VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ THANH HOA

KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI

TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ THANH HOA

KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI

TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN KHẮC HẢI

HÀ NỘI, 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong đề tài là trung thực và tôi xin chịu trách

nhiệm về tất cả những số liệu, kết quả nghiên cứu đó. Đề tài này chưa được

ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả đề tài

Đặng Thị Thanh Hoa

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................................ 7 1.1. Khái niệm khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng hình sự ....................................................................................................... 7 1.2. Đặc điểm của khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng hình sự ..................................................................................................... 14 1.3. Ý nghĩa của khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng hình sự ..................................................................................................... 19 Chương 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................... 24 2.1. Sự hình thành và phát triển các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam ...................................... 24 2.2. Thực trạng quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 .......................................................................... 27 2.3. Thực tiễn áp dụng quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trên địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội ............................................. 40 Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM ÁP DỤNG QUY ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................................................................. 53 3.1. Cơ sở hoàn thiện các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại53 3.2. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại ............................................................................................................ 56 3.3. Giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại .................................................................................................. 66 KẾT LUẬN .............................................................................................. 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 81 PHỤ LỤC ................................................................................................ 85

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

PLTTHS

Pháp luật tố tụng hình sự

TA

Tòa án

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Thống kê số bị cáo, số vụ án và vụ án đã được xét xử trên địa

bàn quận Hoàng Mai giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020. .................... 85

Bảng 2.2: Thống kê các vụ án khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trên địa

bàn quận Hoàng Mai giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 ..................... 85

Bảng 2.3: Bảng so sánh số vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại được đưa ra

xét xử với số vụ án bị đình chỉ do bị hại rút đơn giai đoạn 2016 - 2020 ... 87

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Dù trong bất kỳ Nhà nước nào thì nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội

phạm luôn được xem là một nhiệm vụ cốt lõi, là cơ sở để đảm bảo trật tự, an

toàn xã hội của đất nước và yếu tố tiên quyết để đảm bảo văn hóa + kinh tế của

một đất nước thực sự ổn định và phát triển. Không ngoại lệ, bản thân nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng xem đây là nhiệm vụ tối quan trọng trong

công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Công tác này được quán triệt thực

hiện đồng bồ từ trung ương đến địa phương, từ việc kiểm soát, quản lý tội phạm

đến việc xử lý tội phạm. Trong đó, việc xử lý tội phạm được thực hiện thông qua

quá trình TTHS của các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc xử lý hình sự tội phạm

không chỉ bảo vệ được quan hệ xã hội bị xâm phạm mà còn trực tiếp bảo vệ các

quyền lợi của người bị hại, là nạn nhân của tội phạm, bị hành vi nguy hiểm cho

xã hội gây ra những hậu quả đáng tiếc.

Tuy nhiên, TTHS là một quá trình giải quyết vụ án hình sự công khai,

minh bạch mà kết thúc của nó là một bản án, quyết định thông qua việc xét xử

công khai với người dân tại Tòa án để trừng trị, giáo dục người phạm tội. Việc

này đồng nghĩa với việc những hậu quả mà hành vi phạm tội gây ra cho người bị

hại cũng được công khai tại phiên tòa xét xử hình sự. Nhưng, từ phía người bị

hại, không phải mọi trường hợp công khai xử lý tội phạm xâm hại nhằm bảo vệ

các quyền lợi hợp pháp của họ đều mang đến những lợi ích tích cực cho họ, đôi

lúc chính việc xử lý đó gián tiếp mang đến cho người bị hại thêm những hậu quả

không mong muốn. Lợi ích của người bị hại trong TTHS không phải là lợi ích

vật chất mà còn là các lợi ích tinh thần, lợi ích xã hội khác. Nhất là đối với các

tội phạm xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người,

nếu khởi tố thì những lợi ích về tinh thần, lợi ích khác trong xã hội cũng có thể

bị ảnh hưởng mặc dù tội phạm không hề xâm hại đến. Chính vì vậy, PLTTHS

cho phép người bị hại lựa chọn cân nhắc trong việc quyết định yêu cầu các cơ

quan tiến hành tố tụng xử lý tội phạm gây ra thiệt hại cho mình trong một số

1

trường hợp nhất định, theo đó, quy định về “Khởi tố vụ án theo yêu cầu của

người bị hại” cũng ra đời.

Quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại lần đầu tiên được

đề cập đến tại Điều 88 của BLTTHS 1988, sau đó tiếp tục được giữ nguyên và

phát triển tại Điều 105 BLTTHS 2003 và hiện nay là Điều 155 BLTTHS 2015.

Đây được coi là một sự tiến bộ trong quá trình lập pháp của nước ta, đảm bảo sự

tốt nhất về quyền lợi cho người bị hại. Thực tế cho thấy, chế định này đã và đang

mang đến những hiệu quả đáng ngưỡng mộ mà các nhà làm luật đã mong đợi.

Tuy nhiên, việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại hiện nay vẫn chỉ

nằm ở mức là quy định của pháp luật nhưng chưa được nguyên cứu hoặc nghiên

cứu chưa sâu, chưa hiệu quả nên việc thực hiện chế định này ở nhiều địa phương

có những nhận thức khác nhau, dẫn đến những hạn chế, vướng mắc nhất định

trong việc áp dụng pháp luật.

Quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội là một trong những quận trung tâm

của thành phố với mật độ dân cư đông đúc, chính vì thế mà tình hình tội phạm

cũng rất phức tạp. Để đáp ứng yêu cầu đặt ra, thời gian các cơ quan tiến hành tố

tụng của quận Hoàng Mai đã có nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt

động, góp phần giữ vững trật tự - xã hội trên địa bàn. Tuy nhiên, như đã nói ở

tên, không phải mọi công tác đều được thực hiện tốt, còn nhiều công tác đang

vướng phải nhiều khó khăn, hạn chế trong đó có việc thực hiện chế định khởi tố

theo yêu cầu của người bị hại. Những vướng mắc, bất cập này gây không ít khó

khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng pháp luật.

Vì vậy, để bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp của người bị hại do tội

phạm xảy ra trên địa bàn quận Hoàng Mai, nơi mà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể,

lợi ích cộng động, xã hội được đặt lên trên nhiều mặt của đời xong thì việc nâng

cao nhận thức về việc áp dụng pháp luật trong khởi tố vụ án theo yêu cầu của

người bị hại là vấn đề hết sức cần thiết, quan trọng đối với các cơ quan tiến hành

tố tụng, người tiến hành tố tụng của quận Hoàng Mai hiện nay.

2

Từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Khởi tố vụ án theo yêu cầu

của người bị hại từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội” làm đề tài

Luận văn Thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Dưới góc độ khoa học, thời gian qua việc nghiên cứu về chế định khởi tố

theo yêu cầu của người bị hại cũng được đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp ở một số

công trình nghiên cứu được công bố như:

Các luận án, luật văn luật học: 1) Nguyễn Đức Thái, Luận án tiến sĩ luật

học: Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong TTHS Việt Nam, Đại học

Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2015; 2) Lương Bình Dương, Luận án tiến sĩ luật

học: Pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong TTHS Việt

Nam hiện nay, Học Viện Khoa học Xã hội, 2017; 3) Hoàng Lan Phương, Luận

văn thạc sĩ luật học: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong

TTHS, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; 4) Lê Lan Chi, Luận án Tiến

sĩ Luật học: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự trong luật

TTHS Việt Nam + Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoa Luật Đại học Quốc

gia Hà Nội, 2010; 5) Lê Nguyên Thanh, Luận án tiến sĩ Luật học: Người bị thiệt

hại do tội phạm gây ra trong TTHS Việt Nam, Đại học Luật thành phố Hồ Chí

Minh, 2012;…

Một số sách chuyên khảo, giáo trình, bài viết: 1) Nguyễn Ngọc Anh, Phan

Trung Hoài, Bình luận khoa học BLTTHS 2015, NXB Chính trị quốc gia sự thật,

Hà Nội, 2018; 2) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật TTHS Việt Nam,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2016; 3) Trường Đại học kiểm sát Hà Nội,

Giáo trình luật TTHS, NXB Chính trị quốc gia -sự thật, Hà Nội, 2016; 3) Đinh

Văn Quế, “Khởi tố theo yêu cầu của người bị hại”, Tạp chí Tòa án số 11, 1991;

4) Nguyễn Hải Ninh, Vấn đề khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, Tạp chị Luật

học số 6, 2010; 5) TS. Phạm Mạnh Hùng, Vấn đề khởi tố vụ án hình sự theo yêu

cầu của người bị hại trong BLTTHS 2015”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 03,

3

2016; 6) Nguyễn Văn Dũ, Rút yêu cầu khởi tố: Không có gì tranh cãi, Báo Pháp

luật TP Hồ Chi Minh online ngày 7/5/2012; 7) Nguyễn Văn Cường, Khởi tố vụ

án hình sự theo yêu cầu của người bị hại + những vướng mắc, Tạp chí Kiểm sát

số 01, 1998;…

Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình trên cho thấy một số công trình

chủ yếu dựa trên những quy định của BLHS 1999 và BLTTHS 2003 nên đã

không còn phù hợp, bên cạnh đó, các công trình mang tính tổng quát nhưng chưa

có một công trình nào được phân tích dựa địa phương cụ thể. Vì vậy việc nghiên

cứu đề tài Luận văn Thạc sĩ “Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong

TTHS, từ thực tiễn địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.” vẫn là một

nội dung mang tính mới, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn công cuộc đấu tranh,

phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nguyên cứu

Mục đích của đề tài là nghiên cứu, làm rõ những quy định của pháp luật

về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong TTHS; hoạt động

của các cơ quan tiến hành tố tụng khi áp dụng chế định này; nghiên cứu các vi

phạm phổ biến, các vấn đề tồn tại và đưa ra những kiến giải nhằm nâng cao hiểu

quả của áp dụng pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại dựa

trên tình hình thực tế tại quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.

Để có thể đạt được mục đích trên, nhiệm vụ được đặt ra là phải phân tích,

làm rõ các quy định của PLTTHS về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại.

Đồng thời, nghiên cứu đánh giá, thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật của các

cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án khởi tố theo yêu

cầu của người bị hại trên phạm vi quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Từ đó, rút

ra nhận xét, đánh giá về nguyên nhân và kiến giải hợp lý.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Để có thể đạt được những mục đích trên, đề tài tập trung nghiên cứu

những đối tượng cụ thể :

4

Những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định khởi tố theo yêu cầu của

người bị hại trong TTHS từ thực tiễn hoạt động của các cơ quan tiến hành tố

tụng quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung phân tích các quy định của pháp luật về TTHS và khởi tố

theo yêu cầu của người bị hại theo pháp luật hiện hành. Cụ thể là từ hoạt động

tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố cho đến khi

có bản án, quyết định sơ thẩm vụ án hình sự. Đồng thời, phân tích thực tiển áp

dụng pháp luật khởi tố theo yêu cầu của người bị hại trên phạm vi địa bàn quận

Hoàng Mai, thành phố Hà Nội trong 05 năm (từ 2015 đến 2019).

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được phân tích, nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối,

chính sách hình sự, TTHS của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội

phạm.

5.2. Phương

pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng một số phương pháp phổ biến, thường xuyên trong nghiên

cứu khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương

pháp thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra án điển hình... để làm rõ và giải quyết

các vấn đề đề đặt ra.

6. Ý nghĩa lý luân và thực tiễn

Về lý luận, đề tài được xây dựng dựa trên các vấn đề lý luận về khởi tố vụ

án hình sự theo yêu cầu của bị hại gắn với thực tiễn tại địa bàn quận Hoàng Mai,

thành phố Hà Nội trong năm năm vừa qua. Do đó, kết quả nghiên cứu của đề tài

góp phần hoàn thiện và và làm rõ những quy định của pháp luật hiện hành về

khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, hoạt động cụ thể của các cơ

quan tiến hành tố tụng khi áp dụng pháp luật.

5

Về thực tiễn, các kiến giải được đưa ra trong đề tài là một kênh tham khảo

hữu ích cho các đơn vị như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án

nhân dân các cấp nói chung và các đơn vị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân

dân, Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội nói riêng trong thực

tiễn thực hiện chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại. Ngoài ra, kết

quả của đề tài cũng có thể là tài liệu tham khảo cho các đối tượng nghiên cứu, áp

dụng pháp luật có liên quan đến vấn đề này.

7. Kết cấu của luận văn

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người

bị hại.

Chương 2: Thực trạng quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người

bị hại trong TTHS và thực tiễn áp dụng trên địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố

Hà Nội

Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng quy

định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong TTHS.

6

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU

CỦA BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố

tụng hình sự

1.1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự

Giai đoạn TTHS là các phần độc lập, liên quan, kế tiếp nhau liên tục, giai

đoạn trước là điều kiện, là cơ sở pháp lý làm phát sinh giai đoạn sau, giai đoạn

sau thay thế và kiểm tra kết quả của giai đoạn trước, tạo thành một quá trình tố

tụng hoàn chỉnh nhằm đảm bảo giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn,

khách quan, toàn diện và kịp thời. Khoa học luật tố tụng hình sự cho rằng quy

trình giải quyết một vụ án hình sự phải theo một trình tự, thủ tục nhất định gồm:

khởi tố, điều tra, truy tố, và xét xử. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên

của quá trình tố tụng và là giai đoạn tố tụng độc lập bởi giai đoạn này có đầy đủ

các dấu hiệu của một giai đoạn tố tụng với những mục tiêu và nhiệm vụ riêng

mang đặc thù về chủ thể tố tụng, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Giai đoạn

khởi tố là mở đầu quan trọng cho việc thực hiện nhiệm vụ của các giai đoạn tố

tụng sau, và các giai đoạn sau cũng có mối quan hệ chặt chẽ với giai đoạn khởi

tố thể hiện ở việc kết quả của các giai đoạn này sẽ kiểm nghiệm lại những vấn đề

đã được xác định trong giai đoạn khởi tố.

Còn theo quan điểm của Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại

học Luật Hà Nội thì đưa ra khái niệm: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu

của trình tự tố tụng, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có

dấu hiệu của tội phạm hay không để quyết định khởi tố hay quyết định không

khởi tố vụ án hình sự [34, tr.233].

Quan điểm của Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật

thành phố Hồ Chí Minh về vấn đề này như sau: Khởi tố vụ án hình sự là một giai

đoạn độc lập của quá trình chứng minh vụ án hình sự, trong đó cơ quan có thẩm

quyền xác định có hay không dấu hiệu tội phạm để quyết định khởi tố hoặc quyết

7

định không khởi tố vụ án. Giai đoạn khởi tố bắt đầu từ việc tiếp nhận thông tin

về tội phạm hoặc phát hiện dấu hiệu tội phạm và kết thúc bằng một quyết định

khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự [35, tr.330].

Định nghĩa về khởi tố vụ án hình sự cũng được GS.TSKH Lê Cảm đưa ra,

theo đó:“Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn TTHS đầu tiên mà trong đó cơ quan

tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của PLTTHS tiến hành

việc xác định có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm

cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố

(hoặc không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó” [7, tr.15].

Trong định nghĩa về Quyết định khởi tố vụ án hình sự, GS.TS Võ Khánh

Vinh cũng đã đưa ra định nghĩa bao hàm định nghĩa về khởi tố vụ án hình sự như

sau: “Quyết định khởi tố vụ án hình sự là hành vi TTHS của một pháp nhân (chủ

thể tiến hành tố tụng) có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự biểu hiện bằng một

văn bản TTHS xác định một sự kiện pháp lý xảy ra trong thực tế có dấu hiệu của

tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS nhằm khởi phát những quan hệ tố

tụng, mở đầu cho việc thực hiện những hành vi tố tụng cần thiết để làm rõ sự

thật khách quan về sự kiện đó. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ

khi cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo về tội phạm, kết thúc khi cơ quan

có thẩm quyền ra được một trong hai quyết định là quyết định khởi tố vụ án hình

sự và quyết định không khởi tố vụ án hình sự” [43, tr.268, 269].

Qua nghiên cứu các công trình và tài liệu chuyên ngành TTHS đã công bố

cho thấy, khái niệm “khởi tố vụ án hình sự” trong TTHS được tiếp cận ở nhiều

góc độ khác nhau:

Góc độ tiếp cận thứ nhất, khởi tố vụ án hình sự là một chế định của luật

TTHS, bao gồm tập hợp những quy định về trình tự và thủ tục khởi tố vụ án hình

sự. Theo đó có thể hiểu, khởi tố vụ án hình sự là tập hợp các quy phạm pháp luật

điều chỉnh quan hệ tố tụng hình sự thể hiện ở các mặt quy định về thẩm quyền,

về trình tự thủ tục, và các căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Khởi tố vụ án hình sự

thể hiện vai trò quan trọng trên nhiều phương diện, cả về phương diện kiểm soát

8

và phòng ngừa tội phạm. Bởi lẽ, khởi tố vụ án hình sự là biện pháp hữu hiệu

trong việc ngăn chặn và phòng ngừa hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế, thể

hiện sự nhanh chóng và kịp thời của các cơ quan đấu tranh chống tội phạm trong

việc xác định sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở để truy cứu trách nhiệm

hình sự đối với người phạm tội, bảo đảm xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi tội

phạm và người phạm tội, bảo đảm tính trừng trị và giáo dục của pháp luật hình

sự. Để khởi tố vụ án hình sự phải dựa trên các quy định của BLTTHS. Để xác

định có dấu hiệu tội phạm thì phải dca vào cấu thành tội phạm cụ thể, với các

dấu hiệu đặc trưng sau: Một là, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;

Hai là, tính có lỗi; Ba là, tính trái pháp luật hình sự; Bốn là, tính phải chịu hình

phạt. Chỉ khi xác định đầy đủ các yếu tố theo quy định của BLHS và BLTTHS

khi đó mới có thể ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi động quy trình giải

quyết một vụ án cụ thể.

Góc độ tiếp cận thứ hai, khởi tố vụ án hình sự được hiểu là một hành vi tố

tụng mở đầu cho giai đoạn điều tra, được thực hiện bởi chủ thể có thẩm quyền

theo quy định của BLTTHS. Theo đó có thể hiểu khởi tố vụ án hình sự là quyết

định của cơ quan có thẩm quyền khi có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật

hình sự, biểu hiện bằng một văn bản tố tụng hình sự mở đầu cho việc thực hiện

những hành vi tố tụng tiếp theo để làm rõ sự thật khách quan của sự việc có chứa

đựng dấu hiệu tội phạm, từ đó đề ra các biện pháp xử lý bằng pháp luật hình sự

đúng đắn.

Góc độ tiếp cận thứ ba, khởi tố vụ án hình sự được hiểu là một giai đoạn

tố tụng độc lập trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đây là cách hiểu thông

thường và phổ biến hiện nay. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được xem là giai

đoạn mở đầu cho các giai đoạn tố tụng tiếp theo rong TTHS. Nói cách khác, sau

khi ban hành quyết định khởi tố vụ án sẽ làm phát sinh nhiều quyển hạn của cơ

quan điều tra, viện kiểm sát, toà án khi thực hiện các hành vi tố tụng theo quy

định của BLTTHS nhằm phát hiện và xử lý nghiêm minh tội phạm và người

phạm tội.

9

Có thể thấy, mỗi góc độ tiếp cận trên đây đều có hạt nhân hợp lý nhất

định, tuy nhiên tựu chung lại giai đoạn này có đặc điểm chính sau đây:

Một là, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên, mở đầu cho

quá trình TTHS, được bắt đầu với việc cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền

tiếp nhận nguồn tin về tội phạm hoặc trực tiếp phát hiện về tội phạm và thời

điểm kết thúc của giai đoạn này là việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định

khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

Hai là, xuất phát từ việc khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của

TTHS, ở đó chức năng quan trọng của giai đoạn tố tụng này đó là xác định các

tiền đề pháp luật về nội dung (trên cơ sở BLHS) và pháp luật về hình thức (trên

cơ sở BLTTHS) của việc điều tra vụ án hình sự. Trong giai đoạn khởi tố vụ án

hình sự, các cơ quan có thẩm quyền phải xác định sự việc đó có dấu hiệu tội

phạm hay không?; căn cứ để khởi tố vụ án có đảm bảo không?; các trình tự, thủ

tục tiến hành các biện pháp kiểm tra, xác minh nào phù hợp với quy định pháp

luật?...

Ba là, kết quả quả giai đoạn này là quyết định của cơ quan tiến hành tố

tụng trong việc có hay không khởi tố vụ án hình sự.

Theo quan điểm của tác giả, bên cạnh những nội dung đã được thống nhất

như trên, định nghĩa về khởi tố vụ án hình sự còn phải bao hàm thêm những nội

dung sau:

Một là, cần nêu lên những căn cứ mà các cơ quan có thẩm quyền phải dựa

vào để tiến hành việc xác định có hay không các dấu hiệu của tội phạm, cụ thể là

phải căn cứ vào “các quy định của pháp luật hình sự và TTHS”.

Hai là, xác định thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của giai đoạn

khởi tố vụ án hình sự. Theo đó, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bắt đầu từ khi

tiếp nhận nguồn tin về tội phạm hoặc phát hiện tội phạm và giai đoạn khởi tố kết

thúc bằng một quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan

có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Giai đoạn khởi tố bắt đầu từ khi các CQTHTT

tiếp nhận nguồn tin về tội phạm như: Tố giác của cá nhân; tin báo của cơ quan,

10

tổ chức, cá nhân; tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; kiến nghị

khởi tố của cơ quan nhà nước; Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Bộ đội

biên phòng, Cơ quan Hải quan, Cơ quan Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và

các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;

người phạm tội tự thú. Giai đoạn khởi tố kết thúc khi các cơ quan có thẩm quyền

ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.

Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm khởi tố vụ án hình

sự như sau: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự,

trong đó cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng căn cứ vào các quy

định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, nhằm xác định sự việc xảy ra có

hay không có các dấu hiệu cấu thành tội phạm, từ đó làm căn cứ để quyết định

việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.

1.1.2. Khái niệm bị hại trong tố tụng hình sự

Người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là chủ thể của tố tụng hình sự

bên cạnh CQTHTT và người tiến hành tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ

án để đòi hỏi khôi phục lại những thiệt hại của họ do hành vi phạm tội gây ra.

