ quan tiến hành tố
tụng khởi tố vụ án hình sự hoặc chấm dứt việc giải quyết vụ án hình sự. Chỉ bị
hại hoặc người đại diện trong các trường hợp cụ thể do BLTTHS quy định có
yêu cầu khởi tố thì vụ án mới được khởi tố mà không phải phụ thuộc vào quyết
định của cơ quan có thẩm quyền khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm. Khi bị hại
rút yêu cầu thì đó cũng là cơ sở để chấm dứt việc truy cứu TNHS đối với người
thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, tùy từng giai đoạn tố tụng mà bị hại hoặc
người đại diện bị hại có yêu cầu, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Thứ tư, chế định khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại ở nước ta là sự thể
hiện của việc kết hợp giữa quyền công tố và quyền tư tố trong TTHS. PLTTHS
nước ta chủ yếu vận hành theo nguyên tắc công tố, tức là Nhà nước toàn quyền
quyết định việc buộc tội, nhưng đối với một số loại tội phạm Nhà nước quyết
định việc buộc tội khi bị hại có yêu cầu khởi tố VAHS. Đây là quyền buộc tội
của bị hại, có tính chất tư tố, là điều kiện phát sinh quyền công tố của Nhà nước
nhưng vẫn nằm trong giới hạn của quyền công tố, vì bị hại chỉ có quyền yêu cầu
khởi tố VAHS, sau đó vụ án được giải quyết theo thủ tục chung. Bên cạnh đó,
mô hình tố tụng ở Việt Nam giai đoạn trước khi ban hành BLTTHS 2015 được
đa số các nhà luật học thừa nhận là “mô hình tố tụng pha trộn”[17, tr.23]. Mục
đích của tố tụng được xác định là nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án để
đấu tranh phòng chống tội phạm (kiểm soát tội phạm), nên nhà nước không quy
định quyền tư tố, đồng thời khẳng định dứt khoát nguyên tắc công tố trong tố
tụng. Trong nhà nước XHCN, VKS là cơ quan đại diện cho Nhà nước thực hiện
16
chức năng thực hành quyền công tố; quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của
người bị hại cũng chỉ giới hạn trong phạm vi mà nhà nước thừa nhận đối với một
số trường hợp nhất định, đó là những trường hợp mà tội phạm có tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội không cao xâm hại đến thể chất, tinh thần, tài sản, uy
tín, danh dự của chính bị hại mà việc khởi tố có thể gây ảnh hưởng xấu đến
chính bị hại của vụ án. Theo quy định của BLTTHS, bị hại được thực hiện quyền
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự mà không phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh tội
phạm, buộc tội như trong thủ tục tư tố đối với vụ án. Trong vụ án hình sự được
khởi tố theo yêu cầu của bị hại, quyền công tố vẫn được duy trì và VKS vẫn là
cơ quan đại diện nhà nước thực hiện việc buộc tội để truy tố tội phạm và người
phạm tội.
Thứ năm, chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại là biểu hiện của
nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam [12, tr.34]. Có nhiều tội phạm
gây ra những thiệt hại không chỉ về vật chất mà cả những thiệt hại nghiêm trọng
về mặt tinh thần đối với người bị hại.
Vì vậy, nhà nước xác lập một khả năng, điều kiện để người bị hại được
cân nhắc tính toán khởi tố như thế có quá bất lợi cho cả lợi ích của họ hay
không.Việc nhà nước điều chỉnh bằng PLTTHS với việc khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại chính là việc áp dụng các khả năng để cho người
bị hại lựa chọn biện pháp xử lý tội phạm gây ra cho mình, nếu không lựa chọn
biện pháp khác phù hợp với pháp luật thì biện pháp yêu cầu xử lý về hình sự là
biện pháp cuối cùng của người bị hại.
Thứ sáu, Bảo vệ tốt nhất, cao nhất quyền con ngquy, quyền công dân là lý
tưởng hướng đến của nhà nước pháp quyền. Lý luận về quyền con người xác
định về nội dung bảo vệ quyền con người gồm các yêu cầu là thừa nhận, bảo
đảm và thực thi quyền con người như là yếu tố tự nhiên vốn có của nó, không
phụ thuộc ý chí nhà nước [17, tr.47]. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự nội dung
này đã được quy định rất sớm và rộng rãi; việc thừa nhận được nêu rõ từ các lĩnh
vực thiết thực nhất như: bảo vệ quyền sống, quyến bất khả xâm phạm về thân
17
thể, quyền tự do, quyền nhân thân đến danh dự, nhân phẩm… Pháp luật về khởi
tố vụ án theo yêu cầu của bị hại đã trao quyền yêu cầu khởi tố vụ án cho bị hại,
đây là biện pháp quan trọng để bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự.
Về nội dung bảo đảm và thực thi về quyền con người trong pháp luật hình sự
được xác lập bằng hai phương thức: là phương thức nhà nước tự quyết định biện
pháp bảo vệ cho mọi công dân gọi là công tố và phương thức cá nhân được phép
sử dụng quyển mà nhà nước ghi nhận và bảo đảm Trong vụ án khởi tố theo yêu
cầu của người bị hại ghi nhận quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự là
việc ghi nhận, bảo đảm “quyển con người” ở phạm vi nhất định. Việc để cho bị
hại có quyền tự do lựa chọn biện pháp tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của mình
thông qua việc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khởi tố hay không khởi tố vụ án
hình sự thể hiện sự tôn trọng quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự. Do bị
hại là chủ thể bị tội phạm tác động trực tiếp nên họ là người có điều kiện và khả
năng đánh giá chính xác và tự quyết định trong giới hạn pháp luật cho phép hành
vi của mình, trên cơ sở cân nhắc các mặt lợi ích để xác định lợi ích nào cần đạt
có lợi cho họ nhất: như lợi ích vật chất, tinh thần, lợi ích khác… Từ đó lựa chọn
hành động đúng đắn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình. Việc xây dựng
và áp dụng quy định này đồng thời phải tính tới yếu tố bảo vệ lợi ích hợp pháp
của mọi công dân khác và các lợi ích hợp pháp chung của Nhà nước, của xã hội,
bảo đảm nguyên tắc nhà nước duy trì quyền công tố trong xử lý tội phạm.
Như vậy, quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại trong TTHS là
“trường hợp đặc biệt” của pháp luật về khởi tố vụ án, đây là quyền “yêu cầu khởi
tố đối với vụ án hình sự” của người bị hại trong giới hạn pháp luật quy định; là
cơ sở, là điều kiện để phát sinh quyền công tố nhà nước với các tội phạm. Có thể
nói quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong TTHS Việt Nam đã
tạo điều kiện để bảo vệ tốt hơn quyền con người thông qua việc tạo ra một
phương tiện pháp lý hữu hiệu giúp bị hại thực hiện quyền của mình; thực hiện có
hiệu quả các nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm trong chính sách hình sự
của Đảng và Nhà nước ta; bảo đảm dân chủ, công bằng trong TTHS.
18
1.3. Ý nghĩa của khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố
tụng hình sự
1.3.1. Ý nghĩa pháp lý
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng đã và đang được tiến hành một
cách toàn diện, sâu sắc. Những thành tựu to lớn do quá trình đổi mới mang lại đã
tạo ra những tiền đề cần thiết đưa đất nước ta bước vào một thời kỳ mới. Nhiều
tư tưởng, quan điểm về cải cách tư pháp trong các Nghị quyết của Đảng đã được
đề ra, trong đó đáng chú ý là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ
chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và
Nghị quyết số 49 ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị đề cập vấn đề “Về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020”. Nghị quyết đặt ra nhiều vấn đề về PLTTHS
cần tiếp tục được thể chế hoá thành những quy định của pháp luật; đồng thời,
những hạn chế bất cập của PLTTHS hiện hành cần được khắc phục nhằm đảm
bảo nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp, bảo đảm sự thống nhất và đồng
bộ giữa các văn bản pháp luật, bảo đảm tốt hơn quyền tự do dân chủ của công
dân, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, và công cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm hiện nay. Những quy định của BLTTHS về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị
hại đã góp phần củng cố các nhiệm vụ, mục tiêu trong chiến lược cải cách tư
pháp của Đảng và Nhà nước ta, góp phần xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi hành
vi phạm tội, người phạm tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm trong tình hình mới.
Khởi tố vụ án hình sự nói chung và khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
bị hại nói riêng là hoạt động xác nhận về mặt pháp lý một vụ án hình sự đã xảy
ra và các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhân danh Nhà nước có trách
nhiệm giải quyết vụ án đó. Nhà nước dùng PLTTHS mang các đặc trưng mà các
biện pháp điều chỉnh khác không có như tính quy phạm phổ biến, tính bắt buộc
chung, tính cưỡng chế để tăng cường hiệu quả trấn áp tội phạm. Thông qua công
19
cụ PLTTHS, nhà nước tác động vào chủ thể thực hiện tội phạm, buộc họ phải
chịu hậu quả pháp lý bất lợi đối với hành vi của mình nhằm răn đe mạnh mẽ đối
với ý thức người phạm tội. Quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
bị hại thể hiện một loại quyền đặc thù của bị hại trong TTHS. Quyền này được
ghi nhận trong BLTTHS với các nội dung cụ thể như: chủ thể có quyền yêu cầu
khởi tố, phạm vi thực hiện yêu cầu khởi tố, hậu quả pháp lý của việc thực hiện
quyền yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại… Từ đó thiết lập cơ chế điều chỉnh bảo
vệ tốt nhất quyền và lợi ích của người bị hại trong TTHS.
Khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm là quyền
và trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không phải phụ thuộc vào
ý muốn cá nhân mà phải dựa trên các quy định của pháp luật hình sự. Tuy nhiên,
xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, pháp luật quy định cho
phép người bị hại có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc khởi
tố vụ án hình sự. PLTTHS hiện nay quy định một số tội phạm chỉ được khởi tố
theo yêu cầu của bị hại, mà nếu cơ quan có thẩm quyền không nhận được yêu
cầu của bị hại nhưng vẫn tiến hành khởi tố vụ án là trái quy định pháp luật. Chế
định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại có ý nghĩa quan trọng trong việc hạn
chế việc gây thêm những tổn thất, mất mát về mặt tinh thần, danh dự đối với bị
hại, thể hiện tính linh hoạt, mềm dẻo trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà
nước ta.
1.3.2. Ý nghĩa chính trị - xã hội
Xuất phát từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, thể hiện thái độ
tôn trọng, giữ bí mật về đời tư đối với người bị hại, PLTTHS cho phép một số tội
danh được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại đối với những vụ việc
xuất phát từ mâu thuẫn xã hội dẫn đến việc xâm hại sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm hoặc những vụ việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp mà tính chất,
mức độ cũng như thiệt hại gây ra chỉ được giới hạn ở trường hợp ít nghiêm trọng
hoặc nghiêm trọng.
20
Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là một trong những quy định của
PLTTHS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại. Tuy nhiên, trong thực tiễn thi
hành quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại phát sinh một số
khó khăn, vướng mắc trong nhận thức và áp dụng pháp luật. Trong thực tế, có
những trường hợp việc khởi tố vụ án hình sự để truy cứu trách nhiệm người thực
hiện hành vi phạm tội có thể gây thêm những tổn thất khác cho bị hại so với việc
không khởi tố vụ án hình sự như: Gây thêm những tổn thất về tinh thần, làm lộ bí
mật đời tư của bị hại, phá vỡ sự tha thứ, hòa giải và thỏa thuận bồi thường giữa
các bên... Chính vì vậy, PLTTHS quy định đối với một số trường hợp tội phạm
xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người hoặc xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế, không phải là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm
trọng, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không phải là rất lớn hoặc đặc
biệt lớn, không có tình tiết định khung tăng nặng thì việc khởi tố vụ án chỉ có thể
được thực hiện khi có yêu cầu khởi tố của bị hại hoặc người đại diện hợp pháp
của họ.
Có thể nói, quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là một quy
định pháp luật tiến bộ, đáp ứng được nhu cầu về đảm bảo lợi ích của bị hại, đồng
thời đảm bảo sự phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Quy định khởi tố vụ án
theo yêu cầu của bị hại càng thể hiện ý nghĩa quan trọng trong việc hạn chế các
trường hợp khi đưa người phạm tội ra xử lý sẽ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự
của bị hại, hoặc không có lợi cho lợi ích chung của xã hội.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, PLTTHS nói riêng, trong đó có
quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại là góp phần vào việc thực hiện
những nhiệm vụ trọng tâm công tác cải cách tư pháp. Việc nhận thức và quy định
đầy đủ về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại một cách đúng đắn là cơ sở bảo đảm
cho bị hại thực hiện được những quyền công dân của mình, vừa đóng góp quan
trọng vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay.
21
1.3.3. Ý nghĩa thực tiễn
Xuất phát từ nhu cầu tất yếu khách quan nhằm bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại, vừa bảo đảm về công bằng xã hội thì việc PLTTHS quy
định bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là một trong
các quyền cơ bản được bảo đảm thực hiện và là nhu cầu tất yếu. Bởi nếu
PLTTHS không có những quy định bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố vụ án cho bị
hại thì bị hại sẽ không có đầy đủ các điều kiện để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Do đó, việc quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại là một
trong những quy định có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp cho bị hại trong TTHS, đồng thời phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con
người của bị hại trong quá trình Việt Nam gia nhập và thể chế hóa mạnh mẽ các
Điều ước quốc tế về quyền con người.
Bơi lẽ thông thường những trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại là
những trường hợp mà thiệt hại không lớn. Nếu đưa người phạm tội ra xử lý mà
việc xử lý này không phù hợp với ý muốn của bị hại thì dễ gây bất ổn trong mối
quan hệ xã hội, từ đó tạo ra nhiều hệ lụy không tốt cho xã hội. Trên cơ sở cân đối
giữa các lợi ích, trong một số trường hợp, quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu
của bị hại mang đến lợi ích về nhiều mặt, không chỉ phù hợp với nguyện vọng
của bị hại mà còn không gây tốn kém sức lực của cơ quan, người tiến hành tố
tụng, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới đặt ra những nhiệm vụ mới
về kinh tế, chính trị, trong đó có nhiệm vụ về đấu tranh, phòng chống tội phạm,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và trật tự Xã hội chủ nghĩa. Việc
nhà làm luật xác lập một khả năng để bị hại có thể cân nhắc, quyết định có yêu
cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý về mặt hình sự đối với hành vi phạm
tội hay không là một quy định có tính chất đặc trưng, mà thông qua việc cho
phép bị hại được lựa chọn cách xử lý này đối với người phạm tội đã tạo ra cơ sở
pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trong TTHS.
22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Với ý nghĩa quan trọng trong TTHS, “Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị
hại”, có những đặc điểm thể hiện sự riêng biệt của chế định này, theo đó: khởi tố
vụ án hình sự trong các trường hợp này phải dựa trên yêu cầu khởi tố của bị hại,
nếu bị hại không yêu cầu thì cơ quan có thẩm quyền không được khởi tố vụ án;
chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại chỉ áp dụng đối với một số tội
phạm nhất định; điều kiện để khởi tố vụ án hình sự, cũng như chấm dứt việc giải
quyết vụ án hình sự phụ thuộc ý chí của bị hại.
Chế định khởi tố theo yêu cầu của bị hại thể hiện sự công bằng của nhà
nước trong pháp luật tố tụng hình sự, xuất phát từ phương diện và hướng tới giá
trị bảo vệ quyền, danh dự, nhân phẩm của con người nói chung, của bị hại nói
riêng. Di đó, việc quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại là một trong
những quy định có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
cho bị hại trong TTHS, đồng thời phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người
của bị hại trong quá trình Việt Nam gia nhập và thể chế hóa mạnh mẽ các Điều
ước quốc tế về quyền con người. Đồng thời, tác giả đã chỉ ra mối liên hệ giữa
giai đoạn khởi tố vụ án với các giai đoạn khác trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Từ
đó cho thấy quy định định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là mắt xích rất
cần thiết trong hệ thống tố tụng hình sự dân chủ và tiến bộ.
Những nội dung được trình bày ở chương 1 này là cơ sở để phân tích,
đánh giá quy định pháp luật, nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về khởi tố
vụ án theo yêu cầu của bị hại từ thực tiễn quận Hoàng Mai. Trên cơ sở đó, đưa ra
một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự cũng như bảo đảm thực hiện có hiệu quả quy định về khởi tố vụ án
theo yêu cầu của bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự.
23
Chương 2
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU
CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HOÀNG MAI,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Sự hình thành và phát triển các quy định về khởi tố vụ án theo yêu
cầu của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
2.1.1. Quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại trong pháp luật tố
tụng hình sự thời kỳ sau Cách mạng Tháng 8/1945 đến trước khi ban hành Bộ
luật tố tụng hình sự 1988
Sau một thời gian dài áp dụng các quy định của thời gian trước, nhận
thấy những thay đổi và chuyển biến mới trong tình hình xã hội, Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành nhiều văn bản mới về hình sự và tố tụng để
thay thế pháp luật chế độ cũ, trong số các quy định mới đó, pháp luật hình sự
thời kì này cũng đã ghi nhận có một số quy định liên quan đến yêu cầu của người
bị hại.