Người bị hại có thể là người đã bị thiệt hại, nhưng cũng có thể là người bị đe dọa

nghiêm trọng gây thiệt hại trong những trường hợp phạm tội nhưng chưa gây hậu

quả theo quy định của BLHS. Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công

cuộc cải cách tư pháp, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền

tự do dân chủ của công dân đã được ghi nhận trong Nghị quyết 48 –NQ/TW

ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị và tiếp tục được khẳng định tại Nghị quyết 49 -

NQ/TW ngày 02/6/2005 như: “tôn trọng và bảo vệ quyền con người”, “tạo điều

kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng...”, các quy định của pháp luật

hình sự Việt Nam hiện hành về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị

hại là vấn đề cần quan tâm tìm hiểu rõ ràng, cụ thể.

Người tham gia tố tụng là người có quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy

định của BLTTHS. Sự tham gia của họ góp phần quan trọng trong việc xác định

11

sự thật của vụ án, đồng thời nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chính

họ trong tiến trình tố tụng. Bị hại trong TTHS là chủ thể tham gia tố tụng quan

trọng, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án đồng thời để bảo vệ tốt

nhất quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình khi bị tội phạm xâm hại.

Trước khi BLTTHS 2015 ra đời, PLTTHS Việt Nam luôn xem định bị hại

chỉ là cá nhân, theo đó bị hại chỉ được hiểu một cách đơn giản là người bị thiệt

hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. BLTTHS 2015 ra đời

đã thay thế thuật ngữ “Người bị hại” thành“Bị hại” trong đó đã bỏ từ “người”

đi, nhờ đó khái niệm bị hại cũng được mở rộng hơn phạm vi các đối tượng được

xem là bị hại bao gồm cả thể nhân và cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy

tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.

Trên cơ sở khái niệm trên, “bị hại” là chủ thể có các đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, đối với trường hợp bị hại là cá nhân thì cá nhân đó phải đang

sống ở thời điểm bị thiệt hại. Đối với trường hợp bị hại là cơ quan, tổ chức thì cơ

quan, tổ chức đó phải được thành lập hợp pháp và đang hoạt động ở thời điểm bị

thiệt hại. Trong đó, người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức sẽ tham

gia tố tụng với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại; trường hợp cơ quan, tổ

chức thay đổi người đại diện thì pháp nhân đó có trách nhiệm thông báo ngay

cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định pháp luật.

Thứ hai, thiệt hại của bị hại trong các vụ án hình sự luôn có mối quan hệ

nhân quả với hành vi phạm tội. Do đối tượng mà hành vi phạm tội hướng tới

xâm hại là bị hại, cho nên các hành vi này trực tiếp gây ra thiệt hại, đe dọa gây ra

thiệt hại cho bị hại, xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của

bị hại được pháp luật bảo vệ.

Thứ ba, thiệt hại của bị hại trong vụ án hình sự phải là những thiệt hại cụ

thể. Đối với cá nhân, những thiệt hại có thể kể đến là thiệt hại về thể chất, tinh

thần và tài sản do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra. Đối với cơ quan,

tổ chức, những thiệt hại có thể kể đến là các thiệt hại về tài sản, uy thạ.

12

Thứ tư, hành vi xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại phải

là một hành vi phạm tội được quy định cụ thể trong BLHS, do chủ thể có năng

lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Nếu hành vi xâm hại

đó chưa thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm, chưa đến mức xử lý hình sự

hoặc người xâm hại chưa đủ (hoặc không có) năng lực TNHS thì hành vi xâm

hại chỉ được hiểu là hành vi vi phạm hành chính, vi phạm nghĩa vụ dân sự, lao

động, hôn nhân và gia đình… Trong trường hợp này người bị xâm hại bởi hành

vi trái pháp luật không được xem là bị hại trong TTHS.

1.1.3. Khái niệm khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố

tụng hình sự

Trong bất kì xã hội nào, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm luôn

được quan tâm và đặt ra cho các cơ quan bảo vệ pháp luật. Việc duy trì quyền

lực công bảo vệ các lợi ích, giá trị xã hội mà nhà nước đó xác định là nhiệm vụ

quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia. Tùy thuộc vào kiểu tố tụng, mô hình tố

tụng và truyền thống pháp luật mỗi nhà nước khác nhau mà có cách thức thực

hiện quyền công tố cũng có sự khác nhau. Bên cạnh đó quy định “quyền tư tố”

đối với vụ án hình sự bên cạnh quyền công tố cũng được ghi nhận ở một số nhà

nước nhằm đảm bảo toàn diện các lợi ích về mặt xã hội và quyền lợi cho phía bị

hại. Trong những trường hợp này, quyền tư tố có phạm vi áp dụng không lớn, chỉ

áp dụng đối với một số lượng ít các tội phạm có tính chất xâm hại đến quyền

riêng tư cá nhân, các quyền và lợi ích hợp pháp khác về thể chất, tinh thần và tài

sản của bị hại.

Theo quy định của BLTTHS, khi có dấu hiệu của tội phạm, cơ quan có

thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện việc khởi tố vụ án hình sự theo quy

định pháp luật để tất cả các tội phạm đều được xử lí kịp thời, nghiêm minh. Tuy

nhiên, trong thực tế không ít trường hợp tội phạm xảy ra đã gây thiệt hại cho bị

hại không chỉ về lợi ích vật chất mà cả về tinh thần, danh dự, nhân phẩm ủa

chính bị hại đó; trong những trường hợp này việc khởi tố vụ án hình sự để truy

cứu có thể lại gây thêm những tổn thất khác cho bị hại. Chính vì vậy, chế định

13

“Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại” được quy định, và được xem như là một

trường hợp đặc biệt của khởi tố vụ án hình sự. Về bản chất hoạt động này không

chỉ đơn thuần là một trường hợp khởi tố có điều kiện là phải có yêu cầu của bị

hại mà cao hơn quyền buộc tội trong trường hợp này còn do bị hại quyết định,

bên cạnh các thẩm quyền tố tụng khác cỉa các cơ quan, người tiến hành tố tụng.

Như vậy, trong trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại, bên cạnh

việc đáp ứng các dấu hiệu thoãn mãn cấu thành tội phạm đối với từng tội phạm

cụ thể trong BLHS, thì còn phải đảm bảo các điều kiện về tố tụng là yêu cầu của

người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ trước khi khởi tố vụ án. Nếu không

có căn cứ về tố tụng, tức là yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của

họ thì không được tiến hành khởi tố với vụ án.

1.2. Đặc điểm của khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố

tụng hình sự

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại có những đặc điểm chung của

khởi tố vụ án hình sự, cụ thể như sau:

Thứ nhất, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bắt đầu khi phát hiện những

nguồn tin về tội phạm và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền xác định một sự

việc xảy ra trong thực tế có hay không có hành vi phạm tội để quyết định khởi tố

hay không khởi tố vụ án hình sự trên cơ sở quy định của pháp luật hình sự.

Quyết định khởi tố vụ án hình sự chính là cơ sở pháp lý đầu tiên, mở đầu cho các

CQTHTT thực hiện những hoạt động tố tụng trong các giai đoạn TTHS kế tiếp là

điều tra, truy tố, xét xử, tuy nhiên luật cũng quy định loại trừ những trường hợp

đặc biệt cần ngăn chặn ngay tội phạm hoặc đảm bảo cho việc điều tra sau này

được tiến hành thuận lợi thì một số hoạt động điều tra như giữ người trong

trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, khám nghiệm hiện trường, khám

nghiệm tử thi... thì có thể được thực hiện trước khi khỏi tố vụ án hình sự.

Thứ hai, Trong đó, CQTHTT gồm các chủ thể sau đây: CQĐT, VKS và

Tòa án (Hội đồng xét xử).

14

Thứ ba, căn cứ khởi tố vụ án hình sự là khi đã xác định sự việc cụ thể có

dấu hiệu tội phạm. Quyết định khởi tố vụ án về bản chất chưa buộc tội bất kỳ ai,

mà chỉ mang ý nghĩa cơ sở ban đầu để tiến hành các hoạt động điều tra cụ thể

được PLTTHS quy định nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Do vậy cơ

quan, người có thẩm quyền chỉ cần xác định có dấu hiệu tội phạm để khởi tố vụ

án hình sự. Giai đoạn khởi tố ụ án hình sự kết thúc có thể là sự khởi đầu của các

giai đoạn tố tụng tiếp theo nếu kết thúc giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hoặc cũng có thể là sự chấm dứt quá

trình TTHS nếu kết thúc giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

Thứ tư, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được luật TTHS quy định chặt chẽ

về thời hạn để hạn chế việc kéo dài, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp

của bị hại, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng của các cơ quan có

thẩm quyền.

Thứ năm, hoạt động tố tụng đặc trưng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình

sự là hoạt động tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Các hoạt động này nhằm

xác định tiền đề pháp luật về nội dung của việc điều tra vụ án hình sự, tức xác

định dấu hiệu tội phạm.

Thứ sáu, Kết quả giải quyết trong giai đoạn này là quyết định khởi tố vụ

án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự, được ban hành theo

biểu mẫu thống nhất của cơ quan có thẩm quyền.

Thứ nhất, việc khởi tố vụ án hình sự trong các trường hợp này phải dựa

trên yêu cầu khởi tố của bị hại. Nếu bị hại không yêu cầu việc khởi tố thì cơ

quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyết định của họ mà không

được tự ý khởi tố vụ án. Điều này thể hiện sự dung hòa giữa lợi ích chung của xã

hội và lợi ích riêng của bị hại, đồng thời thể hiện sự tiến bộ trong tư duy làm luật

của các nhà lập pháp trong việc đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích.

15

Thứ hai, Đó là các tội phạm mà về bản chất của sự xâm hại không quá

nghiêm trọng, khách thể của tội phạm là những mối quan hệ xã hội có liên quan

trực tiếp đến bản thân người bị hại như sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và quyền

sở hữu trí tuệ của họ mà việc xử lý bằng biện pháp hình sự trong những trường

hợp này có thể mang lại những hậu quả không mong muốn cho bị hại, đồng thời

không đảm bảo hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa tội phạm nói chung.

Thứ ba, ý chí của bị hại là điều kiện tiên quyết để cơ quan tiến hành tố

tụng khởi tố vụ án hình sự hoặc chấm dứt việc giải quyết vụ án hình sự. Chỉ bị

hại hoặc người đại diện trong các trường hợp cụ thể do BLTTHS quy định có

yêu cầu khởi tố thì vụ án mới được khởi tố mà không phải phụ thuộc vào quyết

định của cơ quan có thẩm quyền khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm. Khi bị hại

rút yêu cầu thì đó cũng là cơ sở để chấm dứt việc truy cứu TNHS đối với người

thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, tùy từng giai đoạn tố tụng mà bị hại hoặc

người đại diện bị hại có yêu cầu, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.

Thứ tư, chế định khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại ở nước ta là sự thể

hiện của việc kết hợp giữa quyền công tố và quyền tư tố trong TTHS. PLTTHS

nước ta chủ yếu vận hành theo nguyên tắc công tố, tức là Nhà nước toàn quyền

quyết định việc buộc tội, nhưng đối với một số loại tội phạm Nhà nước quyết

định việc buộc tội khi bị hại có yêu cầu khởi tố VAHS. Đây là quyền buộc tội

của bị hại, có tính chất tư tố, là điều kiện phát sinh quyền công tố của Nhà nước

nhưng vẫn nằm trong giới hạn của quyền công tố, vì bị hại chỉ có quyền yêu cầu

khởi tố VAHS, sau đó vụ án được giải quyết theo thủ tục chung. Bên cạnh đó,

mô hình tố tụng ở Việt Nam giai đoạn trước khi ban hành BLTTHS 2015 được

đa số các nhà luật học thừa nhận là “mô hình tố tụng pha trộn”[17, tr.23]. Mục

đích của tố tụng được xác định là nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án để

đấu tranh phòng chống tội phạm (kiểm soát tội phạm), nên nhà nước không quy

định quyền tư tố, đồng thời khẳng định dứt khoát nguyên tắc công tố trong tố

tụng. Trong nhà nước XHCN, VKS là cơ quan đại diện cho Nhà nước thực hiện

16

chức năng thực hành quyền công tố; quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của

người bị hại cũng chỉ giới hạn trong phạm vi mà nhà nước thừa nhận đối với một

số trường hợp nhất định, đó là những trường hợp mà tội phạm có tính chất, mức

độ nguy hiểm cho xã hội không cao xâm hại đến thể chất, tinh thần, tài sản, uy

tín, danh dự của chính bị hại mà việc khởi tố có thể gây ảnh hưởng xấu đến

chính bị hại của vụ án. Theo quy định của BLTTHS, bị hại được thực hiện quyền

yêu cầu khởi tố vụ án hình sự mà không phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh tội

phạm, buộc tội như trong thủ tục tư tố đối với vụ án. Trong vụ án hình sự được

khởi tố theo yêu cầu của bị hại, quyền công tố vẫn được duy trì và VKS vẫn là

cơ quan đại diện nhà nước thực hiện việc buộc tội để truy tố tội phạm và người

phạm tội.

Thứ năm, chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại là biểu hiện của

nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam [12, tr.34]. Có nhiều tội phạm

gây ra những thiệt hại không chỉ về vật chất mà cả những thiệt hại nghiêm trọng

về mặt tinh thần đối với người bị hại.

Vì vậy, nhà nước xác lập một khả năng, điều kiện để người bị hại được

cân nhắc tính toán khởi tố như thế có quá bất lợi cho cả lợi ích của họ hay

không.Việc nhà nước điều chỉnh bằng PLTTHS với việc khởi tố vụ án hình sự

theo yêu cầu của người bị hại chính là việc áp dụng các khả năng để cho người

bị hại lựa chọn biện pháp xử lý tội phạm gây ra cho mình, nếu không lựa chọn

biện pháp khác phù hợp với pháp luật thì biện pháp yêu cầu xử lý về hình sự là

biện pháp cuối cùng của người bị hại.

Thứ sáu, Bảo vệ tốt nhất, cao nhất quyền con ngquy, quyền công dân là lý

tưởng hướng đến của nhà nước pháp quyền. Lý luận về quyền con người xác

định về nội dung bảo vệ quyền con người gồm các yêu cầu là thừa nhận, bảo

đảm và thực thi quyền con người như là yếu tố tự nhiên vốn có của nó, không

phụ thuộc ý chí nhà nước [17, tr.47]. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự nội dung

này đã được quy định rất sớm và rộng rãi; việc thừa nhận được nêu rõ từ các lĩnh

vực thiết thực nhất như: bảo vệ quyền sống, quyến bất khả xâm phạm về thân

17

thể, quyền tự do, quyền nhân thân đến danh dự, nhân phẩm… Pháp luật về khởi

tố vụ án theo yêu cầu của bị hại đã trao quyền yêu cầu khởi tố vụ án cho bị hại,

đây là biện pháp quan trọng để bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự.

Về nội dung bảo đảm và thực thi về quyền con người trong pháp luật hình sự

được xác lập bằng hai phương thức: là phương thức nhà nước tự quyết định biện

pháp bảo vệ cho mọi công dân gọi là công tố và phương thức cá nhân được phép

sử dụng quyển mà nhà nước ghi nhận và bảo đảm Trong vụ án khởi tố theo yêu

cầu của người bị hại ghi nhận quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự là

việc ghi nhận, bảo đảm “quyển con người” ở phạm vi nhất định. Việc để cho bị

hại có quyền tự do lựa chọn biện pháp tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của mình

thông qua việc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khởi tố hay không khởi tố vụ án

hình sự thể hiện sự tôn trọng quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự. Do bị

hại là chủ thể bị tội phạm tác động trực tiếp nên họ là người có điều kiện và khả

năng đánh giá chính xác và tự quyết định trong giới hạn pháp luật cho phép hành

vi của mình, trên cơ sở cân nhắc các mặt lợi ích để xác định lợi ích nào cần đạt

có lợi cho họ nhất: như lợi ích vật chất, tinh thần, lợi ích khác… Từ đó lựa chọn

hành động đúng đắn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình. Việc xây dựng

và áp dụng quy định này đồng thời phải tính tới yếu tố bảo vệ lợi ích hợp pháp

của mọi công dân khác và các lợi ích hợp pháp chung của Nhà nước, của xã hội,

bảo đảm nguyên tắc nhà nước duy trì quyền công tố trong xử lý tội phạm.

Như vậy, quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại trong TTHS là

“trường hợp đặc biệt” của pháp luật về khởi tố vụ án, đây là quyền “yêu cầu khởi

tố đối với vụ án hình sự” của người bị hại trong giới hạn pháp luật quy định; là

cơ sở, là điều kiện để phát sinh quyền công tố nhà nước với các tội phạm. Có thể

nói quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong TTHS Việt Nam đã

tạo điều kiện để bảo vệ tốt hơn quyền con người thông qua việc tạo ra một

phương tiện pháp lý hữu hiệu giúp bị hại thực hiện quyền của mình; thực hiện có

hiệu quả các nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm trong chính sách hình sự

của Đảng và Nhà nước ta; bảo đảm dân chủ, công bằng trong TTHS.

18

1.3. Ý nghĩa của khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố

tụng hình sự

1.3.1. Ý nghĩa pháp lý

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng đã và đang được tiến hành một

cách toàn diện, sâu sắc. Những thành tựu to lớn do quá trình đổi mới mang lại đã

tạo ra những tiền đề cần thiết đưa đất nước ta bước vào một thời kỳ mới. Nhiều

tư tưởng, quan điểm về cải cách tư pháp trong các Nghị quyết của Đảng đã được

đề ra, trong đó đáng chú ý là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ

chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và

Nghị quyết số 49 ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị đề cập vấn đề “Về chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020”. Nghị quyết đặt ra nhiều vấn đề về PLTTHS

cần tiếp tục được thể chế hoá thành những quy định của pháp luật; đồng thời,

những hạn chế bất cập của PLTTHS hiện hành cần được khắc phục nhằm đảm

bảo nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp, bảo đảm sự thống nhất và đồng

bộ giữa các văn bản pháp luật, bảo đảm tốt hơn quyền tự do dân chủ của công

dân, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, và công cuộc đấu tranh phòng chống tội

phạm hiện nay. Những quy định của BLTTHS về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị

hại đã góp phần củng cố các nhiệm vụ, mục tiêu trong chiến lược cải cách tư

pháp của Đảng và Nhà nước ta, góp phần xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi hành

vi phạm tội, người phạm tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh

phòng ngừa và chống tội phạm trong tình hình mới.

Khởi tố vụ án hình sự nói chung và khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của

bị hại nói riêng là hoạt động xác nhận về mặt pháp lý một vụ án hình sự đã xảy

ra và các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhân danh Nhà nước có trách

nhiệm giải quyết vụ án đó. Nhà nước dùng PLTTHS mang các đặc trưng mà các

biện pháp điều chỉnh khác không có như tính quy phạm phổ biến, tính bắt buộc

chung, tính cưỡng chế để tăng cường hiệu quả trấn áp tội phạm. Thông qua công

19

cụ PLTTHS, nhà nước tác động vào chủ thể thực hiện tội phạm, buộc họ phải

chịu hậu quả pháp lý bất lợi đối với hành vi của mình nhằm răn đe mạnh mẽ đối

với ý thức người phạm tội. Quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của

bị hại thể hiện một loại quyền đặc thù của bị hại trong TTHS. Quyền này được

ghi nhận trong BLTTHS với các nội dung cụ thể như: chủ thể có quyền yêu cầu

khởi tố, phạm vi thực hiện yêu cầu khởi tố, hậu quả pháp lý của việc thực hiện

quyền yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại… Từ đó thiết lập cơ chế điều chỉnh bảo

vệ tốt nhất quyền và lợi ích của người bị hại trong TTHS.

Khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm là quyền

và trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không phải phụ thuộc vào

ý muốn cá nhân mà phải dựa trên các quy định của pháp luật hình sự. Tuy nhiên,

xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, pháp luật quy định cho

phép người bị hại có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc khởi

tố vụ án hình sự. PLTTHS hiện nay quy định một số tội phạm chỉ được khởi tố

theo yêu cầu của bị hại, mà nếu cơ quan có thẩm quyền không nhận được yêu

cầu của bị hại nhưng vẫn tiến hành khởi tố vụ án là trái quy định pháp luật. Chế

định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại có ý nghĩa quan trọng trong việc hạn

chế việc gây thêm những tổn thất, mất mát về mặt tinh thần, danh dự đối với bị

hại, thể hiện tính linh hoạt, mềm dẻo trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà

nước ta.

1.3.2. Ý nghĩa chính trị - xã hội

Xuất phát từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, thể hiện thái độ

tôn trọng, giữ bí mật về đời tư đối với người bị hại, PLTTHS cho phép một số tội

danh được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại đối với những vụ việc

xuất phát từ mâu thuẫn xã hội dẫn đến việc xâm hại sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm hoặc những vụ việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp mà tính chất,

mức độ cũng như thiệt hại gây ra chỉ được giới hạn ở trường hợp ít nghiêm trọng

hoặc nghiêm trọng.

20

Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là một trong những quy định của

PLTTHS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại. Tuy nhiên, trong thực tiễn thi

hành quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại phát sinh một số

khó khăn, vướng mắc trong nhận thức và áp dụng pháp luật. Trong thực tế, có

những trường hợp việc khởi tố vụ án hình sự để truy cứu trách nhiệm người thực

hiện hành vi phạm tội có thể gây thêm những tổn thất khác cho bị hại so với việc

không khởi tố vụ án hình sự như: Gây thêm những tổn thất về tinh thần, làm lộ bí

mật đời tư của bị hại, phá vỡ sự tha thứ, hòa giải và thỏa thuận bồi thường giữa

các bên... Chính vì vậy, PLTTHS quy định đối với một số trường hợp tội phạm

xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người hoặc xâm phạm trật tự

quản lý kinh tế, không phải là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm

trọng, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không phải là rất lớn hoặc đặc

biệt lớn, không có tình tiết định khung tăng nặng thì việc khởi tố vụ án chỉ có thể

được thực hiện khi có yêu cầu khởi tố của bị hại hoặc người đại diện hợp pháp

của họ.

Có thể nói, quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là một quy

định pháp luật tiến bộ, đáp ứng được nhu cầu về đảm bảo lợi ích của bị hại, đồng

thời đảm bảo sự phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Quy định khởi tố vụ án

theo yêu cầu của bị hại càng thể hiện ý nghĩa quan trọng trong việc hạn chế các

trường hợp khi đưa người phạm tội ra xử lý sẽ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự

của bị hại, hoặc không có lợi cho lợi ích chung của xã hội.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, PLTTHS nói riêng, trong đó có

quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại là góp phần vào việc thực hiện

những nhiệm vụ trọng tâm công tác cải cách tư pháp. Việc nhận thức và quy định

đầy đủ về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại một cách đúng đắn là cơ sở bảo đảm

cho bị hại thực hiện được những quyền công dân của mình, vừa đóng góp quan

trọng vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm của Đảng và Nhà nước ta

hiện nay.

21

1.3.3. Ý nghĩa thực tiễn

Xuất phát từ nhu cầu tất yếu khách quan nhằm bảo đảm quyền và lợi ích

hợp pháp của bị hại, vừa bảo đảm về công bằng xã hội thì việc PLTTHS quy

định bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là một trong

các quyền cơ bản được bảo đảm thực hiện và là nhu cầu tất yếu. Bởi nếu

PLTTHS không có những quy định bảo đảm quyền yêu cầu khởi tố vụ án cho bị

hại thì bị hại sẽ không có đầy đủ các điều kiện để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình. Do đó, việc quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại là một

trong những quy định có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp

pháp cho bị hại trong TTHS, đồng thời phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con

người của bị hại trong quá trình Việt Nam gia nhập và thể chế hóa mạnh mẽ các

Điều ước quốc tế về quyền con người.

Bơi lẽ thông thường những trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại là

những trường hợp mà thiệt hại không lớn. Nếu đưa người phạm tội ra xử lý mà

việc xử lý này không phù hợp với ý muốn của bị hại thì dễ gây bất ổn trong mối

quan hệ xã hội, từ đó tạo ra nhiều hệ lụy không tốt cho xã hội. Trên cơ sở cân đối

giữa các lợi ích, trong một số trường hợp, quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu

của bị hại mang đến lợi ích về nhiều mặt, không chỉ phù hợp với nguyện vọng

của bị hại mà còn không gây tốn kém sức lực của cơ quan, người tiến hành tố

tụng, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới đặt ra những nhiệm vụ mới

về kinh tế, chính trị, trong đó có nhiệm vụ về đấu tranh, phòng chống tội phạm,

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và trật tự Xã hội chủ nghĩa. Việc

nhà làm luật xác lập một khả năng để bị hại có thể cân nhắc, quyết định có yêu

cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý về mặt hình sự đối với hành vi phạm

tội hay không là một quy định có tính chất đặc trưng, mà thông qua việc cho

phép bị hại được lựa chọn cách xử lý này đối với người phạm tội đã tạo ra cơ sở

pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trong TTHS.

22

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Với ý nghĩa quan trọng trong TTHS, “Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị

hại”, có những đặc điểm thể hiện sự riêng biệt của chế định này, theo đó: khởi tố

vụ án hình sự trong các trường hợp này phải dựa trên yêu cầu khởi tố của bị hại,

nếu bị hại không yêu cầu thì cơ quan có thẩm quyền không được khởi tố vụ án;

chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại chỉ áp dụng đối với một số tội

phạm nhất định; điều kiện để khởi tố vụ án hình sự, cũng như chấm dứt việc giải

quyết vụ án hình sự phụ thuộc ý chí của bị hại.

Chế định khởi tố theo yêu cầu của bị hại thể hiện sự công bằng của nhà

nước trong pháp luật tố tụng hình sự, xuất phát từ phương diện và hướng tới giá

trị bảo vệ quyền, danh dự, nhân phẩm của con người nói chung, của bị hại nói

riêng. Di đó, việc quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại là một trong

những quy định có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp

cho bị hại trong TTHS, đồng thời phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người

của bị hại trong quá trình Việt Nam gia nhập và thể chế hóa mạnh mẽ các Điều

ước quốc tế về quyền con người. Đồng thời, tác giả đã chỉ ra mối liên hệ giữa

giai đoạn khởi tố vụ án với các giai đoạn khác trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Từ

đó cho thấy quy định định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là mắt xích rất

cần thiết trong hệ thống tố tụng hình sự dân chủ và tiến bộ.

Những nội dung được trình bày ở chương 1 này là cơ sở để phân tích,

đánh giá quy định pháp luật, nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về khởi tố

vụ án theo yêu cầu của bị hại từ thực tiễn quận Hoàng Mai. Trên cơ sở đó, đưa ra

một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố

tụng hình sự cũng như bảo đảm thực hiện có hiệu quả quy định về khởi tố vụ án

theo yêu cầu của bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự.

23

Chương 2

THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU

CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HOÀNG MAI,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Sự hình thành và phát triển các quy định về khởi tố vụ án theo yêu

cầu của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

2.1.1. Quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại trong pháp luật tố

tụng hình sự thời kỳ sau Cách mạng Tháng 8/1945 đến trước khi ban hành Bộ

luật tố tụng hình sự 1988

Sau một thời gian dài áp dụng các quy định của thời gian trước, nhận

thấy những thay đổi và chuyển biến mới trong tình hình xã hội, Nhà nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành nhiều văn bản mới về hình sự và tố tụng để

thay thế pháp luật chế độ cũ, trong số các quy định mới đó, pháp luật hình sự

thời kì này cũng đã ghi nhận có một số quy định liên quan đến yêu cầu của người

bị hại.

Tiếp sau đó, TA tối cao đã ban hành Thông tư số 16/TATC ngày

27/9/1974. Nội dung Thông tư ghi nhận người bị hại có quyền: “Được đề xuất

chứng cứ và những lời thỉnh cầu; được yêu cầu bồi thường và yêu cầu áp dụng

những biện pháp nhằm đảm bảo bồi thường; được xin thay đổi Thẩm phán và

Hội thẩm nhân dân; được tham gia các cuộc thẩm vấn và tranh luận tại phiên

tòa về những sự việc đã gây thiệt hại cho mình; được kháng tố theo những quy

định của pháp luật để xin tăng hình phạt đối với bị cáo và tăng tiền bồi thường.

Có trường hợp người bị hại không yêu cầu bồi thường, nhưng trong trường hợp

người bị hại có yêu cầu bồi thường thì họ cũng có quyền của nguyên đơn dân sự.

Nếu việc phạm pháp đã gây ra chết người thì cha, mẹ, vợ, con, anh, chị, em ruột

của người bị hại đều có những quyền của người bị hại nói trên”. [31, tr. 46].

Ngoài ra, Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ 76 thẩm về hình sự ban

hành theo Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của TA tối cao, xác định:

24

Người bị hại là công dân đã bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm phạm đến thể chất,

tài sản, hoặc xâm hại về tinh thần (như bị lăng nhục, đánh, giết, trộm cắp, lừa

đảo...). Người đã can thiệp để ngăn cản bị cáo đánh, giết người khác nhưng bản

thân cũng bị kẻ phạm pháp gây thương tích, hoặc người có nhà cửa bị cháy vì bị

cáo đốt nhà của người khác nhưng đám cháy lan sang nhà của họ, cũng là người

bị xâm hại trực tiếp đến thể chất, tài sản [12, tr. 46].

Xuất phát từ quan niệm cho rằng quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ

giữa Nhà nước và người phạm tội. Chỉ có Nhà nước mới có quyền khởi tố, điều

tra, truy tố và xét xử người phạm tội, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm

tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm đã gây ra. Mà trước khi

BLTTHS 1988 được ban hành hệ thống pháp luật nhà nước ta về cơ bản chưa thể

hiện rõ nét vai trò của người bị hại trong giải quyết vụ án hình sự, chưa có một

chế định cụ thể nào quy định về quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại, mà chỉ

dừng lại ở một số văn bản pháp luật quy định mang tính chất chung chung về

người bị hại trong vụ án hình sự.

2.1.2. Quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong

BLTTHS 1988 và năm 2003

BLTTHS 1988 ra đời thể hiện một bước tiến mới trong PLTTHS nước ta,

tại Chương 7, Điều 88 của BLTTHS 1988 đã chính thức ghi nhận chế định khởi

tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại như sau: “1. Những vụ án về các

tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 109; đoạn 1, khoản 1 Điều 112; đoạn

1, khoản 1 Điều 113; khoản 1 Điều 116; khoản 1 Điều 117 và Điều 126 BLHS

chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. 2. Trong trường hợp người bị

hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà thì vụ án phải được đình chỉ” [20].

Việc ghi nhận chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại cho thấy sự

kết hợp hài hòa giữa quyền lợi của người bị hại với lợi ích chung của xã hội, thể

hiện ý nghĩa lớn lao về mặt pháp lý và xã hội. Tuy nhiên, quy định của BLTTHS

1988 về chế định này vẫn còn khá đơn giản, chưa chặt chẽ, và còn khá chung

chung, đòi hỏi cần được tiếp tục hoàn thiện.

25

Theo BLTTHS 2003 thì khởi tố theo yêu cầu bị hại được quy định tại

Điều 105: “1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều

104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của BLHS chỉ được khởi

tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người

bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu

khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu

khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục

tiến hành tố tụng đối với vụ án. Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có

quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức” [21].

Theo đó, BLTTHS 2003 quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109,

111, 113, 121, 122, 131 và 171 lần lượt là các tội: Tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh,

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do

vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác, Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành

chính, Tội hiếp dâm, Tội cưỡng dâm, Tội làm nhục người khác, Tội vu khống,

Tội xâm phạm quyền tác giả và Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp chỉ

được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, nếu người bị hại

không có yêu cầu thì không được khởi tố vụ án hình sự.

BLTTHS 2003 so với BLTTHS 1988 đã mở rộng hơn các tội được khởi tố

vụ án theo yêu cầu của người bị hại. Bên cạnh các tội được quy định trước đó

trong BLTTHS 1988, BLTTHS 2003 đã bổ sung thêm các tội như sau: tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh; tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; tội vô ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; tội vô ý gây thương

26

tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề

nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Cùng với đó, BLTTHS 2003 có quy định mới so

với BLTTHS 1988 đó là quy định việc người bị hại nếu đã rút yêu cầu khởi tố thì

không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp việc rút yêu cầu không phải do tự

nguyện mà do bị người khác ép buộc, cưỡng bức thì cơ quan tiến hành tố tụng

vẫn tiến hành tố tụng bình thường. Như vậy, BLTTHS 2003 đã có những quy

định mới đầy đủ và chặt chẽ hơn so với những quy định của BLTTHS 1988. Tuy

nhiên, quy định của BLTTHS 2003 vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: hạn chế

quyền của người bị hại, phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự,

chưa quy định cơ quan, tổ chức cũng là bị hại trong vụ án hình sự.

Trên cơ sở BLTTHS 2003 và thực tiễn công tác áp dụng quy định của

pháp luật về yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại, BLTTHS 2015 đã sửa đổi,

bổ sung quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại theo hướng mở

hơn và thu hẹp phạm vi các loại tội phạm khởi tố theo yêu cầu của người bị hại.

2.2. Thực trạng quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong

Bộ luật tố tụng hình sự 2015

Chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại được quy định tại Điều

155 BLTTHS 2015 như sau: “1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy

định tại Khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226

của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp

pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm

thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

2.2.1. Các trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại

Trong bất kì Nhà nước nào, yêu cầu phát hiện, xử lí, đấu tranh kiên quyết,

không khoan nhượng đối với mọi tội phạm và người phạm tội cũng được quan

tâm, chú trọng. Thực tế cho thấy, có những hành vi phạm tội xâm hại đến quyền

và lợi ích của cá nhân, tổ chức nhưng nếu vụ việc được làm sáng tỏ, công khai có

thể ảnh hưởng đến quyền, lợi ích nhất định của bị hại. Do đó, BLTTHS quy đinh

về những trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu cùa bị hại. CQTHTT chỉ

27

được quyền khởi tố VAHS khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị

hại và họ chỉ được quyền rút yêu cầu khởi tố thuộc một trong các tội danh được

liệt kê tại khoản 1 Điều 155 của BLTTHS 2015.

Khoản 1 Điều 155 BLTTHS 2015 quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án hình

sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143,

155, 156 và 226 của BLHS...” [22]. Như vậy, BLTTHS 2015 quy định có 10 tội

phạm thuộc trường hợp chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại.

Cụ thể như sau:

+ Khoản 1 Điều 134 BLHS Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác: Đây là trường hợp một người có hành vi cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương

cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;

b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; d)

Phạm tội 02 lần trở lên…. Đây là tội ít nghiêm trọng, hình phạt áp dụng đối với

tội này là bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng

đến 03 năm.

+ Khoản 1 Điều 135 BLHS Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh: Đây là

trường hợp một người có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% nhưng ở trong trạng

thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn

nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó. Đây là tội ít

nghiêm trọng, hình phạt áp dụng đối với tội này là hình phạt tiền từ 10.000.000

đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

+ Khoản 1 Điều 136 BLHS Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt

quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội: Đây là trường hợp một người có

28

hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà

tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính

đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội. Vượt quá giới

hạn phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người

khác, đã có hành vi chống trả lại người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói

trên nhưng sự chống trả đó rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp, không

tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

Vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là hành vi gây thương tích,

tổn hại cho sức khỏe của người bị bắt giữ, nhưng đã sử dụng vũ lực vượt quá

mức độ cần thiết khi bắt giữ người phạm tội. Đây là tội ít nghiêm trọng, hình

phạt áp dụng đối với tội này là hình phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000

đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

+ Khoản 1 Điều 138 BLHS Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác: Đây là trường hợp một người vô ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến

60%. Đây là tội ít nghiêm trọng, hình phạt áp dụng đối với tội này là hình phạt

cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo

không giam giữ đến 03 năm.

+ Khoản 1 Điều 139 BLHS Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành

chính: Đây là trường hợp một người có hành vi vô ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy

tắc hành chính mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên. Đây là tội ít nghiêm trọng,

hình phạt áp dụng đối với tội này là hình phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến

100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03

tháng đến 01 năm.

+ Khoản 1 Điều 141 BLHS Tội hiếp dâm: Đây là trường hợp một người

dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được

29

của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ

tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. Đây là trường hợp tội nghiêm trọng,

hình phạt áp dụng đối với tội này là hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

+ Khoản 1 Điều 143 BLHS Tội cưỡng dâm: Đây là trường hợp một người

có hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở

trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện

hành vi quan hệ tình dục khác. Đây là tội nghiêm trọng, hình phạt áp dụng đối

với tội này là hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

+ Khoản 1 Điều 155 BLHS Tội làm nhục người khác: Đây là trường hợp

một người có hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người

khác. Đây là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, hình phạt áp dụng đối với tội

này là bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc

phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

+ Khoản 1 Điều 156 BLHS Tội vu khống: Đây là trường hợp một người

có hành vi: Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc

phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích

hợp pháp của người khác; Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ

quan có thẩm quyền. Đây là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, hình phạt áp

dụng đối với tội này là hình phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng,

phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

+ Khoản 1 Điều 226 BLHS Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp:

Đây là trường hợp một người cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với

nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam, thu lợi bất chính

từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ sở

hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000

đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000

đồng. Đây là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, hình phạt áp dụng đối với tội

này là hình phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo

không giam giữ đến 03 năm.

30

Đây là những tội danh mà người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm

đến quyền và lợi ích của bị hại cũng như ảnh hưởng đến nhà nước và xã hội ở

mức độ hạn chế; nếu như để họ tiếp tục theo đuổi vụ án thì có thể gây mất nhiều

thời gian, công sức, tiền bạc của họ, thậm chí còn có thể làm giảm uy tín, ảnh

hưởng đến danh dự, nhân phẩm và còn gây ra tiếp những tổn hại về tinh thần cho

họ. Do vậy, TTHS đã trao cho bị hại quyền tự quyết và định đoạt, tức là vụ án

chỉ được khởi tố theo yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại trong một

số trường hợp đặc biệt và họ cũng có thể rút lại yêu cầu của mình để chấm dứt

tiến trình giải quyết vụ án để có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của bị hại,

nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến lợi ích của xã hội và nhiệm vụ của nhà

nước trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bảo vệ bị hại do đó còn phải

xem xét đến nguyện vọng của bị hại mong muốn xử lý người phạm tội như thế

nào.

Điều luật chỉ giới hạn thủ tục có đơn yêu cầu khởi tố trong mười tội phạm

nêu trên. Tuy nhiên, không phải trường hợp phạm tội nào cũng cần đơn yêu cầu

khởi tố, chi khi hành vi phạm tội thuộc trường hợp theo quy định tại khoản 1 của

các điều luật trên với khung hình phạt cao nhất là 07 năm tù (tội hiếp dâm), 05

năm tù (tội cưỡng dâm) và 03 năm tù (các tội còn lại). Nếu hành vi phạm tội rơi

vào khoản 2 thì việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án không đòi hỏi thủ tục

yêu cầu của bị hại.

So với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 đã bỏ 01 trường hợp khởi tố theo yêu

cầu bị hại, đó là Tội xâm phạm quyền tác giả. Việc BLTTHS 2015 bỏ trường

hợp khởi tố theo yêu cầu bị hại đối với tội này đã thể hiện sự tiến bộ trong công

tác lập pháp, phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì thực tế

hiện nay, quyền tác giả đã, đang bị xâm phạm ngày càng nhiều và nghiêm trọng

hơn, bằng nhiều hành vi ngày càng tinh vi, phức tạp hơn; thậm chí, việc xâm

phạm diễn ra nhưng chính tác giả vẫn không hay biết. Chính vì thế, hành vi xâm

phạm này cần được bảo vệ mà không cần phải có yêu cầu của bị hại nhằm bảo vệ

31

tốt hơn quyền tác giả, quyền liên quan là phù hợp với tình hình của đất nước hiện

nay.

2.2.2. Nội dung, chủ thể, hình thức khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị

hại

2.2.2.1. Nội dung khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại

Hiện nay, bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với các tội

danh theo quy định tại khoản 1 Điều 155 của BLTTHS 2015. Sau khi có quyết

định khởi tố vụ án hình sự của cơ quan có thẩm quyền, toàn bộ quá trình điều tra,

truy tố, xét xử sẽ được tiến hành theo thủ tục chung theo đúng quy định của

BLTTHS mà bị hại không có các đặc quyền nào riêng khác so với các vụ án

thông thường. Yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại là điều kiện bắt buộc trong

những trường hợp người phạm tội phạm vào các tội khởi tố theo yêu cầu của

người bị hại nêu trên, nếu khởi tố khi không có yêu cầu của bị hại hoặc người đại

diện hợp pháp của họ thì bị xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Nội dung yêu cầu khởi tố vụ án là yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự

người phạm tội, xử lý sự việc có dấu hiệu tội phạm. Vì vậy, nếu đơn yêu cầu

không thể hiện rõ yêu cầu khởi tố vụ án hoặc chỉ yêu cầu chung chung là xử lý

sự việc theo pháp luật thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải hướng dẫn người

yêu cầu để họ xác định lại chính xác nội dung yêu cầu và làm đơn cho phù hợp,

tránh trường hợp nội dung yêu cầu của người khởi tố không rõ ràng, dẫn đến gây

khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án cả cho cơ quan tiến hành tố tụng và cũng

không đảm bảo quyền lợi cho bị hại.

Nội dung yêu cầu khởi tố cũng có thể chứa đựng thông tin về tội phạm

nên yêu cầu khởi tố có thể đồng thời là tố giác tội phạm, là một trong những căn

cứ xác định dấu hiệu tội phạm. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ ràng yêu cầu khởi tố

chỉ là điều kiện để cơ quan có thẩm quyền quyết định việc khởi tố vụ án hình sự

chứ không phải là căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự

theo quy định BLTTHS là dấu hiệu tội phạm. Nếu chỉ có yêu cầu khởi tố mà

không có dấu hiệu tội phạm thì không được khởi tố vụ án hình sự và ngược lại,

32

khi xác định có dấu hiệu tội phạm thuộc trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu

của bị hại nhưng không có yêu cầu khởi tố của bị hại thì cũng không được khởi

tố vụ án hình sự.

2.2.2.2. Chủ thể khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại

BLTTHS 2015 đã có một bước tiến quan trọng là công cụ pháp lý hiệu

quả để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trong vụ án hình sự. Nếu

BLTTHS 2003 quy định Thì đến BLTTHS 2015 thuật ngữ “Người bị hại” trong

BLTTHS 2003 đã được thay thế bằng thuật ngữ “Bị hại” trong đó khái niệm bị

hại mở rộng hơn đối tượng bao gồm cá nhân và pháp nhân (BLTTHS 2003 quy

định chỉ có cá nhân).

BLTTHS 2015 đã sửa đổi cụm từ “người đại diện hợp pháp của người bị

hại” và “người chưa thành niên” thành cụm từ “người đại diện” và “người dưới

18 tuổi” và bổ sung trường hợp “người đại diện của bị hại có quyền yêu cầu khởi

tố trong trường hợp bị hại đã chết”. Có thể thấy, việc sửa đổi, bổ sung trên là

thống nhất với khái niệm bị hại được nêu tại khoản 1 Điều 62 BLTTHS 2015 khi

không chỉ quy định cá nhân mới là bị hại như BLTTHS 2003 (Điều 51) mà còn

cho phép cả cơ quan, tổ chức cũng là bị hại.

BLTTHS 2015 mở rộng phạm vi chủ thể có tư cách bị hại, đồng nghĩa với

phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự cũng được mở rộng.

Quy định của BLTTHS 2015 là hợp lý vì cả bị hại và người đại diện của họ đều

là chủ thể của quyền rút yêu cầu khởi tố, việc quy định cả hai chủ thể trên đều

không được yêu cầu khởi tố lại là phù hợp về kỹ thuật lập pháp. Như vậy, phạm

vi của đối tượng được hưởng quyền của bị hại không chỉ giới hạn là những bị hại

trực tiếp của tội phạm mà còn được mở rộng ra cả đối tượng khác như: Trường

hợp bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần, thể chất hoặc

đã chết thì người đại diện của họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại

quy định. Trường hợp cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp

nhất thì người đại diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và

33

nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định

(Khoản 5 Điều 62 BLTTHS 2015).