Tiếp sau đó, TA tối cao đã ban hành Thông tư số 16/TATC ngày
27/9/1974. Nội dung Thông tư ghi nhận người bị hại có quyền: “Được đề xuất
chứng cứ và những lời thỉnh cầu; được yêu cầu bồi thường và yêu cầu áp dụng
những biện pháp nhằm đảm bảo bồi thường; được xin thay đổi Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân; được tham gia các cuộc thẩm vấn và tranh luận tại phiên
tòa về những sự việc đã gây thiệt hại cho mình; được kháng tố theo những quy
định của pháp luật để xin tăng hình phạt đối với bị cáo và tăng tiền bồi thường.
Có trường hợp người bị hại không yêu cầu bồi thường, nhưng trong trường hợp
người bị hại có yêu cầu bồi thường thì họ cũng có quyền của nguyên đơn dân sự.
Nếu việc phạm pháp đã gây ra chết người thì cha, mẹ, vợ, con, anh, chị, em ruột
của người bị hại đều có những quyền của người bị hại nói trên”. [31, tr. 46].
Ngoài ra, Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ 76 thẩm về hình sự ban
hành theo Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của TA tối cao, xác định:
24
Người bị hại là công dân đã bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm phạm đến thể chất,
tài sản, hoặc xâm hại về tinh thần (như bị lăng nhục, đánh, giết, trộm cắp, lừa
đảo...). Người đã can thiệp để ngăn cản bị cáo đánh, giết người khác nhưng bản
thân cũng bị kẻ phạm pháp gây thương tích, hoặc người có nhà cửa bị cháy vì bị
cáo đốt nhà của người khác nhưng đám cháy lan sang nhà của họ, cũng là người
bị xâm hại trực tiếp đến thể chất, tài sản [12, tr. 46].
Xuất phát từ quan niệm cho rằng quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ
giữa Nhà nước và người phạm tội. Chỉ có Nhà nước mới có quyền khởi tố, điều
tra, truy tố và xét xử người phạm tội, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm
tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm đã gây ra. Mà trước khi
BLTTHS 1988 được ban hành hệ thống pháp luật nhà nước ta về cơ bản chưa thể
hiện rõ nét vai trò của người bị hại trong giải quyết vụ án hình sự, chưa có một
chế định cụ thể nào quy định về quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại, mà chỉ
dừng lại ở một số văn bản pháp luật quy định mang tính chất chung chung về
người bị hại trong vụ án hình sự.
2.1.2. Quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong
BLTTHS 1988 và năm 2003
BLTTHS 1988 ra đời thể hiện một bước tiến mới trong PLTTHS nước ta,
tại Chương 7, Điều 88 của BLTTHS 1988 đã chính thức ghi nhận chế định khởi
tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại như sau: “1. Những vụ án về các
tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 109; đoạn 1, khoản 1 Điều 112; đoạn
1, khoản 1 Điều 113; khoản 1 Điều 116; khoản 1 Điều 117 và Điều 126 BLHS
chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. 2. Trong trường hợp người bị
hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà thì vụ án phải được đình chỉ” [20].
Việc ghi nhận chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại cho thấy sự
kết hợp hài hòa giữa quyền lợi của người bị hại với lợi ích chung của xã hội, thể
hiện ý nghĩa lớn lao về mặt pháp lý và xã hội. Tuy nhiên, quy định của BLTTHS
1988 về chế định này vẫn còn khá đơn giản, chưa chặt chẽ, và còn khá chung
chung, đòi hỏi cần được tiếp tục hoàn thiện.
25
Theo BLTTHS 2003 thì khởi tố theo yêu cầu bị hại được quy định tại
Điều 105: “1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều
104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của BLHS chỉ được khởi
tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người
bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu
khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu
khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục
tiến hành tố tụng đối với vụ án. Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có
quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức” [21].
Theo đó, BLTTHS 2003 quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109,
111, 113, 121, 122, 131 và 171 lần lượt là các tội: Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh,
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác, Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành
chính, Tội hiếp dâm, Tội cưỡng dâm, Tội làm nhục người khác, Tội vu khống,
Tội xâm phạm quyền tác giả và Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp chỉ
được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, nếu người bị hại
không có yêu cầu thì không được khởi tố vụ án hình sự.
BLTTHS 2003 so với BLTTHS 1988 đã mở rộng hơn các tội được khởi tố
vụ án theo yêu cầu của người bị hại. Bên cạnh các tội được quy định trước đó
trong BLTTHS 1988, BLTTHS 2003 đã bổ sung thêm các tội như sau: tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh; tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; tội vô ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; tội vô ý gây thương
26
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Cùng với đó, BLTTHS 2003 có quy định mới so
với BLTTHS 1988 đó là quy định việc người bị hại nếu đã rút yêu cầu khởi tố thì
không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp việc rút yêu cầu không phải do tự
nguyện mà do bị người khác ép buộc, cưỡng bức thì cơ quan tiến hành tố tụng
vẫn tiến hành tố tụng bình thường. Như vậy, BLTTHS 2003 đã có những quy
định mới đầy đủ và chặt chẽ hơn so với những quy định của BLTTHS 1988. Tuy
nhiên, quy định của BLTTHS 2003 vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: hạn chế
quyền của người bị hại, phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự,
chưa quy định cơ quan, tổ chức cũng là bị hại trong vụ án hình sự.
Trên cơ sở BLTTHS 2003 và thực tiễn công tác áp dụng quy định của
pháp luật về yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại, BLTTHS 2015 đã sửa đổi,
bổ sung quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại theo hướng mở
hơn và thu hẹp phạm vi các loại tội phạm khởi tố theo yêu cầu của người bị hại.
2.2. Thực trạng quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong
Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại được quy định tại Điều
155 BLTTHS 2015 như sau: “1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy
định tại Khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226
của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp
pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
2.2.1. Các trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
Trong bất kì Nhà nước nào, yêu cầu phát hiện, xử lí, đấu tranh kiên quyết,
không khoan nhượng đối với mọi tội phạm và người phạm tội cũng được quan
tâm, chú trọng. Thực tế cho thấy, có những hành vi phạm tội xâm hại đến quyền
và lợi ích của cá nhân, tổ chức nhưng nếu vụ việc được làm sáng tỏ, công khai có
thể ảnh hưởng đến quyền, lợi ích nhất định của bị hại. Do đó, BLTTHS quy đinh
về những trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu cùa bị hại. CQTHTT chỉ
27
được quyền khởi tố VAHS khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị
hại và họ chỉ được quyền rút yêu cầu khởi tố thuộc một trong các tội danh được
liệt kê tại khoản 1 Điều 155 của BLTTHS 2015.
Khoản 1 Điều 155 BLTTHS 2015 quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án hình
sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143,
155, 156 và 226 của BLHS...” [22]. Như vậy, BLTTHS 2015 quy định có 10 tội
phạm thuộc trường hợp chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại.
Cụ thể như sau:
+ Khoản 1 Điều 134 BLHS Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác: Đây là trường hợp một người có hành vi cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;
b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; d)
Phạm tội 02 lần trở lên…. Đây là tội ít nghiêm trọng, hình phạt áp dụng đối với
tội này là bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm.
+ Khoản 1 Điều 135 BLHS Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh: Đây là
trường hợp một người có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% nhưng ở trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn
nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó. Đây là tội ít
nghiêm trọng, hình phạt áp dụng đối với tội này là hình phạt tiền từ 10.000.000
đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
+ Khoản 1 Điều 136 BLHS Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt
quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội: Đây là trường hợp một người có
28
hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội. Vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người
khác, đã có hành vi chống trả lại người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói
trên nhưng sự chống trả đó rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp, không
tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là hành vi gây thương tích,
tổn hại cho sức khỏe của người bị bắt giữ, nhưng đã sử dụng vũ lực vượt quá
mức độ cần thiết khi bắt giữ người phạm tội. Đây là tội ít nghiêm trọng, hình
phạt áp dụng đối với tội này là hình phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000
đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
+ Khoản 1 Điều 138 BLHS Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác: Đây là trường hợp một người vô ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến
60%. Đây là tội ít nghiêm trọng, hình phạt áp dụng đối với tội này là hình phạt
cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm.
+ Khoản 1 Điều 139 BLHS Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành
chính: Đây là trường hợp một người có hành vi vô ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy
tắc hành chính mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên. Đây là tội ít nghiêm trọng,
hình phạt áp dụng đối với tội này là hình phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03
tháng đến 01 năm.
+ Khoản 1 Điều 141 BLHS Tội hiếp dâm: Đây là trường hợp một người
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được
29
của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ
tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. Đây là trường hợp tội nghiêm trọng,
hình phạt áp dụng đối với tội này là hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
+ Khoản 1 Điều 143 BLHS Tội cưỡng dâm: Đây là trường hợp một người
có hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở
trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác. Đây là tội nghiêm trọng, hình phạt áp dụng đối
với tội này là hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
+ Khoản 1 Điều 155 BLHS Tội làm nhục người khác: Đây là trường hợp
một người có hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người
khác. Đây là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, hình phạt áp dụng đối với tội
này là bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc
phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
+ Khoản 1 Điều 156 BLHS Tội vu khống: Đây là trường hợp một người
có hành vi: Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc
phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người khác; Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ
quan có thẩm quyền. Đây là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, hình phạt áp
dụng đối với tội này là hình phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng,
phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
+ Khoản 1 Điều 226 BLHS Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp:
Đây là trường hợp một người cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam, thu lợi bất chính
từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ sở
hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng. Đây là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, hình phạt áp dụng đối với tội
này là hình phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm.
30
Đây là những tội danh mà người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm
đến quyền và lợi ích của bị hại cũng như ảnh hưởng đến nhà nước và xã hội ở
mức độ hạn chế; nếu như để họ tiếp tục theo đuổi vụ án thì có thể gây mất nhiều
thời gian, công sức, tiền bạc của họ, thậm chí còn có thể làm giảm uy tín, ảnh
hưởng đến danh dự, nhân phẩm và còn gây ra tiếp những tổn hại về tinh thần cho
họ. Do vậy, TTHS đã trao cho bị hại quyền tự quyết và định đoạt, tức là vụ án
chỉ được khởi tố theo yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại trong một
số trường hợp đặc biệt và họ cũng có thể rút lại yêu cầu của mình để chấm dứt
tiến trình giải quyết vụ án để có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của bị hại,
nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến lợi ích của xã hội và nhiệm vụ của nhà
nước trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bảo vệ bị hại do đó còn phải
xem xét đến nguyện vọng của bị hại mong muốn xử lý người phạm tội như thế
nào.
Điều luật chỉ giới hạn thủ tục có đơn yêu cầu khởi tố trong mười tội phạm
nêu trên. Tuy nhiên, không phải trường hợp phạm tội nào cũng cần đơn yêu cầu
khởi tố, chi khi hành vi phạm tội thuộc trường hợp theo quy định tại khoản 1 của
các điều luật trên với khung hình phạt cao nhất là 07 năm tù (tội hiếp dâm), 05
năm tù (tội cưỡng dâm) và 03 năm tù (các tội còn lại). Nếu hành vi phạm tội rơi
vào khoản 2 thì việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án không đòi hỏi thủ tục
yêu cầu của bị hại.
So với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 đã bỏ 01 trường hợp khởi tố theo yêu
cầu bị hại, đó là Tội xâm phạm quyền tác giả. Việc BLTTHS 2015 bỏ trường
hợp khởi tố theo yêu cầu bị hại đối với tội này đã thể hiện sự tiến bộ trong công
tác lập pháp, phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì thực tế
hiện nay, quyền tác giả đã, đang bị xâm phạm ngày càng nhiều và nghiêm trọng
hơn, bằng nhiều hành vi ngày càng tinh vi, phức tạp hơn; thậm chí, việc xâm
phạm diễn ra nhưng chính tác giả vẫn không hay biết. Chính vì thế, hành vi xâm
phạm này cần được bảo vệ mà không cần phải có yêu cầu của bị hại nhằm bảo vệ
31
tốt hơn quyền tác giả, quyền liên quan là phù hợp với tình hình của đất nước hiện
nay.
2.2.2. Nội dung, chủ thể, hình thức khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị
hại
2.2.2.1. Nội dung khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
Hiện nay, bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với các tội
danh theo quy định tại khoản 1 Điều 155 của BLTTHS 2015. Sau khi có quyết
định khởi tố vụ án hình sự của cơ quan có thẩm quyền, toàn bộ quá trình điều tra,
truy tố, xét xử sẽ được tiến hành theo thủ tục chung theo đúng quy định của
BLTTHS mà bị hại không có các đặc quyền nào riêng khác so với các vụ án
thông thường. Yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại là điều kiện bắt buộc trong
những trường hợp người phạm tội phạm vào các tội khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại nêu trên, nếu khởi tố khi không có yêu cầu của bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của họ thì bị xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Nội dung yêu cầu khởi tố vụ án là yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự
người phạm tội, xử lý sự việc có dấu hiệu tội phạm. Vì vậy, nếu đơn yêu cầu
không thể hiện rõ yêu cầu khởi tố vụ án hoặc chỉ yêu cầu chung chung là xử lý
sự việc theo pháp luật thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải hướng dẫn người
yêu cầu để họ xác định lại chính xác nội dung yêu cầu và làm đơn cho phù hợp,
tránh trường hợp nội dung yêu cầu của người khởi tố không rõ ràng, dẫn đến gây
khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án cả cho cơ quan tiến hành tố tụng và cũng
không đảm bảo quyền lợi cho bị hại.
Nội dung yêu cầu khởi tố cũng có thể chứa đựng thông tin về tội phạm
nên yêu cầu khởi tố có thể đồng thời là tố giác tội phạm, là một trong những căn
cứ xác định dấu hiệu tội phạm. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ ràng yêu cầu khởi tố
chỉ là điều kiện để cơ quan có thẩm quyền quyết định việc khởi tố vụ án hình sự
chứ không phải là căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự
theo quy định BLTTHS là dấu hiệu tội phạm. Nếu chỉ có yêu cầu khởi tố mà
không có dấu hiệu tội phạm thì không được khởi tố vụ án hình sự và ngược lại,
32
khi xác định có dấu hiệu tội phạm thuộc trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu
của bị hại nhưng không có yêu cầu khởi tố của bị hại thì cũng không được khởi
tố vụ án hình sự.
2.2.2.2. Chủ thể khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
BLTTHS 2015 đã có một bước tiến quan trọng là công cụ pháp lý hiệu
quả để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trong vụ án hình sự. Nếu
BLTTHS 2003 quy định Thì đến BLTTHS 2015 thuật ngữ “Người bị hại” trong
BLTTHS 2003 đã được thay thế bằng thuật ngữ “Bị hại” trong đó khái niệm bị
hại mở rộng hơn đối tượng bao gồm cá nhân và pháp nhân (BLTTHS 2003 quy
định chỉ có cá nhân).
BLTTHS 2015 đã sửa đổi cụm từ “người đại diện hợp pháp của người bị
hại” và “người chưa thành niên” thành cụm từ “người đại diện” và “người dưới
18 tuổi” và bổ sung trường hợp “người đại diện của bị hại có quyền yêu cầu khởi
tố trong trường hợp bị hại đã chết”. Có thể thấy, việc sửa đổi, bổ sung trên là
thống nhất với khái niệm bị hại được nêu tại khoản 1 Điều 62 BLTTHS 2015 khi
không chỉ quy định cá nhân mới là bị hại như BLTTHS 2003 (Điều 51) mà còn
cho phép cả cơ quan, tổ chức cũng là bị hại.
BLTTHS 2015 mở rộng phạm vi chủ thể có tư cách bị hại, đồng nghĩa với
phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự cũng được mở rộng.
Quy định của BLTTHS 2015 là hợp lý vì cả bị hại và người đại diện của họ đều
là chủ thể của quyền rút yêu cầu khởi tố, việc quy định cả hai chủ thể trên đều
không được yêu cầu khởi tố lại là phù hợp về kỹ thuật lập pháp. Như vậy, phạm
vi của đối tượng được hưởng quyền của bị hại không chỉ giới hạn là những bị hại
trực tiếp của tội phạm mà còn được mở rộng ra cả đối tượng khác như: Trường
hợp bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần, thể chất hoặc
đã chết thì người đại diện của họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại
quy định. Trường hợp cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp
nhất thì người đại diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và
33
nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định
(Khoản 5 Điều 62 BLTTHS 2015).
Ngoài ra, việc bổ sung trường hợp “người đại diện của bị hại khi bị hại đã
chết” xuất phát từ thực tiễn sau khi bị hại bị xâm hại đã chết sau đó (do bị bệnh,
tai nạn…) nên việc yêu cầu khởi tố sẽ do ai thực hiện, trong khi người chưa
thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì pháp luật đã cho
phép người đại diện của họ thực hiện quyền yêu cầu.
Quyền của bị hại và người đại diện của họ được quy định tại khoản 2 Điều
62 BLTTHS 2015 như: Quyền được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ;
Quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Quyền trình bày ý kiến về
chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng kiểm tra, đánh giá; Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa
phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa;
xem biên bản phiên tòa… Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để bị hại bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong TTHS.
2.2.2.3. Hình thức khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
Có thể thấy, Điều 155 BLTTHS 2015 chưa có quy định rõ về hình thức
của yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại. Có thể hiểu hình thức của yêu cầu
khởi tố vụ án hình sự của bị hại là tài liệu phản ánh yêu cầu của bị hại hoặc đại
diện hợp pháp của bị hại mong muốn xử lý vụ án bằng pháp luật hình sự đối với
người phạm tội đối với các tội phạm luật định. Vì vậy, các tài liệu này cần được
thu thập vào trong hồ sơ vụ án để cơ quan có thẩm quyền khởi tố đánh giá căn cứ
vào các quy định của pháp luật nội dung là chứng cứ chứng minh sự kiện có dấu
hiệu tội phạm, và các căn cứ hình thức trong quy định pháp luật nội dung là thủ
tục thực hiện yêu cầu, từ đó quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình sự không được ghi nhận trong
BLTTHS 2015, tuy nhiên tại Thông tư Liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-
BCA-BQP ngày 07/9/2018, về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc
thực hiện một số quy định của BLTTHS 2015 có quy định về vấn đề này tại
34
khoản 5 Điều 7 như sau: “Trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị
hại, thì yêu cầu khởi tố của bị hại hoặc người đại diện của bị hại phải thể hiện
bằng văn bản có chữ ký hoặc điểm chỉ của họ; trường hợp bị hại hoặc người đại
diện của bị hại đến trực tiếp trình bày thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải
lập biên bản ghi rõ nội dung yêu cầu khởi tố để họ ký hoặc điểm chỉ vào biên
bản. Biên bản do Viện kiểm sát lập phải được chuyển ngay cho Cơ quan điều tra
để xem xét việc khởi tố vụ án hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án” [40]. Theo hướng
dẫn của Thông tư liên tịch thì có hai hình thức để thể hiện yêu cầu của bị hại về
khởi tố vụ án hình sự: Một là bằng đơn (văn bản) do bị hại hoặc người đại diện
của bị hại viết, nội dung đơn phải có chữ kí hoặc điểm chỉ của họ; Hai là bằng
biên bản do CQĐT, VKS lập trong trường hợp bị hại hoặc người đại diện của bị
hại đến trực tiếp trình bày bằng lời được CQTHTT ghi nhận bằng biên bản. Hai
hình thức này đều được phản ánh vào trong hồ sơ vụ án.
Hiện nay, PLTTHS chưa có quy định cụ thể về nội dung của yêu cầu khởi
tố. Tuy nhiên, để đảm bảo đầy đủ thông tin và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm của các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng thì yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại đòi hỏi phải đảm
bảo các nội dung sau đây: Một là, về mặt chủ thể thực hiện yêu cầu phải là bị hại
hoặc đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần,
thể chất hoặc đã chết. Hai là, về nội dung của yêu cầu khởi tố phải đáp ứng các
thông tin sau: ngày, tháng, năm sinh của bị hại, nơi cư trú của bị hại, tóm tắt nội
dung vụ án mà bị hại yêu cầu khởi tố. Ba là, về mặt hình thức, bị hại phải điểm
chỉ hoặc ký xác nhận cho yêu cầu của mình để thể hiện sự tự nguyện, không có
sự ép buộc, cưỡng bức từ bên thứ ba để yêu cầu khởi tố. Nếu có căn cứ theo quy
định của BLHS có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, sau đó pháp luật điều chỉnh
quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự trong trường hợp khởi tố vụ án
theo yêu cầu bị hại tiếp tục được thực hiện theo quy định chung như tuân thủ quy
định chung của BLTTHS 2015 về thẩm quyền; thời hạn điều tra, truy tố, xét xử;
35
việc trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, về gia hạn điều tra, truy tố, về tạm đình
chỉ, đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ, đình chỉ bị can, bị cáo và các vấn đề khác có
liên quan theo quy định chung của BLTTHS… nếu có các căn cứ pháp luật theo
luật định mà không cần phải phụ thuộc vào ý chí hay yêu cầu của bị hại trong vụ
án.
2.2.3. Hậu quả pháp lý của việc yêu cầu và rút đơn yêu cầu khởi tố vụ
án theo yêu cầu của bị hại
2.2.3.1. Hậu quả pháp lý của yêu cầu khởi tố
Khi bị hại có yêu cầu khởi tố, mà yêu cầu đó của bị hại đảm bảo các quy
định về pháp luật nội dung và pháp luật hình thức đủ điều kiện để khởi tố vụ án
hình sự thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu bị hại.
Để đảm bảo thực hiện quyền buộc tội tại phiên tòa cho bị hại, Khoản 4
Điều 320 BLTTHS 2015 đã đồng thời quy định về việc bị hại hoặc người đại
diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm sát viên trình bày luận tội.
Trong TTHS chức năng buộc tội tồn tại song song với chức năng gỡ tội
(bào chữa) như là nhu cầu tất yếu khách quan [8, tr.92,93]. “Khi chưa xác định ai
là người thực hiện tội phạm hoặc chưa bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp
thì TTHS chưa xuất hiện chức năng bào chữa” [11, tr.53]. Nói cách khác, hậu
quả pháp lý của yêu cầu khởi tố đó là mở ra một giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Yêu cầu của bị hại trong những trường hợp này đóng vai trò quan trọng trong
việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền, dồng
thời được thể hiện rõ trong quyết định khởi tố vụ án hình sự mà nếu không có nó
thì không thể ra quyết định khởi tố vụ án được do sẽ vi phạm nghiêm trọng thủ
thục tố tụng. Đồng thời, ngoài việc cho phép bị hại hoặc người đại diện hợp pháp
của bị hại trình bày lời buộc tội tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như
đã nêu trên thì quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự khởi tố theo
yêu cầu của bị hại vẫn tuân theo các quy định chung về điều tra, truy tố và xét xử
36
theo thủ tục bình thường, trừ trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố một cách tự
nguyện thì vụ án phải được đình chỉ dù ở trong bất kì giai đoạn tố tụng nào.
2.2.3.2. Hậu quả pháp lý của rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại
Tại khoản 2, và khoản 3 Điều 155 BLTTHS 2015 quy định về hậu quả
pháp lý của việc rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại
Một là, đình chỉ vụ án: theo quy định của BLTTHS thì hậu quả pháp lý
chung của việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại là vụ án phải được
đình chỉ dù ở trong bất kì giai đoạn nào.
Ở thủ tục tố tụng tại phiên tòa về nguyên tắc thẩm quyền định chỉ vụ án
thuộc về hội đồng xét xử theo quy định Điều 326 BLTTHS 2015.
Hai là, người bị hại hoặc đại diện của họ không được yêu cầu giải quyết
lại vụ án: Nếu việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự phải nêu lý do yêu cầu và tóm
tắt sơ lược nội dung vụ án hì BLTTHS Việt Nam hiện hành không đòi hỏi lý do
mà bị hại hoặc đại diện của họ nêu ra khi rút yêu cầu khởi tố. Điều này đồng
nghĩa với việc bị hại có quyền rút yêu cầu vì bất cứ lý do gì, nếu điều đó xuất
phát từ ý chí đích thực của họ, việc rút yêu cầu hoàn toàn tự nguyện, không có sự
lùa dối, ép buộc hay cưỡng bức từ bên thứ ba thì các CQTHTT phải tôn trọng
yêu cầu rút của họ và ra quyết định đình chỉ vụ án. Việc ra quyết định đình chỉ
vụ án đồng nghĩa với việc các CQTHTT sẽ chấm dứt mọi hoạt động tố tụng đối
với vụ án đó. Những quy định đặc biệt nêu trên đã thể hiện sự tôn trọng ở mức
độ cao nhất các quyền của bị hại trong việc lựa chọn biện pháp giải quyết một số
vụ án hình sự nhất định có liên quan đến lợi ích của mình, đó là quyền tự do lựa
chọn yêu cầu khởi tố hay không yêu cầu khởi tố vụ án và đương nhiên cũng có
quyền rút yêu cầu khởi tố theo quy định của pháp luật.
Điều 155 BLTTHS 2015 quy định mang tính kế thừa Điều 105 BLTTHS
2003. Tuy nhiên, BLTTHS 2015 có sự sửa đổi, bổ sung so với BLTTHS 2003
trong quy định về cơ chế sử dụng quyền yêu cầu của bị hại trong khởi tố vụ án
hình sự. Nếu khoản 2 Điều 105 BLTTHS 2003 quy định người bị hại chỉ được
rút yêu cầu trước khi mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án mới đình chỉ thì BLTTHS
37
2015 đã có tiến bộ hơn khi mở rộng quyền rút yêu cầu của bị hại, đó là bị hại
được quyền rút yêu cầu bất cứ lúc nào trong suốt quá trình tố tụng, từ giai đoạn
điều tra, truy tố đến xét xử, và các cơ quan, người có thẩm quyền có trách nhiệm
tôn trọng quyền rút yêu cầu khởi tố này của bị hại. Nội dung điều luật không quy
định thời điểm người đã yêu cầu khởi tố có thể rút yêu cầu tức là người yêu cầu
có thể rút yêu cầu của mình ở mọi thời điểm trong quá trình giải quyết vụ án.
Quy định này đã khắc phục những khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng
trong quá trình áp dụng vào thực tiễn. Đồng thời thể hiện sự mở rộng quyền con
người, quyền công dân trong TTHS khi cho phép người đã yêu cầu khởi tố có
quyền rút yêu cầu khởi tố ở mọi thời điểm mà không bị bó buộc ở bất kì giai
đoạn nào từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, bao gồm cả xét xử phúc
thẩm.
TTHS là quá trình giải quyết vụ án, do luật quy định và được tiến hành
bởi các cơ quan nhà nước. Chi phí tiến hành tố tụng do Nhà nước chi trả. Việc
tiến hành tố tụng được tiến hành theo thủ tục chặt chẽ, qua đó bảo đảm việc xác
định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đù, bảo đảm quyền và
lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là hoạt
động của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có
nhược điểm về tâm thần, thể chất hoặc đã chết thực hiện việc yêu cầu chấm dứt
tố tụng đối với vụ án hình sự đã khởi tố trước đó trên cơ sở khởi tố của họ. Tuy
nhiên, quá trình tố tụng không thể bắt đầu hay kết thúc đơn giản chỉ do sự thay
đổi ý kiến của một cá nhân nhất định. Do đó, điều luật chi quy định cho phép bị
hại hoặc người đại diện hợp pháp của bị hại được quyền rút yêu cầu duy nhất
một lần.
Hiện nay, việc hiểu và vận dụng khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015 còn
nhiều bất cập trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút đơn
yêu cầu tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bởi BLTTHS 2015 chưa quy định cụ
thể, rõ ràng. Để giải quyết vấn đề trên, TANDTC đã ban hành Công văn số
254/TANDTC-PC (Công văn số 254) ngày 26/11/2018 để hướng dẫn áp dụng về
38
việc người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu theo quy định tại Điều
155 BLTTHS 2015. Theo đó, tại giai đoạn xét xử sơ thẩm: “Người đã yêu cầu
khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa căn cứ vào Điều 45, điểm a khoản 1 Điều 282 của
BLTTHS ra quyết định đình chỉ vụ án; Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ
án hình sự rút yêu cầu tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155, Điều 299 của
BLTTHS ra quyết định đình chỉ vụ án…”; tại giai đoạn xét xử phúc thẩm thì:
“Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người
đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155
và Điều 359 của BLTTHS hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án”.
Như vậy, nội dung và hình thức rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự hiện nay
chưa được BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành đề cập đến. Cần lưu ý
rằng, pháp luật quy định cho phép bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án thì có
quyền nút yêu cầu khởi tố vụ án mà không có quyền rút yêu cầu khởi tố đối với
từng bị can, bị cáo trong vụ án. Do đó, trong vụ án hình sự có nhiều bị can, bị
cáo mà bị hại hoặc đại diện của bị hại nút yêu cầu khởi tố với bị can, bị cá với
bất kì nào thì cũng không có ý nghĩa với vụ án. Vụ án vẫn được tiến hành theo
các thủ tục tố tụng thông thường.
Về hình thức của việc rút yêu cầu khởi tố phải thể hiện bằng đơn rút yêu
cầu, trong đơn có chữ ký hoặc điểm chỉ của bị hại hoặc người đại diện của bị hại.
Yêu cầu của bị hại về khởi tố vụ án được thực hiện bằng phương thức gì thì việc
rút yêu cầu của họ cũng bằng phương thức tương tự theo một trong hai phương
thức như đã phân tích ở trên khi thực hiện việc yêu cầu khởi tố vụ án. Theo đó
việc rút yêu cầu có thể thực hiện bằng đơn do bị hại tự lập hoặc do CQĐT, VKS
và TA lập biên bản ghi rõ việc rút yêu cầu khởi tố, có chữ ký hoặc điểm chỉ của
người rút yêu cầu nếu việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự được trình bày trực
tiếp. Điều này có nghĩa là khi bị hại có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, nay
39
muốn rút lại đơn thì không phải CQĐT , VKS và TA trả lại đơn cho bị hại mà
phải yêu cầu họ viết đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án để đưa vào hồ sơ vụ án.
2.3. Thực tiễn áp dụng quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
trên địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
2.3.1. Những kết quả đạt được
Quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội là một trong những quận trung tâm
của thành phố với mật độ dân cư đông đúc, chính vì thế mà tình hình tội phạm
cũng rất phức tạp. Quận Hoàng Mai là quận nằm ở phía Đông Nam của thành
phố Hà Nội. Phía Đông của quận Hoàng Mai giáp huyện Gia Lâm, phía Tây và
Nam giáp huyện Thanh Trì, và phía Bắc giáp quận Thanh Xuân và quận Hai Bà
Trưng. Chính điều này đã dẫn đến tình trạng tội phạm ngày diễn biến phức tạp
về cả tính chất, mức độ trên phạm vi toàn quận. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với
các cơ quan tiến hành tố tụng mà cụ thể là TAND quận Hoàng Mai trong việc
đẩy lùi tội phạm ngày càng được chú trọng. Để đáp ứng các yêu cầu đặt ra, thời
gian qua các cơ quan tiến hành tố tụng của quận Hoàng Mai đã có nhiều giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, góp phần giữ vững trật tự xã hội trên
địa bàn.
Trong năm 2020, TAND hai cấp thành phố Hà Nội triển khai nhiệm vụ
công tác trong bối cảnh tình hình tội phạm còn tiềm ẩn những diễn biến phức
tạp, các tranh chấp kinh doanh thương mại, khiếu kiện hành chính có chiều
hướng gia tăng; công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh với
việc khởi tố, điều tra, truy tố và đưa ra xét xử nhiều vụ án kinh tế và tham nhũng
lớn. Trước tình hình và yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, trong điều kiện biên chế không
tăng, cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn, cũng như dịch Covid-19 còn nhiều diễn
biến phức tạp, nhưng được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện thuận
lợi của TANDTC, Thành ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố
Hà Nội; sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, ban, ngành Trung ương và Thành
phố; cùng với sự cố gắng, nỗ lực của tập thể lãnh đạo, công chức, người lao động
nên trong năm qua, công tác tư pháp ở quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội đã
40
đạt được nhiều kết quả tích cực. Bên cạnh đó TAND hai cấp thành phố Hà Nội
đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan Công an, VKSND các cấp tổ chức xét xử các
vụ án hình sự đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không kết án oan
người không phạm tội và bỏ lọt tội phạm.
Tình hình tội phạm trên địa bàn quận Hoàng Mai giai đoạn từ năm 2016
đến năm 2020 thể hiện tại Phụ lục 2.1.
Từ số liệu trên có thể thấy, trên địa bàn quận Hoàng Mai các vụ án trong
nhóm tội khởi tố theo yêu cầu bị hại luôn chiếm một tỷ lệ không đáng kể trong
tổng số các vụ án hình sự. Theo số liệu thống kê của TAND quận Hoàng Mai
trong 05 năm, từ năm 2016 đến năm 2020, TAND quận Hoàng Mai đã đưa ra xét
xử tổng số 4.675 vụ án, với 4.846 bị cáo. Tỉ lệ vụ án và số bị cáo được đưa ra
xét xử tăng giảm không đều qua các năm. Năm 2018 có số vụ án và số bị cáo
được đưa ra xét xử cao nhất với 1021 vụ án và 1059 bị cáo được đưa ra xét xử.
Năm 2016 có số vụ án và số bị cáo được đưa ra xét xử thấp nhất với 758 vụ án
và 815 bị cáo.