Ngoài ra, việc bổ sung trường hợp “người đại diện của bị hại khi bị hại đã

chết” xuất phát từ thực tiễn sau khi bị hại bị xâm hại đã chết sau đó (do bị bệnh,

tai nạn…) nên việc yêu cầu khởi tố sẽ do ai thực hiện, trong khi người chưa

thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì pháp luật đã cho

phép người đại diện của họ thực hiện quyền yêu cầu.

Quyền của bị hại và người đại diện của họ được quy định tại khoản 2 Điều

62 BLTTHS 2015 như: Quyền được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ;

Quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Quyền trình bày ý kiến về

chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố

tụng kiểm tra, đánh giá; Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa

phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa;

xem biên bản phiên tòa… Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để bị hại bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong TTHS.

2.2.2.3. Hình thức khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại

Có thể thấy, Điều 155 BLTTHS 2015 chưa có quy định rõ về hình thức

của yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại. Có thể hiểu hình thức của yêu cầu

khởi tố vụ án hình sự của bị hại là tài liệu phản ánh yêu cầu của bị hại hoặc đại

diện hợp pháp của bị hại mong muốn xử lý vụ án bằng pháp luật hình sự đối với

người phạm tội đối với các tội phạm luật định. Vì vậy, các tài liệu này cần được

thu thập vào trong hồ sơ vụ án để cơ quan có thẩm quyền khởi tố đánh giá căn cứ

vào các quy định của pháp luật nội dung là chứng cứ chứng minh sự kiện có dấu

hiệu tội phạm, và các căn cứ hình thức trong quy định pháp luật nội dung là thủ

tục thực hiện yêu cầu, từ đó quyết định khởi tố vụ án hình sự.

Hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình sự không được ghi nhận trong

BLTTHS 2015, tuy nhiên tại Thông tư Liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-

BCA-BQP ngày 07/9/2018, về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc

thực hiện một số quy định của BLTTHS 2015 có quy định về vấn đề này tại

34

khoản 5 Điều 7 như sau: “Trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị

hại, thì yêu cầu khởi tố của bị hại hoặc người đại diện của bị hại phải thể hiện

bằng văn bản có chữ ký hoặc điểm chỉ của họ; trường hợp bị hại hoặc người đại

diện của bị hại đến trực tiếp trình bày thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải

lập biên bản ghi rõ nội dung yêu cầu khởi tố để họ ký hoặc điểm chỉ vào biên

bản. Biên bản do Viện kiểm sát lập phải được chuyển ngay cho Cơ quan điều tra

để xem xét việc khởi tố vụ án hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án” [40]. Theo hướng

dẫn của Thông tư liên tịch thì có hai hình thức để thể hiện yêu cầu của bị hại về

khởi tố vụ án hình sự: Một là bằng đơn (văn bản) do bị hại hoặc người đại diện

của bị hại viết, nội dung đơn phải có chữ kí hoặc điểm chỉ của họ; Hai là bằng

biên bản do CQĐT, VKS lập trong trường hợp bị hại hoặc người đại diện của bị

hại đến trực tiếp trình bày bằng lời được CQTHTT ghi nhận bằng biên bản. Hai

hình thức này đều được phản ánh vào trong hồ sơ vụ án.

Hiện nay, PLTTHS chưa có quy định cụ thể về nội dung của yêu cầu khởi

tố. Tuy nhiên, để đảm bảo đầy đủ thông tin và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt

động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm của các cơ quan có thẩm quyền

tiến hành tố tụng thì yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại đòi hỏi phải đảm

bảo các nội dung sau đây: Một là, về mặt chủ thể thực hiện yêu cầu phải là bị hại

hoặc đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần,

thể chất hoặc đã chết. Hai là, về nội dung của yêu cầu khởi tố phải đáp ứng các

thông tin sau: ngày, tháng, năm sinh của bị hại, nơi cư trú của bị hại, tóm tắt nội

dung vụ án mà bị hại yêu cầu khởi tố. Ba là, về mặt hình thức, bị hại phải điểm

chỉ hoặc ký xác nhận cho yêu cầu của mình để thể hiện sự tự nguyện, không có

sự ép buộc, cưỡng bức từ bên thứ ba để yêu cầu khởi tố. Nếu có căn cứ theo quy

định của BLHS có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định

khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, sau đó pháp luật điều chỉnh

quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự trong trường hợp khởi tố vụ án

theo yêu cầu bị hại tiếp tục được thực hiện theo quy định chung như tuân thủ quy

định chung của BLTTHS 2015 về thẩm quyền; thời hạn điều tra, truy tố, xét xử;

35

việc trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, về gia hạn điều tra, truy tố, về tạm đình

chỉ, đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ, đình chỉ bị can, bị cáo và các vấn đề khác có

liên quan theo quy định chung của BLTTHS… nếu có các căn cứ pháp luật theo

luật định mà không cần phải phụ thuộc vào ý chí hay yêu cầu của bị hại trong vụ

án.

2.2.3. Hậu quả pháp lý của việc yêu cầu và rút đơn yêu cầu khởi tố vụ

án theo yêu cầu của bị hại

2.2.3.1. Hậu quả pháp lý của yêu cầu khởi tố

Khi bị hại có yêu cầu khởi tố, mà yêu cầu đó của bị hại đảm bảo các quy

định về pháp luật nội dung và pháp luật hình thức đủ điều kiện để khởi tố vụ án

hình sự thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự theo yêu

cầu bị hại.

Để đảm bảo thực hiện quyền buộc tội tại phiên tòa cho bị hại, Khoản 4

Điều 320 BLTTHS 2015 đã đồng thời quy định về việc bị hại hoặc người đại

diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm sát viên trình bày luận tội.

Trong TTHS chức năng buộc tội tồn tại song song với chức năng gỡ tội

(bào chữa) như là nhu cầu tất yếu khách quan [8, tr.92,93]. “Khi chưa xác định ai

là người thực hiện tội phạm hoặc chưa bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp

thì TTHS chưa xuất hiện chức năng bào chữa” [11, tr.53]. Nói cách khác, hậu

quả pháp lý của yêu cầu khởi tố đó là mở ra một giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

Yêu cầu của bị hại trong những trường hợp này đóng vai trò quan trọng trong

việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền, dồng

thời được thể hiện rõ trong quyết định khởi tố vụ án hình sự mà nếu không có nó

thì không thể ra quyết định khởi tố vụ án được do sẽ vi phạm nghiêm trọng thủ

thục tố tụng. Đồng thời, ngoài việc cho phép bị hại hoặc người đại diện hợp pháp

của bị hại trình bày lời buộc tội tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như

đã nêu trên thì quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự khởi tố theo

yêu cầu của bị hại vẫn tuân theo các quy định chung về điều tra, truy tố và xét xử

36

theo thủ tục bình thường, trừ trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố một cách tự

nguyện thì vụ án phải được đình chỉ dù ở trong bất kì giai đoạn tố tụng nào.

2.2.3.2. Hậu quả pháp lý của rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại

Tại khoản 2, và khoản 3 Điều 155 BLTTHS 2015 quy định về hậu quả

pháp lý của việc rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại

Một là, đình chỉ vụ án: theo quy định của BLTTHS thì hậu quả pháp lý

chung của việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại là vụ án phải được

đình chỉ dù ở trong bất kì giai đoạn nào.

Ở thủ tục tố tụng tại phiên tòa về nguyên tắc thẩm quyền định chỉ vụ án

thuộc về hội đồng xét xử theo quy định Điều 326 BLTTHS 2015.

Hai là, người bị hại hoặc đại diện của họ không được yêu cầu giải quyết

lại vụ án: Nếu việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự phải nêu lý do yêu cầu và tóm

tắt sơ lược nội dung vụ án hì BLTTHS Việt Nam hiện hành không đòi hỏi lý do

mà bị hại hoặc đại diện của họ nêu ra khi rút yêu cầu khởi tố. Điều này đồng

nghĩa với việc bị hại có quyền rút yêu cầu vì bất cứ lý do gì, nếu điều đó xuất

phát từ ý chí đích thực của họ, việc rút yêu cầu hoàn toàn tự nguyện, không có sự

lùa dối, ép buộc hay cưỡng bức từ bên thứ ba thì các CQTHTT phải tôn trọng

yêu cầu rút của họ và ra quyết định đình chỉ vụ án. Việc ra quyết định đình chỉ

vụ án đồng nghĩa với việc các CQTHTT sẽ chấm dứt mọi hoạt động tố tụng đối

với vụ án đó. Những quy định đặc biệt nêu trên đã thể hiện sự tôn trọng ở mức

độ cao nhất các quyền của bị hại trong việc lựa chọn biện pháp giải quyết một số

vụ án hình sự nhất định có liên quan đến lợi ích của mình, đó là quyền tự do lựa

chọn yêu cầu khởi tố hay không yêu cầu khởi tố vụ án và đương nhiên cũng có

quyền rút yêu cầu khởi tố theo quy định của pháp luật.

Điều 155 BLTTHS 2015 quy định mang tính kế thừa Điều 105 BLTTHS

2003. Tuy nhiên, BLTTHS 2015 có sự sửa đổi, bổ sung so với BLTTHS 2003

trong quy định về cơ chế sử dụng quyền yêu cầu của bị hại trong khởi tố vụ án

hình sự. Nếu khoản 2 Điều 105 BLTTHS 2003 quy định người bị hại chỉ được

rút yêu cầu trước khi mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án mới đình chỉ thì BLTTHS

37

2015 đã có tiến bộ hơn khi mở rộng quyền rút yêu cầu của bị hại, đó là bị hại

được quyền rút yêu cầu bất cứ lúc nào trong suốt quá trình tố tụng, từ giai đoạn

điều tra, truy tố đến xét xử, và các cơ quan, người có thẩm quyền có trách nhiệm

tôn trọng quyền rút yêu cầu khởi tố này của bị hại. Nội dung điều luật không quy

định thời điểm người đã yêu cầu khởi tố có thể rút yêu cầu tức là người yêu cầu

có thể rút yêu cầu của mình ở mọi thời điểm trong quá trình giải quyết vụ án.

Quy định này đã khắc phục những khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng

trong quá trình áp dụng vào thực tiễn. Đồng thời thể hiện sự mở rộng quyền con

người, quyền công dân trong TTHS khi cho phép người đã yêu cầu khởi tố có

quyền rút yêu cầu khởi tố ở mọi thời điểm mà không bị bó buộc ở bất kì giai

đoạn nào từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, bao gồm cả xét xử phúc

thẩm.

TTHS là quá trình giải quyết vụ án, do luật quy định và được tiến hành

bởi các cơ quan nhà nước. Chi phí tiến hành tố tụng do Nhà nước chi trả. Việc

tiến hành tố tụng được tiến hành theo thủ tục chặt chẽ, qua đó bảo đảm việc xác

định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đù, bảo đảm quyền và

lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là hoạt

động của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có

nhược điểm về tâm thần, thể chất hoặc đã chết thực hiện việc yêu cầu chấm dứt

tố tụng đối với vụ án hình sự đã khởi tố trước đó trên cơ sở khởi tố của họ. Tuy

nhiên, quá trình tố tụng không thể bắt đầu hay kết thúc đơn giản chỉ do sự thay

đổi ý kiến của một cá nhân nhất định. Do đó, điều luật chi quy định cho phép bị

hại hoặc người đại diện hợp pháp của bị hại được quyền rút yêu cầu duy nhất

một lần.

Hiện nay, việc hiểu và vận dụng khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015 còn

nhiều bất cập trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút đơn

yêu cầu tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bởi BLTTHS 2015 chưa quy định cụ

thể, rõ ràng. Để giải quyết vấn đề trên, TANDTC đã ban hành Công văn số

254/TANDTC-PC (Công văn số 254) ngày 26/11/2018 để hướng dẫn áp dụng về

38

việc người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu theo quy định tại Điều

155 BLTTHS 2015. Theo đó, tại giai đoạn xét xử sơ thẩm: “Người đã yêu cầu

khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì Thẩm

phán chủ tọa phiên tòa căn cứ vào Điều 45, điểm a khoản 1 Điều 282 của

BLTTHS ra quyết định đình chỉ vụ án; Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ

án hình sự rút yêu cầu tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa

phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155, Điều 299 của

BLTTHS ra quyết định đình chỉ vụ án…”; tại giai đoạn xét xử phúc thẩm thì:

“Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người

đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm

phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155

và Điều 359 của BLTTHS hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án”.

Như vậy, nội dung và hình thức rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự hiện nay

chưa được BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành đề cập đến. Cần lưu ý

rằng, pháp luật quy định cho phép bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án thì có

quyền nút yêu cầu khởi tố vụ án mà không có quyền rút yêu cầu khởi tố đối với

từng bị can, bị cáo trong vụ án. Do đó, trong vụ án hình sự có nhiều bị can, bị

cáo mà bị hại hoặc đại diện của bị hại nút yêu cầu khởi tố với bị can, bị cá với

bất kì nào thì cũng không có ý nghĩa với vụ án. Vụ án vẫn được tiến hành theo

các thủ tục tố tụng thông thường.

Về hình thức của việc rút yêu cầu khởi tố phải thể hiện bằng đơn rút yêu

cầu, trong đơn có chữ ký hoặc điểm chỉ của bị hại hoặc người đại diện của bị hại.

Yêu cầu của bị hại về khởi tố vụ án được thực hiện bằng phương thức gì thì việc

rút yêu cầu của họ cũng bằng phương thức tương tự theo một trong hai phương

thức như đã phân tích ở trên khi thực hiện việc yêu cầu khởi tố vụ án. Theo đó

việc rút yêu cầu có thể thực hiện bằng đơn do bị hại tự lập hoặc do CQĐT, VKS

và TA lập biên bản ghi rõ việc rút yêu cầu khởi tố, có chữ ký hoặc điểm chỉ của

người rút yêu cầu nếu việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự được trình bày trực

tiếp. Điều này có nghĩa là khi bị hại có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, nay

39

muốn rút lại đơn thì không phải CQĐT , VKS và TA trả lại đơn cho bị hại mà

phải yêu cầu họ viết đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án để đưa vào hồ sơ vụ án.

2.3. Thực tiễn áp dụng quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại

trên địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội

2.3.1. Những kết quả đạt được

Quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội là một trong những quận trung tâm

của thành phố với mật độ dân cư đông đúc, chính vì thế mà tình hình tội phạm

cũng rất phức tạp. Quận Hoàng Mai là quận nằm ở phía Đông Nam của thành

phố Hà Nội. Phía Đông của quận Hoàng Mai giáp huyện Gia Lâm, phía Tây và

Nam giáp huyện Thanh Trì, và phía Bắc giáp quận Thanh Xuân và quận Hai Bà

Trưng. Chính điều này đã dẫn đến tình trạng tội phạm ngày diễn biến phức tạp

về cả tính chất, mức độ trên phạm vi toàn quận. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với

các cơ quan tiến hành tố tụng mà cụ thể là TAND quận Hoàng Mai trong việc

đẩy lùi tội phạm ngày càng được chú trọng. Để đáp ứng các yêu cầu đặt ra, thời

gian qua các cơ quan tiến hành tố tụng của quận Hoàng Mai đã có nhiều giải

pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, góp phần giữ vững trật tự xã hội trên

địa bàn.

Trong năm 2020, TAND hai cấp thành phố Hà Nội triển khai nhiệm vụ

công tác trong bối cảnh tình hình tội phạm còn tiềm ẩn những diễn biến phức

tạp, các tranh chấp kinh doanh thương mại, khiếu kiện hành chính có chiều

hướng gia tăng; công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh với

việc khởi tố, điều tra, truy tố và đưa ra xét xử nhiều vụ án kinh tế và tham nhũng

lớn. Trước tình hình và yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, trong điều kiện biên chế không

tăng, cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn, cũng như dịch Covid-19 còn nhiều diễn

biến phức tạp, nhưng được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện thuận

lợi của TANDTC, Thành ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố

Hà Nội; sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, ban, ngành Trung ương và Thành

phố; cùng với sự cố gắng, nỗ lực của tập thể lãnh đạo, công chức, người lao động

nên trong năm qua, công tác tư pháp ở quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội đã

40

đạt được nhiều kết quả tích cực. Bên cạnh đó TAND hai cấp thành phố Hà Nội

đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan Công an, VKSND các cấp tổ chức xét xử các

vụ án hình sự đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không kết án oan

người không phạm tội và bỏ lọt tội phạm.

Tình hình tội phạm trên địa bàn quận Hoàng Mai giai đoạn từ năm 2016

đến năm 2020 thể hiện tại Phụ lục 2.1.

Từ số liệu trên có thể thấy, trên địa bàn quận Hoàng Mai các vụ án trong

nhóm tội khởi tố theo yêu cầu bị hại luôn chiếm một tỷ lệ không đáng kể trong

tổng số các vụ án hình sự. Theo số liệu thống kê của TAND quận Hoàng Mai

trong 05 năm, từ năm 2016 đến năm 2020, TAND quận Hoàng Mai đã đưa ra xét

xử tổng số 4.675 vụ án, với 4.846 bị cáo. Tỉ lệ vụ án và số bị cáo được đưa ra

xét xử tăng giảm không đều qua các năm. Năm 2018 có số vụ án và số bị cáo

được đưa ra xét xử cao nhất với 1021 vụ án và 1059 bị cáo được đưa ra xét xử.

Năm 2016 có số vụ án và số bị cáo được đưa ra xét xử thấp nhất với 758 vụ án

và 815 bị cáo.

So sánh giữa tình hình tội phạm chung với tình hình tội phạm bị khởi tố

theo yêu cầu bị hại trên địa bàn quận Hoàng Mai trong 05 năm từ năm 2016 đến

năm 2020 có thể đưa ra nhận xét như sau: nhìn chung số lượng các vụ án được

khởi tố theo yêu cầu của bị hại chiếm tỉ lệ không cao trong tổng số tội phạm nói

chung được đưa ra xét xử. Trong đó, năm 2017 chiếm tỉ lệ 23,2 % về số vụ và

14,1 % về số bị cáo trên tổng số vụ án và số bị cáo được đưa ra xét xử mà vụ án

được khởi tố theo yêu cầu bị hại, chiếm tỉ lệ cao nhất trong giai đoạn năm năm từ

2016 đến 2020. Năm 2019 chiếm tỉ lệ 12,7 % về số vụ và 9,6 % về số bị cáo trên

tổng số vụ án và số bị cáo được đưa ra xét xử mà vụ án được khởi tố theo yêu

cầu bị hại, chiếm tỉ lệ thấp nhất trong giai đoạn năm năm từ 2016 đến 2020. Có

nhiều nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ các vụ án được đưa ra xét xử trên cơ sở yêu cầu

khởi tố của bị hại giảm mạnh qua các năm đó là do sự thay đổi trong quy định

của BLTTHS nói riêng và chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta nói

chung; bên cạnh đó tỉ lệ tội phạm được đưa ra xét xử mỗi năm trên địa bàn quận

41

không ngừng tăng lên; công tác hòa giải và thỏa thuận giữa bị hại và người thực

hiện hành vi phạm tội được thực tốt, hai bên sắp xếp ổn thỏa về các lợi ích và

trách nhiệm bồi thường nên bị hại rút yêu cầu khởi tố hoặc đã không yêu cầu

khởi tố và một số nguyên nhân khác.

Cụ thể, năm 2016 có 24 vụ với 24 bị cáo, năm 2017 có 19 vụ với 21 bị

cáo, đến năm 2018 tăng lên 42 vụ với 49 bị cáo, năm 2019 có giảm đi nhưng

không đáng kể với 39 vụ và 39 bị cáo, năm 2020 tiếp tục tăng lên 41 vụ với 50 bị

cáo. Sau đó đến các tội khác như tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm. Điều này cho thấy

sự phức tạp của ba loại tội này trên địa bàn quận Hoàng Mai hiện nay.

Xem xét số liệu tại Phụ lục 2.3 cho thấy, số vụ án bị cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng đình chỉ do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố chiếm tỉ lệ khá

cao trong số các vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại đưa ra xét xử. Có thể kể đến

nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên như: phía người phạm tội và gia đình

người phạm tội trong giai đoạn xét xử đã thỏa thuận ổn thỏa các vấn đề liên quan

đến đảm bảo lợi ích của bị hại, đồng thời chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại

một cách thỏa đáng. Bên cạnh đó vẫn tồn tại không ít trường hợp bị hại lợi dụng

quyền yêu cầu khởi tố vụ án theo quy định của BLTTHS để trục lợi, ra sức ép

buộc người phạm tôij đáp ứng các yêu cầu của mình. Ngược lại vẫn có các

trường hợp bị hại là chủ thể bị tội phạm xâm hại lại tiếp tục bị người phạm tội

hoặc người thân của người phạm tội đe dọa buộc phải rút yêu cầu khởi tố, và

thực tế việc chứng minh bị hại bị đe dọa, ép buộc rút yêu cầu khởi tố chứ không

phải xuất phát từ sự tự nguyện để CQTHTT tiếp tục giải quyết vụ án theo quy

định pháp luật không phải là điều dễ dàng.

Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự tại quận Hoàng Mai trong thời gian

qua cho thấy, trong các vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại các CQTHTT luôn

nhận được sự phối hợp tích cực, có hiệu quả của bị hại trong việc cung cấp hồ

sơ, tài liệu và lấy lời khai. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đẩy

nhanh tiến độ giải quyết vụ án, kịp thời xét xử nghiêm minh người thực hiện

hành vi phạm tội.

42

Ví dụ: Bản án số 32/2019/HSST ngày 23/01/2019 về tội cố ý gây thương

tích của TAND quận Hoàng Mai như sau: Ngày 21/9/2018 Đội quản lý trật tự đô

thị quận Hoàng Mai đã phân công đồng chí: Nguyễn Văn D làm Tổ trưởng; các

đồng chí: Nguyễn Bá Th, Nguyễn Chung C và Trần Đức Tr làm tổ viên phối hợp

thực hiện kiểm tra, xử lý vi phạm về trật tự đô thị trên địa bàn. Sau nhiều lần

nhắc nhở, Tổ công tác đã tiến hành thu hàng hóa của bà N do bà N vẫn cố tình

bán hàng tại khu vực cấm. Nguyễn Xuân Đ là con trai bà N thấy Tổ công tác thu

giữ tài sản của mẹ mình đã xông vào lấy một con dao chém anh Nguyễn Chung

C làm anh C bị thương, rách da, chảy máu ở vùng cổ, sau đó Đ tiếp tục dùng dao

đuổi theo để đánh các thành viên trong Tổ công tác. Ngày 29/9/2018, anh

Nguyễn Chung C làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án đối với sự việc trên gửi cho Cơ

quan Cảnh sát điều tra Công an quận. Theo kết luận giám định pháp y về thương

tích của Trung tâm giám định pháp y thì tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do

thương tích gây nên tại thời điểm giám định đối với anh Nguyễn Chung C là 3%;

cơ chế hình thành vết thương do tác động ngoại lực bởi vật sắc. Theo đó,

VKSND đã truy tố Nguyễn Xuân Đ về tội "Cố ý gây thương tích "Theo điểm a

khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Trên cơ sở nội

dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại

phiên tòa, Hội đồng xét xử đã ra bản án tuyên bị cáo Nguyễn Xuân Đ phạm tội

"Cố ý gây thương tích" theo điểm a khoản 1 Điều 134, điểm b, s khoản 1 Điều

51 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; xử phạt Nguyễn Xuân Đ 10

tháng tù. Đây là vụ án mà nhờ có sự hợp tác triệt để của bị hại mà CQTHTT đã

giải quyết vụ án rất nhanh và thuận lợi, đảm bảo hiệu quả cao trong tiến trình tố

tụng.

Đây là một nội dung mang tính đặc trưng trong quyền của bị hại so với

các vụ án thông thường trong thủ tục xét xử sơ thẩm. Qua khảo sát việc tham gia

phiên tòa để thực hiện quyền trình bày lời buộc tội của người bị hại cho thấy kết

quả như sau: Trong năm 2016 có 40 vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại

được đưa ra xét xử ở giai đoạn sơ thẩm thì có tỉ lệ người bị hại tham gia phiên

43

tòa chiếm tỷ lệ 76,9%. Trong năm 2017 có 31 vụ án khởi tố theo yêu cầu của

người bị hại được đưa ra xét xử ở giai đoạn sơ thẩm thì có tỉ lệ người bị hại tham

gia phiên tòa chiếm tỷ lệ 67,48%. Trong năm 2018 có 52 vụ án khởi tố theo yêu

cầu của người bị hại được đưa ra xét xử ở giai đoạn sơ thẩm thì có tỉ lệ người bị

hại tham gia phiên tòa chiếm tỷ lệ 79,42%. Trong năm 2019 có 48 vụ án khởi tố

theo yêu cầu của người bị hại được đưa ra xét xử ở giai đoạn sơ thẩm thì có tỉ lệ

người bị hại tham gia phiên tòa chiếm tỷ lệ 59,92%. Trong năm 2020 có 57 vụ án

khởi tố theo yêu cầu của người bị hại được đưa ra xét xử ở giai đoạn sơ thẩm thì

có tỉ lệ người bị hại tham gia phiên tòa chiếm tỷ lệ 68,34%. Nếu xét theo từng

loại án khởi tố theo yêu cầu bị hại thì việc tham gia phiên tòa để bảo vệ quyền

lợi của của bị hại trong các tội cố ý gây thương tích chiếm tỉ lệ tuyệt đối, theo đó

100% vụ án có người bị hại tham gia để bảo vệ quyền lợi của họ. Tuy nhiên

trong các vụ án hiếp dâm, cưỡng dâm thì chỉ có 61,76% người bị hại trực tiếp

tham gia phiên tòa do tính chất nhạy cảm của hành vi phạm tội và nhiều bị hại

cảm thấy xấu hổ khi phải ra tòa để nhắc lại các tình tiết đó, cũng như không ít

trường hợp cảm thấy sợ hãi, chán ghét đối tượng, không dám gặp lại người phạm

tội, và những nội dung khai trong hồ sơ vụ án trong quá trình điều tra, truy tố đã

đầy đủ, rõ ràng.

Việc áp dụng các quy định của pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu

của bị hại trên địa bàn quận Hoàng Mai nhìn chung đã đạt đạt nhiều kết quả tích

cực, Theo đó, các vụ án mà CQTHTT giải quyết liên quan đến khởi tố theo yêu

cầu bị hại đều được giải quyết đúng trình tự thủ tục, đảm bảo đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Cùng

với đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của cơ quan, đơn vị và chế độ

chính sách đối với cán bộ, công chức đã được quan tâm đầu tư, hoàn thiện hơn

qua từng năm. Điều đáng khích lệ hơn là vấn đề năng lực, trình độ, ý thức trách

nhiệm của lãnh đạo, cán bộ, công chức của Cơ quan tố tụng không ngừng được

quan tâm hoàn thiện và được nâng cao. Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư

pháp được củng cố và tăng cường, đã giải quyết dứt điểm, nghiêm minh nhiều vụ

44

việc, vụ án khó khăn. Các CQTHTT quận Hoàng Mai đã thực hiện tốt chức năng,

nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, hạn chế oan, sai và bỏ lọt tội phạm, bảo

đảm tốt quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đặc biệt là người

bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bảo đảm tính minh bạch, khách quan

trong TTHS. Từ đó góp phần nnag cao hiệu quả công tác và củng cố niềm tin

trong nhân dân về hoạt động của các cơ quan tố tụng.

2.3.2. Những tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được đáng ghi nhận như trên trong quá trình

giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại, thì vẫn còn những

tồn tại, hạn chế của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trên

địa bàn quận Hoàng Mai như sau:

Thứ nhất, bị hại không hợp tác với các CQTHTT trong quá trình giải

quyết vụ án hình sự, nhất là các vụ án về tội cố ý gây thương tích, hiếp dâm khi

bị hại không hợp tác giám định. Mặc dù có dấu hiệu tội phạm xảy ra, nhưng

CQĐT không thể ra quyết định khởi tố vụ án vì chưa có yêu cầu khởi tố của bị

hại, bị hại không chịu đi giám định, và cũng không thể ra quyết định không khởi

tố vụ án mà chỉ có thể xử phạt vi phạm hành chính đối với những hành vi phạm

tội kể trên. Bên cạnh đó những thiếu sót trong quá trình thu thập chứng cứ trong

các tội danh như hiếp dâm, cưỡng dâm, việc đánh giá các tình tiết tăng nặng,

giảm nhẹ TNHS và quyết định hình phạt của các CQTHTT trong một số vụ án

chưa tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội trong các vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại... Những khó khăn này

đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức và áp dụng pháp luật, làm giảm hiệu

quả đấu tranh phòng chống tội phạm của CQTHTT,tvaf chưa thể bảo vệ tốt nhất

các quyền con người, quyền công dân cho bị hại.

Ví dụ: Tối ngày 04/12/2018, do có mâu thuẫn nhỏ trong đám cưới nhà ông

Nguyễn D (trú tại phường Giáp Bát, quận Hoàng Mai, Hà Nội), nên Nguyễn Văn

T (sinh năm 2001) và Nguyễn Văn V (sinh năm 2003), là hai anh em ruột, đã xô

xát với Hoàng Quốc L. ở cùng thôn. L về nhà lấy kiếm dài, nhọn, chuôi sắt,

45

khoảng 70cm, quay trở lại đám cưới, chém trọng thương T và V. Hậu quả T và V

bị thương nặng, cấp cứu tại bênh viện. Ngày 13/02/2019, do không đạt được thoả

thuận về đền bù thiệt hại, thương tích, bà Cao Thị Hòe (là mẹ đẻ của T và V) đã

viết đơn gửi CQÐT Công an quận Hoàng Mai để đề nghị khởi tố L về hành vi

gây thương tích, xử lý theo quy định của pháp luật. Khi đó, CQÐT vất vả bội

phần do thời gian xảy ra vụ án đã lâu, đối tượng không có mặt tại địa bàn, khó

triệu tập; vết thương lâu ngày không còn nguyên vẹn; hiện trường vụ án bị xáo

trộn, người chứng kiến không còn nhớ nhiều về vụ việc, khó làm rõ động cơ gây

án... Nếu chỉ căn cứ đơn tố cáo cũng khó khách quan vì bị hại thường trình bày

có lợi cho mình, bị đơn hay phủ nhận. Khi yêu cầu bị hại giám định. Khi CQĐT

Công an quận Hoàng Mai đang tiến hành xác minh vụ việc để xem xét việc khởi

tố L về tội cố ý gây thương tích. Trái hẳn thái độ “cứng rắn” ban đầu, khi người

nhà bị hại đã nhận được số tiền đền bù 120 triệu đồng thì nhất định không đi

giám định theo yêu cầu của CQĐT, nhưng lại không rút đơn yêu cầu khởi tố với

lý do “đang xem xét”, dẫn tới việc giải quyết vụ án của CQĐT kéo dài, tốn thời

gian, công sức của những người tiến hành tố tụng, tốn kém vật chất của

CQTHTT.

Thứ hai, vẫn còn một số trường hợp CQTHTT khi khởi tố, điều tra không

thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình, nhất là các vụ án liên quan đến

cố ý gây thương tích, án hiếp dâm. Khi CQTHTT phát hiện có dấu hiệu tội

phạm, qua nhận định ban đầu về công cụ, phương tiện, đặc điểm, dấu vết thương

tích, tình trạng nạn nhân mà các CQTHTT đã tiến hành khởi tố vụ án hình sự để

áp dụng một số hoạt động điều tra mà theo quy định của BLTTHS giai đoạn giải

quyết nguồn tin về tội phạm không được áp dụng như nhận dạng, khám xét, thực

nghiệm điều tra... mặc dù chưa có kết luận giám định tính chất thương tích, mức

độ tổn hại sức khỏe của nạn nhân… Điều này có thể xem như một dạng của hành

vi vượt quyền, vi phạm các thủ tục tố tụng theo BLTTHS 2015. Bên cạnh đó,

CQTHTT trong nhiều trường hợp còn lách luật khi tiến hành khởi tố vụ án hình

sự đối với các tội danh trên theo khoản 2 và tiến hành ra quyết định trưng cầu

46

giám định. Sau khi có kết quả giám định mới tiến hành xác định vụ việc được

khởi tố, điều tra theo yêu cầu bị hại hay theo thủ tục chung. Cách thức này

thường được CQTHTT áp dụng trong một số trường hợp bị hại không hợp tác đi

giám định, buộc CQTHTT phải khởi tố vụ án theo cách nêu trên để có cơ sở áp

dụng biện pháp dẫn giải bị hại.....

Cũng từ vụ án Hoàng Quốc L nêu trên, khi CQĐT Công an quận Hoàng

Mai không nhận được sự hợp tác của bị hại để đi giám định thương tích. Qua

việc xem xét dấu vết trên thân thể và lời khai của bị hại, người làm chứng,

CQĐT Công an quận Hoàng Mai nhận định Hoàng Quốc L sẽ phạm tội thuộc

khoản 2 Điều 134 BLHS. Vì vậy, CQĐT đã khởi tố vụ án hình sự mà chưa có kết

luận giám định tỷ lệ thương tích đối với bị hại T và V. Sau khi khởi tố vụ án

hình sự, bị hại đạt được thoả thuận đền bù thiệt hại, nên không đi giám định.

CQĐT lúc này không thể tiếp tục giải quyết vụ án được.

Thứ ba, hình thức yêu cầu khởi tố theo yêu cầu của bị hại chưa được

thống nhất. Các CQTHTT trên địa bàn quận Hoàng Mai như CQĐT, VKS và Toà

án có hướng dẫn khác nhau cho bị hại về mặt hình thức của yêu cầu khởi tố vụ

án. Có cơ quan cho rằng đơn tố cáo hoặc tố giác tội phạm của bị hại là đơn yêu

cầu khởi tố vì trong nội dung chứa đựng yêu cầu xử lý người phạm tội của bị hại;

có cơ quan lại xem đơn tố cáo, tố giác tội phạm chỉ là cơ sở để cơ quan có thẩm

quyền kiểm tra, xác minh ban đầu, nếu có dấu hiệu tội phạm thì người bị hại phải

làm tiếp đơn yêu cầu khởi tố vụ án. Đây cũng là một hạn chế làm cho việc giải

quyết vụ án gặp khó khăn.

Thứ tư, trong quá trình giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm cố ý gây

thương tích, CQĐT Công an quận Hoàng Mai đã không thể ra quyết định khởi tố

vụ án vì chưa có yêu cầu khởi tố của bị hại, cũng không thể ra quyết định không

khởi tố vụ án vì không có căn cứ theo quy định của BLTTHS. Điều 155

BLTTHS không quy định thời hạn bị hại được quyền yêu cầu khởi tố, như vậy

trên thực tế bị hại hoặc người đại diện của bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án

bất cứ lúc nào mà không bị giới hạn về mặt thời gian. Trong khi thời hạn tố tụng

47

để giải quyết vụ án đối với các cơ quan tiến hành tố tụng luôn bị giới hạn chặt

chẽ về mặt thời gian. Đây là một khó khăn ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các

cơ quan có thẩn quyền tiến hành tố tụng.

Thứ năm, trong thực tiễn 05 năm giải quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu của

bị hại trên địa bàn quận Hoàng Mai đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc

trong nhận thức và áp dụng pháp luật như: (1) Khi vụ án có nhiều bị hại nhưng

chỉ có một bị hại yêu cầu hoặc vụ án có nhiều bị can, bị cáo nhưng bị hại chỉ rút

yêu cầu đối với một bị can, bị cáo thì CQTHTT sẽ xử lý như thế nào; (2) khi có

sự mâu thuẫn trong việc yêu cầu khởi tố VAHS giữa bị hại là người dưới 18 tuổi

(không có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất) với người đại diện của họ thì

CQTHTT sẽ theo ý kiến của ai; (3) trong trường hợp bị hại là người có nhược

điểm về tâm thần hoặc thể chất, nhưng không có hoặc không xác định được

người đại diện thì CQTHTT sẽ giải quyết như thế nào.

Ví dụ: Khoảng 01 giờ ngày 30/5/2018, Nguyễn Văn A đang điều khiển xe

máy từ thành phố B đến huyện K, tỉnh ĐL. Khi đến gần khu vực ngã ba đường

trong thành phố B, tỉnh ĐL, A nhìn thấy chị Đỗ Thị D đang điều khiển xe máy đi

ngược chiều. A điều khiển xe quay lại và yêu cầu chị D dừng xe để hỏi chuyện.

Chị D thấy người lạ nên không dừng, A đã ép xe, buộc chị D phải dừng lại. Sau

đó, A rút chìa khóa xe máy của D, rồi dọa, khống chế ép chị D đi bộ vào đường

phía trong khoảng 3-4 m, nơi không có người qua lại, không có ánh sáng. A

dùng búa đinh đem theo từ trước đe dọa và thực hiện hành vi giao cấu trái ý

muốn với chị D. Sau đó, A tiếp tục bắt chị D đi vào nhà nghỉ. A đưa chìa khóa

xe máy để chị D chạy xe chậm phía trước, còn A đi kèm theo phía sau, cách

khoảng 2-3 m và chỉ đường. A đe dọa, nếu dừng xe, quay đầu lại hay bỏ chạy sẽ

giết. Đến trước cổng bệnh viện tỉnh ĐL, A gửi xe máy của mình tại bãi gửi xe

của bệnh viện sau đó A chở chị D đến nhà nghỉ gần đó, khống chế và tiếp tục

thực hiện hành vi giao cấu với chị D 2 lần. Sáng ngày 31/5/2018, chị D làm đơn

tố cáo hành vi của A.

48

Ví dụ vụ án: Bùi S (sinh năm 19/8/1999, trú tại phường Tân Mai, quận

Hoàng Mai, Hà Nội) là người yêu của em Đỗ Thị H (sinh năm 20/01/2003), cùng

nơi thường trú. Trong quá trình yêu nhau, từ cuối năm 2017 đến đầu tháng 3 năm

2018, Bùi S và em Đỗ Thị H đã cùng nhau quan hệ tình dục rất nhiều lần. Theo

lời khai của em H, có những lần em tự nguyện, có lần em bị S ép do say rượu, do

về khuya, do đi xa… Ngày 04/3/2018, gia đình chị H phát hiện sự việc đã làm

đơn trình báo đến CQĐT Công an quận Hoàng Mai, yêu cầu khởi tố vụ án.

Nhưng em Đỗ Thị H không yêu cầu khởi tố, và không hợp tác khi CQĐT tiến

hành điều tra, xác minh.

Thứ sáu, nhận thức của những người tiến hành tố tụng tại ba cơ quan tiến

hành tố tụng trên địa bàn quận Hoàng Mai hoặc bị hại và người đại diện của họ

có phần còn hạn chế. Có những người tiến hành tố tụng nghiên cứu không kỹ

quy định về khởi tố theo yêu cầu của bị hại dẫn đến việc giải quyết các vụ án

chưa chính xác như trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, người

tiến hành tố tụng chưa giải thích cho bị hại hiểu quyền và nghĩa vụ của mình

trong việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, chưa hướng dẫn, yêu

cầu bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày ý kiến nêu rõ quan điểm có yêu

cầu khởi tố vụ án hay không, chưa đánh giá, xem xét hết mọi khía cạnh việc yêu

cầu khởi tố hay rút yêu cầu khởi tố có phải là ý chí của bị hại hay không, có sự

đe dọa, cưỡng ép mua chuộc nhằm trốn tránh pháp luật hay không…

Thực tế, đã có trường hợp bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự đối

với 01 bị can trong vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại có nhiều bị can, cơ

quan có thẩm quyền xác định rút yêu cầu khởi tố đối với bị can đó và thực hiện

thủ tục đình chỉ điều tra bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can đó, trong khi vẫn

tiếp tục tiến hành các thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự các bị can

khác. Cách xác định như trên là không chính xác bởi theo lý luận khoa học hình

sự và quy định của BLTTHS 2015, bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án trong

những trường hợp nhất định, sau đó vụ án sẽ được giải quyết theo thủ tục chung

mà không phụ thuộc yêu cầu của bị hại. Bị hại và người đại diện không có quyền

49

yêu cầu khởi tố bị can trong vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại, thầm quyền

khởi tố bị can, đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can, bị

cáo thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng khi có căn cứ theo quy định.

2.3.3. Những nguyên nhân cơ bản

* Nguyên nhân về mặt pháp luật: Nhìn chung những quy định về khởi tố

vụ án theo yêu cầu của bị hại của BLTTHS 2015 đã có nhiều điểm mới tiến bộ

hơn, hoàn thiện hơn so với các quy định trong BLTTHS 2003. Chế định khởi tố

vụ án theo yêu cầu của bị hại đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền

con người, quyền công dân và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong

tình hình mới. Tuy nhiên, qua nghiên cứu quy định của pháp luật và thực tiễn

đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn quận Hoàng Mai cho thấy quy định

về vấn đề này vẫn còn nhiều điểm tồn tại, hạn chế như các vấn đề về chủ thể

thực hiện quyền, phạm vi yêu cầu khởi tố, thời điểm rút yêu cầu khởi tố, hậu quả

pháp lý của việc thực hiện khởi tố hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, quyền

và nghĩa vụ của bị hại… Chính sự hạn chế trong quy định pháp luật đã khiến cho

việc áp dụng và thi hành pháp luật trên thực tế đạt hiệu quả chưa cao.

* Nguyên nhân khác: Nguyên nhân từ sự thiếu thống nhất trong nhận thức

pháp luật. Những tồn tại hạn chế trong quy dịnh pháp luật về khởi tố vụ án theo

yêu cầu bị hại như phân tích ở trên là do quy định trong PLTTHS còn chưa thật

hoàn thiện, còn nhiều kẽ hở chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Các quy định

còn khá chung chung dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau nên việc áp

dụng pháp luật trong hoạt động này chưa thống nhất, nên trong thực tế việc hiểu

và áp dụng pháp luật giữa cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có

vụ có nơi chưa thống nhất. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đa số người tiến

hành tố tụng còn nhiều hạn chế.

Sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

trên địa bạn quận Hoàng Mai chưa thật sự chặt chẽ và hiệu quả. Quan điểm của

các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án nhất là đối với

những vụ án lớn, phức tạp còn chưa thống nhất.

50

Bên cạnh đó, rất nhiều vụ án thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu bị hại

mà bị hại không hợp tác với CQTHTT, không đi giám định, hoặc khi có kết quả

giám định thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu bị hại nhưng bị hại cố tình

không yêu cầu ngay... gây khó khăn cho công tác điều tra. Quy định trong

BLTTHS 2015 về dẫn giải bị hại còn khó áp dụng trên thực tế. Bên cạnh đó, do

các tội thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại là các tội xâm hại sức

khỏe, danh dự, nhân phẩm nên nếu bị hại không chủ động trình báo thì cơ quan

có thẩm quyền tiến hành tố tụng rất khó phát hiện. Vì vậy có trường hợp bị hại

không trình báo do sự mất danh dự, nhân phẩm hoặc bị trả thù hoặc trường hợp

bị hại dựa vào quyền được yêu cầu khởi tố để uy hiếp người phạm tội… Ngoài

ra, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên địa bàn quận Hoàng Mai về

những nội dung liên quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại chưa được sâu rộng

mạnh mẽ. Cơ sở vật chất còn yếu kém chưa phục vụ đắc lực cho yêu cầu chức

năng, nhiệm vụ trong tình hình mới…

51

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Thông qua Chương 2 của Luận văn, từ lịch sự hình thành của những quy

định của pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại trong PLTTHS Việt Nam,

có thể thấy chế định này đã xuất hiện từ rất sớm nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội

lúc bây giờ của Nhà nước ta. Đồng thời, tác giả phân tích các quy định của

BLTTHS hiện hành về chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại và

thực tiễn áp dụng tại quận Hoàng Mai. Qua từng giai đoạn, chế định này ngày

càng được quy định chặt chẽ hơn nhưng cũng không thể tránh khỏi những hạn

chế nhất định.