So sánh giữa tình hình tội phạm chung với tình hình tội phạm bị khởi tố
theo yêu cầu bị hại trên địa bàn quận Hoàng Mai trong 05 năm từ năm 2016 đến
năm 2020 có thể đưa ra nhận xét như sau: nhìn chung số lượng các vụ án được
khởi tố theo yêu cầu của bị hại chiếm tỉ lệ không cao trong tổng số tội phạm nói
chung được đưa ra xét xử. Trong đó, năm 2017 chiếm tỉ lệ 23,2 % về số vụ và
14,1 % về số bị cáo trên tổng số vụ án và số bị cáo được đưa ra xét xử mà vụ án
được khởi tố theo yêu cầu bị hại, chiếm tỉ lệ cao nhất trong giai đoạn năm năm từ
2016 đến 2020. Năm 2019 chiếm tỉ lệ 12,7 % về số vụ và 9,6 % về số bị cáo trên
tổng số vụ án và số bị cáo được đưa ra xét xử mà vụ án được khởi tố theo yêu
cầu bị hại, chiếm tỉ lệ thấp nhất trong giai đoạn năm năm từ 2016 đến 2020. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ các vụ án được đưa ra xét xử trên cơ sở yêu cầu
khởi tố của bị hại giảm mạnh qua các năm đó là do sự thay đổi trong quy định
của BLTTHS nói riêng và chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta nói
chung; bên cạnh đó tỉ lệ tội phạm được đưa ra xét xử mỗi năm trên địa bàn quận
41
không ngừng tăng lên; công tác hòa giải và thỏa thuận giữa bị hại và người thực
hiện hành vi phạm tội được thực tốt, hai bên sắp xếp ổn thỏa về các lợi ích và
trách nhiệm bồi thường nên bị hại rút yêu cầu khởi tố hoặc đã không yêu cầu
khởi tố và một số nguyên nhân khác.
Cụ thể, năm 2016 có 24 vụ với 24 bị cáo, năm 2017 có 19 vụ với 21 bị
cáo, đến năm 2018 tăng lên 42 vụ với 49 bị cáo, năm 2019 có giảm đi nhưng
không đáng kể với 39 vụ và 39 bị cáo, năm 2020 tiếp tục tăng lên 41 vụ với 50 bị
cáo. Sau đó đến các tội khác như tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm. Điều này cho thấy
sự phức tạp của ba loại tội này trên địa bàn quận Hoàng Mai hiện nay.
Xem xét số liệu tại Phụ lục 2.3 cho thấy, số vụ án bị cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng đình chỉ do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố chiếm tỉ lệ khá
cao trong số các vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại đưa ra xét xử. Có thể kể đến
nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên như: phía người phạm tội và gia đình
người phạm tội trong giai đoạn xét xử đã thỏa thuận ổn thỏa các vấn đề liên quan
đến đảm bảo lợi ích của bị hại, đồng thời chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
một cách thỏa đáng. Bên cạnh đó vẫn tồn tại không ít trường hợp bị hại lợi dụng
quyền yêu cầu khởi tố vụ án theo quy định của BLTTHS để trục lợi, ra sức ép
buộc người phạm tôij đáp ứng các yêu cầu của mình. Ngược lại vẫn có các
trường hợp bị hại là chủ thể bị tội phạm xâm hại lại tiếp tục bị người phạm tội
hoặc người thân của người phạm tội đe dọa buộc phải rút yêu cầu khởi tố, và
thực tế việc chứng minh bị hại bị đe dọa, ép buộc rút yêu cầu khởi tố chứ không
phải xuất phát từ sự tự nguyện để CQTHTT tiếp tục giải quyết vụ án theo quy
định pháp luật không phải là điều dễ dàng.
Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự tại quận Hoàng Mai trong thời gian
qua cho thấy, trong các vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại các CQTHTT luôn
nhận được sự phối hợp tích cực, có hiệu quả của bị hại trong việc cung cấp hồ
sơ, tài liệu và lấy lời khai. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đẩy
nhanh tiến độ giải quyết vụ án, kịp thời xét xử nghiêm minh người thực hiện
hành vi phạm tội.
42
Ví dụ: Bản án số 32/2019/HSST ngày 23/01/2019 về tội cố ý gây thương
tích của TAND quận Hoàng Mai như sau: Ngày 21/9/2018 Đội quản lý trật tự đô
thị quận Hoàng Mai đã phân công đồng chí: Nguyễn Văn D làm Tổ trưởng; các
đồng chí: Nguyễn Bá Th, Nguyễn Chung C và Trần Đức Tr làm tổ viên phối hợp
thực hiện kiểm tra, xử lý vi phạm về trật tự đô thị trên địa bàn. Sau nhiều lần
nhắc nhở, Tổ công tác đã tiến hành thu hàng hóa của bà N do bà N vẫn cố tình
bán hàng tại khu vực cấm. Nguyễn Xuân Đ là con trai bà N thấy Tổ công tác thu
giữ tài sản của mẹ mình đã xông vào lấy một con dao chém anh Nguyễn Chung
C làm anh C bị thương, rách da, chảy máu ở vùng cổ, sau đó Đ tiếp tục dùng dao
đuổi theo để đánh các thành viên trong Tổ công tác. Ngày 29/9/2018, anh
Nguyễn Chung C làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án đối với sự việc trên gửi cho Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an quận. Theo kết luận giám định pháp y về thương
tích của Trung tâm giám định pháp y thì tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do
thương tích gây nên tại thời điểm giám định đối với anh Nguyễn Chung C là 3%;
cơ chế hình thành vết thương do tác động ngoại lực bởi vật sắc. Theo đó,
VKSND đã truy tố Nguyễn Xuân Đ về tội "Cố ý gây thương tích "Theo điểm a
khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Trên cơ sở nội
dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử đã ra bản án tuyên bị cáo Nguyễn Xuân Đ phạm tội
"Cố ý gây thương tích" theo điểm a khoản 1 Điều 134, điểm b, s khoản 1 Điều
51 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; xử phạt Nguyễn Xuân Đ 10
tháng tù. Đây là vụ án mà nhờ có sự hợp tác triệt để của bị hại mà CQTHTT đã
giải quyết vụ án rất nhanh và thuận lợi, đảm bảo hiệu quả cao trong tiến trình tố
tụng.
Đây là một nội dung mang tính đặc trưng trong quyền của bị hại so với
các vụ án thông thường trong thủ tục xét xử sơ thẩm. Qua khảo sát việc tham gia
phiên tòa để thực hiện quyền trình bày lời buộc tội của người bị hại cho thấy kết
quả như sau: Trong năm 2016 có 40 vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
được đưa ra xét xử ở giai đoạn sơ thẩm thì có tỉ lệ người bị hại tham gia phiên
43
tòa chiếm tỷ lệ 76,9%. Trong năm 2017 có 31 vụ án khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại được đưa ra xét xử ở giai đoạn sơ thẩm thì có tỉ lệ người bị hại tham
gia phiên tòa chiếm tỷ lệ 67,48%. Trong năm 2018 có 52 vụ án khởi tố theo yêu
cầu của người bị hại được đưa ra xét xử ở giai đoạn sơ thẩm thì có tỉ lệ người bị
hại tham gia phiên tòa chiếm tỷ lệ 79,42%. Trong năm 2019 có 48 vụ án khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại được đưa ra xét xử ở giai đoạn sơ thẩm thì có tỉ lệ
người bị hại tham gia phiên tòa chiếm tỷ lệ 59,92%. Trong năm 2020 có 57 vụ án
khởi tố theo yêu cầu của người bị hại được đưa ra xét xử ở giai đoạn sơ thẩm thì
có tỉ lệ người bị hại tham gia phiên tòa chiếm tỷ lệ 68,34%. Nếu xét theo từng
loại án khởi tố theo yêu cầu bị hại thì việc tham gia phiên tòa để bảo vệ quyền
lợi của của bị hại trong các tội cố ý gây thương tích chiếm tỉ lệ tuyệt đối, theo đó
100% vụ án có người bị hại tham gia để bảo vệ quyền lợi của họ. Tuy nhiên
trong các vụ án hiếp dâm, cưỡng dâm thì chỉ có 61,76% người bị hại trực tiếp
tham gia phiên tòa do tính chất nhạy cảm của hành vi phạm tội và nhiều bị hại
cảm thấy xấu hổ khi phải ra tòa để nhắc lại các tình tiết đó, cũng như không ít
trường hợp cảm thấy sợ hãi, chán ghét đối tượng, không dám gặp lại người phạm
tội, và những nội dung khai trong hồ sơ vụ án trong quá trình điều tra, truy tố đã
đầy đủ, rõ ràng.
Việc áp dụng các quy định của pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu
của bị hại trên địa bàn quận Hoàng Mai nhìn chung đã đạt đạt nhiều kết quả tích
cực, Theo đó, các vụ án mà CQTHTT giải quyết liên quan đến khởi tố theo yêu
cầu bị hại đều được giải quyết đúng trình tự thủ tục, đảm bảo đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Cùng
với đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của cơ quan, đơn vị và chế độ
chính sách đối với cán bộ, công chức đã được quan tâm đầu tư, hoàn thiện hơn
qua từng năm. Điều đáng khích lệ hơn là vấn đề năng lực, trình độ, ý thức trách
nhiệm của lãnh đạo, cán bộ, công chức của Cơ quan tố tụng không ngừng được
quan tâm hoàn thiện và được nâng cao. Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư
pháp được củng cố và tăng cường, đã giải quyết dứt điểm, nghiêm minh nhiều vụ
44
việc, vụ án khó khăn. Các CQTHTT quận Hoàng Mai đã thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, hạn chế oan, sai và bỏ lọt tội phạm, bảo
đảm tốt quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đặc biệt là người
bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bảo đảm tính minh bạch, khách quan
trong TTHS. Từ đó góp phần nnag cao hiệu quả công tác và củng cố niềm tin
trong nhân dân về hoạt động của các cơ quan tố tụng.
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được đáng ghi nhận như trên trong quá trình
giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại, thì vẫn còn những
tồn tại, hạn chế của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trên
địa bàn quận Hoàng Mai như sau:
Thứ nhất, bị hại không hợp tác với các CQTHTT trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, nhất là các vụ án về tội cố ý gây thương tích, hiếp dâm khi
bị hại không hợp tác giám định. Mặc dù có dấu hiệu tội phạm xảy ra, nhưng
CQĐT không thể ra quyết định khởi tố vụ án vì chưa có yêu cầu khởi tố của bị
hại, bị hại không chịu đi giám định, và cũng không thể ra quyết định không khởi
tố vụ án mà chỉ có thể xử phạt vi phạm hành chính đối với những hành vi phạm
tội kể trên. Bên cạnh đó những thiếu sót trong quá trình thu thập chứng cứ trong
các tội danh như hiếp dâm, cưỡng dâm, việc đánh giá các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ TNHS và quyết định hình phạt của các CQTHTT trong một số vụ án
chưa tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội trong các vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại... Những khó khăn này
đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức và áp dụng pháp luật, làm giảm hiệu
quả đấu tranh phòng chống tội phạm của CQTHTT,tvaf chưa thể bảo vệ tốt nhất
các quyền con người, quyền công dân cho bị hại.
Ví dụ: Tối ngày 04/12/2018, do có mâu thuẫn nhỏ trong đám cưới nhà ông
Nguyễn D (trú tại phường Giáp Bát, quận Hoàng Mai, Hà Nội), nên Nguyễn Văn
T (sinh năm 2001) và Nguyễn Văn V (sinh năm 2003), là hai anh em ruột, đã xô
xát với Hoàng Quốc L. ở cùng thôn. L về nhà lấy kiếm dài, nhọn, chuôi sắt,
45
khoảng 70cm, quay trở lại đám cưới, chém trọng thương T và V. Hậu quả T và V
bị thương nặng, cấp cứu tại bênh viện. Ngày 13/02/2019, do không đạt được thoả
thuận về đền bù thiệt hại, thương tích, bà Cao Thị Hòe (là mẹ đẻ của T và V) đã
viết đơn gửi CQÐT Công an quận Hoàng Mai để đề nghị khởi tố L về hành vi
gây thương tích, xử lý theo quy định của pháp luật. Khi đó, CQÐT vất vả bội
phần do thời gian xảy ra vụ án đã lâu, đối tượng không có mặt tại địa bàn, khó
triệu tập; vết thương lâu ngày không còn nguyên vẹn; hiện trường vụ án bị xáo
trộn, người chứng kiến không còn nhớ nhiều về vụ việc, khó làm rõ động cơ gây
án... Nếu chỉ căn cứ đơn tố cáo cũng khó khách quan vì bị hại thường trình bày
có lợi cho mình, bị đơn hay phủ nhận. Khi yêu cầu bị hại giám định. Khi CQĐT
Công an quận Hoàng Mai đang tiến hành xác minh vụ việc để xem xét việc khởi
tố L về tội cố ý gây thương tích. Trái hẳn thái độ “cứng rắn” ban đầu, khi người
nhà bị hại đã nhận được số tiền đền bù 120 triệu đồng thì nhất định không đi
giám định theo yêu cầu của CQĐT, nhưng lại không rút đơn yêu cầu khởi tố với
lý do “đang xem xét”, dẫn tới việc giải quyết vụ án của CQĐT kéo dài, tốn thời
gian, công sức của những người tiến hành tố tụng, tốn kém vật chất của
CQTHTT.
Thứ hai, vẫn còn một số trường hợp CQTHTT khi khởi tố, điều tra không
thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình, nhất là các vụ án liên quan đến
cố ý gây thương tích, án hiếp dâm. Khi CQTHTT phát hiện có dấu hiệu tội
phạm, qua nhận định ban đầu về công cụ, phương tiện, đặc điểm, dấu vết thương
tích, tình trạng nạn nhân mà các CQTHTT đã tiến hành khởi tố vụ án hình sự để
áp dụng một số hoạt động điều tra mà theo quy định của BLTTHS giai đoạn giải
quyết nguồn tin về tội phạm không được áp dụng như nhận dạng, khám xét, thực
nghiệm điều tra... mặc dù chưa có kết luận giám định tính chất thương tích, mức
độ tổn hại sức khỏe của nạn nhân… Điều này có thể xem như một dạng của hành
vi vượt quyền, vi phạm các thủ tục tố tụng theo BLTTHS 2015. Bên cạnh đó,
CQTHTT trong nhiều trường hợp còn lách luật khi tiến hành khởi tố vụ án hình
sự đối với các tội danh trên theo khoản 2 và tiến hành ra quyết định trưng cầu
46
giám định. Sau khi có kết quả giám định mới tiến hành xác định vụ việc được
khởi tố, điều tra theo yêu cầu bị hại hay theo thủ tục chung. Cách thức này
thường được CQTHTT áp dụng trong một số trường hợp bị hại không hợp tác đi
giám định, buộc CQTHTT phải khởi tố vụ án theo cách nêu trên để có cơ sở áp
dụng biện pháp dẫn giải bị hại.....
Cũng từ vụ án Hoàng Quốc L nêu trên, khi CQĐT Công an quận Hoàng
Mai không nhận được sự hợp tác của bị hại để đi giám định thương tích. Qua
việc xem xét dấu vết trên thân thể và lời khai của bị hại, người làm chứng,
CQĐT Công an quận Hoàng Mai nhận định Hoàng Quốc L sẽ phạm tội thuộc
khoản 2 Điều 134 BLHS. Vì vậy, CQĐT đã khởi tố vụ án hình sự mà chưa có kết
luận giám định tỷ lệ thương tích đối với bị hại T và V. Sau khi khởi tố vụ án
hình sự, bị hại đạt được thoả thuận đền bù thiệt hại, nên không đi giám định.
CQĐT lúc này không thể tiếp tục giải quyết vụ án được.
Thứ ba, hình thức yêu cầu khởi tố theo yêu cầu của bị hại chưa được
thống nhất. Các CQTHTT trên địa bàn quận Hoàng Mai như CQĐT, VKS và Toà
án có hướng dẫn khác nhau cho bị hại về mặt hình thức của yêu cầu khởi tố vụ
án. Có cơ quan cho rằng đơn tố cáo hoặc tố giác tội phạm của bị hại là đơn yêu
cầu khởi tố vì trong nội dung chứa đựng yêu cầu xử lý người phạm tội của bị hại;
có cơ quan lại xem đơn tố cáo, tố giác tội phạm chỉ là cơ sở để cơ quan có thẩm
quyền kiểm tra, xác minh ban đầu, nếu có dấu hiệu tội phạm thì người bị hại phải
làm tiếp đơn yêu cầu khởi tố vụ án. Đây cũng là một hạn chế làm cho việc giải
quyết vụ án gặp khó khăn.
Thứ tư, trong quá trình giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm cố ý gây
thương tích, CQĐT Công an quận Hoàng Mai đã không thể ra quyết định khởi tố
vụ án vì chưa có yêu cầu khởi tố của bị hại, cũng không thể ra quyết định không
khởi tố vụ án vì không có căn cứ theo quy định của BLTTHS. Điều 155
BLTTHS không quy định thời hạn bị hại được quyền yêu cầu khởi tố, như vậy
trên thực tế bị hại hoặc người đại diện của bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án
bất cứ lúc nào mà không bị giới hạn về mặt thời gian. Trong khi thời hạn tố tụng
47
để giải quyết vụ án đối với các cơ quan tiến hành tố tụng luôn bị giới hạn chặt
chẽ về mặt thời gian. Đây là một khó khăn ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các
cơ quan có thẩn quyền tiến hành tố tụng.