Thực tiễn áp dụng chế định đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận.

Tuy nhiên, nghiên cứu thực tiễn, bên cạnh những kết quả ấy thì vẫn tồn tại vài

hạn chế, cũng còn một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện

quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại vào thực tiễn. Những bất cập, những

điểm chưa phù hợp, chưa đầy đủ dẫn tới việc hiểu và áp dụng các quy định pháp

luật không rõ ràng, chưa thật sự hiệu quả, như bất cập về chủ thể thực hiện

quyền, thời điểm rút yêu cầu khởi tố, hậu quả pháp lý của việc thực hiện khởi tố

hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, quyền và nghĩa vụ của bị hại so với

trường hợp thông thường...

Tác giả tìm ra, đánh giá nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn, vướng

mắc dưới nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó có từ sự bất cập trong quy định

pháp luật, từ nhận thức của các chủ thể tiến hành tố tụng và của chính bị hại….

Kết quả nghiên cứu và phân tích tại Chương 2 nêu trên tạo tiền đều cho việc đưa

ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật, và giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng

quy định tại Chương 3.

52

Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM ÁP

DỤNG QUY ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

3.1. Cơ sở hoàn thiện các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị

hại

Để thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về xây dựng và hoàn thiện nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam thì việc xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp

trong sạch, dân chủ, văn minh; bảo đảm tính khả thi, hoàn thiện của các quy định

pháp luật, hướng đến mục tiêu bảo vệ tốt nhất công lý, quyền con người, quyền

công dân là yêu cầu quan trọng, cấp bách. Có thể nói việc hoàn thiện chế định

pháp luật nói chung hay hoàn thiện các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị

hại nói riêng đòi hỏi một quá trình và một thời gian đủ dài. Trên thực tế, một quy

định của pháp luật phải được kiểm nghiệm trên thực tiễn thì mới có thể khẳng

định quy định pháp luật đó có đang phát huy hiệu quả hay không. Tuy nhiên, phụ

thuộc vào các yếu tố như lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội, tình hình phát triển

kinh tế của quốc gia mà việc hoàn thiện một thể chế pháp luật nào đó cần phải

đáp ứng những yêu cầu nhất định. Đối với các vụ án hình sự khởi tố theo yêu cầu

bị hại, trong một số trường hợp, bị hại đã yêu cầu khởi tố có quyền yêu cầu rút

yêu cầu khởi tố trước đó. Tuy nhiên, chế định này đang có một số vướng mắc,

bất cập do BLTTHS 2015 chưa quy định cụ thể. Hiện nay luật chưa có quy định

hoặc quy định chưa rõ ràng nhưng chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn kịp thời

để giúp các CQTHTT tháo gỡ vướng mắc và áp dụng một cách thống nhất.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu và đề ra giải pháp hoàn thiện trong các trường hợp

nêu trên là điều cần thiết. Cơ sở hoàn thiện quy định về khởi tố vụ án theo yêu

cầu bị hại cụ thể như sau:

Thứ nhất, tình hình phát triển kinh tế xã hội, và sự phát triển của các tư

tưởng dân chủ, tiến bộ là yếu tố chủ yếu, quyết định và chi phối đến nhu cầu

điều chỉnh pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại theo hướng

53

tiến bộ. Kinh tế, xã hội dưới góc độ quan điểm chủ nghĩa Mác Lê-nin là cơ sở hạ

tầng, quyết định và chi phối đến sự phát triển của kiến trúc thượng tầng là nhà

nước và pháp luật. Có thể nói, mọi sự biến đổi của cơ cấu kinh tế xã hội, quá

trình biến đổi của chúng sẽ trở thành các đồi hỏi cấp thiết mang tính nhu cầu

buộc pháp luật phải ghi nhận và có sự thích ứng phù hợp để theo kịp sự biến đổi

đó. Theo đó, khi đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam đang có nhiều sự thay

đổi diện mạo mới về chất, nhu cầu điều chỉnh pháp luật theo hướng đa dạng hóa

các mục đích bảo vệ, hướng đến sự hài hòa các lợi ích trở nên cấp thiết, điều

chỉnh pháp luật phải tính đến nhiều biện pháp tác động để đạt mục tiêu đề ra.

Việc gia nhập sâu rộng và toàn diện của Việt Nam vào đời sống quốc tế đòi hỏi

PLTTHS cũng phải đảm bảo hài hòa tương thích với pháp luật khu vực và thế

giới. Trong đó, với xu thế đề cao các giá trị nhân quyền, pháp luật về quyền con

người ngày càng được nâng cao, trong đó quyền và lợi ích của con người luôn

được chú trọng, ghi nhận và bảo đảm trong pháp luật của các quốc gia để đạt

được mục tiêu tố tụng cao nhất.

Thứ hai, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước về quyền của bị hại

trong tiến trình tố tụng. Chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là cơ sở

trực tiếp quyết định hình thành đường hướng các biện pháp chính sách hình sự.

Trong quá trình xây dựng chế định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị

hại các nhà làm luật phải dựa trên chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta

để hoàn thiện các quy phạm pháp luật và đảm bảo tính tương thích của các quy

phạm cụ thể với các nguyên tắc PLTTHS nói chung. Có thể nói, chính sách hình

sự của nhà nước ta thời gian qua mang tính cởi mở, dân chủ và khả thi, thể hiện

sâu sắc quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền

con người, quyền công dân, bổ sung nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ. Với tính

chất là nhà nước của dân, do dân, vì dân thì đương nhiên bản chất của nền Tư

pháp mà chúng ta hướng tới là nền tư pháp thể hiện được bản chất của dân, do

dân, vì dân. Tư pháp vì dân đòi hỏi phải đưa lợi ích của dân lên hàng đầu, mọi

mục tiêu đều hướng tới bảo vệ tốt nhất quyền con người, quyền công dân và đó

54

cũng chính là mục tiêu trung tâm của mọi cuộc cải cách trong hệ thống tư pháp.

Tư pháp do dân đòi hỏi cơ chế hoạt động của các cơ quan nhà nước vận hành,

hoạt động những vẫn đảm bảo sự tham gia và kiểm tra, giám sát của nhân dân.

Đồng thời, cơ quan Tư pháp nhải là công cụ bảo vệ Nhà nước và công dân, bảo

đảm mọi hành vi làm hại đến quyền và lợi ích tinh thần, vật chất của người khác,

của Nhà nước đều bị xử lý công bằng, nghiêm minh, đúng pháp luật. Việc xây

dựng quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại cũng cần đáp ứng các yêu cầu

cụ thể mà các Nghị quyết của Đảng của Quốc Hội đã đề ra.

Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu bảo vệ pháp luật, bảo vệ nhà nước pháp

quyền Xã hội chủ nghĩa và yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội

phạm. PLTTHS quy định việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại nhưng không

phải lợi ích bị hại cao sẽ cao hơn lợi ích chung của xã hội. Các trường hợp được

khởi tố theo yêu cầu bị hại chỉ được áp dụng đối với hành vi có mức độ nguy

hiểm cho xã hội là không lớn, chủ yếu thuộc nhóm tội xâm phạm sức khoẻ, danh

dự, nhân phẩm và một số quyền nhân thân của con người. Có thể nói, quy định

khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại luôn đòi hỏi phải có sự kết hợp hài hoà

giữa lợi ích chung của xã hội và lợi ích riêng của bị hại.

Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền con người trong TTHS. Việc

nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại vừa hướng đến đạt

mục tiêu ổn định xã hội, vừa bảo vệ và thỏa mãn lợi ích của bị hại, phù hợp với

các công ước quốc tế về quyền con người.

Thứ năm, yêu cầu của hội nhập quốc tế. Trong giai đoạn hội nhập sâu

rộng, không một hệ thống pháp luật nào có thể phát triển trong sự khép kín biệt

lập riêng nó. Vì vậy, việc hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả

giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại phải đặt trong sự tiếp

thu và học hỏi các tinh hoa từ quy định của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên

quá trình tiếp thu và học hỏi nên có sự chọn lọc, cân nhắc với thực tiễn pháp lý

và truyền thống thuần phong mỹ tục của dân tộc cũng như phù hợp với điều kiện

hoàn cảnh Việt Nam.

55

Tất cả những yếu tố nêu trên là những nhân tô chi phối đến việc điều

chỉnh pháp luật TTHS nói chung và pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của

bị hại nói riêng ở nước ta hiện nay.

3.2. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu

của bị hại

Qua phân tích nêu trên, cho thấy quy định của BLTTHS 2015 về khởi tố

VAHS theo yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại khi áp dụng vào

thực tiễn vẫn còn phát sinh một số khó khăn, vướng mắc. Từ đó, dẫn đến việc áp

dụng của các CQTHTT không có sự thống nhất, phụ thuộc vào sự nhận thức

pháp luật và ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng. Vì vậy, trước hết Bộ

Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp

cần sớm ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn để các CQTHTT áp dụng một

cách thống nhất, nhằm đảm bảo tốt hơn quyền lợi của bị can, bị cáo trong TTHS.

Và trong tương lai, khi BLTTHS 2015 sửa đổi, bổ sung cần bổ sung các nội dung

như các kiến nghị nêu trên để BLTTHS được hoàn thiện hơn.

Thứ nhất, về chủ thể yêu cầu khởi tố là người đại diện hợp pháp của bị

hại. Theo quy định tại Điều 155 BLTTHS bị hại là người chưa thành niên, người

có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người đại diện của họ thực hiện

quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Vậy trong trường hợp không xác định được

người đại diện của người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần

hoặc thể chất, thì ai sẽ đại diện để thực hiện quyền yêu cầu?. Đây là vấn đề cần

có hướng dẫn của các cơ quan tư pháp để đảm bảo hiệu quả giải quyết các vụ án

có liên quan được thống nhất, đúng pháp luật.

Thứ hai, chưa có hướng dẫn đối với trường hợp có nhiều người là đại diện

cho bị hại (cha mẹ đối với con chưa thành niên....) trong vụ án đã khởi tố theo

yêu cầu của bị hại, sau khi khởi tố họ có yêu cầu khác nhau đối lập nhau (người

yêu cầu rút, người vẫn giữ ý kiến đề nghị khởi tố) hiện chưa có căn cứ pháp luật

để CQTHTT giải quyết theo yêu cầu của ai trong vụ án. PLTTHS hiện hành cũng

chưa có hướng dẫn đối với trường hợp bị hại là người chưa thành niên đại diện

56

của họ đã có yêu cầu khởi tố vụ án, trong quá trình tố tụng với vụ án người bị hại

đã thành niên.

Thứ ba, hiện nay chưa có quy định nào về một văn bản pháp lý nào có

chức năng xác định bị hại hoặc đại diện củabị hại trong vụ vụ. Mặc dù các văn

bản như: biên bản tiếp nhận tin báo, đơn trình báo, biên bản ghi lời khai, các

giấy triệu tập, giấy gọi, giấy báo... có ghi nhận tư cách tham gia tố tụng, tuy

nhiên nếu chỉ dựa vào tư cách mà họ được người tiến hành tố tụng ghi trong các

biên bản hoạt động tố tụng này dễ xuất hiện trường hợp không chính xác và tùy

tiện vì hồ sơ được lập ở nhiều giai đoạn khác nhau, do các chủ thể khác nhau

thực hiện. Vì thế để xác định một người hay một cơ quan, tổ chức nào đó có tư

cách bị hại trong vụ án để đảm bảo quyền lợi cho họ là khó khăn. Vì thế,

BLTTHS hiện nay cần khắc phục bằng việc thể chế hóa một quyết định tố tụng

chính thức công nhận tư cách bị hại trong vụ án.

Thứ tư, PLTTHS cũng chưa có quy định về hình thức yêu cầu khởi tố mặc

dù đây là một trong những tài liệu quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng

nhất mà thiếu nó hoặc không có nó thì không thể xử lý vụ án được. Trong trường

hợp nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau trong việc xác định

đơn tố cáo có phải là yêu cầu khởi tố hay không việc giải quyết vụ án gặp khó

khăn, phức tạp, hậu quả sẽ dẫn đến tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc hủy

án.

Thứ năm, việc hiểu và vận dụng khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015 còn

nhiều bất cập trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút đơn

yêu cầu tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bởi BLTTHS 2015 chưa quy định cụ

thể, rõ ràng. Để giải quyết vấn đề trên, TANDTC đã ban hành Công văn số

254/TANDTC-PC (Công văn số 254) ngày 26/11/2018 để hướng dẫn áp dụng về

việc người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu theo quy định tại Điều

155 BLTTHS 2015. Với hướng dẫn này, cần trao đổi các vấn đề như sau:

Một là, theo khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015, trong trường hợp người đã

yêu cầu khởi tố vụ án mà rút yêu cầu thì phải đình chỉ vụ án. Tuy nhiên, ở giai

57

đoạn phúc thẩm thì không thể đình chỉ khi đã có bản án sơ thẩm theo yêu cầu của

bị hại, nay nếu đình chỉ vụ án thì không thể giải quyết yêu cầu của bị hại về việc

rút yêu cầu khởi tố vụ án. Chính vì thế, cần phải tiến hành phiên tòa xét xử theo

thủ tục phúc thẩm mặc dù có yêu cầu rút yêu cầu khởi tố.

Hai là, với hướng dẫn nếu người đã yêu cầu khởi tố vụ án rút yêu cầu tại

giai đoạn xét xử phúc thẩm “… thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa

phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359

của BLTTHS hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án” là chưa phù hợp, vì các điều

luật về hủy án sơ thẩm như Điều 358 (hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét

xử lại) và Điều 359 BLTTHS 2015 (hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án) đều

không thỏa mãn đối với trường hợp này, bởi lẽ:

+ Điều 358 BLTTHS 2015 quy định việc hủy bản án sơ thẩm để điều tra

lại hoặc xét xử lại do có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm đã bỏ lọt tội phạm, người

phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên; có việc vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng…

+ Điều 359 BLTTHS 2015 quy định việc hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ

vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 157

BLTTHS 2015 (tức là không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành

tội phạm) thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không

có tội và đình chỉ vụ án. Khi có một trong các căn cứ quy định tại các khoản 3, 4,

5, 6 và 7 Điều 157 thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình

chỉ vụ án. Bên cạnh đó, Điều 359 không liệt kê khoản 8 Điều 157 làm căn cứ để

Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án (tội phạm quy

định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226

BLHS năm 2015 mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi

tố).

Nếu bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm mà vụ án bị

đình chỉ và bản án sơ thẩm bị hủy thì các vấn đề còn lại như trách nhiệm dân sự,

xử lý tang vật sẽ giải quyết như thế nào?

58

Ba là, việc TANDTC ban hành Công văn số 254 để hướng dẫn áp dụng

pháp luật là không đúng quy định tại Điều 21 Luật ban hành văn bản quy phạm

pháp luật năm 2015 và Luật tổ chức TAND năm 2015.

Như vậy, để có thể áp dụng chính xác, thống nhất và đúng quy định của

BLTTHS 2015, Luật tổ chức TAND năm 2015, Luật ban hành văn bản quy phạm

pháp luật năm 2015, thì Hội đồng Thẩm phán TANDTC cần sớm ban hành Nghị

quyết hướng dẫn việc thực hiện quy định tại khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015;

đồng thời, đối với trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử

phúc thẩm, người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét

xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa theo thủ tục rút gọn xem đây là tình tiết

mới và áp dụng Điều 357 BLTTHS 2015 để sửa bản án sơ thẩm theo hướng miễn

trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo do thỏa mãn các quy định tại

khoản 3 Điều 29 hoặc Điều 59 BLHS năm 2015. Với việc tuyên sửa bản án sơ

thẩm về hình phạt thì các phần khác của bản án sơ thẩm vẫn được giữ nguyên

hiệu lực để thi hành thì mới xem là giải quyết được toàn bộ các vấn đề của vụ án.

Theo đó cần sửa đổi cụ thể các nội dung như sau:

Thứ nhất, cần bổ sung tên của Điều 155 BLTTHS 2015 theo hướng: “Khởi

tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, người đại diện của bị hại”. Việc bổ sung

cụm từ “người đại diện của bị hại” sẽ thống nhất giữa tên điều luật với nội dung

của điều luật về chủ thể có quyền yêu cầu, rút yêu cầu khởi tố VAHS không chỉ

có bị hại mà còn có người đại diện của họ trong một số trường hợp nhất định.

Thứ hai, cần ban hành văn bản hướng dẫn đối với trường hợp vụ án khởi

tố theo yêu cầu của bị hại, trong vụ án lại có nhiều bị can, bị cáo; tuy nhiên bị

hại chỉ thực hiện việc rút yêu cầu khởi tố đối với một hoặc một số bị can, bị cáo

mà không rút yêu cầu khởi tố vụ án. Trong trường hợp này việc ra quyết định

đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo là trái quy định của pháp

luật. Nếu bị hại và bị can, bị cáo tự nguyện hòa giải với nhau, bị can, bị cáo đã

tự nguyện, thiệ chí trong việc bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả do tội

phạm mình gây ra (trong trường hợp bị can, bị cáo thực hiện tội phạm ít nghiêm

59

trọng); sau đó đi đến thống nhất quan điểm thì bị hại có thể làm đơn đề nghị

miễn TNHS. Trên cơ sở đề nghị miễn trách nhiệm hình sự của bị hại của bị hại

CQTHTT căn cứ khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 có thể miễn TNHS, đình chỉ

điều tra, đình chỉ vụ án. Quy định này thể hiện sự mềm dẻo và nhân đạo của

pháp luật hình sự Việt Nam.

Thứ ba, khi vụ án có nhiều bị hại nhưng chỉ có một người yêu cầu khởi tố

VAHS, thì CQTHTT sẽ xử lý như thế nào. Theo quan điểm của tác giả, khi vụ án

có nhiều bị hại mà chỉ có một người yêu cầu, thì phải dựa trên nguyên tắc có lợi

cho bị can, bị cáo để xác định người yêu cầu mới là bị hại và CQTHTT sẽ giải

thích quyền lợi cho người không yêu cầu, đồng thời tiến hành lập biên bản và ghi

rõ lý do không yêu cầu và nếu họ có yêu cầu bồi thường thì đưa họ vào tham gia

tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự. Trong trường hợp vụ án có nhiều bị

can, bị cáo nhưng bị hại chỉ rút yêu cầu đối với một bị can, bị cáo thì CQTHTT

sẽ xử lý như thế nào. Trường hợp này CQTHTT đình chỉ vụ án đối với bị can, bị

cáo mà bị hại rút yêu cầu là phù hợp với quy định tại Điều 230 (đình chỉ điều

tra), Điều 248 (đình chỉ vụ án) và Điều 282 (đình chỉ vụ án) BLTTHS 2015.

Thứ tư, khi có sự mâu thuẫn trong việc yêu cầu khởi tố VAHS giữa bị hại

là người dưới 18 tuổi (không có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất) với

người đại diện của họ thì CQTHTT sẽ theo ý kiến của ai? Mặc dù người dưới 18

tuổi tuy không có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì khả năng nhận thức

của họ vẫn còn trong giai đoạn đang được hoàn thiện nên cần phải có người đại

diện là phù hợp. Tuy nhiên, nếu so với độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì tuổi

chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ là từ đủ 16 tuổi trở lên. Như vậy, các nhà làm

luật đã phân tích, đánh giá rất kỹ về khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của

người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên đối với hành vi nguy hiểm cho xã

hội dù ở mức độ ít nghiêm trọng, và đã tham khảo kinh nghiệm của các nước

trên thế giới trước khi đưa ra quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ.

Do đó, tác giả cho rằng trong trường hợp nêu trên cần hướng dẫn theo hướng:

“Nếu có sự mâu thuẫn trong việc yêu cầu khởi tố VAHS giữa bị hại là người

60

dưới 18 tuổi (không có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất) với người đại

diện của họ thì CQTHTT sẽ theo ý kiến của người đại diện của bị hại nếu bị hại

dưới 16 tuổi và theo ý kiến của bị hại nếu bị hại từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi”.

Thứ năm, trường hợp bị hại là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể

chất, nhưng không có hoặc không xác định được người đại diện thì CQTHTT sẽ

giải quyết như thế nào? Tham khảo quy định của BLTTHS Liên Bang Nga có thể

thấy: Nếu hành vi phạm tội xâm hại đến bị hại đang ở trong tình trạng bị lệ thuộc

hoặc do những nguyên nhân khác mà người đó không có khả năng tự mình sử

dụng các quyền của mình thì mặc dù bị hại không có yêu cầu nhưng Kiểm sát

viên cũng như Dự thẩm viên hoặc Điều tra viên (sau khi có sự đồng ý của Kiểm

sát viên) cũng có quyền khởi tố VAHS. Thực tiễn còn cho thấy, cha hoặc mẹ gây

thương tích cho con là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần

hoặc thể chất thì người còn lại thường sẽ là người đại diện cho bị hại và hầu như

không có yêu cầu khởi tố xảy ra trong trường hợp này. Tùy thuộc vào từng

trường hợp cụ thể để xem người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi

là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất và phải có kết luận giám định

pháp y tâm thần của cơ quan chuyên môn có thẩm quyền. Bởi vì, một người có

thể được đặt vào tình trạng có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là

người không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất

năng lực hành vi dân sự. Đó có thể là tình trạng giảm sút trí nhớ, khả năng diễn

đạt ý chí do tuổi tác, bệnh tật, tai nạn; đó cũng có thể là tình trạng khuyết tật về

thể chất, ví dụ như câm, điếc… dẫn đến sự khó khăn trong việc hoàn thiện khả

năng nhận thức thứ. Do đó, cần bổ sung thêm quy định về trường hợp này như

sau: “Bị hại là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc do những

nguyên nhân khác mà người đó không có khả năng tự mình sử dụng các quyền

của mình, mà không có hoặc không xác định được người đại diện thì mặc dù bị

hại không có yêu cầu nhưng Kiểm sát viên hoặc Điều tra viên (với sự đồng ý của

Kiểm sát viên) cũng có quyền khởi tố VAHS mà không cần yêu cầu khởi tố của bị

hại”.

61

Thứ sáu, bổ sung quy định nhằm giải quyết trường hợp có sự thay đổi

quyết định khởi tố vụ án về tội danh, điều khoản BLHS cần áp dụng liên quan

đến quyền yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại.

- Về xử lý trong trường hợp quá trình điều tra tội phạm và điều khoản

BLHS có sự thay đổi liên quan đến trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị

hại:

+ Đối với trường hợp khi quyết định khởi tố, cơ quan có thẩm quyền xác

định loại tội phạm khởi tố là tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc

biệt nghiêm trọng nhưng qua điều tra, nhận thấy loại tội phạm chính xác chỉ là

tội phạm ít nghiêm trọng và thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại

theo quy định của BLTTHS: Trường hợp này cần xuất phát từ bản chất quy định

về khởi tố theo yêu cầu của bị hại và mục tiêu của quy định này. Bản chất quyền

yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là quyền yêu cầu xử lý đối với sự việc phạm tội.

Với các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại, Nhà nước "ưu tiên" cho

quyền của bị hại để bị hại lựa chọn phương thức giải quyết phù hợp nhất cho

mình. Vì vậy, nếu qua điều tra cho thấy hành vi phạm tội thuộc các loại tội mà

BLTTHS quy định khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại nên được hỏi ý kiến

về việc có đề nghị tiếp tục giải quyết vụ án hay không, trường hợp bị hại đề nghị

không tiếp tục giải quyết vụ án (đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án) thì cơ quan có

thẩm quyền sẽ đình chỉ vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại theo yêu cầu

của họ.

+ Đối với trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại nhưng

trong quá trình điều tra, truy tố thấy rằng tội danh, điều khoản BLHS cần áp

dụng không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại cần được

thông báo về điều này và vụ án được tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung, việc

bị hại "rút yêu cầu" trong trường hợp này không phải là căn cứ để đình chỉ vụ án.

Như vậy, cần bổ sung vào Điều 155 BLTTHS về khởi tố vụ án theo yêu cầu của

bị hại nội dung như sau:

“Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

62

…3. Trong quá trình điều tra, truy tố vụ án theo thủ tục tố tụng chung, xét

thấy có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, CQĐT, VKS ra quyết định thay

đổi quyết định khởi tố vụ án và thông báo cho người bị hại biết quyền yêu cầu

tiếp tục xử lý vụ án hoặc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án. Trong thời hạn 03

ngày kể từ khi nhận được thông báo, bị hại phải gửi đơn yêu cầu tiếp tục xử lý

vụ án hoặc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án tới CQĐT hoặc VKS.

4. Trong trường hợp vụ án đã được khởi tố theo yêu cầu của bị hại nhưng

qua quá trình điều tra, truy tố, xét thấy không còn căn cứ khởi tố vụ án theo yêu

cầu của bị hại, CQĐT, VKS phải ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án

và thông báo cho người bị buộc tội, bị hại biết về việc vụ án sẽ được giải quyết

theo thủ tục chung."

Đồng thời, bổ sung vào khoản 1 Điều 230, khoản 1 Điều 240 căn cứ đình

chỉ điều tra, đình chỉ vụ án khi "bị hại thuộc trường hợp quy định tại khoản 3

Điều 155 BLTTHS yêu cầu đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án." [16, tr. 137-140]

Thứ tám, bổ sung quy định về quyền của bị hại đối với những vụ án khởi

tố theo yêu cầu bị hại. BLTTHS 2015 quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại

như trường hợp bị hại trong vụ án thông thường là chưa hợp lý, thiếu những quy

định bảo đảm cho bị hại tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để thực hiện và

bảo vệ yêu cầu khởi tố của họ, đặc biệt những quyền hạn gắn với yêu cầu khởi tố

của họ như: Thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án; Đề nghị

cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung,

giám định lại, định giá lại tài sản; Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong

hồ sơ vụ án liên quan đến luận tội tại phiên tòa từ khi kết thúc điều tra. Quy định

này nhằm bảo đảm cho bị hại đảm bảo được quyền lợi đối với vụ án khởi tố theo

yêu cầu bị hại.

Thứ chín, cần có hướng dẫn về nghĩa vụ phải chịu án phí trong trường hợp

người yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là người đại diện hợp pháp của bị hại, yêu

cầu khởi tố sau đó lại rút yêu cầu khởi tố thì vụ án được đình chỉ và người đại

diện hợp pháp phải chịu án phí.

63

Thứ mười, cần bổ sung thêm căn cứ để hủy bản án vào quy đinh tại Điều

359 là “Khi người yêu cầu khởi tố tự nguyện rút lại yêu cầu khởi tố”, để việc áp

dụng pháp luật có căn cứ và thống nhất trong toàn quốc.

Thứ mười một, Trong TTHS có một thực tế chứng minh ngoài các quyết

định tố tụng trong vụ án thủ các giấy triệu tập, giấy gọi, giấy bảo... đều không là

thành phần hồ sơ vụ án nên không được đưa vào hồ sơ. Mặt khác nếu dựa vào tư

cách mà họ được người tiến hành tố tụng ghi trong các biên bản hoạt động tố

tụng nhiều khi không chính xác và tùy tiện vì thành phần hồ sơ được lập ở nhiều

giai đoạn và chủ thể khác nhau như biên bản phạm pháp quả tang, biên bản hiện

trường. Do vậy để xác định người bị hại có tư cách trong vụ án chính thức từ khi

nào là khó khăn, Trong vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì xác định

đúng người bị hại hoặc đại diện của họ là cơ sở pháp lý để đánh giá việc khởi tố

vụ án hình sự có căn cứ hay không. Vì vậy, phải coi văn bản pháp lý nào ghi

nhận quyền yêu cầu của người bị hại (như biên bản tiếp nhận tin báo, đơn trình

báo, biên bản ghi lời khai...) là cơ sở để xác định họ là người bị hại hoặc đại diện

của người bị hại trong vụ án. Như đã phân tích thẩm quyền để công nhận người

bị hại là rất đa dạng và không có tính ràng buộc cao, nên cơ sở để xác định chính

xác ai là người bị hại trong vụ án chính là việc đánh giá chứng cứ toàn bộ vụ án

để xác định chính thức. Hiện nay việc xác định chính xác ai là người bị hại trong

vụ án chưa có tính pháp lý, chủ yếu dựa trên nguyên tắc đồng thuận” giữa CQĐT

và viện kiểm sát, đây chính là hạn chế của BLTTHS hiện nay cần khắc phục

bằng việc thể chế hóa một quyết định tố tụng công nhận người bị hại trong vụ án.

Thứ mười hai, về thời hạn bị hại hoặc người đại diện của bị hại được

quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự: Việc bị hại hoặc người đại diện của họ có

quyền yêu cầu khởi tố VAHS trong thời hạn bao lâu và nếu hết thời hạn đó thì họ

sẽ mất quyền yêu cầu thì Điều 155 BLTTHS 2015 không có đề cập đến. Có quan

điểm cho rằng, do BLTTHS không quy định thời hạn bị hại được quyền yêu cầu

khởi tố, nghĩa là về nguyên tắc họ có quyền yêu cầu khởi tố bất cứ lúc nào, hoàn

toàn không bị giới hạn về mặt thời gian [8, tr. 83]. Theo quy định của BLTTHS

64

2015 thì thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc về CQTHTT, nhưng

những cơ quan này chỉ được thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong

thời hạn nhất định theo quy định của BLHS. Theo đó, bị hại hoặc người đại diện

của bị hại cũng có quyền yêu cầu khởi tố VAHS nếu yêu cầu của họ còn trong

thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, tức là đối với tội ít nghiêm trọng thì thời

hạn yêu cầu là 05 năm và tội nghiêm trọng thì thời hạn yêu cầu là 10 năm [9, tr.

66]. Vấn đề đặt ra là, vì một lý do nào đó mà bị hại hoặc người đại diện của họ

chưa yêu cầu khởi tố vụ án, nhưng sắp hết thời hạn họ mới có đơn yêu cầu, thì sẽ

quá thời hạn giải quyết tin báo, tố giác tội phạm dẫn đến vụ việc bị tồn đọng kéo

dài và gây khó khăn cho cơ quan điều tra trong việc thu thập chứng cứ để chứng

minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không, do chứng cứ bị biến dạng, thay đổi

theo thời gian, thậm chí có thể sẽ không còn. Chính vì chế định về khởi tố VAHS

theo yêu cầu của bị hại là một chế định đặc biệt, chỉ dành riêng cho một số tội

danh nhất định, nên cần quy định thời hạn yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện

của bị hại cụ thể trong điều luật theo hướng thu hẹp hơn so với thời hiệu truy cứu

trách nhiệm hình sự theo BLHS, với lý do: Để hạn chế trường hợp quá thời hạn

giải quyết tố giác, tin báo tội phạm do bị hại chậm yêu cầu khởi tố, cần đưa ra

quy định về thời hạn yêu cầu khởi tố vụ án để nhằm nâng cao trách nhiệm, ý

thức của bị hại trong việc cân nhắc yêu cầu khởi tố hay không khởi tố vụ án của

mình và tạo điều kiện thuận lợi cho CQTHTT trong quá trình giải quyết vụ án

[10, tr. 32]. Từ đó, có quan điểm cho rằng nên quy định thời hạn bị hại hoặc

người đại diện của bị hại được quyền yêu cầu khởi tố VAHS là 02 tháng, theo

thời hạn giải quyết tố giác, tin báo tội phạm [12, tr 34]. Ở các nước trên thế giới

đều quy định rất chặt chẽ về thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố. Chẳng hạn như: BLTTHS Liên bang Nga quy định thời hạn giải

quyết tố giác không quá 03 ngày, nếu xét thấy cần thiết có thể kéo dài nhưng

không quá 10 ngày; trường hợp đặc biệt theo yêu cầu của Dự thẩm viên, Kiểm

sát viên, Điều tra viên có thể gia hạn nhưng tối đa không quá 30 ngày.

65

3.3. Giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định về khởi tố vụ án theo yêu

cầu của bị hại

Trên thực tế, xuất phát từ nhiều nguyên nhân mà hiệu quả áp dụng các quy

định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại là chưa cao. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, nguyên nhân từ sự thiếu thống nhất trong nhận thức pháp luật.

Những tồn tại hạn chế trong quy dịnh pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị

hại như phân tích ở trên là do quy định trong PLTTHS còn chưa thật hoàn thiện,

còn nhiều kẽ hở chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Trong khi đó công tác

hướng dẫn pháp luật và áp dụng pháp luật của các cấp có thẩm quyền chậm ban

hành và chưa có sự thống nhất, đồng bộ cao. Các quy định pháp luật còn chưa rõ

ràng nên việc áp dụng pháp luật trong hoạt động này chưa đạt được hiệu quả cao.

Thứ hai, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm trong công

tác giỉa quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại của những người tiến hành tố

tụng còn hạn chế, chưa cao nên quá trình vận dụng các quy định pháp luật còn

nhiều thiếu sót.

Thứ ba, nguyên nhân từ sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng

ở địa phương: Sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành

tố tụng chưa thật sự chặt chẽ và hiệu quả. Quan điểm giữa các cơ quan tiến hành

tố tụng về đánh giá chứng cứ, xác định tội danh theo các quy định pháp luật hiện

hành và đường lối xử lý đối với từng loại tội phạm còn thiếu thống nhất.

Thứ tư, ý thức người tiến hành tố tụng chưa cao, trình độ không đồng đều,

chưa dành thời gian hợp lý cho việc nghiên cứu các văn bản pháp quy và hướng

dẫn về nghiệp vụ cho nên chưa có hiểu biết sâu rộng và thực tế để giải quyết vấn

đề.

Thứ năm, vụ án có liên quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại thường gặp

phải sự không hợp tác, không tích cực của bị hại với cơ quan tiến hành tố tụng.

Trong số 10 tội danh khởi tố theo yêu cầu của bị hại trong BLTTHS 2015 thì có

đến 07 tội danh bắt buộc phải tiến hành giám định pháp y để có căn cứ xác định

tội danh và quyết định việc khởi tố vụ án hình sự. Các tội danh đó cụ thể là Tội

66

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1

Điều 134); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Khoản 1 Điều 135); Tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới

hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm

tội (Khoản 1 Điều 136); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác (Khoản 1 Điều 138); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành

chính (Khoản 1 Điều 139); Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141); Tội cưỡng dâm

(Khoản 1 Điều 143). Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà nhiều trường

hợp bị hại không hợp tác gây khó khăn cho công tác điều tra giải quyết vụ án.

Bên cạnh đó, do các tội thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại là các

tội xâm hại sức khỏe, danh dự, nhân phẩm nên nếu bị hại không chủ động trình

báo thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng rất khó phát hiện. Vì vậy có

trường hợp bị hại không trình báo do sự mất danh dự, nhân phẩm hoặc bị trả thù

hoặc trường hợp bị hại dựa vào quyền được yêu cầu khởi tố để uy hiếp người

phạm tội… Bên cạnh đó, việc chưa có đủ kiến thức pháp lý dẫn đến việc bị hại

nêu quan điểm chưa rõ ràng trong việc yêu cầu khởi tố hay không yêu cầu khởi

tố, rút yêu cầu khởi tố hay chỉ là xin giảm nhẹ trách nhiệm cho người phạm

tội…gây khó khăn cho các hoạt động giải quyết vụ án.

Thứ sáu, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về những nội dung liên

quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại trên địa bàn quận Hoàng Mai chưa thật sự

được quan tâm, đầu tư đúng mức. Nhiều hoạt động tuyên truyền chỉ mang tính

bề nổi, không sâu rộng mạnh mẽ, cách thức giáo dục pháp luật còn sơ sài, chung

chung, nhàm chán, chưa bám sát chương trình xây dựng luật… chưa thu hút

được sự quan tâm của đông đảo nhân dân.

Thứ bảy, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác còn yếu kém. Mặc dù thời

gian gần đây Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện chất

lượng phương tiện, cơ sở vật chất để các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng, tuy

67

nhiên, vấn đề này còn nhiều hạn chế và chưa thật sự phục vụ đắc lực cho yêu cầu

chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả mạnh dạn đề xuất một số

giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại để

đảm bảo tính sát sao với thực tế và hiệu quả. Cụ thể:

3.3.1. Nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo cơ

quan tư pháp các cấp

Nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo của lãnh đạo cơ quan tư pháp các cấp

cần chú ý là tốt các nhiệm vụ sau: Làm tốt công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành

việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của cấp dưới với tác phong sâu sát,

cụ thể, kịp thời và điều hành quyết liệt. Mỗi cán bộ quản lý, lãnh đạo cần phải

lựa chọn, phân công cán bộ phù hợp để giải quyết công việc, nêu cao tính tiền

phong gương mẫu và thực hiện làm gương trong nội bộ cơ quan, đơn vị mình.

Nêu cao tinh thần trách nhiệm trong các mặt công tác, hăng hái với công việc,

đồng thời sẵn sàng tiếp thu, sửa đổi các khiếm khuyết, vi phạm của bản thân

trong quá trình công tác. Mỗi người đứng đầu CQTHTT cần nghiêm túc kiểm

điểm, thường xuyên tổ chức kiểm tra, đánh giá, xem xét đến trình độ chuyên

môn nghiệp vụ, năng lực thực tế của người tiến hành tố tụng để ra các quyết định

phân công cho phù hợp với khả năng chuyên môn nghiệp vụ, sở trường của mỗi

người, vừa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của công tác đấu tranh phòng, chống

tội phạm trong tình hình mới. Cùng với đó, lãnh đạo các đơn vị cần tăng cường

công tác kiểm tra, giám sát nội bộ, thực hiện tốt cơ chế và nội dung kiểm soát lẫn

nhau giữa các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án, luật sư… trong hoạt động

tư pháp.

3.3.2. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ

Công tác tổ chức cán bộ trong thời kì mới đòi hỏi phải đảm bảo hiệu quả,

tinh gọn, nhưng vẫn đáp ứng đầy đủ yêu cầu giải quyết các vụ án hình sự nói

chung và khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại nói riêng trong tình hình mới. Điều

này đồng thời cũng đặt ra cho các cán bộ tư pháp ý thức trách nhiệm, không

68

ngừng trau dồi học hỏi về chuyên môn và phẩm chất đạo đức, xây dựng bản thân

trở nên chủ động, trách nhiệm và bản lĩnh hơn để theo kịp đà phát triển của xã

hội. Có thể nói đây chính là đòi hỏi tất yếu khách quan về tổ chức, bộ máy, về

con người phải thật sự tinh gọn, hiệu quả. Theo đó mỗi cơ quan khác nhau cần

tăng cường công tác rà soát nội bộ đơn vị mình để kịp thời đề ra các kế hoạch

đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ cho phù hợp. Việc bố trí, sắp xếp, sử

dụng, điều động, chuyển đổi vị trí công tác một cách đúng đắn và phù hợp là

bước đệm quan trọng để phát huy khả năng của từng công chức; tạo bước đột

phá trong quá trình xây dựng nền Tư pháp trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ trong tinh hình mới.

Để nâng cao hiệu quả công tác khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại, trước hết

cần hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ và vai trò của CQĐT trong

mô hình TTHS nước ta. Trên cơ sở xác định rõ có trách nhiệm của CQĐT trong

việc cùng với VKS phát hiện tội phạm, đưa kẻ phạm tội ra trước TA để xét xử

cần tăng cường tính độc lập, chủ động của CQĐT bên cạnh sự chỉ đạo của công

tố như là một nguyên tắc bắt buộc trong TTHS. Trong quá trình tố tụng với vụ án

Kiểm sát viên không làm thay công việc của Điều tra viên mà đóng vai trò chỉ

đạo, hướng dẫn, kiểm tra và giám sát hoạt động điều tra, đảm bảo việc điều tra

được diễn ra đầy đủ, đúng quy định pháp luật. Do đó, về mặt tổ chức, cần chú ý

“Xây dựng hệ thống CQĐT độc lập, thống nhất từ trung ương đến địa phương,

dưới sự chỉ đạo của Chính phủ hoặc Quốc hội” [39, tr.135] nhằm khắc phục sự

phân tán, chồng chéo trong hoạt động của hệ thống CQĐT đồng thời tăng cường

tính độc lập của CQĐT và các chủ thể tố tụng thuộc CQĐT khi giải quyết vụ án

hình sự.

Tổ chức bộ máy, cán bộ ở VKSND các cấp cần tiếp tục chú trọng hoàn

thiện theo hướng VKS các cấp dưới tổ chức thực hiện có hiệu quả, tập trung đào

tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố,

điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trong đó có những vụ án khởi tố theo

yêu cầu của bị hại cho các cán bộ, công chức trong VKSND, còn VKSND tối cao

69

với các đặc thù của mình chỉ tập trung làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổng

kết, hướng dẫn, kiểm tra, với nhiều chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực; đáp ứng

yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử, không để xảy ra việc xét xử oan, sai,

bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, hạn chế thấp nhất trường hợp các bản án bị

hủy, bị sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán. Trong điều kiện đất nước hội nhập

quốc tế sâu rộng, cũng như thực hiện các Nghị quyết Trung ương của Đảng, các

Tòa án phải tăng cường và chú trọng việc sắp xếp lại tổ chức tinh gọn, hiệu lực,

hiệu quả và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Ngành Tòa án cần tiến hành rà

soát một cách thường xuyên và đồng bộ các nghị quyết, thông tư hướng dẫn các

quy định của BLHS, BLTTHS để kịp thời ban hành Nghị quyết của Hội đồng

Thẩm Phán TANDTC, các văn bản hướng dẫn các quy định pháp luật còn chưa

rõ ràng và thống nhất cho phù hợp, khắc phục những khó khăn, vưỡng mắc trong

thực tiễn giải quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại hiện nay. Trong đó, việc

sắp xếp lại tổ chức bộ máy cho tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thực

tiễn là yêu cầu cấp bách hàng đầu.

3.3.3. Tăng cường phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ

của đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan tố tụng

Từ trước đến nay, yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng nhất, quyết

định nhất đến sự thành công, phát triển của bất kì tổ chức, đơn vị hoặc Nhà nước

nào. Xây dựng đội ngũ cán bộ ó năng lực chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất

đạo đức tốt là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Theo đó cần phải có

các biện pháp để quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ giỏi, chuẩn hóa đội ngũ cán

bộ có khả năng đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong tình hình mới. Cụ thể

phải thường xuyên chăm lo đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi

mới phương thức lãnh đạo …góp phần tăng cường chất lượng công tác tư pháp

trong tình hình mới. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử tốt hay chưa tốt, đúng

pháp luật hay chưa đúng pháp luật cũng do con người thực hiện nên việc đào tạo

con người có chuyên môn, nghiệp vụ cao đáp ứng được yêu cầu hoạt động TTHS

70

là rất quan trọng và cần thiết. Do vậy, cần thường xuyên chú trọng hơn nữa công

tác bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật những kiến thức pháp lý và kinh nghiệm hoạt

động thực tiễn cho những người tiến hành tố tụng. Có thể tiến hành đồng bộ các

giải pháp như:

- Quan tâm, đẩy mạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng

nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng như CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra, VKS, Tòa án. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cần chú trọng việc

thường xuyên đổi mới nội dung, chương trình đào tạo theo hướng tập trung đào

tạo bồi dưỡng các kỹ năng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và các quy

định mới theo quy định pháp luật; tránh tình trạng các cán bộ tư pháp chỉ nắm lý

thuyết mà không có được các kỹ năng thực hiện công việc trên thực tế.

- Tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng được học tập, bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao trình độ, đồng

thời xây dựng chế độ ưu đãi phù hợp đối với họ dể thúc đẩy việc học hỏi năng

cao năng lực, tăng cường khả năng và tâm huyết với công việc. Cùng với đó luôn

chú trọng việc rèn luyện phẩm chất đạo đối với cán bộ tư pháp nói chung và đội

ngũ đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nói riêng.

- Tăng cường giáo dục ý thức trách nhiệm, bản lĩnh chính trị, phẩm chất

đạo đức cho các cơ quan tư pháp đặc biệt là người thuộc các cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng là Điều tra viên, Kiểm sát viên, người được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

- Chú trọng xây dựng đội ngũ đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về nghiệp vụ, tinh

thông về pháp luật, luôn thấy rõ trách nhiệm chính trị của mình trước Đảng,

trước nhân dân để không ngừng phấn đấu và hoàn thiện mình trong công việc.