Thứ năm, trong thực tiễn 05 năm giải quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu của
bị hại trên địa bàn quận Hoàng Mai đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc
trong nhận thức và áp dụng pháp luật như: (1) Khi vụ án có nhiều bị hại nhưng
chỉ có một bị hại yêu cầu hoặc vụ án có nhiều bị can, bị cáo nhưng bị hại chỉ rút
yêu cầu đối với một bị can, bị cáo thì CQTHTT sẽ xử lý như thế nào; (2) khi có
sự mâu thuẫn trong việc yêu cầu khởi tố VAHS giữa bị hại là người dưới 18 tuổi
(không có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất) với người đại diện của họ thì
CQTHTT sẽ theo ý kiến của ai; (3) trong trường hợp bị hại là người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất, nhưng không có hoặc không xác định được
người đại diện thì CQTHTT sẽ giải quyết như thế nào.
Ví dụ: Khoảng 01 giờ ngày 30/5/2018, Nguyễn Văn A đang điều khiển xe
máy từ thành phố B đến huyện K, tỉnh ĐL. Khi đến gần khu vực ngã ba đường
trong thành phố B, tỉnh ĐL, A nhìn thấy chị Đỗ Thị D đang điều khiển xe máy đi
ngược chiều. A điều khiển xe quay lại và yêu cầu chị D dừng xe để hỏi chuyện.
Chị D thấy người lạ nên không dừng, A đã ép xe, buộc chị D phải dừng lại. Sau
đó, A rút chìa khóa xe máy của D, rồi dọa, khống chế ép chị D đi bộ vào đường
phía trong khoảng 3-4 m, nơi không có người qua lại, không có ánh sáng. A
dùng búa đinh đem theo từ trước đe dọa và thực hiện hành vi giao cấu trái ý
muốn với chị D. Sau đó, A tiếp tục bắt chị D đi vào nhà nghỉ. A đưa chìa khóa
xe máy để chị D chạy xe chậm phía trước, còn A đi kèm theo phía sau, cách
khoảng 2-3 m và chỉ đường. A đe dọa, nếu dừng xe, quay đầu lại hay bỏ chạy sẽ
giết. Đến trước cổng bệnh viện tỉnh ĐL, A gửi xe máy của mình tại bãi gửi xe
của bệnh viện sau đó A chở chị D đến nhà nghỉ gần đó, khống chế và tiếp tục
thực hiện hành vi giao cấu với chị D 2 lần. Sáng ngày 31/5/2018, chị D làm đơn
tố cáo hành vi của A.
48
Ví dụ vụ án: Bùi S (sinh năm 19/8/1999, trú tại phường Tân Mai, quận
Hoàng Mai, Hà Nội) là người yêu của em Đỗ Thị H (sinh năm 20/01/2003), cùng
nơi thường trú. Trong quá trình yêu nhau, từ cuối năm 2017 đến đầu tháng 3 năm
2018, Bùi S và em Đỗ Thị H đã cùng nhau quan hệ tình dục rất nhiều lần. Theo
lời khai của em H, có những lần em tự nguyện, có lần em bị S ép do say rượu, do
về khuya, do đi xa… Ngày 04/3/2018, gia đình chị H phát hiện sự việc đã làm
đơn trình báo đến CQĐT Công an quận Hoàng Mai, yêu cầu khởi tố vụ án.
Nhưng em Đỗ Thị H không yêu cầu khởi tố, và không hợp tác khi CQĐT tiến
hành điều tra, xác minh.
Thứ sáu, nhận thức của những người tiến hành tố tụng tại ba cơ quan tiến
hành tố tụng trên địa bàn quận Hoàng Mai hoặc bị hại và người đại diện của họ
có phần còn hạn chế. Có những người tiến hành tố tụng nghiên cứu không kỹ
quy định về khởi tố theo yêu cầu của bị hại dẫn đến việc giải quyết các vụ án
chưa chính xác như trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, người
tiến hành tố tụng chưa giải thích cho bị hại hiểu quyền và nghĩa vụ của mình
trong việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, chưa hướng dẫn, yêu
cầu bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày ý kiến nêu rõ quan điểm có yêu
cầu khởi tố vụ án hay không, chưa đánh giá, xem xét hết mọi khía cạnh việc yêu
cầu khởi tố hay rút yêu cầu khởi tố có phải là ý chí của bị hại hay không, có sự
đe dọa, cưỡng ép mua chuộc nhằm trốn tránh pháp luật hay không…
Thực tế, đã có trường hợp bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự đối
với 01 bị can trong vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại có nhiều bị can, cơ
quan có thẩm quyền xác định rút yêu cầu khởi tố đối với bị can đó và thực hiện
thủ tục đình chỉ điều tra bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can đó, trong khi vẫn
tiếp tục tiến hành các thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự các bị can
khác. Cách xác định như trên là không chính xác bởi theo lý luận khoa học hình
sự và quy định của BLTTHS 2015, bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án trong
những trường hợp nhất định, sau đó vụ án sẽ được giải quyết theo thủ tục chung
mà không phụ thuộc yêu cầu của bị hại. Bị hại và người đại diện không có quyền
49
yêu cầu khởi tố bị can trong vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại, thầm quyền
khởi tố bị can, đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can, bị
cáo thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng khi có căn cứ theo quy định.
2.3.3. Những nguyên nhân cơ bản
* Nguyên nhân về mặt pháp luật: Nhìn chung những quy định về khởi tố
vụ án theo yêu cầu của bị hại của BLTTHS 2015 đã có nhiều điểm mới tiến bộ
hơn, hoàn thiện hơn so với các quy định trong BLTTHS 2003. Chế định khởi tố
vụ án theo yêu cầu của bị hại đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền
con người, quyền công dân và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong
tình hình mới. Tuy nhiên, qua nghiên cứu quy định của pháp luật và thực tiễn
đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn quận Hoàng Mai cho thấy quy định
về vấn đề này vẫn còn nhiều điểm tồn tại, hạn chế như các vấn đề về chủ thể
thực hiện quyền, phạm vi yêu cầu khởi tố, thời điểm rút yêu cầu khởi tố, hậu quả
pháp lý của việc thực hiện khởi tố hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, quyền
và nghĩa vụ của bị hại… Chính sự hạn chế trong quy định pháp luật đã khiến cho
việc áp dụng và thi hành pháp luật trên thực tế đạt hiệu quả chưa cao.
* Nguyên nhân khác: Nguyên nhân từ sự thiếu thống nhất trong nhận thức
pháp luật. Những tồn tại hạn chế trong quy dịnh pháp luật về khởi tố vụ án theo
yêu cầu bị hại như phân tích ở trên là do quy định trong PLTTHS còn chưa thật
hoàn thiện, còn nhiều kẽ hở chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Các quy định
còn khá chung chung dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau nên việc áp
dụng pháp luật trong hoạt động này chưa thống nhất, nên trong thực tế việc hiểu
và áp dụng pháp luật giữa cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có
vụ có nơi chưa thống nhất. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đa số người tiến
hành tố tụng còn nhiều hạn chế.
Sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
trên địa bạn quận Hoàng Mai chưa thật sự chặt chẽ và hiệu quả. Quan điểm của
các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án nhất là đối với
những vụ án lớn, phức tạp còn chưa thống nhất.
50
Bên cạnh đó, rất nhiều vụ án thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu bị hại
mà bị hại không hợp tác với CQTHTT, không đi giám định, hoặc khi có kết quả
giám định thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu bị hại nhưng bị hại cố tình
không yêu cầu ngay... gây khó khăn cho công tác điều tra. Quy định trong
BLTTHS 2015 về dẫn giải bị hại còn khó áp dụng trên thực tế. Bên cạnh đó, do
các tội thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại là các tội xâm hại sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm nên nếu bị hại không chủ động trình báo thì cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng rất khó phát hiện. Vì vậy có trường hợp bị hại
không trình báo do sự mất danh dự, nhân phẩm hoặc bị trả thù hoặc trường hợp
bị hại dựa vào quyền được yêu cầu khởi tố để uy hiếp người phạm tội… Ngoài
ra, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên địa bàn quận Hoàng Mai về
những nội dung liên quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại chưa được sâu rộng
mạnh mẽ. Cơ sở vật chất còn yếu kém chưa phục vụ đắc lực cho yêu cầu chức
năng, nhiệm vụ trong tình hình mới…
51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Thông qua Chương 2 của Luận văn, từ lịch sự hình thành của những quy
định của pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại trong PLTTHS Việt Nam,
có thể thấy chế định này đã xuất hiện từ rất sớm nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội
lúc bây giờ của Nhà nước ta. Đồng thời, tác giả phân tích các quy định của
BLTTHS hiện hành về chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại và
thực tiễn áp dụng tại quận Hoàng Mai. Qua từng giai đoạn, chế định này ngày
càng được quy định chặt chẽ hơn nhưng cũng không thể tránh khỏi những hạn
chế nhất định.
Thực tiễn áp dụng chế định đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, nghiên cứu thực tiễn, bên cạnh những kết quả ấy thì vẫn tồn tại vài
hạn chế, cũng còn một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện
quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại vào thực tiễn. Những bất cập, những
điểm chưa phù hợp, chưa đầy đủ dẫn tới việc hiểu và áp dụng các quy định pháp
luật không rõ ràng, chưa thật sự hiệu quả, như bất cập về chủ thể thực hiện
quyền, thời điểm rút yêu cầu khởi tố, hậu quả pháp lý của việc thực hiện khởi tố
hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, quyền và nghĩa vụ của bị hại so với
trường hợp thông thường...
Tác giả tìm ra, đánh giá nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn, vướng
mắc dưới nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó có từ sự bất cập trong quy định
pháp luật, từ nhận thức của các chủ thể tiến hành tố tụng và của chính bị hại….
Kết quả nghiên cứu và phân tích tại Chương 2 nêu trên tạo tiền đều cho việc đưa
ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật, và giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng
quy định tại Chương 3.
52
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM ÁP
DỤNG QUY ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
3.1. Cơ sở hoàn thiện các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị
hại
Để thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam thì việc xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp
trong sạch, dân chủ, văn minh; bảo đảm tính khả thi, hoàn thiện của các quy định
pháp luật, hướng đến mục tiêu bảo vệ tốt nhất công lý, quyền con người, quyền
công dân là yêu cầu quan trọng, cấp bách. Có thể nói việc hoàn thiện chế định
pháp luật nói chung hay hoàn thiện các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị
hại nói riêng đòi hỏi một quá trình và một thời gian đủ dài. Trên thực tế, một quy
định của pháp luật phải được kiểm nghiệm trên thực tiễn thì mới có thể khẳng
định quy định pháp luật đó có đang phát huy hiệu quả hay không. Tuy nhiên, phụ
thuộc vào các yếu tố như lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội, tình hình phát triển
kinh tế của quốc gia mà việc hoàn thiện một thể chế pháp luật nào đó cần phải
đáp ứng những yêu cầu nhất định. Đối với các vụ án hình sự khởi tố theo yêu cầu
bị hại, trong một số trường hợp, bị hại đã yêu cầu khởi tố có quyền yêu cầu rút
yêu cầu khởi tố trước đó. Tuy nhiên, chế định này đang có một số vướng mắc,
bất cập do BLTTHS 2015 chưa quy định cụ thể. Hiện nay luật chưa có quy định
hoặc quy định chưa rõ ràng nhưng chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn kịp thời
để giúp các CQTHTT tháo gỡ vướng mắc và áp dụng một cách thống nhất.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu và đề ra giải pháp hoàn thiện trong các trường hợp
nêu trên là điều cần thiết. Cơ sở hoàn thiện quy định về khởi tố vụ án theo yêu
cầu bị hại cụ thể như sau:
Thứ nhất, tình hình phát triển kinh tế xã hội, và sự phát triển của các tư
tưởng dân chủ, tiến bộ là yếu tố chủ yếu, quyết định và chi phối đến nhu cầu
điều chỉnh pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại theo hướng
53
tiến bộ. Kinh tế, xã hội dưới góc độ quan điểm chủ nghĩa Mác Lê-nin là cơ sở hạ
tầng, quyết định và chi phối đến sự phát triển của kiến trúc thượng tầng là nhà
nước và pháp luật. Có thể nói, mọi sự biến đổi của cơ cấu kinh tế xã hội, quá
trình biến đổi của chúng sẽ trở thành các đồi hỏi cấp thiết mang tính nhu cầu
buộc pháp luật phải ghi nhận và có sự thích ứng phù hợp để theo kịp sự biến đổi
đó. Theo đó, khi đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam đang có nhiều sự thay
đổi diện mạo mới về chất, nhu cầu điều chỉnh pháp luật theo hướng đa dạng hóa
các mục đích bảo vệ, hướng đến sự hài hòa các lợi ích trở nên cấp thiết, điều
chỉnh pháp luật phải tính đến nhiều biện pháp tác động để đạt mục tiêu đề ra.
Việc gia nhập sâu rộng và toàn diện của Việt Nam vào đời sống quốc tế đòi hỏi
PLTTHS cũng phải đảm bảo hài hòa tương thích với pháp luật khu vực và thế
giới. Trong đó, với xu thế đề cao các giá trị nhân quyền, pháp luật về quyền con
người ngày càng được nâng cao, trong đó quyền và lợi ích của con người luôn
được chú trọng, ghi nhận và bảo đảm trong pháp luật của các quốc gia để đạt
được mục tiêu tố tụng cao nhất.
Thứ hai, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước về quyền của bị hại
trong tiến trình tố tụng. Chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là cơ sở
trực tiếp quyết định hình thành đường hướng các biện pháp chính sách hình sự.
Trong quá trình xây dựng chế định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị
hại các nhà làm luật phải dựa trên chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta
để hoàn thiện các quy phạm pháp luật và đảm bảo tính tương thích của các quy
phạm cụ thể với các nguyên tắc PLTTHS nói chung. Có thể nói, chính sách hình
sự của nhà nước ta thời gian qua mang tính cởi mở, dân chủ và khả thi, thể hiện
sâu sắc quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền
con người, quyền công dân, bổ sung nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ. Với tính
chất là nhà nước của dân, do dân, vì dân thì đương nhiên bản chất của nền Tư
pháp mà chúng ta hướng tới là nền tư pháp thể hiện được bản chất của dân, do
dân, vì dân. Tư pháp vì dân đòi hỏi phải đưa lợi ích của dân lên hàng đầu, mọi
mục tiêu đều hướng tới bảo vệ tốt nhất quyền con người, quyền công dân và đó
54
cũng chính là mục tiêu trung tâm của mọi cuộc cải cách trong hệ thống tư pháp.
Tư pháp do dân đòi hỏi cơ chế hoạt động của các cơ quan nhà nước vận hành,
hoạt động những vẫn đảm bảo sự tham gia và kiểm tra, giám sát của nhân dân.
Đồng thời, cơ quan Tư pháp nhải là công cụ bảo vệ Nhà nước và công dân, bảo
đảm mọi hành vi làm hại đến quyền và lợi ích tinh thần, vật chất của người khác,
của Nhà nước đều bị xử lý công bằng, nghiêm minh, đúng pháp luật. Việc xây
dựng quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại cũng cần đáp ứng các yêu cầu
cụ thể mà các Nghị quyết của Đảng của Quốc Hội đã đề ra.
Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu bảo vệ pháp luật, bảo vệ nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa và yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm. PLTTHS quy định việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại nhưng không
phải lợi ích bị hại cao sẽ cao hơn lợi ích chung của xã hội. Các trường hợp được
khởi tố theo yêu cầu bị hại chỉ được áp dụng đối với hành vi có mức độ nguy
hiểm cho xã hội là không lớn, chủ yếu thuộc nhóm tội xâm phạm sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm và một số quyền nhân thân của con người. Có thể nói, quy định
khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại luôn đòi hỏi phải có sự kết hợp hài hoà
giữa lợi ích chung của xã hội và lợi ích riêng của bị hại.
Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền con người trong TTHS. Việc
nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại vừa hướng đến đạt
mục tiêu ổn định xã hội, vừa bảo vệ và thỏa mãn lợi ích của bị hại, phù hợp với
các công ước quốc tế về quyền con người.
Thứ năm, yêu cầu của hội nhập quốc tế. Trong giai đoạn hội nhập sâu
rộng, không một hệ thống pháp luật nào có thể phát triển trong sự khép kín biệt
lập riêng nó. Vì vậy, việc hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả
giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại phải đặt trong sự tiếp
thu và học hỏi các tinh hoa từ quy định của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên
quá trình tiếp thu và học hỏi nên có sự chọn lọc, cân nhắc với thực tiễn pháp lý
và truyền thống thuần phong mỹ tục của dân tộc cũng như phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh Việt Nam.
55
Tất cả những yếu tố nêu trên là những nhân tô chi phối đến việc điều
chỉnh pháp luật TTHS nói chung và pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của
bị hại nói riêng ở nước ta hiện nay.
3.2. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu
của bị hại
Qua phân tích nêu trên, cho thấy quy định của BLTTHS 2015 về khởi tố
VAHS theo yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại khi áp dụng vào
thực tiễn vẫn còn phát sinh một số khó khăn, vướng mắc. Từ đó, dẫn đến việc áp
dụng của các CQTHTT không có sự thống nhất, phụ thuộc vào sự nhận thức
pháp luật và ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng. Vì vậy, trước hết Bộ
Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp
cần sớm ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn để các CQTHTT áp dụng một
cách thống nhất, nhằm đảm bảo tốt hơn quyền lợi của bị can, bị cáo trong TTHS.
Và trong tương lai, khi BLTTHS 2015 sửa đổi, bổ sung cần bổ sung các nội dung
như các kiến nghị nêu trên để BLTTHS được hoàn thiện hơn.
Thứ nhất, về chủ thể yêu cầu khởi tố là người đại diện hợp pháp của bị
hại. Theo quy định tại Điều 155 BLTTHS bị hại là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người đại diện của họ thực hiện
quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Vậy trong trường hợp không xác định được
người đại diện của người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất, thì ai sẽ đại diện để thực hiện quyền yêu cầu?. Đây là vấn đề cần
có hướng dẫn của các cơ quan tư pháp để đảm bảo hiệu quả giải quyết các vụ án
có liên quan được thống nhất, đúng pháp luật.
Thứ hai, chưa có hướng dẫn đối với trường hợp có nhiều người là đại diện
cho bị hại (cha mẹ đối với con chưa thành niên....) trong vụ án đã khởi tố theo
yêu cầu của bị hại, sau khi khởi tố họ có yêu cầu khác nhau đối lập nhau (người
yêu cầu rút, người vẫn giữ ý kiến đề nghị khởi tố) hiện chưa có căn cứ pháp luật
để CQTHTT giải quyết theo yêu cầu của ai trong vụ án. PLTTHS hiện hành cũng
chưa có hướng dẫn đối với trường hợp bị hại là người chưa thành niên đại diện
56
của họ đã có yêu cầu khởi tố vụ án, trong quá trình tố tụng với vụ án người bị hại
đã thành niên.
Thứ ba, hiện nay chưa có quy định nào về một văn bản pháp lý nào có
chức năng xác định bị hại hoặc đại diện củabị hại trong vụ vụ. Mặc dù các văn
bản như: biên bản tiếp nhận tin báo, đơn trình báo, biên bản ghi lời khai, các
giấy triệu tập, giấy gọi, giấy báo... có ghi nhận tư cách tham gia tố tụng, tuy
nhiên nếu chỉ dựa vào tư cách mà họ được người tiến hành tố tụng ghi trong các
biên bản hoạt động tố tụng này dễ xuất hiện trường hợp không chính xác và tùy
tiện vì hồ sơ được lập ở nhiều giai đoạn khác nhau, do các chủ thể khác nhau
thực hiện. Vì thế để xác định một người hay một cơ quan, tổ chức nào đó có tư
cách bị hại trong vụ án để đảm bảo quyền lợi cho họ là khó khăn. Vì thế,
BLTTHS hiện nay cần khắc phục bằng việc thể chế hóa một quyết định tố tụng
chính thức công nhận tư cách bị hại trong vụ án.
Thứ tư, PLTTHS cũng chưa có quy định về hình thức yêu cầu khởi tố mặc
dù đây là một trong những tài liệu quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng
nhất mà thiếu nó hoặc không có nó thì không thể xử lý vụ án được. Trong trường
hợp nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau trong việc xác định
đơn tố cáo có phải là yêu cầu khởi tố hay không việc giải quyết vụ án gặp khó
khăn, phức tạp, hậu quả sẽ dẫn đến tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc hủy
án.
Thứ năm, việc hiểu và vận dụng khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015 còn
nhiều bất cập trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút đơn
yêu cầu tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bởi BLTTHS 2015 chưa quy định cụ
thể, rõ ràng. Để giải quyết vấn đề trên, TANDTC đã ban hành Công văn số
254/TANDTC-PC (Công văn số 254) ngày 26/11/2018 để hướng dẫn áp dụng về
việc người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu theo quy định tại Điều
155 BLTTHS 2015. Với hướng dẫn này, cần trao đổi các vấn đề như sau:
Một là, theo khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015, trong trường hợp người đã
yêu cầu khởi tố vụ án mà rút yêu cầu thì phải đình chỉ vụ án. Tuy nhiên, ở giai
57
đoạn phúc thẩm thì không thể đình chỉ khi đã có bản án sơ thẩm theo yêu cầu của
bị hại, nay nếu đình chỉ vụ án thì không thể giải quyết yêu cầu của bị hại về việc
rút yêu cầu khởi tố vụ án. Chính vì thế, cần phải tiến hành phiên tòa xét xử theo
thủ tục phúc thẩm mặc dù có yêu cầu rút yêu cầu khởi tố.
Hai là, với hướng dẫn nếu người đã yêu cầu khởi tố vụ án rút yêu cầu tại
giai đoạn xét xử phúc thẩm “… thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359
của BLTTHS hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án” là chưa phù hợp, vì các điều
luật về hủy án sơ thẩm như Điều 358 (hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét
xử lại) và Điều 359 BLTTHS 2015 (hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án) đều
không thỏa mãn đối với trường hợp này, bởi lẽ:
+ Điều 358 BLTTHS 2015 quy định việc hủy bản án sơ thẩm để điều tra
lại hoặc xét xử lại do có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm đã bỏ lọt tội phạm, người
phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên; có việc vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng…
+ Điều 359 BLTTHS 2015 quy định việc hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ
vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 157
BLTTHS 2015 (tức là không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành
tội phạm) thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không
có tội và đình chỉ vụ án. Khi có một trong các căn cứ quy định tại các khoản 3, 4,
5, 6 và 7 Điều 157 thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình
chỉ vụ án. Bên cạnh đó, Điều 359 không liệt kê khoản 8 Điều 157 làm căn cứ để
Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án (tội phạm quy
định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226
BLHS năm 2015 mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi
tố).
Nếu bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm mà vụ án bị
đình chỉ và bản án sơ thẩm bị hủy thì các vấn đề còn lại như trách nhiệm dân sự,
xử lý tang vật sẽ giải quyết như thế nào?
58
Ba là, việc TANDTC ban hành Công văn số 254 để hướng dẫn áp dụng
pháp luật là không đúng quy định tại Điều 21 Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015 và Luật tổ chức TAND năm 2015.
Như vậy, để có thể áp dụng chính xác, thống nhất và đúng quy định của
BLTTHS 2015, Luật tổ chức TAND năm 2015, Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015, thì Hội đồng Thẩm phán TANDTC cần sớm ban hành Nghị
quyết hướng dẫn việc thực hiện quy định tại khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015;
đồng thời, đối với trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử
phúc thẩm, người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét
xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa theo thủ tục rút gọn xem đây là tình tiết
mới và áp dụng Điều 357 BLTTHS 2015 để sửa bản án sơ thẩm theo hướng miễn
trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo do thỏa mãn các quy định tại
khoản 3 Điều 29 hoặc Điều 59 BLHS năm 2015. Với việc tuyên sửa bản án sơ
thẩm về hình phạt thì các phần khác của bản án sơ thẩm vẫn được giữ nguyên
hiệu lực để thi hành thì mới xem là giải quyết được toàn bộ các vấn đề của vụ án.
Theo đó cần sửa đổi cụ thể các nội dung như sau:
Thứ nhất, cần bổ sung tên của Điều 155 BLTTHS 2015 theo hướng: “Khởi
tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, người đại diện của bị hại”. Việc bổ sung
cụm từ “người đại diện của bị hại” sẽ thống nhất giữa tên điều luật với nội dung
của điều luật về chủ thể có quyền yêu cầu, rút yêu cầu khởi tố VAHS không chỉ
có bị hại mà còn có người đại diện của họ trong một số trường hợp nhất định.
Thứ hai, cần ban hành văn bản hướng dẫn đối với trường hợp vụ án khởi
tố theo yêu cầu của bị hại, trong vụ án lại có nhiều bị can, bị cáo; tuy nhiên bị
hại chỉ thực hiện việc rút yêu cầu khởi tố đối với một hoặc một số bị can, bị cáo
mà không rút yêu cầu khởi tố vụ án. Trong trường hợp này việc ra quyết định
đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo là trái quy định của pháp
luật. Nếu bị hại và bị can, bị cáo tự nguyện hòa giải với nhau, bị can, bị cáo đã
tự nguyện, thiệ chí trong việc bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả do tội
phạm mình gây ra (trong trường hợp bị can, bị cáo thực hiện tội phạm ít nghiêm
59
trọng); sau đó đi đến thống nhất quan điểm thì bị hại có thể làm đơn đề nghị
miễn TNHS. Trên cơ sở đề nghị miễn trách nhiệm hình sự của bị hại của bị hại
CQTHTT căn cứ khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 có thể miễn TNHS, đình chỉ
điều tra, đình chỉ vụ án. Quy định này thể hiện sự mềm dẻo và nhân đạo của
pháp luật hình sự Việt Nam.
Thứ ba, khi vụ án có nhiều bị hại nhưng chỉ có một người yêu cầu khởi tố
VAHS, thì CQTHTT sẽ xử lý như thế nào. Theo quan điểm của tác giả, khi vụ án
có nhiều bị hại mà chỉ có một người yêu cầu, thì phải dựa trên nguyên tắc có lợi
cho bị can, bị cáo để xác định người yêu cầu mới là bị hại và CQTHTT sẽ giải
thích quyền lợi cho người không yêu cầu, đồng thời tiến hành lập biên bản và ghi
rõ lý do không yêu cầu và nếu họ có yêu cầu bồi thường thì đưa họ vào tham gia
tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự. Trong trường hợp vụ án có nhiều bị
can, bị cáo nhưng bị hại chỉ rút yêu cầu đối với một bị can, bị cáo thì CQTHTT
sẽ xử lý như thế nào. Trường hợp này CQTHTT đình chỉ vụ án đối với bị can, bị
cáo mà bị hại rút yêu cầu là phù hợp với quy định tại Điều 230 (đình chỉ điều
tra), Điều 248 (đình chỉ vụ án) và Điều 282 (đình chỉ vụ án) BLTTHS 2015.
Thứ tư, khi có sự mâu thuẫn trong việc yêu cầu khởi tố VAHS giữa bị hại
là người dưới 18 tuổi (không có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất) với
người đại diện của họ thì CQTHTT sẽ theo ý kiến của ai? Mặc dù người dưới 18
tuổi tuy không có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì khả năng nhận thức
của họ vẫn còn trong giai đoạn đang được hoàn thiện nên cần phải có người đại
diện là phù hợp. Tuy nhiên, nếu so với độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì tuổi
chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ là từ đủ 16 tuổi trở lên. Như vậy, các nhà làm
luật đã phân tích, đánh giá rất kỹ về khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của
người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội dù ở mức độ ít nghiêm trọng, và đã tham khảo kinh nghiệm của các nước
trên thế giới trước khi đưa ra quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ.
Do đó, tác giả cho rằng trong trường hợp nêu trên cần hướng dẫn theo hướng:
“Nếu có sự mâu thuẫn trong việc yêu cầu khởi tố VAHS giữa bị hại là người
60
dưới 18 tuổi (không có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất) với người đại
diện của họ thì CQTHTT sẽ theo ý kiến của người đại diện của bị hại nếu bị hại
dưới 16 tuổi và theo ý kiến của bị hại nếu bị hại từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi”.
Thứ năm, trường hợp bị hại là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể
chất, nhưng không có hoặc không xác định được người đại diện thì CQTHTT sẽ
giải quyết như thế nào? Tham khảo quy định của BLTTHS Liên Bang Nga có thể
thấy: Nếu hành vi phạm tội xâm hại đến bị hại đang ở trong tình trạng bị lệ thuộc
hoặc do những nguyên nhân khác mà người đó không có khả năng tự mình sử
dụng các quyền của mình thì mặc dù bị hại không có yêu cầu nhưng Kiểm sát
viên cũng như Dự thẩm viên hoặc Điều tra viên (sau khi có sự đồng ý của Kiểm
sát viên) cũng có quyền khởi tố VAHS. Thực tiễn còn cho thấy, cha hoặc mẹ gây
thương tích cho con là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất thì người còn lại thường sẽ là người đại diện cho bị hại và hầu như
không có yêu cầu khởi tố xảy ra trong trường hợp này. Tùy thuộc vào từng
trường hợp cụ thể để xem người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi
là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất và phải có kết luận giám định
pháp y tâm thần của cơ quan chuyên môn có thẩm quyền. Bởi vì, một người có
thể được đặt vào tình trạng có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là
người không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất
năng lực hành vi dân sự. Đó có thể là tình trạng giảm sút trí nhớ, khả năng diễn
đạt ý chí do tuổi tác, bệnh tật, tai nạn; đó cũng có thể là tình trạng khuyết tật về
thể chất, ví dụ như câm, điếc… dẫn đến sự khó khăn trong việc hoàn thiện khả
năng nhận thức thứ. Do đó, cần bổ sung thêm quy định về trường hợp này như
sau: “Bị hại là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc do những
nguyên nhân khác mà người đó không có khả năng tự mình sử dụng các quyền
của mình, mà không có hoặc không xác định được người đại diện thì mặc dù bị
hại không có yêu cầu nhưng Kiểm sát viên hoặc Điều tra viên (với sự đồng ý của
Kiểm sát viên) cũng có quyền khởi tố VAHS mà không cần yêu cầu khởi tố của bị
hại”.
61
Thứ sáu, bổ sung quy định nhằm giải quyết trường hợp có sự thay đổi
quyết định khởi tố vụ án về tội danh, điều khoản BLHS cần áp dụng liên quan
đến quyền yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại.
- Về xử lý trong trường hợp quá trình điều tra tội phạm và điều khoản
BLHS có sự thay đổi liên quan đến trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị
hại:
+ Đối với trường hợp khi quyết định khởi tố, cơ quan có thẩm quyền xác
định loại tội phạm khởi tố là tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng nhưng qua điều tra, nhận thấy loại tội phạm chính xác chỉ là
tội phạm ít nghiêm trọng và thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại
theo quy định của BLTTHS: Trường hợp này cần xuất phát từ bản chất quy định
về khởi tố theo yêu cầu của bị hại và mục tiêu của quy định này. Bản chất quyền
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là quyền yêu cầu xử lý đối với sự việc phạm tội.
Với các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại, Nhà nước "ưu tiên" cho
quyền của bị hại để bị hại lựa chọn phương thức giải quyết phù hợp nhất cho
mình. Vì vậy, nếu qua điều tra cho thấy hành vi phạm tội thuộc các loại tội mà
BLTTHS quy định khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại nên được hỏi ý kiến
về việc có đề nghị tiếp tục giải quyết vụ án hay không, trường hợp bị hại đề nghị
không tiếp tục giải quyết vụ án (đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án) thì cơ quan có
thẩm quyền sẽ đình chỉ vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại theo yêu cầu
của họ.
+ Đối với trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại nhưng
trong quá trình điều tra, truy tố thấy rằng tội danh, điều khoản BLHS cần áp
dụng không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại cần được
thông báo về điều này và vụ án được tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung, việc
bị hại "rút yêu cầu" trong trường hợp này không phải là căn cứ để đình chỉ vụ án.
Như vậy, cần bổ sung vào Điều 155 BLTTHS về khởi tố vụ án theo yêu cầu của
bị hại nội dung như sau:
“Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
62
…3. Trong quá trình điều tra, truy tố vụ án theo thủ tục tố tụng chung, xét
thấy có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, CQĐT, VKS ra quyết định thay
đổi quyết định khởi tố vụ án và thông báo cho người bị hại biết quyền yêu cầu
tiếp tục xử lý vụ án hoặc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án. Trong thời hạn 03
ngày kể từ khi nhận được thông báo, bị hại phải gửi đơn yêu cầu tiếp tục xử lý
vụ án hoặc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án tới CQĐT hoặc VKS.
4. Trong trường hợp vụ án đã được khởi tố theo yêu cầu của bị hại nhưng
qua quá trình điều tra, truy tố, xét thấy không còn căn cứ khởi tố vụ án theo yêu
cầu của bị hại, CQĐT, VKS phải ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án
và thông báo cho người bị buộc tội, bị hại biết về việc vụ án sẽ được giải quyết
theo thủ tục chung."