Đặc biệt chú ý hoàn thiện công tác thi tuyển, bổ nhiệm… công chức của các cơ

quan tư pháp. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ của cơ quan tư pháp các cấp cần

chú ý đến sự toàn diện về năng lực, phẩm chất, uy tín, kinh nghiệm quản lý.

71

Thường xuyên thử thách trong môi trường thực tế khác nhau đối với những cán

bộ thuộc diện quy hoạch chức vụ lãnh đạo. Ngoài ra cần tăng cường công tác

kiểm tra, kịp thời phát hiện những yếu kém trong công tác nghiệp vụ để khắc

phục; kiên quyết xử lý những cán bộ vi phạm phẩm chất, đạo đức, lối sống để

làm gương trong nội bộ cơ quan đơn vị và củng cố niềm tin trong nhân dân.

3.3.4. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, hướng dẫn, giải đáp

vướng mắc, thông báo rút kinh nghiệm

Để áp dụng đúng các quy định của BLTTHS 2015 liên quan đến khởi tố

vụ án theo yêu cầu bị hại trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự đòi hỏi các

cơ quan có thẩm quyền phải tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, thường

xuyên tổ chức hướng dẫn, giải đáp những khó khăn, vướng mắc của địa phương

mình trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.

Tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm trong giải quyết các vụ án

khởi tố theo yêu cầu bị hại, từ đó nâng cao chất lượng xét xử, tìm ra những hạn

chế, nguyên nhân và chỉ ra các giải pháp khắc phục những hạn chế đó là nhiệm

vụ công tác thường xuyên,lâu dài và cần được chú trọng triệt để. Theo đó, định

kì hàng tháng, hàng quý có thể tổ chức sơ kết, tổng kết hay tổ chức các buổi tập

huấn về công tác trong toàn ngành và liên ngành. Kịp thời đề ra các thông báo

rút kinh nghiệm đối với những địa phương, đơn vị thực hiện không tốt nhiệm vụ

dẫn đến còn nhiều vụ việc bị tồn đọng, không giải quyết được, các vi phạm về

pháp luật để có biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Đồng thời nêu gương với các cơ

quan thực hiện tốt nhiệm vụ, làm cơ sở để các cơ quan, tổ chứ, đơn vị khác học

hỏi, hoàn thiện các khâu công tác được hiệu quả hơn.

Bên cạnh việc tổng kết hàng năm, theo định kỳ (hàng tháng, hàng quý)

các cơ quan tiến hành tố tụng cũng cần tự đánh giá, xác định số vụ khởi tố vụ án

theo yêu cầu bị hại đã được giải quyết hoặc đình chỉ giải quyết, xây dựng các

chuyên đề với sự tham gia của cả ba cơ quan tiến hành tố tụng là Công an, VKS

và Tòa án để cùng nhau thảo luận, thống nhất phương án hoạt động để đảm bảo

quá trình áp dụng vào thực tiễn công tác được phát huy hiệu quả.

72

3.3.5. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các đơn vị, bộ, ngành có liên

quan trong tố tụng hình sự

Để nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng hình sự, không thể chỉ chú

trọng nâng cao chất lượng của từng khâu công tác, từng chủ thể mà phải chú ý

đến mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị, bộ, ngành có liên quan với nhau trong

quá trình giải quyết một vụ án hình sự cụ thể. Trong đó cần tăng cường mối quan

hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS theo hướng nâng cao vai trò của VKS trong chỉ

đạo, giám sát hoạt động của CQĐT trong việc kiểm tra, xác minh nguồn tin tội

phạm và khởi tố vụ án liên quan đến yêu cầu của bị hại. Giữa CQĐT và VKS

luôn phải đảm bảo sự phối hợp có hiệu quả từ việc giải quyết vụ việc đơn lẻ, đến

việc tổ chức các cuộc họp liên ngành để có thể cùng nhau tháo gỡ những khó

khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi nhiệm vụ, từ đó đưa ra giải pháp giải

quyết phù hợp. Đồng thời tổ chức các buổi họp giao ban kết hợp với việc phổ

biến những văn bản pháp luật mới, các hướng dẫn, thông báo rút kinh nghiệm tới

các Điều tra viên, Kiểm sát viên. Qua đó tạo điều kiện trao đổi, rút kinh nghiệm

và học tập lẫn nhau giữa các Điều tra viên, Kiểm sát viên. Qua đó nâng cao hơn

nữa năng lực, khả năng chuyên môn nghiệp vụ trong công tác khởi tố vụ án hình

sự.

Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan và cá nhân những người tiến hành

tố tụng trên cơ sở đúng chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, không đùn đẩy trách

nhiệm sẽ hạn chế tới mức thấp nhất, tiến tới loại bỏ tình trạng bức xúc trong

nhân dân vì yêu cầu khởi tố vụ án không được quan tâm xem xét và giải quyết

nhanh chóng, kịp thời. Thực tiễn cho thấy địa phương nào mối quan hệ tố tụng

giữa các cơ quan tốt thì tỉ lệ giải quyết các vụ án càng cao, chất lượng giải quyết

đạt kết quả tốt. Do vậy, cần tiếp tục thực hiện tốt sự phối hợp liên ngành để ân

cao hiệu quả giải quyết các vụ án hình sự, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp

phá cho những người tham gia tố tụng trong đó có bị hại.

73

3.3.6. Tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ biến các quy định của

pháp luật

Tuyên truyền phổ biến pháp luật, hiểu biết của người dân về các quy định

của pháp luật liên quan đến chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại. Biện

pháp có ý nghĩa quan trọng là phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục

pháp luật, nâng cao văn hóa pháp lý, trình độ hiểu biết pháp luật của bị hại và

những người tham gia tố tụng khác. Có thể xây dựng đồng bộ các giải pháp sau:

(1) Xây dựng các kênh thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật;

(2) Mở lớp học pháp luật miễn phí và ngắn hạn cho nhân dân;

(3) Kịp thời phản hồi, phúc đáp những kiến nghị, phản ánh, thắc mắc của

nhân dân liên quan tới hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng;

(4) Tăng cường sự hướng dẫn cũng như tạo điều kiện cho bị hại, bị cáo,

đương sự tiếp cận với người bào chữa hoặc trợ giúp viên pháp lý;

(5) Tuyên truyền, phổ biến, giải thích về quyền và nghĩa vụ, vai trò của

từng chủ thể trong VAHS nói chung theo đúng quy định của BLTTHS. Điều này

giúp cho mỗi chủ thể có liên quan hình thành nhận thức đầy đủ, chính xác, từ đó

nâng cao hiệu quả tranh tụng để tự bảo vệ quyền lợi cho mình;

(6) Xem xét tăng cường các hình thức xét xử lưu động; xây dựng các

chương trình riêng về tư pháp trên các phương tiện thông tin đại chúng…

Việc thiết kế các hình thức tuyên truyền, giáo dục phải lưu ý tạo ra sự phù

hợp với từng địa bàn, từng đối tượng khác nhau để việc tuyên truyền, phổ biến

pháp luật được dễ hiểu hơn.

3.3.7. Một số giải pháp khác

Thứ nhất, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết các

vụ án hình sự. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, về

một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu rõ: “Tăng

cường đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để

hoàn thành nhiệm vụ, có cơ chế chính sách hợp lý đối với cán bộ tư pháp. Tăng

cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện làm việc, đẩy mạnh ứng dụng

74

công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hóa các cơ quan tư pháp...”. Trong giai

đoạn sắp tới, CQĐT và VKS cần phải được trang bị các phương tiện đảm bảo

hoạt động kiểm tra, xác minh và điều tra vụ án hình sự liên quan đến yêu cầu bị

hại đặc biệt là vụ án liên quan đến giám định, khám nghiệm hiện trường... đảm

bảo việc xác định có dấu hiệu của tội phạm trong giai đoạn đặc biệt này. Thực

hiện cam kết trong Cộng đồng ASEAN, chúng ta phải hoàn thành việc xây dựng

TA điện tử trước năm 2025. Nghiên cứu để đề xuất xây dựng chủ trương, hành

lang pháp lý hướng tới xây dựng TA điện tử, phù hợp với xu thế chung của các

quốc gia có nền tư pháp phát triển trên thế giới và thực tiễn Việt Nam.

Hai là, thống nhất về hệ thống biểu mẫu, sổ sách ghi chép việc tiếp nhận,

xử lý thông tin về tội phạm để bảo đảm tính thống nhất, gọn nhẹ của các loại sổ

sách, tạo điều kiện cho công tác kiểm sát, giám sát việc tuân theo pháp luật trong

giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.

Ba là, phải thường xuyên sàng lọc, xử lí nghiêm minh những trường hợp

can thiệp bằng công văn của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, ngành có cán bộ vi

phạm để “xử lý nội bộ”, “rút kinh nghiệm sâu sắc” nhằm bao che, bênh vực cho

nhau nhân danh “uy tín, danh dự của ngành” sẽ dẫn tới sự dung túng và lệch lạc

về nhận thức, ý thức trách nhiệm cũng như gây mất niềm tin vào sự nghiêm minh

của pháp luật từ người dân. Phải xử lý hình sự đối với những cá nhân có hành vi

xâm phạm hoạt động tư pháp như không truy cứu TNHS người có tội, ra quyết

định trái pháp luật, ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật, làm sai lệch hồ

sơ vụ án… để răn đe mạnh mẽ trong toàn bộ hệ thống tư pháp.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc khởi tố vụ án theo yêu

cầu của bị hại. Phải tăng cường các hoạt động thanh tra các hành vi, quyết định

tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. Những hành vi, quyết định tố tụng

không có căn cứ hoặc trái pháp luật của CQĐT trong giai đoạn khởi tố vụ án

hình sự như: Quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm, quyết

định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự… phải được

VKS phát hiện kịp thời và xử lý đúng quy định pháp luật, hủy bỏ kịp thời các

75

quyết định tố tụng trái pháp luật, đảm bảo cho việc chấp hành pháp luật được

nghiêm chỉnh và thống nhất. Đây là biện pháp hữu hiệu trong việc học tập, rút

kinh nghiệm về chuyên môn, nghiệp vụ từ đó có quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn,

bố trí, sử dụng cán bộ có chức danh tư pháp vào vị trí phù hợp với năng lực và

yêu cầu công tác.

Năm là, về công tác xây dựng cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động tố

tụng: tiếp tục đẩy nhanh việc hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất, trang bị đầy đủ

trang thiết bị, kinh phí phục vụ công tác tranh tụng tại phiên tòa diễn ra đảm bảo,

đúng quy định. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động xét xử.

Qua đó, góp phần tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận nguyên tắc tranh

tụng trong xét xử được bảo đảm trên thực tế.

Sáu là, cần xây dựng các chế độ, chính sách mang tính ưu đãi và thỏa

đáng hơn dành cho những người tiến hành tố tụng, nhất là đối với đội ngũ Điều

tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Trong đó, quan tâm đến việc cải thiện chất

lượng đời sống của đội ngũ cán bộ công chức tư pháp thông qua việc cải cách

chính sách tiền lương, các quỹ khen thưởng, khuyến khích những cá nhân có

thành tích tốt và có nhiều đóng góp trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự.

Cùng với đó cũng cần quan tâm đến việc xử lí nghiêm minh các trường hợp sai

phạm, cá thể hóa trách nhiệm phải chịu đối với người thực hiện hành vi tố tụng

sai, ra quyết định tố tụng sai trong hoạt động khởi tố vụ án hình sự. Từ đó tạo ra

động lực và sự răn đe cần thiết cho các cán bộ trong quá trình làm việc, nâng cao

hiệu quả làm việc và chất lượng công tác.

76

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Chương 3 của Luận văn, trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án

khởi tố theo yêu cầu của bị hại, tác giả đã phân tích làm rõ những yêu cầu, đồng

thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án khởi tố

theo yêu cầu của bị hại như:

- Giải pháp về hoàn thiện pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị

hại.

- Giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu

của bị hại, như: nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo cơ

quan tư pháp các cấp; đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ; tăng cường

phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công

chức cơ quan tố tụng; tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, hướng dẫn, giải

đáp vướng mắc, thông báo rút kinh nghiệm; tăng cường quan hệ phối hợp giữa

các đơn vị, bộ, ngành có liên quan trong tố tụng hình sự; tăng cường hoạt động

tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật và một số giải pháp khác.

Các giải pháp này sẽ góp phần đảm bảo việc định tội danh và quyết định

hình phạt đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội

phạm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong đó có quận Hoàng Mai

đối với các vụ án hình sự.

Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về chế định khởi tố vụ án theo

yêu cầu bị hại, thực trạng quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng

nguyên tắc này, tác giả chỉ ra yêu cầu cấp thiết đối với việc hoàn thiện nguyên

tắc tranh tụng trong giai đoạn hiện nay, đồng thời đề ra hai nhóm kiến nghị, giải

pháp cơ bản đó là nhóm các kiến hoàn thiện quy định pháp luật và nhóm các giải

pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại

trong TTHS.

Mỗi kiến nghị đặt ra gắn liền với luận giải về nguyên nhân cần sửa đổi,

nội dung đề xuất sửa đổi theo quan điểm của nhóm nghiên cứu. Và mỗi giải pháp

nhóm nghiên cứu đặt ra gắn liền với việc đánh giá, nhìn nhận những khó khăn,

77

vướng mắc còn tồn tại trong thực tiễn để đảm bảo tính thực tế, khả thi và ý nghĩa

của từng giải pháp.

78

KẾT LUẬN

Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là trường hợp đặc biệt của khởi tố vụ

án hình sự và có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm các quyền và lọi ích hợp

pháp của công dân, các quyền và lợi ích hợp pháp của xã hội. Thông qua Luận

văn, tác giả đã phân tích làm rõ mục đích và giải quyết được những nhiệm vụ đã

đặt ra.

Tại Chương 1 của Luận văn, tác giả đã lần lượt phân tích làm rõ khái niệm,

đặc điểm, ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự và khởi tố vụ án hình sự theo yêu

cầu của bị hại, cũng như phân tích cơ sở của việc quy định chế định này trong

PLTTHS.

Tại Chương 2 của Luận văn tác giả phân tích làm rõ lịch sử quá trình lập

pháp quy định chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong PLTTHS

Việt Nam từ năm 1945 đến BLTTHS 2015. Đồng thời tác giả đã phân tích những

quy định của pháp luật hiện hành về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại. Cũng như

thực tiễn giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại, trên cơ

sở đó tác giả đã chỉ ra những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế liên

quan đến hoạt động này. Trên cơ sở đó tác giả đã đưa ra những nguyên nhân của

những tồn tại, hạn chế, làm tiền đề để tác giả đưa ra những giải pháp nhằm hoàn

thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo

yêu cầu của bị hại.

Tại Chương 3 của Luận văn tác giả đã phân tích làm rõ những yêu cầu và

đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án khởi tố

theo yêu cầu của bị hại như: Hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn tổng kết thực tiễn

xét xử, giải pháp về nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ.... nhằm góp phần

đảm bảo việc định tội danh và quyết định hình phạt đúng người, đúng tội, không

làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm của cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng trong đó có quận Hoàng Mai đối với các vụ án hình sự nói chung và

khởi tố theo yêu cầu bị hại nói riêng.

79

Đây là những giải pháp mang ý chí chủ quan của học viên, qua đó, học viên

cũng hy vọng những giải pháp trên trở thành một nguồn tham khảo hữu hiệu cho

các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước

nói chung cho việc nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án khởi tố theo yêu cầu

của bị hại.

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

(2002), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005, về chiến lược xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

2.

Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

(2002), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020.

3.

Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016), “Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ

đổi mới và hội nhập”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4.

Trần Văn Biên, TS. Đinh Thế Hưng (2017), “Bình luận khoa học

BLTTHS”, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

5.

Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1950), Sắc lệnh số

85/SL ngày 22/5/1950, về cải cách bộ máy Tư pháp và Luật Tố tụng,

Hà Nội.

6.

Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945), Sắc lệnh số 47

ngày 10/10/1945, Hà Nội.

7.

Lê Cảm (2004), “Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn

TTHS”, Tạp chí Kiểm sát (02), Hà Nội.

8.

Lưu Bình Dương (2017), “Pháp luật về khởi tố vụ án hình sự theo

yêu cầu của người bị hại trong TTHS Việt Nam hiện nay”, Luận án

Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa

học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.

9.

Bùi Thị Hạnh (2019), “Về việc rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa trong

các vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại”, Tạp chí Kiểm sát, số 22/2019,

Hà Nội.

81

10. Phạm Văn Huân (2013), “Những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình

sự trong luật TTHS Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa

Luật - ĐHQGHN, Hà Nội;

11. Phạm Mạnh Hùng (2003), “Những bất cập và việc hoàn thiện quy

định của PLTTHS về khởi tố theo yêu cầu của người bị hại”, Tạp chí

Kiểm sát số 01/2003, Hà Nội.

12. Phan Trung Hoài (2016), “Những điểm mới về chế định bào chữa

trong BLTTHS 2015”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

13. Đinh Thị Mai (2014), “Quyền của người bị hại trong TTHS Việt

Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn

lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

14. Nguyễn Đức Mai (chủ biên, 2018), “Bình luận khoa học BLTTHS

(hiện hành)”, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.

15. Mai Văn Minh (2005), “Bàn về việc khởi tố và không khởi tố vụ án

hình sự theo quy định của BLTTHS”, Tạp chí Kiểm sát số 09/2005,

Hà Nội; Hoàng Thị Liên (2006).

16. Lê Thị Thúy Nga (2019), “Chủ thể buộc tội trong TTHS Việt Nam”,

Luận án Tiến sĩ Luật học,Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

17. Nguyễn Thái Phúc (2007),“Mô hình tố tụng Việt Nam - Những vấn

đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (số 05), Hà Nội.

18. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

19. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

20. Quốc hội (1988), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.

21. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nôi.

22. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội .

23. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội .

82

24. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công

an, Bộ Tư pháp (2008), Thông tư Liên tịch số 01/2008/TTLT-

TATAND-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 29/02/2008, Hà Nội.

25. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Công văn số 16/1999/KHXX ngày

01/02/1999 giải đáp một số vấn đề hình sự, dân sự, kinh tế, lao động,

hành chính và tố tụng, Hà Nội.

26. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ về TTHS,

Hà Nội.

27. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Công văn số 254/TANDTC-PC ngày

26/11/2018, hướng dẫn về việc người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình

sự rút yêu cầu theo quy định tại phiên tòa.

28. Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai (2019), Bản án số 32/2019/HSST

ngày 23/01/2019.

29. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2018), Báo cáo tổng kết năm

2018 và phương hướng nhiệm vụ năm 2019, 2018.

30. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2019), Báo cáo tổng kết năm

2019 và phương hướng nhiệm vụ năm 2020, 2019.

31. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2020), Báo cáo tổng kết năm

2020 và phương hướng nhiệm vụ năm 2021, 2020.

32. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2016-2020), Báo cáo số liệu

khởi tố theo yêu cầu bị hại từ năm 2016 đến năm 2020.

33. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật TTHS Việt

Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

34. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật

TTHS Việt Nam, Nxb Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh.

83

35. Đinh Quang Tiệp (2010), “Một số vấn đề về người bị hại, nguyên

đơn dân sự trong BLTTHS năm 2003”, Tạp chí Kiểm sát, số 9/2010,

Hà Nội.

36. Ma Thị Thắm (2015), “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người

bị hại trong luật TTHS”.

37. Nguyễn Đức Thái (2009), “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu người

bị hại, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ Luật

học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.

38. Bùi Thế Tỉnh (2018), “Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra

và Điều tra viên trong TTHS Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học,

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.

39. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ quốc phòng (2018),

Thông tư Liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày

07/9/2018 về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực

hiện một số quy định của BLTTHS 2015, Hà Nội.

40. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ quốc phòng (2005),

thông tư Liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày

07/9/2005, về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm

sát trong thực hiện một số quy định của BLTTHS 2003, Hà Nội.

41. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách

khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.429).

42. Võ Khánh Vinh (2012), “Bình luận khoa học BLTTHS”, NXB Tư

pháp, Hà Nội.

43. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), Công văn số 5024/VKVKS-

V14 ngày 19/11/2018, về giải đáp vướng mắc liên quan đến quy định

của BLTTHS và nghiệp vụ thi hành quyền công tố, kiểm sát việc giải

quyết vụ án hình sự trong ngành KSND, Hà Nội.

84

PHỤ LỤC

1. Phụ lục 2.1

Bảng 2.1: Thống kê số bị cáo, số vụ án và vụ án đã được xét xử trên địa

bàn quận Hoàng Mai giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020.

Tổng số bị cáo/vụ án thụ lý

Tổng số bị cáo/vụ án đã xét xử

201

847/806

815/758

6

201

998/964

916/897

7

201

1165/1106

1059/1021

8

201

1148/1087

1011/995

9

202

1102/1098

1045/1004

0

(Nguồn: Khảo sát của tác giả)

2. Phụ lục 2.2

Bảng 2.2: Thống kê các vụ án khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại

trên địa bàn quận Hoàng Mai giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020

Năm

Tổng số các vụ án Các vụ án khởi tố

Tỉ lệ (%)

theo yêu cầu bị hại

Số vụ án Số

bị

Số vụ án Số

bị

Số vụ án Số

bị

cáo

cáo

cáo

815

758

40

4,91

5,23

40

2016

916

897

31

3,38

3,46

31

2017

1021

1059

52

4,91

5,09

52

2018

85

2019

995

1011

48

48

4,82

4,75

2020

1004

1045

57

57

5,68

5,45

Tổng

4.675

4.846

228

228

4,88

4,7

(Nguồn: Khảo sát của tác giả)

86

3. Phụ lục 2.3

Bảng 2.3: Bảng so sánh số vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại được đưa

ra xét xử với số vụ án bị đình chỉ do bị hại rút đơn giai đoạn 2016 -

2020

Năm

Số vụ án

Số vụ án bị đình chỉ do bị

Tỉ lệ

khởi tố theo yêu cầu bị hại

hại rút đơn

(%)

đưa ra xét xử

22

55

2016 40

13

41,9

2017 31

9

17,3

2018 52

20

41,7

2019 48

17

29,8

2020 57

(Nguồn: Khảo sát của tác giả)

87