Đồng thời, bổ sung vào khoản 1 Điều 230, khoản 1 Điều 240 căn cứ đình
chỉ điều tra, đình chỉ vụ án khi "bị hại thuộc trường hợp quy định tại khoản 3
Điều 155 BLTTHS yêu cầu đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án." [16, tr. 137-140]
Thứ tám, bổ sung quy định về quyền của bị hại đối với những vụ án khởi
tố theo yêu cầu bị hại. BLTTHS 2015 quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại
như trường hợp bị hại trong vụ án thông thường là chưa hợp lý, thiếu những quy
định bảo đảm cho bị hại tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để thực hiện và
bảo vệ yêu cầu khởi tố của họ, đặc biệt những quyền hạn gắn với yêu cầu khởi tố
của họ như: Thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án; Đề nghị
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung,
giám định lại, định giá lại tài sản; Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong
hồ sơ vụ án liên quan đến luận tội tại phiên tòa từ khi kết thúc điều tra. Quy định
này nhằm bảo đảm cho bị hại đảm bảo được quyền lợi đối với vụ án khởi tố theo
yêu cầu bị hại.
Thứ chín, cần có hướng dẫn về nghĩa vụ phải chịu án phí trong trường hợp
người yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là người đại diện hợp pháp của bị hại, yêu
cầu khởi tố sau đó lại rút yêu cầu khởi tố thì vụ án được đình chỉ và người đại
diện hợp pháp phải chịu án phí.
63
Thứ mười, cần bổ sung thêm căn cứ để hủy bản án vào quy đinh tại Điều
359 là “Khi người yêu cầu khởi tố tự nguyện rút lại yêu cầu khởi tố”, để việc áp
dụng pháp luật có căn cứ và thống nhất trong toàn quốc.
Thứ mười một, Trong TTHS có một thực tế chứng minh ngoài các quyết
định tố tụng trong vụ án thủ các giấy triệu tập, giấy gọi, giấy bảo... đều không là
thành phần hồ sơ vụ án nên không được đưa vào hồ sơ. Mặt khác nếu dựa vào tư
cách mà họ được người tiến hành tố tụng ghi trong các biên bản hoạt động tố
tụng nhiều khi không chính xác và tùy tiện vì thành phần hồ sơ được lập ở nhiều
giai đoạn và chủ thể khác nhau như biên bản phạm pháp quả tang, biên bản hiện
trường. Do vậy để xác định người bị hại có tư cách trong vụ án chính thức từ khi
nào là khó khăn, Trong vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì xác định
đúng người bị hại hoặc đại diện của họ là cơ sở pháp lý để đánh giá việc khởi tố
vụ án hình sự có căn cứ hay không. Vì vậy, phải coi văn bản pháp lý nào ghi
nhận quyền yêu cầu của người bị hại (như biên bản tiếp nhận tin báo, đơn trình
báo, biên bản ghi lời khai...) là cơ sở để xác định họ là người bị hại hoặc đại diện
của người bị hại trong vụ án. Như đã phân tích thẩm quyền để công nhận người
bị hại là rất đa dạng và không có tính ràng buộc cao, nên cơ sở để xác định chính
xác ai là người bị hại trong vụ án chính là việc đánh giá chứng cứ toàn bộ vụ án
để xác định chính thức. Hiện nay việc xác định chính xác ai là người bị hại trong
vụ án chưa có tính pháp lý, chủ yếu dựa trên nguyên tắc đồng thuận” giữa CQĐT
và viện kiểm sát, đây chính là hạn chế của BLTTHS hiện nay cần khắc phục
bằng việc thể chế hóa một quyết định tố tụng công nhận người bị hại trong vụ án.
Thứ mười hai, về thời hạn bị hại hoặc người đại diện của bị hại được
quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự: Việc bị hại hoặc người đại diện của họ có
quyền yêu cầu khởi tố VAHS trong thời hạn bao lâu và nếu hết thời hạn đó thì họ
sẽ mất quyền yêu cầu thì Điều 155 BLTTHS 2015 không có đề cập đến. Có quan
điểm cho rằng, do BLTTHS không quy định thời hạn bị hại được quyền yêu cầu
khởi tố, nghĩa là về nguyên tắc họ có quyền yêu cầu khởi tố bất cứ lúc nào, hoàn
toàn không bị giới hạn về mặt thời gian [8, tr. 83]. Theo quy định của BLTTHS
64
2015 thì thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc về CQTHTT, nhưng
những cơ quan này chỉ được thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong
thời hạn nhất định theo quy định của BLHS. Theo đó, bị hại hoặc người đại diện
của bị hại cũng có quyền yêu cầu khởi tố VAHS nếu yêu cầu của họ còn trong
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, tức là đối với tội ít nghiêm trọng thì thời
hạn yêu cầu là 05 năm và tội nghiêm trọng thì thời hạn yêu cầu là 10 năm [9, tr.
66]. Vấn đề đặt ra là, vì một lý do nào đó mà bị hại hoặc người đại diện của họ
chưa yêu cầu khởi tố vụ án, nhưng sắp hết thời hạn họ mới có đơn yêu cầu, thì sẽ
quá thời hạn giải quyết tin báo, tố giác tội phạm dẫn đến vụ việc bị tồn đọng kéo
dài và gây khó khăn cho cơ quan điều tra trong việc thu thập chứng cứ để chứng
minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không, do chứng cứ bị biến dạng, thay đổi
theo thời gian, thậm chí có thể sẽ không còn. Chính vì chế định về khởi tố VAHS
theo yêu cầu của bị hại là một chế định đặc biệt, chỉ dành riêng cho một số tội
danh nhất định, nên cần quy định thời hạn yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện
của bị hại cụ thể trong điều luật theo hướng thu hẹp hơn so với thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự theo BLHS, với lý do: Để hạn chế trường hợp quá thời hạn
giải quyết tố giác, tin báo tội phạm do bị hại chậm yêu cầu khởi tố, cần đưa ra
quy định về thời hạn yêu cầu khởi tố vụ án để nhằm nâng cao trách nhiệm, ý
thức của bị hại trong việc cân nhắc yêu cầu khởi tố hay không khởi tố vụ án của
mình và tạo điều kiện thuận lợi cho CQTHTT trong quá trình giải quyết vụ án
[10, tr. 32]. Từ đó, có quan điểm cho rằng nên quy định thời hạn bị hại hoặc
người đại diện của bị hại được quyền yêu cầu khởi tố VAHS là 02 tháng, theo
thời hạn giải quyết tố giác, tin báo tội phạm [12, tr 34]. Ở các nước trên thế giới
đều quy định rất chặt chẽ về thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố. Chẳng hạn như: BLTTHS Liên bang Nga quy định thời hạn giải
quyết tố giác không quá 03 ngày, nếu xét thấy cần thiết có thể kéo dài nhưng
không quá 10 ngày; trường hợp đặc biệt theo yêu cầu của Dự thẩm viên, Kiểm
sát viên, Điều tra viên có thể gia hạn nhưng tối đa không quá 30 ngày.
65
3.3. Giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định về khởi tố vụ án theo yêu
cầu của bị hại
Trên thực tế, xuất phát từ nhiều nguyên nhân mà hiệu quả áp dụng các quy
định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại là chưa cao. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, nguyên nhân từ sự thiếu thống nhất trong nhận thức pháp luật.
Những tồn tại hạn chế trong quy dịnh pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị
hại như phân tích ở trên là do quy định trong PLTTHS còn chưa thật hoàn thiện,
còn nhiều kẽ hở chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Trong khi đó công tác
hướng dẫn pháp luật và áp dụng pháp luật của các cấp có thẩm quyền chậm ban
hành và chưa có sự thống nhất, đồng bộ cao. Các quy định pháp luật còn chưa rõ
ràng nên việc áp dụng pháp luật trong hoạt động này chưa đạt được hiệu quả cao.
Thứ hai, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm trong công
tác giỉa quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại của những người tiến hành tố
tụng còn hạn chế, chưa cao nên quá trình vận dụng các quy định pháp luật còn
nhiều thiếu sót.
Thứ ba, nguyên nhân từ sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
ở địa phương: Sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng chưa thật sự chặt chẽ và hiệu quả. Quan điểm giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng về đánh giá chứng cứ, xác định tội danh theo các quy định pháp luật hiện
hành và đường lối xử lý đối với từng loại tội phạm còn thiếu thống nhất.
Thứ tư, ý thức người tiến hành tố tụng chưa cao, trình độ không đồng đều,
chưa dành thời gian hợp lý cho việc nghiên cứu các văn bản pháp quy và hướng
dẫn về nghiệp vụ cho nên chưa có hiểu biết sâu rộng và thực tế để giải quyết vấn
đề.
Thứ năm, vụ án có liên quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại thường gặp
phải sự không hợp tác, không tích cực của bị hại với cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong số 10 tội danh khởi tố theo yêu cầu của bị hại trong BLTTHS 2015 thì có
đến 07 tội danh bắt buộc phải tiến hành giám định pháp y để có căn cứ xác định
tội danh và quyết định việc khởi tố vụ án hình sự. Các tội danh đó cụ thể là Tội
66
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1
Điều 134); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Khoản 1 Điều 135); Tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm
tội (Khoản 1 Điều 136); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác (Khoản 1 Điều 138); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành
chính (Khoản 1 Điều 139); Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141); Tội cưỡng dâm
(Khoản 1 Điều 143). Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà nhiều trường
hợp bị hại không hợp tác gây khó khăn cho công tác điều tra giải quyết vụ án.
Bên cạnh đó, do các tội thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại là các
tội xâm hại sức khỏe, danh dự, nhân phẩm nên nếu bị hại không chủ động trình
báo thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng rất khó phát hiện. Vì vậy có
trường hợp bị hại không trình báo do sự mất danh dự, nhân phẩm hoặc bị trả thù
hoặc trường hợp bị hại dựa vào quyền được yêu cầu khởi tố để uy hiếp người
phạm tội… Bên cạnh đó, việc chưa có đủ kiến thức pháp lý dẫn đến việc bị hại
nêu quan điểm chưa rõ ràng trong việc yêu cầu khởi tố hay không yêu cầu khởi
tố, rút yêu cầu khởi tố hay chỉ là xin giảm nhẹ trách nhiệm cho người phạm
tội…gây khó khăn cho các hoạt động giải quyết vụ án.
Thứ sáu, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về những nội dung liên
quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại trên địa bàn quận Hoàng Mai chưa thật sự
được quan tâm, đầu tư đúng mức. Nhiều hoạt động tuyên truyền chỉ mang tính
bề nổi, không sâu rộng mạnh mẽ, cách thức giáo dục pháp luật còn sơ sài, chung
chung, nhàm chán, chưa bám sát chương trình xây dựng luật… chưa thu hút
được sự quan tâm của đông đảo nhân dân.
Thứ bảy, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác còn yếu kém. Mặc dù thời
gian gần đây Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện chất
lượng phương tiện, cơ sở vật chất để các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng, tuy
67
nhiên, vấn đề này còn nhiều hạn chế và chưa thật sự phục vụ đắc lực cho yêu cầu
chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả mạnh dạn đề xuất một số
giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại để
đảm bảo tính sát sao với thực tế và hiệu quả. Cụ thể:
3.3.1. Nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo cơ
quan tư pháp các cấp
Nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo của lãnh đạo cơ quan tư pháp các cấp
cần chú ý là tốt các nhiệm vụ sau: Làm tốt công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành
việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của cấp dưới với tác phong sâu sát,
cụ thể, kịp thời và điều hành quyết liệt. Mỗi cán bộ quản lý, lãnh đạo cần phải
lựa chọn, phân công cán bộ phù hợp để giải quyết công việc, nêu cao tính tiền
phong gương mẫu và thực hiện làm gương trong nội bộ cơ quan, đơn vị mình.
Nêu cao tinh thần trách nhiệm trong các mặt công tác, hăng hái với công việc,
đồng thời sẵn sàng tiếp thu, sửa đổi các khiếm khuyết, vi phạm của bản thân
trong quá trình công tác. Mỗi người đứng đầu CQTHTT cần nghiêm túc kiểm
điểm, thường xuyên tổ chức kiểm tra, đánh giá, xem xét đến trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, năng lực thực tế của người tiến hành tố tụng để ra các quyết định
phân công cho phù hợp với khả năng chuyên môn nghiệp vụ, sở trường của mỗi
người, vừa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm trong tình hình mới. Cùng với đó, lãnh đạo các đơn vị cần tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát nội bộ, thực hiện tốt cơ chế và nội dung kiểm soát lẫn
nhau giữa các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án, luật sư… trong hoạt động
tư pháp.
3.3.2. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ
Công tác tổ chức cán bộ trong thời kì mới đòi hỏi phải đảm bảo hiệu quả,
tinh gọn, nhưng vẫn đáp ứng đầy đủ yêu cầu giải quyết các vụ án hình sự nói
chung và khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại nói riêng trong tình hình mới. Điều
này đồng thời cũng đặt ra cho các cán bộ tư pháp ý thức trách nhiệm, không
68
ngừng trau dồi học hỏi về chuyên môn và phẩm chất đạo đức, xây dựng bản thân
trở nên chủ động, trách nhiệm và bản lĩnh hơn để theo kịp đà phát triển của xã
hội. Có thể nói đây chính là đòi hỏi tất yếu khách quan về tổ chức, bộ máy, về
con người phải thật sự tinh gọn, hiệu quả. Theo đó mỗi cơ quan khác nhau cần
tăng cường công tác rà soát nội bộ đơn vị mình để kịp thời đề ra các kế hoạch
đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ cho phù hợp. Việc bố trí, sắp xếp, sử
dụng, điều động, chuyển đổi vị trí công tác một cách đúng đắn và phù hợp là
bước đệm quan trọng để phát huy khả năng của từng công chức; tạo bước đột
phá trong quá trình xây dựng nền Tư pháp trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong tinh hình mới.
Để nâng cao hiệu quả công tác khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại, trước hết
cần hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ và vai trò của CQĐT trong
mô hình TTHS nước ta. Trên cơ sở xác định rõ có trách nhiệm của CQĐT trong
việc cùng với VKS phát hiện tội phạm, đưa kẻ phạm tội ra trước TA để xét xử
cần tăng cường tính độc lập, chủ động của CQĐT bên cạnh sự chỉ đạo của công
tố như là một nguyên tắc bắt buộc trong TTHS. Trong quá trình tố tụng với vụ án
Kiểm sát viên không làm thay công việc của Điều tra viên mà đóng vai trò chỉ
đạo, hướng dẫn, kiểm tra và giám sát hoạt động điều tra, đảm bảo việc điều tra
được diễn ra đầy đủ, đúng quy định pháp luật. Do đó, về mặt tổ chức, cần chú ý
“Xây dựng hệ thống CQĐT độc lập, thống nhất từ trung ương đến địa phương,
dưới sự chỉ đạo của Chính phủ hoặc Quốc hội” [39, tr.135] nhằm khắc phục sự
phân tán, chồng chéo trong hoạt động của hệ thống CQĐT đồng thời tăng cường
tính độc lập của CQĐT và các chủ thể tố tụng thuộc CQĐT khi giải quyết vụ án
hình sự.
Tổ chức bộ máy, cán bộ ở VKSND các cấp cần tiếp tục chú trọng hoàn
thiện theo hướng VKS các cấp dưới tổ chức thực hiện có hiệu quả, tập trung đào
tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trong đó có những vụ án khởi tố theo
yêu cầu của bị hại cho các cán bộ, công chức trong VKSND, còn VKSND tối cao
69
với các đặc thù của mình chỉ tập trung làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổng
kết, hướng dẫn, kiểm tra, với nhiều chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực; đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử, không để xảy ra việc xét xử oan, sai,
bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, hạn chế thấp nhất trường hợp các bản án bị
hủy, bị sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán. Trong điều kiện đất nước hội nhập
quốc tế sâu rộng, cũng như thực hiện các Nghị quyết Trung ương của Đảng, các
Tòa án phải tăng cường và chú trọng việc sắp xếp lại tổ chức tinh gọn, hiệu lực,
hiệu quả và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Ngành Tòa án cần tiến hành rà
soát một cách thường xuyên và đồng bộ các nghị quyết, thông tư hướng dẫn các
quy định của BLHS, BLTTHS để kịp thời ban hành Nghị quyết của Hội đồng
Thẩm Phán TANDTC, các văn bản hướng dẫn các quy định pháp luật còn chưa
rõ ràng và thống nhất cho phù hợp, khắc phục những khó khăn, vưỡng mắc trong
thực tiễn giải quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại hiện nay. Trong đó, việc
sắp xếp lại tổ chức bộ máy cho tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thực
tiễn là yêu cầu cấp bách hàng đầu.
3.3.3. Tăng cường phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
của đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan tố tụng
Từ trước đến nay, yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng nhất, quyết
định nhất đến sự thành công, phát triển của bất kì tổ chức, đơn vị hoặc Nhà nước
nào. Xây dựng đội ngũ cán bộ ó năng lực chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất
đạo đức tốt là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Theo đó cần phải có
các biện pháp để quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ giỏi, chuẩn hóa đội ngũ cán
bộ có khả năng đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong tình hình mới. Cụ thể
phải thường xuyên chăm lo đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi
mới phương thức lãnh đạo …góp phần tăng cường chất lượng công tác tư pháp
trong tình hình mới. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử tốt hay chưa tốt, đúng
pháp luật hay chưa đúng pháp luật cũng do con người thực hiện nên việc đào tạo
con người có chuyên môn, nghiệp vụ cao đáp ứng được yêu cầu hoạt động TTHS
70
là rất quan trọng và cần thiết. Do vậy, cần thường xuyên chú trọng hơn nữa công
tác bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật những kiến thức pháp lý và kinh nghiệm hoạt
động thực tiễn cho những người tiến hành tố tụng. Có thể tiến hành đồng bộ các
giải pháp như:
- Quan tâm, đẩy mạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng như CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra, VKS, Tòa án. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cần chú trọng việc
thường xuyên đổi mới nội dung, chương trình đào tạo theo hướng tập trung đào
tạo bồi dưỡng các kỹ năng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và các quy
định mới theo quy định pháp luật; tránh tình trạng các cán bộ tư pháp chỉ nắm lý
thuyết mà không có được các kỹ năng thực hiện công việc trên thực tế.
- Tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng được học tập, bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao trình độ, đồng
thời xây dựng chế độ ưu đãi phù hợp đối với họ dể thúc đẩy việc học hỏi năng
cao năng lực, tăng cường khả năng và tâm huyết với công việc. Cùng với đó luôn
chú trọng việc rèn luyện phẩm chất đạo đối với cán bộ tư pháp nói chung và đội
ngũ đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nói riêng.
- Tăng cường giáo dục ý thức trách nhiệm, bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức cho các cơ quan tư pháp đặc biệt là người thuộc các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng là Điều tra viên, Kiểm sát viên, người được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
- Chú trọng xây dựng đội ngũ đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về nghiệp vụ, tinh
thông về pháp luật, luôn thấy rõ trách nhiệm chính trị của mình trước Đảng,
trước nhân dân để không ngừng phấn đấu và hoàn thiện mình trong công việc.
Đặc biệt chú ý hoàn thiện công tác thi tuyển, bổ nhiệm… công chức của các cơ
quan tư pháp. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ của cơ quan tư pháp các cấp cần
chú ý đến sự toàn diện về năng lực, phẩm chất, uy tín, kinh nghiệm quản lý.
71
Thường xuyên thử thách trong môi trường thực tế khác nhau đối với những cán
bộ thuộc diện quy hoạch chức vụ lãnh đạo. Ngoài ra cần tăng cường công tác
kiểm tra, kịp thời phát hiện những yếu kém trong công tác nghiệp vụ để khắc
phục; kiên quyết xử lý những cán bộ vi phạm phẩm chất, đạo đức, lối sống để
làm gương trong nội bộ cơ quan đơn vị và củng cố niềm tin trong nhân dân.
3.3.4. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, hướng dẫn, giải đáp
vướng mắc, thông báo rút kinh nghiệm
Để áp dụng đúng các quy định của BLTTHS 2015 liên quan đến khởi tố
vụ án theo yêu cầu bị hại trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự đòi hỏi các
cơ quan có thẩm quyền phải tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, thường
xuyên tổ chức hướng dẫn, giải đáp những khó khăn, vướng mắc của địa phương
mình trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm trong giải quyết các vụ án
khởi tố theo yêu cầu bị hại, từ đó nâng cao chất lượng xét xử, tìm ra những hạn
chế, nguyên nhân và chỉ ra các giải pháp khắc phục những hạn chế đó là nhiệm
vụ công tác thường xuyên,lâu dài và cần được chú trọng triệt để. Theo đó, định
kì hàng tháng, hàng quý có thể tổ chức sơ kết, tổng kết hay tổ chức các buổi tập
huấn về công tác trong toàn ngành và liên ngành. Kịp thời đề ra các thông báo
rút kinh nghiệm đối với những địa phương, đơn vị thực hiện không tốt nhiệm vụ
dẫn đến còn nhiều vụ việc bị tồn đọng, không giải quyết được, các vi phạm về
pháp luật để có biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Đồng thời nêu gương với các cơ
quan thực hiện tốt nhiệm vụ, làm cơ sở để các cơ quan, tổ chứ, đơn vị khác học
hỏi, hoàn thiện các khâu công tác được hiệu quả hơn.
Bên cạnh việc tổng kết hàng năm, theo định kỳ (hàng tháng, hàng quý)
các cơ quan tiến hành tố tụng cũng cần tự đánh giá, xác định số vụ khởi tố vụ án
theo yêu cầu bị hại đã được giải quyết hoặc đình chỉ giải quyết, xây dựng các
chuyên đề với sự tham gia của cả ba cơ quan tiến hành tố tụng là Công an, VKS
và Tòa án để cùng nhau thảo luận, thống nhất phương án hoạt động để đảm bảo
quá trình áp dụng vào thực tiễn công tác được phát huy hiệu quả.
72
3.3.5. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các đơn vị, bộ, ngành có liên
quan trong tố tụng hình sự
Để nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng hình sự, không thể chỉ chú
trọng nâng cao chất lượng của từng khâu công tác, từng chủ thể mà phải chú ý
đến mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị, bộ, ngành có liên quan với nhau trong
quá trình giải quyết một vụ án hình sự cụ thể. Trong đó cần tăng cường mối quan
hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS theo hướng nâng cao vai trò của VKS trong chỉ
đạo, giám sát hoạt động của CQĐT trong việc kiểm tra, xác minh nguồn tin tội
phạm và khởi tố vụ án liên quan đến yêu cầu của bị hại. Giữa CQĐT và VKS
luôn phải đảm bảo sự phối hợp có hiệu quả từ việc giải quyết vụ việc đơn lẻ, đến
việc tổ chức các cuộc họp liên ngành để có thể cùng nhau tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi nhiệm vụ, từ đó đưa ra giải pháp giải
quyết phù hợp. Đồng thời tổ chức các buổi họp giao ban kết hợp với việc phổ
biến những văn bản pháp luật mới, các hướng dẫn, thông báo rút kinh nghiệm tới
các Điều tra viên, Kiểm sát viên. Qua đó tạo điều kiện trao đổi, rút kinh nghiệm
và học tập lẫn nhau giữa các Điều tra viên, Kiểm sát viên. Qua đó nâng cao hơn
nữa năng lực, khả năng chuyên môn nghiệp vụ trong công tác khởi tố vụ án hình
sự.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan và cá nhân những người tiến hành
tố tụng trên cơ sở đúng chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, không đùn đẩy trách
nhiệm sẽ hạn chế tới mức thấp nhất, tiến tới loại bỏ tình trạng bức xúc trong
nhân dân vì yêu cầu khởi tố vụ án không được quan tâm xem xét và giải quyết
nhanh chóng, kịp thời. Thực tiễn cho thấy địa phương nào mối quan hệ tố tụng
giữa các cơ quan tốt thì tỉ lệ giải quyết các vụ án càng cao, chất lượng giải quyết
đạt kết quả tốt. Do vậy, cần tiếp tục thực hiện tốt sự phối hợp liên ngành để ân
cao hiệu quả giải quyết các vụ án hình sự, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp
phá cho những người tham gia tố tụng trong đó có bị hại.
73
3.3.6. Tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ biến các quy định của
pháp luật
Tuyên truyền phổ biến pháp luật, hiểu biết của người dân về các quy định
của pháp luật liên quan đến chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại. Biện
pháp có ý nghĩa quan trọng là phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật, nâng cao văn hóa pháp lý, trình độ hiểu biết pháp luật của bị hại và
những người tham gia tố tụng khác. Có thể xây dựng đồng bộ các giải pháp sau:
(1) Xây dựng các kênh thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật;
(2) Mở lớp học pháp luật miễn phí và ngắn hạn cho nhân dân;
(3) Kịp thời phản hồi, phúc đáp những kiến nghị, phản ánh, thắc mắc của
nhân dân liên quan tới hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng;
(4) Tăng cường sự hướng dẫn cũng như tạo điều kiện cho bị hại, bị cáo,
đương sự tiếp cận với người bào chữa hoặc trợ giúp viên pháp lý;
(5) Tuyên truyền, phổ biến, giải thích về quyền và nghĩa vụ, vai trò của
từng chủ thể trong VAHS nói chung theo đúng quy định của BLTTHS. Điều này
giúp cho mỗi chủ thể có liên quan hình thành nhận thức đầy đủ, chính xác, từ đó
nâng cao hiệu quả tranh tụng để tự bảo vệ quyền lợi cho mình;
(6) Xem xét tăng cường các hình thức xét xử lưu động; xây dựng các
chương trình riêng về tư pháp trên các phương tiện thông tin đại chúng…
Việc thiết kế các hình thức tuyên truyền, giáo dục phải lưu ý tạo ra sự phù
hợp với từng địa bàn, từng đối tượng khác nhau để việc tuyên truyền, phổ biến
pháp luật được dễ hiểu hơn.
3.3.7. Một số giải pháp khác
Thứ nhất, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết các
vụ án hình sự. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu rõ: “Tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để
hoàn thành nhiệm vụ, có cơ chế chính sách hợp lý đối với cán bộ tư pháp. Tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện làm việc, đẩy mạnh ứng dụng
74
công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hóa các cơ quan tư pháp...”. Trong giai
đoạn sắp tới, CQĐT và VKS cần phải được trang bị các phương tiện đảm bảo
hoạt động kiểm tra, xác minh và điều tra vụ án hình sự liên quan đến yêu cầu bị
hại đặc biệt là vụ án liên quan đến giám định, khám nghiệm hiện trường... đảm
bảo việc xác định có dấu hiệu của tội phạm trong giai đoạn đặc biệt này. Thực
hiện cam kết trong Cộng đồng ASEAN, chúng ta phải hoàn thành việc xây dựng
TA điện tử trước năm 2025. Nghiên cứu để đề xuất xây dựng chủ trương, hành
lang pháp lý hướng tới xây dựng TA điện tử, phù hợp với xu thế chung của các
quốc gia có nền tư pháp phát triển trên thế giới và thực tiễn Việt Nam.
Hai là, thống nhất về hệ thống biểu mẫu, sổ sách ghi chép việc tiếp nhận,
xử lý thông tin về tội phạm để bảo đảm tính thống nhất, gọn nhẹ của các loại sổ
sách, tạo điều kiện cho công tác kiểm sát, giám sát việc tuân theo pháp luật trong
giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.
Ba là, phải thường xuyên sàng lọc, xử lí nghiêm minh những trường hợp
can thiệp bằng công văn của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, ngành có cán bộ vi
phạm để “xử lý nội bộ”, “rút kinh nghiệm sâu sắc” nhằm bao che, bênh vực cho
nhau nhân danh “uy tín, danh dự của ngành” sẽ dẫn tới sự dung túng và lệch lạc
về nhận thức, ý thức trách nhiệm cũng như gây mất niềm tin vào sự nghiêm minh
của pháp luật từ người dân. Phải xử lý hình sự đối với những cá nhân có hành vi
xâm phạm hoạt động tư pháp như không truy cứu TNHS người có tội, ra quyết
định trái pháp luật, ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật, làm sai lệch hồ
sơ vụ án… để răn đe mạnh mẽ trong toàn bộ hệ thống tư pháp.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc khởi tố vụ án theo yêu
cầu của bị hại. Phải tăng cường các hoạt động thanh tra các hành vi, quyết định
tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. Những hành vi, quyết định tố tụng
không có căn cứ hoặc trái pháp luật của CQĐT trong giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự như: Quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm, quyết
định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự… phải được
VKS phát hiện kịp thời và xử lý đúng quy định pháp luật, hủy bỏ kịp thời các
75
quyết định tố tụng trái pháp luật, đảm bảo cho việc chấp hành pháp luật được
nghiêm chỉnh và thống nhất. Đây là biện pháp hữu hiệu trong việc học tập, rút
kinh nghiệm về chuyên môn, nghiệp vụ từ đó có quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn,
bố trí, sử dụng cán bộ có chức danh tư pháp vào vị trí phù hợp với năng lực và
yêu cầu công tác.
Năm là, về công tác xây dựng cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động tố
tụng: tiếp tục đẩy nhanh việc hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất, trang bị đầy đủ
trang thiết bị, kinh phí phục vụ công tác tranh tụng tại phiên tòa diễn ra đảm bảo,
đúng quy định. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động xét xử.
Qua đó, góp phần tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm trên thực tế.
Sáu là, cần xây dựng các chế độ, chính sách mang tính ưu đãi và thỏa
đáng hơn dành cho những người tiến hành tố tụng, nhất là đối với đội ngũ Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Trong đó, quan tâm đến việc cải thiện chất
lượng đời sống của đội ngũ cán bộ công chức tư pháp thông qua việc cải cách
chính sách tiền lương, các quỹ khen thưởng, khuyến khích những cá nhân có
thành tích tốt và có nhiều đóng góp trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự.
Cùng với đó cũng cần quan tâm đến việc xử lí nghiêm minh các trường hợp sai
phạm, cá thể hóa trách nhiệm phải chịu đối với người thực hiện hành vi tố tụng
sai, ra quyết định tố tụng sai trong hoạt động khởi tố vụ án hình sự. Từ đó tạo ra
động lực và sự răn đe cần thiết cho các cán bộ trong quá trình làm việc, nâng cao
hiệu quả làm việc và chất lượng công tác.
76
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 của Luận văn, trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án
khởi tố theo yêu cầu của bị hại, tác giả đã phân tích làm rõ những yêu cầu, đồng
thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án khởi tố
theo yêu cầu của bị hại như:
- Giải pháp về hoàn thiện pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị
hại.
- Giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu
của bị hại, như: nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo cơ
quan tư pháp các cấp; đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ; tăng cường
phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công
chức cơ quan tố tụng; tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, hướng dẫn, giải
đáp vướng mắc, thông báo rút kinh nghiệm; tăng cường quan hệ phối hợp giữa
các đơn vị, bộ, ngành có liên quan trong tố tụng hình sự; tăng cường hoạt động
tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật và một số giải pháp khác.
Các giải pháp này sẽ góp phần đảm bảo việc định tội danh và quyết định
hình phạt đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội
phạm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong đó có quận Hoàng Mai
đối với các vụ án hình sự.
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về chế định khởi tố vụ án theo
yêu cầu bị hại, thực trạng quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng
nguyên tắc này, tác giả chỉ ra yêu cầu cấp thiết đối với việc hoàn thiện nguyên
tắc tranh tụng trong giai đoạn hiện nay, đồng thời đề ra hai nhóm kiến nghị, giải
pháp cơ bản đó là nhóm các kiến hoàn thiện quy định pháp luật và nhóm các giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại
trong TTHS.
Mỗi kiến nghị đặt ra gắn liền với luận giải về nguyên nhân cần sửa đổi,
nội dung đề xuất sửa đổi theo quan điểm của nhóm nghiên cứu. Và mỗi giải pháp
nhóm nghiên cứu đặt ra gắn liền với việc đánh giá, nhìn nhận những khó khăn,
77
vướng mắc còn tồn tại trong thực tiễn để đảm bảo tính thực tế, khả thi và ý nghĩa
của từng giải pháp.
78
KẾT LUẬN
Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là trường hợp đặc biệt của khởi tố vụ
án hình sự và có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm các quyền và lọi ích hợp
pháp của công dân, các quyền và lợi ích hợp pháp của xã hội. Thông qua Luận
văn, tác giả đã phân tích làm rõ mục đích và giải quyết được những nhiệm vụ đã
đặt ra.
Tại Chương 1 của Luận văn, tác giả đã lần lượt phân tích làm rõ khái niệm,
đặc điểm, ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự và khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của bị hại, cũng như phân tích cơ sở của việc quy định chế định này trong
PLTTHS.
Tại Chương 2 của Luận văn tác giả phân tích làm rõ lịch sử quá trình lập
pháp quy định chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong PLTTHS
Việt Nam từ năm 1945 đến BLTTHS 2015. Đồng thời tác giả đã phân tích những
quy định của pháp luật hiện hành về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại. Cũng như
thực tiễn giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại, trên cơ
sở đó tác giả đã chỉ ra những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế liên
quan đến hoạt động này. Trên cơ sở đó tác giả đã đưa ra những nguyên nhân của
những tồn tại, hạn chế, làm tiền đề để tác giả đưa ra những giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo
yêu cầu của bị hại.
Tại Chương 3 của Luận văn tác giả đã phân tích làm rõ những yêu cầu và
đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án khởi tố
theo yêu cầu của bị hại như: Hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn tổng kết thực tiễn
xét xử, giải pháp về nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ.... nhằm góp phần
đảm bảo việc định tội danh và quyết định hình phạt đúng người, đúng tội, không
làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm của cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trong đó có quận Hoàng Mai đối với các vụ án hình sự nói chung và
khởi tố theo yêu cầu bị hại nói riêng.
79
Đây là những giải pháp mang ý chí chủ quan của học viên, qua đó, học viên
cũng hy vọng những giải pháp trên trở thành một nguồn tham khảo hữu hiệu cho
các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước
nói chung cho việc nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án khởi tố theo yêu cầu
của bị hại.